Đường Thái Tông
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Đường Thái Tông | |
---|---|
Hoàng đế Trung Hoa (chi tiết...) | |
Hoàng đế nhà Đường | |
Trị vì | 4 tháng 9, 626 – 10 tháng 7, 649[1] |
Tiền nhiệm | Đường Cao Tổ |
Kế nhiệm | Đường Cao Tông |
Thông tin chung | |
Hoàng hậu | Trưởng Tôn hoàng hậu |
Tên thật | Lý Thế Dân |
Niên hiệu | Trinh Quán: 4 tháng 9, 626 - 10 tháng 7, 649 |
Thụy hiệu | Đầy đủ: Văn Vũ Đại thánh Đại quảng Hiếu hoàng đế Ngắn: Văn Hoàng Đế |
Miếu hiệu | Thái Tông |
Triều đại | Nhà Đường |
Thân phụ | Đường Cao Tổ |
Thân mẫu | Thái Mục hoàng hậu Đậu thị |
Sinh | 23 tháng 1, 599 |
Mất | 10 tháng 7, 649 (50 tuổi) Trung Quốc |
An táng | Chiêu lăng |
Mục lục
Thân thế
Lý Thế Dân là con trai thứ hai của Đường Cao Tổ Lý Uyên - vị vua khai quốc Đại Đường. Mẹ ông là Thái Mục hoàng hậu.Lý Thế Dân rất giỏi võ nghệ, có tài cầm quân, sử dụng binh pháp, lại rất can đảm, không nề những việc nguy hiểm nhất, khi tấn công thì như vũ bão. Nhất là biết lựa người và dùng người, không ngại dùng kẻ thù cũ đã đầu hàng mình. Có lần cha ông là Lý Uyên tính giết Lý Tĩnh vì một mối hận riêng, Lý Tĩnh la lên: "Ông muốn đem thái bình cho quốc gia và cứu nhân dân mà việc đầu tiên của ông là giết một người vô tội để trả một mối thù riêng!". Thế Dân thấy vậy, xin cha tha cho Lý Tĩnh, và sau Lý Tĩnh thành một tướng danh tiếng của nhà Đường. Vì vậy mà các tướng sĩ đều phục Thế Dân, và mới 18 tuổi, chàng đã nắm binh quyền trong tay, thu phục được nhiều tướng tài, tận tâm như Lý Tĩnh, Uất Trì Kính Đức, Tần Thúc Bảo...
Thống nhất Trung Quốc
Lý Thế Dân là người động viên cha đứng lên khởi nghĩa chống lại nhà Tùy tại Thái Nguyên năm 617 và là người chỉ huy quân đội đi thu phục hầu hết các vùng đất quan trọng bị chia rẽ sau khi thành lập nhà Đường, từ các đối thủ bao gồm: Tần Vương Tiết Nhân Cảo, Định Dương Khả hãn Lưu Vũ Chu, Trịnh Vương Vương Thế Sung và Hạ Vương Đậu Kiến Đức. Với sự dẫn dắt của nhà Đường nói chung và tài mưu trí thao lược của Lý Thế Dân nói riêng nên Trung Quốc đã dần thống nhất sau khi nhà Tùy sụp đổ.Bình định phía Tây
Trong những năm 618-620, Thế Dân bình phục được hết miền Tây Bắc Trung Hoa, thắng một trận lớn ở Sơn Tây.Tháng 4 năm Vũ Đức thứ 2 đời Đường Cao Tổ (năm 619), Đột Quyết xúi giục Lưu Vũ Chu đánh Đường, tiến công Tiên Thứ (nay là Tiên Thứ thuộc tỉnh Sơn Tây), tập trung đánh Thái Nguyên. Quân Đường phải tăng viện mấy lần mà vẫn bị đại bại. Trấn giữ Thái Nguyên là Lý Nguyên Cát trong đêm dẫn bầu đoàn thê tử tháo chạy đến Trường An. Lưu Vũ Chu men theo phía nam Phần Thủy, Phổ Châu (Châu Trị nay thuộc Lâm Phần, Sơn Tây) tiến quân, hầu như không thành nào không phá. Tháng 10 lại qua Phổ Châu, Cối Châu (nay là Dực thành ở Sơn Tây). Cùng thời gian đó, một nông dân người Hạ Huyện tên là Lữ Sùng Mậu vì phản đối quân Tùy thực hiện vườn không nhà trống nên đã tập hợp quân khởi nghĩa cùng hưởng ứng với Lưu Vũ Chu. Vương Hành Bản trước cũng là Tùy tướng đang ở Bạc Bản cũng nhân cơ hội câu kết với Lưu Vũ Chu. Vì thế thành Hà Đông của nhà Đường trong phút chốc đã bị thất thủ.
Được tin Thái Nguyên thất thủ, Lý Uyên vô cùng kinh hãi: "Cường binh Phổ Dương có tới hàng vạn, lương thảo có thể dừng cả 10 năm, một nơi hưng thịnh như vậy mà phải mất vào tay bọn chúng". Quan Trung bị đe dọa, lòng người hoang mang nhụt mất chí phòng thủ. Lý Uyên thấy khó lòng mà chống cự, đành phải "hy sinh phía đông Hoàng Hà, thận trọng gìn giữ Quan Trung".
Lý Thế Dân thì lại không chịu buông xuôi mà cho rằng chỉ cần nỗ lực giành giật lại Hà Đông để tranh thủ tình hình có lợi ban đầu là có thể giữ được, hăng hái xung phong dẫn 3 vạn tinh binh đi bắt Lưu Vũ Chu, chiếm lại thành đã mất.
Lý Thế Dân quyết lợi dụng khoảng thời gian tháng 11 năm nay sông Hoàng Hà đóng băng, dẫn quân vượt qua sông đến đóng quân tại Bách Bích (nay là phía tây nam Tân Triết, tỉnh Sơn Tây) - nơi có thể trông thấy thuộc hạ của Lưu Vũ Chu là Tống Kim Cương. Tống Kim Cương vốn là thủ lĩnh một đội nghĩa quân hơn vạn người ở Dị Châu (nay là Dị Huyện, Hà Bắc) vừa bị Đậu Kiến Đức đánh bại nay quy hàng theo Lưu Vũ Chu, trở thành em rể của Lưu Vũ Chu.
Lý Thế Dân hiểu rằng đối với một kẻ thù hung mãnh như vậy, chỉ có thể bằng cách tranh thủ lúc có thời cơ thuận lợi mới có thể tiêu diệt; khinh suất manh động thì chỉ có thể bại. Vì vậy, sau khi định quân ở Bách Bích, chỉ cho bộ phận nhỏ binh mã ra quấy nhiễu, còn quân chủ lực kiên quyết không ra đánh, nằm im chờ cơ hội. Tống Kim Cương ra sức công thành nhưng Lý Thế Dân vẫn nằm im bất động, chỉ dùng cung bắn tên để đuổi lui quân địch.
Tháng 12, Lý Thế Dân cho một đội quân dùng chiến thuật "địch tiến ta lùi, địch lùi ta tiến" liên tục gặp thuận lợi và giành thắng lợi liên tiếp. Tướng lĩnh nhà Đường sốt ruột, thi nhau thỉnh chiến. Lý Thế Dân lại nhận thấy thời cơ chưa đến nên bỏ ngoài tai tất cả và ra nghiêm lệnh nằm im tịnh thủ Bách Bích.
Mãi tới tháng 4 năm sau, Tống Kim Cương mặc dù có tinh binh mãnh tướng nhưng rồi nhuệ khí cũng giảm. Lương thực dự trữ trong kho đã hết, hiện hoàn toàn duy trì bằng cách đi cướp bóc, lại thấy Lý Thế Dân cố thủ không chịu đánh, không có cách nào giành thắng lợi sớm nên đành cho bọn Tầm Tương đi sau yểm trợ để tản về phía bắc. Khi đó Lý Thế Dân mới chụp lấy cơ hội phá cổng thành, quyết đánh không tha.
Lý Thế Dân đuổi kịp và đại phá quân Tầm Tương tại Lữ Châu (nay là Hoắc Huyện, tỉnh Sơn Tây). Sau đó không một phút chậm trễ, tiếp tục đuổi theo, một ngày đêm hành quân hơn 200 dặm, đánh hơn 10 trận lớn nhỏ. Đuổi đến Cao Bích Lĩnh (nay thuộc phía nam Linh Thạch, tỉnh Sơn Tây) thì quân Lý Thế Dân cũng hết lương thảo, sĩ tốt cũng mệt mỏi nhiều. Lưu Hoằng Cơ vội kéo dây cương ngựa của Lý Thế Dân nói rằng: "Quân sĩ đói mệt, cho dù thế nào cũng phải chờ lương thảo tới. Đợi quân sĩ no bụng có đủ dũng khí rồi đuổi tiếp cũng chưa muộn mà!". Nhưng Lý Thế Dân bảo: "Tống Kim Cương cùng đường tháo chạy, quân lính đang phân tâm. Nếu chờ lương thảo tới, một khi cơ hội đã mất đi thì khi đó có hối cũng muộn rồi!". Nói rồi lại giục ngựa đuổi theo, đuổi đến Tước Thử Cốc (nay là Hiệp Cốc ở phía tây nam Giới Tức, tỉnh Sơn Tây), trong một ngày giao đấu với Tống quân 8 hiệp, bắt giết hơn vạn người, Tống Kim Cương lại tiếp tục tháo chạy.
Tướng sĩ cũng đang rất đói lại phải nhanh chóng tiến quân về phía bắc. Tống Kim Cương trong tay chỉ còn hơn vạn binh sĩ, vừa mới đến thành Giới Hưu, không thể ngờ rằng Lý Thế Dân đã đuổi đến nơi nên vừa lâm trận đã bị đánh bại bỏ lại binh mã tháo chạy về phía bắc.
Lý Thế Dân đang tìm cách chiêu hàng thuộc hạ của Tống Kim Cương là Uất Trì Cung và Tầm Tương thì có người vào báo: Lưu Vũ Chu ở Tịnh Châu (tức Thái Nguyên, thấy Tống Kim Cương bị thất bại hoàn toàn sợ Lý Thế Dân đuổi đến nên đã tháo chạy về phía bắc. Nghe tin, Lý Thế Dân vội vã dẫn kỵ binh ngày đêm bắc tiến. Lưu Vũ Chu, Tống Kim Cương quả thật bị sợ hãi vô cùng chi biết đem hơn 100 kỵ binh nhằm hướng Đột Quyết mà đi, về sau bị bỏ mạng ở Đột Quyết.
Vùng Hà Đông lại quay về với Lý Đường, một lần nữa thế tranh hùng hướng Đông của nhà Đường lại xuất hiện.
Bình định phía Đông
Hai năm 620-622, Thế Dân chuyển quân qua phía Đông, đánh Trịnh Vương là Vương Thế Sung ở Lạc Dương (Đông Kinh), để tiến tới Sơn Đông.Tháng 7 năm 620, Lý Thế Dân thống lãnh 7 đạo quân, 25 đại tướng và hơn 10 vạn binh mã tiến đánh Lạc Dương với mục đích tiêu diệt thành Lạc Dương của Vương Thế Sung. Đến tháng 9 đã quét sạch được cứ điểm ngoại vi, vây khốn Lạc Dương.
Lý Thế Dân muốn đánh nhanh hạ gục thành nhưng không ngờ Vương Thế Sung dựa vào thế thành cao hào sâu cố thủ, dằng dai mãi đến đầu năm sau mà thế cục chẳng mấy sáng sủa. Vương Thế Sung bị vây trong thành mấy tháng, quân dân đều đói, sai người cầu cứu với Hạ vương là Đậu Kiến Đức.
Khi hay tin, Đậu đem 30 vạn quân tới cứu Lạc Dương. Đậu Kiến Đức muốn duy trì thế chân vạc giữa ba nước, sợ nếu Vương Thế Sung thất thủ thì lực lượng của nhà Đường càng lớn mạnh, đến lúc đó thì vận mệnh của mình khó tránh hiểm nguy nên vội vã dấy binh ngày đêm đi cứu viện.
Các tướng của Thế Dân ngại không chống nổi cả hai mặt, muốn rút quân vây Lạc Dương về. Thế Dân cương quyết không nghe. Ông cho rằng: Đậu Kiến Đức đích thân dẫn quân đến tăng viện, thế đang mạnh. Nếu sợ hãi rút lui để cho Đậu - Vương hợp sức với nhau thì càng nguy. Vương Thế Sung đơn độc cố thủ giữ thành, quân tàn, lương thực hết, không khó khăn gì có thể kiềm chế được. Quân Đậu Kiến Đức vừa chiến thắng, quân sĩ đang trong lúc tự mãn sinh lười biếng. Nếu quân đội của ta dám nghênh đón trước, giữ lấy cửa Hổ Lao thì có thể chẹt được yết hầu quân Đậu Kiến Đức. Nếu sợ hãi lui quân thì mất đi cơ hội tốt, đợi khi quân Đậu Kiến Đức vượt qua Hổ Lao, đúng lúc những khu vực gần thành Lạc Dương vừa lấy được bị Đậu Kiến Đức cướp mất thì quân Đường mới thực sự rơi vào nguy hiểm.
Thế là, Lý Thế Dân ra lệnh cho Lý Nguyên Cát, Khuất Đột Thông tiếp tục vây khốn Lạc Dương, chỉ chọn cách vây mà không đánh. Còn bản thân mình thì lãnh đạo Lý Thế Tích, Trình Tri Tiết, Tần Thúc Bảo, Uất Trì Kính Đức, chỉ rút một phần nhỏ là 3.500 quân; và dùng 3.500 quân đó với 1 vạn quân trong đồn Tị Thủy ở gần Lạc Dương để chống với 10 vạn quân của Đậu Kiến Đức. Ông dùng chiến thuật tập kích, đánh phá những đoàn tiếp tế lương thực của Đậu.
Đậu Kiến Đức quyết định dốc hết toàn lực quyết một trận với quân Đường. Ông ta đã sắp xếp binh mã, bày binh bố trận, phía bắc dựa vào con sông lớn, phía nam dựa vào núi, phía tây đến tận Phiếm Thủy, trận địa rộng đến hơn 20 dặm. Lý Thế Dân đem theo Uất Trì Kính Đức lên trên cao nhìn xuống để tìm ra chỗ sơ hở và nhược điểm của quân địch. Sau một hồi xem xét, Lý Thế Dân bèn nói: "Nay tuy chúng đã bày trận lớn nhưng vẫn nhốn nháo vô độ, hàng ngũ cũng mất trật tự, thể hiện sự vô tổ chức, vô kỷ luật. Ta mà không có động tĩnh gì thì dũng khí của đối phương sẽ tự suy sụp. Lâu dần như vậy binh sĩ sẽ mệt mỏi, tất sẽ đều muốn quay về. Ta có thể khẳng định rằng chỉ trong một ngày, chỉ cần một đội tinh binh cũng có thể tiêu diệt được toàn bộ quân Đậu".
