Ấn Độ
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Cộng hoà Ấn Độ | |||||
---|---|---|---|---|---|
भारत गणराज्य (tiếng Hindi) Bhārat Ganarājya Republic of India (tiếng Anh) |
|||||
|
|||||
Khẩu hiệu | |||||
"Satyameva Jayate" (tiếng Phạn) "Truth Alone Triumphs" (tiếng Anh)[1] Chỉ có chân lý đắc thắng |
|||||
Quốc ca | |||||
Jana Gana Mana "Thou Art the Ruler of the Minds of All People" (tiếng Anh) [2] |
|||||
Hành chính | |||||
Chính phủ | Cộng hòa nghị viện liên bang | ||||
Tổng thống Thủ tướng |
Pranab Mukherjee Narendra Modi |
||||
Ngôn ngữ chính thức | |||||
Thủ đô | New Delhi |
||||
Thành phố lớn nhất | Mumbai | ||||
Địa lý | |||||
Diện tích | 3.287.590 km² (hạng 7) | ||||
Diện tích nước | 9,56% % | ||||
Múi giờ | IST (UTC+5:30) | ||||
Lịch sử | |||||
Độc lập từ Anh Quốc
|
|||||
15 tháng 8 năm 1947 | Nước tự trị | ||||
26 tháng 1 năm 1950 | Cộng hòa | ||||
Dân cư | |||||
Dân số ước lượng (2011) | 1.210.193.422[4] người (hạng 2) | ||||
Mật độ | 376,1 người/km² (hạng 31) | ||||
Kinh tế | |||||
GDP (PPP) (2013) | Tổng số: 4.962 tỷ Đô la Mỹ[5] | ||||
GDP (danh nghĩa) (2013) | Tổng số: 1.758 tỷ Đô la Mỹ[5] (hạng 10) Bình quân đầu người: 1.414 Đô la Mỹ[5] (hạng 146) |
||||
HDI (2012) | 0,554[6][7] trung bình (hạng 136) | ||||
Đơn vị tiền tệ | Rupee Ấn Độ (INR ) |
||||
Thông tin khác | |||||
Tên miền Internet |
.in
tên miền khác[hiện]
|
Tiểu lục địa Ấn Độ là nơi xuất hiện văn minh lưu vực sông Ấn cổ đại, có các tuyến đường mậu dịch mang tính lịch sử cùng những đế quốc rộng lớn, và trở nên giàu có về thương mại và văn hóa trong hầu hết lịch sử lâu dài của mình.[8] Đây cũng là nơi bắt nguồn của bốn tôn giáo lớn: Ấn Độ giáo, Phật giáo, Jaina giáo và Sikh giáo; trong khi Do Thái giáo, Hỏa giáo, Cơ Đốc giáo và Hồi giáo được truyền đến vào thiên niên kỷ thứ nhất sau Công nguyên và cũng giúp hình thành nền văn hóa đa dạng của khu vực. Khu vực dần bị thôn tính và chuyển sang nằm dưới quyền quản lý của Công ty Đông Ấn Anh từ đầu thế kỷ 18, rồi nằm dưới quyền quản lý trực tiếp của Anh Quốc từ giữa thế kỷ 19. Ấn Độ trở thành một quốc gia độc lập vào năm 1947 sau một cuộc đấu tranh giành độc lập dưới hình thức đấu tranh bất bạo động do Mahatma Gandhi lãnh đạo.
