Tuesday, September 9, 2014

Chào ngày mới 8 tháng 9

Tết Trung thu
CNM365 Chào ngày mới 8 tháng 9. Wikipedia Ngày này năm xưa. Tết Trung thu (Trẻ em vui Tết Trung Thu 2014); Ngày Quốc tế biết Chữ; ngày Độc lập tại Macedonia (1991).  Năm 712 – Thái tử Lý Long Cơ tiến hành lễ đăng quang hoàng đế triều Đường, tức Đường Huyền Tông, cha ông là Đường Duệ Tông trở thành thái thượng hoàng. Năm 1835Cuộc nổi dậy Lê Văn Khôi kết thúc khi quân Nguyễn đánh hạ thành Phiên An sau một thời gian tấn công. Năm 1921 – Cuộc thi Hoa hậu Mỹ đầu tiên được tổ chức tại thành phố Atlantic, đây là cuộc thi sắc đẹp hiện đại đầu tiên trên thế giới. Năm 1941Chiến tranh thế giới thứ hai: Quân Đức bắt đầu phong tỏa quân sự thành phố lớn thứ nhì của Liên Xô là Leningrad.

Tết Trung thu

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Tết Trung thu
Tết Trung thu
Trẻ em vui Tết Trung Thu
Năm 2014 8 tháng 9
Năm 2015 27 tháng 9
Tết Trung thu
Tên tiếng Trung
Phồn thể: 中秋節
Giản thể: 中秋节
Min name
Tiếng Trung: 八月節
Tên tiếng Việt
Quốc ngữ: Tết Trung Thu
Chữ Nôm:
Tết Trung Thu (chữ Nôm: 節中秋. Trung中秋节 (Trung thu tiết)Zhōngqiū jié) theo Âm lịch là ngày Rằm tháng 8 hằng năm. Tại Việt Nam, đây đã trở thành ngày tết của trẻ em (Tết Thiếu nhi),[1] còn được gọi là Tết trông Trăng hay Tết Đoàn Viên. Trẻ em Việt Nam rất mong đợi được đón tết này vì thường được người lớn tặng đồ chơi, thường là đèn ông sao, mặt nạ, đèn kéo quân, súng phun nước... rồi bánh nướng, bánh dẻo. Vào ngày tết này, người ta tổ chức bày cỗ, trông trăng. Thời điểm trăng lên cao, trẻ em sẽ vừa múa hát vừa ngắm trăng phá cỗ. Ở một số nơi người ta còn tổ chức múa lân, múa sư tử, múa rồng để các em vui chơi thoả thích.

Ý nghĩa tết Trung Thu

Nguồn gốc

Cho đến bây giờ, vẫn chưa xác minh rõ ràng được Tết Trung thu bắt nguồn từ văn minh lúa nước của Việt Nam hay tiếp nhận từ văn hóa Trung Hoa. Có ba truyền thuyết chính được người ta biết đến nhiều nhất để nói về Trung thu đó là Hằng NgaHậu Nghệ, vua Đường Minh Hoàng lên cung trăng và Sự tích về chú Cuội của Việt Nam.
Theo các nhà khảo cổ thì hình ảnh về Trung thu đã được in trên mặt trống đồng Ngọc Lũ. Có lẽ Trung thu được bắt đầu từ nền văn minh lúa nước của đồng bằng Nam Trung Hoa và đồng bằng châu thổ sông Hồng của Việt Nam.

Hoạt động chính

Theo truyền thống, Trung thu là Tết đoàn viên, đó là khoảng thời gian đại gia đình ngồi quây quần bên nhau, cùng thưởng thức tách trà xanh ấm áp với miếng bánh trung thu ngọt ngào và cũng là dịp để bày tỏ và thắt chặt mối quan hệ thâm giao.
Cũng trong dịp này người ta mua bánh trung thu, trà, rượu để cúng tổ tiên vào buổi tối khi Trăng Rằm vừa mới lên cao. Đồng thời trong ngày này, mọi người thường biếu cho ông bà, cha mẹ, thầy cô, bạn bè, họ hàng và các ân nhân khác Bánh Trung Thu, hoa quả, trà và rượu. Người Trung Hoa thường tổ chức múa rồng vào dịp Trung Thu, còn người Việt múa sư tử hay múa lân. Con Lân tượng trưng cho sự may mắn, thịnh vượng và là điềm lành cho mọi nhà... Thời xưa, người Việt còn tổ chức hát Trống Quân và treo đèn kéo quân trong dịp Tết Trung Thu. Điệu hát trống quân theo nhịp ba "thình, thùng, thình".
Bàn thờ ngày lễ Tạ ơn tại Hàn Quốc
Theo phong tục người Việt, vào dịp Tết Trung Thu, những người lớn bày cỗ cho trẻ em để mừng trung thu, mua và làm đủ thứ lồng đèn thắp bằng nến để treo trong nhà và để các con rước đèn.[1] Cỗ mừng trung thu gồm bánh Trung Thu, kẹo, mía, bưởi và các thứ hoa quả khác nữa.[2]
Tại Triều TiênHàn Quốc, ngày này là lễ tạ ơn (Chuseok), ngày mà người nông dân làm lễ tạ ơn tổ tiên vì đã cho một mùa màng bội thu, và là ngày tết lớn thứ hai trong năm.
Ngắm Trăng rằm
Tại Đài Loan, ngày Tết Trung Thu là ngày nghỉ lễ chính thức cho cả nước và những buổi nướng thịt ngoài trời đã trở thành dịp để thắt chặt tình cảm giữa gia đình và đồng nghiệp trong công ty.[3] Đến năm 2011, thành phố Đài Bắc chỉ định 11 công viên ven sông để làm nơi nướng thịt ngoài trời cho công chúng.[4] Tại Hồng KôngMacau, ngày tiếp sau rằm tháng 8 là ngày nghỉ lễ chính thức, bởi vì có rất nhiều sự kiện lễ hội được tổ chức vào đêm trước. Những năm gần đây, bảo vệ môi trường đã trở thành một mối quan tâm của công chúng, nhiều nhà sản xuất bánh trung thu tại Hồng Kông đã áp dụng việc giảm vật liệu đóng gói để giới hạn rác thải.[5] Các nhà sản xuất bánh trung thu cũng tạo ra các loại mới của bánh trung thu, chẳng hạn như bánh trung thu kem và bánh trung thu da tuyết.

Ngắm trăng

Ngoài ý nghĩa vui chơi cho trẻ em và người lớn, Tết Trung Thu còn là dịp để người ta ngắm trăng tiên đoán mùa màng và vận mệnh quốc gia. Nếu trăng thu màu vàng thì năm đó sẽ trúng mùa tằm tơ, nếu trăng thu màu xanh hay lục thì năm đó sẽ có thiên tai, và nếu trăng thu màu cam trong sáng thì đất nước sẽ thịnh trị.
  • Muốn ăn lúa tháng Năm, trông trăng rằm tháng Tám.
  • Tỏ trăng Mười Bốn được tằm, đục trăng hôm Rằm thì được lúa chiêm.

Trang trí đêm Trung Thu khắp nơi

Tại Vườn thực vật Montreal, 2006
Trang trí Trung Thu tại một phố lớn Singapore năm 2006
Tại Bắc Kinh, Trung Quốc, năm 2006
Tại công viên Victoria, Hong Kong

Tết Trung thu trong văn học - nghệ thuật

Thơ về Tết Trung Thu

Trung Thu vốn là nguốn cảm hứng lớn cho các thi sĩ từ xưa đến nay, trong đó có nhà thơ đời Đường Đỗ Phủ với bài Trung thu:
Thu cảnh kim tiêu bán
Thiên cao nguyệt bội minh
Nam lâu thùy yến hưởng
Ty trúc tấu thanh thanh
Bản dịch của Thái Giang:
Cảnh thu nay đúng nửa rồi
Trăng thu thêm sáng, khung trời thêm cao
Lầu nam ai rót rượu đào
Tiếng tơ, tiếng trúc thanh tao nhịp nhàng[6]
Nhà thơ Tản Đà cũng nhắc đến ngày Trung thu với các câu thơ:
Có bầu có bạn can chi tủi
Cùng gió cùng mây thế mới vui
Rồi cứ mỗi năm rằm tháng tám
Tựa nhau trông xuống thế gian cười.
Hồ Chí Minh có câu thơ sau:
Trung thu trăng sáng như gương
Bác Hồ ngắm cảnh nhớ thương nhi đồng

Câu hát về Tết Trung thu

Đèn ông sao bằng giấy kính
Các loại đèn lồng
Lồng đèn xếp
Đèn con cá bằng giấy bóng kính
Bài Chiếc đèn ông sao:
Chiếc đèn ông sao sao năm cánh tươi màu
Cán đây rất dài, cán cao qua đầu
Em cầm đèn sao em hát vang vang
Đèn sao tươi màu của đêm rằm liên hoan...tùng dinh dinh là tùng tùng dinh
Bài Múa sư tử:
Thùng thình thùng thình trống rộn ràng ngoài đình
Có con sư tử vui múa quanh vòng quanh
Trung thu liên hoan trăng sáng ngập đường làng
Dưới ánh trăng vàng em cất tiếng hát vang
Bài Rước đèn tháng tám:
Tết Trung Thu rước đèn đi chơi
Em rước đèn đi khắp phố phường
Lòng vui sướng với đèn trong tay
Em múa ca trong ánh trăng rằm
Đèn ông sao với đèn cá chép
Đèn thiên nga với đèn bướm bướm
Em rước đèn này đến cung trăng
Đèn xanh lơ với đèn tím tím
Đèn xanh lam với đèn trắng trắng
Trong ánh đèn rực rỡ muôn màu
Nhạc sĩ Lê Thương cũng có bài Thằng Cuội viết về chủ đề này, trong bài hát có đoạn "Bóng trăng trắng ngà có cây đa to, có thằng Cuội già ôm một mối mơ.....Có con dế mèn, suốt trong đêm thâu, hát xẩm không tiền, nên nghèo xác xơ...".
Nhạc sĩ Ngọc Lễ cũng có tác phẩm Cắc tùng cắc tùng về ngày Tết Trung thu cho các em thiếu nhi: "Cắc tùng cắc cắc tùng, Em đi chơi trung thu này, Cắc tùng tiếng trống lân tưng bừng...."

Tết trung thu tại Việt Nam

Làm đồ chơi Trung Thu

Mặt nạ, đèn ông sư, đèn ông sao và đầu sư tử là các loại đồ chơi phổ biến nhất trong dịp lễ tết Trung thu. Trước đây ở miền Bắc, khi còn trong thời kỳ bao cấp (1976 - 1986), các đồ chơi cho trẻ em vào dịp tết Trung thu rất hiếm, phần lớn các gia đình thường tự làm lấy đồ chơi như trống bỏi, đèn ông sư, đèn ông sao, đèn kéo quân, mặt nạ, tò he, chong chóng... cho trẻ em trong gia đình. Ngoài ra còn có các mô hình tầu thủy đồ chơi. Các loại mặt nạ thường được làm bằng bìa hoặc bằng giấy bồi, với các hình phổ biến về các nhân vật trẻ em yêu thích bấy giờ như: đầu sư tử, ông Địa, Tôn Ngộ Không, Trư Bát Giới, Bạch Cốt Tinh... Ngày nay, phần lớn đồ chơi ở Việt Nam có xuất xứ từ Trung Quốc, các loại mặt nạ được làm bằng nhựa mỏng, không đẹp bằng mặt nạ thời trước.

Rước đèn

Cảnh rước đèn trung thu tại Phan Thiết, Việt Nam.
Tại một số vùng nông thôn, những nơi mà quan hệ hàng xóm láng giềng vẫn còn được bảo tồn và trân trọng, người ta thường tổ chức cho trẻ em cùng nhau rước đèn đi khắp thôn, xóm, khu phố trong đêm trung thu. Lễ hội rước đèn có thể được phát động bởi chính quyền địa phương hoặc những nhóm thanh niên trong làng xóm. Họ phân công nhau làm những lồng đèn ông sao thật lớn hoặc những lồng đèn thật đẹp để thi thố với nhau trong lễ rước đèn. Tại Phan Thiết (Bình Thuận), người ta tổ chức rước đèn quy mô lớn với hàng ngàn học sinh tiểu học và trung học cơ sở đi khắp các đường phố, lễ hội này được xác lập kỷ lục lớn nhất Việt Nam.[7] Đây là lễ hội rước đèn trung thu truyền thống có từ hàng trăm năm nay, và quy mô của lễ hội tại Phan Thiết mỗi năm một hoành tráng và to lớn hơn, tuy nhiên cũng có tính cách "thương mại" hơn.[8] Tại Tuyên Quang cũng có lễ hội rước đèn lớn, huy động hoàn toàn từ sự sáng tạo của người dân, từng làng từng xóm và chưa bị thương mại hóa.[8]

Múa lân

Múa lân trong Tết Trung Thu
Múa lân (ở miền Bắc thường gọi là múa sư tử mặc dù sư tử thì không có sừng) thường được tổ chức vào trước tết Trung Thu nhưng nhộn nhịp nhất là hai đêm 15 và 16.[cần dẫn nguồn]

Bày cỗ

Các em nhỏ ở Hà Nội đang bày cỗ trông trăng
Mâm cỗ Trung Thu thông thường có trọng tâm là con chó[9] được làm bằng tép bưởi, được gắn 2 hạt đậu đen làm mắt. Xung quanh có bày thêm hoa quả và những loại bánh nướng, bánh dẻo thập cẩm hoặc là loại bánh chay có hình lợn mẹ với đàn lợn con béo múp míp, hoặc hình cá chép là những hình phổ biến. Hạt bưởi thường được bóc vỏ và được xiên vào những dây thép, phơi khô từ 2-3 tuần trước khi đến hôm rằm, và đến đêm Trung Thu, những sợi dây bằng hạt bưởi được đem ra đốt sáng. Những loại quả, thức ăn đặc trưng của dịp này là chuối và cốm, quả thị, hồng đỏ và hồng ngâm màu xanh, vài quả na dai...và bưởi là thứ quả không thể thiếu được. Đến khi trăng lên tới đỉnh đầu chính là giây phút phá cỗ, mọi người sẽ cùng thưởng thức hương vị của Tết Trung Thu. Phong tục trông trăng cũng liên quan đến sự tích Chú Cuội trên cung trăng, do một hôm Cuội đi vắng, cây đa quý bị bật gốc bay lên trời, chú Cuội bèn bám vào rễ cây níu kéo lại nhưng không được và đã bị bay lên cung trăng với cả cây của mình. Nhìn lên Mặt Trăng, có thể thấy một vết đen rõ hình một cây cổ thụ có người ngồi dưới gốc, và trẻ em tin rằng, đó là hình chú Cuội ngồi gốc cây đa.

Các loại bánh trung thu

Bánh nướng ngày tết Trung thu
Bánh nướng hình con heo (lợn)
Bài chi tiết: Bánh trung thu
Từ truyền thống đến hiện đại, bánh trung thu ngày càng đa dạng khi các nhà sản xuất sáng tạo trong sử dụng các nguyên liệu và thực phẩm khác nhau đưa vào nhân bánh; dập khuôn kiểu dáng bánh thành nhiều hình thù sinh động; đóng gói với bao bì mẫu mã đẹp mắt. Tuy nhiên, dựa theo công thức làm vỏ bánh thì chỉ có hai loại bánh trung thu là bánh nướng và bánh dẻo.
Bánh nướng
Bánh nướng được làm với lớp vỏ bánh là bột mì và có chút dầu ăn. Đường để trộn vào vỏ bánh thường được nấu với mạch nha để chuyển thành màu hổ phách và để càng lâu càng tốt (thường các nhà làm bánh sau tết trung thu nấu nước đường, cất kỹ để tới tận mùa sau mới dùng)[10]. Trước kia tại Việt Nam nhân bánh nướng thường là nhân thập cẩm, có chút lá chanh thái chỉ, thịt mỡ, mứt, hạt dưa, lạp xường.
Sau khi nặn bánh, ép khuôn, bánh được cho vào lò nướng. Quy trình nướng chia làm hai giai đoạn trong đó khoảng 2/3 thời gian nướng là giai đoạn đầu tiên. Sau đó bánh được dỡ ra, làm nguội, phết lòng đỏ trứng gà lên rồi cho vào nướng tiếp 1/3 thời gian còn lại.
Bánh dẻo
Theo truyền thống bánh dẻo trung thu được làm với vỏ bánh là bột gạo nếp rang xay mịn, nước đường kính trắng đun sôi để nguội (không dùng mạch nha như bánh nướng), nước hoa bưởi[11]. Nhân bánh làm từ các thực phẩm, nguyên liệu đã chín. Bánh được nặn xong ép khuôn và có thể sử dụng ngay không cần cho vào lò nướng.

Hát trống quân

Tết ở miền Bắc còn có tục hát trống quân. Đôi bên nam nữ vừa hát đối đáp với nhau, vừa đánh nhịp vào một sợi dây gai hoặc dây thép căng trên một chiếc thùng rỗng, bật ra những tiếng "thình thùng thình" làm nhịp cho câu hát. Những câu hát vận tức là hát theo vần, theo ý hoặc hát đố có khi có sẵn, có khi lúc hát mới ứng khẩu đặt ra. Cuộc đối đáp trong những buổi hát trống quân rất vui và nhiều khi gay go vì những câu đố hiểm hóc.

Tục tặng quà

Tết Trung thu người ta thường tặng quà cho nhau. Quà thường là các hộp bánh, lồng đèn, áo quần, tiền. Các cơ quan, doanh nghiệp cũng tặng quà cho khách hàng, cán bộ công nhân viên có khi mua cả xe tải bánh trung thu. Nhiều công ty có hàng ngàn công nhân, đặt hàng ngàn hộp bánh với số tiền hoa hồng hậu hĩnh.
Tính trên tổng lượng bánh trung thu tiêu thụ năm 2006 (thống kê từ các nhà sản xuất) ước khoảng 6.500- 6.800 tấn, lấy mức giá bình quân của 1 hộp bánh loại 220 - 250gr khoảng 100.000 - 130.000đ, người tiêu dùng đã tiêu pha hết hơn 800 tỉ đồng cho khoảng 7 triệu hộp bánh.[12] Và các hộp bánh đắt như vàng, người nghèo không sao mua nổi[13] cứ chạy lòng vòng từ người nọ sang người kia.
Đối tượng tặng quà của người lớn thường là các bề trên như cha mẹ, cấp trên, những người cần nhờ vả, thầy cô giáo hoặc cũng có thể hàng xóm, bạn bè hoặc con cháu trong nhà. Thường đối tượng nhận quà càng quan trọng thì giá trị món quà phải càng cao. Việc tặng quà Trung thu là một thói quen phổ biến khi đời sốfng khá lên sau đổi mới, nó có thể là một hình thức tiêu cực khi giá trị món quà quá lớn.
Đối với các doanh nghiệp hoặc cá nhân việc không có quà Tết biếu có thể bị đánh giá là lơ đễnh hoặc coi thường vì vậy đây là chi phí không nhỏ khi đến dịp trung thu. Chi phí tặng quà thường được chi từ chi phí tiếp khách bằng tiền. Do mức hoa hồng hoặc chiết khấu của các hiệu bánh cao (có thể lên đến 35%)[14] nên nhiều người thích dùng tiền cơ quan biếu xén để hưởng lợi.
Việc tặng quà trung thu đắt tiền là dịp "ơn nghĩa" của người lớn. Không ít người thường lợi dụng dịp này để biếu xen quà cáp nhằm mua quan bán chức. Những hộp bánh Trung thu đặc mà bên trong nhân bánh "là vàng", "là đô la" đã làm mờ mắt nhiều quan tham và biếu xén trong dịp Tết Trung thu là một lệ của những thành phần này[15].

Sản xuất đồ chơi Trung thu

Diễn hành Tết Trung Thu tại Belfast, Ireland, 2012
Nói đến đồ chơi tết Trung thu là phải nói đến lồng đèn, thứ không thể thiếu để các em đi rước trăng. Từ xưa đến nay, hai thành phố Hội AnSài Gòn nổi tiếng khắp nước về thủ công nghệ làm lồng đèn trang trí và các loại đèn giấy dùng trong ngày tết Trung Thu. Theo Văn công Lý hiện sống tại Hội An, thì ông tổ ngành làm đèn lồng ở đây tên gọi là Xã Đường. Đèn Hội An độc đáo ít nơi có, đèn lồng Hội An đẹp nhờ có đủ hình thù, kiểu dáng, to nhỏ. Vải bọc đèn thay giấy là loại lụa Hà Đông nổi tiếng, làm cho ánh sáng thêm huyền ảo lung linh.
Tại Sài Gòn, từ trước năm 1975 tới bây giờ, Phú Bình thuộc quận 11 Đô Thành Sài Gòn, cũng vẫn là một trung tâm sản xuất lồng đèn trung thu lớn nhất miền Nam Việt Nam, cung cấp cho cả vùng. Đây là một làng di cư năm 1954, nguyên gốc từ làng Báo Đáp thuộc tỉnh Nam Định. Làng này ở Bắc Phần vốn nổi tiếng với nghề thợ nhuộm. Khi vào nam, dân chúng vẫn sống quây quần với nhau bằng nghề nhuộm, dệt vải và làm giày dép. Phú Bình sau năm 1975 nằm trên điạ bàn của phường 19, Tân Bìnhphường 5, quận 11, cách khu du lịch Đầm Sen chừng nửa cây số. Lúc đầu khi vào Nam, Phú Bình chỉ chuyên sản xuất những loại đèn Trung Thu đơn giản như đèn ống sáo, con cá, ngôi sao... cố ý để cho học sinh vui chơi trong đêm lễ.
Từ năm 1960-1975, Phú Bình mỗi năm sản xuất hơn nửa triệu đèn lồng trung thu, cung cấp khắp các tỉnh thành từ Bến Hải vào tới Cà Mau. Sau này dân chúng ở dây vẫn tiếp tục nghề cũ. Năm 1994, lồng đèn Trung Quốc ồ ạt xâm nhập thị trường Việt Nam, chèn ép đèn Phú Bình, làm cho dân chúng ở đây lâm cảnh điêu đứng đói khổ[cần dẫn nguồn] vì hàng bị ế ẩm bởi lồng đèn Trung Quốc đẹp, kiểu cách mới lạ, lại rất tiện lợi khi ra gió không sợ cháy vì dùng pin, giá thành lại rẻ.
Ở thị trường Việt Nam ngành công nghệ sản xuất đồ chơi cho trẻ em dịp trung thu giúp tạo việc làm và lợi nhuận cho rất nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ, do nguyên liệu thông dụng và công nghệ đơn giản, vốn ít, sau một thời gian để đồ chơi của Trung Quốc thống lĩnh thị trường đến năm 2006 ngành hàng sản xuất lồng đèn Việt Nam hồi phục và chiếm lĩnh lại thị trường nội địa.