Quả nhiên quân Đậu bày trận từ sáng đến trưa, quân sĩ không được ăn uống gì nên đều vừa đói vừa mệt, đội ngũ hỗn loạn. Lý Thế Dân lệnh cho Vũ Văn Sĩ dẫn 300 kỵ binh hành quân từ phía bắc hướng về phía nam đến trước trận địa của quân Đậu, nếu thấy trận địa của địch nghiêm chỉnh thì không được đánh mà phải nhanh chóng quay về, còn nếu thấy thế trận dao động thì phải nhân thế mà đột kích. Thế trận của quân Đậu quả nhiên rất loạn, Lý Thế Dân lập tức lệnh cho toàn quân xuất kích, đánh đến đâu là quân Đậu tan tác đến đó. Trình Tri Tiết, Tần Thúc Bảo cùng với mãnh tướng đến từ Tây Đột Quyết - Sử Đại Nại cùng các kỵ binh sau khi xông thẳng vào quân Đậu thì trước tiên là cuốn cờ của quân Đường lại, xông thẳng từ trước ra sau quân Đậu rồi mới giương cao cờ giết quân Đậu từ phía sau. Quân Đậu rơi vào thế hỗn loạn vô cùng.
Quân Đậu tan tác, quân Đường thừa thắng truy kích đến hơn 30 dặm, bắt giữ được hơn 5 vạn tù binh, bắt sống được Đậu, đưa về thành Lạc Dương cho Vương Thế Sung thấy. Vương phải đầu hàng.
Quân Thế Dân vào chiếm thành, quân lệnh nghiêm ngặt, không cướp bóc giết hại một người dân. Vậy là chỉ trong một trận mà Thế Dân thắng được hai nước Trịnh và Hạ, làm chủ được trọn Hoa Bắc.
Bình định phía Nam
Tại Hoa Nam có hai tiểu vương, một làm chủ phía Tây, một làm chủ phía Đông ở Nam Kinh. Tiêu Tiển là dòng dõi nhà Lương, khởi binh ở Hồ Nam, mới được 5 ngày đã quy phục được mấy vạn người. Vì thế ông đã tự xưng làm hoàng đế nhà Lương, định đô ở Giang Lăng (Giang Lăng, Hồ Bắc ngày nay). Đến năm đầu Đường Vũ Đức (năm 618) đã có đến hơn 40 vạn binh, chiếm cứ cả một vùng rộng lớn, phía nam từ Giao Chỉ, phía bắc đến Hán Thủy, phía tây đến Tam Hiệp, phía đông đến Cửu Giang.Nhà Đường đã chiếm được Tứ Xuyên ở thượng lưu sông Dương Tử. Thế Dân sai Lí Tĩnh dùng thuyền chở quân, từ Tứ Xuyên đổ xuống một cách bất ngờ. Tháng 9 cũng đúng vào mùa lũ, nước sông Trường Giang dâng cao, tướng sĩ đều cho rằng lúc này không thể dùng thuyền được. Lý Tĩnh lại khuyên Lý Hiếu Cung lập tức tiến quân, tiến công hết tốc lực, Tiêu Tiến chắc chắn không kịp phòng bị, tất sẽ bị bắt.
Lý Hiếu Cung đã chọn cách của Lý Tĩnh, đích thân dẫn hơn 2000 chiến hạm cùng với Lý Tĩnh tiến công ngay trong ngày hôm đó. Phòng tuyến dọc sông của Tiêu Tiển tuy có mà cũng như không, ngay lập tức bị quân Đường đập tan, thu được hơn 300 chiến hạm. Tiêu Tiến thấy mùa lũ đến nên đã giải tán quân để đi lo việc nông vụ ở các nơi, vì thế đành phải dùng các binh sĩ già bày trận nghênh chiến. Quân của Lý Tĩnh đại phá quân địch, đuổi đến tận dưới chân đô thành của Tiêu Tiển, sau đó chia quân đi thu nhặt được vô số chiến hạm.
Lý Hiếu Cung lại chọn kế sách của Lý Tĩnh, ra quân lệnh nghiêm cấm việc cướp giết. Vì thế mà các châu huyện ở phía nam nghe tin đều đến quy phục. Hơn 10 vạn viện binh cũng cởi giáp xin hàng. Nước Lương ở phía Tây phải đầu hàng. Rồi thừa thế, quân Lí Tĩnh xuôi dòng chiếm nốt Nam Kinh (622). Sau đó chỉ còn phải dẹp những bọn phản loạn nhỏ, và từ năm 625, nhà Đường cơ bản thống nhất Trung Hoa.
Thời Nhà Đường, Trung Quốc thịnh trị cả về văn hóa, kinh tế và chính trị nên được gọi là "Thịnh Thế Thiên Triều".
Sự biến cửa Huyền Vũ
Sự biến cửa Huyền Vũ (Huyền Vũ môn chi biến) là sự kiện tranh giành quyền lực giữa các con trai Đường Cao Tổ là Thái tử Lý Kiến Thành, Tần Vương Lý Thế Dân và Tề Vương Lý Nguyên Cát. Kiến Thành và Nguyên Cát liên minh chống lại Thế Dân, hai bên mâu thuẫn gay gắt, ra sức xây dựng thế lực riêng và dùng nhiều thủ đoạn để triệt hạ lẫn nhau.Những năm 625, 626, cảm thấy sự tranh đoạt ngôi vị giữa các con sẽ gây ảnh hưởng xấu cho triều Đường mới thành lập, Lý Uyên dần dần tỏ ý muốn cắt giảm quyền lực của Lý Thế Dân, củng cố ngôi vị Thái tử. Trong khi Lý Kiến Thành chủ động xin đi đánh dẹp Lưu Hắc Thát và chiến thắng trở về, địa vị càng thêm vững chắc thì hàng loạt thuộc hạ của Lý Thế Dân bị điều động đi xa, cùng năm đó Đột Quyết xâm lấn, Đường Cao Tổ cũng không cử Lý Thế Dân đi đánh dẹp như thường lệ mà giao việc này cho Lý Nguyên Cát. Lý Thế Dân biết ý cha mình đã định nên quyết định ra tay trước. Theo mưu kế của thuộc hạ, Lý Thế Dân dâng tấu tố cáo Lý Kiến Thành và Lý Nguyên Cát tư thông với hậu cung, khiến Đường Cao Tổ hoài nghi, cho triệu cả ba vào cung tra xét thực hư. Lý Thế Dân ngầm đặt phục binh ở cửa Huyền Vũ, đợi lúc Kiến Thành và Nguyên Cát đi vào liền đổ ra giết chết cả hai. Lý Kiến Thành bị Thế Dân bắn chết, Lý Nguyên Cát bị Uất Trì Kính Đức giết chết. Lúc này, Phùng Dực, Phùng Lập là thuộc hạ của Thái tử và các tướng lĩnh trong phủ Tề Vương như Tiết Vạn Triệt đã dẫn hàng ngàn binh mã tấn công Huyền Vũ môn nhưng chưa phá được thì Uất Trì Kính Đức đã chặt thủ cấp của Lý Kiến Thành và Lý Nguyên Cát để phủ dụ. Thấy Thái tử, Tề Vương đều đã chết, đạo binh mã này mới tan.
Đây là một vết đen trong đời Thế Dân, chẳng những anh và em ông bị giết, mà theo lệ, 5 người con trai của Kiến Thành và 5 người con trai của Nguyên Cát cũng bị hành hình, sợ họ sẽ trả thù cho cha.[2]
Vua cha Cao Tổ sửng sốt trước sự biến, nhưng trước việc đã rồi, ông không thể trị tội nốt Thế Dân vì bản thân Thế Dân là người có công chinh chiến đánh dẹp để dựng lên cơ nghiệp nhà Đường, có nhiều uy tín với trăm quan và có vây cánh mạnh. Vì thế Đường Cao Tổ đã khôn khéo rút lui, nhường ngôi cho Thế Dân, lên làm Thái thượng hoàng, sống an nhàn tới cuối đời (mất năm 635).
Năm 626, Lý Thế Dân lên ngôi, tức là vua Đường Thái Tông.
Trị vì
Đối nội
Sau khi Đường Cao Tổ qua đời, Thái Tông thả ngay 3.000 cung nữ của Cao Tổ, cho về với cha mẹ.[3]Đường Thái Tông là vị vua giỏi việc cai trị quốc gia. Tùy Dạng Đế sau khi giành được ngôi hoàng đế vội vàng ăn chơi xa xi vô độ, kết quả biến nhà Tùy từ một đế quốc giàu có bậc nhất thành một vương triều đoản mệnh. Lý Thế Dân không lặp lại sai lầm đó. Ông thực hành một loạt chính sách giảm nhẹ sưu thuế, thúc đẩy sản xuất. Ông nói:
“ |
Muốn làm vua được tốt, cần trước tiên để trăm họ sống nổi. Nếu vì
mình mà làm tổn hại đến trăm họ, giống như cắt thịt đùi ăn vào bụng,
bụng no thì người cũng chết. |
” |
Đầu đời Trinh Quán, các địa phương ở Quan Trung liên tục 3 năm xảy ra tai nạn, Thái Tông hạ lệnh mở kho phát chẩn cho dân. Kết quả, sau nạn đói, mọi nhà vẫn còn lương ăn. Thái Tông còn hạ lệnh lấy vàng bạc, vải lụa trong kho của hoàng gia chuộc những nạn dân phải bán mình làm nô tì.
Đường Thái Tông chú ý cất nhắc nhân tài. Một lần ông phát hiện có một viên quan trình lên một bản sớ tấu viết rất hay, hỏi ra mới biết do một người không có bất kỳ chức vị gì tên Mã Chu viết, Thái Tông lập tức chọn ông ta làm quan, thăng thẳng lên đến Tể tướng. Đường Thái Tông biết Tể Tướng Phong Đức Di vì không tìm được nhân tài mà suốt ngày buồn rầu than thở, liền nói với ông ta:
- Dùng người như sử dụng đồ vật, mỗi người chọn lấy sở trường của họ, thì đâu có thiếu nhân tài kỳ sĩ. Lẽ nào thời thịnh trị ngày xưa lại phải mượn lấy nhân tài ở một thời đại khác? Đó chẳng qua là khanh không khéo biết người đó thôi.
Chính sách dùng thi cử để lựa người cai trị dân lúc đó là tiến bộ nhất đương thời. Nó làm cho quyền hành của giới quý tộc bị cha truyền con nối bị thay thế bằng quyền hành của giới bình dân nhưng có tài năng, trí tuệ.[3]
Đường Thái Tông rất thích câu nói cảnh giới của đại thần Ngụy Trưng: "Nghe rộng thì sáng, nghe thiên lệch thì tối", cho nên khi cùng tể tướng bàn việc đều gọi gián quan tham gia; đối với người dám chỉ ra sai lầm của vua, có khi còn đặc cách khen thưởng. Ông từng nói với quan viên 3 tỉnh (cơ quan nhà nước cấp cao):
- Theo chỉ ý của ta mà làm, không có một câu ý kiến bất đồng thì làm thế nào được? Từ nay về sau, nếu có chiếu sắc không thích hợp, cần chỉ ra, không được biết mà không nói.
“ |
Một đời mình tuy công lớn hơn lầm lỗi, nhưng "nếu đem so sánh với tận thiện tận mỹ thì còn rất đáng hổ thẹn. |
” |
Đối ngoại
Với Đột Quyết
Năm 626, chỉ sau khi Lý Thế Dân lên ngôi được 12 ngày, một dân tộc lớn mạnh ở phương Bắc là Đột Quyết do Hiệt Lợi lãnh đạo đã phát binh xuống phía Nam, đánh đến phía bắc Tiện Kiều, sông Vị Thủy, cách Trường An 40 dặm. Để chứng tỏ thực lực của triều Đường, Thái Tông thân dẫn các vị đại thần, phóng ngựa ra bờ sông Vị Thủy trách mắng Đột Quyết đã làm trái những điều thỏa thuận, buộc Đột Quyết lại phải cam kết liên minh lần nữa và lui binh.Năm 629, Đột Lợi lại cho quân cướp phá biên giới, như vậy là xé minh ước. Thái Tông sai Lý Tĩnh đem hơn 10 vạn đại quân Bắc phạt đánh Đột Quyết. Năm sau, quân Đường đánh bại Đột Quyết, giết 10 vạn lính Đột Quyết, bắt được trai gái 15 vạn người, bắt cả Khả hãn Hiệt Lợi. Đông Đột Quyết mất. Từ đó trở đi, Đường Thái Tông được Đột Quyết tôn làm Thiên Khả hãn.
Thổ Cốc Hồn cũng thường cướp phá biên giới gần miền ngọn sông Hoàng Hà, ở Cam Túc và Lương Châu. Năm 634, Thế Dân lại sai Lí Tĩnh đi dẹp. Lí Tĩnh chia quân làm 2 đạo, một đạo chính Lí chỉ huy, tiến lên phía bắc, một đạo do Hầu Quân Tập chỉ huy tiến theo dãy núi Côn Lôn ở phía Nam. Đạo phía Bắc phá tan quân Thổ Cốc Hồn ở dãy núi Kokongr; đạo phía Nam đã làm được một kì công: leo dãy núi Côn Lôn rất cao, tuyết phủ quanh năm, người và ngựa đều phải ăn băng và tuyết. Họ thình lình tập kích quân Thổ Cốc Hồn trên bờ một hồ nước tại ngọn sông Hoàng Hà. Quân Thổ Cốc Hồn hoảng hốt bỏ chạy; quân Đường đuổi theo. Tới Thanh Hải, Thổ Cốc Hồn bị quân Lí Tĩnh đón đầu và tận diệt. Khả hãn Thổ Cốc Hồn bị một tướng làm phản giết. Một Khả hãn khác lên thay, chịu thuần phục nhà Đường.
Với người Hồi giáo
Nhà tiên tri Muhammad (570 - 632), người sáng lập đạo Hồi ở Ả Rập đã viết thư cho ba đại đế thế giới thời bấy giờ là hoàng đế Đông La Mã Heraclius, hoàng đế Ba Tư Khosrau II và Đường Thái Tông, buộc họ phải chấp nhận đạo Hồi, nếu không thì sẽ bị trừng trị. Nhận được thư, Đường Thái Tông cho người Ả Rập ở Trung Hoa được xây thánh đường đầu tiên của họ ở phía Đông.[3]Với Cao Câu Ly
Cuộc chiến này không đạt mục đích trừng trị loạn thần tiếm ngôi mặc dù chiếm được Liêu Dương và nhiều thành khác, bắt 7 vạn người Cao Câu Ly làm nô lệ. Theo lệ, 7 vạn nô lệ đó sẽ được chia cho tướng sĩ, nhưng nhà vua không nỡ, thấy họ khóc lóc thảm thiết vì cha con vợ chồng phải chia ly, nên bỏ tiền ra chuộc họ và cho họ định cư ở Trung Quốc, kiếm việc làm ăn.[3]
Nghi vấn sửa sử
Theo Tư trị thông giám cuốn 196 và 197, Đường Thái Tông đã nhiều lần yêu cầu xem và sửa quốc sử.[4] Do vậy các nhà nghiên cứu lịch sử hiện đại có ý đặt ra nghi vấn về sự trung thực của các tài liệu sử học viết về Đường Thái Tông nói riêng và viết về thời kỳ này nói chung, đặc biệt là đoạn sử viết về Lý Kiến Thành và sự biến Huyền Vũ môn.Cuối đời
Gần cuối đời, Thái Tông phải thấy cảnh chính con trai là thái tử Lý Thừa Càn làm phản, muốn giết ông để cướp ngôi. Lý Thừa Càn vốn không chịu học hành, chỉ thích sống lêu lổng, dựng lều trong vườn cấm, cùng với một bọn lưu manh cướp bóc dân chúng đem về nhậu nhẹt, hát những bài hát Hồ. Nhiều đại thần khuyên Thái tông truất ngôi thái tử mà đưa người con khác lên, nhưng ông sợ các con sẽ dẫm vào vết xe đổ của chính mình nên không nghe theo, cứ giữ đúng tôn pháp nhà Chu, chỉ con cả của dòng vợ chính mới được nối ngôi.Sau Lý Thừa Càn nghe lời bạn xúi giục, âm mưu giết cha để cướp ngôi để mau được sống theo ý mình. Âm mưu bị lộ, Thái Tông không nỡ giết, chỉ đày đi Tứ Xuyên, năm sau Lý Thừa Càn chết tại đó.