Nền kinh tế Ấn Độ lớn thứ 11 thế giới xét theo GDP danh nghĩa và lớn thứ ba thế giới xét theo sức mua tương đương (PPP).[9] Sau các cải cách kinh tế dựa trên cơ sở thị trường vào năm 1991, Ấn Độ trở thành một trong số các nền kinh tế lớn có mức tăng trưởng nhanh nhất; và được nhận định là một nước công nghiệp mới. Tuy nhiên, quốc gia này vẫn tiếp tục phải đối diện với những thách thức từ nghèo đói, tham nhũng, kém dinh dưỡng, y tế công thiếu thốn, và chủ nghĩa khủng bố. Ấn Độ là một quốc gia vũ khí hạt nhân và là một cường quốc trong khu vực, có quân đội thường trực lớn thứ ba và xếp hạng tám về chi tiêu quân sự trên thế giới. Ấn Độ là một nước cộng hòa lập hiến liên bang theo thể chế nghị viện, gồm có 29 bang và 7 lãnh thổ liên bang. Ấn Độ là một xã hội đa nguyên, đa ngôn ngữ và đa dân tộc. Đây cũng là nơi có sự đa dạng về loài hoang dã trong nhiều khu vực được bảo vệ.
Mục lục
Từ nguyên
Thuật ngữ địa lý Bharat (भारत, phát âm [ˈbʱaːrət̪] ( )), được Hiến pháp Ấn Độ công nhận là một tên gọi chính thức của quốc gia, được sử dụng trong nhiều ngôn ngữ Ấn Độ với các biến thể.[10] Bharat bắt nguồn từ tên của Bharata, một nhân vật thần học được kinh thánh Ấn Độ giáo mô tả là một hoàng đế truyền thuyết của Ấn Độ cổ đại. Hindustan ([ɦɪnd̪ʊˈst̪aːn] ( )) có nguồn gốc từ một từ trong tiếng Ba Tư có nghĩa là "Vùng đất của người Hindu"; trước năm 1947, thuật ngữ này ám chỉ một khu vực bao trùm lên bắc bộ Ấn Độ và Pakistan. Nó đôi khi được sử dụng để biểu thị toàn bộ Ấn Độ.[11][12]Trong các thư tịch Trung Quốc, thời nhà Hán gọi khu vực là "Thân Độc" (身毒), hay "Thiên Trúc" (天竺). Tên gọi Ấn Độ (tiếng Trung: 印度; bính âm: Yìndù) xuất hiện lần đầu trong "Đại Đường Tây Vực ký" của cao tăng Huyền Trang đời nhà Đường.[13]
Tên gọi India bắt nguồn từ Indus, từ này lại bắt nguồn từ một từ tiếng Ba Tư cổ là Hinduš. Thân từ của thuật ngữ tiếng Ba Tư bắt nguồn từ tiếng Phạn Sindhu, là tên gọi bản địa có tính lịch sử của sông Ấn (Indus).[14] Người Hy Lạp cổ đại gọi người Ấn Độ là Indoi (Ινδοί), có thể dịch là "người của Indus".[15]
Lịch sử
Ấn Độ cổ đại
Người hiện đại về phương diện giải phẫu được cho là đến Nam Á từ 73-55.000 năm trở lại đây,[16] song các hài cốt được xác nhận của giống người này chỉ có niên đại sớm nhất là từ 30.000 năm trước.[17] Tại nhiều nơi trên tiểu lục địa Ấn Độ, người ta phát hiện được các di chỉ nghệ thuật trên đá gần cùng thời với thời đại đồ đá giữa, bao gồm các chỗ ở hang đá Bhimbetka tại Madhya Pradesh.[18] Khoảng năm 7000 TCN, các khu định cư thời đại đồ đá mới đầu tiên được biết đến đã xuất hiện trên tiểu lục địa, tại Mehrgarh và các di chỉ khác ở đông bộ Pakistan.[19] Chúng dần phát triển thành văn minh thung lũng sông Ấn,[20] là nền văn hóa đô thị đầu tiên tại Nam Á;[21] và phát triển hưng thịnh trong khoảng thời gian 2500–1900 TCN tại Pakistan và tây bộ Ấn Độ.