Wednesday, November 26, 2014

Chào ngày mới 27 tháng 11

 


CNM365. Chào ngày mới 27 tháng 11. Wikipedia Ngày này năm xưa. Lễ Tạ ơn tại Hoa Kỳ (2014). Năm 1095Giáo hoàng Urbanô II tuyên bố Cuộc thập tự chinh thứ nhất tại Hội đồng Clermont, nhằm đánh chiếm các thánh địa ở phía Đông từ tay người Hồi giáo. Năm 1895 – Tại Paris, Alfred Nobel ký di chúc cuối cùng của mình, trong đó dành tài sản của bản thân để lập ra giải Nobel sau khi qua đời. Năm 1944Chiến tranh thế giới thứ hai: Trận Peleliu (hình) tại Palau kết thúc với thắng lợi của quân đội Hoa Kỳ trước quân đội Nhật Bản. Năm 2004Giáo hoàng Gioan Phaolô II giao di cốt của Gioan Kim Khẩu cho Giáo hội Chính Thống giáo Đông phương.

Alfred Nobel

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Alfred Bernhard Nobel
Sinh 21 tháng 10 năm 1833
Flag of Sweden.svg Stockholm, Thụy Điển
Mất 10 tháng 12, 1896 (63 tuổi)
Sanremon, Ý
Quốc tịch Flag of Sweden.svg Thụy Điển, Flag of Russia.svgNga, Flag of France.svg Pháp, Flag of Italy.svg Ý
Ngành Nghiên cứu thuốc nổ
Nổi tiếng vì dynamite, giải Nobel
Chữ ký
(21 tháng 10 năm 183310 tháng 12 năm 1896) là một nhà hóa học, một nhà kỹ nghệ, nhà sản xuất vũ khí, người phát minh ra thuốc nổ (dynamite) và một triệu phú người Thụy Điển. Ông dùng tài sản của mình để sáng lập ra Giải thưởng Nobel. Nguyên tố hóa học Nobelium được đặt theo tên của ông.

Tiểu sử

Mặt nạ đắp khi mất của Alfred Nobel, tại nhà ông ở Bjorkborn, Karlskoga, Thuỵ Điển
Alfred Nobel sinh ngày 21 tháng 10 năm 1833 tại Stockholm, Thụy Điển, là con trai thứ ba của nhà khoa học Immanuel Nobel (1801 - 1872) và Karolina Andriette (Ahlsell) Nobel (1805–1889). Hai vợ chồng có tám đứa con nhưng chỉ có Nobel và hai anh, anh cả là Robert Nobel, anh thứ là Ludvig Nobel, và cậu em Emil Oskar Nobel là sống qua thời thơ ấu. Theo dòng họ nội, ông là hậu duệ của nhà khoa học Thụy Điển danh tiếng Olaus Rudbeck (1630–1702). Từ bé, Nobel rất hay bị ốm, nên sức khoẻ của cậu bé không được tốt lắm. Sau vài năm, cha của Nobel rời đến Sankt-Peterburg để chế tạo thuỷ lôi, địa lôivũ khí cho quân đội Nga bành trướng ra bên ngoài. Sau 5 năm xa cách, cuối cùng, năm 1842, cả nhà Nobel chuyển đến Sankt-Peterburg, nơi bố đang làm việc.
Nobel đặc biệt thích học văn học, nhưng bố cậu lại muốn Nobel học khoa học (vì Nobel có năng khiếu về khoa học kỹ thuật). Nobel cũng đành phải nghe lời bố.Từ đó, Nobel bắt đầu nghiên cứu cùng bố và các anh về thuốc súng và thuỷ, địa lôi.
Ít người biết rằng Alfred Nobel cũng là một nhà soạn kịch, Nemesis, một bi kịch bốn hồi về Beatrice Cenci, một phần lấy cảm hứng từ vở kịch thơ năm hồi của Percy Bysshe Shelley The Cenci, đã được in khi ông hấp hối, và toàn bộ số sách đó, trừ ba bản lưu bị đốt ngay sau khi ông chết (1896), vì bị coi là một vụ scandal và báng bổ. Cuốn xuất bản lần đầu tiên còn lại (song ngữ tiếng Thuỵ Điển - Quốc tế ngữ) được xuất bản tại Thuỵ Điển năm 2003. Vở kịch (tháng 5 năm 2003) vẫn chưa được dịch ra bất cứ một thứ tiếng nào ngoài Quốc tế ngữ.
Năm 1853, cuộc chiến Krim nổ ra, nước Nga đối đầu với liên quân ba nước Anh-Pháp-Thổ Nhĩ Kì. Nhà máy Nobel càng bận rộn hơn. Tuy nhiên, sau khi Nga bại trận, nhà máy Nobel bị phá sản vì nguồn nợ quá lớn. Cả gia đình phải trở về Thuỵ Điển.
Thi hài Alfred Nobel được chôn cất tại Norra begravningsplatsen ở Stockholm.

Tai nạn đầu tiên

Sau khi về Thuỵ Điển, Nobel nghiên cứu về Nitroglycerin, một loại chất nổ phân giải ở 50-60 °C và phát nổ rất mạnh ở nhiệt độ 218 °C. Dù rất nguy hiểm, Nobel vẫn miệt mài nghiên cứu. Sau vài lần nghiên cứu với bố, anh cũng tìm ra nguyên lý của thuốc nổ và, mọi người đã chứng kiến một cách kinh ngạc. Nobel thành lập một công ty, và công ty của anh cũng làm ăn phát đạt hơn trước, không những thế, nhiều lúc nhà máy còn phải sản xuất cấp tốc để giao hàng cho kịp. Em út của Nobel, Emil Nobel cũng cùng anh và bố nghiên cứu Nitroglycerin, và Emil được quyền tự do trong nhà máy.
Nhưng do Alfred Nobel chủ quan về tính năng an toàn, ngày 3 tháng 9 năm 1864, nhà máy Nobel phát nổ, làm năm người thiệt mạng, trong đó có cả Emil, em Nobel. Sau lần tai nạn đó, thuốc nổ hầu như bị mọi người bác bỏ, nhưng Nobel quyết không từ bỏ ý định chế tạo thuốc nổ.