Lịch

Tương ứng với dương lịch:
  • 2008: 14 Tháng Chín
  • 2009: 3 Tháng Mười
  • 2010: 22 Tháng Chín
  • 2011: 12 Tháng Chín
  • 2012: 30 Tháng Chín
  • 2013: 19 Tháng Chín
  • 2014: 8 Tháng Chín
  • 2015: 27 Tháng Chín
  • 2016: 18 Tháng Chín

Xem thêm

Chú thích

  1. ^ a ă Cohen, Barbara (1 tháng 10 năm 1995). “Mid-Autumn Children's Festival”. Truy cập ngày 10 tháng 11 năm 2012.
  2. ^ Lee, Jonathan H.X.; editors, Kathleen M. Nadeau, (2010). Encyclopedia of Asian American folklore and folklife. Santa Barbara, Calif.: ABC-CLIO. tr. 1180. ISBN 0313350663.
  3. ^ Yeo, Joanna (20 tháng 9 năm 2012). “Traditional BBQ for Mid-Autumn Festival?”. Makansutra. Truy cập ngày 10 tháng 11 năm 2012.
  4. ^ Liu, Fang (13 tháng 9 năm 2011). “Mid-Autumn Festival celebrated in Taiwan”. CNTV.CN. Truy cập ngày 10 tháng 11 năm 2012.
  5. ^ “Voluntary Agreement on Management of Mooncake Packaging”. Environmental Protection Department of Hong Kong. 18 tháng 3 năm 2013. Truy cập ngày 10 tháng 9 năm 2013.
  6. ^ Thơ Đường tập 2, NXB Văn học, 1987, tr 119
  7. ^ Binhthuantoday. “Phan Thiết - lung linh đêm trăng”. Bình Thuận Tourist (bằng Tiếng Việt). Truy cập 20 tháng 9 / 2007.
  8. ^ a ă “Đêm hội trung thu tốn kém nhất Việt Nam”. Thanh Niên. 7 tháng 9 năm 2014.
  9. ^ “Mâm cỗ trung thu bầy những loại hoa quả gì?” (HTML). Vật giá. Truy cập 28 tháng 12.[nguồn không đáng tin]
  10. ^ Cách làm bánh nướng
  11. ^ Công thức làm bánh dẻo trung thu Thúy Hà, Ngôi Sao 30/8/2011 16:01 GMT+7
  12. ^ “Vòng đời bánh biếu”. Bích Nga, SGTT. 4 tháng 10 / 2006 14:32 (GMT+7).
  13. ^ Lê Ái (30/9/2006 16:23 GMT+7). “Bánh trung thu 2006 giá cao vẫn đắt hàng”. VnExpress (bằng Tiếng Việt).
  14. ^ Nguyễn Nga (10:25' 19/09/2006 (GMT+7)). “Trung thu: Mùa chạy đua của các thương hiệu”. Vietnamnet.
  15. ^ “Để Tết Nhi đồng thật ý nghĩa”. Truy cập 24 tháng 9 2004.

Liên kết ngoài


Cộng hòa Macedonia

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Cộng hoà Makedonija
Република Македонија
Republiska Makedonija

Flag of Macedonia.svg Coat of arms of the Republic of Macedonia.svg
Quốc kỳ Huy hiệu
Vị trí của
Khẩu hiệu
Không có
Quốc ca
Денес над Македонија (
Hành chính
Chính phủ cộng hòa nghị viện
Tổng thống
Thủ tướng
Chủ tịch Quốc hội Cộng hòa Makedonija
Gjorge Ivanov
Nikola Gruevski
Trajko Veljanovski
Ngôn ngữ chính thức Tiếng Macedonia
Thủ đô Skopje
42°0′B, 21°26′Đ
Thành phố lớn nhất Skopje
Địa lý
Diện tích 25.333 km² (hạng 148)
Diện tích nước 1,9% %
Múi giờ CET (UTC+1); mùa hè: CEST (UTC+2)
Lịch sử
Độc lập: Ly khai từ Nam Tư
Ngày 8 tháng 9 năm 1991[1] Tuyên bố
1991 Thống nhất
Dân cư
Dân số ước lượng (2006) 2.038.514 người (hạng 143)
Dân số (2002) 2.022.547 người
Mật độ 79 người/km² (hạng 111)
Kinh tế
GDP (PPP) (2006) Tổng số: 16,94 tỷ Mỹ kim
HDI (2004) 0,796 trung bình (hạng 66)
Đơn vị tiền tệ Denar Makedonija (MKD)
Thông tin khác
Tên miền Internet .mk
Makedonija (tiếng Việt: Ma-kê-đô-ni-a; tiếng Anh: Macedonia), tên đầy đủ là Cộng hòa Makedonija (tiếng Macedonia: Република Македонија, Republika Makedonija), là một quốc gia thuộc khu vực đông nam châu Âu. Nước Cộng hòa Makedonija giáp với Serbia và vùng lãnh thổ Kosovo về phía bắc, giáp với Albania về phía tây, giáp với Hy Lạp về phía nam và giáp với Bulgaria về phía đông. Dân số của nước này khoảng 2 triệu người.
Cộng hòa Makedonija có những tranh cãi với Hy Lạp về tên gọi của nước này do Macedonia/Makedonija lại là một vùng đất lịch sử nằm trên lãnh thổ nhiều quốc gia khác nhau và có lịch sử/văn hóa gắn liền Hy Lạp. Vì vậy vào năm 1991, nước này tách ra khỏi Liên bang Nam Tư và đã gia nhập Liên Hiệp Quốc với tên gọi Cựu Cộng hòa Nam Tư Makedonija [1], tuy nhiên tên gọi Cộng hòa Makedonija cũng được sử dụng rộng rãi để chỉ nước này.
Cộng hòa Makedonija là thành viên của Liên Hiệp Quốc, Tổ chức Thương mại Thế giới. Hiện nước này đang là một trong những ứng cử viên tiếp theo sẽ gia nhập Liên minh Châu Âu.

Từ nguyên

Bài chi tiết: Macedonia naming dispute
Tên của quốc gia này bắt nguồn từ từ tiếng Hy Lạp Μακεδονία (Makedonía),[2][3], tên gọi về một quốc gia của người Makedonia cổ đại. Tên người Makedonia, Μακεδόνες (Makedónes), bắt nguồn từ một chữ của tiếng Hy Lạp cổ đạiμακεδνός (makednós), có nghĩa là "cao, thon nhọn",[4] which shares the same root as the noun μάκρος (mákros), meaning "length" in both ancient and modern Greek.[5] Tên này được cho là có nghĩa nguyên là "người vùng cao nguyên" hay "người cao",[3][6][7] có thể ám chỉ đến tầm vóc cao lớn của người Makedonia cổ đại hoặc nói đến địa hình vùng núi cao nơi họ sinh sống.

Lịch sử

Thời kỳ cổ đại

Tượng Alexandros Đại đế tại Prilep, Macedonia
Vương quốc cổ đầu tiên được thành lập tại vùng đất nay là Cộng hòa Makedonija là vương quốc Paionia của người Thrace-Ilyria, họ đã kiểm soát một phần lớn khu vực sông Axius và các khu vực chung quanh lúc bấy giờ. Vào năm 336 trước công nguyên, Vương quốc Macedonia đã xâm chiếm Paionia dưới thời vua Philipos II của Macedonia. Ông đã xây dựng nên thành phố cổ Heraclea Lycentis và tàn tích ngày nay vẫn còn được lưu lại trên lãnh thổ Cộng hòa Makedonija. Quyền lực của vương triều Paionia bị giảm xuống còn như một nước bán tự trị phụ thuộc vào Vương quốc Macedonia. Con trai của vua Philip II là Alexandros Đại đế (356-323 TCN) đã tiếp tục mở rộng hơn nữa quyền hạn của Macedonia tại Paionia, tuy nhiên vương gia Paionia tại đây vẫn nhận được sự kính trọng từ phía triều đình Alexandros Đại đế. Năm 280 trước công nguyên, người Celt đã đến tàn phá những vùng đất của người Paionia, song sau đó họ lại bị người Dardani đàn áp. Trải qua một vài biến cố lịch sử, người Paionia vẫn tiếp tục duy trì một quốc gia tự trị cho đến khi bị sát nhập vào Đế chế La Mã hùng mạnh. Và đến năm 400 sau công nguyên, người Paionia đã hoàn toàn bị đồng hóa và cái tên Paionia chỉ còn lại là một địa danh trên bản đồ mà thôi.

Thời kỳ Trung cổ

Pháo đài Ohrid tại Macedonia, được xây dựng dưới thời vua Samuil của Bulgaria
Vào cuối thế kỉ 6, Đế quốc Đông La Mã (Byzantine) dần trở nên hùng mạnh và bắt đầu kiểm soát những lãnh thổ tan rã của Đế quốc La Mã. Trong khi đó, tại lãnh thổ Cộng hòa Makedonija ngày nay, người Slav đã tràn vào từ phía bắc. Các dân tộc khác tại vùng này như người Hy Lạp, người La Tinh, người Illyria và người Thracia đã bị đẩy đi nơi khác hoặc bị người Slav đồng hóa. Người Slav sau đó bắt đầu nhiều cuộc chiến tranh lớn chống lại Đế quốc Đông La Mã. Họ đã xâm chiếm được hầu hết lãnh thổ Hy Lạp, một bộ phận quan trọng của Đế quốc Đông La Mã ngoại trừ một số thành phố lớn quan trọng như Athena hay Thessaloniki. Để đối phó với người Slav, Đế quốc Đông La Mã đã nhiều lần sử dụng những đội quân viễn chinh lớn. Dưới thời hoàng đế Justinianus II của Đông La Mã, những đội quân viễn chinh này đã trục xuất tới 200.000 người từ vùng Macedonia đến trung tâm Tiểu Á (nay thuộc Thổ Nhĩ Kỳ) để triều cống và phục vụ trong quân đội của đế chế. Trong khi rất nhiều người Slav tại Macedonia đã phải thừa nhận sự thống trị của đế quốc thì một bộ phận lớn khác vẫn cố gắng duy trì bản sắc dân tộc, đồng thời họ vẫn chiếm đa số trong các nhóm sắc tộc tại địa phương. Cùng với sự phát triển của Đệ nhất đế chế (Bulgaria), người Slav tại Macedonia đã sát nhập vào nền văn hóa Slav của người Bulgaria này.
Người Slav tại Cộng hòa Makedonija ngày nay đã chấp nhận Đạo Cơ đốc là tôn giáo chính thức của họ vào thế kỉ 9 dưới thời hoàng đế Boris I của Bulgaria. Những linh mục người Byzantine Hy Lạp là thánh Cyril và thánh Methodius đã sáng lập ra bảng chữ cái Glagotic và đã có ảnh hưởng quan trọng trong việc hình thành nền văn học của người Slav tại khu vực lúc bấy giờ. Những công trình của họ đã được chấp nhận tại Bulgaria trung cổ và thánh Clement của Ohrid đã dựa vào đó mà sáng tạo nên bảng chữ cái Cyril của các dân tộc Slav. Thánh Naum của Ohrid đã thành lập nên Trường Văn học Ohrid, một trong những trung tâm văn hóa lớn của Đế chế Bulgaria lúc bấy giờ.
Vào năm 1018, hoàng đế Basil II của Đông La Mã đã đánh thắng hoàng đế Samuil của Bulgaria và lãnh thổ Cộng hòa Makedonija ngày nay lại thuộc về chủ quyền của Đông La Mã. Những thế kỉ sau đó, vùng đất này liên tiếp bị cai trị bởi nhiều thế lực khác nhau. Vào thế kỉ 11, người Đông La Mã đã kiểm soát hoàn toàn khu vực Balkan nhưng sau đó, đến cuối thế kỉ 12 vùng đất này lại rơi vào tay của Đệ nhị đế chế (Bulgaria). Đế chế này sau đó đã vấp phải nhiều vấn đề chính trị nội bộ và Macedonia lại trở về tay Đông La Mã vào thế kỉ 13. Thế kỉ 14, vùng đất Macedonia trở thành một phần của Đế quốc Serbia. Skopje (nay là thủ đô Cộng hòa Makedonija) trở thành thủ đô của hoàng đế Stefan Dushan của người Serbia.
Sau khi hoàng đế Stefan Dushan mất, Đế quốc Serbia nhanh chóng suy yếu do những người kế vị kém cỏi và sự tranh giành quyền lực trong nước. Hậu quả là phần lớn khu vực Balkan, trong đó có Makedonija đã rơi vào tay Đế chế Osman suốt 5 thế kỉ sau đó.

Phong trào Vận động Dân tộc

Sự cai trị tàn bạo của Đế chế Osman đã khiến cho nhiều cuộc nổi dậy của người Macedonia nổ ra. Một trong những cuộc nổi dậy sớm nhất nổ ra là Khởi nghĩa Karposh vào năm 1689. Từ cuối thế kỉ 19, nhiều cuộc vận động dân tộc đã diễn ra với mục tiêu là thành lập một nhà nước tự trị cho người Makedonija trên toàn vùng Makedonija. Các tổ chức chính trị quan trọng như Tổ chức Cách mạng Quốc gia Makedonija (viết tắt theo tiếng Anh là IMRO) được thành lập đã đóng vai trò quan trọng trong việc vận động tinh thần dân tộc đất nước và tiến hành những cuộc khởi nghĩa chống lại chính quyền Osman, lúc bấy giờ đã bắt đầu suy yếu. Năm 1903, IMRO đã tiến hành cuộc Khởi nghĩa Iliden-Preobrazhenie với đỉnh cao là sự thành lập nước Cộng hòa Krushevo. Tuy cuộc khởi nghĩa đã bị đàn áp dã man song nó được đánh giá là nền móng và tiền thân của sự thành lập nước Cộng hòa Makedonija sau này.

Thế kỉ 20

Vardar003.png
Sau hai cuộc chiến tranh Balkan vào năm 1912 và 1913 rồi sau đó là sự sụp đổ của Đế chế Osman, vùng Macedonia được phân chia thành các phần của Hy Lạp, BulgariaSerbia. Vùng lãnh thổ ngày nay là Cộng hòa Makedonija trở thành một bộ phận của Serbia với tên gọi Južna Srbija ("Nam Serbia"). Sau Thế chiến thứ nhất, Serbia lại trở thành một phần của Vương quốc của người Serb, người Croat và người Sloven. Năm 1929, vương quốc này đổi tên thành Vương quốc Nam Tư và chia thành các tỉnh. Nam Serbia được đổi thành tỉnh Vardar nằm trong vương quốc.
Năm 1941, quân phát xít xâm lược Nam Tư và tỉnh Vardar bị chia sẻ giữa phát xít Bulgaria và phát xít Italia lúc đó đã xâm chiếm Albania. Trong thời kỳ này, 7000 người Do Thái tại hai thành phố SkopjeBitola đã bị bắt vào những trại tập trung rồi bị trục xuất. Chế độ phát xít tàn bạo đã thúc đẩy phong trào đấu tranh của những người cộng sản tại Nam Tư dưới sự lãnh đạo của Nguyên soái Josip Broz Tito. Khi Thế chiến thứ hai kết thúc, Tito trở thành Tổng thống Nam Tư và Liên bang Cộng hòa Nhân dân Nam Tư được thành lập. Nước Cộng hòa Nhân dân Makedonija cũng được thành lập và trở thành một trong sáu nước thành viên của Liên bang. Về sau năm 1963, khi Nam Tư đổi tên thành Liên bang Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Nam Tư thì nước này cũng đổi tên lại thành Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Makedonija.

Cộng hòa Makedonija (từ năm 1991 đến nay)

Ngày 8 tháng 9 năm 1991, Makedonija ly khai ra khỏi Liên bang Nam Tư một cách hòa bình và lấy ngày này là ngày quốc khánh. Khoảng đầu thập niên 1990, nước này vẫn giữ được hòa bình và không can dự vào cuộc Chiến tranh Nam Tư khốc liệt ở những nước láng giềng. Những vấn đề nhỏ về mặt biên giới giữa Cộng hòa Macedonia với Nam Tư đều đã được giải quyết. Nhưng khi cuộc chiến tranh ở Kosovo nổ ra vào năm 1999, khoảng 360.000 người Albania tị nạn đã chạy vào Makedonija khiến gây mất ổn định tình hình tại nước này. Mặc dù một phần người Albania đã dời đi sau khi chiến tranh kết thúc nhưng những người Albania ở cả hai phía biên giới lại tìm cách đòi quyền tự trị và thậm chí cao hơn nữa là đòi quyền độc lập cho cộng đồng người Albania tại Cộng hòa Makedonija. Những vụ xung đột đã nổ ra giữa chính phủ Skopje với quân phiến loạn Albania tại miền bắc và miền tây đất nước trong khoảng giữa tháng 3 và tháng 6 năm 2001. Cuối cùng cuộc chiến kết thúc với sự can thiệp của lực lượng ngừng bắn của NATO. Theo Hiệp định Ohrid, chính phủ Makedonija đồng ý trao nhiều quyền chính trị rộng rãi hơn cho người Albania cũng như công nhận những đóng góp văn hóa của cộng đồng thiểu số này. Còn người Albania theo thỏa thuận sẽ ngừng các hoạt động ly khai chống chính phủ và giao nộp vũ khí cho NATO.
Năm 2005, Cộng hòa Makedonija chính thức được công nhận là ứng cử viên tiếp theo cho việc gia nhập Liên minh Châu Âu.

Chính trị

Chính phủ

Nikola Gruevski, thủ tướng hiện nay của Cộng hòa Macedonia
Cộng hòa Makedonija là một quốc gia theo thể chế dân chủ nghị viện. Nhánh hành pháp nằm dưới sự điều hành của chính phủ, nhánh lập pháp thì cùng được điều hành bởi cả chính phủ và quốc hội. Nhánh tư pháp độc lập với hai nhánh hành pháp và lập pháp.
Chính phủ Cộng hòa Makedonija được thành lập bởi sự liên kết của nhiều đảng phái hợp thành. Quốc hội nước này được tổ chức theo mô hình lưỡng viện: thượng viện và hạ viện. Số thành viên trong Quốc hội nước cộng hòa là 120 thành viên và được bầu lại 4 năm một lần.
Tại Cộng hòa Makedonija, tổng thống chỉ có vai trò nghi thức còn phần lớn quyền lực thực sự thì nằm trong tay người đứng đầu chính phủ là thủ tướng. Tổng thống còn là tổng tư lệnh quân đội và là người đứng đầu các lực lượng vũ trang quốc gia. Ông cũng là người đứng đầu Hội đồng An ninh của đất nước. Chức vụ tổng thống tại Cộng hòa Makedonija có nhiệm kỳ 5 năm và mỗi tổng thống có thể nắm tối đa 2 nhiệm kỳ. Đương kim tổng thống hiện nay là ông Gjorge Ivanov. Còn đương kim thủ tướng hiện nay là ông Nikola Gruevski.
Nhánh tư pháp ở nước này được thực thi bởi các tòa án. Đứng đầu hệ thống tư pháp là Tòa án Tư pháp Tối cao, Tòa án Hiến pháp và Tòa án Tư pháp nước Cộng hòa.
Một trong những vấn đề chính trị hàng đầu hiện nay tại Cộng hòa Makedonija là mâu thuẫn chính trị giữa các đảng của người Macedonia chiếm đa số và cộng đồng người Albania thiểu số. Những xung đột này đã dẫn đến một cuộc chiến tranh xảy ra trong thời gian ngắn vào năm 2001 và được dàn xếp bởi cộng đồng quốc tế sau đó. Tháng 8 năm 2004, chính phủ Cộng hòa Makedonija đồng ý trao cho người Albania thiểu số quyền tự trị rộng rãi tại những vùng miền mà họ kiểm soát, tuy nhiên nguy cơ về vấn đề ly khai như Kosovo vẫn có khả năng xảy ra tại quốc gia này[8].

Quan hệ ngoại giao

Hình ảnh mặt trời Vergina trên lá cờ gây tranh cãi của Makedonija (1992-1995)
Về nhiều mặt, Cộng hòa Makedonija vẫn giữ mối quan hệ tốt đẹp với Hy Lạp. Khoảng 57% đầu tư nước ngoài ở Cộng hòa Makedonija đến từ quốc gia láng giềng phía nam này. Mối quan hệ giữa Cộng hòa Makedonija với Hy Lạp có thể nói đã được cải thiện khá nhiều trong vài năm qua nhưng bên cạnh đó, vấn đề tên gọi quốc gia vẫn là một trở ngại lớn trong việc thiết lập quan hệ ngoại giao đầy đủ giữa hai nước [9]. Trong khi người Makedonija cho rằng cái tên Makedonija/Macedonia là tên gọi để chỉ dân tộc và ngôn ngữ của họ thì người Hy Lạp cho rằng cái tên đó lại bao hàm cả những phần lãnh thổ của Hy Lạp với cùng tên đó nữa. Những tranh cãi và lịch sửvăn hóa giữa hai nước cũng hết sức căng thẳng. Năm 1992, sau khi tách ra khỏi Liên bang Nam Tư, nước Cộng hòa Makedonija thông qua việc sử dụng một lá cờ mới với hình ảnh mặt trời Vergina của Vương quốc Macedonia cổ đại. Athena đã lên tiếng phản đối quyết liệt hành động trên và vào năm 1995, Cộng hòa Makedonija đã đổi sang sử dụng lá cờ như hiện nay.
Do không thể giải quyết thỏa đáng vấn đề tên gọi quốc gia với Hy Lạp, Cộng hòa Makedonija đã chấp nhận gia nhập các tổ chức quốc tế với tên gọi Cựu Cộng hòa Nam Tư Makedonija (Поранешна Југословенска Република Македонија, Poraneshna Jugoslovenska Republiska Makedonija, tên tiếng Anh là "Former Yugoslavia Republic of Macedonia", có khi được viết tắt là "Makedonija FYRO" hay "FYROM"). Hiện nước này là thành viên của nhiều tổ chức quốc tế như Liên Hiệp Quốc, Tổ chức An ninh và Hợp tác Châu Âu, Hội đồng Châu Âu, Hội đồng Pháp ngữ, Tổ chức Thương mại Thế giới... Cộng hòa Makedonija hiện đang có nguyện vọng gia nhập Liên minh Châu ÂuNATO nhưng việc khởi động các quá trình đàm phán gia nhập vẫn chưa được bắt đầu. Ngày 17 tháng 12 năm 2005, Cộng hòa Makedonija chính thức được công nhận là ứng cử viên tiếp theo cho việc gia nhập Liên minh Châu Âu.