[22] Nền văn minh này tập trung quanh các thành thị như Mohenjo-daro, Harappa, Dholavira, và Kalibangan, và dựa trên các hình thức sinh kế đa dạng, nền văn minh này có hoạt động sản xuất thủ công nghiệp mạnh cùng với mậu dịch trên phạm vi rộng.[21]Trong giai đoạn 2000–500 TCN, xét theo khía cạnh văn hóa, nhiều khu vực tại tiểu lục địa chuyển đổi từ thời đại đồ đồng đá sang thời đại đồ sắt.[23] Vệ-đà là những thánh kinh cổ nhất của Ấn Độ giáo,[24] chúng được soạn trong giai đoạn này,[25] và các nhà sử học phân tích chúng để thừa nhận về một nền văn hóa Vệ-đà ở vùng Punjab và phần thượng của đồng bằng sông Hằng.[23] Hầu hết các sử gia cũng nhận định trong giai đoạn này có một vài làn sóng người Ấn-Arya nhập cư đến tiểu lục địa từ phía tây-bắc.[26][24][27] Chế độ đẳng cấp xuất hiện trong giai đoạn này, tạo nên một hệ thống thứ bậc gồm các tăng lữ, quân nhân, nông dân tự do, tuy nhiên loại trừ người dân bản địa bằng cách gán cho công việc của họ là thứ ô uế.[28] Trên cao nguyên Deccan, bằng chứng khảo cổ từ thời kỳ này khẳng định sự tồn tại của tổ chức chính trị ở một giai đoạn tù bang.[23] Tại nam bộ Ấn Độ, một lượng lớn các bia kỷ niệm cự thạch có niên đại từ thời kỳ này cho thấy có một sự tiến triển lên cuộc sống định cư, ngoài ra còn có các dấu vết về nông nghiệp, bể tưới tiêu, và thủ công truyền thống nằm không xa đó.[29]
Vào cuối giai đoạn Vệ-đà, khoảng thế kỷ 5 TCN, các tù bang nhỏ ở đồng bằng sông Hằng và tây-bắc thống nhất thành 16 quả đầu quốc và quân chủ quốc lớn, chúng được gọi là các mahajanapada.[30][31] Đô thị hóa nổi lên và các tính chất chính thống trong thời kỳ này cũng hình thành nên các phong trào tôn giáo không chính thống, hai trong số đó trở thành các tôn giáo độc lập. Phật giáo dựa trên lời dạy của Tất-đạt-đa Cồ-đàm, thu hút các môn đồ từ tất cả các tầng lớp xã hội trừ tầng lớp trung lưu; ghi chép biên niên sử về cuộc đời của Phật là trung tâm trong việc khởi đầu lịch sử thành văn tại Ấn Độ.[32][33][34] Đạo Jaina nổi lên trong thời kỳ của người mô phạm của nó là Mahavira.[35] Tại một thời kỳ mà đô thị thêm phần thịnh vương, cả hai tôn giáo đều duy trì sự từ bỏ như một tư tưởng,[36] và cả hai đều hình thành các truyền thống tu viện lâu dài. Về mặt chính trị, vào thế kỷ 3 TCN, Vương quốc Magadha (Ma Kiệt Đà) sáp nhập hoặc chinh phục các quốc gia khác để rồi nổi lên thành Đế quốc Maurya (Khổng Tước).[30] Đế quốc Maurya từng kiểm soát hầu hết tiểu lục địa ngoại trừ vùng viễn nam, song các khu vực lõi của nó nay bị phân ly bởi các khu vực tự trị lớn.[37][38] Các quốc vương của Maurya được biết đến nhiều với việc xây dựng đế quốc và quản lý sinh hoạt công cộng một cách quả quyết, như Ashoka từ bỏ chủ nghĩa quân phiệt và ủng hộ rộng rãi "Phật pháp".[39][40]