Thuốc nổ dynamite

Thuốc nổ dynamite là phát minh nổi bật nhất trong số 350 bằng phát minh của ông. Nobel bắt đầu nghiên cứu thuốc nổ từ năm 17 tuổi. Nobel thấy rằng khi nitroglycerin kết hợp với một chất hấp thu trơ như kieselguhr (đất có nhiều tảo cát hay còn gọi là đất mùn) nó trở nên an toàn và dễ sử dụng hơn, và ông được trao bằng sáng chế hỗn hợp đó năm 1867 với cái tên dynamite. Nobel đã quảng cáo thử nghiệm chất nổ của mình lần đầu tiên trong năm đó tại một mỏ khai thác đá tại Redhill, Surrey, Anh Quốc.
Tiếp theo ông kết hợp nitroglycerin với một chất nổ mạnh khác, bông thuốc súng, và có được một chất trong như thạch với sức công phá mạnh hơn cả dynamite. Gelignite, hay Blasting gelatin như tên nó được gọi, được cấp bằng sáng chế năm 1876, và tiếp theo đó là hàng loạt các hỗn hợp tương tự khác, thêm kali nitrate, bột gỗ và nhiều chất khác.
Vài năm sau, Nobel tạo ra ballistite, một trong những loại thuốc súng nitroglycerin, có chứa phần bông thuốc súng và phần nitroglycerin tương đương nhau. Thuốc súng này là tiền thân của cordite, và Nobel tuyên bố rằng bằng sáng chế của ông về loại thuốc súng này hùng hồn minh chứng cho sự tranh cãi giữa ông và Anh Quốc. Đỉnh điểm của việc chế tạo loại thuốc nổ này là thuốc nổ mạnh và không có khói. Từ việc chế tạo dynamite và các loại thuốc nổ khác cũng như công việc khai thác các giếng dầu ở Baku của ông và các anh em trai Ludvig và Robert Hjalmar (1829-1896) ông có được một gia sản to lớn.

Các giải thưởng

Khi người anh Ludvig của ông qua đời vào năm 1888, nhiều vụ cáo phó sớm nhầm lẫn về cái chết của Alfred Nobel, được cho là điều khiến ông quyết định để lại một di sản tốt hơn cho thế giới sau khi chết. Bản cáo phó trên một tờ báo Pháp viết Le marchand de la mort est mort (Nhà buôn cái chết đã chết) và tiếp tục viết, "Tiến sĩ Alfred Nobel, người đã trở nên giàu có sau khi phát minh ra cách thức giết con người nhanh chóng hơn bao giờ hết, đã qua đời ngày hôm qua."
Ngày 27 tháng 11 năm 1895 tại Câu lạc bộ Thuỵ Điển – Na Uy ở Paris, Nobel đã ký chúc thư cuối cùng của mình và để phần lớn số tài sản thành lập các giải Nobel, trao hàng năm cho bất kỳ ai không phân biệt quốc tịch. Ông chết sau một cơn đột quỵ ngày 10 tháng 12, 1896 tại Sanremo, Ý. Số lượng tiền mặt dành cho Quỹ Giải Nobel là 31 triệu kronor (4.223.500,00 USD), 94% tài sản của Nobel.
Ba giải Nobel đầu tiên dành cho những gương mặt nổi bật trong khoa học vật lý, trong hoá học và trong Giải Nobel Sinh lý học hay Y học; giải thứ tư là dành cho các nhà văn có tác phẩm văn học "theo một định hướng tư tưởng" và giải thứ năm được trao cho cá nhân hay tổ chức có được thành tích tốt nhất phục vụ lý tưởng cho tình thân thiện quốc tế, ngăn chặn hay giảm bớt các đội quân thường trực, hay thành lập hay xúc tiến sự tiến triển của hoà bình.
Định nghĩa giải văn học, "theo một định hướng tư tưởng" (tiếng Thuỵ Điển: i idealisk riktning), khá khó hiểu và gây ra nhiều tranh cãi. Trong nhiều năm, Viện Hàn lâm Thuỵ Điển diễn giải "ideal – tư tưởng" mang nghĩa "duy tâm hay lý tưởng" (trong tiếng Thuỵ Điển idealistisk), và coi đó là lý do để từ chối trao giải cho những tác giả quan trọng nhưng kém phần lãng mạn, như Henrik Ibsen, August StrindbergLev Nikolayevich Tolstoy. Cách hiểu này đã được thay đổi và ví dụ, giải thưởng đã được trao cho Dario FoJosé Saramago, những người hoàn toàn không thuộc trường phái văn học duy tâm (hay lý tưởng).
Khi đọc cuốn Nemesis trong nguyên bản tiếng Thuỵ Điển và khi nhìn vào triết thuyết cũng như quan điểm văn học của ông, dường như ông có ý chống lại điều từng tin tưởng lúc đầu - rằng giải thưởng phải được trao cho các tác giả đã chiến đấu cho lý tưởng của mình "chống lại" những quyền lực như Chúa, Nhà thờ và Quốc gia.
Các cơ quan được ông chỉ định trao giải thưởng vật lý và hoá học cũng có khá nhiều cách diễn giải ý kiến của ông, bởi vì ông không tham vấn ý kiến của họ trước khi quyết định uỷ thác trách nhiệm. Trong một bản chúc thư dài một trang ông đặt điều kiện rằng số tiền không được trao cho những khám phá hay phát minh trong khoa học vật lý và những khám phá hay những cải tiến trong hoá học. Ông đã mở một cảnh cửa cho những giải thưởng kỹ thuật, nhưng ông không để lại những hướng dẫn về iệc làm cách nào phân biệt giữa khoa học và kỹ thuật. Bởi vì các cơ quan có quyền quyết định trao giải trong những lĩnh vực đó quan tâm nhiều tới khoa học hơn kỹ thuật nên không ngạc nhiên các giải thưởng đều được trao cho những nhà khoa học chứ không phải các kỹ sư, kỹ thuật viên hay những nhà phát minh khác. Theo một nghĩa các giải thưởng được công bố gần đây của World Technology Network là một sự tiếp nối không trực tiếp (bởi vì không phải do quỹ Nobel tạo ra) những ước vọng của Nobel, bởi vì ông đã không ghi điều đó vào trong di chúc của mình.
Năm 2001, cháu trai của ông, Peter, đã yêu cầu Ngân hàng Thuỵ Điển phân biệt giải thưởng dành cho các nhà kinh tế học của họ được trao "để tưởng nhớ Alfred Nobel" với năm giải thưởng kia. Điều này đã gây ra nhiều tranh cãi về việc liệu giải thưởng trao trong lĩnh vực kinh tế hiện nay có phải là "Giải Nobel" hay không (xem Giải thưởng Khoa học kinh tế của Ngân hàng Thuỵ Điển để tưởng nhớ Alfred Nobel).

Những lời đồn đại về giải Nobel

Không có giải Nobel cho toán học. Lời đồn đại cho rằng Nobel đã quyết định không thành lập giải Nobel Toán học vì một phụ nữ - được cho là người tình, vợ hay vợ chưa cưới – đã từ bỏ ông để đi theo một nhà toán học nổi tiếng, thường được cho là Gösta Mittag-Leffler. Không hề có bằng chứng lịch sử ủng hộ lời đồn này và Nobel không bao giờ kết hôn.
Cũng có giả thuyết cho rằng việc không có giải Nobel cho toán học bởi toán học là phương tiện cho các môn khoa học tự nhiên khác chứ không tạo ra sản phẩm ứng dụng như vật lý, hóa học, sinh học hay tác động tức thời tới tinh thần và sức khỏe con người như y học và văn học.
Từ các ngành khoa học được trao giải Nobel có thể thấy việc ông muốn trao giải cho những người tạo ra được thành tựu ứng dụng thực tiễn và tạo ra sản phẩm có thể thấy được.

