Tokyo (
tiếng Nhật: 東京都
Tōkyō-to,
nghe (trợ giúp·chi tiết); Hán-Việt:
Đông Kinh đô, trong tiếng Việt còn có thể viết là Tô-ki-ô) là thủ đô và một trong 47 tỉnh của
Nhật Bản, thủ đô Tōkyō nằm ở phía đông của đảo chính
Honshū.
Trong
tiếng Nhật,
Tokyo có nghĩa là "Kinh đô ở phía đông". Không chỉ là một đô thị riêng lẻ mà ngày nay Tokyo là trung tâm của
Vùng thủ đô Tōkyō. Trung tâm hành chính của Tokyo đặt ở
khu Shinjuku.
Vùng đô thị Tokyo là vùng đô thị đông dân nhất thế giới với dân số từ
35-39 triệu người (tùy theo cách định nghĩa) và là vùng đô thị có GDP
cao nhất thế giới với
GDP 1.479 tỷ
đô la Mỹ theo
sức mua tương đương vào năm 2008
[1].
Tokyo được
Saskia Sassen mô tả là một trong 3 "trung tâm chỉ huy" của nền
kinh tế thế giới, cùng với
Luân Đôn và
Thành phố New York[2] Thành phố này được xem là một
alpha+ thành phố thế giới, theo xếp hạng của GaWC năm 2008 inventory
[3]. Tokyo là nơi đặt có cơ quan đầu não của
Chính phủ Nhật Bản,
Hoàng cung Nhật Bản và là nơi cư ngụ của
Hoàng gia Nhật Bản.
Tên gọi
Kinh đô Tokyo từng được biết đến là
Edo, có nghĩa là cửa sông
[4]. Thành phố được đổi tên thành Tokyo (
Tōkyō:
tō (Đông) +
kyō (thủ đô)) khi nó trở thành kinh đô của vương triều. Trong suốt triều vua Minh Trị, thành phố được gọi là "Tōkei"
[5],
một cách phiên âm đảo nghịch cho kí tự Trung Quốc diễn tả từ "Tokyo".
Một vài tài liệu chính thống bằng Tiếng Anh còn sót lại tới ngày nay vẫn
sử dụng cách đọc "Tokei", tuy nhiên cách phiên âm này hiện không còn
được dùng nữa.
[6]
Lịch sử
Biểu tượng của Tokyo, cầu Nijubashi nằm trong hoàng cung
Tầm quan trọng của Tokyo được nâng lên chủ yếu là do công của hai nhà lãnh đạo lỡi lạc:
Tokugawa Ieyasu và
Minh Trị Thiên Hoàng (Meiji). Vào năm 1603, sau khi thống nhất các sứ quân đánh lẫn nhau ở Nhật Bản,
Shogun Tokugawa Ieyasu thiết lập
Edo
(bây giờ là Tokyo) như là căn cứ của ông. Kết quả là, thành phố phát
triển nhanh chóng và trở thành một trong những thành phố lớn nhất trên
thế giới với dân số trên 1 triệu người vào
thế kỉ 18. Nó trở thành kinh đô
trên thực tế của đất nước Nhật Bản mặc dù
Thiên hoàng sống ở
Kyoto, kinh đô Nhật Bản thời bấy giờ. Xem
Edo.
Sau 263 năm, chế độ
Mạc phủ bị lật đổ và
Thiên hoàng phục hồi Đế quyền. Vào năm
1869,
Minh Trị Thiên Hoàng vừa 17 tuổi dời đô từ Kyoto về Edo, được đặt tên
lại là "Tokyo" (Đông Kinh) một năm trước đó. Tokyo đã là trung tâm chính
trị, kinh tế và văn hóa của quốc gia, và cung vua làm nó trở thành một
kinh đô
trên thực tế của đất nước cũng như là thành Edo trước đây trở thành
Hoàng cung.
Thành phố Tokyo
được thiết lập và tiếp tục là thủ đô cho đến khi nó trở thành một quận
vào năm 1943 và sát nhập vào "Khu đô thị mở rộng" của Tokyo.
Tòa nhà chính quyền Tōkyō.
Tokyo, cũng như
Osaka, đã được thiết kế từ
thập niên 1900
như là thành phố đường sắt, nghĩa là thành phố xây xung quanh các nhà
ga xe lửa lớn với một mật độ dân số cao, do đó các đường sắt nội thành
có thể được xây với giá khá rẻ ở độ cao của mặt đường. Điều này khác với
các thành phố trên thế giới khác như
Los Angeles với mật độ dân thấp chủ yếu là cho xe hơi chạy, và mặc dù các
đường cao tốc đã được xây dựng, các thiết kế cơ bản vẫn không thay đổi cho đến ngày hôm nay.
Tokyo đã trải qua hai tai họa lớn và hồi phục một cách đáng kể từ hai sự kiện đó. Một là trận
động đất lớn Kanto vào năm 1923, và tai họa kia là cuộc
Chiến tranh thế giới lần thứ hai (1939 - 1945). Những
bom lửa năm 1945 cũng hủy diệt không kém hai quả
bom nguyên tử ở
Hiroshima và
Nagasaki cộng lại. Nhiều khu vực trong thành phố bị san phẳng.
Sau chiến tranh, Tokyo được xây dựng lại hoàn toàn, và được trưng bày cho thế giới xem trong
Thế vận hội 1964 tổ chức tại thành phố này. Tokyo trở thành thành phố lớn nhất trên thế giới vào năm 1965 (vượt qua khỏi
New York).
Thập niên 1970 đem lại những phát triển về chiều cao như
Sunshine 60, một sân bay mới và gây tranh cãi (
Sân bay quốc tế Narita) tại
Narita (rất xa bên ngoài Tokyo), và một dân số tăng lên khoảng 11 triệu người (trong khu vực metropolitan).
Hệ thống tàu điện ngầm của Tokyo và các đường xe lửa đi lại trong
thành phố trở thành bận rộn nhất trên thế giới bởi vì càng nhiều người
di chuyển đến khu vực này. Vào
thập niên 1980, giá địa ốc tăng vọt trong nền kinh tế bong bóng: nhiều người giàu lên nhanh chóng, nhưng bong bóng vỡ đầu
thập niên 1990
và nhiều công ty, ngân hàng, và cá nhân bị vướng phải giá địa ốc suy
giảm về giá trị. Sự suy thoái kinh tế theo sau đó, làm thập niên 1990
thành "thập niên bị mất" của Nhật, mà bây giờ nó đang hồi phục chậm
chạp.