Năm 649, Đường Thái Tông nên qua đời, hưởng thọ 51 tuổi, được truy tôn miếu hiệu là Thái Tông, thụy hiệu Văn hoàng đế, táng tại Chiêu lăng. Ông đưa Lý Trị lên thay làm Thái tử.
Đời Đường Thái Tông chỉ đặt 1 niên hiệu là Trinh Quán (626 – 649). Thái tử Lý Trị lên thay, tức là Đường Cao Tông.
Gia quyến
- Thân phụ: Đường Cao Tổ Lý Uyên.
- Thân mẫu: Thái Mục hoàng hậu Đậu thị (太穆皇后窦氏, 569 - 613), con gái của Đậu Nghị (窦毅), mẹ là Tương Dương công chúa (襄阳公主), cháu ngoại Vũ Văn Thái (宇文泰).
- Hậu phi:
- Văn Đức Thuận Thánh hoàng hậu Trưởng Tôn thị (文德順聖皇后长孙氏, 601 - 636), em gái của Trưởng Tôn Vô Kỵ (长孙无忌), con là Lý Thừa Càn, Lý Thái, Lý Trị.
- Vi Quý phi (韋貴妃; 597 - 665) Vi Khuê, con là Kỷ vương Lý Thận, sau khi Trưởng Tôn Hoàng hậu qua đời, công việc Hậu cung do bà cai quản. Sau Cao Tông tôn bà làm Kỷ Quốc Thái phi.
- Dương Quý phi (杨贵妃), con là Triệu vương Lý Phúc.
- Yến Đức phi (燕德妃, 609 - 671), con là Việt vương Lý Trinh, Cao Tông tôn phong làm Việt Quốc Thái phi.
- Trịnh Hiền phi (鄭賢妃).
- Từ Hiền phi (徐賢妃; 627 - 650), tên là Từ Huệ (徐惠), ban đầu là Tài nhân, Tiệp dư tiến phong thành Sung dung. Khi Thái Tông chết, Từ Huệ chết theo, truy phong làm Hiền phi.
- Dương Phi (楊妃), con gái của Tùy Dạng đế, con trai là Ngô vương Lý Khác.
- Âm Tần (陰嬪), nguyên phong là Âm Đức phi, do con trai là Tề vương Lý Hữu mắc tội, giáng làm Âm Tần.
- Vi Chiêu dung (韋昭容).
- Chiêu nghi (昭儀) không rõ danh tính.
- Tiệp dư (婕妤) không rõ danh tính.
- Dương Tiệp dư (楊婕妤), con gái thứ ba của Dương Cung Đạo[5].
- Tiêu Mỹ nhân (蕭美人), con gái thứ hai của Tiêu Thước.
- Thôi Tài nhân (崔才人), trưởng nữ của Thôi Hoành Đạo.
- Tiêu Tài nhân (蕭才人), con gái thứ hai của Tiêu Khanh.
- Võ Tài nhân (武才人), tên là Mị Nương (媚娘), sau trở thành Tắc Thiên hoàng hậu của Đường Cao Tông Lý Trị.
- Tam phẩm Cung nhân Chu thị (三品宮人周氏).
- Thất phẩm Điển đăng (七品典燈).
- Đao nhân Cao thị (刀人高氏).
- Vương thị(王氏), con trai là Tương vương Lý Uẩn.
- Sào Vương phi Dương thị (巢王妃楊氏), nguyên là vợ Tề vương Lý Nguyên Cát), con trai là Tào vương Lý Minh.
Con cái
Trai
- Thường Sơn quận vương → Trung Sơn quận vương → hoàng thái tử Lý Thừa Càn, mẹ là Trưởng Tôn hoàng hậu, sau bị phế làm thứ dân, sau khi chết được khôi phục lại làm Thường Sơn mẫn vương[6].
- Sở vương Lý Khoan (mẹ không rõ, chết sớm)
- Trường Sa quận vương → Hán vương → Thục vương → Ngô vương → Định Nam quận vương→ phế làm thứ dân[7] → Uất Lâm vương Lý Khác (mẹ là Dương phi, con gái của Tùy Dạng đế)
- Nghi Đô quận vương → Vệ vương → Việt vương → Ngụy vương → giáng làm Đông Lai quận vương → Thuận Dương quận vương → Bộc Cung vương Lý Thái (mẹ là Trưởng Tôn hoàng hậu)
- Nghi Dương quận vương → Sở vương → Yên vương → Tề vương Lý Hữu (mẹ là Âm phi, sau có tội bị phế làm thứ dân)
- Lương vương → Thục vương → biếm làm thứ dân[8] → Phù Lăng quận vương → Thục Điệu vương Lý Âm (mẹ là Dương phi)
- Đàm vương → Tương vương Lý Uẩn (mẹ là Vương thị)
- Hán vương → Nguyên vương → Việt vương Lý Trinh [9] Mẹ là Yến phi)
- Tấn vương → hoàng thái tử → Cao Tông Lý Trị (mẹ là Trưởng Tôn hoàng hậu)
- Thân vương → Lỷ vương Lý Thận[10] (mẹ là Vi phi)
- Giang thương vương Lý Hiêu (mẹ là Yến phi, chết sớm)
- Đại vương Lý Giản (mẹ không rõ, chết sớm)
- Triệu vương Lý Phúc (mẹ là Dương phi)
- Tào vương Lý Minh (mẹ nguyên là vợ của Lý Nguyên Cát, tức Sào Lạt vương phi Dương thị)
Gái
Đường Thái Tông có 21 con gái[11]:- Công chúa Tương Thành (lấy Tiêu Duệ, sau lại lấy Khương Giản)
- Công chúa Nhữ Nam (chết sớm)
- Công chúa Nam Bình (lấy Vương Kính Trực, sau lại lấy Lưu Huyền Ý)
- Công chúa Toại An (lấy Đậu Quỳ, sau lại lấy Vương Đại Lễ)
- Công chúa Trường Lạc (mẹ là Trưởng Tôn hoàng hậu, lấy Trưởng Tôn Xung)
- Công chúa Dự Chương (mẹ mất sớm, do Trưởng Tôn hoàng hậu nuôi dưỡng, lấy Đường Nghĩa Thức)
- Công chúa Ba Lăng (lấy Sài Lệnh Vũ, sau bị ép tự sát, truy phong làm công chúa Tỉ Cảnh)
- Công chúa Phổ An (lấy Sử Nhân Biểu)
- Công chúa Đông Dương (mẹ là Trưởng Tôn hoàng hậu, lấy Cao Lý Hành)
- Công chúa Lâm Xuyên (mẹ là Vi quý phi, lấy Chu Đạo Vũ)
- Công chúa Thanh Hà Lý Kính (còn có tên là Đức Hiền, lấy Trình Hoài Lượng)
- Công chúa Lan Lăng Lý Thục (còn gọi là Lệ Trinh, lấy Đậu Hoài Chiết)
- Công chúa Tấn An (lấy Vi Tư An, sau lại lấy Dương Nhân Lộ)
- Công chúa An Khang (lấy Độc Cô Mưu)
- Công chúa Tân Hưng (lấy Trưởng Tôn Hy)
- Công chúa Thành Dương (mẹ là Trưởng Tôn hoàng hậu, lấy Đỗ Hà, sau lấy Tiết Quán). Con trai là Tiết Thiệu sau này lấy công chúa Thái Bình.
- Công chúa Cao Dương (mẹ mất sớm, do Trưởng Tôn hoàng hậu nuôi dưỡng, lấy Phòng Di Ái, sau bị ép phải tự sát, truy phong làm công chúa Hợp Phố
- Công chúa Kim Sơn (chết sớm)
- Công chúa Tấn Dương (tên là Minh Đạt, mẹ là Trưởng Tôn hoàng hậu, sau mẹ chết do Đường Thái Tông tự thân nuôi dưỡng, chết năm 12 tuổi)
- Công chúa Thường Sơn
- Công chúa Tân Thành (mẹ là Trưởng Tôn hoàng hậu, trước lấy Trưởng Tôn Thuyên, sau lại lấy Vi Chánh Củ)
Chú thích
- ^ Ghi chú chung: Ngày tháng tại đây lấy theo lịch Julius. Nó không phải là lịch Gregory đón trước.
- ^ Lịch sử Trung Hoa
- ^ a ă â b c Nguyễn Hiến Lê, Sử Trung Quốc, sđd.
- ^ Tư trị thông giám cuốn 196: "Tháng tư năm Nhâm Tý, vua cho gọi Gián nghị đại phu Chử Toại Lương, hỏi: "Khanh viết "Khởi cư chú", sách này có thể trình cho trẫm xem được không?" Đáp: "Sử quan có trách nhiệm ghi chép lại lời nói và việc làm của vua, thiện ác gồm đủ, khiến cho vua không dám làm chuyện sai trái, xưa nay thần chưa từng nghe có ai tự xem đoạn sử viết về mình." Vua nói: "Có chuyện không hay, khanh cũng ghi lại hết ư?" Đáp: "Thần giữ chức này, không dám không ghi". Tư trị thông giám cuốn 197: "Vua cho gọi Giám tu quốc sử Phòng Huyền Linh, hỏi: "Trước kia những ghi chép của sử quan đều không cho vua xem, tại sao lại như thế?" Đáp: "Sử quan không tô vẽ cho đẹp cũng không che giấu chuyện ác, sợ vua xem xong sẽ tức giận nên không dám trình lên." Vua nói: "Tâm tư của trẫm không giống những vua đời trước. Đế vương muốn xem quốc sử, biết được những việc làm ác đã làm để hạn chế về sau. Ông soạn xong hãy trình lên cho trẫm." Gián nghị đại phu Chu Tử Xa can: "Nếu bệ hạ thân mang thánh đức, chưa từng làm chuyện gì sai lầm, sử quan tất sẽ ghi lại toàn những chuyện tốt đẹp. Bệ hạ xem "Khởi cư", với sử quan tuy không mất mát gì, nhưng giả như cái lệ này truyền lại cho con cháu, nếu gặp bậc quân chủ không sáng, muốn bao che lỗi lầm, sử quan tất bị đại hình hoặc tru sát. Cứ như thế thì sử quan ai cũng chiều theo thánh ý, tránh để bản thân bị hại, trải qua ngàn năm, sử sách còn điểm nào tin được! Sở dĩ xưa nay không dám cho vua xem sử chính là vì thế." Vua không nghe, lệnh cho Phòng Huyền Linh cùng Cấp sự trung Hứa Kính Tông sửa "Cao Tổ thực lục", "Kim thượng thực lục". "
- ^ Toàn Đường văn quyển chín: Thái Tông
- ^ Cựu Đường thư: Thái Tông chư tử liệt truyện gọi là "Hằng Sơn vương", Tân Đường thư: Thái Tông tử liệt truyện gọi là "Thường Sơn mẫn vương ". Do Hằng Sơn, Thường Sơn chỉ là tên gọi khác nhau của cùng một địa danh, nhà Tần lập quận Hằng Sơn, thời Tây Hán do kị húy Hán Văn Đế Lưu Hằng nên đổi thành quận Thường Sơn, thời kỳ đầu nhà Đường đổi thành châu, gọi là Hằng châu, đến niên hiệu Thiên Bảo gọi là quận Thường Sơn
- ^ Tân Đường thư: Thái Tông tử liệt truyện. Đường Thái Tông có thời lập Lý Khác làm thái tử, nhưng bị Trưởng Tôn Vô Kỵ phản đối. Sau khi Đường Cao Tông lên ngôi, Trưởng Tôn Vô Kỵ chuyên quyền, bách hại Lý Khác và em cùng mẹ là Lý Âm. Lý Khác bị vu khống là mưu nghịch, bị ép phải tự sát, Lý Âm bị phế làm thứ dân.
- ^ Bị cho là cùng Ngô vương Lý Khác mưu phản nghịch nên bị biếm
- ^ Sau phản Võ hậu, thua trận bị chết, bị Võ hậu đổi họ 「Hủy」, đến niên hiệu Thần Long được phục hồi quan tước.
- ^ Vì lý do Việt vương Lý Trinh có sự, bị Võ hậu đổi họ 「Hủy」, đến niên hiệu Thần Long được phục hồi quan tước.
- ^ Tân Đường thư, quyển 083: Tân Đường thư: chư đế công chúa liệt truyện
Tham khảo
- Toàn Đường văn quyển chính: Thái Tông
- Cựu Đường thư: Thái Tông chư tử liệt truyện
- Tân Đường thư: Thái Tông tử liệt truyện
- Nguyễn Hiến Lê (1997) Sử Trung Quốc, Chương III: Thống nhất trở lại (580 – 906)
Liên kết ngoài
Wikimedia Commons có thêm thể loại hình ảnh và phương tiện truyền tải về Đường Thái Tông |
Đường Thái Tông
Sinh: 23 tháng 1 năm 599 Mất: 10 tháng 7 năm 649 |
||
Tước hiệu | ||
---|---|---|
Tiền vị: Đường Cao Tổ |
Hoàng đế nhà Đường 626-649 |
Kế vị Đường Cao Tông |
Hoàng đế Trung Hoa (phần lớn các khu vực) 626-649 |
||
Tiền vị: Lương Sư Đô (Lương đế) |
Hoàng đế Trung Hoa (Bắc Thiểm Tây/Tây Nội Mông Cổ) 628-649 |
|
Nouvelle-Calédonie
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nouvelle-Calédonie | |||||
---|---|---|---|---|---|
|
|||||
Quốc ca | |||||
La Marseillaise | |||||
Hành chính | |||||
Chính phủ | Lãnh thổ hải ngoại của Pháp | ||||
Ngôn ngữ chính thức | tiếng Pháp | ||||
Thủ đô | Nouméa | ||||
Thành phố lớn nhất | Nouméa | ||||
Địa lý | |||||
Diện tích | 18.575 km² (hạng 154) | ||||
Múi giờ | UTC+11 | ||||
Lịch sử | |||||
Lãnh thổ phụ thuộc
|
|||||
Ngày thành lập | 1853 | ||||
Dân cư | |||||
Dân số ước lượng (2007) | 240.400 người (hạng 176) | ||||
Mật độ | 13 người/km² (hạng 200) | ||||
Kinh tế | |||||
GDP (PPP) (2003) | Tổng số: 3,158 tỷ đô la | ||||
Đơn vị tiền tệ | CFP franc | ||||
Thông tin khác | |||||
Tên miền Internet | .nc |
Địa lý
Nouvelle-Calédonie nằm khoảng 1200 km phía đông nước Úc và 1500 km phía bắc New Zealand, khoảng tọa độ 21°30′N 165°30′ĐĐảo chính là Grande Terre. Một số hải đảo nhỏ hơn như quần đảo Belep nằm về phía bắc và Îles Loyauté về phía đông. Phía nam có Île des Pins và nhóm đảo Chesterfield Islands. Chủ quyền hai đảo Matthew và Hunter còn trong vòng tranh chấp giữa Pháp (nhân danh Nouvelle-Calédonie) và Vanuatu.