Văn học Sangam viết bằng tiếng Tamil tiết lộ rằng vào giai đoạn từ 200 TCN đến 200 CN, nam bộ bán đảo nằm dưới quyền quản lý của các triều đại Chera, Chola, và Pandya, các triều đại này có quan hệ mậu dịch rộng rãi với Đế quốc La Mã cũng như với khu vực Tây và Đông Nam Á.[41][42] Ở bắc bộ Ấn Độ, Ấn Độ giáo khẳng định quyền kiểm soát phụ quyền trong gia đình, khiến phụ nữ tăng thêm tính lệ thuộc.[43][30] Đến thế kỷ 4 và 5, Đế quốc Gupta được hình thành tại đồng bằng sông Hằng với một phức hệ về hành pháp và phú thuế, trở thành hình mẫu cho các vương quốc sau này tại Ấn Độ.[44][45] Dưới chế độ Gupta, Ấn Độ giáo hồi phục dựa trên cơ sở lòng sùng đạo thay vì quản lý lễ nghi và bắt đầu khẳng định được mình.[46] Sự phục hồi của Ấn Độ giáo thể hiện qua việc nở rộ các công trình điêu khắc và kiến trúc, những thứ trở nên quen thuộc trong một giới tinh hoa đô thị.[45] Văn học tiếng Phạn cổ điển cũng nở rộ, và khoa học, thiên văn học, y học, toán học Ấn Độ có các tiến bộ đáng kể.[45]
Ấn Độ trung đại
Thời kỳ Ấn Độ trung đại đầu kéo dài từ năm 600 đến năm 1200, có đặc điểm là các vương quốc mang tính khu vực và đa dạng văn hóa.[47] Khi người cai trị phần lớn đồng bằng Ấn-Hằng từ 606 đến 647 là Hoàng đế Harsha cố gắng khoách trương về phía nam, ông chiến bại trước quân chủ của triều Chalukya ngự trị tại Deccan.[48] Khi người thừa tự của Harsha nỗ lực khoách trương về phía đông, ông ta chiến bại trước quân chủ của Pala ngự trị tại Bengal.[48] Khi triều Chalukya nỗ lực khoách trương về phía nam, họ chiến bại trước triều Pallava ở xa hơn về phía nam, triều Pallava lại đối đầu với triều Pandya và triều Chola ở xa hơn nữa về phía nam.[48] Không quân chủ nào trong giai đoạn này có thể thiết lập nên một đế quốc và kiểm soát liên tục các vùng đất nằm xa vùng lãnh thổ lõi của mình.[47] Trong thời kỳ này, các mục dân có đất đai bị phát quang để phát triển kinh tế nông nghiệp được thu nhận vào trong xã hội đẳng cấp, trở thành tầng lớp thống trị phi truyền thống mới.[49] Hệ thống đẳng cấp do đó bắt đầu thể hiện những khác biệt giữa các vùng.[49]Trong thế kỷ 6 và 7, các bài thánh ca cầu nguyện đầu tiên được sáng tác bằng tiếng Tamil.[50] Toàn Ấn Độ mô phỏng theo điều đó và khiến cho Ấn Độ giáo tái khởi, và toàn bộ các ngôn ngữ hiện đại trên tiểu lục địa có sự phát triển.[50] Các vương thất lớn nhỏ tại Ấn Độ cùng các đền thờ mà họ bảo trợ thu hút một lượng rất lớn các thần dân đến kinh thành, các kinh thành cũng trở thành những trung tâm kinh tế.[51] Các đô thị thánh đường với kính cỡ khác nhau bắt đầu xuất hiện khắp nơi khi Ấn Độ trải qua một quá trình đô thị hóa nữa.[51] Đến thế kỷ 8 và 9, các ảnh hưởng của Ấn Độ được nhận thấy tại Đông Nam Á, khi mà văn hóa và hệ thống chính trị Nam Á được truyền bá ra các vùng đất mà nay là một phần của Myanmar, Thái Lan, Lào, Campuchia, Việt Nam, Malaysia, và Java.[52] Các thương nhân, học giả, và đôi khi là quân nhân Ấn Độ tham gia vào sự truyền bá này; người Đông Nam Á cũng có sự chủ động, nhiều người lưu lại một thời gian trong các trường dòng Ấn Độ và dịch các văn bản Phật giáo và Ấn Độ giáo sang ngôn ngữ của họ.[52]