Tham khảo

Liên kết ngoài


Trận Peleliu

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Trận Peleliu
Một phần của Chiến tranh Thái Bình Dương thuộc Chiến tranh thế giới thứ hai
First wave of LVTs moves toward the invasion beaches - Peleliu.jpg
Làn sóng của lần đổ bộ đầu tiên xuống những bãi biển của Peleliu
.
Thời gian 15 tháng 927 tháng 11, 1944
Địa điểm Peleliu, Palau
Kết quả Mỹ chiến thắng
Tham chiến
Hoa Kỳ Hoa Kỳ Đế quốc Nhật Bản Đế quốc Nhật Bản
Chỉ huy
Hoa Kỳ William H. Rupertus Đế quốc Nhật Bản Kunio Nakagawa 


Lực lượng
Sư đoàn Thủy quân lục chiến số 1: 17.490 quân
Sư đoàn Bộ binh 81: 10.994 quân
Sư đoàn bộ binh 14: Xấp xỉ 11.000 quân
Tổn thất
Sư đoàn Thủy quân lục chiến số 1:
1.252 chết, 5.274 bị thương
Sư đoàn bộ binh 81:
542 chết, 2.736 bị thương
Tổng cộng: 1.794 chết, 8.010 bị thương
10.695 chết,
202 bị bắt làm tù binh
.
Trận Peleliu có mật danh là Chiến dịch Stalemate II là một trận chiến giữa quân đội Hoa Kỳ và Nhật Bản trong chiến tranh Thái Bình Dương, Thế chiến thứ 2 diễn ra từ tháng 9 đến tháng 12 năm 1944 trên hòn đảo Peleliu. Lực lượng Hoa Kỳ ban đầu chỉ có Sư đoàn Thủy quân lục chiến số 1, sau đó được tăng viện bởi Sư đoàn bộ binh 81 để chiếm được sân bay trên đảo. Thiếu tướng Hải quân Mỹ William Rupertus, chỉ huy của Sư đoàn Thủy quân lục chiến số 1, tiên đoán rằng lực lượng quân Nhật chỉ có thể cầm cự được trong 4 ngày. Trái ngược với mong đợi của của người Mỹ, quân Nhật nhờ có những căn cứ kiên cố và tinh thần chiến đấu kiên cường đã khiến trận đánh kéo dài hơn hai tháng. Đây là một trong những trận đánh gây ra tranh cãi gay gắt xung quanh vấn đề vị trí chiến lược của đảo và quan trọng hơn là con số thương vong cao của lính Mỹ. Nếu xét trên tổng số lính được huy động thì Trận Peleliu là trận đánh có tỉ lệ thương vong cao nhất trong chiến tranh Thái Bình Dương.[1]

Bối cảnh

Vào mùa hè năm 1944, những chiến thắng của quân Mỹ ở mặt trận Tây Nam và trung tâm Thái Bình Dương làm vòng vây của Đồng Minh tiến sát chính quốc Nhật ngày một gần hơn bao giờ hết. Tuy nhiên trong Bộ tổng tham mưu Liên quân Hoa Kỳ xảy ra sự bất đồng về những bước tiếp theo trong việc tấn công chính quốc Nhật Bản. Chiến lược thứ nhất được đề nghị bởi Tướng Douglas MacArthur kêu gọi một tấn công chiếm lại Philippines ngay sau khi chiếm Okinawa, rồi đổ bộ lên Nhật Bản. Về phần Đô đốc Chester Nimitz, chỉ huy Hạm đội Thái Bình Dương, nghiêng về phương án thứ 2. Theo đó quân Mỹ sẽ không tấn công Philippines mà sẽ chiếm đảo Okinawa và Đài Loan để làm bàn đạp tiến vào Trung Quốc cũng như các đảo về phía Nam của Nhật Bản.
Đối với vấn đề Peleliu, cả hai chiến lược đều bao gồm việc chiếm lấy đảo, nhưng mục đích thì khác nhau và Sư đoàn Thủy quân lục chiến số 1 được cử thực hiện cuộc đổ bộ. Để giải quyết sự bất đồng, đích thân Tổng thống Franklin D. Roosevelt đã sang Trân Châu cảng lần lượt gặp các Tướng lĩnh và lắng nghe quan điểm của hai bên. Sau khi xem xét cả hai kế hoạch, phương án của MacArthur được chọn. Tuy nhiên việc xây dựng và củng cố các sân bay trước khi MacArthur có thể chiếm lại được Philippines, quần đảo Palau, đảo Peleliu và Angaur là cần thiết để bảo vệ cánh phải của quân Mỹ. Sự cần thiết của trận đánh đã bị đặt câu hỏi ngay cả khi cuộc đổ bộ chưa bắt đầu và sau này được coi như hoàn toàn không có ý nghĩa.