Tokyo vẫn chứng kiến các phát triển đô thị mới trên những vùng đất ít sinh lợi hơn. Những công trình gần đây bao gồm
Ebisu Garden Place, Tennozu Isle, Shiodome,
Roppongi Hills, Shinagawa (bây giờ cũng là nhà ga
Shinkansen), và nhà ga Tokyo (phía Marunouchi). Các tòa nhà quan trọng đã bị phá bỏ để dành chỗ cho những khu siêu thị hiện đại hơn như
dãy đồi Omotesando. Các dự án đắp thêm đất ở Tokyo cũng đã diễn ra trong nhiều thế kỉ. Nổi bật nhất là khu vực
Odaiba, bây giờ là một trung tâm mua bán và giải trí.
Tokyo bị tàn phá bởi các trận
động đất mạnh vào năm
1703,
1782,
1812,
1855 và
1923. Trận
động đất năm 1923, với ước tính cường độ vào khoảng 8.3, giết hại 142.000 người.
Cũng có nhiều dự án khác nhau được đề nghị để di chuyển các cơ quan
chức năng của nhà nước từ Tokyo đến một thủ đô thứ hai ở một vùng khác
của Nhật Bản, để làm giảm đi sự phát triển nhanh chóng ở Tokyo và vực
dậy những vùng chậm phát triển về mặt kinh tế. Những dự án này còn nhiều
tranh cãi trong Nhật Bản và chưa được thực hiện.
Do sự tiến hóa trong phương pháp chữ Nhật được phiên âm ra
Romaji, các văn bản cũ có thể nhắc đến thành phố như là "Tokio".
Địa lý và Hành chính
Phần lục địa của Tokyo nằm ở phía tây bắc của
vịnh Tokyo và ước tính có chiều dài 90 km từ đông tới tây và 25 km từ bắc tới nam. Tỉnh
Chiba tiếp giáp phía đông,
Yamanashi phía tây,
Kanagawa phía nam và
Saitama
phía bắc. Phần nằm trong lục địa của Tokyo được phân chia thành những
khu đặc biệt (chiếm phần phía đông) và vùng Tama chạy dọc về hướng tây.
Danh giới hành chính của vùng đại Tokyo còn bao gồm hai chuỗi hòn đảo thuộc
Thái Bình Dương chạy thẳng về phía nam:
Quần đảo Izu và
quần đảo Ogasawara, kéo dài hơn 1000 km so với vùng đất liền Nhật Bản.
Theo
luật Nhật Bản, Tokyo được phân định là
Đô(都-to)
[7].
Cấu trúc hành chính ngang bằng với các tỉnh của Nhật Bản. Trong vùng
Tokyo thì lại có nhiều cấu trúc hành chính nhỏ hơn, được gọi là thành
phố. Bao gồm
23 khu đặc biệt (特別区-
khu),
đây là những khu tự trị, mỗi khu có một thị trưởng và một hội đồng
riêng và có cấu trúc của một thành phố. Ngoài 23 khu đặc biệt này, Tokyo
còn có 26 tiểu thành phố (市 -
thị), 5 thị trấn (町-
đinh) và 8 làng (村-
thôn),
mỗi phân khu hành chính đều có chính quyền địa phương riêng. Người đứng
đầu chính quyền thủ đô Tokyo là một tỉnh trưởng được bầu công khai và
hội đồng thành phố. Trụ sở của thành phố nằm ở khu
Shibuya,
đây là nơi điều hành toàn bộ Tokyo, bao gồm cả sông, ngòi, đầm, đảo,
công viên quốc gia, thêm vào đó là cả những tuyến phố, những tòa nhà
chọc trời và hệ thống tàu điện ngầm.
Hai Mươi ba khu đặc biệt
Khu đặc biệt (
tokubetsu-ku) của Tokyo bao gồm một vùng từng hình thành nên
thành phố Tokyo. Vào ngày 1 tháng 7 năm 1943, thành phố Tokyo được sáp nhập vào tỉnh Tokyo (東京府,
Tōkyō-fu)
và thành lập nên "tỉnh thủ đô". Sau vụ sáp nhập, không giống các khu
thành phố khác ở Nhật Bản, những khu này không thuộc bất cứ một thành
phố bao bọc lớn hơn nào. Mỗi khu là một đô thị tự trị với thị trưởng
được bầu ra bởi chính khu đó và có hội đồng giống các thành phố khác ở
Nhật. Điểm khác biệt của các khu này khác biệt so với các thành phố khác
là mối quan hệ hành chính đặc biệt với chính quyền tỉnh. Vài chức năng
đô thị nhất định, chẳng hạn như cung cấp nước, hệ thống cống rãnh, cứu
hỏa được điều hành bởi chính quyền thủ đô Tokyo. Để trả cho những chi
phí hành chính phát sinh, tỉnh thu thuế đô thị, thuế này sẽ thường được
thu bởi thành phố
[8]. Hiện nay Tokyo có 23 khu đặc biệt gồm:
Tây Tokyo
Hibiyabori
Phía tây của những khu đặc biệt gồm có những thành phố, thôn, làng có
cấu trúc hành chính giống những nơi khác ở Nhật. Dù đóng vai trò chủ
yếu là những nơi sinh sống của người những người dân làm việc ở trung
tâm Tokyo nhưng một vài nơi ở đây cũng có những cơ sở công nghiệp và
thương mại địa phương. Những khu này thường được gọi là vùng Tama hay
Tây Tokyo.
Thành phố
Có 26 thành phố nằm ở vùng phía tây Tokyo:
Quận, thôn, làng
Đoạn cực tây có quận
Nishitama. Phần lớn vùng này là núi và điều kiện địa hình không phù hợp cho phát triển đô thị. Ngọn núi cao nhất ở Tokyo là
núi Kumotori, cao 2,017m; những ngọn núi khác bao gồm
Takasu (1737 m),
Odake (1266 m), và
Mitake (929 m).
Hồ Okutama, gần sông Tama cạnh tỉnh
Yamanashi, là hồ lớn nhất của Tokyo.
Đảo
Tokyo nhìn từ vệ tinh
Tokyo có vô số hòn đảo ngoài khơi, kéo dài xa tới 1850 km so với
trung tâm Tokyo. Vì khoảng cách xa của những hòn đảo này so với trụ sở
chính quyền thành phố ở Shibuya nên những văn phòng chính quyền địa
phương quản lí những hòn đảo này.