Các thị tộc du cư Trung Á sử dụng kỵ binh và có các đội quân đông đảo được thống nhất nhờ dân tộc và tôn giáo, sau thế kỷ 10 họ liên tiếp tràn qua các đồng bằng ở tây-bắc của Nam Á, cuối cùng hình thành nên Vương quốc Hồi giáo Delhi vào năm 1206.[53] Vương quốc này kiểm soát phần lớn bắc bộ Ấn Độ, tiến hành nhiều hoạt động đánh phá xuống nam bộ Ấn Độ. Mặc dù chính quyền Hồi giáo ban đầu phá vỡ giới tinh hoa Ấn Độ, song các thần dân phi Hồi giáo của vương quốc này phần lớn vẫn duy trì được luật lệ và phong tục riêng của họ.[54][55] Vương quốc Hồi giáo Delhi nhiều lần đẩy lui quân Mông Cổ trong thế kỷ 13, cứu nguy Ấn Độ khỏi cảnh tàn phá giống như ở Trung và Tây Á. Vương quốc trở thành nơi định cư của những quân nhân bỏ trốn, người có học, pháp sư, thương gia, nghệ sĩ, thợ thủ công từ khu vực Trung và Tây Á, tạo nên một nền văn hóa Ấn-Hồi hổ lốn ở bắc bộ Ấn Độ.[56][57] Các cuộc đột kích của Vương quốc Hồi giáo Delhi và sự suy yếu của các vương quốc khu vực ở nam bộ Ấn Độ tạo điều kiện cho Đế quốc Vijayanagara bản địa hình thành.[58] Đế quốc phương nam này theo một truyền thống Shiva giáo mạnh mẽ và xây dựng nên kỹ thuật quân sự vượt lên trên Vương quốc Hồi giáo Delhi, kiểm soát được phần nhiều Ấn Độ Bán đảo,[59] và có ảnh hưởng đến xã hội nam bộ Ấn Độ trong một thời gian dài sau đó.[58]
Ấn Độ cận đại
Đầu thế kỷ 16, bắc bộ Ấn Độ khi đó nằm dưới quyền cai trị của các quân chủ mà phần lớn theo Hồi giáo,[60] song một lần nữa lại sụp đổ trước tính linh động và hỏa lực vượt trội của một thế hệ các chiến binh Trung Á mới.[61] Đế quốc Mogul ra đời song không nghiền nát các xã hội địa phương, mà thay vào đó là cân bằng và bình định họ thông qua các thủ tục quản trị mới[62][63] cùng giới tinh hoa cầm quyền vốn có đặc điểm đa dạng và bao dung,[64] tạo ra một nền cai trị có hệ thống hơn, tập trung hóa và thống nhất.[65] Nhằm tránh xiềng xích bộ lạc và bản sắc Hồi giáo, đặc biệt là dưới thời Akbar, người Mogul đoàn kết đế chế rộng lớn của họ thông qua lòng trung thành đối với một hoàng đế có địa vị gần như thần thánh, biểu đạt một nền văn hóa Ba Tư hóa.[64] Các chính sách kinh tế quốc gia của Mogul, vốn có phần lớn nguồn thu đến từ nông nghiệp[66] và yêu cầu các khoản thuế phải trả theo tiền bạc được quản lý chặt,[67] khiến cho các nông dân và thợ thủ công tiến vào những thị trường lớn hơn.