Sự chuẩn bị

Phía Nhật Bản

Mùa hè năm 1944, có xấp xỉ 30.000 quân Nhật đồn trú ở quần đảo Palau và có khoảng 11.000 người hiện diện ở Peleiu bao gồm Sư đoàn Bộ binh 14, các công nhân lao động từ Triều Tiên và Okinawa. Đại tá Kunio Nakagawa, chỉ huy của Trung đoàn số 2, phụ trách việc chuẩn bị phòng thủ của đảo.
Sau những thất bại ở quần đảo Solomon, Gilbert, MarshallMariana, Hải quân đế quốc Nhật Bản đã thành lập một nhóm nghiên cứu chống đổ bộ để đưa ra một chiến lược hữu hiệu phòng thủ những đảo còn lại ở Thái Bình Dương. Họ đưa ra quyết định từ bỏ việc xây dựng tuyến phòng thủ vòng ngoài đặt trên bờ biển dễ trở thành mục tiêu dễ dàng cho Hải quân Mỹ và hủy bỏ những cuộc tấn công tự sát liều lĩnh kiểu Banzai. Chiến lược mới tập trung vào việc đánh tan các đợt đổ bộ của quân Mỹ bằng cách xây dựng một hệ thống phòng thủ dày đặc bên trong đất liền với dự định khiến cho quân Mỹ bị thương vong cao và làm hao mòn ý chí tiến lên của đối phương. Vì vậy Nakagawa đã chú trọng việc xây dựng hệ thống phòng thủ bao gồm các bunker, hang động và địa đạo ngầm bên trong dựa vào thuận lợi địa hình hiểm trở của đảo.
Một công sự của quân Nhật
Điểm trung tâm trong kế hoạch của Nakagawa là vị trí cao nhất đảo Peleliu, đỉnh núi Umurbrogol, được bao bọc bởi một hệ thống núi dốc đứng. Từ đỉnh Umurbrogol có thể bao quát một phần rộng lớn của đảo kể cả sân bay chủ chốt của đảo. Núi Umurbrogol gồm 500 hang động đá vôi được liên kết với nhau bằng nhiều đường hầm. Nhiều hang trong số đó ban đầu là những mỏ khai thác đá vôi nhưng sau đó được chuyển thành công sự. Bên cạnh người Nhật còn tạo thêm nhiều công sự khác bằng cách cho nổ và đào xung quanh núi Umurbrogol nhiều hang động nhân tạo khác nhau với nhiều hình dạng nhằm cản đường quân Mỹ. Những kỹ sư người Nhật đã thêm vào những hang động bằng cánh cửa thép trượt có thể mở từ nhiều hướng để có thể trang bị cả pháo và súng máy. Bên trong các hang động người Nhật bố trí các khẩu pháo 81 và 150 li, súng máy với nòng 20 li, được hỗ trợ bởi một tiểu đội xe tăng hạng nhẹ và một tiểu đội phòng không. Bên cạnh đó, cửa các hang động được xây nghiêng nhằm làm trệt hướng các quả lựu đạn và súng phun lửa của đối phương. Tất cả những hang động trên được liên kết với nhau qua một hệ thống các địa đạo rộng lớn, giúp cho quân Nhật có thể dễ dàng rút lui và chiếm lại những công sự đã mất, hay lui về phòng tuyến bên trong khi cần.
Trên bờ biển, người Nhật cũng lợi dụng địa hình để cường phòng thủ cho đảo. Phía cực Bắc bãi biển nơi quân Mỹ đổ bộ có một mô đất nhô ra nằm trên bán đảo nhỏ, từ đây có thể bao quát cả bãi biển. Để tạo thành một công sự nơi đây được cho đào để đặt vừa khẩu súng máy 47 li. Điểm này cùng vô số vị trí khác dọc bãi biển dài 3 km nhanh chóng bị quân Mỹ vô hiệu hóa trong cuộc đổ bộ. Ngoài ra quân Nhật còn bố trí vô số mìn, đạn pháo với kíp được đặt lên trên sẵn sàng phát hỏa khi có bất cứ vật nào đi qua. Người Nhật đã đặt một tiểu đoàn ở dọc bờ biển, tuy nhiên nhiệm vụ của họ chỉ đơn giản là làm chậm bước tiến của quân Mỹ rồi sau đó nhanh chóng rút lui củng cố các vị trí bên trong đất liền.

Phía Hoa Kỳ

Thủy quân lục chiến Mỹ trong trận đánh.
Cũng giống như các trận đổ bộ khác tại mặt trận Thái Bình Dương thì chiến lược người Mỹ hầu như không thay đổi cho đến cuối cuộc chiến. Mặc dù họ phải chịu những tổn thất nặng nề nhất là sau trận Biak bị trì hoãn một tháng so với kế hoạch và thương vong lên đến 3000 quân.[2] Theo kế hoạch quân Mỹ sẽ đổ bộ lên bãi biển phía Tây Nam của đảo, vì đây là nơi gần nhất để tiếp cận sân bay chính. Trung đoàn Thủy quân lục chiến số 1 dưới quyền chỉ huy của Đại tá Chesty Puller sẽ đổ bộ lên phía Bắc của bãi biển. Đồng thời Trung đoàn Thủy quân lục chiến số 5 dưới quyền của Tướng Harold "Bucky" Harris đổ bộ lên trung tâm bãi biển. Và ở phía Nam của bãi biển là do Trung đoàn Thủy quân lục chiến số 7 dưới quyền Tướng Herman Hanneken. Họ được yểm trợ bởi một Trung đoàn pháo binh-Trung đoàn Thủy quân lục chiến 11 đổ bộ lên ngay sau đó. Họ dự tính Trung đoàn số 5 sẽ tiến về bãi biển phía Đông của đảo đồng thời chiếm sân bay chính và chia cắt đảo ra hai phần. Phía Bắc Trung đoàn số 1 sẽ tiến về trung tâm phòng thủ chính là đỉnh Umurbrogol, còn Trung đoàn số 7 sẽ tiến về phía Nam tiêu diệt các quân Nhật ở đây. Ngoài ra khi cần thiết Sư đoàn Bộ binh 81 sẽ sẵn sàng hỗ trợ đóng ở đảo Angaur gần đó.
Ngày 4 tháng 9, Thủy quân lục chiến đang lên đường thực thi nhiệm vụ ở đảo Pavuvu, gần phía Bắc của quần đảo Guadalcanal, cách Peleliu 2.100 dặm (3.400 km). Trong khi đó đội người nhái của Hải quân đang tích cực làm việc để dẹp bỏ các chướng ngại sẵn sàng cho cuộc đổ bộ. Đồng thời các tàu của Hải quân bắt đầu bắn phá các mục tiêu dọc bờ biển chuẩn bị cho trận chiến sắp tới.
Các tàu chiến Pennsylvania, Maryland, Mississippi, Tennessee and Idaho, các tàu tuần dương hạng nặng Columbus, Indianapolis, Louisville, MinneapolisPortland, các tàu tuần dương hạng nhẹ Cleveland, Denver and Honolulu, ba tàu sân bay, và năm tàu sân bay loại nhỏ đã lần lượt dội lên đảo một lượng vũ khí bằng 519 quả đạn pháo 16-inch (410 mm), 1.845 đạn pháo 14-inch (360 mm), 1.793 trái bom 500 cân Anh, và 73.412 viên đạn 13 li lên một hòn đảo nhỏ chỉ vỏn vẹn có 6 dặm vuông.
Với cường độ bắn phá như vậy, người Mỹ tin tưởng rằng các vị trí của quân Nhật đã hoàn toàn bị vô hiệu hóa. Chuẩn Đô đốc Jesse Oldendorf khẳng định rằng Hải quân đã dẹp bỏ hết các mục tiêu trên đảo. Sự thật thì toàn bộ lực lượng chính của quân phòng thủ trên đảo vẫn còn nguyên vẹn. Thậm chí là tiểu đoàn được cử bảo vệ bờ biểu hầu như không bị thương vong gì đáng kể. Trong suốt cuộc đánh phá, người Nhật đã biết dùng những loạt đạn bắn trả bất thường nhằm đánh lừa quân Mỹ hướng họ về các mục tiêu giả và tránh làm lộ các vị trí phòng thủ. Trên thực tế mục tiêu chủ yếu của chiến dịch bắn phá là sân bay chính cùng những phương tiện máy bay. Trong khi đó quân Nhật đang ẩn núp trong các công sự, sẵn sàng cho một cuộc đổ bộ quy mô lớn của quân Mỹ.