Phân chia hành chính

8 vùng thống kê của Cộng hòa Makedonija
Vào tháng 9 năm 1996, toàn bộ lãnh thổ nước Cộng hòa Makedonija được chia thành 123 đô thị tự trị. Nhưng đến tháng 8 năm 2004, số đô thị tự trị tại nước này được tổ chức lại và giảm xuống con số 85 (trong đó 10 đô thị tự trị nằm trong thành phố Skopje, còn gọi là Đại Skopje). Các đô thị tự trị là bậc phân cấp hành chính cơ bản của Cộng hòa Makedonija. Trước đó, chính quyền địa phương của nước này được tổ chức vào 34 quận hành chính phía trên.
Bên cạnh đó, Cộng hòa Makedonija còn được chia thành 8 vùng, chủ yếu nhằm mục đích thống kê. Danh sách các vùng thống kê của Cộng hòa Macedonia bao gồm:

Kinh tế

Makedonija chủ trương xây dựng kinh tế thị trường. Tuy nhiên với một nền kinh tế nhỏ, mở cửa, điều này khiến Makedonija trở thành nước dễ bị tác động bởi các nền kinh tế phát triển khác của châu Âu và khả năng phát triển kinh tế phụ thuộc vào hội nhập khu vực và quá trình gia nhập Liên minh châu Âu.
Thời kỳ 1991-2001, kinh tế suy thoái (GDP -4,5%) do tình hình chính trị không ổn định, bị ảnh hưởng nặng nề của cuộc khủng hoảng ở Kosovo (1999) và cuộc nội chiến với người Albania (2001). Từ năm 2002 bắt đầu có dấu hiệu phục hồi ở một số ngành kinh tế mũi nhọn như khai khoáng, chế biến nông phẩm, nông nghiệp, ngư nghiệp, xây dựng, giao thông vận tảidịch vụ. Trong các năm 2003- 2007 GDP tăng trưởng trung bình 4%/năm. Từ sau năm 1996, Makedonija trở thành nước có nền kinh tế vĩ mô ổn định với tỉ lệ lạm phát thấp, tuy nhiên không hấp dẫn được đầu tư trực tiếp của nước ngoài, tín dụng thấp, thâm hụt ngoại thương lớn, tạo được ít việc làm. Vì vậy, tỉ lệ thất nghiệp luôn ở mức cao (trên 30%).
Năm 2009, do tác động của khủng hoảng kinh tế thế giới, GDP của Makedonija giảm (tăng trưởng đạt âm 1,2%), lạm phát dưới 1%, thất nghiệp khoảng 33%, nợ công 32% GDP. Năm 2010, nhờ thực hiện chính sách tài chính bảo thủ, chính sách tiền tệ nghiêm ngặt và hoàn thiện hệ thống tài chính, Makedonija đã cải thiện được bước đầu mức tín dụng, giữ được kinh tế vĩ mô ổn định, kinh tế có tăng trưởng nhẹ (mức tăng GDP đạt 1,3%), duy trì được lạm phát ở mức 1,6%, nợ công thấp ~35% GDP, nhưng tỉ lệ thất nghiệp cao (31,7%).
Tỉ trọng các ngành trong nền kinh tế (ước tính năm 2010, %GDP)
Kim ngạch xuất khẩu: 3,17 tỉ USD (2010). Makedonija xuất khẩu chủ yếu các mặt hàng như thực phẩm, nước uống, thuốc lá, hàng dệt may, hàng tạp hoá, sắt, thép. Các bạn hàng xuất khẩu chính là Đức, Hy Lạp, Ý, BulgariCroatia.
Kim ngạch nhập khẩu: 5,113 tỉ USD (2010). Hàng nhập khẩu chủ yếu vào Makedonija là máy móc và thiết bị, động cơ, hoá chất, chất đốt, thực phẩm. Bạn hàng nhập khẩu chính là Đức, Hy Lạp, Bulgari, Ý, Thổ Nhĩ Kỳ, SloveniaHungari.

Tôn giáo

Chính Thống giáo là tôn giáo lớn nhất của nước Cộng hòa Macedonia chiếm 64,7% dân số, phần lớn trong số đó thuộc về Giáo hội Chính thống Macedonia. Nhiều giáo phái Kitô giáo khác chiếm 0,37% dân số. Người Hồi giáo chiếm 33,3% dân số; Macedonia có tỷ lệ người Hồi giáo cao thứ 5 ở châu Âu, sau khi Thổ Nhĩ Kỳ (96%), Kosovo (90%), Albania (56,7%), và Bosnia-Herzegovina (45%).[10] Phần lớn người Hồi giáo là người gốc Albania, Thổ Nhĩ Kỳ, hoặc người Rôma, mặc dù một số ít cũng là người Hồi giáo Macedonia. Còn lại 1,63% được ghi nhận là "tôn giáo không xác định" trong năm 2002 theo cuộc điều tra dân số quốc gia.[11]
Tổng cộng, đã có 1.842 nhà thờ Chính Thống giáo và 580 nhà thờ Hồi giáo vào cuối năm 2011. Các cộng đồng Chính Thống giáo và Hồi giáo đều có trường Đại học tôn giáo ở Skopje. Ngoài ra còn có một trường đại học thần học Chính Thống giáo ở thủ đô. Giáo hội Chính thống Macedonia có thẩm quyền đối với 10 giáo xứ (bảy trong nước và ba ở nước ngoài), có 10 Giám mục và khoảng 350 linh mục. Tổng cộng có 30.000 người được rửa tội trong tất cả các giáo xứ mỗi năm.
Nhà thờ Hồi giáo Ishak Bey ở Old Bazaar, Skopje.
Có một sự căng thẳng giữa Giáo hội Chính Thống Macedonia và Giáo hội Chính Thống Serbia do tuyên bố Autocephaly năm 1967. Tuy nhiên, Tổng Giám mục Giáo Hội Chính Thống Serbia, theo Quyết định số 06/1959, đã công nhận quyền tự chủ (không phụ thuộc) của Giáo hội mình đối với Giáo Hội Chính Thống Macedonia. Sau khi các cuộc đàm phán thống nhất giữa hai giáo hội đã bị đình chỉ, Giáo hội Chính Thống Serbia đã công nhận Tổng Giám mục Jovan của Ohrid, một cựu Giám mục Giáo hội Chính Thống Macedonia, là Đức Tổng Giám mục Ohrid. Phản ứng của Giáo hội Chính Thống Macedonia là cắt đứt mọi quan hệ với địa hạt Ohrid của vị tổng Giám mục mới và để ngăn chặn các Giám mục của Giáo hội Chính Thống Serbia xâm nhập vào Macedonia. Giám mục Jovan đã bị tù 18 tháng cho tội "phỉ báng Giáo hội Chính thống Macedonia và làm tổn hại đến tình cảm tôn giáo của người dân địa phương" bằng cách phân phát lịch nhà thờ Chính thống Serbia và tờ rơi tuyên truyền cho Giáo hội Serbia.[12]
Công giáo La Mã có khoảng 11.000 tín đồ ở Macedonia. Giáo hội Công giáo Macedonia được thành lập vào năm 1918, và được tạo thành chủ yếu bởi người cải đạo từ Chính Thông giáo sang Công giáo và con cháu của họ. Giáo hội Công giáo Macedonia thực hành theo nghi lễ Byzantine và hiệp thông hoàn toàn với Giáo hội Công giáo Rôma và các Giáo hội Công Giáo Đông phương khác.[13]
Có một cộng đồng Tin Lành nhỏ ở Macedonia. Tín đồ Tin Lành nổi tiếng nhất trong cả nước là cố Tổng thống Boris Trajkovski. Ông xuất thân từ cộng đồng Methodist, đó là nhà thờ Tin Lành lớn nhất và lâu đời nhất tại Cộng hòa Macedonia, có niên đại từ cuối thế kỷ 19. Từ những năm 1980 cộng đồng Tin Lành đã phát triển, một phần thông qua niềm tin mới và một phần với sự giúp đỡ truyền giáo bên ngoài.
Cộng đồng Do Thái Macedonia, có khoảng 7.200 người trước cuộc chiến tranh thế giới II, đã bị giết chết gần như hoàn toàn: chỉ có 2% người Do Thái sống sót ở Macedonia[14] Sau khi giải phóng họ và kết thúc chiến tranh, hầu hết người Do Thái Macedonia đã chọn di cư tới Israel. Hiện nay, con số cộng đồng Do Thái khoảng 200 người, tất cả hiện sống ở Skopje. Người Do Thái Macedonia hầu hết thuộc nhánh Sephardic - con cháu của những người tị nạn từ thế kỷ 15 những người đã chạy trốn khỏi Tây Ban NhaBồ Đào Nha trong cuộc thanh trừng người Do Thái giáo ở 2 nước này.

Hình ảnh

Tham khảo

  1. ^ Cộng hòa Macedonia
  2. ^ Μακεδονία, Henry George Liddell, Robert Scott, A Greek-English Lexicon, on Perseus
  3. ^ a ă Macedonia, Online Etymology Dictionary
  4. ^ μακεδνός, Henry George Liddell, Robert Scott, A Greek-English Lexicon, on Perseus
  5. ^ μάκρος, Henry George Liddell, Robert Scott, A Greek-English Lexicon, on Perseus
  6. ^ Eugene N. Borza, Makedonika, Regina Books, ISBN 0-941690-65-2, p.114: The "highlanders" or "Makedones" of the mountainous regions of western Macedonia are derived from northwest Greek stock; they were akin both to those who at an earlier time may have migrated south to become the historical "Dorians".
  7. ^ Nigel Guy Wilson, Encyclopedia of Ancient Greece, Routledge, 2009, p.439: The latest archaeological findings have confirmed that Macedonia took its name from a tribe of tall, Greek-speaking people, the Makednoi.
  8. ^ http://vietnamnet.vn/thegioi/2008/02/769911/ Vietnamnet - Đại Albania và đoạn kết của giấc mơ bá quyền
  9. ^ http://www2.mfa.gr/www.mfa.gr/en-US/Policy/Geographic+Regions/South-Eastern+Europe/Balkans/Bilateral+Relations/FYROM/FYROM+-+THE+NAME+ISSUE.htm Vấn đề tên gọi giữa Cộng hòa Macedonia và Hy Lạp
  10. ^ "CIA – The World Factbook – Bosnia and Herzegovina". Cia.gov. Retrieved 5 May 2009.
  11. ^ "CIA World Factbook". Cia.gov. Retrieved 6 June 2011.
  12. ^ "Church Rivalry Threatens to Brim Over". Iwpr.net. Retrieved 5 May 2009.
  13. ^ David M. Cheney. "Catholic Church in Macedonia, The Former Yugoslav Republic of Catholic-Hierarchy]". Catholic-hierarchy.org. Retrieved 5 May 2009.
  14. ^ "Blog Archives » Macedonia's Jewish Community Commemorates the Holocaust, and Embraces the Future". Balkanalysis.com. Retrieved 28 April 2010.

Liên kết ngoài



Đường Huyền Tông

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Đường Huyền Tông
Hoàng đế Trung Hoa (chi tiết...)
Tang XianZong.jpg
Hoàng Đế nhà Đường
Trị vì 8 tháng 9, 712[1]12 tháng 8, 756[2]
Tiền nhiệm Đường Duệ Tông
Kế nhiệm Đường Túc Tông
Hoàng đế Trung Hoa (phần lớn các khu vực)
Trị vì 8 tháng 9, 712[1]12 tháng 8, 756[2]
Tiền nhiệm Đường Duệ Tông
Kế nhiệm Đường Túc Tông
Hoàng Đế Trung Hoa (Trung/Bắc)
Trị vì 8 tháng 9, 712[1]12 tháng 8, 756[2]
Tiền nhiệm Đường Duệ Tông
Kế nhiệm An Lộc Sơn
Thông tin chung
Thê thiếp Xem văn bản
Tên thật Lý Long Cơ
Niên hiệu Tiên Thiên (先天, Xiāntiān) 712-713
Khai Nguyên (開元, Kāiyuán) 713-741
Thiên Bảo (天寶, Tiānbǎo) 742-756
Thụy hiệu Đầy đủ: Chí Đạo Đại Thánh Đại Minh
Hiếu Hoàng Đế
至道大聖大明孝皇帝
Ngắn: Minh Hoàng[3]
Miếu hiệu Huyền Tông (玄宗)
Triều đại Nhà Đường (唐)
Thân phụ Đường Duệ Tông
Thân mẫu Chiêu Thành Đậu hoàng hậu
Sinh 8 tháng 9, 685[4]
Mất 3 tháng 5 năm 762
Trung Quốc
Đường Huyền Tông (chữ Hán: 唐玄宗, bính âm: Tang Xuanzong, 8 tháng 9 năm 685 - 3 tháng 5 năm 762), hay thường gọi là Đường Minh Hoàng (唐明皇, bính âm: Tang Ming Huang), tên thật là Lý Long Cơ (chữ Hán: 李隆基, bính âm: Li Lung chi), có lúc gọi là Võ Long Cơ (武隆基), thụy đầy đủ là Chí Đạo Đại Thánh Đại Minh Hiếu Hoàng đế (玄宗至道大聖大明孝皇帝), là vị hoàng đế thứ bảy hoặc thứ chín[5] của triều đại nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc.
Lý Long Cơ xuất thân là con trai thứ ba của Đường Duệ Tông, vị hoàng đế thứ năm (hay thứ tám) của nhà Đường. Thời niên thiếu của ông chứng kiến những biến động to lớn của triều đại, từ việc nữ chúa hưng khởi cho đến Vi hậu mưu đoạt đế vị... Hoàng tử trẻ tuổi Lý Long Cơ trưởng thành từ hoàn cảnh đó, nên từ nhỏ đã nuôi chí chấn hưng xã tắc Đường triều. Năm 710, sau khi bác ruột là Đường Trung Tông bị mẹ con Vi hoàng hậuCông chúa An Lạc ám hại, ông liên kết với cô là Công chúa Thái Bình, tiến hành chánh biến Đường Long, phế truất họ Vi, tôn Duệ Tông Lý Đán trở lại ngôi vua. Sau đó, Lý Long Cơ được phong làm Bình vương rồi Hoàng Thái tử. Năm 712, Long Cơ được vua cha nhường ngôi, trở thành Đường Huyền Tông. Sau khi đăng cơ, Huyền Tông thanh trừng các phe cánh chống đối của Công chúa Thái Bình, chấm dứt gần 30 năm biến động của nhà Đường. Sau đó, ông bắt tay vào việc xây dựng đất nước, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, trọng dụng nhân tài, ngăn chặn quan liêu lãng phí, mở ra thời kì Khai Nguyên thịnh trị kéo dài hơn 30 năm.
Tuy nhiên về cuối đời, Đường Huyền Tông sinh ra mê đắm trong tửu sắc, không chú ý đến nền chính trị ngày càng bại hoại suy vi, bên trong sủng ái Dương Quý Phi, bỏ bê việc nước, bên ngoài trọng dụng gian thần Lý Lâm Phủ, khiến cho nền thống trị ngày càng xuống dốc. Các phiên trấn do người Hồ cai quản được trọng dụng quá mức, trong đó có mạnh nhất là tặc thần An Lộc Sơn. Năm 755, An Lộc Sơn chính thức phát động loạn An Sử sau đó nhanh chóng tiến về kinh đô. Tình thế nhà Đường lâm vào bờ vực của sự diệt vong, Huyền Tông và triều đình phải bỏ chạy khỏi kinh thành Lạc Dương, đi đến Thành Đô. Cùng năm 756, con trai ông là thái tử Lý Hanh xưng đế, tức là Đường Túc Tông, Huyền Tông buộc phải thừa nhận ngôi vị của Túc Tông, lên làm Thái thượng hoàng.
Cuối năm 757, khi quân Đường giành lại được Trường An, Thái thượng hoàng Huyền Tông mới được đón về kinh đô nhưng không còn quyền lực và bị gian thần Lý Phụ Quốc ức hiếp. Những ngày cuối cùng của ông sống trong u uất và thất vọng cho đến lúc qua đời vào ngày 3 tháng 5 năm 762, ở tuổi 79.

Thời Võ Thái hậu

Tuổi nhỏ chí lớn

Lý Long Cơ chào đời vào ngày Mậu Dần tháng 8 năm Thùy Củng nguyên niên (8 tháng 9 năm 685) dưới thời gian trị vì đầu tiên của vua cha Đường Duệ Tông ở kinh thành Trường An. Mẫu thân của ông là Đậu Đức phi (sau truy tôn là Chiêu Thành Thuận Thánh Hoàng hậu), Trắc thất của Duệ Tông[6]. Tân Đường thư mô tả Lý Long Cơ từ nhỏ đã anh minh đa nghệ, hiểu biết âm luật, thiện bát phân thư, dung mạo vĩ lệ, có tư chất phi thường. Vào thời điểm này, triều đại nhà Đường đã bị chi phối bởi mẹ Duệ Tông là Võ Thái hậu, bà ta nắm mọi quyền hành trong triều, mưu đồ thoán ngôi xưng Nữ đế.
Tháng 7 nhuận năm Đinh Mão (687), Hoàng tử Lý Long Cơ khi đó mới 3 tuổi, cùng các anh em trai đều được phong tước Vương. Sang năm 690, Thái hậu ép Duệ Tông nhường ngôi cho mình, làm gián đoạn nhà Đường, lập ra nhà Võ Chu[7][8]. Không rõ năm nào trong giai đoạn trị vì của Thái hậu (690 - 705), Lý Long Cơ cũng như nhiều Hoàng thân họ Lý bị ép phải đổi sang họ Võ.
Tháng 11 năm 692, Sở Vương Lý Long Cơ được phép mở phủ ở ngoài cung và bố trí liêu chúc, năm đó ông vừa mới 7 tuổi[9]. Cùng năm đó, nhân dịp triều đình tổ chức nghi thức cúng tế, Lý Long Cơ cũng được tới dự. Có đại thần là Kim Ngô tướng quân Võ Ý Tông thấy Long Cơ là tông thất Lý thị đã hết thời mà có tác phong nghiêm chỉnh, thì đem lòng ganh ghét, muốn sỉ nhục ông. Ông nói:
Triều đình của nhà ta, việc gì tới nhà ngươi.
Thái hậu nghe được lời nói đó, chẳng những không trách phạt mà còn yêu thương tiểu Hoàng tử hơn.

Bị cấm túc

Tuy nhiên sang năm sau, mẫu thân của Long Cơ cùng hoàng hậu Lưu thị (chính thất của Duệ Tông) bị tố cáo dùng bùa phép hãm hại Võ Thái hậu, suýt nữa cũng làm liên lụy đến Duệ Tông (lúc đó đã bị giáng làm Hoàng tự). Sau sự việc này, cuối năm 693, Sở vương Lý Long Cơ bị thái hậu giáng làm Lâm Tri quận vương, bị buộc phải chuyển vào cung quản thúc.
Trong suốt năm năm tiếp theo (694 - 699), Võ Long Cơ cùng một số anh em ruột và anh em con cựu thái tử Lý Hiền[10] bị quản thúc chặt chẽ và không được tiếp xúc với bên ngoài, nên sống trong cảnh cực kì gò bó. Mãi đến năm 799, khi Võ Đán không còn được giữ ngôi thái tử, thì Võ Long Cơ mới được phép ra khỏi cung, và được lập phủ đệ ở phường Tích Thiện, thành Lạc Dương. Mấy năm sau, ông được cùng Thái hậu đến Trường An, sau đó được ban phủ đệ ở Khánh phường.

Thời Đường Trung Tông phục vị

Năm 703, Võ Long Cơ được phong làm Hữu vệ lang tướng, Thượng liễn phụng ngự. Đến năm 705, ông được đổi làm Vệ úy Thiếu khanh.
Năm 705, trong triều đình, tể tướng Trương Giản Chi dẫn đầu các đại thần tiến nhập vương cung, ép Thái hậu thoái vị[8][11]. Bác ruột Long Cơ là Trung Tông Võ Hiển, bị Thái hậu phế truất năm 684, trở lại ngôi vua, tái lập nhà Đường. Những hoàng thân bị thái hậu đổi họ trước đây đều được đổi sang họ Lý như cũ, do đó Võ Long Cơ được đổi là Lý Long Cơ.
Tháng 4 ÂL năm 708, Lý Long Cơ được phong làm Lộ châu biệt giá. Đầu năm 709, ông được đổi phong làm Ngân Thanh Quang Lộc đại phu. Trong khoảng thời gian đó, rất nhiều lần khi Long Cơ xuất hiện thì thiên địa xuất hiện dị tượng.
Cuối thời Đường Trung Tông, Vi hoàng hậu và công chúa An Lạc nắm giữ triều chính, muốn xưng đế như Võ Tắc Thiên trước đây, nhưng Trung Tông trước sau không đồng ý. Lý Long Cơ biết thế Vi hậu rất lớn, nên cũng âm thầm chuẩn bị lực lượng, chiêu tập nghĩa sĩ để chống lại Vi hoàng hậu.
Tháng 4 ÂL năm 710, Đường Trung Tông thân giá đến phủ đệ của Lý Long Cơ, ở đây Trung Tông tham dự yến tiệc do ông tổ chức và sai làm một chiếc thuyền, cho Long Cơ điều khiển.

Thời Đường Duệ Tông

Chính biến chống Vi hậu

Ngày Nhâm Ngọ tháng 6 năm 710, Đường Trung Tông bị mẹ con Vi hoàng hậu bỏ thuốc độc và qua đời[12]. Vi hoàng hậu nhân đó cho lập Ôn vương Lý Trọng Mậu làm đế, và tự lâm triều thính chánh, dần tiến tới việc xưng nữ đế. Phe cánh của Vi Thái hậu là Vi Ôn, Tông Sở Khách thấy Hoàng đệ Lý Đán là mối đe dọa lớn đối với Vi hậu, nên định diệt trừ.
Bấy giờ trong triều, Thị lang bộ binh Thôi Nhật Dụng vốn thân thiện với gian thần Tông Sở Khách, biết Sở Khách và Vi Thái hậu có ý làm bậy, sợ bị liên lụy, bèn sai hòa thượng chùa Bảo Xương là Nhuận Mật báo với Lý Long Cơ. Bấy giờ Long Cơ bị bãi chức Lộ châu biệt giá, ở trong kinh thành chiêu kết được nhiều dũng sĩ, nghe được tin này, bèn liên lạc với cô ruột là Công chúa Thái Bình mưu trừ Vi Thái hậu. Long Cơ, Thái Bình cùng các đại quan Tiết Sùng Giản, Chung Thiệu Kinh, Vương Sùng Diệp, Lưu U Cầu, Ma Tự Tông... hợp sức với nhau bàn kế hoạch. Đại quan khác là Trần Huyền Lễ thấy Long Cơ có tướng mạo anh tuấn khác thường, nên vô cùng khâm phục, cũng xin dùng cái chết cho đại nghiệp của ông[13]. Có người xin Long Cơ báo trước việc với cha là Lý Đán, ông nói
Hành động lần này là cứu cho xã tắc, sự thành thì phúc về Tương Vương (Lý Đán), không thành thì chỉ một thân chết, không dám để liên lụy đến Vương. Vả lại, nay bái kiến mà nói ra, thì Vương sẽ do dự mà không đồng ý, đó là kế bại.[12]
Rồi ông không báo cho Lý Đán hay. Ngày Canh Tý (21 tháng 7) năm 710, Lý Long Cơ cùng Lưu U Cầu dẫn tướng sĩ tiến vào cửa Huyền Vũ. Cát Phúc ThuậnLý Tiên Phù xin xung phong đi trước, vào doanh Vũ Lâm, chém chết Vi Tuyền, Vi Bá là thân thích của Vi Thái hậu. Các tướng sĩ Vũ Lâm quân cũng ghét Vi Thái hậu sát hại tiên vương, bèn cùng nhau hưởng ứng, kéo vào cung. Long Cơ đóng ở ngoài cửa Huyền Vũ, sai các tướng chia nhau tiến vào cung. Vi hậu bỏ trốn, bị một người phi kị chém đầu, nộp cho Long Cơ. Công chúa An Lạc đang soi gương trang điểm cũng bị chém chết cùng chồng là Võ Diên Tú. Chiêu dung Thượng Quan Uyển Nhi, người trước đó đã xúi Vi hậu xưng nữ đế, nghe tin bèn ra tiếp đón, thảm thiết van xin tha mạng. Long Cơ không nghe, sai chém đầu[14]. Cuộc chính biến được sử sách gọi là Cách mệnh Đường Long kết thúc thắng lợi, toàn bộ bè đảng họ Vi bị diệt trừ.