Quần đảo Izu là một nhóm các đảo núi lửa hình thành nên
Công viên Quốc gia Fuji-Hakone-Izu. Những hòn đảo nằm gần Tokyo nhất theo thứ tự gồm:
Izu Ōshima,
Toshima,
Niijima,
Shikinejima,
Kozushima,
Miyakejima,
Mikurajima,
Hachijojima, và
Aogashima.
Izu Ōshima và
Hachijojima là những thị trấn, những hòn đảo còn lại là thôn, trong đó
Niijima và
Shikinejima là một thôn.
Quần đảo Ogasawara bao gồm, từ bắc tới nam,
Chichi-jima,
Nishinoshima,
Haha-jima,
Kita Iwo Jima,
Iwo Jima, và
Minami Iwo Jima. Ogasawara cũng quản lý hai đảo nhỏ ngoài khơi:
Minami Torishima và
Okino Torishima. Hai chuỗi đảo và những hòn đảo ngoài khơi này không có người sinh sống lâu dài mà chỉ là nơi đồn trú của các sĩ quan thuộc
Lực lượng Phòng vệ Nhật Bản. Chỉ có hai đảo
Chichi-jima và
Haha-jima là có người địa phương sinh sống. Hai đảo này hình thành nên thôn Ogasawara.
Vườn quốc gia
Có một vài công viên quốc gia thuộc Tokyo bao gồm:
Dân số
Tokyo vào buổi tối
Tính đến tháng 10 năm 2007, ước tính có khoảng 12.79 triệu người sống
tại Tokyo với 8.653 triệu người sống tại 23 khu đặc biệt. Vào ban ngày,
dân số tăng thêm 2.5 triệu người, gồm những người đi làm và học sinh
lưu chuyển từ các vùng lân cận vào trung tâm. Tác động này có thể thấy
rõ nhất ở 3 khu trung tâm là
Chiyoda,
Chūō và
Minato,
những khu có dân số là 326,000 vào ban đêm và 2.4 triệu người vào ban
ngày theo điều tra dân số năm 2005. Toàn bộ tỉnh Tokyo có 12,790,000 cư
dân vào tháng 10 năm 2007 (8,653,000 trong 23 khu), với số tăng 3 triệu
người vào ban ngày. Dân số Tokyo đang tiếp tục tăng do người dân đang có
xu hướng quay trở lại sống tại các khu trung tâm khi giá đất ngày càng
giảm nhẹ.
Tính đến năm 2005, những người có quốc tịch nước ngoài sống tại Tokyo
theo điều tra gồm: người Trung Quốc (123,661), người Hàn Quốc
(106,697), người Bắc Triều Tiên (62,000), người Phillipine (31,077),
người Mỹ (18,848), người Anh (7,696), người Brazil (5,300) và người Pháp
(3,000).
[9]
Khí hậu và địa chất
Tokyo nằm ở vành đai
khí hậu cận nhiệt đới ẩm [10],
mùa hè ẩm ướt và mùa đông dịu mát với những đợt rét. Lượng mưa bình
quân là 1,380mm. Lượng tuyết ít nhưng vẫn thường xuyên diễn ra
[11]. Tokyo là một ví dụ điển hình cho loại khí hậu nhiệt đô thị đảo, dân số đông góp một phần quan trọng đến khí hậu thành phố.
[12].
Tokyo được xem là "một ví dụ thuyết phục cho mối quan hệ giữa sự tăng
trưởng đô thị và khí hậu". Tokyo cũng thường có bão hàng năm, nhưng phần
lớn là bão yếu.
Tokyo từng hứng chịu các trận
động đất vào năm 1703, 1782, 1812, 1855 và 1923
[13][14]. Trận
động đất năm 1923 với cường độ 8,3 đã giết chết 142.000 người.
Khí hậu Tokyo, Nhật Bản (1971-2000)
Tháng |
1 |
2 |
3 |
4 |
5 |
6 |
7 |
8 |
9 |
10 |
11 |
12 |
Năm |
Trung bình tối cao °C (°F) |
9.8 (50) |
10.0 (50) |
12.9 (55) |
18.4 (65) |
22.7 (73) |
25.2 (77) |
29.0 (84) |
30.8 (87) |
26.8 (80) |
21.6 (71) |
16.7 (62) |
12.3 (54) |
19,7 (67) |
Trung bình tối thấp °C (°F) |
2.1 (36) |
2.4 (36) |
5.1 (41) |
10.5 (51) |
15.1 (59) |
18.9 (66) |
22.5 (73) |
24.2 (76) |
20.7 (69) |
15.0 (59) |
9.5 (49) |
4.6 (40) |
12,5 (55) |
Lượng mưa mm (inch) |
48.6 (1.9) |
60.2 (2.4) |
114.5 (4.5) |
130.3 (5.1) |
128.0 (5) |
164.9 (6.5) |
161.5 (6.4) |
155.1 (6.1) |
208.5 (8.2) |
163.1 (6.4) |
92.5 (3.6) |
39.6 (1.6) |
1.466,7 (57,7) |
Nguồn: [15] 8 tháng 6 năm 2009.
Kinh tế
Đường Hamamatsucho
Không chỉ là trung tâm hành chính của Nhật Bản mà Tokyo còn là trung tâm kinh tế của thế giới.
Là một trong 3 trung tâm kinh tế toàn cầu cùng với
New York và
Luân Đôn, theo điều tra của
PricewaterhouseCoopers, khu đại đô thị Tokyo (35.2 triệu người) có tổng GDP theo
sức mua tương đương
là 1.191 tỷ USD năm 2005, biến nó trở thành vùng đô thị có GDP lớn nhất
toàn cầu. Tính đến năm 2008, có 47 công ty trong danh sách
Global 500 có trụ sở đặt tại Tokyo, gấp đôi so với
Paris.
Tokyo là trung tâm tài chính quốc tế, là nơi đặt trụ sở chính của một vài
ngân hàng đầu tư và
công ty bảo hiểm lớn nhất thế giới, đóng vai trò đầu mối của Nhật về
giao thông, công nghiệp
xuất bản và
phát thanh truyền hình. Trong phát triển mang tính tập trung của nền kinh tế Nhật Bản theo sau cuộc
Chiến tranh thế giới lần thứ hai, nhiều công ty lớn di chuyển tổng hành dinh của họ từ các thành phố như
Osaka
(thủ đô thương mại lịch sử của Nhật) đến Tokyo, trong cố gắng lợi dụng
sự thâm nhập dễ dàng hơn vào hệ thống nhà nước. Xu hướng này đã bắt đầu
chậm dần đi do sự bùng nổ dân số ở Tokyo và mức sống đắt đỏ ở đó.