[65] Đế quốc giữ được tình hình tương đối hòa bình trong phần lớn thế kỷ 17, và đây là một yếu tố giúp mở rộng kinh tế Ấn Độ,[65] kết quả là sự bảo trợ lớn hơn đối với hội họa, các loại hình văn chương, dệt, và kiến trúc.[68] Các nhóm xã hội mới kết hợp tại bắc bộ và tây bộ Ấn Độ, như Maratha, Rajput, và Sikh, giành được tham vọng về quân sự và quản trị dưới chế độ Mogul, và thông qua cộng tác hoặc tai họa, họ thu được cả sự công nhận và kinh nghiệm quân sự.[69] Sự mở rộng thương mại dưới chế độ Mogul giúp cho giới tinh hoa thương mại và chính trị Ấn Độ mới dọc theo các bờ biển nam bộ và đông bộ nổi bật lên.[69] Khi đế quốc tan rã, nhiều người trong giới tinh hoa này có thể theo đuổi và kiểm soát được công việc của họ.[70]Đầu thế kỷ 18, khi mà ranh giới giữa thống trị thương mại và chính trị ngày càng bị lu mờ, một số công ty mậu dịch phương Tây, bao gồm Công ty Đông Ấn Anh, thiết lập nên các tiền đồn ven biển.[71][72] Công ty Đông Ấn Anh có quyền kiểm soát đối với các vùng biển, tiềm lực lớn hơn, có khả năng huấn luyện quân sự cùng công nghệ tiến bộ hơn, do vậy thu hút một bộ phận giới tinh hoa Ấn Độ. Nhờ đó, Công ty Đông Ấn Anh gặp thuận lợi trong việc giành quyền kiểm soát đối với vùng Bengal vào năm 1765 và gạt các công ty châu Âu khác ra ngoài lề.[73][71][74][75] Công ty Đông Ấn Anh tiếp tục tiếp cận được sự giàu có của Bengal, và sau khi tăng cường sức mạng và quy mô quân đội thì Công ty có năng lực thôn tính hoặc khuất phục hầu hết Ấn Độ vào thập niên 1820.[76] Ấn Độ sau đó không còn là nhà xuất khẩu hàng hóa chế tạo như một thời gian dài trước đó, mà trở thành một nơi cung cấp nguyên liệu cho Đế quốc Anh, và nhiều sử gia xem đây là lúc thời kỳ thực dân tại Ấn Độ bắt đầu.[71] Đương thời, do quyền lực kinh tế bị Nghị viện Anh Quốc tước bỏ một cách nghiêm trọng và do bản thân trên thực tế là một cánh tay nối dài của chính phủ Anh Quốc, Công ty Đông Ấn Anh bắt đầu có ý thức hơn trong việc tiến vào các hoạt động phi kinh tế như giáo dục, cải cách xã hội, và văn hóa.[77]
Ấn Độ hiện đại
Các sử gia xem thời kỳ hiện đại của Ấn Độ bắt đầu từ giai đoạn 1848-1885. Việc bổ nhiệm James Broun-Ramsay làm Toàn quyền của Công ty Đông Ấn Anh vào năm 1848 chuẩn bị cho những thay đổi cốt yếu đối với một quốc gia hiện đại. Chúng bao gồm củng cố và phân ranh giới chủ quyền, sự giám sát của người dân, và giáo dục cho công dân. Các biến đổi về công nghệ như đường sắt, kênh đào, và điện báo được đưa đến Ấn Độ không lâu sau khi chúng được giới thiệu tại châu Âu.[78][79][80][81] Tuy nhiên, sự bất mãn đối với Công ty cũng tăng lên trong thời kỳ này, và Khởi nghĩa Ấn Độ 1857 bùng nổ. Cuộc khởi nghĩa bắt nguồn từ những oán giận và nhận thức đa dạng, bao gồm cải cách xã hội kiểu Anh, thuế đất khắc nghiệt, và đối đãi tồi của một số địa chủ giàu có và phiên vương, nó làm rung chuyển nhiều khu vực ở bắc bộ và trung bộ Ấn Độ và làm lung lay nền móng của Công ty Đông Ấn Anh.