Lên làm thái tử

Lý Long Cơ sai giết hết thân tín của Vi Thái hậu và toàn bộ nhà họ Vi rồi sang ngày Tân Tị (14 tháng 7, Long Cơ đến yết kiến phụ thân là Lý Đán, khấu đầu tạ tội. Lý Đán không trách cứ ông. Sau đó ông đón phụ thân vào cung nhập phụ cho Đường Thương Đế. Lý Long Cơ ép Thương Đế lập mình làm Bình vương, Kiêm tri nội ngoại nhàn cứu, Áp tả hữu sương vạn kị...
Ngày Quỹ Mão (24 tháng 7), dưới sự sắp đặt của Công chúa Thái Bình, Đường Thương Đế hạ chiếu truyền ngôi cho Tương vương Lý Đán. Lý Đán trở lại ngôi lần thứ hai[15]. Lý Long Cơ được cân nhắc làm Điện trung giám.
Sau khi phục vị, Đường Duệ Tông cân nhắc việc lập thái tử, giữa con đích trưởng là Tống vương Lý Thành Khí cùng Lý Long Cơ, người con lập được nhiều công trạng. Nhưng Thành Khí lại xin nhường ngôi cho Long Cơ. Duệ Tông bèn quyết định lập Long Cơ làm thái tử. Long Cơ cố từ nhiều lần, sau cùng chấp nhận. Ngày Đinh Tị (26 tháng 7), ông được lập làm Hoàng thái tử.[12]

Mâu thuẫn với công chúa Thái Bình

Công chúa Thái Bình trước kia ủng hộ Lý Long Cơ làm thái tử, vì cho rằng ông là người dễ khống chế. Nhưng về sau, nhận thấy Long Cơ có khí chất phi thường, nên hối hận và muốn phế ông đi. Hai bên rơi vào thế đối đầu nhau, chia làm hai phe phái trong triều. Nhiều lần bà ta nói với Đường Duệ Tông rằng thái tử không phải con trưởng, không thể lập được. Nhưng Duệ Tông không nghe. Công chúa Thái Bình lại bố trí nhiều tai mắt bên cạnh thái tử, tìm cơ hội tố cáo nếu thấy thái tử có việc gì không đúng đắn, nên ông rất bất an.
Đầu năm 711, Thái Bình công chúa nhiều lần tố cáo Long Cơ mưu phản, lại mua chuộc đại thần Vi An Thạch. Duệ Tông bắt đầu nghi ngờ thái tử, triệu An Thạch vào hỏi ý, nhưng An Thạch cố gắng khuyên can và bênh vực cho thái tử, nên bị Thái Bình ghét bỏ. Thái Bình tố cáo An Thạch, nhưng An Thạch được Quách Nguyên Chấn xin giúp nên không bị trị tội. Các đại thần Tống Cảnh, Diêu Nguyên Chi cũng ủng hộ thái tử, tây với Duệ Tông nên đưa những người con trai khác cùng Bân vương Lý Thủ Lễ - con Chương Hoài thái tử Lý Hiền, cháu đích tôn của Cao Tông - ra làm Thứ sử các châu và an trí Thái Bình cùng các con ở kinh đô. Duệ Tông chấp nhận do các con ra khỏi kinh thành, song vẫn giữ tự do cho công chúa Thái Bình.
Công chúa Thái Bình đang ở Sơn Tây, nghe vậy tức giận, uy hiếp Lý Long Cơ phải tố cáo Tống Cảnh và Lý Nguyên Chi mưu phản. Biết mình thế yếu, Long Cơ phải chấp nhận, xin đuổi hai đại thần xuống các châu, các thân vương bị đẩy khỏi kinh đô cũng được trở về. Bấy giờ, bảy vị tể tướng trong triều có tới bốn là tay chân của Thái Bình, chỉ còn hai người theo phe Long Cơ, thế lực của ông thua kém hẳn Thái Bình.
Tháng 7 cùng năm, Long Cơ xin nhường ngôi thái tử cho anh là Thành Khí, Duệ Tông lo lắng, không đồng ý. Long Cơ nhân đó xin cho Thái Bình về kinh, Duệ Tông vì muốn trấn an ông, đành phải chấp thuận. Sau đó Duệ Tông bắt đầu giao các việc nhỏ trong triều cho Lý Long Cơ giải quyết.

Thịnh trị Khai Nguyên

Thụ thiện xưng đế

Hình vẽ một đoàn ngựa được triều cống cho Đường Huyền Tông, vẽ vào thế kỉ XII thời nhà Tống
Tháng 8 năm 712, trên bầu trời xuất hiện dị tượng, sao Tuệ Tinh ra hướng tây, kinh Hiên viên nhập vào Thái vi là điềm sắp thay đổi triều đại. Công chúa Thái Bình do muốn muốn hại Long Cơ, bèn sai bọn thuật giả báo việc này và nói thái tử sẽ lên ngôi hoàng đế, mục đích để cho Duệ Tông giết chết Long Cơ trừ hậu hoạn. Nhưng Duệ Tông cho rằng nên nhân cơ hội này, truyền ngôi cho Long Cơ cũng có thể trừ được nạn. Công chúa Thái Bình cực lực phản đổi, nhưng không có kết quả.
Sau đó, Duệ Tông triệu Long Cơ vào cung, tỏ ý muốn nhường ngôi. Long Cơ cố từ chối, nhưng sau cùng chấp nhận. Ngày 31 tháng 8, Duệ Tông hạ chiếu nhường ngôi. Ngày Canh Tí (8 tháng 9) năm 712, Lý Long Cơ tức hoàng đế vị, tự xưng là Đường Huyền Tông, đổi niên hiệu là Tiên Thiên[9]. Thái Bình muốn kiềm chế Long Cơ, bèn xin Thượng hoàng Duệ Tông tiếp tục nắm quyền lực, cứ năm ngày ra triều một lần[16].
Tuy nhiên mâu thuẫn giữa ông với Công chúa Thái Bình vẫn tiếp diễn. Đại thần Lưu U Cầu dâng thư tố cáo bè đảng của công chúa Thái Bình tố cáo bọn Đậu Hoài Trinh, Thôi Thực mưu đồ bất chính, cần trị tội. Thái Thượng hoàng ra lệnh hạ ngục Lưu U Cầu vì tội vu cáo, Huyền Tông chỉ có cách thuận theo.
Khoảng đầu năm 713, Thượng hoàng khuyên Đường Huyền Tông đến tuần tra biên giới phía bắc, tuyển sĩ tốt ở các quận gia nhập quân đội. Tuy nhiên sau đó bọn sĩ tốt mới nhập ngũ bị giải tán, Huyền Tông cũng không đến phía bắc nữa.

Diệt bè đảng của công chúa Thái Bình

Công chúa Thái Bình ỷ việc Huyền Tông còn nắm quyền, ra sức nhờ vào đó tác oai trong triều và thường xảy ra hiềm khích với Huyền Tông. Một nửa đại thần trong triều đều là vây cánh của bà ta. Công chúa liên kết với các đại thần Đậu Hoài Trinh, Sầm Hi, Tiêu Chí Trung, Thôi Thực, Tiết Tắc, Lý Tấn, Thường Nguyên Giai, Lý Từ, Lý Khâm, Lý Du, Giả Ưng Phúc, Tăng Huệ Phạm... mưu phế Huyền Tông lập vua khác.
Công chúa mua chuộc cung nhân, lén bỏ thuốc độc vào đồ ngự dùng của Huyền Tông để giết chết ông, nhưng việc bị phát giác. Đại thần Vương Cư khuyên Thượng hoàngnên mau chóng hành động. Thứ sử Kinh châu Thôi Nhật Dụng cũng khuyên ông diệt trừ công chúa Thái Bình. Ông chấp nhận, nhưng quyết định chỉ nên bí mật ra tay, không nên làm kinh động Thái thượng hoàng.
Tháng 8 năm 713, có người tố cáo Công chúa Thái Bình mưu phản lên Huyền Tông. Cùng lúc đó, công chúa sai Thường Nguyên Giai đột nhập vào điện Vũ Đức, Tiêu Chí Trung và Đậu Hoài Trinh tiếp ứng. Huyền Tông cùng các thân vương Lý Kì, Lý Phạm, Lý Nghiệp và các đại thần Quách Nguyên Chấn, Vương Mao Trọng, Khương Kiểu, Lý Lệnh Vấn, Vương Thủ Nhất, Cao Lực Sĩ, Lý Thủ Đức... lập kế diệt trừ[16].
Mấy hôm sau, ngày Giáp Tí tháng 6 (29 tháng 7) năm 713 Huyền Tông cùng các đại thần trung thành đưa quân từ Vũ Đức điện tiến vào Kiềm Hóa môn, giết Triệu Nguyên Giai và Lý Từ, bắt giam Giả Ưng Phúc, Tiêu Chí Trung, chém ở giữa triều. Đậu Hoài Trinh bỏ trốn và tự tử. Huyền Tông sai đổi họ của Hoài Trinh thành Độc và giết chết bè đảng của Hoài Trinh. Ông ra lệnh xá thiên hạ, trừ những đồng mưu của công chúa. Tiết Tắc bị bức tử trong ngục.
Ngày Ất Sửu (30 tháng 7), Thượng hoàng ra lệnh giao lại quyền hành trong triều cho Huyền Tông, chuyển sang sống ở điện Bách Phúc. Từ đó ông hoàn toàn nắm giữ quyền lực trong triều. Công chúa Thái Bình trốn vào một ngôi chùa, sau bị phát hiện và bị Huyền Tông ban chết ở nhà. Tuy nhiên, ông tha cho con trai công chúa là Tiết Sùng Giản, nhưng buộc đổi sang họ Lý. Toàn bộ tài sản của công chúa bị tịch thu. Cùng tháng đó, Khả hãn Mặc Xuyết của Đột Quyết sai người sang nhà Đường cầu hôn. Huyền Tông gả Nam Hòa huyện chủ cho Mặc Xuyết.

Nền chính trị vững chắc

Tranh vẽ Đường Minh Hoàng và Trương Quả Lão
Cuối năm 713, Đường Huyền Tông đổi niên hiệu thành Khai Nguyên năm thứ nhất, xưng tôn hiệu là Khai Nguyên Thần Vũ hoàng đế. Từ đó mở đầu thịnh trị Khai Nguyên, một thời đại huy hoàng về chính trị, văn hoá, quân sự... trong lịch sử nhà Đường.
Huyền Tông phong đại thần Diêu Nguyên Chi, một quan lại chính trực, làm tể tướng. Đại thần Khương Kiểu chì chiết Nguyên Chi, bị ông trách phạt nặng nề, sau đó bái Nguyên Chi làm Binh bộ thượng thư, Đồng trung thư môn hạ tam phẩm, tức Tể tướng. Trong những năm đầu thời đại của Huyền Tông, số lượng tể tướng trong triều được hạn chế ở số 2,3. Ông lập vợ là Trương thị làm Hoàng hậu. Nhưng do Hoàng hậu không con, nên người con của Triệu Lệ Phi được Huyền Tông sủng ái là Lý Tự Khiêm được phong làm Thái tử[17]
Đại thần Diêu Nguyên Chi thỉnh cầu cho lang lại có thể tự tiến cử mình, báo tới ba lần mà Huyền Tông không đáp ứng. Sau khi bãi triều, hoạn quan thân cận Cao Lực Sĩ can gián, nhưng ông nói đại sự trong triều phải do chung các đại thần cùng quyết nghị, không thể chỉ xin mỗi ý kiến của mình, rồi tuyên cáo cho quần thần cùng bàn định. Người trong nước cảm phục về tài trí của ông.
Diêu Nguyên Chi[18] tất được Huyện Tông hài lòng. Ông muốn giao hết triều chính cho Diêu Sùng giải quyết, nhưng Diêu Sùng không hiểu ý khiến Huyền Tông không hài lòng. May nhờ có Cao Lực Sĩ đứng ra giải hoà, cho Diêu Sùng hay ý vua, từ đó Diêu Sùng chưởng quản triều định, tiến cử trung lương, trừng phạt gian thần, trở thành vị tể tướng giỏi của nhà Đường.
Cuối năm 713, đầu năm 714, Đường Huyền Tông lần lượt cho đổi tên một số cơ quan và địa danh trong nước: đổi chức Thượng thư tả hữu bộc xạ làm Tả và Hữu thừa tướng; đổi Trung thư tỉnh thành Tử vi tỉnh, Trung thư lệnh thành Tử vi lệnh (chức này giao cho Diêu Sùng); đổi Môn hạ tỉnh làm Hoàng môn tỉnh; hai châu Ung, Lạc bị đổi làm phủ Kinh Triệu và Hà Nam...[19]
Sang năm 714, Huyền Tông hạ lệnh bãi chức và lưu đày nhiều quan lại độc ác dưới thời Võ Tắc Thiên, lợi dụng quyền cai ngục mà dùng cực hình chà đạp phạm nhân, xâm hại bách tích như Chu Lợi Trinh, Vương Tiên Đồng, Ngụy Tri Cổ,... Sau đó ông bỏ nhiệm Lư Hoài Thận cùng Diêu Sùng đảm nhận chức Thừa tướng, nhưng tài năng của Diêu Sùng vẫn vượt trội Hoài Thận, do đó lấn át Hoài Thận. Năm 715, Hoài Thận tiến cử Thái thường khanh Mã Hoài Tố lên Huyền Tông, ông phong Hoài Tố làm Tả tán kị thường thị.
Cuối năm 7 năm 716, Thượng hoàng Duệ Tông băng hà. Huyền Tông ép con gái mình là công chúa Vạn An làm nữ quan, cầu phúc cho vong linh của Thượng hoàng[20].
Tháng 11 Âl năm 716, Lư Hoài Thận bị bệnh gần mất, bèn tiến cử các đại thần là Tống Cảnh, Lý Kiệt, Lý Triều Ẩn, Lư Tòng Nguyện lên Huyền Tông, sau đó thì mất. Huyền Tông trọng dụng tất cả những người trên. Còn Diêu Sùng không có phủ đệ, phải sống trong chùa Võng Cực, đến lúc đó lấy cớ bị bệnh mà không yết triều. Từ đó mỗi khi có việc lớn không giải quyết được, Huyền Tông đều đến chùa này để gặp hỏi ý Diêu Sùng. Sau đó ông chuyển Sùng sang Tứ phương quán dưỡng bệnh. Tuy nhiên về sau, các con Diêu Sùng bị dính vào một vụ án mưu phản và bị giết, Diêu Sùng buồn rầu không muốn dự triều nữa, bèn từ chức Tể tướng, tiến cử Tống Cảnh lên ngay. Huyền Tông nghe theo.[21] Từ đó Tống Cảnh giữ chức Tể tướng trong triều. Còn Diêu Sùng tuy không còn tham gia chính quyền, nhưng vẫn có ảnh hưởng tới Huyền Tông, nhiều lần vẫn được Huyền Tông hỏi ý kiến đến tận lúc mất (721). Chủ trương chính trị của Tống Cảnh trái với Diêu Sùng, ông chủ trương tôn trọng pháp luật, mọi việc đều làm theo luật và thường can gián thẳng thừng. Đơn cử như vào năm 719, đại thần Vương Nhân Kiểu mất, người nhà muốn làm mả cao năm trượng một thước, nhưng Tống Cảnh không đồng ý vì theo nghi lễ, phần mộ đại thần cao nhất chỉ tới ba trượng. Tuy không hợp ý với Huyền Tông nhưng nói chung thời Tống Cảnh làm tể tướng, quan hệ quân thần trong triều vẫn tốt đẹp. Từ năm 717, Huyền Tông hạ lệnh cho Diêu Sùng được phép năm ngày mới vào triều yết một lần.
Năm 718, Huyền Tông cho khôi phục lại Tử Vi tỉnh và Hoàng môn tỉnh thành Trung thư và Môn hạ tỉnh như cũ. Trong khi đó trong triều, dưới thời Tống Cảnh làm tể tướng, chính trị vẫn ổn định. Tống Cảnh được người dân quý mến, muốn lập đền thờ, nhưng ông xin Huyền Tông cấm làm việc này.
Từ thời Huyền Tông, chính sự bắt đầu có sự can thiệp của hoạn quan, đó là Cao Lực Sĩ. Lực Sĩ hầu hạ bên cạnh Huyền Tông từ thời ông còn trẻ, nên rất được Huyền Tông tin tưởng. Lực Sĩ từng nhiều lần dàn xếp mối quan hệ vua tôi trong triều, nhưng cũng căm ghét một số đại thần không ưa mình. Năm 719, Huyền Tông phong cho đại thần Vương Mao Trọng làm Thái bộc khanh và trọng dụng ông ta. Vương Mao Trọng đố kị nhiều đại thần trong triều. Tuy có phủ đệ ở ngoài nhưng ông ta lại thường đến nội trạch trong cung để ở, lại tỏ ra hống hách với các quan lại. Cao Lực Sĩ và Dương Tư Úc ghét ông ta, định tìm cơ hãm hại.
Từ cuối năm 719, Huyền Tông bắt đầu nghi ngờ Tống Cảnh về chuyện ông có bí mật kiếm chác trong vụ tịch thu tiền giả, không còn tin tưởng nữa. Sang năm 720, ông bãi chức Tể tướng của Tống Cảnh[22], sau đó bổ nhiệm Trương Gia TrinhNguyên Can Diệu làm tể tướng.[23]. Nguyên Can Diệu chủ trương không nên trọng dụng con cháu thế tộc mà không có công huân, nên tự mình xin Huyền Tông cho bãi chức hai người con, cho ra làm việc ở các châu. Sau đó các quan khác cũng đành hưởng ứng xin theo, tổng cộng hơn 100 công tử quý tộc được hưởng phụ ấm bị chuyển sang các châu quận làm việc. Còn Trương Gia Trinh cũng là một nhà chính trị có khả năng, nhưng không bằng Diêu Sùng, Tống Cảnh. Lúc làm tể tướng, ông ta tiến cử bốn quan đại thần gồm Miêu Diên Tự, Lã Thái Nhất, Viên Gia Tĩnh, Thôi Huấn. Bốn người này được tham gia quyết định chính sự trong triều, cũng có nhiều quyền lực. Sang tháng 9 ÂL năm 721, Huyền Tông lại bổ nhiệm Trương Thuyết làm Đồng trung thư môn hạ tam phẩm, do đó trong triều đình có tới 3 tể tướng.
Tết năm 723, Huyền Tông rời Trường An đến tuần du phương bắc, tháng 3 ÂL về kinh. Trong lúc đó tại triều, hai tể tướng Trương Gia Trinh, Trương Thuyết bất hòa với nhau, Trương Thuyết gièm pha Trương Gia Trinh với Huyền Tông, do đó Huyền Tông biếm Gia Trinh làm Thứ sử U châu.[24]. Sau đó Trương Thuyết được phong Trung thư lệnh, trở thành tể tướng nắm quyền lực cao nhất. Đến tháng 4, Huyền Tông phong Vương Jun làm Binh bộ thượng thư, Đồng trung thư môn hạ tam phẩm, thay thế vị trí của Trương Thuyết. Nhưng đến cuối năm đó, do Vương bị tố cáo có ý tạo phản, nên bị Huyền Tông biếm chức làm Thứ sử Kì châu.
Cuối năm 723, quần thần đề nghị Huyền Tông làm lễ phong thiền (tế trời). Về việc này, hai tể tướng Nguyên Can DiệuTrương Thuyết trái quan điểm, trong khi Can Diệu khuyên vẫn chưa tới thời cơ thích hợp, nhưng Trương Thuyết thì ngược lại. Do đó giữa hai người sinh ra bất bình. Nghi lễ cuối cùng được tổ chức vào năm 725.
Năm 726, thấy Huyền Tông có ý trọng dụng các đại thần Thôi Ẩn Phủ và Lý Lâm Phủ, Vũ Văn Dung, Trương Thuyết sinh lòng ghen ghét, sau đó Huyền Tông phong Thôi Ẩn Phủ làm Ngự sử đại phu, do đó Thuyết oán Ẩn Phủ. Tháng 4 ÂL năm 726, Thôi Ẩn PHủ, Vũ Văn Dung và Lý Lâm Phủ tố cáo Trương Thuyết nhận hối lộ. Huyền Tông tức giận, cho bãi chức Trương Thuyết. Tuy nhiên sau đó ông nghe theo hoạn quan Cao Lực Sĩ, vẫn giữ cho Trương Thuyết một số chức vụ lớn trong triều và bỏ qua tội hối lộ. Không lâu sau, ông phong cho Lý Nguyên Hoành làm Trung thư thị lang, Đồng bình chương sự (Tể tướng) thay vào vị trí của Trương Thuyết. Tháng 9 ÂL cùng năm, Huyền Tông tiếp tục phong cho Đỗ Xiêm làm Tể tướng thứ ba[25].
Năm 727, thấy Huyền Tông lại nhớ đến Trương Thuyết, Vũ Văn DungThôi Ẩn Phủ lo sợ, bèn dâng sớ đàn hặc Thuyết. Huyền Tông không tin, lại cho biếm Vũ Văn Dung đến Ngụy châu, bắt Ẩn Phủ về nhà dưỡng bệnh cho mẹ. Tháng 11 ÂL năm 728, Huyền Tông phong đại thần Tiêu Tung làm Đồng bình chương sự, từ đó nhà Đường có thêm một tể tướng nữa.
Trương Gia Trinh rồiTrương Thuyết, Lý Nguyên Hoành... được phong tể tướng rồi bị phế truất, chỉ có Nguyên Can Diệu tại vị được lâu hơn cả, là do ông ta luôn nhún nhường các đại thần khác, không dám lấn át họ, do đó chức vị tể tướng của Can Diệu cũng không làm được gì. Năm 729, Lý Nguyên Hoành cùng Đỗ Xiêm bất hòa, thường tố cáo nhau trước mặt Huyền Tông. Tháng 6 ÂL, Huyền Tông sai biếm chức cả hai người, và bãi chức Thị trung của Nguyên Can Diệu, nhưng vẫn để ông ta giữ chức Tả thừa tướng.[26] Ông lấy Bùi Quang Đình làm Trung thư thị lang, Tiêu Tung làm Trung thư lệnh.
Mùa thu năm đó, khi em họ Huyền Tông là Tín An vương Y vào triều kiến, Vũ Văn Dung dâng sớ chì chiết ông ta, nhưng Y đã vào cung thỉnh tội với Huyền Tông. Do đó Huyền Tông tin tưởng Lý Y và nghi ngờ Vũ Văn Dung, bèn đày ra Nhữ châu[27], mấy năm sau lại biếm sang Nham Châu, cuối cùng ông ta uất ức mà chết.
Lúc đó Vương Mao Trọng tuy không làm tể tướng nhưng rất được tin dùng. Ông ta cùng Cát Phúc Thuận, Lý Thủ Đức, Vương Cảnh Diệu... trở thành một nhóm thế lực trong triều, khinh rẻ các đại thần khác. Cuối năm 730, hoạn quan Cao Lực Sĩ vốn được Huyền Tông tin yêu, không hài lòng với Mao Trọng, bèn nhân lúc vợ ông ta sinh con trai, xin Huyền Tông cho mình đến chúc mừng. Huyền Tông bèn nhờ Lực Sĩ mang rượu đến chúc mừng và phong tiểu công tử làm quan ngũ phẩm. Khi Lực Sĩ trở về, Huyền Tông hỏi về thái độ của Vương Mao Trọng, Lực Sĩ bảo Vương Mao Trọng đòi cho con mình làm quan tam phẩm, khiến Huyền Tông cực kì tức giận.
Đầu năm 731, Huyền Tông sai biếm Vương Mao Trọng làm Nhương châu biệt giá, các đại thần cùng cánh cũng bị đày đến châu xa, sau đó Huyền Tông lại sai người đến ban rượu độc cho Mao Trọng.[28]. Từ đó Huyền Tông càng tin tưởng Cao Lực Sĩ, Lực Sĩ chính là người mở đầu cho nạn hoạn quan tham chính trong những năm nửa cuối triều Đường.
Tháng 3 ÂL năm 733, Bùi Đình Quang chết, Huyền Tông theo ý kiến của Tiêu Tung, bổ nhiệm Vương Khâu thay làm Tể tướng, nhưng Vương Khâu từ chối và đề cử đại thần Hàn Hưu. Do đó Hàn Hưu được phong Hoàng môn thị lang, Đồng bình chương sự. Ban đầu Hàn Hưu cùng Tiêu Tung hòa hợp, nhưng sau đó chuyển sang bất hòa. Huyền Tông biết chuyện, tháng 10 ÂL cùng năm đó bãi chức cả hai, lấy Bùi Diệu KhanhTrương Cửu Linh cùng lên thay đảm nhận chức Tể tướng.