Tokyo được xếp hạng bởi
Economist Intelligence Unit là thành phố đắt đỏ nhất trên thế giới (
giá sinh hoạt cao nhất) trong 14 năm liền cho đến 2006
[16].
Chú ý rằng điều này chỉ đúng cho mức sống của một thương gia người
phương Tây. Nhiều người Nhật vẫn sống được qua ngày một cách tiết kiệm ở
Tokyo, do tỉ lệ tiết kiệm quốc gia cao.
Mitsubishi UFJ, một trong những ngân hàng lớn nhất thế giới
Thị trường chứng khoán Tokyo lớn thứ nhì trên thế giới tính theo
trị giá thị trường của các cổ phiếu được niêm yết, với hơn 4.000 tỷ USD. Chỉ có
Thị trường chứng khoán New York
là lớn hơn. Tuy nhiên, tầm vóc của nó đã giảm đi đáng kể từ sau vụ bong
bóng của thị trường địa ốc đạt cực đỉnh đầu những năm 1990, khi nó
chiếm trên 60 phần trăm của toàn bộ trị giá chứng khoán trên thế giới.
Tính đến năm 2003, theo
Bộ Nông nghiệp, Lâm nghiệp và Thủy sản,
Tokyo có 8,460 ha đất nông nghiệp, là tỉnh có tỉ lệ đất nông nghiệp
thấp nhất cả nước. Đất nông nghiệp tập trung chủ yếu ở tây Tokyo. Những
mặt hàng dễ thối hỏng như rau, hoa quả và hoa có thể dễ dàng chuyển tới
những khu chợ ở phía đông tỉnh. Rau bina Nhật Bản và
rau bina là những loại rau quan trọng nhất, đến năm 2000, Tokyo cung cấp 32.5% lượng rau bina Nhật Bản được bán tại các chợ trung tâm.
Với 36% diện tịch bị bao phủ bởi rừng, Tokyo là nơi phát triển dày đặc của cây
liễu sam và
cây bách Nhật,
đặc biệt là những vùng nhiều núi như Akiruno, Ōme, Okutama, Hachiōji,
Hinode, and Hinohara. Với việc giảm giá gỗ nguyên liệu, tăng giá thành
sản xuất cộng thêm việc phát triển rừng đã làm sụt giảm sản lượng gỗ ở
Tokyo.
Vịnh Tokyo
là nguồn cung thủy sản chính. Hiện tại, phần lớn thủy sản của Tokyo đến
từ những hòn đảo ngoài khơi như Izu Ōshima và Hachijōjima.
Cá ngừ,
noji và aji là những mặt hàng thủy sản chính.
Giao thông
Tokyo, với vai trò là trung tâm của vùng đại đô thị Tokyo, là trung
tâm giao thông nội địa và quốc tế lớn nhất Nhật Bản với hệ thống giao
thông đường sắt, đường bộ và đường không phát triển hiện đại. Giao thông
công cộng trong Tokyo bao gồm chủ yếu là hệ thống xe lửa và tàu điện
ngầm bao quát được quản lý bởi nhiều nhà điều hành
[17]. Xe buýt, xe lửa một ray và xe điện cũng đóng vai trò quan trọng trong việc lưu chuyển tại thành phố.
Tại
Ōta, một trong 23 khu đặc biệt của Tokyo,
sân bay quốc tế Tokyo (Haneda) phục vụ những chuyến bay nội địa. Ngoài Tokyo,
sân bay quốc tế Narita nằm ở tỉnh
Chiba, là nơi đón khách quốc tế.
Nhiều đảo ở Tokyo cũng có sân bay như
Hachijōjima (
sân bay Hachijojima),
Miyakejima (
sân bay Miyakejima) và
Izu Ōshima (
sân bay Oshima) có những chuyến bay tới các sân bay ở Tokyo và quốc tế.
Đường sắt là loại hình giao thông chủ yếu ở Tokyo, Tokyo có hệ thống đường sắt đô thị lớn nhất thế giới.
Công ty đường sắt Đông Nhật Bản điều hành hệ thống đường sắt lớn nhất của Tokyo, bao gồm
đường ray Yamanote chạy quanh khu trung tâm thương mại của Tokyo. Hai tổ chức khác điều hành hệ thống tàu điện ngầm gồm: công ty tư nhân
Tokyo Metro và
Cục giao thông đô thị Tokyo
thuộc chính phủ. Những hãng vận tải tư nhân và nhà nước điều hành các
tuyến xe buýt, bao gồm các dịch vụ địa phương, vùng và trong nước.
Hệ thống đường cao tốc nối thủ đô tới các điểm khác trong vùng đại Tokyo, vùng Kantō và các đảo
Kyūshū và
Shikoku.
Những phương tiện giao thông khác bao gồm taxi hoạt động tại các khu
đặc biệt, thành phố và thôn. Những bến phà đường dài cũng phục vụ tại
các đảo của Tokyo và chuyên chở hành khách và hàng hóa tới các cảng
trong nước và quốc tế.
Văn hóa
Tamagawa Jōsui Hamura
Tokyo có rất nhiều bảo tàng. Riêng tại
công viên Ueno đã có 4 bảo tàng quốc gia gồm:
Bảo tàng Quốc gia Tokyo, bảo tàng lớn nhất của Nhật Bản và chuyên về
nghệ thuật truyền thống Nhật Bản;
Bảo tàng Quốc gia nghệ thuật phương Tây;
Bảo tàng Nghệ thuật Hiện đại Quốc gia Tokyo,
với những bộ sưu tập về nghệ thuật Nhật Bản cũng như hơn 40,000 bộ phim
của Nhật Bản và quốc tế. Ở vườn hoa Ueno cũng có Bảo tàng Khoa học Quốc
gia và vườn thú công cộng. Các bảo tàng khác bao gồm:
Bảo tàng Nghệ thuật Nezu tại
Aoyama;
Bảo tàng Edo-Tokyo tại
Sumida dọc
sông Sumida ở trung tâm Tokyo và
thư viện nghị viện quốc gia, Cơ quan lưu trữ quốc gia và
Bảo tàng Nghệ thuật Hiện đại Quốc gia, nằm gần
hoàng cung.