Đảo Grande Terre lớn hơn cả, diện tích 16.372 km2, bề rộng khoảng 70 km, dài 350 km, cấu tạo bởi một rặng núi chạy dọc chiều dài của đảo theo hướng tây bắc-đông. Ngọn núi cao nhất là đỉnh Panié đo được 1628 m.
Theo địa chất học thì Nouvelle-Calédonie là phần cực bắc của lục địa lớn chìm dưới biển, mang tên Zealandia. Chỉ có 7% diện tích của lục địa này lộ trên mặt biển. Zealandia tách rời khỏi lục địa Úc Châu khoảng 60–85 triệu năm trước và trôi dạt về hướng bắc. Xưa hơn nữa Zealandia tách khỏi Nam Cực Châu khoảng 130-85 triệu năm trước. Khoảng 50 triệu năm trước thì Nouvelle-Calédonie ổn định ở vị trí ngày nay.[2]
Lịch sử
Con người có mặt ở vùng nam Thái Bình Dương khoảng 50.000 năm trước. Riêng quần đảo Nouvelle-Calédonie thì người Lapita đến lập nghiệp khoảng 1500 năm trước Công nguyên. Họ giỏi nghề đi biển và biết trồng trọt. Ảnh hưởng của họ bao gồm vùng rộng lớn trong khu vực này.Khoảng thế kỷ 11 trở đi người Polynesia di cư và hòa nhập vào số thổ dân trên đảo.
Người châu Âu biết đến Nouvelle-Calédonie vào cuối thế kỷ 18. Nhà thám hiểm James Cook người Anh đặt tên "New Caledonia" cho đảo để nhớ về Scotland vì Caledonia vốn là tên cổ (tiếng Latin) của Scotland. Quần đảo gần đó thì ông đặt tên "New Hebrides", cũng để nhớ lại quần đảo Hebrides thuộc Scotland. Người Pháp sau dịch "New Caledonia" thành "Nouvelle-Calédonie" tức là tên hiện hữu.
Thương thuyền và ngư thuyền Anh và Úc ghé Nouvelle-Calédonie để cất dầu cá voi hay mua gỗ trầm hương nhưng quan hệ với thổ dân không mấy tốt đẹp. Năm 1849 thì bạo động bùng nổ: thủy thủ thuyền Cutter bị thổ dân bắt giết và ăn thịt. Ngược lại thổ dân bị nhiễm bệnh đậu, sởi, cúm, giang mai của người da trắng khiến chết nhiều.
Với lượng trầm hương giảm, Nouvelle-Calédonie biến thành nơi xuất xứ dân nô lệ đi làm phu ở Úc. Tệ nạn này đến đầu thế kỷ 20 mới chấm dứt.
Trong khi đó việc truyền giáo của đạo Thiên Chúa làm biến đổi văn hóa thổ dân về mặt tín ngưỡng, trang phục cũng như dẹp tục ăn thịt người.
Năm 1853 Pháp sát nhập vùng đảo trong cuộc tranh đua thuộc địa với Anh vì Anh đã thu nạp Úc và New Zealand. Cũng giống như cách người Anh dùng xứ Úc để lưu đày tội phạm, Pháp gửi 22.000 tù nhân sang khai lập Nouvelle-Calédonie từ năm 1864 đến 1922. Thêm vào đó là thường dân Pháp và dân phu chân đăng Á Châu (Việt Nam). Cùng lúc đó số thổ dân lại giảm nghiêm trọng vì bệnh dịch và chính sách hà khắc của bộ luật Code de l'Indigénat nhằm củng cố địa vị độc tôn của người da trắng và hạn chế tối đa quyền đi lại, sinh nhai và sở hữu của người thổ dân.
Trong cuộc Thế chiến thứ hai với quân đội Nhật Bản tiến chiếm vùng Nam Thái Bình Dương, tư lệnh quân đội Mỹ được đặt ở Nouméa để chặn bước tiến quân địch.
Kể từ thập niên 1980 phong trào độc lập bắt đầu tranh đấu đòi thành lập nước "Kanaky". Bạo động như vụ bắt con tin và ám sát buộc Pháp tăng quyền tự trị cho Nouvelle-Calédonie và nhìn nhận hành trình "giảm chính" (devolution) qua hiệp ước Matignon 1988 và Nouméa 1998. Phương thức bày nhằm tạo ý niệm dân tộc Calédonie gồm quyền dân tịch và biểu tượng địa phương hầu đưa tới một ngày quyết định chính trị cho lãnh thổ này trong tương lai.
Chính trị
Nouvelle-Calédonie có quy chế đặc biệt vì đây là một lãnh thổ hải ngoại của Pháp nhưng có nhiều điểm gần như một quốc gia độc lập.Nghị viện lãnh thổ (Congrès du territoire) và chính phủ địa phương ngày càng rộng quyền chiếu theo Hiệp ước Nouméa (1998) ký với chính phủ trung ương. Các lãnh vực thuế má, luật lao động, vệ sinh y tế và cả ngoại thương nay thuộc quyền của chính phủ địa phương. Mục đích giảm chính (devolution) là tiến tới thể chế khi Pháp chỉ nắm giữ một số lãnh vực then chốt như ngoại giao, hình pháp, quốc phòng, an ninh công cộng, và ngân khố. Những lãnh vực khác sẽ thuộc chính phủ địa phương. Chính phủ Nouvelle-Calédonie đã theo đuổi một số chính sách độc lập như duy trì đơn vị tiền tệ franc CFP thay vì đổi theo Euro như ở trung ương. Chủ đích của chính phủ Nouvelle-Calédonie là xây dựng ý niệm công dân riêng cho Nouvelle-Calédonie.
Đề tài độc lập sẽ hoãn đến sau năm 2013
Đại diện chính quốc Pháp là Cao ủy Cộng hòa (Haut-Commissaire de la République, thường gọi là "haussaire"). Lãnh thổ Nouvelle-Calédonie gửi hai đại biểu lên Hạ viện Quốc hội Pháp ở Paris và một nghị sĩ lên Thượng viện.
Hành chánh
Đặc khu được chia thành ba đơn vị:Dân cư
Thổ dân Kanak chiếm khoảng 42%, dân gốc Âu Châu 37%, số còn lại là dân gốc Polynesia và Á Châu, trong đó khoảng 1,5% là dân gốc Việt.Chú thích
- ^ Người Việt ở Tân Thế Giới
- ^ Boyer & Giribet 2007: 355
Wikimedia Commons có thêm thể loại hình ảnh và phương tiện truyền tải về Nouvelle-Calédonie |
Bạn có thể tham khảo nội dung bài này trong Wikipedia tiếng Pháp để có thêm thông tin mở rộng cho bài này. Nếu bạn không biết tiếng Pháp, có thể dùng công cụ dịch, như Google Dịch.
|
|
|
Quốc gia thành viên và quan sát viên của Cộng đồng Pháp ngữ | ||
---|---|---|
Thành viên | Ai Cập · Albania · Andorra · Bỉ (Cộng đồng Pháp ngữ của Bỉ) · Bénin · Bulgaria · Burkina Faso · Burundi · Campuchia · Cameroon · Canada (New Brunswick · Québec) · Cabo Verde · Cộng hòa Trung Phi · Comoros · Congo · Cộng hòa Dân chủ Congo · Côte d'Ivoire · Djibouti · Dominica · Guinea Xích đạo · Cộng hòa Macedonia Guadeloupe · Gabon · Ghana* · Guinée · Guiné-Bissau · Haiti · Hy Lạp · Cộng hòa Síp* · Lào · Luxembourg · Liban · Madagascar · Mali · Mauritania · Mauritius · Moldova · Monaco · Maroc · Niger · Pháp (bao gồm Guyane thuộc Pháp · Martinique · Saint Pierre và Miquelon) · Tchad · Romania · Rwanda · Saint Lucia · São Tomé và Príncipe · Sénégal · Seychelles · Thụy Sĩ · Togo · Tunisia · Vanuatu · Việt Nam | |
Quan sát viên | ||
* Thành viên liên minh. |
|
Thể loại:
Thuyền trưởng James Cook (27 tháng 10 năm 1728 – 14 tháng 2 năm 1779) là một nhà thám hiểm, nhà hàng hải và người chuyên vẽ bản đồ người Anh. Sau khi được thăng lên chức vụ thuyền trưởng trong Hải quân Hoàng gia Anh, Cook đã thực hiện 3 chuyến hải trình đến Thái Bình Dương, trở thành người châu Âu đầu tiên đặt chân đến bờ biển phía đông của Úc; ông cũng là người châu Âu đầu tiên phát hiện ra quần đảo Hawaii và là người đầu tiên được ghi nhận là đi vòng quanh New Zealand.
Sau khi phục vụ trong đội thương thuyền Anh ở tuổi thiếu niên, ông tham gia Hải quân Hoàng gia vào năm 1755, tham gia Chiến tranh bảy năm, rồi sau đó nghiên cứu và vẽ bản đồ nhiều chuyến đi đến Sông Saint Lawrence trong trận vây hãm Québec. Điều này đã giúp tướng James Wolfe thực hiện cuộc đột kích nổi tiếng ở vùng đồng bằng Abraham, giúp Cook có được sự chú ý của Hội đồng Đô đốc Anh (Admiralty) và Hội đồng Hoàng gia Anh (Royal Society) tại một thời điểm quyết định cả trong sự nghiệp cá nhân của ông lẫn quá trình phát hiện những vùng đất mới của Anh Quốc, và đưa Cook trở thành người chỉ huy con tàu HM Bark Endeavour và chuyến đi đầu tiên trong ba chuyến hải trình đến Thái Bình Dương của ông vào năm 1766.
Cook là người đầu tiên đã vẽ chính xác hải đồ của nhiều vùng đất và ghi lại nhiều hòn đảo và đường biển trên bản đồ châu Âu. Những thành tích lớn lao đó của ông có thể do sự kết hợp của tài đi biển xuất sắc, có kỹ năng giỏi về nghiên cứu đo đạc và vẽ bản đồ, can đảm khám phá những nơi nguy hiểm để xác nhận sự thật - ví dụ như nhiều lần tìm hiểu Vòng Nam Cực (Antarctic Circle) và khám phá quanh vùng Đại Bảo Tiều (Great Barrier Reef), khả năng lãnh đạo trong những điều kiện bất lợi, sự táo bạo trong những cuộc thám hiểm và sự sẵn sàng vượt trội hơn những chỉ dẫn của bộ Hội đồng Đô đốc.
Sau khi Cook và thủy thủ trên tàu rời đảo, một cơn bão đã phá hủy chiếc tàu the Resolution, buộc ông phải quay trở lại Kealakekua. Sự tôn trọng của thổ dân dành cho Cook như một vị thần bị sụp đổ, và mối quan hệ giữa người Hawaii và người nước ngoài trở nên căng thẳng. Một hiểu lầm đã dẫn đến một trận chiến dữ dội, và Cook đã bị giết bởi thổ dân trên đảo.
Cook chết ở Hawaii trong một cuộc chiến với thổ dân trên đảo trong chuyến tham hiểm thứ 3 ở Thái Bình Dương vào năm 1779.
Google
Google là một công ty Internet có trụ sở tại Hoa Kỳ, được thành lập vào năm 1998.
Sản phẩm chính của công ty này là công cụ tìm kiếm Google, được nhiều
người đánh giá là công cụ tìm kiếm hữu ích và mạnh mẽ nhất trên Internet. Trụ sở của Google tên là "Googleplex" tại Mountain View, California. giám đốc không người nào khác đó là Larry Page, 1 trong 2 người sáng lập ra công ty. Tên "Google" là một lối chơi chữ của từ googol, bằng 10100.
Google chọn tên này để thể hiện sứ mệnh của công ty để sắp xếp số lượng
thông tin khổng lồ trên mạng. Googleplex, tên của trụ sở Google, có
nghĩa là 10googol.
Đầu năm 2012, Google đứng đầu trong danh sách 100 công ty có môi trường làm việc tốt nhất ở Mỹ do tạp chí Fortune bình chọn với tỷ lệ tăng trưởng việc làm trong năm 2011 là 33%.[4]
Page và Brin tin rằng những trang có nhiều liên kết đến nhất từ các trang thích hợp khác sẽ là những trang thích hợp nhất. Họ đã quyết định thử nghiệm giả thuyết trong nghiên cứu của họ, tạo nền móng cho công cụ Google hiện đại bây giờ (http://www.google.com). Tên miền www.google.com được đăng ký ngày 15 tháng 9 năm 1997. Họ chính thức thành lập công ty Google, Inc. ngày 7 tháng 9 năm 1998 tại một ga ra của nhà Esther Wojcicki (cũng là nhân viên thứ 16 của Google, Phó Chủ tịch cấp cao, phụ trách bộ phận quảng cáo) tại Menlo Park, California. Trong tháng 2 năm 1999, trụ sở dọn đến Palo Alto, là thành phố có nhiều trụ sở công ty công nghệ khác. Sau khi đổi chỗ hai lần nữa vì công ty quá lớn, trụ sở nay được đặt tại Mountain View, California tại địa chỉ 1600 Amphitheater Parkway vào năm 2003.
Công cụ tìm kiếm Google được nhiều người ủng hộ và sử dụng vì nó có một cách trình bày gọn và đơn giản cũng như đem lại kết quả thích hợp và nâng cao. Trong năm 2000, Google đã bắt đầu bán quảng cáo bằng từ khóa để đem lại kết quả thích hợp hơn cho người dùng. Những quảng cáo này chỉ dùng văn chứ không dùng hình để giữ chất đơn giản của trang và tránh sự lộn xộn và đồng thời để trang được hiển thị nhanh hơn.
Google nhận được bằng sáng chế cho kỹ thuật sắp xếp trang web PageRank ngày 4 tháng 9 năm 2001. Bằng đưa quyền cho Đại học Stanford và liệt kê Larry Page là người sáng chế.
Trong tháng 2 năm 2003 Google mua được Pyra Labs, công ty chủ của Blogger, một trong những website xuất bản weblog lớn nhất.
Đầu năm 2004, khi Google ở tột đỉnh, Google đã xử lý trên 80% số lượng tìm kiếm trên Internet qua website của họ và các website của khách hàng như Yahoo!, AOL, và CNN. Sau khi Yahoo! bỏ Google để dùng kỹ thuật họ tự sáng chế vào tháng 2 năm 2004, số này đã bị tuột xuống.