[82][83] Mặc dù cuộc khởi nghĩa bị đàn áp vào năm 1858, song nó khiến cho Công ty Đông Ấn Anh giải thể và chính phủ Anh Quốc từ đó trực tiếp quản lý Ấn Độ. Những người cai trị mới công bố một nhà nước nhất thể và một hệ thống nghị viện từng bước theo kiểu Anh song có hạn chế, nhưng họ cũng bảo hộ các phó vương và quý tộc địa chủ nhằm tạo ra một thế lực hộ vệ phong kiến để chống lại bất ổn trong tương lai.[84][85] Trong các thập niên sau đó, hoạt động quần chúng dần nổi lên trên khắp Ấn Độ, cuối cùng dẫn đến việc thành lập Đảng Quốc đại Ấn Độ vào năm 1885.[86][87][88][89]Sự phát triển nhanh chóng của kỹ thuật cùng với thương mại hóa nông nghiệp trong nửa sau thế kỷ 19 gây nên các khó khăn kinh tế: nhiều nông dân nhỏ trở nên phụ thuộc vào các nhu cầu của các thị trường xa xôi.[90] Số lượng nạn đói quy mô lớn gia tăng,[91] và có ít công việc công nghiệp được trao cho người Ấn Độ.[92] Tuy nhiên, nó cũng có những tác động tích cực: trồng trọt mang tính thương mại, đặc biệt là ở vùng Punjab mới được khơi kênh, khiến sản lượng lương thực dành cho tiêu dùng nội địa gia tăng.[93] Hệ thống đường sắt giúp cung cấp đồ cứu tế đến những nơi bị nạn đói nguy cấp,[94] giảm đáng kể chi phí vận chuyển hàng hóa,[94] và giúp ích cho ngành công nghiệp non trẻ của Ấn Độ.[93] Có khoảng một triệu người Ấn Độ phục vụ cho Anh Quốc trong Chiến tranh thế giới thứ nhất,[95] và sau cuộc chiến này là một thời kỳ mới. Thời kỳ này mang dấu ấn với các cải cách của Anh Quốc song cũng có các áp chế về luật pháp, với việc người Ấn Độ mãnh liệt hơn trong việc yêu cầu quyền tự trị, và với việc bắt đầu một phong trào bất bạo động bất hợp tác - trong đó Mohandas Karamchand Gandhi trở thành lãnh tụ và biểu tượng.[96] Trong thập niên 1930, Anh Quốc ban hành các cải cách lập pháp một cách chậm chạp; Đảng Quốc đại Ấn Độ giành chiến thắng trong các cuộc bầu cử.[97] Thập niên tiếp theo chìm trong các cuộc khủng hoảng: Ấn Độ tham gia vào Chiến tranh thế giới thứ hai, Đảng Quốc đại kiên quyết bất hợp tác, và một đợt bột phát chủ nghĩa dân tộc Hồi giáo. Tất cả đều bị ngăn lại với việc Ấn Độ giành được độc lập vào năm 1947, song bị kiềm chế do thuộc địa này phân chia thành hai quốc gia: Ấn Độ và Pakistan.[98]