Tokyo có rất nhiều nhà hát cho nghệ thuật biểu diễn. Trong đó có
những nhà hát tư nhân và nhà nước dành cho các loại hình nghệ thuật
truyền thống của Nhật Bản như kịch
Noh và
Kabuki
cũng như cho các thể loại kịch hiện đại. Các dàn nhạc giao hưởng và
những nhóm nhạc biểu diễn âm nhạc phương Tây và âm nhạc truyền thống.
Tokyo có rất nhiều nơi biểu diễn dành cho thể loại nhạc pop và rock với
đủ các kích cỡ từ những câu lạc bộ nhỏ cho tới những khu lớn như
Nippon Budokan. Có rất nhiều lễ hội diễn ra khắp Tokyo. Những lễ hội lớn phải kể đến Sannō tại
đền Hie, Sanja tại
đền Asakura và lễ hội
Kanda
tổ chức hai năm một lần. Thường niên, vào cuối ngày thứ bảy của tháng
bảy, tại sông Sumida sẽ có màn biểu diễn pháo hoa thu hút hơn một triệu
người xem. Vào mùa
hoa anh đào nở vào tháng tư, rất nhiều người tụ tập tại
công viên Ueno,
công viên Inokashira và
vườn quốc gia Shinjuku Gyoen để tổ chức picnic dưới bóng cây anh đào.
Harajuku, một địa điểm thuộc khu
Shibuya, được biết đến trên toàn thế giới với phong cách và thời trang của giới trẻ Nhật Bản.
Giáo dục
Đại học Tokyo.
Tokyo có rất nhiều trường đại học, cao đẳng và dạy nghề. Rất nhiều trường danh giá nhất Nhật Bản nằm ở Tokyo, bao gồm
Đại học Tokyo,
Đại học Hitotsubashi,
Viện Công nghệ Tokyo,
Đại học Waseda và
Đại học Keio. Những đại học lớn của Nhật Bản nằm ở Tokyo gồm có:
Quốc lập:
Công lập:
Tư lập:
Thể thao
Thể thao tại Tokyo rất đa dạng. Tokyo có hai đội bóng chày chuyên nghiệp là
Yomiuri Giants (sân nhà là
Tokyo Dome) và
Yakult Swallows (sân nhà là
sân vận động Meiji-Jingu).
Hiệp hội Sumo Nhật Bản có trụ sở tại Tokyo đặt tại nhà thi đấu
Ryōgoku Kokugikan,
nơi có 3 giải Sumo chính thức được tổ chức thường niên (vào tháng
giêng, tháng năm và tháng chín). Những câu lạc bộ bóng đá ở Tokyo bao
gồm
F.C. Tokyo and
Tokyo Verdy, cả hai đều có chung sân nhà là
sân vận động Ajinomoto tại
Chōfu. Tokyo là thành phố đã tổ chức
Thế vận hội Mùa hè 1964. Sân vận động quốc gia, được biết đến với tên là
sân vận động Olympic, Tokyo
đã tổ chức một số sự kiện thể thao quốc tế. Là một thành phố có nhiều
khu thi đấu thể thao đạt đẳng cấp quốc tế, Tokyo thường xuyên tổ chức
những sự kiện thể thao trong nước và quốc tế như các giải tennis, bơi,
marathon, thể thao biểu diễn kiểu Mỹ, judo, karate.
Cung thể dục thể thao trung tâm Tokyo,
nằm ở Sendagaya, Shibuya, là khu liên hợp thể thao lớn bao gồm nhiều bể
bơi, phòng tập và một nhà thi đấu trong nhà. Tokyo đang là một trong
những thành phố ứng cử tổ chức
Thế vận hội Mùa hè 2016.
Tokyo trong văn hóa đại chúng
Với vai trò là một trung tâm dân số lớn nhất Nhật Bản và là nơi có
trụ sở của những đài truyền hình lớn nhất nhất quốc gia, Tokyo thường
xuyên được chọn làm bối cảnh cho những bộ phim, show truyền hình,
anime,
manga. Trong thể loại
kaiju (phim kinh dị), những thắng cảnh của Tokyo thường bị phá hủy bởi những con quái vật khổng lồ như
Godzilla.
Một vài đạo diễn
Hollywood đã chọn Tokyo là nơi quay phim cũng như bối cảnh của bộ phim. Một vài ví dụ cho những bộ phim thời hậu chiến là
Tokyo Joe,
My Geisha, tập phim
You Only Live Twice trong loạt phim về
James Bond; nhiều bộ phim nổi tiếng khác bao gồm
Kill Bill,
The Fast and the Furious: Tokyo Driff và
Lost in Translation.
Khung cảnh
Kiến trúc của Tokyo được hình thành phần lớn bởi lịch sử của thành
phố. Tokyo từng hai lần bị tàn phá trong lịch sử: lần thứ nhất là do hậu
quả của trận
Đại động đất Kantō và lần thứ hai là kết quả của những cuộc oanh tạc trong cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ hai
[18]. Do vậy, khung cảnh chủ yếu của Tokyo hiện nay là thuộc kiến trúc hiện đại và đương thời, có rất ít các công trình cổ.
[18]
Tokyo cũng có rất nhiều vườn hoa và công viên
Thành phố kết nghĩa
Tokyo có 11 thành phố và bang kết nghĩa:
[19]
Chú thích
- ^ “Global city GDP rankings 2008-2025”. Pricewaterhouse Coopers. Truy cập ngày 27 tháng 11 năm 2009.
- ^ Sassen, Saskia (2001). The Global City: New York, London, Tokyo (ấn bản 2). Princeton University Press. ISBN 0691070636.
- ^ GaWC - The World According to GaWC 2008
- ^ Room, Adrian. Placenames of the World. McFarland & Company (1996), p360. ISBN 0-7864-1814-1.
- ^ Waley, Paul (2003). Japanese Capitals in Historical Perspective: Place, Power and Memory in Kyoto, Edo and Tokyo. Routledge. tr. 253. ISBN 070071409X.
- ^ "明治東京異聞~トウケイかトウキョウか~東京の読み方" Tokyo Metropolitan Archives (2008). Retrieved on 13 September 2008. (tiếng Nhật)
- ^ “Local Government in Japan” (PDF). Council of Local Authorities for International Relations. tr. p. 8. Truy cập ngày 14 tháng 9 năm 2008.