Diễn biến

Quân Mỹ đổ bộ

Bản đồ trận Peleliu
Lúc 8 giờ 32 phút sáng quân Mỹ đổ bộ lên đảo, Sư đoàn Thủy quân lục chiến số 1 tiếp cận bãi biển phía Bắc được mệnh danh là "Bãi biển trắng", cùng lúc Sư đoàn số 5 và 7 tiếp cận phần trung tâm và phía Nam được gọi là "Bãi biển cam". Khi những phương tiện đổ bộ xuất hiện trên bãi biển, quân Nhật cho mở những cửa sắt các lô cốt và bắt đầu nhả đạn vào quân Mỹ. Từ trên những ngọn đồi san hô, lính Nhật bắn vào sườn quân Mỹ với những khẩu súng máy 47 và 20 li. Quân Mỹ bị thương vong nặng do bất ngờ vì trước đó họ cho rằng chỉ gặp sự kháng cự yếu ớt của quân Nhật. "Lần đổ bộ thứ ba thì an toàn nhưng hai lần trước thì như là địa ngục."[3] Đến 9 giờ 30 thì quân Nhật đã loại khỏi vòng chiến 60 tàu đổ bộ và xe lội nước.
Sư đoàn Thủy quân Lục chiến số 1 trên bãi biển Cam
Tình cảnh của Sư đoàn số 1 cũng không khả quan hơn khi họ nhanh chóng bị cầm chân tại phía Bắc của bãi biển. Đây là nơi họ phải đối mặt với hỏa lực mạnh từ đỉnh Umurbrogol, được lính Mỹ gọi là "Tâm điểm". Chiến sự diễn ra ác liệt đến mức viên Đại tá Chesty Puller may mắn thoát chết trong gang tấc khi ông vừa kịp nhảy khỏi tàu đổ bộ đúng lúc viên đạn pháo bắn trúng vị trí của người này. Tệ hơn nữa toàn bộ phương tiện liên lạc của Sư đoàn đều bị vô hiệu hóa bởi một viên đạn pháo 47 li của quân Nhật. Về phía Nam Sư đoàn số 7 cũng gặp phải những chướng ngại tương tự khi mà họ đụng độ với các ụ súng được bố trí dọc theo sườn của cánh quân. Nhiều phương tiện đổ bộ ngay lập tức bị loại khỏi vòng chiến đấu, điều đó khiến cho quân Mỹ buộc phải rời bỏ các xe lội nước và tàu đổ bộ để lội lên bờ. Tình cảnh cực kỳ khắc nghiệt, họ phải tiến lên trong mực nước cao tới ngực hay hơn giữa các rặng đá san hô trong khi đó trên bờ quân Nhật không ngừng xả súng; thương vong nặng nề đến nỗi những người sống sót lên được tới bờ thì họ không thể chiến đấu do mất cả súng hay những phương tiện cần thiết.
Trong ngày đầu tiên của trận đánh, chỉ có duy nhất Sư đoàn số 5 có thể tiến sâu vào đảo. Sở dĩ như vậy là vì nơi họ đổ bộ cách xa những công sự được bố trí về phía Bắc và phía Nam của bãi biển nên ít gặp sự chống trả quyết liệt của quân Nhật so với hai vị trí trên. Họ nhanh chóng tiến về sân bay chính, nhưng chính tại đây họ gặp đợt phản công của Nagakawa. Quân Nhật được trang bị xe tăng tiến về phía quân Mỹ ngang qua sân bay với dự định đẩy lui quân Mỹ. Tuy nhiên cuộc phản công nhanh chóng thất bại, lần lượt từng chiếc xe tăng cùng với lính bộ binh đi theo bị hạ gục bởi xe tăng quân Mỹ lựu pháo và bom chìm.
Vào cuối ngày, quân Mỹ bám trụ dọc theo bờ biển dài 3 km. Ở phía Nam quân Mỹ đã thọc sâu vào trong đất liền được khoảng 1 dặm. Nhưng tình hình ở phía Bắc không lấy gì khả quan, quân Mỹ ở đây hầu như dậm chân tại chỗ do sự kháng cự quyết liệt của quân Nhật. Từ trên đỉnh Umurbrogol quân Nhật liên tục xả vào quân Mỹ những làn đạn không ngớt. Trong ngày đầu tiên này quân Mỹ chịu tổn thất lên đến 1.100 người, khoảng 300 người bị chết và 800 người bị thương. Dù bị tổn thất lớn như vậy nhưng Rupertus vẫn tin tưởng rằng tuyến phòng thủ của quân Nhật sẽ nhanh chóng sụp đổ sau khi quân Mỹ phá vỡ tuyến phòng thủ vòng ngoài của họ, mà không hề nghĩ đến sự thay đổi chiến thuật của đối phương.

Trận chiến phía Nam đảo và sân bay

Một lính Thủy quân lục chiến đang cung cấp nước cho đồng đội bị thương
Đến ngày thứ 2, Sư đoàn số 5 tiếp tục đánh chiếm phần còn lại của sân bay và tiến về bờ biển phía Đông. Quân Mỹ vội vã tiến ngang qua sân bay mặc dù chịu thiệt hại nhiều do đạn pháo dày đặc bắn từ các ngọn núi ở phía Bắc. Sau khi chiếm giữ sân bay, Sư đoàn số 5 nhanh chóng tiến về bờ biển phía Đông. Trong khi đó Sư đoàn số 7 vẫn đang quét sạch những vị trí của quân Nhật ở phía Nam. Đây là nơi thử thách khắc nghiệt cho quân đội Mỹ, khi mà nhiệt độ ngoài trời lên đến 115 °F (46 °C). Quân Mỹ nhanh chóng bị kiệt sức bởi cái nóng khiến con số thương vong càng tăng cao. Tình hình càng xấu đi khi mà Sư đoàn chỉ còn nguồn nước bị nhiễm dầu để sử dụng. Tuy vậy, đến ngày thứ 9, Sư đoàn số 5 và số 7 đã hoàn thành nhiệm vụ, làm chủ được sân bay và phần phía Nam của đảo.
Làm chủ được sân bay, người Mỹ ngay lập tức đưa vào sử dụng vào ngày thứ tư của trận đánh. Một đơn vị trinh sát (VMO-1) được mệnh danh là "Châu chấu" ngay lập tức được cử tới làm nhiệm vụ hướng dẫn cho các đơn vị pháo binh của Hải quân và Thuỷ quân lục chiến. Ngày 26 tháng 9 (tức ngày thứ 12 của trận đánh), những chiếc Corsair của phi đội ném bom VMF-114 hạ cánh lên đảo. Phi đội bắt đầu thực hiện các cuộc ném bom chính xác và hiệu quả vào các công sự vững chắc của quân Nhật. Những chiếc Corsair bắn tên lửa về phía các công sự thổi tung các cách cửa sắt mở đường cho Bộ binh tiến lên, họ cũng dùng đến chiến thuật ném bom napan đã được sử dụng hiệu quả ở trận Tinian. Bom napan đã chứng tỏ tính hữu hiệu của nó, khi dễ dàng đốt cháy hoàn toàn các cây cối ngụy trang, bộc lộ vị trí đối phương cũng như tiêu diệt quân địch đang ẩn núp.