Phương châm của Google là "Không làm ác" (Don't be evil). Biểu trưng của họ có khi được sửa đổi một cách dí dỏm vào dịp những ngày đặc biệt như ngày lễ hay sinh nhật của một nhân vật quan trọng. Giao diện của Google gồm trên 100 ngôn ngữ, kể cả tiếng Việt và một số ngôn ngữ dí dỏm như tiếng Klingon và tiếng Leet. Vào ngày Cá tháng tư (tiếng Pháp: poisson d'avril, tiếng Anh: April Fool's Day) Google thường tung ra nhiều tin hài hước về công ty.
Google được đưa vào danh sách 500 S&P index ngày 30 tháng 3 năm 2006, chiếm vị trí của Burlington Resources, một nhà sản xuất dầu chính ở Houston.
Tháng 2 năm 2006, công ty phần mềm Adaptive Path bán Measure Map, một ứng dụng thống kê weblog cho Google.
Cuối năm 2006, Google mua lại trang web chia sẻ video trực tuyến YouTube với giá 1,65 tỷ USD bằng cổ phần. Không lâu sau, 31 tháng 10 năm 2006, Google công bố họ đã mua lại Jotspot, một nhà phát triển của công nghệ wiki cho các website cộng đồng.
Ngày 13 tháng 4 năm 2007, Google đạt được thỏa thuận mua lại DoubleClick. Google đã đồng ý mua lại công ty này với giá 3,2 tỷ USD.
Ngày 15 tháng 8 năm 2011, Google tuyên bố sẽ mua Motorola Mobility với giá 12,5 tỷ USD.[5]
Năm 2007, Google và New Corp.’s Fox Interactive Media tham gia vào bản hợp đồng trị giá 900 triệu USD để phục vụ tìm kiếm vào quảng cáo trên trang mạng xã hội nổi tiếng, Myspace.
Ngày 22 tháng 3 năm 2010, Google rời khỏi thị trường khổng lồ Trung Quốc (tuy nhiên, các dịch vụ bản đồ trực tuyến và âm nhạc vẫn tiếp tục hoạt động). Google đóng cửa website google.cn, và thay vào đó chuyển tới trang google.com.hk để tránh bị kiểm duyệt nội dung. Nguyên nhân chính được cho là vì bất đồng quan điểm với chính quyền Trung Quốc. Ngày 30 tháng 3 năm 2010, mọi cách tìm kiếm bằng google (không chỉ google.cn mà còn các ngôn ngữ khác như google.co.jp. Google.com.au,..), bao gồm cả Google Mobile, đều bị chặn ở Trung Quốc. Hai dịch vụ như Google Mail và Google Maps không bị ảnh hưởng.[6] Lệnh cấm được dỡ bỏ vào ngày hôm sau. http://www.google.com/prc/report.html
Năm 2004, Google ra mắt dịch vụ email trên nền web, gọi là Gmail. Gmail hỗ trợ công nghệ lọc thư rác và khả năng sử dụng Công nghệ tìm kiếm của Google để tìm kiếm thư. Dịch vụ này tạo ra thu nhập bằng cách hiển thị quảng cáo từ dịch vụ AdWords mà phù hợp với nội dung của email hiển thị trên màn hình.
Đầu năm 2006, Google ra mắt dịch vụ Google Video, dịch vụ không chỉ cho phép người dùng tìm kiếm và xem miễn phí các video có sẵn mà còn cho người sử dụng hay các nhà phát hành khả năng phát hành nội dung mà họ muốn, kể cả các chương trình truyền hình trên CBS, NBA và các video ca nhạc. Nhưng đến tháng 8 năm 2007, Google đã đóng cửa trang web này trước sự cạnh tranh của đối thủ Youtube cũng thuộc sở hữu của công ty
Google cũng đã phát triển một số ứng dụng nhỏ gọn, bao gồm cả Google Earth, một chương trình tương tác sử dụng ảnh vệ tinh. Ngoài ra công ty còn phát triển nhiều gói phần mềm văn phòng trên ứng dụng web tên là Google Docs nhằm cạnh tranh thị phần với Microsoft Office.
Nhiều ứng dụng khác nữa có tại Google Labs, một bộ sưu tập những phần mềm chưa hoàn chỉnh. Chúng đang được thử nghiệm để có thể đưa ra sử dụng trong cộng đồng.
Google đã đẩy mạnh quảng bá sản phẩm của họ bằng nhiều cách khác nhau. Ở London, Google Space được cài đặt tại sân bay Healthrow, ra mắt nhiều sản phẩm mới, bao gồm Gmail, Google Earth và Picasa. Ngoài ra, một trang web tương tự cũng được ra mắt cho sinh viên Mỹ dưới cái tên College Life, Powered by Google.
Vào ngày 2 tháng 9 năm 2008, Google đã thông báo sự xuất hiện của Google Chrome, một trình duyệt mã nguồn mở. Trình duyệt này được giới phân tích đánh giá sẽ là đối thủ cạnh tranh thị phần của Internet Explorer và Firefox.Cũng vào khoảng thời gian này Google Translate đã bổ sung thêm tiếng Việt trong dịch vụ dịch tự động của mình và tích hợp ngay trong công cụ tìm kiếm, giúp người sử dụng nhanh chóng hiểu được cơ bản nội dung trang web trình bày bằng tiếng nước ngoài.
Ngày 5 tháng 1 năm 2010, Google cho ra mắt điện thoại Nexus One, sản phẩm cộng tác với hãng điện thoại HTC. Nexus One chạy trên nền hệ điều hành Android 2.1 (cũng do hãng phát triển), được cho là đối thủ cạnh tranh ngang hàng với iPhone của Apple.
Cũng vào năm 2007, Google đã mua lại công ty Postini và sẽ tiếp tục phát triển công nghệ mà họ mua được từ công ty này và đặt tên là Google Security Services.
Lawrence Edward "Larry" Page (sinh ngày 26 tháng 3 năm 1973 tại Lansing, Michigan) là một nhà doanh nhân Mỹ, người đồng sáng lập ra công cụ tìm kiếm Google cùng với Sergey Brin[1].
Page hiện đang Tổng giám đốc tại Google và có tài sản ước tính là 18,7
tỉ đô, giúp anh trở thành người giàu thứ 24 trên toàn thế giới (theo Danh sách tỉ phú năm 2012 của Forbes).[2]
Page vào học trường Montessori ở Lansing rồi tốt nghiệp trường Trung học East Lansing. Page có bằng cử nhân khoa học ngành kỹ sư máy tính loại danh dự tại Đại học Michigan và bằng thạc sỹ tại Đại học Stanford. Tại Đại học Michigan, Page là thành viên của đội xe hơi dùng năng lượng Mặt trời và là chủ tịch hội HKN.[4]
Năm 2006, Page và Brin cũng tậu cho mình 1 chiếc Boeing 767 đã qua sử dụng rồi trang hoàng lại nó để dùng cho công việc kinh doanh và nhu cầu cá nhân. Nội thất trong máy bay dự tính được thiết kế lại bởi nhà thiết kế nội thất máy bay Leslie Jennings; tuy nhiên, một cuộc tranh luận mang tính pháp lý đã nổ ra và chủ cũ của chiếc máy bay đã phải cho hoãn việc nâng cấp nó. Khi được tu sửa lại, chiếc máy bay có thể chở đến 50 hành khách và còn có cả một chiếc giường cỡ lớn kiểu California.
Vào năm 2007, cùng với Brin và Eric E. Schmidt, Larry Page được tạp chí PC World bình chọn là nhân vật quan trọng số 1 trong số 50 người quan trọng nhất của thế giới web[5]. Page cũng đầu tư vào Tesla Motors, công ty đang phát triển chiếc Tesla Roadster, một dạng xe dùng điện có thể chạy 250 dặm.[6]
Diễn đàn World Economic vinh danh Page như một nhà lãnh đạo toàn cầu trong tương lai. Còn X PRIZE thì ủy thác Page vào trong hội đồng của họ.[3]
Giấy phép thành lập Viện Đại học Stanford được viết ngày 11 tháng 11 năm 1885 và được chấp nhận bởi Ban Quản trị đầu tiên ngày 14 tháng 11. Viên đá móng được đặt xuống ngày 14 tháng 5 năm 1887, và trường mở cửa chính thức ngày 1 tháng 10 năm 1891 đón 559 sinh viên. Học phí được miễn. Có 15 giáo sư, trong đó bảy giáo sư đến từ Đại học Cornell. Trường được thành lập với danh nghĩa cơ sở đào tạo hỗn hợp cho cả nam và nữ, nhưng trong nhiều năm, họ vẫn hạn chế số sinh viên nữ nhập học.
Khẩu hiệu chính thức của Viện Đại học Stanford, do gia đình Stanford lựa chọn, là Die Luft der Freiheit weht. Dịch từ tiếng Đức, câu nói này của Ulrich von Hutten có nghĩa "Gió của tự do thổi." Vào lúc viện đại học được thành lập, tiếng Đức vừa mới thay thế tiếng Latinh trong vai trò ngôn ngữ chính của khoa học và triết học (và nó giữ vị trí đó cho đến Đệ nhị thế chiến).
Phần lớn của những công trình đầu tiên bị động đất San Francisco 1906 tàn phá nhưng đại học này vẫn còn Sân chính, Nhà Hóa học cũ, và Nhà Encina (được cho là nơi cư trú của John Steinbeck trong thời ở Stanford). Sau khi động đất Loma Prieta phá thêm vào năm 1989, Đại học thực hiện dự án có vốn bằng tỷ đô la để trang bị và sửa sang những công trình cũ để sử dụng kiểu mới.
Khu dự trữ sinh quyển luống Jasper (Jasper Ridge Biological Preserve) ở ngoài viện đại học là khu vực cấm săn do viện đại học này làm chủ và được các nhà sinh học nghiên cứu ở đấy. Trạm Hàng hải Hopkins (Hopkins Marine Station) tại Pacific Grove, California, là trung tâm nghiên cứu về sinh học biển của đại học từ năm 1892. Đại học cũng có sân golf riêng và hồ từng mùa (Lagunita, thực sự chứa đựng nước để tưới cỏ), hai nơi này có cá cóc California Tiger Salamander nguy cấp.
Video yêu thích
http://www.youtube.com/user/hoangkimvietnam
Trở về trang chính
hoangkim vietnam, hoangkim, hoangkimvietnam, Hoàng Kim, Ngọc Phương Nam, Chào ngày mới Thung dung, Dạy và học, Cây Lương thực, Tin Nông nghiệp Việt Nam, Food Crops, Cassava in Vietnam, VietnamAfricaCassavaRice, Khát khao xanh, Dayvahoc, Học mỗi ngày, Danh nhân Việt , Food Crops News, Điểm chính, CNM365, Kim LinkedIn, KimTwitter, KimFaceBook Đọc lại và suy ngẫm, Việt Nam tổ quốc tôi, Tình yêu cuộc sống, Thơ cho con
- Sơ khai Pháp
- Quần đảo
- Melanesia
- Lãnh thổ đặc biệt
- Châu Đại Dương
- Nouvelle-Calédonie
- Lãnh thổ đặc biệt của Liên minh châu Âu
James Cook
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
James Cook | |
---|---|
James Cook, do Nathaniel Dance vẽ, khoảng. 1775, National Maritime Museum, Greenwich |
|
Sinh | 7 tháng 11 [cũ 27 tháng 10] năm 1728 Marton, Yorkshire, England |
Mất | 14 tháng 2, 1779 (50 tuổi) Hawaii |
Quốc tịch | British |
Học vị | Postgate School, Great Ayton |
Công việc | Nhà thám hiểm, nhà hàng hải, nhà vẽ bản đồ |
Danh hiệu | Thuyền trưởng |
Vợ (hoặc chồng) | Elizabeth Batts |
Con cái | James Cook, Nathaniel Cook, Elizabeth Cook, Joseph Cook, George Cook, Hugh Cook |
Cha mẹ | James Cook, Grace Pace |
Chữ ký | |
Sau khi phục vụ trong đội thương thuyền Anh ở tuổi thiếu niên, ông tham gia Hải quân Hoàng gia vào năm 1755, tham gia Chiến tranh bảy năm, rồi sau đó nghiên cứu và vẽ bản đồ nhiều chuyến đi đến Sông Saint Lawrence trong trận vây hãm Québec. Điều này đã giúp tướng James Wolfe thực hiện cuộc đột kích nổi tiếng ở vùng đồng bằng Abraham, giúp Cook có được sự chú ý của Hội đồng Đô đốc Anh (Admiralty) và Hội đồng Hoàng gia Anh (Royal Society) tại một thời điểm quyết định cả trong sự nghiệp cá nhân của ông lẫn quá trình phát hiện những vùng đất mới của Anh Quốc, và đưa Cook trở thành người chỉ huy con tàu HM Bark Endeavour và chuyến đi đầu tiên trong ba chuyến hải trình đến Thái Bình Dương của ông vào năm 1766.
Cook là người đầu tiên đã vẽ chính xác hải đồ của nhiều vùng đất và ghi lại nhiều hòn đảo và đường biển trên bản đồ châu Âu. Những thành tích lớn lao đó của ông có thể do sự kết hợp của tài đi biển xuất sắc, có kỹ năng giỏi về nghiên cứu đo đạc và vẽ bản đồ, can đảm khám phá những nơi nguy hiểm để xác nhận sự thật - ví dụ như nhiều lần tìm hiểu Vòng Nam Cực (Antarctic Circle) và khám phá quanh vùng Đại Bảo Tiều (Great Barrier Reef), khả năng lãnh đạo trong những điều kiện bất lợi, sự táo bạo trong những cuộc thám hiểm và sự sẵn sàng vượt trội hơn những chỉ dẫn của bộ Hội đồng Đô đốc.
Sau khi Cook và thủy thủ trên tàu rời đảo, một cơn bão đã phá hủy chiếc tàu the Resolution, buộc ông phải quay trở lại Kealakekua. Sự tôn trọng của thổ dân dành cho Cook như một vị thần bị sụp đổ, và mối quan hệ giữa người Hawaii và người nước ngoài trở nên căng thẳng. Một hiểu lầm đã dẫn đến một trận chiến dữ dội, và Cook đã bị giết bởi thổ dân trên đảo.
Cook chết ở Hawaii trong một cuộc chiến với thổ dân trên đảo trong chuyến tham hiểm thứ 3 ở Thái Bình Dương vào năm 1779.
Thiếu thời
James Cook sinh ở làng Marton, Yorkshire, nay là ngoại ô của Middlesbrough.[1] Ông được rửa tội tại nhà thờ địa phương St. Cuthbert.[1][2][3] Năm 1736, gia đình ông chuyển đến nông trại Airey Holme ở Great Ayton, nơi cho ông làm việc, Thomas Skottowe, đã cho ông vào học trường địa phương. Năm 1741, sau 5 năm đi học, ông bắt đầu làm việc với cha mình, khi cha ông được đề cử làm quản lý nông trại.[4]Chú thích
- ^ a ă Rigby & van der Merwe 2002, tr. 25
- ^ Stamp 1978, tr. 1
- ^ Collingridge 2003
- ^ Collingridge 2003, tr. 15
Tham khảo
- Beaglehole, John Cawte (1974). The Life of Captain James Cook. A & C Black. ISBN 0-7136-1382-3.
- Collingridge, Vanessa (February năm 2003). Captain Cook: The Life, Death and Legacy of History's Greatest Explorer. Ebury Press. ISBN 0-09-188898-0.