- ^ THE STRUCTURE OF THE TOKYO METROPOLITAN GOVERNMENT (Tokyo government webpage)
- ^ “Tokyo Statistical Yearbook 2005, Population”. Bureau of General Affairs, Tokyo Metropolitan Government. Truy cập ngày 14 tháng 10 năm 2007.
- ^ Peel, M. C., Finlayson, B. L., and McMahon, T. A.: Updated world map of the Köppen-Geiger climate classification, Hydrol. Earth Syst. Sci., 11, 1633-1644, 2007.
- ^ “Tokyo observes latest ever 1st snowfall”. Kyodo News (Tokyo). 16 tháng 3 năm 2005. Truy cập ngày 18 tháng 10 năm 2008.
- ^ Barry, Roger Graham & Richard J. Chorley. Atmosphere, Weather and Climate. Routledge (2003), p344. ISBN 0-415-27170-3.
- ^ “A New 1649-1884 Catalog of Destructive Earthquakes near Tokyo and Implications for the Long-term Seismic Process” (PDF). U.S. Geological Survey. Truy cập ngày 14 tháng 10 năm 2007.
- ^ “A new probabilistic seismic hazard assessment for greater Tokyo” (PDF). U.S. Geological Survey. Truy cập ngày 14 tháng 10 năm 2007.
- ^ “気象庁 / 平年値(年・月ごとの値)”. Japan Meteorological Agency.
- ^ “Oslo is world's most expensive city: survey”. Reuters. January 31, 2006. Truy cập ngày 1 tháng 2 năm 2014. (inactive).
- ^ “A Country Study: Japan”. The Library of Congress. tr. Chapter 2, Neighborhoods. Truy cập ngày 24 tháng 10 năm 2007.
- ^ a ă Hidenobu Jinnai. Tokyo: A Spatial Anthropology. University of California Press (1995), p1-3. ISBN 0-520-07135-2.
- ^ “Sister Cities(States) of Tokyo”. Tokyo Metropolitan Government. Truy cập 27 tháng 11 năm 2012.
Liên kết ngoài
35°42′2″B 139°42′54″Đ
Thành Thái (
chữ Hán: 成泰;
14 tháng 3 năm
1879 –
24 tháng 3 năm
1954), là vị Hoàng đế thứ 10 của triều đại
nhà Nguyễn, tại vị từ
1889 đến
1907.
Do chống
Pháp nên ông, cùng với các vua
Hàm Nghi và
Duy Tân, là 3 vị vua yêu nước trong
lịch sử Việt Nam thời
Pháp thuộc bị đi đày tại ngoại quốc.
Thuở nhỏ
Thành Thái đế tên
húy là
Nguyễn Phúc Bửu Lân (阮福寶嶙), còn có tên là
Nguyễn Phúc Chiêu (阮福昭). Ông là con thứ 7 của vua
Dục Đức và bà
Phan Thị Điều, sinh ngày 22 tháng 2 năm
Kỷ Mão, tức
14 tháng 3 năm
1879 tại
Huế. Ông còn là cháu nội Thoại Thái vương
Nguyễn Phúc Hồng Y, và là chắt vua
Thiệu Trị.
Năm ông bốn tuổi, vua cha Dục Đức bị phế và chết trong tù. Đến nǎm được chín tuổi, vì ông ngoại là
Phan Đình Bình (làm quan
Thượng thư bộ Hộ) bị vua
Đồng Khánh
bắt giam rồi bỏ cho chết, vì mắng Đồng Khánh, nịnh bợ và thân Pháp, khi
Đồng Khánh ra Quảng Bình dụ vua Hàm Nghi đầu hàng. Bửu Lân lại phải
cùng mẹ Từ Minh, lên kinh đô, chịu sự quản thúc, sống trong cảnh thiếu
thốn.
Ngày
28 tháng 1 năm
1889, vua
Đồng Khánh lâm bệnh qua đời. Khi đó con vua Đồng Khánh là Bửu Đảo mới 3 tuổi nên không nối ngôi được, triều đình Huế xin ý kiến của
Tổng sứ Trung Bắc kỳ Pierre Paul Rheinart. Ở tòa khâm sứ lúc này có ông
Diệp Văn Cương
đang làm thông ngôn. Diệp Vǎn Cương lấy bà cô ruột của Bửu Lân, và cũng
có cảm tình thương hại vua Dục Đức, nên cố tìm cách cho cháu mình lên
ngôi. Ông dịch cho Khâm sứ Rheinart nghe hoàn toàn khác với ý của
Viện cơ mật.
Vì thế Bửu Lân được chọn lên ngai vàng. Bà Phan Thị Điều nghĩ tới cảnh
vua Dục Đức và thảm kịch bốn tháng ba vua trước đây nên khóc lóc, không
đồng ý, phải khuyên giải mãi mới ưng thuận.
Cai trị
Lên ngôi
Ngày
2 tháng 2 năm
1889
Bửu Lân lên ngôi lấy hiệu là Thành Thái. Khi đó Bửu Lân mới 10 tuổi.
Triều Thành Thái khác các triều trước ở chỗ lễ đǎng quang không có
Truyền quốc bửu tỷ
ấn ngọc. Lúc trước, khi rời khỏi kinh thành Huế, vua
Hàm Nghi đã mang theo và đánh mất tại tỉnh Quảng Bình. Cho nên lúc tại vị vua Đồng Khánh đã phải dùng một ấn ngọc khác. Ngoài ra,
di chiếu
cũng không có. Vua Dục Đức hay vua Đồng Khánh không truyền ngôi lại cho
vua Thành Thái. Không ấn ngọc, không di chiếu, nhưng lại có một toán
lính Pháp bồng súng đóng ở bên trong cửa
Ngọ Môn.
Chân dung Đức Thành Thái
Thành Thái là một ông vua trẻ có nhiều tính cách đặc biệt. Những ngày
đầu tiên, tuy đã là vua nhưng vì còn bé nên ông vẫn thích chơi bời,
nghịch ngợm. Một số quan phụ chính giúp đỡ như
Tuy Lý Vương,
Nguyễn Trọng, Trương Quang Đản, thường có lời can ngǎn ông, nhưng không
được ông nghe lời. Các bà hậu ở Lưỡng cung rất lo cho Thành Thái, đã
bắt ông ra ở đảo Bồng Dinh trên hồ Tịnh Tâm và quản thúc ông rất ngặt,
để đưa vào khuôn phép. Một thời gian sau, ông mới trở về
Đại Nội.