Trận đánh tại Tâm điểm

Biển cảnh báo trên đảo Peleliu tháng 9-1944
Khu rừng ở phía trên đỉnh Umurbrogol tiếp tục gây ra thương vong cho lính Mỹ dọc theo bãi biển. Để giảm thiểu thiệt hại Puller đã cử Đại úy George Hunt, chỉ huy của Đại đội K thuộc Trung đoàn 3, Sư đoàn số 1 thực thi nhiệm vụ chiếm lấy "Tâm điểm". Hunt cùng với đơn vị áp sát công sự với số vũ khí hạn chế do phần lớn súng máy đã bị bỏ lại khi cuộc đổ bộ bắt đầu. Một trong các trung đội bị cầm chân gần như cả ngày ở một ví trí dễ bị tấn công giữa các công sự. Phần còn lại của Đại đội lâm vào tình thế cực kỳ nguy hiểm khi mà quân Nhật đã cắt được cánh trái của đơn vị khiến cho họ có thể bị tiêu diệt bất cứ lúc nào. Nhưng sau đó Đại đội đã lần lượt tiêu diệt từng vị trí một. Họ dùng đến chiến thuật dùng lựu đạn khói để che khuất tầm nhìn của đối phương, tiếp theo dùng súng phóng lựu tiêu diệt quân Nhật bên trong. Sau khi loại khỏi vòng chiến sáu vị trí đặt súng máy, lính Thủy quân Lục chiến Mỹ tiếp cận với một hang động dùng súng 47 li. Một Trung úy làm mù xạ thủ Nhật với lựu đạn khói, tạo điều kiện cho một hạ sĩ ném lựu đạn qua cửa hang. Khẩu súng 47 li bị tiêu diệt cùng với xạ thủ và buộc lính Nhật ẩn núp bên trong phải chạy ra ngoài, tất cả họ đều bị bắn.
Cuối cùng Đại đội K đã vô hiệu hóa được quân Nhật ở Tâm điểm. Nhận thấy giá trị phòng thủ do địa hình hiểm trở của đỉnh Umurbrogol, Nagakawa liên tiếp cho quân phản công hòng chiếm lại nơi này. 30 giờ tiếp theo diễn ra 4 cuộc phản công của quân Nhật nhằm vào duy nhất một Đại đội của Mỹ, đơn vị thiếu thốn trầm trọng nước và vũ khí. Những lính Thủy quân cuối cùng đã phải chiến đấu giáp lá cà bằng tay không với quân Nhật để đẩy lùi các cuộc phản công chiếm lại Tâm điểm. Khi quân tăng viện đến nơi, Đại đội đã mất 18 người và bị thương 157 người trong suốt trận đánh.

Đảo Ngesebus

Sư đoàn số 5 sau khi hoàn thành nhiệm vụ giữ vững an ninh cho sân bay chính, liền được cử chiếm lấy đảo Ngesebus, nằm ngay phía Bắc của đảo Peleliu. Tại đây một sân bay vẫn còn đang trong quá trình xây dựng và nhiều đơn vị pháo binh của quân Nhật đặt trên đảo. Hòn đảo nhỏ bé này được nối với Peleliu bằng một con đường đắp cao, nhưng chỉ huy của Sư đoàn 5 Bucky Harris bác bỏ khả năng đổ bộ lên đảo theo con đường này. Theo vị chỉ huy này dự đoán việc quân Mỹ tiến theo con đường chính này sẽ khiến cho họ trở thành mục tiêu dễ dàng cho quân Nhật. Harris thực hiện chiến lược truyền thống của quân Mỹ, theo đó hòn đảo trước hết bị đánh phá súng máy 150 li, súng 75 li từ các phương tiện đổ bộ, pháo từ Sư đoàn Thủy quân lục chiến 11, các trận oanh tạc của đơn vị VMF-114 được bắt đầu từ 28 tháng 9. So với kế hoạch đánh phá gần như thất bại của Hải quân đối với đảo Peleliu, thì lần dội bom này của Harris lên đảo Ngesebus đạt được hiệu quả rất cao, đã vô hiệu hóa hoàn toàn được phần lớn lực lượng phòng thủ trên đảo. Lính Thủy quân lục chiến Mỹ chỉ gặp phải sự kháng cự yếu ớt từ các ngọn đồi và hang động, hòn đảo nhanh chóng thất thủ chỉ phải chịu tổn thất 15 người bị chết và 33 người bị thương so với 470 người chết về phía Nhật.