Quân sự và ngoại giao thời kì đầu

Về quân đội, Huyền Tông tiến hành cải cách phủ binh chế. Năm 723, Ông thiết lập chế độ mướn quân. Chế độ này một mặt vừa có thể giải trừ được nổi khổ đi lính ở dân chúng ở các nơi, mặt khác lại có thể thu hút đội ngũ thất nghiệp, làm dịu mậu thuẫn xã hội. Huyền Tông còn giải quyết về vấn đế lương thực cho quân đội. Năm 717, quân Đường đã thu tới 13 châu đã rơi vào tay giặc suốt 17 năm. Huyền tông còn muốn mở rộng đất đai nên đã đem quân sang xâm chiếm bán đảo Triều Tiên, củng cố nền thống trị ở An Nam. Danh tiếng của nhà Đường ngày càng lừng lẫy, những nước Ả rập và La Mã cử ngay người sang để đi sứ, giao hảo và học hỏi Đại Đường. Đất nước ngày càng cường thịnh.

Khiết Đan và Hề

Tháng 12 năm 713, nước Thổ Phiên (Tây Tạng) sau nhiều lần xung đột đã gửi sứ sang giảng hoà với nhà Đường. Tuy nhiên không lâu sau hai nước tiếp tục xảy ra xung đột.
Thời Võ Tắc Thiên, quân đội nước Khiết Đan và Hế nhân lúc vùng Doanh châu hỗn loạn đã xua quân chiếm lấy. Đầu năm 714, tướng quân Tiết Nột dâng sớ xin Huyền Tông hỗ trợ quân khôi phục lại Doanh châu. Tuy Diêu Sùng nhiều lần can gián, nhưng Huyền Tông không chấp nhận. Mấy tháng sau, ông sai Tiết Nột dẫn quân tiến công Khiết Đan, nhưng bị quân Khiết Đan phục kích đánh tan, chết đến 8,9 phần[19]. Cùng năm 714, Đỗ Tân KháchThôi Tuyên Đạo cũng xuất quân đánh Khiết Đan và lại thảm bại.
Năm 717, đại thần Tống Khánh lại dâng biểu xin thu phục lại Doanh châu. Tháng 3 ÂL cùng năm, Huyền Tông cho xây thành trong địa phận gần Doanh châu để chuẩn bị việc tấn công, từ đó nhà Đường thu phục lại 13 quận Doanh châu. Thành xây xong trong ba tuần, nhiều người dân lưu tán trong vùng cũng nhân cơ hội được tụ họp trở về làm ăn. Mấy năm sau, vùng đất đó lại sung túc.
Thấy nhà Đường giàu mạnh, Khiết Đan tạm thời xin quy phục. Cuối năm 717, vua Khiết Đan là Lý Thất Hoạt đến triều kiến Huyền Tông. Sang cuối năm 719, vua mới của Khiết Đan[29] cùng công chúa được Huyền Tông gả sang trước đó cũng đến triều kiến. Sang năm 721, Huyền Tông lại phong cho Diêu huyện chủ Mộ Dung thị làm Yến quận công chúa, gả cho vua Khiết Đan là Lý Úc Can.
Năm 730, đại tướng Khiết Đan là Khả Đột Can giết vua Lý Thiệu Cố, sau đó uy hiếp Hề Quốc cùng mình hàng Đột Quyết. Vua Hề Quốc Lý Lỗ Tô cùng thê thiếp bỏ trốn. Huyền Tông cử Triệu Hàm Chương, Vương Tuấn Lĩnh, Lý Triều Ẩn đem quân thảo phạt, và chiêu mộ thêm dũng sĩ. Năm 732, ông cử thêm Lý Y cùng tiến đánh Hề và Khiết Đan. Quân của Y đại phá được quân hai nước, giết rất nhiều người, nhưng để Khả Đột Can chạy thoát. Sau đó Hề Quốc gửi sứ sang đầu hàng.
Năm 733, Quách Anh Kiệt bị quân Khiết Đan giết ở Đô Sơn. Sau đó, Tiết độ sứ Tiết Sở Ngọc dẫn 10.000 quân hợp sức với Hề Quốc công đánh Khiết Đan, nhưng quân Hề sợ hãi bỏ trốn. Quân Đường gặp cảnh bất lợi, cuối cùng Anh Kiệt bị giết, hơn 6000 quân còn lại không đầu hàng đều bị Khả Đột Can giết hại.

Đột Quyết

Tháng 2 ÂL năm 713, Khã hãn Đột QuyếtMặc Xuyết sai con là Đồng Nga Đặc Lặc, em vợ Hỏa Bạt Hiệt Lợi cùng tướng Thạch A Thất công đánh Bắc Đình đô hộ phủ, nhưng bị quân Đường kích bại, Đồng Nga bị quân Đường chém chết, Mặc Xuyết đau đớn dẫn quân về.
Tháng 2 nhuận, Huyền Tông lấy Hồng Lư thiếu khanh, Sóc Phương phó đại tổng quản Vương Khuê kiêm làm An Bắc đại đô hộ, Sóc Phương đạo hành quân đại tổng quản, cho cai trị thêm ba thành Phong An, Định Viễn, Hàng Thành... để phòng bị Đột Quyết xâm lấn.
Tháng 4 ÂL năm 714, do công chúa trước kia được Trung Tông gả cho Mặc Xuyết đã chết, Mặc Xuyết lại đến nhà Đường xin cầu hôn với một nàng công chúa nữa, trong thư xưng là phò mã, Thánh Thiên Cốt Độc Lộc Khã hãn. Huyền Tông chấp nhận, gả công chúa sang Đột Quyết.[30]. Từ đó mặc dù thỉnh thoảng vẫn xảy ra xung đột, nhưng nói chung quan hệ giữa hai bên vẫn tốt đẹp. Tuy nhiên sang năm sau, khi Mặc Xuyết già cả thì sinh ra bạo ngược, nhiều tù trưởng không phục, một số quy hàng nhà Đường.
Năm 716, Mặc Xuyết đem quân đánh bộ tộc Bạt Duệ Cố nhưng bị Bạt Duệ Cố phục kích giết chết. Người Bạt Duệ Cố gói thủ cấp của Mặc Xuyết đến Trường An dâng cho nhà Đường rồi đầu hàng. Từ đó, Đột Quyết suy yếu và không còn đe dọa lớn tới nhà Đường nữa.
Tuy nhiên quân Đường vẫn đôi lúc gặp bất lợi. Như vào năm 720, khi Đột Quyết xâm lấn hai châu Cam, Lương[31], quân Đường kêu gọi Khiết Đan và Hề đem quân hỗ trợ, nhưng hai nước không cử quân, khiến quân Đường bị thua trận. Sang năm 721, hai nước mới giảng hòa. Đến giữa năm 726, Huyền Tông cho bố trí quân ở năm châu Định, Hằng, Mạc, Dịch, Thương để phòng bị Đột Quyết xâm lấn.
Về nước Đột Kị, một phần lãnh thổ Đột Quyết cũ cũng thường cất quân xâm phạm biên giới, nhưng cũng đều bị quân Đường nhanh chóng đẩy lui. Mùa thu năm 735, Đột Kị phải cầu hòa với nhà Đường.

Thổ Phiên

Trong khi đó nước Thổ Phiên liên tục xâm phạm biên giới với Đường. Ngày Kỉ Dậu tháng 5 năm 714, tướng Thổ Phiên Bộn Đạt Diên dâng thư xin giảng hòa, triều đình nghi ngờ đó là kế li binh của Thổ Phiên, nên Huyền Tông sai truân 100000 quân ở hai châu Tần, Vị để đề phòng. Về sau, tuy cũng nhiều lần dâng thư minh ước nhưng Thổ Phiên vẫn dòm ngó nhà Đường.
Tháng 8 ÂL năm đó, tướng Thổ Phiên lại dẫn quân cướp phá Lâm Thao. Huyền Tông sai Tiết Nột cùng Quách Tri Vận ra chống cự, lần này quân Đường đẩy lui được Thổ Phiên. Tháng 10 ÂL, khi Thổ Phiên lại đến xâm lấn Vị Nguyên, Huyền Tông cho chuẩn bị hơn 100000 quân và 40000 con ngựa, dự định đích thân xuất chiến. Sau đó, Tiết Nột thắng được Thổ Phiên ở Vũ Nhai, Huyền Tông bèn bỏ ý định thân chinh. Sau đó Thổ Phiên sai đại thần giảng hòa, Huyền Tông không chấp nhận, do đó trong những năm sau, Thổ Phiên liên tục xâm phạm biên cương.
Đầu năm 716, quân Đường do Tôn Nhân Hiến chỉ huy đánh tan quân Đột Quyết xâm phạm ở thành Tùng Châu. Cùng năm đó, Huyền Tông chấp nhận lời thỉnh hòa của Thổ Phiên. Tuy vậy hai bên vẫn không ngừng nổ ra chiến sự. Năm 717, Quách Tri Vận một lần nữa thắng quân Thổ Phiên tại Cửu Khúc. Sang năm 718, Thổ Phiên vương lại sang cầu hòa với nhà Đường[32]. Đến năm 722, nhà Đường đánh bại Thổ Phiên một trận lớn, giết hơn 10.000 người; từ đó Thổ Phiên không dám xâm phạm biên cương suốt mấy năm.
Đến khi quốc lực trở lại hùng mạnh, Thổ Phiên lại bắt đầu xuất quân gây hấn, nhưng vẫn bị quân Đường áp đảo. Liên tiếp ba lần trong năm 727, quân Đường đánh bại được Thổ Phiên ở phía tây Thanh Hải. Về sau, Huyền Tông lại cho bố trí từ các châu quận khác khoảng 56.000 quân đến Lũng Đạo, 40.000 quân ở Hà Tây, 10.000 quân đến âm Thao, 20.000 đến Hội châu để phòng thủ. Đến đầu mùa đông năm 727, thấy Tổ Phiên không đánh nữa, số quân này được lệnh về quê cũ.
Năm 728, tướng Tất Mạc Lang của Thổ Phiên xâm nhập Quá châu. Đô đốc Trương Thủ Khuê được lệnh xuất quân bình dẹp. Sau đó các tướng Tiêu Tung và Trương Trung Lượng tiếp tục đại phá Thổ Phiên ở Khát Ba Cốc rồi tiến sang đất Thổ Phiên, bắt nhiều người dân đem về. Về sau, quân Thổ Phiên lại bại trận ở Liên Thành. Khi Thổ Phiên lại sang cướp bóc, Tiêu Tung sai Tương Cương đem quân đánh dẹp, bắt 7 đại tướng của Thổ Phiên. Tháng 3 ÂL năm 729, quân Thổ Phiên tiếp tục bị đánh bại bởi Trương Thủ KhuêGiả Sư Thuận. Tháng sau, Thổ Phiên công đánh thành Thạch Bảo, nhưng cũng thua trận. Còn đối với các bộ tộc Nam Man, trong mùa xuân năm đó, tướng Đường là Trương Thủ Tố cũng chiếm được Côn Minh và Diêm Thành, giết và bắt hơn 10.000 người. Sang tháng 5 ÂL năm 730, Thổ Phiên gửi sứ giả sang cầu hòa.[26], từ đó ít xâm phạm biên nữa.
Tháng 2 ÂL năm 732, theo đề nghị của Công chúa Kim Thành, Đường Huyền Tông sai cắm bia phân định biên giới giữa Đường và Thổ Phiên.

Các cuộc nổi loạn

Năm 721, người châu Lan Trì ở biên cương là Hồ Khang Đãi chiêu tập dân chúng các bộ tộc ít người nổi lên kháng Đường. Tháng 4 ÂL cùng năm công đánh Lục Hồ châu rồi tập hợp 70.000 người đánh tới Hạ châu. Huyền Tông sang Quách Tri Vận tiến đánh, đến tháng 7 ÂL thì bình định xong. Nhà Đường triệu tập tù trưởng các nơi đến xem tử hình Khang Đãi, để tỏ rõ uy thế.
Năm 722, Tả Lĩnh quân Quyền Sở Bích cùng Lý Tề Tổn lại nổi loạn chống Huyền Tông, tôn Quyền Lương Sơn làm Quang đế, trá xưng là con trai của Thương Đế Lý Trọng Mậu. Quân nổi loạn hơn 100 người tiến vào cung thành, nhưng bị quân hộ vệ đánh tan, Sở Bích bị chém đầu[26].
Cùng năm đó, dư đảng của Hồ Khang Đãi là Khang Nguyện Tử lại nổi loạn, tự xưng Khã hãn. Huyền Tông sai Trương Thuyết đi đánh, bình dẹp xong.
Năm 725, tướng Úy Trì Thiếu Âm hợp mưu với các bộ tộc phương bắc phản loạn, An Tây phó đô hộ là Đỗ Xiêm đem quân đánh dẹp và giết Thiếu Âm. Cùng năm 725, yêu tặc Lưu Định Cao nổi loạn, dẫn quân công đánh cửa Thông Lạc, bị quân triều đình giết chết. Năm 726, có người ở Thái Nguyên tự xưng là hoàng tử con Triệu Lệ phi, Huyền Tông không tin, sai giết chết.[32].
Đầu năm 728, Trần Hành Phạm ở Lung Đẳng châu, Hà Du Lỗ ở Quảng châu cùng nhau làm loạn, vây hơn 40 thành. Hành phạm xưng hoàng đế còn Du Lỗ xưng Định Quốc đại tướng quân. Huyền Tông sai Dương Tư Úc dẫn quân từ Quê châu và các vùng lân cận đánh dẹp. Tư Úc trảm được 6 vạn quân phản loạn, giết Hành Phạm.
Năm 732, nước Bột Hải vốn thần phục nhà Đường cũng xâm phạm biên cương, bị tướng Cát Phúc Thuận đánh bại một trận lớn, sang năm sau quân Đường tiến công Bột Hải, nhưng gặp tuyết lớn phải lui về.[33]

Văn hoá, xã hội

Tây An Đại Thanh chân tự, công trình kiến trúc được xây dựng dưới thời Đường Huyền Tông
Huyền Tông từ lúc nhỏ cũng giỏi về âm nhạc. Khi lên ngôi, ông tiếp tục chú ý phát triển các hình thức ca vũ, thường sai thân tín giỏi âm nhạc đến các phường hát chỉ dạy cho nghệ sĩ. Năm 614, ông tuyển hơn 100 nhạc công, sai sáng tác khúc Hoàng Đế lê viên đệ tử, sai cung nữ diễn tập. Sau đó còn tuyển kĩ nữ múa hát vào cung, lập Nghi Xuân Viện, để họ sống ở đó và thường sai biểu diễn ở các hội lể trong triều.[34].
Từ thời Võ Tắc ThiênĐường Trung Tông, hoàng đế sùng đạo Phật, người trong nước rủ nhau xuất gia đi tu làm mất nhiều nhân lực cho sản xuất. Trong chùa nhiều nhà sư không biết giữ giới làm mất thanh uy nhà Phật. Tháng 2 năm 714, Huyền Tông theo lời Diêu Sùng, cho trục xuất hơn 12000 nhà sư khỏi chùa. Ông cũng hạ lệnh cấm quan lại quan hệ mật thiết tăng ni để tránh chuyện nhà sư dính dáng vào triều chính, đồng thời cũng ra lệnh cấm nhân gian chú thích các kinh Phật.
Tể tướng Tống Cảnh dưới thời đảm nhiệm chức vụ cũng không thân thiện với những quan lại mê tín dị đoan, thích việc quỷ thần. Để giảm tình trạng này, ông ta cũng nhiều lần dâng sớ xin bãi miễn nhiều quan lại như vậy lên Huyền Tông, điển hình là năm 718, Huyền Tông theo lời Tống Cảnh, bãi chức của hai đại thần Lý UngTrịnh Miễn. Còn về dân chúng ở biên cương nhiều lần nổi loạn, Huyền Tông cho dời dân ở sáu châu Hà Khúc (hầu hết là người Hồ) đến các châu Hứa, Nhữ, Đường, Đặng, Tiên, Dự để dễ bề quản lý.
Trước đó, dù tình hình Trung Quốc tương đối yên bình, nhưng nhà Đường vẫn bắt nhiều quân sĩ vào quân đội mà không ban cho họ chút ưu đãi gì, khiến nhiều kẻ đào ngũ. Vì thế năm 722, Huyền Tông theo lời của Trương Thuyết, ban lệnh cho quân sĩ trong quân đội được miễn thuế thân và lao dịch, do đó nhiều người xung phong nhập ngũ. Cuối năm, nhà Đường thu thập được 13 vạn tinh binh, bèn hạ lệnh luân phiên chia thời gian trong năm nhau thành các kì hạn; đến kì thì cho binh lính vào túc trực, hết hạn thì trả về quê làm ruộng.
Ngoài ra ông cũng chú trọng tới việc sưu tầm sách vở. Lúc đầu, ông lập Thư viện Lệ Chánh, chiêu tập nhiều trí thức học giả trong nước đến đàm đạo. Năm 723, có xá nhân Lục Kiên xin miễn việc này vì không có ích gì, nhưng Huyền Tông nghe theo Trương Thuyết rằng từ xưa khi quốc gia vô sự thì đế vương có thể chú tâm đến sách vở văn học, phát huy điển tịch. Cuối năm 723, Huyền Tông tổ chức tế nam giao.[35]
Về khoa học, Huyền Tông cũng chú trọng đến ngành thiên văn. Năm 724, ông bố trí cho Nam Cung Thuyết, một nhà thiên văn nổi tiếng, thực hiện một cuộc quan sát thiên tượng ở nhiều địa điểm khác nhau trong nước.
Nhân ngày sanh nhật của mình vào năm 729, Huyền Tông triệu các đại thần đến Hoa Ngạc Lâu dự yến. Tại buổi lễ, các đại thần đề nghị Thượng hoàngmỗi năm vào giữa tháng 8 tổ chức Tiết thiên thu. Từ đó, hằng năm người dân đều tổ chức Trung thu, dần đà đây trở thành một lễ hội lớn ở Trung Quốc và các nước lân cận.

Kinh tế

Đường Huyền Tông rất chú trọng về việc phát triển kinh tế xã hội. Để nông dân có đất để ăn ở, Huyền Tông đã thẳng tay trừng trị những bọn địa chủ, quý tộc tham lam dám chiếm đoạt ruộng đất của dân. Đồng thời từ năm 712 đến năm 715, Ông đã triển khai phong trào Kiểm điền quát hộ trong phạm vi cả nước. Huyền Tông bổ nhiệm Vũ Văn Dung làm quan khuyến nông khác và quan phụ tá phân công nhau đi đến khắp nơi trong nước để kiểm tra ruộng đất ở đó. Nếu bọn địa chủ có thừa đất thì phải ép chúng cắt một miếng đất cho dân nghèo. Còn những người tá túc trong nhà bọn cường hào thì phải đăng ký hộ tịch. Kết quả là phong trào nói trên đem lại nhiều lợi ích đáng kể, làm cho nhà nước tăng thêm 88 vạn hộ, còn nếu tính thêm tiền của những người tá túc thì nhiều không kể xiết. Để phát triển ngành sản xuất nông nghiệp, Huyền Tông cho xây dựng những công trình thủy lợi trong cả nước. Tổng số công trình thủy lợi mà Huyền Tông cho xây dựng đã vượt hơn cả hai thời Đường Cao tông Lý Trị và thời Võ Tắc Thiên, chiếm gần một nửa với cả công trình thủy lợi của nhà Đường.
Ở trong cung, Đường Huyền Tông trong thời kì này chủ trương tiết kiệm, không khuyến khích cung nhân dùng nhiều đồ trang sức xa xỉ. Tháng 7 ÂL năm 714, ông ra lệnh rằng những đồ dùng thừa trong cung cần được giao cho hữu ti tiêu hủy bớt, chỉ giữ lại một phần đủ dùng. Trong triều, ông cấm quan lại dưới ngũ phẩm dùng các loại trang sức quý phái vương giả, những phẩm trật trên cũng chỉ cho dùng theo một hạn nhất định.
Năm 716, trong nước phát sinh nạn châu chấu phá hoại mùa màng của nông dân[19]. Huyền Tông theo lời Diêu Sùng, mở chiến dịch lớn tiêu diệt châu chấu. Tuy nhiên nạn này vẫn kéo dài trong mấy năm sau đó.
Huyền Tông cũng hạ lệnh cấm phát hành và lưu hành tiền giả trong nước. Lệnh này được ban bố đầu năm 718 theo đề nghị của tể tướng Tống Cảnh. Ngoài ra ông cũng cho xuất 2 vạn tiền trong Thái phủ để bình ổn giá cả trên thị trường. Sang năm 719, ông ra lệnh cho quan lại các phủ tìm kiếm và thiêu hủy những đồng tiền giả.
Sau đó, năm 721, Huyền Tông còn ra lệnh cho những người dân li tán có thể trở về quê cũ hoặc định cư ở làng mới, nhưng phải đăng kí vào hộ khẩu để triều đình dễ kiểm soát, đồng thời cấp tiền trong ngân khố để giúp họ sinh sống do đó số hộ trong nước tăng lên rõ rệt, đến 800.000 hộ.[32] Đời sống của người dân cũng được nâng cao và dân số cũng gia tăng rõ rệt. Theo thống kê năm 626, trên toàn lãnh thổ Đại Đường có tới 7.069.565 hộ, 41.419.712 người.[32][36]. Sang năm 732, con số này là 7.861.236 hộ, 45.431.265 người, năm 734 có 8.018.710 hộ, 46.285.161 người và năm 742 là 1528 huyện, 8.525.763 hộ, 48.909.800 người; trong nước thái bình.