- Fernandez-Armesto, Felipe (2006). Pathfinders: A Global History of Exploration. W.W. Norton & Company. ISBN 0-393-06259-7.
- Fisher, Robin (1979). Captain James Cook and his times. Taylor & Francis. ISBN 978-0-7099-0050-4.
- Hayes, Derek (1999). Historical Atlas of the Pacific Northwest: Maps of exploration and Discovery. Sasquatch Books. ISBN 1-57061-215-3.
- Horwitz, Tony (tháng 10 năm 2003). Blue Latitudes: Boldly Going Where Captain Cook Has Gone Before. Bloomsbury. ISBN 0-7475-6455-8.
- Hough, Richard (1994). Captain James Cook. Hodder and Stoughton. ISBN 0-340-82556-1.
- Kemp, Peter; I. C. B. Dear (2005). The Oxford Companion to Ships and the Sea. OUP. ISBN 978-0-19-860616-1.
- Kippis, Andrew (1788). Narrative of the voyages round the world, performed by Captain James Cook; with an account of his life during the previous and intervening periods.
- McLynn, Frank (2011). Captain Cook: Master of the Seas. Yale University Press. ISBN 978-0-300-11421-8.
- Moorhead, Alan (1966). Fatal Impact: An Account of the Invasion of the South Pacific, 1767–1840. H Hamilton. ISBN 0-241-90757-8.
- Obeyesekere, Gananath (1992). The Apotheosis of Captain Cook: European Mythmaking in the Pacific. Princeton University Press. ISBN 0-691-05752-4.
- Obeyesekere, Gananath (1997). The Apotheosis of Captain Cook: European Mythmaking in the Pacific. Princeton University Press. ISBN 978-0-691-05752-1. “With new preface and afterword replying to criticism from Sahlins.”
- Rigby, Nigel; van der Merwe, Pieter (2002). Captain Cook in the Pacific. National Maritime Museum, London UK. ISBN 0-948065-43-5.
- Robson, John (2004). The Captain Cook Encyclopædia. Random House Australia. ISBN 0-7593-1011-4.
- Robson, John (2009). Captain Cook's War & Peace: The Royal Navy Years 1755–1768, Barnsley (South Yorkshire), Seaforth Books and Sydney, University of New South Wales Press, 2009. ISBN 978-1-84832-033-8 and ISBN 978 1 742231099.
- Sahlins, Marshall David (1985). Islands of history. University of Chicago Press. ISBN 978-0-226-73358-6.
- Sahlins, Marshall David (1995). How "Natives" Think: About Captain Cook, for example. University of Chicago Press. ISBN 978-0-226-73368-5.
- Sidney, John Baker (1981). The Australian Language: An Examination of the English Language and English Speech as Used in Australia, from Convict Days to the Present. Melbourne: Sun Books. ISBN 978-0-7251-0382-8.
- Stamp, Tom and Cordelia (1978). James Cook Maritime Scientist. Whitby: Caedmon of Whitby Press. ISBN 0-905355-04-0.
- Sykes, Bryan (2001). The Seven Daughters of Eve. Norton Publishing: New York City, NY and London, England. ISBN 0-393-02018-5.
- Wagner, A.R. (1972). Historic Heraldry of Britain. London: Phillimore & Co Ltd. ISBN 978-0-85033-022-9.
- Wharton, W. J. L. ([1893]). Captain Cook's Journal during his first voyage round the world made in H.M. Bark "Endeavour" 1768-71.
Liên kết ngoài
Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về James Cook |
Wikimedia Commons có thêm thể loại hình ảnh và phương tiện truyền tải về Category:James Cook |
Wikisource tiếng Việt có toàn văn tác phẩm về: |
- 'Cook, James (1728 - 1779)', Australian Dictionary of Biography, Volume 1, Melbourne University Press, 1966, pp 243–244
- Biography at the Dictionary of Canadian Biography Online
- Captain Cook Society
- The Endeavour journal (1) and The Endeavour journal (2), as kept by James Cook – digitised and held by the National Library of Australia
- Captain James Cook: The World's Explorer
- Life in the Pacific of the 1700s: The Cook/Forster Collection of the Georg August University of Göttingen exhibition at the Honolulu Academy of Arts, 23 February – 14 tháng 5 năm 2006
- The South Seas Project: maps and online editions of the Journals of James Cook's First Pacific Voyage. 1768–1771, Includes full text of journals kept by Cook, Joseph Banks and Sydney Parkinson, as well as the complete text of John Hawkesworth's 1773 Account of Cook's first voyage.
- Tác phẩm của James Cook tại Dự án Gutenberg
- See a khoảng. 1780 map of Cook's third voyage by Rigobert Bonne, Carte de la Côte N.O. de l'Amérique et de la Côte N.E. de l'Asie reconnues en 1778 et 1779 / par M. Bonne, Ingenieur-Hydrographe de la Marine hosted by the Portal to Texas History.
- Discovery of New Zealand
- Captain Cook's Voyages by Izidor Hafner, Wolfram Demonstrations Project.
- Cook's Pacific Encounters: Cook-Forster Collection online Images and descriptions of more than 300 artefacts collected during the three Pacific voyages of James Cook.
- Images and descriptions of items associated with James Cook at the Museum of New Zealand Te Papa Tongarewa
- Các công trình liên quan hoặc của James Cook trên các thư viện của thư mục (WorldCat)
- Tài liệu lưu trữ liên quan đến James Cook liệt kê tại Cơ quan lưu trữ quốc gia Vương quốc Anh
- Digitised copies of log books from James Cook's voyages at the British Atmospheric Data Centre
Giải thưởng và thành tích | ||
---|---|---|
Tiền vị: Nevil Maskelyne |
Huân chương Copley 1776 |
Kế vị John Mudge |
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
|
Bài viết hoặc đoạn này cần thêm chú thích nguồn gốc để có thể kiểm chứng thông tin. Những nội dung không có nguồn có thể bị đặt vấn đề và xóa bỏ. Mời bạn bổ sung chú thích từ các nguồn đáng tin cậy để giúp cải thiện bài viết. |
Loại hình | Cổ phần (NASDAQ: GOOG) |
---|---|
Ngành nghề | Internet Phần mềm máy tính Thiết bị viễn thông |
Thành lập | Menlo Park, California, Hoa Kỳ (4 tháng 9, 1998)[1] |
Trụ sở chính | Mountain View, California, Hoa Kỳ |
Thành viên chủ chốt |
Larry Page, Tổng giám đốc Eric Emerson Schmidt, Chủ tịch điều hành Sergey Brin, GĐ kỹ thuật |
Sản phẩm | (xem ở dưới) |
Doanh thu | 37.905 tỷ USD (2011)[2] |
Lãi thực | 9.737 tỷ USD (2011)[2] |
Tổng số tài sản | 72.574 tỷ USD (2011)[2] |
Tài sản cổ phần | 58.145 tỷ USD (2011)[2] |
Nhân viên | 54.604 (2012)[3] |
Khẩu hiệu | Đừng làm quỷ dữ (Don't be evil) |
Website | www.google.com |
Đầu năm 2012, Google đứng đầu trong danh sách 100 công ty có môi trường làm việc tốt nhất ở Mỹ do tạp chí Fortune bình chọn với tỷ lệ tăng trưởng việc làm trong năm 2011 là 33%.[4]
Mục lục
Lịch sử
Ban đầu
Đầu tiên (1996) Google là một công trình nghiên cứu của Larry Page và Sergey Brin, hai nghiên cứu sinh tại trường Đại học Stanford. Họ có giả thuyết cho rằng một công cụ tìm kiếm dựa vào phân tích các liên hệ giữa các website sẽ đem lại kết quả tốt hơn cách đang được hiện hành lúc bấy giờ (1996). Đầu tiên nó được gọi là BackRub (Gãi lưng) tại vì hệ thống này dùng các liên kết đến để ước tính tầm quan trọng của trang.Page và Brin tin rằng những trang có nhiều liên kết đến nhất từ các trang thích hợp khác sẽ là những trang thích hợp nhất. Họ đã quyết định thử nghiệm giả thuyết trong nghiên cứu của họ, tạo nền móng cho công cụ Google hiện đại bây giờ (http://www.google.com). Tên miền www.google.com được đăng ký ngày 15 tháng 9 năm 1997. Họ chính thức thành lập công ty Google, Inc. ngày 7 tháng 9 năm 1998 tại một ga ra của nhà Esther Wojcicki (cũng là nhân viên thứ 16 của Google, Phó Chủ tịch cấp cao, phụ trách bộ phận quảng cáo) tại Menlo Park, California. Trong tháng 2 năm 1999, trụ sở dọn đến Palo Alto, là thành phố có nhiều trụ sở công ty công nghệ khác. Sau khi đổi chỗ hai lần nữa vì công ty quá lớn, trụ sở nay được đặt tại Mountain View, California tại địa chỉ 1600 Amphitheater Parkway vào năm 2003.
Công cụ tìm kiếm Google được nhiều người ủng hộ và sử dụng vì nó có một cách trình bày gọn và đơn giản cũng như đem lại kết quả thích hợp và nâng cao. Trong năm 2000, Google đã bắt đầu bán quảng cáo bằng từ khóa để đem lại kết quả thích hợp hơn cho người dùng. Những quảng cáo này chỉ dùng văn chứ không dùng hình để giữ chất đơn giản của trang và tránh sự lộn xộn và đồng thời để trang được hiển thị nhanh hơn.
Google nhận được bằng sáng chế cho kỹ thuật sắp xếp trang web PageRank ngày 4 tháng 9 năm 2001. Bằng đưa quyền cho Đại học Stanford và liệt kê Larry Page là người sáng chế.
Trong tháng 2 năm 2003 Google mua được Pyra Labs, công ty chủ của Blogger, một trong những website xuất bản weblog lớn nhất.
Đầu năm 2004, khi Google ở tột đỉnh, Google đã xử lý trên 80% số lượng tìm kiếm trên Internet qua website của họ và các website của khách hàng như Yahoo!, AOL, và CNN. Sau khi Yahoo! bỏ Google để dùng kỹ thuật họ tự sáng chế vào tháng 2 năm 2004, số này đã bị tuột xuống.
Phương châm của Google là "Không làm ác" (Don't be evil). Biểu trưng của họ có khi được sửa đổi một cách dí dỏm vào dịp những ngày đặc biệt như ngày lễ hay sinh nhật của một nhân vật quan trọng. Giao diện của Google gồm trên 100 ngôn ngữ, kể cả tiếng Việt và một số ngôn ngữ dí dỏm như tiếng Klingon và tiếng Leet. Vào ngày Cá tháng tư (tiếng Pháp: poisson d'avril, tiếng Anh: April Fool's Day) Google thường tung ra nhiều tin hài hước về công ty.
Phát hành cổ phiếu lần đầu
Vào tháng 1 năm 2004, Google tuyên bố đã thuê công ty Morgan Stanley và Goldman Sachs Group để tổ chức phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng. Google chọn cách bán cổ phiếu bằng đấu giá, một điều hiếm có. Từ khi ra thị trường, giá Google đã lên đến gần $200 mỗi cổ phiếu từ $85 lúc đầu. Giá thị trường của Google đến nay là trên 100 tỷ đô la.Sự phát triển
Khi thị trường ban đầu của công ty là trên thị trường web, Google đã bắt đầu thử nghiệm ở một số thị trường khác, ví dụ như Phát thanh hoặc Xuất bản. Ngày 17-1-2006, Google công bố rằng công ty đã mua lại công ty quảng cáo phát thanh dMarc, công ty đã sử dụng một hệ thống tự động, cho phép các công ty quảng cáo trên radio. Điều này sẽ giúp Google kết hợp 2 kênh quảng cáo truyền thông là Internet và Radio, với khả năng của Google, nhắm thẳng vào tâm lý khách hàng. Google cũng bắt đầu thử nghiệm bán quảng cáo trên các kênh quảng cáo offline của công ty, như trên báo và tạp chí, với các quảng cáo được lựa chon trên Chicago-Sun Times. Họ đã lấp được một chỗ trống không bán được trên tờ báo mà trước đấy thường được dùng vào việc quảng cáo nhà.Google được đưa vào danh sách 500 S&P index ngày 30 tháng 3 năm 2006, chiếm vị trí của Burlington Resources, một nhà sản xuất dầu chính ở Houston.
Các thương vụ mua bán và sự cộng tác
Các thương vụ mua bán
Từ năm 2001, Google đã mua được nhiều công ty nhỏ mới thành lập, thường là công ty có nhiều sản phẩm và đội ngũ nhân viên tốt. Một trong những công ty mà Google mua lại sớm nhất là Pyra Labs. Họ chính là những người sáng tạo ra Blogger, một nền tảng của việc xuất bản weblog, giới thiệu lần đầu tiên vào năm 1999. Pyra Labs ban đầu được lập ra bởi Evan Williams, khi anh này rời Google vào năm 2004. Đầu năm 2006, Google mua lại Upstartle, một công ty chịu trách nhiệm xử lý từ ngữ trên mạng, Writely. Công nghệ của sản phẩm này rốt cuộc đã được Google sử dụng để tạo ra Google Docs & Spreadsheets.Tháng 2 năm 2006, công ty phần mềm Adaptive Path bán Measure Map, một ứng dụng thống kê weblog cho Google.
Cuối năm 2006, Google mua lại trang web chia sẻ video trực tuyến YouTube với giá 1,65 tỷ USD bằng cổ phần. Không lâu sau, 31 tháng 10 năm 2006, Google công bố họ đã mua lại Jotspot, một nhà phát triển của công nghệ wiki cho các website cộng đồng.
Ngày 13 tháng 4 năm 2007, Google đạt được thỏa thuận mua lại DoubleClick. Google đã đồng ý mua lại công ty này với giá 3,2 tỷ USD.
Ngày 15 tháng 8 năm 2011, Google tuyên bố sẽ mua Motorola Mobility với giá 12,5 tỷ USD.[5]
Sự cộng tác
Năm 2005, Google gia nhập hiệp hội với các công ty và tổ chức chính phủ khác để phát triển phần mềm và dịch vụ. Google công bố mối cộng tác với NASA Ames Reseach Center, xây dựng đến 1 triệu phòng chuyên trách và làm việc trong đề án nghiên cứu bao gồm Quản lý dữ liệu trên diện rộng, công nghệ nano, sắp xếp công việc sử dụng máy tính… Google cũng tham gia cộng tác với Sun Microsystem để chia sẻ và phân loại các công nghệ của nhau. Công ty cũng tham gia cộng tác với American Online của Time Warner để cải tiến dịch vụ video trực tuyến.Năm 2007, Google và New Corp.’s Fox Interactive Media tham gia vào bản hợp đồng trị giá 900 triệu USD để phục vụ tìm kiếm vào quảng cáo trên trang mạng xã hội nổi tiếng, Myspace.