Trận đánh tại dãy núi Umurbrogol

Một chiếc Corsair thả bom napan vào các vị trí quân Nhật trên đỉnh Umurbrogol
Những lính Thủy quân lục chiến đang chờ đợi trong các hố cá nhân.
Sau khi chiếm được đỉnh Umurbrogol, Sư đoàn số 1 tiếp tục tiến về phía Bắc đánh vào hệ thống phòng thủ trên dãy núi, được lính Mỹ gọi là "Mũi đất chết chóc". Puller cùng với binh lính của ông tiến lên với vô số cuộc đột kích, nhưng lần lượt từng đợt tấn công nhanh chóng bị vô hiệu hóa bởi quân Nhật. Sư đoàn số 1 giờ đây bị mắt kẹt trong các lối đi nhỏ giữa các ngọn núi, nơi mà được bao bọc bởi các công sự vững chắc và bố trí một thuận lợi nhất sao cho bất kì đơn vị nào cũng được hỗ trợ bởi các đơn vị khác quanh đó. Hậu quả là lính Mỹ đã bị tổn thất nặng trong khi không tiến được bao nhiêu trên dãy núi. Tuy nhiên quân Nhật lại cho thấy thiếu sự chỉ huy thống nhất, hỏa lực của họ bị phân tán ra nhiều mục tiêu khác nhau trong khi có thể gây ra thương vong lớn hơn cho quân Mỹ. Khi quân Mỹ bị thương càng tăng, các xạ thủ bắn tỉa Nhật chuyển sang nhắm vào các mục tiêu là các binh sĩ đang áp tải thương binh, họ biết rằng nếu những người lính này bị giết hoăc bị thương thì hai hay nhiều binh lính đang tiến lên sẽ phải quay lại để thay thế cho những người này. Do vậy các xạ thủ lần lần loại ra khỏi vòng chiến từng lính Mỹ một. Khi đêm, thay vì những cuộc tấn công tự sát vô ích kiểu Banzai, lính Nhật bí mật thực hiện các cuộc thâm nhập vào phòng tuyến quân Mỹ để tấn công lính Mỹ trú ẩn trong các hố cá nhân. Lính Mỹ đào các hố cá nhân dành cho hai người để luân phiên canh phòng, ban đêm trong khi một người đi ngủ thì người còn lại thức để đề phòng quân Nhật.
Một cuộc chạm trán đặc biệt ác liệt xảy ra khi Tiểu đoàn 1, Sư đoàn 1 Thủy quân lục chiến dưới quyền chỉ huy của Thiếu tá Raymond Davis tấn công đồi 100. Trong sáu ngày của trận đánh, Tiểu đoàn chịu tổn thất lên đến 71%. Đại úy Everett Pope cùng với 90 người còn lại của Đại đội thâm nhập sâu vào phòng tuyến quân Nhật bao vây một vị trí mà ông cho rằng là đồi 100. Mất hết một ngày để tiểu đoàn đến được sườn của ngọn đồi, nhưng phía cuối của dải đất cao lại là một đỉnh núi khác, nơi được canh giữ bởi nhiều lính Nhật hơn cả đồi 100. Bị chặn lại tại chân đồi, Pope quyết định thiết lập một phòng tuyến nhỏ ở vòng ngoài. Đêm xuống cũng là thời điểm quân Nhật tấn công tiên tục hòng chiếm lại nơi này. Trước các đợt tấn công mãnh liệt của lính Nhật, lính Mỹ nhanh chóng cạn kiệt đạn dược và buộc phải chiến đấu bằng tất cả mọi phương tiện có được bằng cách đánh gần bằng dao và tay, thậm chí là dùng cả những hòn đá san hô và những thùng đạn trống ném về phía quân Nhật đang tiến lên. Pope và người của mình cố gắng cầm cự đến lúc bình minh. Khi lính Mỹ quyết định rút lui khỏi vị trí, họ chỉ còn lại 9 người sống sót. Sau đó Pope đã được trao huy chương danh dự cho những hành động dũng cảm tại đồi 100.
Hai lính Mỹ đang nghỉ sau khi chiến dịch càn quét quân Nhật kết thúc
Quân Nhật khi đó đã làm Sư đoàn số 1 tổn thất 1749 người lính trong tổng số 3000 lính chiếm 60% quân số. Sau sáu ngày đối đầu căng thẳng trên dãy Umurbrogol, Đại tướng Roy Geiger, chỉ huy của III Amphibious Corps, gửi các đơn vị của Sư đoàn Bộ binh 81 đến Peleliu đến tăng viện cho số binh sĩ của Sư đoàn 1 còn lại. Trung đoàn 321 đổ bộ lên bờ Tây của đảo, tại cực Bắc của dãy Umurbrogol vào ngày 23 tháng 9. Trung đoàn mới đến này cùng với Sư đoàn số 5 và 7 phối hợp tiến lên dãy núi. Tất cả đơn vị trên đều gặp phải sự kháng cự quyết liệt của quân Nhật khiến họ phải gánh chịu những tổn thất tương tự như Sư đoàn số 1. Đến giữa tháng 10, gần một nửa quân số hai Sư đoàn 5 và 7 bị thương vong khi đang tìm cách tiến lên dọc theo các ngọn núi. Geiger đã phải thay thế toàn bộ Sư đoàn số 1 còn lại bằng binh lính từ Sư đoàn 81 để tiếp tục cuộc chiến. Ngày 15 Trung đoàn 323 đã hiện diện ở phía Bắc đảo, và đến tuần thứ 3 của tháng 9, phần lớn lính Thủy quân Lục chiến phải rút lui về Pavuvu. Toàn bộ binh lính Mỹ đóng trên đảo giờ đây đều phải đối mặt với duy nhất quân Nhật ở dãy Umurbrogol, họ chiến đấu dai dẳng thêm một tháng nữa cho đến khi chắc chắn đã loại hết quân địch ở đây. Đến cuối trận đánh Nagakawa đã tuyên bố với binh sĩ "Thanh gươm của chúng ta đã bị gãy và những ngọn giáo cũng không còn". Tiếp theo vị tướng cùng với binh sĩ của mình đốt hết huy hiệu của Trung đoàn để không lọt vào tay quân Mỹ rồi tự sát theo kiểu seppuku của Samurai. Sau khi chết Nagakawa được phong quân hàm Trung tướng vì những hi sinh của ông trên đảo Peleliu.
Sau trận đánh, một Trung úy người Nhật cùng với 26 lính bộ binh và 8 lính bảo vệ bờ biển cố thủ trong một hang động trên đảo Peleliu cho đến ngày 22 tháng 4-1947 và chỉ đầu hàng sau khi một Đô đốc từ Nhật thuyết phục họ là chiến tranh đã kết thúc. Đây là sự đầu hàng chính thức cuối cùng của một đơn vị trong chiến tranh thế giới thứ 2.

Kết quả

Các lính Mỹ bị thương đang được chữa trị tại bệnh viện trên đảo Guadalcanal sau trận đánh
Cuộc đối đầu quanh đỉnh Umurbrogol được như xem là trận chiến khốc liệt nhất mà quân đội Hoa Kỳ gặp phải trong thế chiến thứ II. Trong trận này Sư đoàn Thủy quân lục chiến số 1 Hoa Kỳ gánh chịu tổn thất nặng nề nhất từ khi chiến tranh nổ ra đến khi đổ bộ lên Peleliu lên đến 6500 người chiếm hơn một phần ba quân số đơn vị, và không thể tham chiến cho đến trận Okinawa vào ngày 1 tháng 4-1945. Trong khi đó Sư đoàn tăng viện cũng phải chịu thiệt hại 3000 người khi thực thi nhiệm vụ trên đảo Peleliu.
Trận đánh gây ra nhiều tranh cãi vì thiếu một chiến lược cụ thể. Trong khi sân bay mà quân Mỹ chiếm được trên đảo ít khi được dùng làm nơi cất cánh cho các máy bay ném bom Philippine. Hơn nữa hòn đảo chưa bao giờ được dùng làm căn cứ để chuẩn bị cho các trận đánh tiếp theo; thay vào đó hòn đảo Ulithi thuộc quần đảo Caroline nằm về phía Bắc của quần đảo Palau, được dùng làm nơi chuẩn bị cho các tàu tham gia vào trận Okinawa diễn ra trên chính quốc Nhật. Thêm vào đó, có rất ít bản báo cáo về tình hình chiến sự được thực hiện. Sở dĩ có tình trạng đó là do dự báo của Rupertus về một cuộc chiến chóng vánh chỉ trong 3 ngày, vì vậy chỉ có 6 phóng viên đi cùng với lính Mỹ lên đảo. Bên cạnh đó trận đánh ít được quan tâm do quân Mỹ tập trung vào kế hoạch của MacArthur chiếm lại Philippine và phối hợp với quân Đồng Minh đẩy lùi quân Phát xít Đứcchiến trường châu Âu.
Sau trận chiến này cùng với trận Angaur sau đó đã giúp cho người Mỹ biết trước được cấu trúc phòng thủ của quân Nhật tại Iwo Jima và Okinawa tiếp theo.[4] Tuy nhiên chiến thuật đánh phá của Hải quân lại không cải thiện được bao nhiêu khi mà hiệu quả của nó ở Iwo Jima chỉ tăng chút ít so với ở Peleliu, nhưng tại Okinawa những cuộc bắn phá sơ khởi đã đạt được kết quả tương đối.[5] Cũng từ trận đánh này lực lượng người nhái đã thu thập được nhiều kinh nghiệm thực hiện việc phá hủy các chướng ngại dưới nước đồng thời làm quân Nhật tại Iwo Jima bối rối về vị trí chính xác của cuộc đổ bộ, nhưng lại thất bại khi đã báo động quân Nhật về bãi biển nơi quân Mỹ đổ bộ lên Okinawa.[5] Lực lượng chiến đấu trên mặt đất ở Peleliu cũng có thêm kinh nghiệm đối phó với các công sự vững chắc và áp dụng những chiến thuật đã biết vào trận Okinawa.[6]
Do thiệt hại nặng nề của trận chiến này, nên đề xuất của Đô đốc William F. Halsey, Jr. về việc đổ bộ lên đảo Yapquần đảo Palau bị hủy bỏ. Nhưng trước đó Halsey đã cho rằng cuộc chiến trên đảo Peleliu và Angaur là không cần thiết và lực lượng Thủy quân lục chiến và binh lính nên được chuyển sang thực thi nhiệm vụ trên đảo Leyte. Tuy nhiên đề xuất này đã bị bác bỏ bởi Nimitz.