Trong hậu cung

Sau khi lên ngôi, Huyền Tông cho lập Vương thị làm Hoàng hậu. Vương thị lúc trẻ từng hiến kế cho ông dẹp loạn chư Vi. Tuy nhiên về sau hoàng hậu Vương thị tuổi già sắc suy, không còn được Huyền Tông yêu thương nữa. Huyền Tông lúc đó sủng ái Võ Huệ Phi, cháu Võ Tắc Thiên, bà này sinh được 7 con trai trong khi hoàng hậu không con. Võ Huệ phi có mưu đồ chiếm ngôi hoàng hậu, khiến Vương hoàng hậu rất bất bình và tức giận, nhiều lần tố cáo trước mặt Huyền Tông. Tuy nhiên Huyền Tông lại đồng ý với Võ Huệ phi, cũng muốn phế Vương hậu. Năm 722, ông cùng đại thần Khương Kiểu bàn kế hoạch phế hậu, tuy nhiên Khương Kiểu lại tiết lộ việc này tới tai Vương hậu. Em rể Vương hoàng hậu là Đằng Vương Lý Kiệu dâng thư hỏi lí do lên Huyền Tông, ông tức Khương Kiểu, bèn cho đánh Kiểu 60 trượng, đày ra Khâm Châu.[37]
Sau vụ Khương Kiểu, Vương hoàng hậu tâm trạng lo lắng sợ bị phế, bèn cùng anh trai là Thủ Nhất lập bùa phép cầu cho mình có con và cũng muốn giống như Võ Tắc Thiên lúc xưa. Năm 724, sự việc bị phát giác, Vương Hoàng hậu bị phế làm thứ nhân, Thủ Nhất bị biếm khỏi triều rồi bị giết. Cựu tể tướng Trương Gia Trinh cũng bị nghi ngờ có thông đồng với Hoàng hậu, nên cũng bị biếm làm Thứ sử Thái Châu. Tháng sau Vương thứ nhân chết, trong cung nhiều người khóc thương. Huyền Tông cũng hối hận, bèn truy phong cho Vương thứ nhân tước vị Hoàng hậu.
Sau cái chết của Vương hoàng hậu, Võ Huệ Phi trở thành người nắm giữ nhiều quyền lực nhất trong hậu cung. Năm 626, Huyền Tông đem ý muốn lập bà ta làm hoàng hậu nói với quần thần, nhưng quần thần cho rằng thái tử Lý Hồng[38] không phải con đẻ của Huệ Phi, sợ về sau Huệ Phi làm khó Lý Hồng, hơn nữa Võ Huệ Phi cũng là cháu của Võ Tắc Thiên. Huyền Tông không cưỡng lại được, đành chấp nhận, nhưng ông cũng dành cho Võ Huệ Phi nghi trượng và đồ dùng giống hệt hoàng hậu để an ủi.[6]

Thời đại cuối Khai Nguyên và Thiên Bảo

Đường Minh Hoàng đến đất Thục, tranh vẽ vào thế kỉ VIII, được tái họa vào thế kỉ XI
Từ cuối đời Khai Nguyên, Huyền Tông và tông thất đại thần bỏ bê chính sự, lao vào ăn chơi xa xỉ. Để có chi phí cho chiến tranh, nhà Đường lại tăng mức sưu thuế mà nhân dân phải đóng góp, lại thêm nạn tham quan, nên đời sống nhân dân khổ cực hơn. Chính trị xuống dốc, gian thần Lý Lâm Phủ được trọng dụng, ngăn chặn đường tiến thân của kẻ sĩ, ý đồ độc chiếm triều đình. Bên ngoài, thế lực ngoại tộc phát triển, An Lộc Sơn (người Đột Quyết) có thế lực ở Đông Bắc, phát triển thế lực, đến năm 755 phản Đường, gây ra Loạn An Sử. Nhà Đường do đó mà suýt nữa bị diệt vong.

Đuổi trung thần, dùng gian thần

Thị lang bộ binh Lý Lâm Phủ là người giảo hoạt, xu nịnh. Hắn ta mua chuọc các hoạn quan và tì nữ thân cận của Huyền Tông để biết được các hoạt động và sở thích của Huyền Tông, lại kết giao với Võ Huệ Phi, hứa giúp con bà ta là Thọ vương Lý Thanh làm Hoàng thái tử. Do đó Huệ Phi tín nhiệm Lâm Phủ, nhiều lần tiến cử hắn lên Huyền Tông. Tháng 4 năm 734, hắn được phong làm Lễ bộ thượng thư. Sang tháng 5 ÂL, Huyền Tông phong Bùi Quang Đình làm Thị trung, Trương Cửu Linh làm Trung thư lệnh, Lâm Phủ làm Đồng trung thư môn hạ tam phẩm. Ba người trở thành ba tể tướng trong triều.
Cũng năm đó, Huyền Tông thấy Trương Thủ Khuê có nhiều công trạng, muốn phong làm Tể tướng, nhưng Trương Cửu Linh lo sợ mất quyền lực, bèn thuyết phục Huyền Tông bỏ ý định. Dù vậy, Huyền Tông cũng thăng chức cho Trương Thủ Khuê lên chức vụ cao trong triều[39].
Lâm Phủ đưa Ngưu Tiên Khách, người cùng phe cánh vào triều, để củng cố quyền lực. Tháng 4 ÂL năm 737, Giám sát ngự sử Chu Tử Lượng phát hiện Ngựu Tiên Khách là kẻ bất tài, đưa bằng chứng lên Huyền Tông. Nhưng Huyền Tông bị Lý Lâm Phủ làm mờ mắt, chẳng những không nghe mà còn biếm chức Tử Lương, đánh trượng và đày sang Nhương châu. Lý Lâm Phủ nhân đó tố cáo rằng Chu Tử Lượng là do Trương Cửu Linh tiến cử, do đó Cửu Linh bị bãi chức Tể tướng, đày sang Kinh châu.

Một ngày giết ba con

Tiếp đó đầu năm 737, Lý Lâm Phủ bày kế hãm hại thái tử Lý Anh[40]. Đại thần Dương Hồi căm ghét Thái tử Lý Anh cùng Ngạc vương Lý Dao, Quang vương Lý Cư. Hắn ta tố cáo rằng thái tử liên kết với anh vợ Tiết Tố Tiềm có mưu đồ đại sự. Còn Lý Lâm Phủ giả vờ không dám bàn tới việc này. Từ lúc Trương Cửu Linh bị bãi chức, thái tử Lý Anh mất đi chỗ dựa, đến đó khi bị gièm pha, thái tử không sao giải thích được. Huyền Tông bèn ra lệnh đày ba người con Lý Anh, Lý Dao, Lý Cư làm thứ nhân, đày đến Nhương châu, không lâu sau, đích thân ông ra lệnh ép ba hoàng tử phải tự sát ở Lam Điền[41].
Từ sau năm 736, Huyền Tông sinh ra tin việc quỷ thần, sợ cái chết và thích tìm thuốc trường sinh, do đó từng bị đạo sĩ lừa gạt.
Lý Lâm Phủ sau đó được phong làm Tấn quốc công, Ngưu Tiên Khách làm Bân quốc công. Hai người này muốn đưa Thọ Vương Lý Mạo, con Võ Huệ Phi làm thái tử, nhưng Huyền Tông do dự, chần chừ gần 1 năm không quyết định được. Đến năm 738, hoạn quan Cao Lực Sĩ lên tiếng khuyên ông nên lập con trưởng, do đó đến ngày Canh Tí tháng 6 cùng năm, Huyền Tông lập người con trai lớn tuổi nhất còn sống là Trung vương Lý Dư làm Thái tử, sau đó đổi tên thành Lý Thiệu rồi Lý Hanh.[42]
Tháng 1 năm 738, Võ Huệ Phi mất, Huyền Tông vô cùng xót thương, bèn truy phong bà ta làm Trinh thuận hoàng hậu. Tết Nguyên Đán năm 739, theo đề nghị của quần thần, Đường Huyền Tông tự cho thêm vào tôn hiệu hai chữ Thánh Văn, rồi đại xá thiên hạ, miễn điền tô một năm cho cả nước. Tháng sau, Lý Lâm Phủ được phong làm Lại bộ thượng thư, Trung thư lệnh. Từ đó hắn trở thành người nắm quyền lực cao nhất trong triều (không kể Huyền Tông). Có chức Tể tướng, Lý Lâm Phủ tìm mọi cách để củng cố chức vị của mình, dùng thủ đoạn ngăn chặn đường tiến thân của hiền sĩ.

Lý Lâm Phủ lộng quyền

Năm 740, Huyền Tông bất ngờ bãi Ngưu Tiên Khách khỏi triều đình, đày đến Sóc Phương mà không rõ lý do tại sao. Sang đầu năm 742, Huyền Tông cho đổi niên hiệu Khai Nguyên thứ 30 thành Thiên Bảo nguyên niên. Thiên Bảo là niên hiệu thứ ba và cũng là cuối cùng được Huyền Tông sử dụng trong thời gian tại vị.
Mùa thu năm 742, Ngưu Tiên Khách chết, Lý Thích Chi được phong làm Tả tướng[43]
Năm 743, Huyền Tôgn muốn phong cho đại thần Dương Thận Căng làm Ngự sử trung thừa, nhưng Dương Thận Căng sợ Lý Lâm Phủ sẽ hãm hại nên không dám nhận. Từ đó, các đại thần hầu hết sợ uy Lý Lâm Phủ, việc gì cũng nghe theo hắn, không còn ai dám can ngăn thẳng thắn nữa. Nền chính trị tốt đẹp thời Khai Nguyên đã trở thành quá khứ.
Đầu năm 745, do thấy Huyền Tông trọng dụng Hộ bộ thượng thư Bùi Khoan Tố, Lý Lâm Phủ lo sợ chức Tể tướng bị lung lay, bèn gièm pha Khoan Tố. Do đó Khoan Tố bị Thượng hoàngđày đến Tuy Dương.
Tuy nhiên Lý Lâm Phủ cũng gặp phải thế lực chống đối là Lý Thích Chi. Giữa năm 746, anh của thái tử phi Vi thị là Vi Kiên bị Lý Lâm Phủ mưu hại. Tương tác thiếu tượng Vi Lâm cùng Binh bộ ngoại lang Vi Chi mượn lời của thái tử Lý Hanh xin tha cho Vi Kiên. Huyền Tông rất tức giận còn Lý Hanh rất lo sợ, bèn xin ly hôn với Thái tử phi Vi thị. Sau đó nhiều thành viên trong gia tộc họ Vi bị lưu đày xuống phương nam. Nhân đó Lý Lâm Phủ tố cáo cả Lý Thích Chi có liên hệ với họ Vi. Do đó Lý Thích Chi bị bãi chức, giáng làm Thái thú Nghi Xuân[44]. Các đại thần khác như Vi Bân, Bùi Khoan, Lý Tề Vật,... tổng cộng hơn 10 người bị đuổi khỏi triều đình. Sang năm 747, Hoàng Phủ Duy Minh cùng bốn anh em họ Vi bị ban chết. Các đại thần Lý Thích Chi, Vương Cư sợ hãi, đều uống rượu độc tự tử. Con Lý Thích Chi là Lý Thích Nghiêng đem thi hài phụ thân về Trường An, cũng bị Lý Lâm Phủ tố cáo và bị đánh cho tới chết.
Cùng năm đó, Huyền Tông muốn tìm người tài giỏi trong nước ra phục vụ cho triều đình. Lý Lâm Phủ rất lo sợ, bèn nghĩ kế xin Huyền Tông rằng nếu như có nhiều người ứng tuyển làm quan thì sẽ khó xem xét hết được, nên chia làm hai vòng, sau khi khảo sát kẻ sĩ trong một địa phương rồi mới chọn những người giỏi lên cho triều đình xem xét và bổ dụng. Kết quả Lý Lâm Phủ uy hiếp quan lại địa phương, nên không có sĩ tử nào vượt qua vòng khảo thí ở quận huyện. Lâm Phủ bèn tâu lên rằng thiên hạ không có người hiền.
Lý Lâm Phủ đố kị công lao của đại thần Vương Trung Tự. Vào mùa hạ năm 747, Huyền Tông muốn sai Trung Tự công đánh thành Thạch Bảo của Thổ Phiên mà Trung Tự từ chối; tướng quân Đổng Diên Quang bèn xin đánh thành Thạch Bảo, Huyền Tông sai Trung Tự trợ giúp, Trung Tự đành phải vâng lời. Nhưng ông ta không hết sức giúp đỡ Đổng Diên Quang, nên bị tố cáo trước mặt Huyền Tông. Lý Lâm Phủ cũng nhân đó tố cáo Vương Trung Tự muốn lập thái tử Lý Hanh lên ngôi. Huyền Tông cả giận, bèn giáng chức của Vương Trung Tự. Ông còn muốn giết luôn Vương Trung Tự, nhưng sau đó thay đổi ý định do sự can thiệp của Ca Thư Hàn.
Tháng 5 ÂL năm 748, theo thỉnh cầu của quần thần, Huyền Tông tự gia thêm tôn hiệu của mình thành Khai Nguyên Thiên Bảo Thánh Văn Thần Vũ Ứng Đạo hoàng đế, đồng thời hạ lệnh đại xá trong nước. Tháng 4 ÂL năm 749, Thái thú Hàm Ninh Triệu Phụng Chương dâng sớ kể 20 tội lớn của Lý Lâm Phủ. Lý Lâm Phủ tức giận, bèn gièm pha Phụng Chương với Huyền Tông rồi sai triệu ông ta vào cung, đánh cho tới chết.

Sách lập Dương Quý phi

Tranh vẽ Dương Quý Phi tập cưỡi một con ngựa của Tiền Tuyển thời Nam Tống
Từ sau cái chết của Võ Huệ Phi, Huyền Tông trở nên buồn rầu không vui. Đến khi ông gặp được Thọ vương phi là Dương Ngọc Hoàn, vợ Lý Mạo, thấy Ngọc Hoàn có sắc đẹp, bèn bắt cô ta làm nữ quan trong cung rồi gả Vi Chiêu Huấn cho Lý Mạo. Ngọc Hoàn được ban pháp hiệu Thái Chân.
Thái Chân pháp sư chẳng những đẹp mà còn giỏi về âm luật. Năm 745, Huyền Tông đưa bà ta vào cung và hết mực sủng ái, người trong cung đều gọi là Nương tử. Nghi phục Huyền Tông dành cho bà ta cũng chẳng khác gì hoàng hậu.[45]
Tháng 8 ÂL năm 746, Huyền Tông phong Dương Thái Chân làm Quý phi (Dương Quý phi), truy tặng cha Quý phi Dương Huyền Diễm làm Binh Bộ thượng thư, thúc phụ Huyền Khuê làm Quang Lộc Khanh, anh họ Quý Phi là Dương Tiêm được phong làm Điện trung thiếu giám. Từ đó, Dương quý phi trở thành người được Huyền Tông yêu quý nhất và nắm quyền trong hậu cung (lúc đó Thượng không lập Hoàng hậu). Người anh họ vô dụng của Quý phi là Dương Chiêu cũng được trọng dụng, sau được đổi tên là Dương Quốc Trung.
Huyền Tông rất sủng hạnh Dương Quý Phi. Người hầu hạ trong viện của Quý phi có đến hơn 100. Các đại thần bên ngoài muốn được Huyền Tông trọng dụng đều chủ động dâng lễ vật quý cho Quý phi. Nhiều người được thăng tiến bằng con đường này. Trong hậu cung của Huyền Tông, từ khi Dương Quý phi xuất hiện thì các phi tần khác đều rất khó được ân hạnh nữa.
Tháng 11 ÂL năm 748, ba người chị của Dương Quý phi làm Thôi thị, Bùi thị, Liễu thị được phong làm Hàn quốc, Quắc quốc và Tần quốc phu nhân. Ba người này đều có nhan sắc, cũng được Huyền Tông yêu mến, trở thành những người giàu có bậc nhất trong thành Trường An.
Dương Quý phi tuy có nhan sắc nhưng tính nết ương ngạnh, nhiều lần đắc tội và xung đột với Huyền Tông. Tháng 2 ÂL năm 750, sau một lần xung đột, Quý phi bị đuổi khỏi cung. Nhưng có tên hoạn quan cầu xin cho Quý phi, do đó Huyền Tông hối hận, triệu Quý phi về và sủng ái hơn trước. Từ đó ông sa vào tửu sắc và hoang dâm, sủng ái Dương Quý phi quá mức, bắt đầu bỏ bê việc nước.

Quân sự và ngoại giao

Lãnh thổ Đại Đường năm 742
Cuối năm 737, ở nước Đột Kị Thi (vốn bị chia rẽ thành hai phái Hoàng và Hắc) tù trưởng Mạc Hạ Đạt Can giết Khã hãn Tô Lộc. Tướng Đô Ma Độ, đồng minh cũ của Mạc Hạ Đạt Can là Đô Ma Độ chống lại ông ta, lập Cốt Xuyết là Thổ Hỏa Tiên Khả hãn, phân tranh với Mạc Hạ Đạt Can. Mạc Hạ Đạt Can sai người đến cầu viện Thích Tây Tiết độ sử Cái Gia Vận. Huyền Tông được tin, sai Gia Vận dẫn quân công đánh Đột Kị Thi. Thổ Hỏa Tiên và Đô Ma Đô chiếm cứ thành Toái Diệp, cùng Hắc Tính Khã hãn Nhĩ Vi Đặc Lặc cát cứ ở thành La Tư bèn liên kết với nhau kháng Đường.
Giứa năm 738, tướng Đỗ Hi Vọng đem quân tiến công Thổ Phiên, đoạt được đất Hà Kiều. Thổ Phiên cử 30.000 quân chống trả. Đỗ Hi Vọng vì binh ít lương thiếu, không thể chống lại Thổ Phiên. Nhưng khi đó có tả Uy vệ lang tướng Vương Trung Tự tự đem quân ra ứng chiến trước, giết hơn 100 quân, Hi Vọng nhân đó thừa cơ tập kích, Thổ Phiên bị đại bại.
Không bao lâu sau, Thượng hoàngphong cho vua Nam Chiếu Mông Quy Nghĩa làm Vân Nam vương. Mông Quy Nghĩa tuy nhận tước phong của nhà Đường, kì thực chính là một vương quốc độc lập. Nước Nam Chiếu sau đó thu phục nhiều bộ lạc Nam Man, dần trở nên lớn mạnh và trở thành mối đe dọa mới ở biên cương.[46]
Tháng 7 ÂL năm 739, Khả hãn Thổ Hỏa Tiên bị Cái Gia Vận bắt sống. Sau đó Cái Gia Vận đánh thành La Tư, bắt sống Hắc Tính Khả Hãn Nhĩ Vi, bắt hơn 10.000 người đem về. Do đó thế lực của nhà Đường càng lớn mạnh. Năm 740, Cái Gia Vận bắt Thổ Hỏa Tiên về Trường An, Huyền Tông hạ lệnh xá tội, phong làm Kim Ngô tướng quân. Sau đó ông phong cho A Sử Na Hân làm Thập tính Khả hãn, cai trị phương bắc. Huyền Tông còn muốn thăng chức cho Cái Gia Vận, nhưng sau đó nghe theo tể tướng Bùi Diệu Khanh, cho rằng Gia Vận không có công, bèn không phong thưởng nữa. Mạc Hạ Đạt Can thất A Sử Na Hân làm Khả hãn, tức giận khởi binh. Huyền Tông sai Cái Gia Vận tìm cách chiêu dụ và phong Mạc Hạ Đạt Can làm Khả hãn. Mạc Hạ Đạt Can bèn quy hàng, đến tháng 6 năm 742 thì giết A Sử Na Hân. Cùng năm đó, Huyền Tông phong cho Đô Ma Độ làm Tam tính diệp hộ.
Thổ Phiên ngày càng lớn mạnh, liên tục dẫn quân công phá biên giới. Lúc này nhà Đường đã mệt mỏi vì chiến tranh, do đó Thổ Phiên càng xâm lấn nhiều hơn. Tuy quân Đường đánh dẹp được, nhưng quốc lực cũng bị tổn hao rất nhiều. Những năm cuối đời Đường Huyền Tông, Thổ Phiên lại trở thành mối đe dọa thực sự của nhà Đường.
Tháng 6 ÂL năm 741, 140.000 quân Thổ Phiên rầm rộ kéo sang lãnh thổ nhà Đường. Tướng Tang Hi Dịch dẫn 5000 quân kích phá thành công, buộc Thổ Phiên rút lui. Sang tháng 7 cùng năm, nước Đột Quyết sinh ra nội loạn của Cốt Đốt Diệp Hộ, Thượng hoàngsai Tả Vũ Lâm tướng Tôn Lão Nô liên kết với Hồi HộtCát La Lộc chờ thời cơ công đánh.
Năm 743, quân Đường do Hoàng Phủ Duy Minh chỉ huy đánh bại Thổ Phiên ở thành Hồng Tế. Sang tháng 5 ÂL năm 744, Hà Tây Tiết độ sứ Mông Linh giết chết Mạc Hạ Đạt Can. Huyền Tông bèn phong cho Cốt Đốt Lộc Bì Già làm Thập tính Khả hãn ở Đột Kị Thi.
Tháng 8 ÂL năm 744, Bạt Tất Mật Công giết chết Khả hãn Ô Tô của Đột Quyết, dâng thủ cấp đến Trường An. Vương Trung Tự bèn nhân đó công đánh Đột Quyết, liên quân với Hồi Hột và Cát La Lộc, giết được Mật Hiết Điệt Y Khả hãn. Vua Hồi Hột là Cốt Lực Bùi La cũng nhân đó tự xưng Già Khuyết Khả hãn, Huyền Tông công nhận ông ta. Từ đó Đột Quyết diệt vong, lãnh thổ cũ thuộc về Hồi Hột. Hồi Hột chủ trương thần phục nhà Đường.
Năm 747, do Thổ Phiên bỏ không triều cống, Huyền Tông sai tướng người Cao Câu Ly là Cao Tiên Chi đem quân thảo phạt Thổ Phiên; đại thắng được quân Thổ Phiên. Sai đó tướng Ca Thư Hàn được bố trí lãnh quân chống Thổ Phiên. Năm 748, Ca Thư Hàn nhiều lần đánh bại Thổ Phiên, khiến họ không dám vượt qua vùng Thanh Hải. Đến năm 750, Cao Tiên Chi suất quân diêt nước Khiết Sư, bắt vua Bột Đặc Một. Do vậy uy thế của nhà Đường mở rộng hơn về phía tây.
Tuy nhiên đến năm 751, nhà Đường lại phải chịu thất bại lớn trên chiến trường trước quân đội Nam Chiếu. Nguyên do là đầu năm này, vua Nam Chiếu Các La không chịu hối lộ cho thái thú Vân Nam Trương Kiền Đà, và Kiền Đà gièm pha Nam Chiếu với Huyền Tông. Do đó Các La tức giận, dẫn quân đánh Vân Nam, giết được Trương Kiền Đà, chiếm 32 châu ở Vân Nam.
Tháng 4 ÂL năm đó, Kiến Nam Tiết độ sứ Tiên Ư Trọng xuất quân chống trả Nam Chiếu, bị thua một trận lớn ở Lô Nam. Huyền Tông sau đó lại cử 80.000 quân, phân hai đường, tiến đánh. Vua Nam Chiếu xin giảng hòa, nhưng tướng Trọng Thông không chấp nhận, tiếp tục tiến binh. Quân Nam Chiếu đánh quân Đường tan tác, hơn 60.000 quân bị giết hại, nhưng Dương Quốc Trung đang cầm quyền trong triều lại giấu giếm việc này, nói dối là quân Đường đại thắng.
Sau đó Nam Chiếu nhiều lần xâm nhập biên cương. Quân Đường đối phó một cách chậm chạp và kém hiệu quả. Trong trận chiến đầu năm 752, 200.000 quân Đường bị bắt hay bị giết, còn ở phía tây, Cao Tiên Chi lại gặp thất bại trước quân đội Thổ Phiên, thế lực của nhà Đường đối với lân bang do đó suy giảm rõ rệt.