Ngày 22 tháng 3 năm 2010, Google rời khỏi thị trường khổng lồ Trung Quốc (tuy nhiên, các dịch vụ bản đồ trực tuyến và âm nhạc vẫn tiếp tục hoạt động). Google đóng cửa website google.cn, và thay vào đó chuyển tới trang google.com.hk để tránh bị kiểm duyệt nội dung. Nguyên nhân chính được cho là vì bất đồng quan điểm với chính quyền Trung Quốc. Ngày 30 tháng 3 năm 2010, mọi cách tìm kiếm bằng google (không chỉ google.cn mà còn các ngôn ngữ khác như google.co.jp. Google.com.au,..), bao gồm cả Google Mobile, đều bị chặn ở Trung Quốc. Hai dịch vụ như Google Mail và Google Maps không bị ảnh hưởng.[6] Lệnh cấm được dỡ bỏ vào ngày hôm sau. http://www.google.com/prc/report.html
Sản phẩm
Google hiện nay đã phát triển nhiều dịch vụ và công cụ cho cộng đồng chung cũng như trong lĩnh vực kinh doanh, bao gồm các ứng dụng Web, mạng lưới Quảng cáo và giải pháp kinh doanh.Quảng cáo
Phần lớn thu nhập của Google đến từ các chương trình Quảng cáo trực tuyến. Google AdWords cho phép các đối tượng có nhu cầu Quảng cáo đăng Quảng cáo của mình trên kết quả tìm kiếm của Google và trên Google Content Network qua phương thức cost-per-click (trả tiền qua số lần click vào Quảng cáo) hoặc cost-per-view (trả tiền qua số lần xem Quảng cáo). Chủ các trang web Google AdSense cũng có thể hiển thị quảng cáo trên trang của họ và kiếm tiền mỗi lần banner quảng cáo được Click.Ứng dụng
Google nổi tiếng bởi dịch vụ Tìm kiếm của nó, nhân tố chính dẫn đến thành công của Google. Vào tháng 12 năm 2006, Google là công cụ tìm kiếm được sử dụng nhiều nhất trên mạng chiếm 50,8% thị phần, vượt xa so với Yahoo (23,6 %) và Window Live Search (8,4%). Google liên kết với hàng tỷ trang web, vì thế người sử dụng có thể tìm kiếm thông tin mà họ muốn thông qua các từ khóa và các toán tử. Google cũng tận dụng công nghệ tìm kiếm của mình vào nhiều dịch vụ tìm kiếm khác, bao gồm Image Search (tìm kiếm ảnh), Google News, trang web so sánh giá cả Froogle, cộng đồng tương tác Google Groups, Google Maps và còn nhiều nữa.Năm 2004, Google ra mắt dịch vụ email trên nền web, gọi là Gmail. Gmail hỗ trợ công nghệ lọc thư rác và khả năng sử dụng Công nghệ tìm kiếm của Google để tìm kiếm thư. Dịch vụ này tạo ra thu nhập bằng cách hiển thị quảng cáo từ dịch vụ AdWords mà phù hợp với nội dung của email hiển thị trên màn hình.
Đầu năm 2006, Google ra mắt dịch vụ Google Video, dịch vụ không chỉ cho phép người dùng tìm kiếm và xem miễn phí các video có sẵn mà còn cho người sử dụng hay các nhà phát hành khả năng phát hành nội dung mà họ muốn, kể cả các chương trình truyền hình trên CBS, NBA và các video ca nhạc. Nhưng đến tháng 8 năm 2007, Google đã đóng cửa trang web này trước sự cạnh tranh của đối thủ Youtube cũng thuộc sở hữu của công ty
Google cũng đã phát triển một số ứng dụng nhỏ gọn, bao gồm cả Google Earth, một chương trình tương tác sử dụng ảnh vệ tinh. Ngoài ra công ty còn phát triển nhiều gói phần mềm văn phòng trên ứng dụng web tên là Google Docs nhằm cạnh tranh thị phần với Microsoft Office.
Nhiều ứng dụng khác nữa có tại Google Labs, một bộ sưu tập những phần mềm chưa hoàn chỉnh. Chúng đang được thử nghiệm để có thể đưa ra sử dụng trong cộng đồng.
Google đã đẩy mạnh quảng bá sản phẩm của họ bằng nhiều cách khác nhau. Ở London, Google Space được cài đặt tại sân bay Healthrow, ra mắt nhiều sản phẩm mới, bao gồm Gmail, Google Earth và Picasa. Ngoài ra, một trang web tương tự cũng được ra mắt cho sinh viên Mỹ dưới cái tên College Life, Powered by Google.
Vào ngày 2 tháng 9 năm 2008, Google đã thông báo sự xuất hiện của Google Chrome, một trình duyệt mã nguồn mở. Trình duyệt này được giới phân tích đánh giá sẽ là đối thủ cạnh tranh thị phần của Internet Explorer và Firefox.Cũng vào khoảng thời gian này Google Translate đã bổ sung thêm tiếng Việt trong dịch vụ dịch tự động của mình và tích hợp ngay trong công cụ tìm kiếm, giúp người sử dụng nhanh chóng hiểu được cơ bản nội dung trang web trình bày bằng tiếng nước ngoài.
Ngày 5 tháng 1 năm 2010, Google cho ra mắt điện thoại Nexus One, sản phẩm cộng tác với hãng điện thoại HTC. Nexus One chạy trên nền hệ điều hành Android 2.1 (cũng do hãng phát triển), được cho là đối thủ cạnh tranh ngang hàng với iPhone của Apple.
Sản phẩm phục vụ kinh doanh
Năm 2007, Google giới thiệu Google Apps Premium Edition, một phần mềm phù hợp cho việc kinh doanh, cung cấp dịch vụ email, tin nhắn, lịch…như một chương trình bảng tính. Sản phẩm này chủ yếu nhắm tới người sử dụng là doanh nhân, dùng để cạnh tranh trực tiếp với bộ phần mềm Microsoft Office, với giá chỉ 50USD một năm cho một người sử dụng, so với giá 500USD cho một người sử dụng của Microsoft Office. Google có một số lượng lớn người sử dụng Google App với 38.000 người ở Đại học Lakehead tại Thunder Bay, Ontario, Canada.Cũng vào năm 2007, Google đã mua lại công ty Postini và sẽ tiếp tục phát triển công nghệ mà họ mua được từ công ty này và đặt tên là Google Security Services.
Các dịch vụ chính
- Blogger: Dịch vụ blog miễn phí của Google
- Froogle: Tìm hàng hóa để mua (đã ngừng hoạt động, chuyển sang Google Products)
- Gmail: Dịch vụ thư điện tử
- Google Alerts: Nhận tin tức và kết quả tìm kiếm qua thư điện tử
- Google Answers: Dịch vụ trả lời có lệ phí (đã ngừng hoạt động)
- Google Apps: Kho ứng dụng dành cho doanh nghiệp
- Google Buzz: Mạng xã hội (đã ngừng hoạt động)
- Google Calendar: Ứng dụng lịch trực tuyến
- Google Catalogs: Ứng dụng đưa các catalog (đã ngừng hoạt động, chuyển sang Google Book Search)
- Google Code: Phát triển mã nguồn và lưu trữ các dự án mã nguồn mở
- Google Docs: Công cụ soạn thảo văn bản, bảng tính và trình chiếu trực tuyến
- Google Directory: Thư mục lấy từ Open Directory Project
- Google Groups: Diễn đàn
- Google Images Search: Tìm kiếm hình ảnh
- Google Labs: Thử nghiệm các ứng dụng và công cụ mới
- Google Language Tools Đã chuyển sang Google Translate
- Google Local: Bản đồ địa phương (đã ngừng hoạt động, chuyển sang Google Maps)
- Google Maps: Bản đồ, chỉ hướng, hình từ vệ tinh toàn thế giới. Dịch vụ này của Google cho phép tạo bản đồ cá nhân và yêu cầu có một tài khoản Google.
- Google Mobile: Sử dụng Google trên điện thoại di động
- Google News: Tin tức
- Google Pages Creator: Upload, lưu trữ file, tạo trang web trực tuyến miễn phí (đã ngừng hoạt động, chuyển sang Google Sites)
- Google Print: Phiên bản sách in cũ, hiện đã chuyển sang Google Book Search
- Google Reader: Trình đọc tin trực tuyến
- Google Scholar: Tìm kiếm kho học liệu
- Google SMS: Dịch vụ gởi tin nhắn miễn phí (đã ngừng hoạt động)
- Google Sites: Ứng dụng làm trang web miễn phí
- Google Translate: Công cụ dịch thuật trực tuyến hỗ trợ 65 ngôn ngữ khác nhau (tính đến 01/2013)
- Google Video: Đăng tải video (đã ngừng cho phép tải video mới, chuyển sang dịch vụ YouTube)
- Google Web Accelerator: truy cập trang web nhanh hơn
- Google Web Albums: Quản lý lưu trữ hình ảnh, xuất bản hình ảnh trên web
- Google+: Mạng xã hội
- iGoogle: Trang chủ Google cá nhân tùy biến (đã ngừng hoạt động vào ngày 1 tháng 11 năm 2013)
- Panoramio: Mạng xã hội chia sẻ ảnh
- Webmaster Tools: Công cụ quản lý trang web trên máy chủ tìm kiếm của Google
- YouTube: Đăng tải video và ứng dụng xã hội với video
Chương trình
- Google Adwords: Chương trình quảng cáo dành cho các doanh nghiệp muốn quảng cáo trên Google và các trang đối tác
- Google Adsense: Dịch vụ dành cho đối tác muốn đưa quảng cáo Google lên trang web của mình
Ứng dụng để bàn
- Google Deskbar
- Google Desktop Search
- Google Earth: xem bản đồ 3D của google
- Orkut
- Picasa
- Google GO: Ngôn ngữ lập trình
- Google Toolbar: thanh công cụ trên Internet Explorer
- Google Chrome: Trình duyệt web
- Google Sidewiki: Ghi chú và nhận xét về các trang web mà người dùng xem
Chú thích
- ^ “The Rise of Google”. Reuters. 29 tháng 4 năm 2004. Truy cập ngày 8 tháng 1 năm 2007.
- ^ a ă â b “Financial Tables”. Google Investor Relations. Truy cập ngày 27 tháng 9 năm 2012.
- ^ “Google Inc. Announces Second Quarter 2012 Financial Results” (Thông cáo báo chí). Google. 19 tháng 7, 2012. Truy cập 27 tháng 9, 2012.
- ^ “Google có môi trường làm việc tốt nhất tại Mỹ”. Tạp chí Thế Giới Vi Tính - PC World VN. 21 tháng 1 năm 2012. Truy cập ngày 4 tháng 2 năm 2012.
- ^ Larry Page (15 tháng 8 năm 2011). “Supercharging Android: Google to Acquire Motorola Mobility”. Google Blog. Truy cập ngày 15 tháng 8 năm 2011.
- ^ Pierson, David (31 tháng 3 năm 2010). “Google searches appear to be blocked in China”. Los Angeles Times. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2010.
Liên kết ngoài
Wikimedia Commons có thêm thể loại hình ảnh và phương tiện truyền tải về Google |
- Google tiếng Việt
- Google - câu chuyện thần kỳ trên Báo Tuổi Trẻ.
- Loạt bài về Google trên Việt Nam Net năm 2006: kỳ 1, kỳ 2, kỳ 3 và kỳ 4.
- Mổ xẻ nền văn hóa Google từ... toilet: kỳ 1 kỳ 2 trên Việt Nam Net tháng 1 năm 2007.
- Hướng dẫn đăng ký website vào Google.
|
Larry Page
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Larry Page | |
---|---|
Sinh | Lawrence Edward "Larry" Page 26 tháng 3, 1973 Lansing, Michigan |
Tên khác | Larry Page |
Công việc | đồng sáng lập Google |
Vợ (hoặc chồng) | Lucinda Southworth |
Thuở thiếu thời
Larry Page là con trai của Carl Victor Page, giáo sư chuyên ngành khoa học máy tính và trí tuệ nhân tạo tại Đại học Tiểu bang Michigan[3]. Mẹ là Gloria Page, một trong những cử nhân đầu tiên thuộc ngành khoa học máy tính tốt nghiệp tại Đại học Tiểu bang Michigan. Ngoài ra, Page còn có một người anh là Carl Victor Page, Jr., đồng sáng lập ra eGroups, sau này được bán lại cho Yahoo! với giá cỡ nửa tỉ đô.Page vào học trường Montessori ở Lansing rồi tốt nghiệp trường Trung học East Lansing. Page có bằng cử nhân khoa học ngành kỹ sư máy tính loại danh dự tại Đại học Michigan và bằng thạc sỹ tại Đại học Stanford. Tại Đại học Michigan, Page là thành viên của đội xe hơi dùng năng lượng Mặt trời và là chủ tịch hội HKN.[4]
Công việc kinh doanh
Trong quá trình học Ph.D ngành khoa học máy tính tại Stanford, Page gặp Serger Brin. Họ đã cùng nhau khai trương cỗ máy tìm kiếm Google vào năm 1998. Google hoạt động dựa vào kỹ thuật đã được cấp bằng sáng chế, PageRank. Larry Page hiện vẫn chưa hoàn thành việc học tiến sĩ tại Stanford.Năm 2006, Page và Brin cũng tậu cho mình 1 chiếc Boeing 767 đã qua sử dụng rồi trang hoàng lại nó để dùng cho công việc kinh doanh và nhu cầu cá nhân. Nội thất trong máy bay dự tính được thiết kế lại bởi nhà thiết kế nội thất máy bay Leslie Jennings; tuy nhiên, một cuộc tranh luận mang tính pháp lý đã nổ ra và chủ cũ của chiếc máy bay đã phải cho hoãn việc nâng cấp nó. Khi được tu sửa lại, chiếc máy bay có thể chở đến 50 hành khách và còn có cả một chiếc giường cỡ lớn kiểu California.
Vào năm 2007, cùng với Brin và Eric E. Schmidt, Larry Page được tạp chí PC World bình chọn là nhân vật quan trọng số 1 trong số 50 người quan trọng nhất của thế giới web[5]. Page cũng đầu tư vào Tesla Motors, công ty đang phát triển chiếc Tesla Roadster, một dạng xe dùng điện có thể chạy 250 dặm.[6]
Diễn đàn World Economic vinh danh Page như một nhà lãnh đạo toàn cầu trong tương lai. Còn X PRIZE thì ủy thác Page vào trong hội đồng của họ.[3]
Ghi chú và tham khảo
- ^ PAGE Lawrence (Larry) E. International Who's Who. truy cập September 1, 2006.
- ^ Net Worth from Forbes: The World's Richest People, dated 6 March, 2007.
- ^ a ă Google Corporate Information: Management: Larry Page
- ^ “HKN College Chapter Directory”. Eta Kappa Nu. 2007-01-15.
- ^ Null, Christopher. "The 50 Most Important People on the Web." PC World. 5 tháng 3, 2007. Truy cập 5 tháng 3, 2007.
- ^ SiliconBeat: Tesla Motors, new electric sports car company raises $40M from Google guys, others
Liên kết ngoài
Wikimedia Commons có thêm thể loại hình ảnh và phương tiện truyền tải về Larry Page |
- Google Corporate Information: Management
- Larry Page fan club
- Larry Page's Stanford website, archived
- Larry Page's Alumni Profile Detailed
- America's Best Leaders
- Larry Page's Alumni Profile Composite
- Channel 4 News: "Google's Vision", 23 tháng 5 năm 2006
- "The Searchmeisters"—profile on Page and Brin from the B'nai B'rith Magazine (Spring 2006)
- Video → Google Founders - Charlie Rose interview from 2001 (14 min)
- → On the Origins of Google
- Nhìn lại 1 năm của Larry Page trên cương vị CEO
- Đám cưới của ông chủ Google gặp bão to
- Larry Page chuẩn bị lấy vợ
- Hai ông chủ Google lọt vào danh sách của Forbes
|
Sergey Brin
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Sergey Brin (sinh ngày 21 tháng 8 năm 1973 tại Moskva, Nga), là một doanh nhân người Mỹ, cũng là người đồng sáng lập Google cùng với Larry Page.