Vua Thành Thái được đánh giá là người cầu tiến, yêu nước và chống Pháp. Khác với những vị vua trước đây, ông học
chữ Nho, học
tiếng Pháp
và cũng cho cả con cái của mình cùng theo học chữ Pháp. Không nói ra,
nhưng rõ ràng ý định của ông là học chữ Pháp để có thể giao tiếp với
những người này với tinh thần chống Pháp. Ông còn cắt tóc ngắn, mặc âu
phục, học cả lái
ca nô,
xe hơi, làm quen với vǎn minh phương Tây. Là vị vua gần gũi với dân chúng, ông thường xuyên đi
vi hành. Thành Thái cũng cho phép
hoàng phi bị cấm cung đi cùng với mình bằng xe. Và lần đầu tiên "dân chúng quên cả nhìn mặt vua, lúc này không bị tội phạm tất"
[1]. Dân gian lúc này có một câu ca dao nói về sự vi hành của vua Thành Thái:
- Kim Long có gái mỹ miều
- Trẫm thương, Trẫm nhớ, Trẫm liều, Trẫm đi
Ông để ý đến cả các loại
vũ khí, đã giao cho họa sĩ Lê Vǎn Miến (tốt nghiệp
Trường Mỹ thuật Paris) vẽ cho ông các khẩu
súng Pháp. Vua Thành Thái rất thích đọc những tân thư chữ Hán của
Trung Quốc và
Nhật Bản.
Nhờ đó vua có tinh thần tự cường dân tộc và đầu óc cải cách. Thành Thái
làm thơ không nhiều, nhưng có những bài xuất sắc. Ông cũng ham vǎn
nghệ, đánh trống
tuồng khá thành thạo, có khi lên đóng một vài vai tuồng ở Duyệt Thị Đường. Có thể nói Thành Thái là hiểu biết khá toàn diện.
Tinh thần chống Pháp
Hai bà phi của vua Thành Thái
Vua Thành Thái dần dần bộc lộ tinh thần dân tộc rất cao. Ông khinh
ghét những bọn quan lại xu phụ. Một viên quan lớn là Nguyễn Thân đã tiến
con gái đến cho vua (là đệ nhất giai phi của Thành Thái) song cũng
không được ông trân trọng. Có lần,
cầu Long Biên ở
Hà Nội, được lấy tên Toàn quyền Pháp
Doumer, xây dựng xong,
Hoàng Cao Khải đưa ra một danh sách xin nhà vua ban thưởng cho những người có công, nhà vua đã cười nhạt mà trả lời: "
Ta có biết mặt mũi những đứa nào đâu".
Những người Pháp thường xuyên gần gũi không được ông trọng thị lắm vì
vậy họ thường có thành kiến với ông. Có những tài liệu nói là nhà vua đã
toan bí mật sang Trung Quốc, nhưng mới đi đến
Thanh Hóa đã bị người Pháp ngǎn chặn. Lại có ý kiến cho rằng ông đã đồng tình giúp đỡ... tạo điều kiện cho
Cường Để xuất dương theo
Phan Bội Châu sang
Nhật.
Dưới triều Thành Thái tuy vẫn còn có những cuộc vận động chống Pháp,
nhưng nhìn chung Việt Nam cũng đã đi vào ổn định, nên đã có nhiều công
trình mới được xây dựng. Nhất là ở kinh đô
Huế, các
bệnh viện, trường
Quốc học,
chợ Đông Ba,
cầu Tràng Tiền... đều được xây dựng vào thời kỳ này. Như trường hợp trường Quốc học Huế năm 1896, chính nhà vua đã gợi ý vấn đề thành lập với
Thượng thư Ngô Đình Khả. Chính quyền thực dân Pháp phải đồng ý cho tiến hành những công trình đó.
Vua Thành Thái còn bí mật lập các đội nữ binh để che mắt Pháp. Một số
tài liệu ghi rằng vua đã chiêu nạp được 4 đội, mỗi đội 50 người, đội
trước huấn luyện xong thì trở về gia đình và nạp đội mới, khi có thời cơ
sẽ cùng nổi dậy chống Pháp. Nhưng sự việc cuối cùng bị lộ khi Thượng
thư Bộ Lại và Cơ mật viện báo cho Khâm sứ Pháp Levécque
[1]
Bị ép thoái vị
Trước các ý tưởng cấp tiến của vua Thành Thái, người Pháp lo ngại tìm
cách ngăn trở. Để che mắt, Thành Thái giả hành động như một người mất
trí. Khi các bản vẽ vũ khí của ông bị phát hiện, Thành Thái giả điên,
cào cấu các bà cung phi và xé nát các bản vẽ. Lợi dụng cơ hội này, người
Pháp vu cho ông bị điên, ép ông thoái vị, nhường ngôi cho con vì lý do
sức khỏe.
Khâm sứ Pháp còn nói thẳng là đã biết ông có ý đồ chống Pháp, nên không
để ông ở ngôi được. Còn nếu Thành Thái muốn tại vị thì ông phải ký vào
một tờ giấy xin lỗi, tuyên bố với quốc dân là có âm mưu chống lại nước
Pháp, nay phải thành thực hồi tâm. Nhưng ông đã ném tờ tuyên cáo thảo
sẵn ấy xuống đất, từ chối.
Ngày
29 tháng 7 năm
1907,
nhân dịp Thành Thái không phê chuẩn việc bổ nhiệm một số quan lại đã
được Khâm sứ Lévêque và Hội đồng Thượng thư thỏa thuận, Lévêque đã tuyên
bố truất quyền và quản thúc Thành Thái trong Đại nội. Một Hội đồng Phụ
chính do Trương Như Cương cầm đầu được thành lập.
Ngày
3 tháng 9 năm 1907, triều thần theo lệnh của Pháp vào
điện Càn Thành
dâng vua dự thảo chiếu thoái vị, có chữ ký của các đại thần (trừ Ngô
Đình Khả), với lý do sức khoẻ không bảo đảm, xin tự nguyện thoái vị. Xem
xong bản dự thảo, Thành Thái chỉ cười, ghi ngay hai chữ "phê chuẩn" rồi
quay lưng đi vào.