Hoàng đế lưu vong

An Lộc Sơn phát triển thế lực

Năm 735, Huyền Tông theo lời đề nghị của Trương Thủ Khuê, phong cho hai nghĩa tử của ông ta là A Lạc SơnSử Tốt Cán làm quan trong triều, đổi tên chúng là An Lộc Sơn và Sử Tư Minh.
An Lộc Sơn nắm quân ở phía bắc, thường tỏ ra dũng cảm thiện chiến và giả vờ trung thành, do đó Thượng hoàngrất tín nhiệm. Hắn lại mua chuộc nhiều quan lại được Huyền Tông cử đến giám sát, nên được bọn này nói giúp. Cuối năm 741, Huyền Tông phong An Lộc Sơn làm Doanh châu Đô đốc, Sung Bình Lư quân sử, Kinh lược sử của bốn phủ.
Trong triều đình trước đó không có chính sách trọng dụng người ngoại tộc. Đến khi Lý Lâm Phủ làm Tể tướng đã ra sức khuyên Huyền Tông dùng người Hồ vì hắn cho rằng nếu Huyền Tông dùng quá nhiều người Hán thì sẽ có ngày địa vị của mình lung lay. Do đó, một loạt tướng Hồ như An Lộc Sơn, Cao Tiên Chi được trọng dụng. Năm 742, Huyền Tông cho bố trí quân đội ở các khu vực hiểm yếu như sau
  1. Phủ Đô hộ An Tây[47] có 24.000 quân
  2. Phủ Đô hộ Bắc Đình, nơi tiếp giáp với cả Đột Quyết và Thổ Phiên, có 20.000 quân
  3. Phủ tiết độ Hà Tây[31], nằm giữa Thổ Phiên và Đột Quyết, có 73.000 quân
  4. Phủ Tiết Độ Sóc Phương[48], có 64.700 quân
  5. Phủ tiết độ Hà Đông[49] có 55.000 quân
  6. Phủ tiết độ Phạm Dương, vùng đất tiếp giáp với Hề, Khiết Đan[50], có 91.400 quân
  7. Phủ Tiết độ Bình Lô[51], trong đó có An Đông đô hộ phủ, có 37.500 quân
  8. Phủ Tiết độ Lũng Hữu[52], được giao nhiệm vụ phòng bị Thổ Phiên, có 75.000 quân
  9. Phủ tiết độ Kiếm Nam[53], giáp với Nam Man, có 30.900 quân
  10. Năm phủ kinh lược ở Lĩnh Nam[54] có 5.400 quân
  11. Phủ Kinh lược Trường Lạc[55] có 1.500 quân
  12. Hai vùng Đông Lai và Đông Mưu[56], mỗi vùng có 1.000 quân
Tổng cộng ở những nơi này có tất cả 490.000 quân và hơn 80.000 ngựa chiến. Từ thời điểm đó, do chính sách bố trí nhiều quân đội như vậy và cũng do các cuộc tấn công liên tiếp của Thổ Phiên, chi phí cho chiến tranh của nhà Đường ngày càng lớn, mọi gánh nặng lại đổ lên vai người dân, do đó tình hình kinh tế đi xuống, dân chúng khổ cực.
Năm 744, Huyền Tông phong cho An Lộc Sơn làm Tiết Độ sứ Phạm Dương. An Lộc Sơn từ đó nắm được hai phiên trấn hiểm yếu, bắt đầu phát triển thế lực lớn mạnh, trở thành mầm họa cho nhà Đường về sau. Nhưng Thượng hoàngkhông nhận ra việc đó, vẫn một mực tin tưởng An Lộc Sơn. Trong triều, Lý Lâm Phủ cũng có mưu toan riêng, muốn dựa vào thế lực của An Lộc Sơn để làm lợi cho mình, do đó Lộc Sơn nhiều lần làm việc trái phép mà Huyền Tông không hề hay biết, lại theo lời Lý Lâm Phủ, tưởng hắn là người trung thành. Năm 747, An Lộc Sơn được kiêm làm Ngự sử đại phu. Cùng năm 747, sau lần đến phương bắc, thấy An Lộc Sơn có dã tâm, đại thần Vương Trung Tự bèn tâu lên Huyền Tông, nhưng Huyền Tông không tin. An Lộc Sơn lại được ban thiết khoán (748) cùng tước Đông Bình quận vương (750). Sang năm sau, Lộc Sơn được phong thêm ở đất Hà Đông, nắm trong tay tới ba phiên trấn lớn của nhà Đường. Vốn là người biết nhiều thứ ngôn ngữ, Lộc Sơn dễ dàng thiết lập liên minh với Hề và Khiết Đan, tạo thành thế lực lớn.
An Lộc Sơn một lần vào triều, gặp được Dương Quý phi thì sinh ra thèm muốn, bèn mượn cớ đối thực mà tự do ra vào cung của Quý phi, hai người lại thông gian với nhau. Huyền Tông phong phanh nghe được, nhưng cũng bị An Lộc Sơn qua mặt và lừa gạt một cách dễ dàng. Ở phía đông bắc (lãnh địa An Lộc Sơn cai quản), Lộc Sơn cho tuyển chọn ra 8000 quân thiện chiến làm lực lượng nòng cốt, nhiều người bộ tộc Đồng La, Hề, Khiết Đan rất dũng mãnh, thiện chiến mà ông nuôi dưỡng, huấn luyện thành lực lượng riêng gọi là Duệ lạc hà (Tiếng bản tộc có nghĩa là tráng sĩ)[57]. Biết thái tử Lý Hanh không ưa mình, An Lộc Sơn càng gấp rút chuẩn bị, phòng ngày sau Huyền Tông qua đời.[58]

An Lộc Sơn tạo phản

Anh họ Quý phi là Dương Quốc Trung[59] được Huyền Tông tin tưởng. Từ năm 746 hắn liên tục thăng tiến, ngoi lên chức Ngự sử trung thừa. Hắn liên kết với một số đại thần, tiêu diệt một số thân tín của Lý Lâm Phủ, hòng lên làm Tể tướng. Sau đó Lý Lâm Phủ và Dương Quốc Trung ra mặt đối địch với nhau. Cuối năm 752, Lý Lâm Phủ bệnh nặng, tâu xin Huyền Tông đưa Dương Quốc Trung đến đất Thục chống Nam Chiếu. Quốc Trung biết Lâm Phủ muốn hại mình, bèn xin Quý phi nói giúp. Do đó khi Quốc Trung còn chưa tới đất Thục, Thượng hoàngđã sai sứ triệu về. Khi đó bệnh tình của Lý Lâm Phủ đã rất nguy cấp, nhân Dương Quốc Trung đến bèn xin hắn bao dung cho con cháu của mình, nhưng Quốc Trung không đáp. Ngày Đinh Mão tháng 11 ÂL năm 752, Lý Lâm Phủ chết. Ông ta làm tể tướng 19 năm, là vị tể tướng tại vị lâu nhất dưới thời Huyền Tông, và trong 19 năm đó, đã làm cho quốc lực nhà Đường suy yếu trầm trọng, là mầm mống là họa loạn về sau của nhà Đường.
Đầu năm 753, Dương Quốc Trung được Huyền Tông phong làm Tể tướng. Sau đó, một sự xung đột lại nổ ra giữa Dương Quốc Trung và An Lộc Sơn. Quốc Trung nhiều lần cảnh báo Huyền Tông rằng An Lộc Sơn sẽ tạo phản, nhưng Huyền Tông trước sau không tin. Đến năm 754, để thử lòng trung thành của An Lộc Sơn, Huyền Tông bèn triệu hắn đến triều, Lộc Sơn không trái ý ông vì thế lực còn chưa mạnh. Do đó ông không nghi ngờ An Lộc Sơn chút nào cả.
Cũng năm đó, Dương Quốc Trung đố kị đại thần Trần Hi Liệt, bèn tố cáo Hi Liệt lên Thượng. Hi Liệt biết mình sẽ bị Quốc Trung hãm hại, nên chủ động xin từ chức để tránh tai họa. Thượng hoànglấy Vũ bộ[60] thị lang Cát Ôn lên thay làm Tể tướng thứ hai (sau Dương Quốc Trung). Sau đó Dương Quốc Trung còn vu khống và loại bỏ được đại thần Kinh Triệu doãn Lý Hiện.
Năm 754, An Lộc Sơn đề bạt 500 người Hề, Khiết Đan, Cửu Tính, Đồng La lên làm tướng quân và 2000 người thăng chức Trung lang tướng. Sang đầu năm 755, ại dùng 32 tướng người Hồ thay các tướng người Hán, từ đó toàn bộ tướng lãnh dưới quyền An Lộc Sơn đều là người Hồ. Ngoài ra, An Lộc Sơn còn ra sức tích lương thảo, nuôi nhiều chiến mã, làm số quân và thực lực mạnh hơn hẳn lực lượng của triều đình trung ương nhà Đường.

Sai lầm liên tiếp

Ngày Giáp Tý (16) tháng 11 năm 755, An Lộc Sơn nghe theo gợi ý của thuộc hạ, triệu chư tướng lại tuyên bố
Có mật chiếu của thiên tử, lệnh Lộc Sơn nhập triều tru diệt Dương Quốc Trung, chư quân phải lập tức đi theo.
Sau đó, Lộc Sơn khởi binh từ Phạm Dương, liên kết với Hề, Khiết Đan, Đồng La, chính thức phản Đường. Quân An có 15 vạn, nhưng phao lên là 20 vạn[61]. Các thành phía đông bắc nhanh chóng rơi vào tay An Lộc Sơn. Đến khi thông tin truyền tới Trường An, Huyền Tông bàng hoàng, còn Dương Quốc Trung dương dương tự đắc vì mình đã đoán đúng, và dự đoán chỉ trong 20 ngày, An Lộc Sơn sẽ bị bộ hạ giết chết. Tiết độ sứ An Tây Phong Thường Thanh xin mở phủ khố ở Lạc Dương, chiêu mộ sĩ tốt tòng quân, Huyền Tông nghe theo. Sau đó Thường Thanh mộ 60.000 quân, đóng ở Hà Dương gây thanh thế. Huyền Tông lại phong cho Tiết độ sứ Sóc Phương An Tư Thuận làm Hộ bộ thượng thư, Thái thú Cửu Nguyên Quách Tử Nghi là Tiết độ sứ Sóc Phương, Lý Quang Bật làm Tiết độ sứ Hà Đông phòng thủ các trấn này; Vương Thừa Nghiệp làm Thái Nguyên doãn, Vinh vương Lý Uyển làm Nguyên soái, Cao Tiên Chi làm phó, suất quân đông chinh, đóng ở đất Thiểm[62].
Nhưng các thành của nhà Đường vẫn lần lượt bị mất: Bác Lăng, Hao Thành rồi Trần Lưu, Bình Nguyên, Huỳnh Dương, Vĩnh Dương, Thường Sơn... sau đó kéo đến Lạc Dương. Huyền Tông bèn cho giết chết con trai An Lộc Sơn là An Khánh Tông đang làm con tin ở kinh đô, và bắt vợ Khánh Tông là quận chúa Vinh Nghĩa tự vẫn. Phòng Thường Thanh và Cao Tiên Chi bị đánh bại ở Vũ Lao, phải rút về Lạc Dương.
Huyền Tông cũng muốn thân chinh đánh An Lộc Sơn, để thái tử Lý Hanh giám quốc. nhưng Dương Quốc Trung tâu rằng thái tử có dã tâm lớn, không thể một lúc phó thác hết chính sự cho được. Huyền Tông bèn bỏ lệnh thân chinh.
Đường Huyền Tông sai hoạn quan Biên Lệnh Thành ra làm Giám quân, giám sát quân Cao Tiên Chi. Biên Lệnh Thành thường hạch sách bắt Cao Tiên Chi thỏa mãn yêu cầu cá nhân, nhưng đều bị Tiên Chi từ chối. Lệnh Thành bèn gièm pha với Huyền Tông. Cuối cùng Huyền Tông hạ lệnh giết cả Phong Thường Thanh và Cao Tiên Chi, cử Ca Thư Hàn (đang dưỡng bệnh ở nhà) dẫn 80.000 quân đến trấn thủ Đồng Quan. Sau đó một số tướng nhà Đường lại nổi lên chống An Lộc Sơn, Lộc Sơn phải bỏ Đồng Quan, lo dẹp yên Hà Bắc. Sau khi dẹp xong, Lộc Sơn lại đánh Đồng Quan.
Tháng 1 năm 756, An Lộc Sơn tiếm xưng hoàng đế, lấy quốc hiệu là Yên[63]. Cùng lúc đó, Huyền Tông sai Lý Quang Bật 5000 quân tiến về phía đông, đánh phá Thường Sơn[64]. Lý Quang Bật đánh tan quân của Sử Tư Minh, thu phục 10 huyện ở Thường Sơn. Kế đó, tháng 5 ÂL, đại tướng Quách Tử Nghi chiếm lại hai quận Vân Trung[65], Mã Ấp[66]. Thấy Sử Tư Minh tuy thua nhưng thế lực còn lớn, Quách Tử Nghi và Lý Quang Bật lui lại Thường Sơn để phòng thủ, nhưng bị trúng kế của Quách Tử Nghi và thất bại một trận lớn. Quách Tử Nghi dùng kế đánh lâu dài để làm tiêu hao sinh lực địch, tình thế trên chiến trường đã chuyển sang nghiêng về phía quân Đường khi Sử Tư Minh bị đánh phải lui về Bác Lăng[67].
Ở Đồng Quan, [Ca Thư Hàn dùng chiến thuật phòng thủ không ra khiến quân Yên mắc kẹt không tiến lên được. Tuy nhiên ngay lúc này, Huyền Tông lại mắc sai lầm. Tại Trường An và xung quanh kinh thành nổ ra dư luận trong các tướng lĩnh quy trách nhiệm cho Dương Quốc Trung lộng hành và kích động ra cuộc phản loạn của An Lộc Sơn. Các tướng đang trấn giữ Đồng Quan như Kha Thư Hàn, Vương Tư Lễ khuyên có ý mang quân về kinh thanh trừng Dương Quốc Trung[68]. Dương Quốc Trung sợ, bèn mộ 10.000 quân để tự vệ.
Quách Tử Nghi, Lý Quang BậtCa Thư Hàn đều chủ trương đánh lâu dài, chờ An Lộc Sơn mất lòng dân. Nhưng Huyền Tông nôn nóng thắng trận, nghe lời sàm tấu của Dương Quốc Trung, ép Kha Thư Hàn xuất kích từ Đồng Quan ra đánh quân Yên, nhanh chóng chiếm lại Lạc Dương. Tháng 7 ÂL, Ca Thư Hàn đành phải nghe lệnh vua. Kết quả đại quân Kha Thư Hàn kéo ra thì rơi vào phục kích, 200.000 quân bị tiêu diệt, Đồng Quan bị mất, [Ca Thư Hàn bị giết.

Bỏ khỏi kinh đô

Đường Minh Hoàng chạy đến Tứ Xuyên, tranh vẽ của họa sĩ Cừu Anh đời Minh mạt
Chiếm được Đồng Quan, An Lộc Sơn kéo về Trường An. Cả triều đình nhà Đường nhốn nháo, người dân cuống cuồng thu dọn đồ đạc, chuẩn bị rút khỏi kinh đô.
Ngày 13 tháng 7 năm 756, Huyền Tông bỏ khỏi kinh đô, cùng Dương Quý phi chạy sang đất Thục, nhưng bề ngoài tuyên bố là hoàng thượng thân chinh. Khi ông ra khỏi kinh đô, Dương Quốc Trung sai đốt cầu bắc ngang sông để ngăn chặn quân Yên. Huyền Tông nói
Dân chúng cũng muốn trốn nạn tìm đường sống, sao lại cắt sinh lộ của dân như vậy.
Rồi sai dập lửa[69][70]. Sau đó Huyền Tông tới Hàm Dương. Lúc đó, tình cảnh triều đình lưu vong hết sức kham khổ, đến cả Huyền Tông cũng bị thiếu thức ăn, còn các hoàng tử và tùy tùng vì đói cũng đành tìm vào những thôn xóm để xin ăn.
Lúc đó, một bô lão đến nói với Huyền Tông
Lộc Sơn nuôi tâm phản loạn đã lâu, không phải chỉ một ngày. Trong dân cũng có người đến cửa khuyết tâu trình âm mưu phản loạn của hắn, nhưng thấy bệ hạ thường kết tội những người can gián, khiến cho âm mưu của An Lộc Sơn có cơ hội thực hiện. Trước kia thần thấy Tống Cảnh làm tướng, thiên hạ được thái bình. Từ cuối đời Khai Nguyên đến nay, đình thần a du xu nịnh, chinh sự suy đồi nhưng chí tôn không biết được. Sự việc nay đến nỗi này, thần đến để cảnh báo với Bệ hạ
Thượng hoàngtrả lời
Đó là do trẫm bất minh, có hối cũng chẳng kịp.
Sau đó đoàn tùy tùng tiếp tục lên đường, đến Kim Thành. Khi đó viên lệnh đã trốn mất, lại nghe tin Ca Thư hàn bại trận; nhiều người bỏ trốn không theo Huyền Tông nữa.

Chính biến Mã Ngôi Dịch

Ngày 15 tháng 7 đến Mã Ngôi Dịch. Lúc đó binh sĩ tùy hành đói khát mệt mỏi, tình cảnh nguy cấp. Đại tướng Trần Huyền Lễ thấy rằng cảnh loạn lạc là bởi Dương Quốc Trung mà ra, nên muốn diệt trừ. Thái tử Lý Hanh biết việc nhưng không dám hợp tác với Huyền Lễ. Không lâu sau, có tiếng hô hoán ngoài trạm dịch:
Dương Quốc Trung âm mưu phản loạn
Rồi phóng tiễn bắn Dương Quốc Trung, sau đó chặt đứt chân tay rồi chém đầu. Sau đó lại giết luôn người con của Trung là Dương Huyên cùng Hàn Quốc, và Tần Quốc Phu Nhân. Ngự Sử Đại Phu là Ngụy Phương Tiến lên tiếng mắng lại, cũng bị giết nốt.
Huyền Tông nghe, bèn hỏi nguyên do, mới biết quân sĩ làm phản. Ông bèn chống gậy ra ngoài xem, ra lệnh cho binh sĩ phải trở về đội ngũ, hứa sẽ không hỏi tội. Nhưng binh sĩ không chịu. Trần Huyền Lễ thưa:
Quốc Trung mưu phản, không nên để Quý Phi hầu hạ ở bên bệ hạ nữa, xin bệ hạ vì quốc pháp mà cắt bỏ tình riêng.
Huyền Tông do dự, vào bên trong. Lát sau, cuối đầu đi ra. Kinh Triệu doãn Triệu Tư Lục cùng Vi Ngạc đều khuyên ông phải thuận theo tình thế. Ông nói với Cao Lực Sĩ:
Quý Phi ở trong thâm cung, sao biết được Quốc Trung mưu phản?.
Lực Sĩ nói
Quý Phi quả thật vô tội, nhưng nay tướng sĩ đã giết Quốc Trung rồi, mà Quý Phi còn sống bên cạnh bệ hạ, tướng sĩ đâu có yên lòng? Xin bệ hạ suy xét kỹ lại. Tướng sĩ được yên lòng, tức bệ hạ được bình an.
Ông không còn cách nào, đành ban cho Quý phi một dải lụa trắng, cho Lực Sĩ thắt cổ Quý Phi[71]. Huyền Tông đau xót, cũng không dám chứng kiến cảnh ấy.
Sau đó Thượng hoàng rời khỏi Mã Ngôi. Các tướng sĩ muốn đến Linh Vũ, Thái Nguyên hoặc về Trường An. Huyền Tông lại muốn chạy tiếp vào Tứ Xuyên, nhưng bị phụ lão giữ lại. Ông bèn để thái tử ở lại trấn an phụ lão ở xung quanh kinh đô. Phụ lão trong thành thất vọng về Huyền Tông, bèn nảy ý tôn phò thái tử. Sau đó ngày 12 tháng 8, được sự ủng hộ của các đại thần, Lý Hanh lên ngôi hoàng đế, tự xưng là Đường Túc Tông. Túc Tông vọng tôn Huyền Tông làm Thái thượng hoàng.

Làm Thái thượng hoàng

Công nhận Túc Tông

Trong khi đó tình cảnh của đoàn tùy tùng đi theo Huyền Tông ngày một bi đát hơn, các binh sĩ đào ngũ ngày một nhiều, Trần Huyền Lễ cũng không kiềm chế được. Thượng hoàng bèn triệu các tướng lại, hứa sẽ hậu thưởng xứng đáng cho họ nếu còn trung thành với triều đình nhà Đường, sau đó ông dùng lời lẽ thân tình để phủ dụ tướng sĩ, do đó họ rất cảm động, thề chết để bảo vệ ông.[72] Tình trạng đào ngũ và phản bội không còn nữa.
Lúc đó Thượng hoàng chưa biết việc Túc Tông đã đăng cơ, bèn phong cho một số người con và tướng lĩnh dẫn quân đến phòng thủ một số nơi dưới sự chỉ huy chung của Hoàng thái tử (tức là Túc Tông). Túc Tông được Thượng hoàng phong làm Thiên hạ binh mã nguyên soái, Đô thống Sóc Phương, Hà Đông, Hà Bắc, Bình Lư đẳng tiết độ binh mã để chỉ huy việc khôi phục hai kinh.
Ngày Canh Thân, Thượng hoàng đến Thành Đô, Thục quận, lúc bấy giờ bên cạnh ông chỉ còn khoảng 1300 binh sĩ và 24 cung nữ. Sang ngày Quý Tị (10 tháng 9), Thượng hoàng mới nhận được tin trong nước đã có tân đế, quyết định công nhận ngôi vị của Túc Tông, tự xưng Thái thượng hoàng, đổi mệnh lệnh của mình là cáo (thay vì chiếu). Ngày Kỉ Hợi (16 tháng 9), Thượng hoàng triệu bá quan đến tuyên chỉ dụ
Nay trẫm tự xưng Thái thượng hoàng, đại sự trong nước trước tiên cho kim thượng xử định, sau đó báo với trẫm. Sau này khi khôi phục lưỡng kinh rồi, trẫm sẽ an dưỡng trong cung, không hỏi đến chính vụ nữa.
Về sau, để tránh bị nghi ngờ rằng mình và Túc Tông đang đối đầu nhau, Thượng hoàng đã hạ lệnh cho một số văn thần võ tướng được phép rời khỏi Thành Đô, đến Linh Vũ để phụng sự cho Túc Tông.

Trở về kinh đô

Đến tháng 10 năm 757, Quách Tử Nghi đánh bại quân của An Khánh Tự[73], khôi phục được hai kinh[74], đón Đường Túc Tông về kinh. Tháng sau, Túc Tông sai Đạm Đình Dao đến Thành Đô rước Thượng hoàng về Trường An. Ngày Đinh Mão tháng 9 Âm lịch, Thượng hoàng rời khỏi Thành Đô, đến quận Phụng Tường. Sau khi qua trạm dịch Mã Ngôi, Thượng hoàng sai tìm di thể của Dương Quý Phi để cải táng nhưng lúc đó di thể đã mục nát thối rữa, không thể nhận ra được, chỉ còn một túi gấm bên cạnh vẫn tỏa hương thơm. Thượng hoàng bèn giữ lấy, đem về và thường xuyên ngắm nhìn, như thể Quý phi còn sống. Sau đó Túc Tông sai 3000 tinh kị đến Phù Phong để hộ vệ cho Thượng hoàng. Ngày Bính Ngọ tháng 12 ÂL năm đó (tức tháng 1 năm 758), Túc Tông đích thân đến Hàm Dương cung nghênh đón Thượng hoàng, sau đó yết kiến ông ở Nam Lâu. Túc Tông muốn trả ngôi lại cho Thượng hoàng, nhưng ông từ chối, nói: Trước đây trẫm làm thiên tử 50 năm, cũng không lấy gì làm vinh dự. Nay trẫm lại thấy vinh dự vì là cha của Thiên tử.
Ngày Đinh Mùi (16 tháng 1 năm 758), Thượng hoàng về lại Trường An sau 2 năm rời khỏi, được bá quan văn võ và dân chúng đón tiếp long trọng. Sau đó ông được bố trí ở cung Hàm Nguyên trong điện Đại Minh. Sau đó, ông đến tạ lỗi với tổ tiên vì thần chủ của nhiều tiên đế đã bị quân Yên phá hủy trước đó, rồi chuyển sang sống ở cung Hưng Khánh.
Mùa xuân năm 758, Đường Túc Tông suất quần thần đến tôn xưng Thượng hoàng là Thái thượng Chí Đạo Thánh hoàng đế.