Brin hiện giờ là Giám đốc Kỹ thuật của Google và có tài sản ước tính là 17,5 tỉ đô, giúp anh trở thành người giàu thứ 24 trên toàn thế giới (theo danh sách tỉ phú năm 2010 của Forbes)[1].
Tháng 11/1990, sau khi vào học tại trường Trung học Eleanor Roosevelt, Sergey đến Đại học Maryland tại College Park để học ngành Toán và Khoa học máy tính. Anh lấy bằng Cử Nhân Khoa Học vào tháng 5/1993 loại danh dự. Sau khi tốt nghiệp từ Maryland, Sergey nhận được học bổng tốt nghiệp từ Hiệp Hội Khoa học Quốc Gia, cho phép anh học lên Thạc sĩ tại Đại học Stanford.
Sergey nhận bằng Thạc sĩ vào tháng 8/1995, sớm hơn so với chương trình thường lệ. Mặc dù đã được nhận vào học Tiến Sỹ nhưng Sergey đã gác lại việc học vô hạn định vì phải làm việc ở Google. Sergey cũng nhận bằng MBA danh dự tại Instituto de Empresa.
Thời điểm bước ngoặc của Sergey là lúc anh gặp Larry Page, đồng chủ tịch Google trong tương lai. Chuyện lạ rằng mặc dù 2 người chẳng ưa nhau khi lần đầu tiên gặp gỡ tại buổi lễ Tốt nghiệp của sinh viên ngành Khoa học Máy tính ở Stanford, họ đã sớm tìm ra sở thích chung: tìm kiếm những thông tin giống nhau từ những cơ sở dữ liệu lớn. Họ cùng với nhau là đồng tác giả bài báo mang tên "Sự phân tích về cỗ máy tìm kiếm trang Web dạng Hypertext mức độ lớn". Đây được xem là đóng góp mang tính phôi thai của họ. Bài báo đã trở thành 1 trong 10 bài viết khoa học được đọc nhiều nhất ở Đại học Stanford.
Năm 2004, Sergey và Larry Page được vinh danh là "Nhân vật của tuần" trong bản tin ABC World News Tonight. Tháng 1/2005 đã được đề cử vào một trong số "Những nhà trẻ lãnh đạo toàn cầu" ở diễn đàn Kinh Tế Thế Giới.
Sergey và Page đã tậu một chiếc Boeing 767 cho công việc làm ăn và cho nhu cầu cá nhân của họ. Nội thất trong máy bay dự tính được thiết kế lại bởi nhà thiết kế nội thất máy bay Leslie Jennings, tuy nhiên, một cuộc tranh luận mang tính pháp lý đã nổ ra và chủ cũ của chiếc máy bay đã phải cho hoãn việc nâng cấp nó. Khi được tu sửa lại, chiếc máy bay có thể chở đến 50 hành khách và còn có cả một chiếc giường cỡ lớn kiểu California.
Vào năm 2007, cùng với Larry Page và Schmidt, Brin được tạp chí PC World bình chọn là nhân vật quan trọng số 1 trong số 50 người quan trọng nhất của thế giới web.
Brin cũng đầu tư vào Tesla Motors, công ty đang phát triển chiếc Tesla Roadster, một dạng xe dùng điện loại 250 dặm.
Tháng 5/2007, Sergey kết hôn với Anne Wojcicki tại Bahamas.
Brin hiện giờ là Giám đốc Kỹ thuật của Google và có tài sản ước tính là 17,5 tỉ đô, giúp anh trở thành người giàu thứ 24 trên toàn thế giới (theo danh sách tỉ phú năm 2010 của Forbes)[1].
Mục lục
Thông tin cá nhân
Sergey được sinh ra tại Moskva, Nga trong một gia đình Do Thái, là con trai của 1 nhà toán học và 1 nhà kinh tế học. Năm 1979, khi Sergey lên 6, gia đình anh di cư sang Mỹ. Brin học tại trường điểm Paint Branch Motessori tại Adelphi, Maryland. Tuy nhiên, anh lại học nhiều hơn tại nhà, với người cha là Giáo sư Toán học tại Đại học Maryland, người đã nuôi dưỡng niềm yêu thích toán học ở Sergey. Gia đình cũng giúp anh duy trì được vốn tiếng Nga của anh.Tháng 11/1990, sau khi vào học tại trường Trung học Eleanor Roosevelt, Sergey đến Đại học Maryland tại College Park để học ngành Toán và Khoa học máy tính. Anh lấy bằng Cử Nhân Khoa Học vào tháng 5/1993 loại danh dự. Sau khi tốt nghiệp từ Maryland, Sergey nhận được học bổng tốt nghiệp từ Hiệp Hội Khoa học Quốc Gia, cho phép anh học lên Thạc sĩ tại Đại học Stanford.
Sergey nhận bằng Thạc sĩ vào tháng 8/1995, sớm hơn so với chương trình thường lệ. Mặc dù đã được nhận vào học Tiến Sỹ nhưng Sergey đã gác lại việc học vô hạn định vì phải làm việc ở Google. Sergey cũng nhận bằng MBA danh dự tại Instituto de Empresa.
Niềm đam mê đối với các công cụ tìm kiếm
Sergey bộc lộ niềm đam mê đối với Internet từ rất sớm khi còn đang học tại Stanford. Anh là tác giả và đồng tác giả của nhiều bài báo về kho dữ liệu và mô hình chiết xuất. Anh cũng viết phần mềm để chuyển đổi dễ dàng TeX, một loại ngôn ngữ dùng cho các bài báo khoa học, sang định dạng HTML và xây dựng trang web cho việc xếp hạng phim.Thời điểm bước ngoặc của Sergey là lúc anh gặp Larry Page, đồng chủ tịch Google trong tương lai. Chuyện lạ rằng mặc dù 2 người chẳng ưa nhau khi lần đầu tiên gặp gỡ tại buổi lễ Tốt nghiệp của sinh viên ngành Khoa học Máy tính ở Stanford, họ đã sớm tìm ra sở thích chung: tìm kiếm những thông tin giống nhau từ những cơ sở dữ liệu lớn. Họ cùng với nhau là đồng tác giả bài báo mang tên "Sự phân tích về cỗ máy tìm kiếm trang Web dạng Hypertext mức độ lớn". Đây được xem là đóng góp mang tính phôi thai của họ. Bài báo đã trở thành 1 trong 10 bài viết khoa học được đọc nhiều nhất ở Đại học Stanford.
Google X
Các sự kiện khác
Sergey đã từng xuất hiện trong một số chương trình truyền hình như Charlie Rose Show, CNBC và CNN.Năm 2004, Sergey và Larry Page được vinh danh là "Nhân vật của tuần" trong bản tin ABC World News Tonight. Tháng 1/2005 đã được đề cử vào một trong số "Những nhà trẻ lãnh đạo toàn cầu" ở diễn đàn Kinh Tế Thế Giới.
Sergey và Page đã tậu một chiếc Boeing 767 cho công việc làm ăn và cho nhu cầu cá nhân của họ. Nội thất trong máy bay dự tính được thiết kế lại bởi nhà thiết kế nội thất máy bay Leslie Jennings, tuy nhiên, một cuộc tranh luận mang tính pháp lý đã nổ ra và chủ cũ của chiếc máy bay đã phải cho hoãn việc nâng cấp nó. Khi được tu sửa lại, chiếc máy bay có thể chở đến 50 hành khách và còn có cả một chiếc giường cỡ lớn kiểu California.
Vào năm 2007, cùng với Larry Page và Schmidt, Brin được tạp chí PC World bình chọn là nhân vật quan trọng số 1 trong số 50 người quan trọng nhất của thế giới web.
Brin cũng đầu tư vào Tesla Motors, công ty đang phát triển chiếc Tesla Roadster, một dạng xe dùng điện loại 250 dặm.
Tháng 5/2007, Sergey kết hôn với Anne Wojcicki tại Bahamas.
Chú thích
- ^ Net Worth from Forbes: The World's Richest People, dated 6 March, 2007.
Wikimedia Commons có thêm thể loại hình ảnh và phương tiện truyền tải về Sergey Brin |
|
Đại học Stanford
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Mục từ "Stanford" dẫn đến bài này. Xin đọc về các nghĩa khác tại Stanford (định hướng).
Viện Đại học Leland Stanford Junior, thường được gọi là Viện Đại học Stanford hay chỉ Stanford,[1] là viện đại học tư thục thuộc khu vực thống kê Stanford, California (Hoa Kỳ). Khuôn viên chính của viện đại học này rộng rãi và đẹp đẽ, nằm cách San Francisco 60 kilômét về phía đông nam, nó ở phần chưa được sáp nhập của Quận Santa Clara bên cạnh thị trấn Palo Alto, và nằm ở trung tâm Thung lũng Silicon
cả về vị trí địa lý và lịch sử. Là viện đại học có diện tích lớn thứ
hai trên thế giới, Viện Đại học Stanford có chương trình đầy đủ cho sinh
viên đại học cũng như sinh viên sau đại học, cùng với một trung tâm y khoa nổi tiếng và nhiều trung tâm nghiên cứu và dự án phục vụ. Cùng với Viện Đại học Harvard, Viện Đại học Yale và Viện Đại học Princeton, Viện Đại học Stanford nằm trong nhóm những viện đại học tốt nhất của Hoa Kỳ.Lịch sử
Viện Đại học Stanford được thành lập bởi Leland Stanford, trùm tư bản về đường xe lửa và Thống đốc California, và vợ ông, Jane Stanford. Viện đại học được đặt theo tên người con duy nhất của hai vợ chồng, Leland Stanford, Jr., anh chết do bệnh thương hàn khi còn trẻ. Những người dân địa phương và các thành viên của viện đại học thường gọi trường là The Farm ("Trại"), vì trường nằm tại địa điểm đã từng là trại nuôi ngựa của Leland Stanford.Giấy phép thành lập Viện Đại học Stanford được viết ngày 11 tháng 11 năm 1885 và được chấp nhận bởi Ban Quản trị đầu tiên ngày 14 tháng 11. Viên đá móng được đặt xuống ngày 14 tháng 5 năm 1887, và trường mở cửa chính thức ngày 1 tháng 10 năm 1891 đón 559 sinh viên. Học phí được miễn. Có 15 giáo sư, trong đó bảy giáo sư đến từ Đại học Cornell. Trường được thành lập với danh nghĩa cơ sở đào tạo hỗn hợp cho cả nam và nữ, nhưng trong nhiều năm, họ vẫn hạn chế số sinh viên nữ nhập học.
Khẩu hiệu chính thức của Viện Đại học Stanford, do gia đình Stanford lựa chọn, là Die Luft der Freiheit weht. Dịch từ tiếng Đức, câu nói này của Ulrich von Hutten có nghĩa "Gió của tự do thổi." Vào lúc viện đại học được thành lập, tiếng Đức vừa mới thay thế tiếng Latinh trong vai trò ngôn ngữ chính của khoa học và triết học (và nó giữ vị trí đó cho đến Đệ nhị thế chiến).
Khuôn viên
Vào mùa hè năm 1886, khi đang đặt kế hoạch cho khu trường sở, ông Stanford mang chủ tịch Học viện Công nghệ Massachusetts, Francis Amasa Walker, và Frederick Law Olmsted, kiến trúc sư người Boston nổi tiếng về phong cảnh, về miền tây để bàn bạc. Olmsted đặt khái niệm chung về khu trường sở và các kiến trúc, bác bỏ vị trí vào sườn đồi để xây trên đất bằng phẳng thiết thực hơn. Sau đó Charles Allerton Coolidge phát triển khái niệm này theo kiểu của người dậy nghề, Henry Hobson Richardson, đó là trường phái Richardsonian Romanesque, biểu thị kiến trúc hình chữ nhật xây bằng đá và được nối bằng những lối có mái vòm bán nguyệt. Khuôn viên đầu tiên cũng được xây theo kiểu thuộc địa Tây Ban Nha thường có ở California được gọi Mission Revival. Các mái ngói đỏ và công trình nề bằng sa thạch chắc có bề ngoài khác biệt của Ca Li và phần nhiều của những công trình xây về sau giữ mặt ngoài như vậy. Các mái nói đỏ và trời xanh của miền này là sự phối hơp đẹp nổi tiếng.Phần lớn của những công trình đầu tiên bị động đất San Francisco 1906 tàn phá nhưng đại học này vẫn còn Sân chính, Nhà Hóa học cũ, và Nhà Encina (được cho là nơi cư trú của John Steinbeck trong thời ở Stanford). Sau khi động đất Loma Prieta phá thêm vào năm 1989, Đại học thực hiện dự án có vốn bằng tỷ đô la để trang bị và sửa sang những công trình cũ để sử dụng kiểu mới.
Khu dự trữ sinh quyển luống Jasper (Jasper Ridge Biological Preserve) ở ngoài viện đại học là khu vực cấm săn do viện đại học này làm chủ và được các nhà sinh học nghiên cứu ở đấy. Trạm Hàng hải Hopkins (Hopkins Marine Station) tại Pacific Grove, California, là trung tâm nghiên cứu về sinh học biển của đại học từ năm 1892. Đại học cũng có sân golf riêng và hồ từng mùa (Lagunita, thực sự chứa đựng nước để tưới cỏ), hai nơi này có cá cóc California Tiger Salamander nguy cấp.
Chú thích
- ^ Người Mỹ gốc Việt địa phương thường đọc là "Xtan-phò".
Tham khảo
- Stuart W. Leslie, The Cold War and American Science: The Military-Industrial-Academic Complex at MIT and Stanford, Nhà xuất bản Đại học Columbia 1994
- Rebecca S. Lowen, R. S. Lowen, Creating the Cold War University: The Transformation of Stanford, Nhà xuất bản Đại học California 1997
Xem thêm
Liên kết ngoài
Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về Đại học Stanford |
- Đại học Stanford
- Hội Sinh viên Đại học Stanford
- The Stanford Daily – nhật báo của sinh viên
- Nhóm sinh viên gốc Việt tại Stanford (SVSA)
- 37,429001°B 122,169685°T
Wikimedia Commons có thêm thể loại hình ảnh và phương tiện truyền tải về Đại học Stanford |
|
http://www.youtube.com/user/hoangkimvietnam
Trở về trang chính
hoangkim vietnam, hoangkim, hoangkimvietnam, Hoàng Kim, Ngọc Phương Nam, Chào ngày mới Thung dung, Dạy và học, Cây Lương thực, Tin Nông nghiệp Việt Nam, Food Crops, Cassava in Vietnam, VietnamAfricaCassavaRice, Khát khao xanh, Dayvahoc, Học mỗi ngày, Danh nhân Việt , Food Crops News, Điểm chính, CNM365, Kim LinkedIn, KimTwitter, KimFaceBook Đọc lại và suy ngẫm, Việt Nam tổ quốc tôi, Tình yêu cuộc sống, Thơ cho con
No comments:
Post a Comment