Lưu đày
Ngày
12 tháng 9 năm 1907, Thành Thái bị đưa đi quản thúc ở
Cap Saint Jacques (
Vũng Tàu ngày nay). Đến nǎm
1916 ông đày ra
đảo Réunion cùng với con trai là vua
Duy Tân.
Ông cùng gia đình thuê một căn nhà ở thành phố Saint Denis tại đảo Réunion. Thành Thái và Hoàng phi Chí Lạc dạy các con
tiếng Việt và cả những nhạc cụ dân tộc như
đàn cò,
sáo...
Ông tự phân công cho tất cả những người con từ nhỏ đến lớn đảm nhận
công việc trong gia đình. Các công chúa phụ mẹ việc bếp núc, làm vườn.
Các hoàng từ người làm cận vệ cho Thành Thái, người đảm nhận lo phân
trầu cau, điểm tâm sáng, người phụ dọn dẹp nhà cửa...
Khác với vua
Hàm Nghi
trước đó, cuộc sống của cha con cựu hoàng Thành Thái khá chật vật. Già
cả ốm đau, con cái nheo nhóc, ông hoàng Bửu Lân nhiều lần bị chủ nhà đòi
tiền thuê nhà, chủ nợ đòi nợ. Năm 1925, vua
Khải Định
biết tình cảnh ông, đã trích ngân sách gửi sang cho ông 1.000 đồng, rồi
sau thỉnh thoảng lại cho tiền. Sau khi Khải Định mất, không còn khoản
tiền đó nữa, nên ngày 21 tháng 9 năm 1935, Bửu Lân phải viết thư gửi vua
Bảo Đại xin nhà nước Bảo hộ Pháp cho một khoản tiền để mua nhà, "hễ hết đời" ông thì nhà nước sẽ thu lại.
Đầu
tháng 5 năm
1945
(sau khi vua Duy Tân mất), nhờ sự vận động của con gái và con rể của
ông, vợ chồng luật sư Vương Quang Nhường, cựu hoàng Thành Thái mới được
cho về Việt Nam. Ông cùng gia đình sống ở Villa Anna tại Cap Saint
Jacques.
Tháng 3 năm 1953, ông được phép về Huế thăm lăng tẩm cha mẹ.
Ông mất ngày
24 tháng 3 năm
1954 và được an táng tại khuôn viên thành An Lăng (
lăng Dục Đức) tại xã An Cựu, huyện
Hương Thuỷ, tỉnh
Thừa Thiên, thọ 75 tuổi.
Gia quyến
- Hoàng quý phi Nguyễn Thị Vân Anh (皇貴妃阮氏雲英), con gái đại thần Nguyễn Thân, một người theo Pháp triệt để.
- Huyền phi Nguyễn Hữu Thị Nga (玄妃阮友氏娥).
- Khoan phi Đoàn Thị Châu (寬妃段氏周). Năm 1907, nhận sách phong Hoàng sinh mẫu.
- Mỹ nhân Nguyễn Thị Kiều (美人阮氏娇), người làng Dạ Lê, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên. Năm 1915, Thành Thái bị lư đày, bà xuất gia ở chùa Tường Văn.
- Tài nhân Nguyễn Thị Định (才人阮氏定), người Bình Định. Năm 1907, nhận sách phong làm Hoàng đích mẫu.
- Tài nhân Hồ Giai Triệu (才人胡佳召).
- Tài nhân Hồ Chí Lạc (才人胡至樂).
- Tài nhân Dương Thị Ngọt (才人楊氏兀), người huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Bị xử tử.
Vua Thành Thái có 17
Hoàng tử và nhiều
Công chúa. Tên các Hoàng tử và Công chúa các tài liệu ghi lại có những mâu thuẫn.
- Nguyễn Phúc Vĩnh Diễm [阮福永琰 ], sinh ngày 24 tháng 12, 1895. Sau khi sinh 3 ngày thì chết.
- Nguyễn Phúc Vĩnh Linh [阮福永玲 ], sinh ngày 8 tháng 3, 1897. Sau khi sinh 4 ngày sau thì chết.
- Nguyễn Phúc Vĩnh Trân [阮福永珍].
- Nguyễn Phúc Vĩnh Uyển [阮福永琬, 21 tháng 7, 1899 - 20 tháng 8, 1899].
- Duy Tân hoàng đế Nguyễn Phúc Vĩnh San [阮福永珊].
- Nguyễn Phúc Vĩnh Ngoạn [阮福永玩].
- Nguyễn Phúc Vĩnh Giu [阮福永琦].
- Nguyễn Phúc Vĩnh Chương [阮福永璋].
- Nguyễn Phúc Vĩnh Thâm [阮福永琛].
- Nguyễn Phúc Vĩnh Quê [阮福永珪].
- Nguyễn Phúc Vĩnh Giác [阮福永珏].
- Nguyễn Phúc Vĩnh Kha [阮福永珂 ].
- Nguyễn Phúc Vĩnh Vũ [阮福永瑀].
- Nguyễn Phúc Vĩnh Ngọc [阮福永鈺, 28 tháng 7, 1906 - 31 tháng 1, 1909].
- Nguyễn Phúc Vĩnh Tiến [阮福永璡].
- Nguyễn Phúc Vĩnh Hòe [阮福永琉].
- Nguyễn Phúc Vĩnh Cầu [阮福永球, 1922 - 2007].
- Nguyễn Phúc Lương Trinh [阮福良貞].
- Nguyễn Phúc Lương Kiều [阮福良嬌].
- Nguyễn Phúc Lương Linh [阮福良靈], Mệ Sen.
- Nguyễn Phúc Lương Cầm [阮福良琴].
- Nguyễn Phúc Lương Mỹ [阮福良美].
- Nguyễn Phúc Lương Tệ [阮福良弦].
- Nguyễn Phúc Lương Hảo [阮福良好].
- Nguyễn Phúc Lương Thâm [阮福良深].
- Nguyễn Phúc Lương Nhiêu [阮福良蕘].
- Nguyễn Phúc Lương Nhàn [阮福良環].
- Nguyễn Phúc Lương Thầm [阮福良靜].
Chú thích
Liên kết ngoài
|
Sự kiện |
|
|
|
Tổ chức |
|
|
Các lãnh đạo khởi nghĩa |
|
|
Các nhà văn yêu nước |
|
|
Các nhà cách mạng Việt Nam |
|
|
Vua nhà Nguyễn |
|
|
Bộ máy cai trị Pháp |
|
|
Người cộng tác |
|
|
No comments:
Post a Comment