Qua đời trong uất hận

Vợ Túc Tông là Trương Hoàng hậu, vốn lăng loàn thô bạo, thấy Thượng hoàng già cả yếu đuối, cũng không thèm tôn trọng gì cả. Trong triều, hoạn quan Lý Phụ Quốc lộng quyền, đến cả Túc Tông cũng không dám làm gì. Túc Tông nhiều lần muốn thăm Thượng hoàng cũng bị Trương hoàng hậu ngăn trở. Trong những ngày ở điện Hưng Khánh, Thượng hoàng thường đi dạo cùng con gái là công chúa Lý Trì Doanh cùng các hoạn quan hầu hạ mình khi xưa, một số nhạc sĩ được mời đến giúp vui cho Thượng hoàng. Thượng hoàng còn đến ngự ở Trường Khánh lâu, gần khu dân cư, khi người đi đường thấy ông đều dừng lại mà bái vọng. Đôi khi Thượng hoàng còn sai Cao Lực Sĩ lấy một số thức ăn ban cho họ, nên được tung hô. Lý Phụ Quốc nhân đó gièm pha với Túc Tông. Cuối cùng vào năm 760, Phụ Quốc liên kết với Trương hoàng hậu, nhân Thượng hoàng ra cưỡi ngựa, Lý Phụ Quốc ép buộc ông phải trở về cung điện, không lâu sau giả lệnh Túc Tông, xin Thượng hoàng đến Tây Nội bàn việc. Khi sắp tới Tây Nội, Thượng hoàng thấy Lý Phụ Quốc mặc võ phục, đeo kiếm, dẫn mấy trăm quân sĩ, vác thương, cầm kiếm, xếp hàng hai bên đường, nên lo sợ. Cao Lực Sĩ mắng Lý Phụ Quốc, do đó Phụ Quốc phải lui ra. Nhưng Thượng hoàng bị giữ lại ở điện Cam Lộ trong Tây Nội.[75]
Sau đó, Lý Phụ Quốc lập mưu hãm hại, vu khống Cao Lực Sĩ rồi đày ông ta đến Ba Thục. Công chúa Trì Doanh cũng bị bắt đi làm đạo sĩ. Thượng hoàng do đó rơi vào cảnh cô đơn, không có ai bầu bạn, cuối cùng sinh ra bệnh trầm cảm, từ chối không chịu ăn thịt nữa mà chỉ ăn chay. Khi Đường Túc Tông biết chuyện, rất tức giận, muốn giết Lý Phụ Quốc, nhưng khi đó Lý Phụ Quốc nắm hết binh quyền trong cung, Túc Tông không làm gì được.
Ngày 3 tháng 5 năm 762, Thượng hoàng qua đời ở điện Thần Long, hưởng thọ 78 tuổi, được truy tôn là Chí Đạo Đại Thánh Đại Minh Hiếu hoàng đế, miếu hiệu là Huyền Tông. Ông ở ngôi vua 44 năm, làm Thái thượng hoàng 6 năm. Tháng 3 ÂL năm 763, di thể của ông được an táng ở Thái Lăng[76].

Đánh giá

Niên hiệu

  • Tiên Thiên (先天, Xiāntiān), 712-713
  • Khai Nguyên (開元, Kāiyuán), 713-741
  • Thiên Bảo (天寶, Tiānbǎo), 742-756

Gia quyến

Dương Quý Phi - người đẹp hoa nhường
Tranh của Hosoda Eishi đầu thế kỷ 19 tại viện bảo tàng Anh
  1. Vương Hoàng hậu (王皇后, ? - 725), Hoàng hậu duy nhất khi tại vị của Huyền Tông. Vương Hoàng hậu xuất thân từ Ký châu Thứ sử Vương Thần Niệm (王神念), một vị quan nhà Lương, cha bà là Vương Nhân Hiệu (王仁皎). Lúc Huyền Tông còn là Lâm Tri Vương, Vương thị đã hỗ trợ rất nhiều để giành đại nghiệp. Sau này, Võ Huệ phi đắc sủng, gièm pha Vương Hoàng hậu khiến bà bị phế năm 724. Đường Đại Tông tức vị, Vương thị được phục vị Hoàng hậu.
  2. Võ Huệ phi (武惠妃, 699 - 737), cháu gái Võ Tắc Thiên, cha là Hằng An Vương Võ Du Chỉ (武攸止), mẹ là Dương thị. Võ Huệ phi tư sắc mỹ lệ, âm hiểm thâm sâu y hệt người cô, Huyền Tông lại rất sủng ái, nhiều lần muốn lập làm Hoàng hậu nhưng do triều thần phản đối mà thôi, lại cấp trang phục, nghi trượng không khác gì Hoàng hậu để an ủi Huệ phi. Bà đã dùng mưu phế truất Thái tử Lý Anh, khiến Thái tử bị xử tử. Tuy nhiên, sau vài tháng hoàn thành âm mưu, Huệ phi lâm trọng bệnh, do ám ảnh về cái chết của Phế Thái tử mà lâm bệnh quỷ thần, kích bệnh rồi chết. Sau khi qua đời, Huyền Tông truy phong làm Trinh Thuận Hoàng hậu (貞順皇后).
  3. Dương Quý tần (楊貴嬪, ? - 729), người Hoa Âm, là họ hàng bên ngoại của Võ Tắc Thiên, mẹ của Đường Túc Tông. Mất sớm, Túc Tông truy tôn làm Nguyên Hiến Hoàng hậu (元獻皇后).
  4. Đổng Quý phi (董贵妃), Lương đệ (良娣) của Đường Minh Hoàng khi ông còn là Hoàng thái tử.
  5. Dương Thục phi (杨淑妃), Lương đệ (良娣) của Đường Minh Hoàng khi ông còn là Hoàng thái tử.
  6. Võ Hiền phi (武贤妃), Lương viên (良媛) của Đường Minh Hoàng khi ông còn là Hoàng thái tử.
  7. Dương Quý phi (楊貴妃, 719 - 756), tên thật là Dương Ngọc Hoàn (楊玉環), hiệu Thái Chân (太真), một trong Tứ đại mỹ nhân của lịch sử Trung Quốc.
  8. Triệu Lệ phi (趙麗妃, 692 - 726), xuất thân kỹ nữ Lộ Châu, hát hay múa đẹp nhưng thân phận ti tiện, mẹ của Phế Thái Tử Lý Anh (李瑛).
  9. Lưu Hoa phi (刘华妃).
  10. Tiền Đức phi (錢德妃).
  11. Hoàng Phủ Thục phi (皇甫淑妃, 694 - 735), cha là Hoàng Phủ Nhật Hưu (皇甫日休), Huyền Tông nạp làm thiếp, rất sủng ái. Sau khi đăng cơ, phong làm Đức nghi (德儀).
  12. Lâm Chiêu nghi (林昭仪).
  13. Võ Hiền nghi (武賢儀).
  14. Quách Thuận nghi (郭順儀).
  15. Đổng Phương nghi (董芳儀).
  16. Liễu Tiệp dư (柳婕妤).
  17. Cao Tiệp dư (高婕妤).
  18. Chung Mỹ nhân (鍾美人).
  19. Lư Mỹ nhân (盧美人).
  20. Vương Mỹ nhân (王美人).
  21. Đỗ Mỹ nhân (杜美人).
  22. Lưu Tài nhân (劉才人).
  23. Diêm Tài nhân (閻才人).
  24. Trần Tài nhân (陳才人).
  25. Trịnh Tài nhân (鄭才人).
  26. Cao Tài nhân (高才人).
  27. Thường Tài nhân (常才人).
  28. Hạng thị (项氏).
  29. Tào Dã Na Cơ (曹野那姬).
  30. Mai phi (梅妃, 710 - 755), tên thật là Giang Thái Tần (江采蘋), nổi tiếng với điệu múa Kinh Hồng vũ (惊鸿舞) và bài Lâu Đông phú (樓東賦). Các học giả Trung Quốc cho rằng bà chỉ là một nhân vật được hư cấu trong thi ca.
  • Hậu duệ:
  1. Khánh Vương Lý Tông [李琮, ? - 753), truy phong Tĩnh Đức Thái tử (靖德太子) sau khi mất, truy phong Phụng Thiên Hoàng đế (奉天皇帝) dưới triều Đường Túc Tông, mẹ Lưu Hoa phi.
  2. Phế Thái tử Lý Anh [李瑛, 700 - 737], bị phế và bị xử tử năm 737, phục hồi danh hiệu Thái tử năm 762 dưới triều Đường Túc Tông, mẹ Triệu Lệ phi.
  3. Đường Túc Tông Lý Hanh [李亨], mẹ Dương Quý tần.
  4. Lệ Vương Lý Diễm [李琰, ? - 752], mẹ Tiền Đức phi.
  5. Ngạc Vương Lý Dao [李瑤], phế thành thứ dân và bị xử tử năm 737, phục hồi tước vị năm 762, mẹ Hoàng Phủ Thục phi.
  6. Chân Vương Lý Uyển [李琬, 710 - 755], truy phong Tĩnh Cung Thái tử (靖恭太子) sau khi mất, mẹ Lưu Hoa phi.
  7. Quang Vương Lý Cư [李琚], phế thành thứ dân và bị xử tử năm 737, phục hồi tước vị năm 762, mẹ Lưu Tài nhân.
  8. Hạ Điệu Vương Lý Nhất [李一, ? - 717], mẹ Võ Huệ phi.
  9. Nghi Vương Lý Toại [李璲, ? - 765], mẹ Lưu Hoa phi.
  10. Toánh Vương Lý Kiểu [李璬, 718 - 783], mẹ Cao Tiệp dư.
  11. Hoài Ai Vương Lý Mẫn [李敏, 719 - 720], mẹ Võ Huệ phi.
  12. Vĩnh Vương Lý Lân [李璘], nổi loạn và bị giết năm 757, mẹ Quách Thuận nghi.
  13. Thọ Vương Lý Mạo [李瑁, ? - 775], mẹ Võ Huệ phi.
  14. Diên Vương Lý Duẫn [李玢, ? - 784], mẹ Liễu Tiệp dư.
  15. Thịnh Vương Lý Kỳ [李琦, ? - 764], mẹ Võ Huệ phi.
  16. Tế Vương Lý Hoàn [李環, ? - 768], mẹ Chung Mỹ nhân.
  17. Tín Vương Lý Vũ [李瑝, ? - 774], mẹ Lô Mỹ nhân.
  18. Nghĩa Vương Lý Hiểm [李玼, ? - 784], mẹ Diêm Tài nhân.
  19. Trần Vương Lý Khuê [李珪, ? - 784], mẹ Vương Mỹ nhân.
  20. Phong Vương Lý Củng [李珙, ? - 763], mẹ Trần Tài nhân.
  21. Hằng Vương Lý Thiến [李瑱], mẹ Trịnh Tài nhân.
  22. Lương Vương Lý Tuyền [李璿], mẹ Võ Hiền nghi.
  23. Biện Ai Vương Lý Kính [李璥], mẹ Võ Hiền nghi.
  24. Vĩnh Mục Công chúa (永穆公主), mẹ Liễu Tiệp dư, hạ giá Vương Dao (王繇).
  25. Thường Phân Công chúa (常芬公主), hạ giá Trương Khứ Xa (张去奢).
  26. Hiếu Xương Công chúa (孝昌公主), chết yểu.
  27. Đường Xương Công Chúa (唐昌公主), hạ giá Tiết Tú (薛锈).
  28. Linh Xương Công chúa (靈昌公主), chết yểu.
  29. Thường Sơn Công chúa (常山公主), hạ giá Tiết Đàm (薛谭), sau lấy Đậu Trạch (窦泽).
  30. Vạn An Công chúa (萬安公主), xuất gia.
  31. Thượng Tiên Công chúa (上仙公主), mẹ Võ Huệ phi, chết yểu.
  32. Hoài Tư Công chúa (懷思公主), chết yểu.
  33. Tấn Quốc Công chúa (晉國公主), trước phong Cao Đô Công chúa (高都公主), hạ giá Thôi Huệ Đồng (崔惠童).
  34. Tân Xương Công chúa (新昌公主), hạ gá Tiêu Hành (萧衡).
  35. Lâm Tấn Công chúa (臨晉公主), mẹ Hoàng Phủ Thục phi, hạ giá Trịnh Tiềm Diệu (鄭潜曜).
  36. Vệ Quốc Công chúa (衛國公主), trước phong Kiến Bình Công chúa (建平公主), trước lấy Đậu Lô Kiến (豆卢建), sau lấy Dương Thuyết (杨说).
  37. Chân Dương Công chúa (真陽公主), hạ giá Nguyên Thanh (源清), sau lấy Tô Chấn (苏震).
  38. Tín Thành Công chúa (信成公主), mẹ Diêm Tài nhân, hạ giá Độc Cô Minh (独孤明).
  39. Sở Quốc Công chúa (楚國公主), trước phong Thọ Xuân Công chúa (寿春公主), hạ giá Ngô Trừng Giang (吴澄江).
  40. Xương Nhạc Công chúa (昌樂公主), mẹ Cao Tài nhân, hạ giá Đậu Ngạc (窦锷).
  41. Vĩnh Ninh Công chúa (永寧公主), hạ giá Bùi Tề Khâu (裴齐丘).
  42. Tống Quốc Công chúa (宋國公主), trước phong Bình Xương Công chúa (平昌公主), hạ giá Ôn Tây Hoa (温西华), sau lấy Dương Huy (杨徽).
  43. Tề Quốc Công chúa (齊國公主), mẹ Dương Quý tần, trước phong Hưng Tín Công chúa (兴信公主), hạ giá Bùi Toánh (裴颍), sau lấy Dương Phu (杨敷).
  44. Hàm Nghi Công chúa (咸宜公主), mẹ Võ Huệ phi, hạ giá Dương Hồi (杨洄), sau lấy Thôi Tung (崔嵩).
  45. Nghi Xuân Công chúa (宜春公主), mẹ Lâm Chiêu nghi, chết yểu.
  46. Quảng Ninh Công chúa (廣寧公主), mẹ Đổng Phương nghi, hạ giá Trình Xương Dận (程昌胤), sau lấy Tô Khắc Trinh (苏克贞).
  47. Vạn Xuân Công chúa (萬春公主), mẹ Đỗ Mỹ nhân, hạ giá Dương Phỉ (杨朏), sau lấy Dương Kỹ (杨锜).
  48. Thái Hoa Công chúa (太華公主), mẹ Võ Huệ phi, hạ giá Dương Kỹ (杨锜).
  49. Thọ Quang Công chúa (壽光公主), mẹ Trịnh Tài nhân, hạ giá Quách Dịch (郭液).
  50. Nhạc Thành Công chúa (樂城公主), hạ giá Tiết Lí Khiêm (薛履谦).
  51. Tân Bình Công chúa (新平公主), mẹ Thường Tài nhân, hạ giá Khương Khánh Sơ (姜庆初).
  52. Thọ An Công chúa (壽安公主), mẹ Tào Dã Na Cơ, hạ giá Tô Phát (苏发).

Chú thích

  1. ^ a ă â Lên ngôi sau khi vua cha Đường Duệ Tông) nhận tước Thái Thượng Hoàng (太上皇). Trên thực tế, Duệ Tông chỉ trị vì cho đến cuộc chính biến ngày 29 tháng 7 năm 713, và Huyền Tông đã nhận đầy đủ quyền lực từ vua cha ngày 30 tháng 7.
  2. ^ a ă â Sau loạn An Sử, con trai của Huyền Tông đã được quân đội tuyến bố là Hoàng Đế (Đường Túc Tông) vào ngày 12 tháng 8 năm 756, nhưng Huyền Tông và đoàn tùy tùng chạy đến Tứ Xuyên, chỉ nghe được tin này vào ngày 10 tháng 9 năm 756, ngày này đánh dấu sự chấm dứt của thời kỳ trị vì Huyền Tông trên thực tế
  3. ^ Đây là tên mà Đường Huyền Tông được gọi phổ biến nhất ở trong Trung Quốc
  4. ^ Lưu ý: Tất cả các ngày dương lịch trong bài này là ngày theo lịch Julius, không phải ngày theo lịch Gregory.
  5. ^ Cả hai vị vua trước ông là Đường Trung Tông và Đường Duệ Tông đều ở ngôi hai lần không liên tục
  6. ^ a ă Tân Đường thư, quyển 76, liệt truyện quyển 1
  7. ^ Tư trị thông giám, quyển 205
  8. ^ a ă Tân Đường thư, quyển 4, Bản kỉ 4
  9. ^ a ă Cựu Đường thư, quyển 8, Bản kỉ 8
  10. ^ Do chị Thái hậu là Hàn Quốc phu nhân sinh ra, được Đường Cao Tông phong làm thái tử năm 775, sau bị Thái hậu hãm hại và bức tử
  11. ^ Tư trị thông giám, quyển 207
  12. ^ a ă â Tư trị thông giám, quyển 209
  13. ^ Tân Đường thư, quyển 121, liệt truyện 46
  14. ^ Cựu Đường thư, quyển 51, liệt truyện quyển 1
  15. ^ Cựu Đường thư, quyển 7, Bản kỉ 7
  16. ^ a ă Tư trị thông giám, quyển 210
  17. ^ Cựu Đường thư, quyển 107, liệt truyện 57
  18. ^ Lúc này đã đổi tên thành Diêu Sùng do kị huý vào niên hiệu Khai Nguyên
  19. ^ a ă â Tư trị thông giám, quyển 211
  20. ^ Cựu Đường thư, quyển 7, Bản kỉ 7
  21. ^ Tân Đường thư, quyển 125, liệt truyện 49
  22. ^ Cựu Đường thư, quyển 96, liệt truyện 46
  23. ^ Cựu Đường thư, quyển 99, liệt truyện 49
  24. ^ Tân Đường thư, quyển 127, liệt truyện 52
  25. ^ Cựu Đường thư, quyển 98, liệt truyện 48
  26. ^ a ă â Tư trị thông giám, quyển 213
  27. ^ Cựu Đường thư, quyển 105, liệt truyện 55
  28. ^ Cựu Đường thư, quyển 106, liệt truyện 56
  29. ^ Lý Thất Hoạt đã chết cuối năm 718
  30. ^ Cựu Đường thư, quyển 194, liệt truyện 144
  31. ^ a ă Cam Túc, Trung Quốc hiện nay
  32. ^ a ă â b Tư trị thông giám, quyển 212
  33. ^ Tân Đường thư, quyển 219, liệt truyện 144
  34. ^ Cựu Đường thư, quyển 2, chí 9
  35. ^ Tân Đường thư, quyển 5, Bản kỉ 5
  36. ^ Cựu Đường thư, quyển 8
  37. ^ Cựu Đường thư, quyển 51, liệt truyện 1
  38. ^ Nguyên tên là Tự Khâm, con Triệu Lệ Phi, sau đổi là Hồng
  39. ^ Cựu Đường thư, quyển 103, liệt truyện 53
  40. ^ Huyền Tông đổi tên Lý Hồng thành Lý Anh
  41. ^ Cựu Đường thư, quyển 107, liệt truyện 57
  42. ^ Tân Đường thư, quyển 6, Bản kỉ 6
  43. ^ Tân Đường thư, quyển 131, liệt truyện 56
  44. ^ Cựu Đường thư, quyển 99, liệt truyện 49
  45. ^ Tư trị thông giám, quyển 215
  46. ^ Tư trị thông giám, quyển 214
  47. ^ Tân Cương, Trung Quốc hiện nay
  48. ^ Ngân Xuyên, Linh Hạ hiện nay
  49. ^ Thái Nguyên, Sơn Tây hiện nay
  50. ^ Gần thủ đô Bắc Kinh
  51. ^ Triều Dương, Liêu Ninh hiện nay
  52. ^ Hải Đông, Thanh Hải hiện nay
  53. ^ Thành Đô, Tứ Xuyên hiện nay
  54. ^ Quảng Châu, Quảng Đông hiện nay
  55. ^ Phúc Châu, Phúc Kiến hiện nay
  56. ^ Nay đều thuộc tỉnh Sơn Đông
  57. ^ Tư trị thông giám, quyển 216
  58. ^ Cựu Đường thư, quyển 200, liệt truyện 150
  59. ^ Nguyên tên là Dương Chiêu, con trai của Trương Dịch Chi
  60. ^ Cuối thời Huyền Tông đã cho đổi Hộ bộ thành Văn bộ, Hình bộ thành Vũ bộ
  61. ^ Tư trị thông giám, quyển 217
  62. ^ Tam Môn, giáp Hà Nam, Trung Quốc hiện nay
  63. ^ Tân Đường thư, quyển 225, liệt truyện 150
  64. ^ Hà Bắc, Trung Quốc ngày nay
  65. ^ Đại Đồng, Sơn Tây, Trung Quốc
  66. ^ Phía bắc huyện Sóc, Sơn Tây, Trung Quốc hiện nay
  67. ^ huyện Định, Hà Bắc, Trung quốc hiện nay
  68. ^ Tư trị thông giám, quyển 217
  69. ^ Nghi án Dương Quý phi chết ở Nhật Bản
  70. ^ Tư trị thông giám, quyển 218
  71. ^ Tân Đường thư, quyển 76, liệt truyện 1
  72. ^ Cựu Đường thư, quyển 9, Bản kỉ 9
  73. ^ An Khánh Tự giết chết An Lộc Sơn đầu năm 757
  74. ^ Tân Đường thư, quyển 137, liệt truyện 62
  75. ^ Tư trị thông giám, quyển 221
  76. ^ Tư trị thông giám, quyển 222

Liên kết ngoài

Đường Huyền Tông
Sinh: 8 tháng 9 năm 685 Mất: 3 tháng 5 năm 762
Tước hiệu
Tiền vị:
Đường Duệ Tông
Hoàng đế nhà Đường
712-756
Kế vị
Đường Túc Tông
Hoàng đế Trung Hoa (phần lớn các khu vực)
712-756
Hoàng đế Trung Hoa (Trung/Bắc)
712-756
Kế vị
An Lộc Sơn của Đại Yên
Video yêu thích 
http://www.youtube.com/user/hoangkimvietnam


Trở về trang chính
 
hoangkim vietnam, hoangkim, hoangkimvietnam,
Hoàng Kim, Ngọc Phương NamChào ngày mới Thung dung, Dạy và học, Cây Lương thực, Tin Nông nghiệp Việt Nam, Food Crops, Cassava in Vietnam, VietnamAfricaCassavaRice, Khát khao xanh, DayvahocHọc mỗi ngày,  Danh nhân Việt , Food Crops News, Điểm chính, CNM365, Kim LinkedIn, KimTwitter, KimFaceBook  Đọc lại và suy ngẫm, Việt Nam tổ quốc tôi, Tình yêu cuộc sốngThơ cho con

No comments:

Post a Comment