Huân chương

Danh hiệu cao quý nhất của Hoa Kỳ: Huân chương danh dự được trao cho 8 lính Thủy quân Lục chiến tham gia vào trận đánh, 5 người trong số đó chỉ được trao sau khi chết (dấu hiệu *):

Phim

Trận Peleliu đã được dựng thành phim và được đưa vào trong các phần 5, 6, 7 của Series phim The Pacific do Tom HanksSteven Spielberg đồng sản xuất.

Xem thêm

Chú thích

  1. ^ Lịch sử quân đội Hoa Kỳ trực tuyến - Trận Peleliu đẫm máu: Không thể tránh được nhưng hoàn toàn vô ích
  2. ^ Alexander, Storm Landings, trang. 110.
  3. ^ Lời nhận định đưa ra bởi Hạ sĩ nhất. Marcel (Sal) M. Baldinger thuộc Trung đội 1053, Tiểu đoàn 3, Trung đoàn số 5, Sư đoàn Thủy quân lục chiến số 1 trong đợt đổ bộ đầu tiên lên "Bãi biển Cam"
  4. ^ Morison, 1958, p. 46.
  5. ^ a ă Alexander,Storm Landings, trang 95.
  6. ^ Morison, 1958, trang 47.
  7. ^ http://www.ww2australia.gov.au/farflung/parer.html Parer's last reel

Tham khảo

  • Alexander, Joseph H. (1997). Storm Landings: Epic Amphibious Battles in the Central Pacific. ISBN 1557500320.
  • Alexander, Joseph H. (1997). “Heading for the Philippines”. The Battle History of the U.S. Marines: A Fellowship of Valor. Harper Perennial. ISBN 0060931094.
  • Gailey, Harry (1984). Peleliu: 1944. Nautical & Aviation Pub Co of Amer. ISBN 0-933852-41-X.
  • Hallas, James H. (1994). The Devil's Anvil: The Assault on Peleliu. Praeger Publishers. ISBN 0275946460.
  • Morison, Samuel Eliot (1958). Leyte: June 1944 - Jan 1945, vol. 12 of History of United States Naval Operations in World War II. Little, Brown and Company. ISBN 0316583170.
  • Ross, Bill D. (1991). Peleliu: Tragic Triumph. Random House. ISBN 0394565886.
  • Rottman, Gordon; Howard Gerrard (2002). Peleliu 1944: The Forgotten Corner Of Hell. Osprey Publishing. ISBN 1841765120.
  • Sledge, Eugene B. (1990). With the Old Breed: At Peleliu And Okinawa. Oxford University Press. ISBN 0195067142.
  • Sloan, Bill (2005). Brotherhood of Heroes: The Marines at Peleliu, 1944 -- The Bloodiest Battle of the Pacific War. Simon & Schuster. ISBN 0743260090.
  • Wright, Derrick (2005). To the Far Side of Hell: The Battle for Peleliu, 1944. Fire Ant Books. ISBN 0817352813.

Sách đọc thêm

  • Camp, Dick (2009). Last Man Standing: The 1st Marine Regiment on Peleliu, September 15-21, 1944. Zenith Press. ISBN 0760334935.
  • Hallas, James H. (1994). The Devil's Anvil: The Assault on Peleliu. Praeger/Greenwood. ISBN 0275946460.
  • Sloan, Bill (2005). Brotherhood of Heroes: The Marines at Peleliu, 1944 -- The Bloodiest Battle of the Pacific War. Simon và Schuster. ISBN 0743260090.

Liên kết ngoài

  • Chen, C. Peter (2007). “Chiến dịch quần đảo Palau và Ulithi”. Trung tâm tư liệu Thế chiến II. Truy cập ngày 19 tháng 10 năm 2007.
  • Anderson, Charles R. “Western Pacific”. Những chiến dịch của Quân Đội Hoa Kỳ trong Thế chiến II. Trung tâm lịch sử quân đội Hoa Kỳ. Truy cập ngày 19 tháng 12 năm 2006.
  • Gayle, BGen Gordon D. (1996). “Bloody Beaches: The Marines at Peleliu”. Những sự kiện tưởng nhớ Thế chiến II. Trung tậm lịch sử Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ. Truy cập ngày 19 tháng 12 năm 2006.
  • Hough, Frank O. (1950). “The Assault on Peleliu (The Seizure of Peleliu)”. Niên biểu Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ. Nhánh Lịch sử, Sư đoàn G-3, Trụ sở, Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ. Truy cập ngày 19 tháng 12 năm 2006.
  • Kier, Mike. “PELELIU”. Truy cập ngày 19 tháng 12 năm 2006.
  • Smith, Robert Ross (1996). “Bước tiếp cận Philippine”. Quân đội Hoa Kỳ trong Thế chiến II: Chiến trường Thái Bình Dương. Trung tâm khảo cứu lịch sử quân sự. Truy cập ngày 19 tháng 12 năm 2006.
  • Gypton, Jeremy. “Bloody Peleliu”. Trung tâm lịch sử trực tuyến.