Để khẳng định hình ảnh là một quốc gia độc lập, hiến pháp Ấn Độ được hoàn thành vào năm 1950, xác định Ấn Độ là một nền cộng hòa thế tục và dân chủ.[99] Trong 60 năm kể từ đó, Ấn Độ trải qua cả những thành công và thất bại.[100] Đất nước này vẫn duy trì một chế độ dân chủ với các quyền tự do dân sự, một Tòa án tối cao hoạt động tích cực, và một nền báo chí độc lập ở mức độ lớn.[100] Tự do hóa kinh tế bắt đầu từ thập niên 1990, và tạo ra một tầng lớp trung lưu thành thị có quy mô lớn, biến Ấn Độ thành một trong những nền kinh tế phát triển nhanh nhất thế giới,[101] và tăng cường ảnh hưởng địa chính trị của mình. Phim, âm nhạc, và giảng đạo của Ấn Độ đóng một vai trò ngày càng lớn trong văn hóa toàn cầu.[100] Tuy nhiên, Ấn Độ phải đương đầu với các vấn đề như nghèo nàn ở cả thành thị lẫn nông thôn;[100] từ xung đột liên quan đến tôn giáo và đẳng cấp;[102] từ quân nổi dậy Naxalite được truyền cảm hứng từ tư tưởng Mao Trạch Đông;[103] từ chủ nghĩa ly khai tại Jammu và Kashmir và tại Đông Bắc.[104] Có tranh chấp lãnh thổ chưa được giải quyết với Trung Quốc, từng leo thang thành Chiến tranh Trung-Ấn vào năm 1962;[105] và các cuộc chiến tranh biên giới với Pakistan bùng phát vào các năm 1947, 1965, 1971, và 1999.[105] Sự đối đầu hạt nhân Ấn Độ–Pakistan lên đến đỉnh vào năm 1998.[106]
Địa lý
Ấn Độ bao trùm phần lớn tiểu lục địa Ấn Độ và nằm trên đỉnh của mảng kiến tạo Ấn Độ- một phần của mảng Ấn-Úc.[107] Các quá trình địa chất học xác định được của Ấn Độ bắt đầu từ 75 triệu năm trước, khi đó tiểu lục địa Ấn Độ một bộ phận của siêu lục địa phương nam Gondwana và bắt đầu trôi giạt về phía đông-bắc qua Ấn Độ Dương (khi đó còn chưa thành hình) kéo dài trong 50 triệu năm.[107] tiểu lục địa sau đó va chạm và hút chìm bên dưới mảng Á-Âu đẩy lên cao dãy Himalaya có độ cao lớn nhất hành tinh. Dãy Himalaya hiện tiếp giáp với Ấn Độ ở phía Bắc và Đông-Bắc.[107] Tại đáy biển cũ nằm ngay phía nam dãy Himalaya, kiến tạo mảng hình thành nên một máng rộng lớn để rồi dần bị trầm tích từ sông bồi lấp;[108] hình thành nên đồng bằng Ấn-Hằng hiện nay.[109] Ở phía tây có hoang mạc Thar, dãy núi cổ Aravalli chia cắt hoang mạc này với đồng bằng Ấn-Hằng.[110]Mảng Ấn Độ gốc còn lại hiện là phần Ấn Độ bán đảo, đây là phần cổ nhất và có địa chất ổn định nhất của Ấn Độ; viễn bắc của phần này là các dãy Satpura và Vindhya tại trung bộ Ấn Độ. Hai dãy song song này chạy từ bờ biển Ả Rập thuộc bang Gujarat ở phía tây đến cao nguyên Chota Nagpur có nhiều than thuộc bang Jharkhand ở phía đông.[111] Ở phía nam, ở hai bên sườn tây và đông của cao nguyên Deccan là các dãy núi ven biển được gọi là Ghat Tây và Ghat Đông;[112] cao nguyên có các thành hệ đá cổ nhất của quốc gia, một vài trong số đó có trên 1 tỷ năm tuổi. Ấn Độ nằm ở bắc Xích đạo, từ 6°44' đến 35°30' vĩ Bắc (37°6' nếu tính cả vùng tuyên bố chủ quyền tại Kashmir) và từ 68°7' đến 97°25' kinh Đông.[113]
Ấn Độ có đường bờ biển dài 7.517 kilômét (4.700 mi); trong đó, 5.423 kilômét (3.400 mi) thuộc Ấn Độ bán đảo và 2.094 kilômét (1.300 mi) thuộc các dãy đảo Andaman, Nicobar, và Lakshadweep.[114] Theo biểu đồ thủy văn học của Hải quân Ấn Độ, bờ biển lục địa của quốc gia gồm: 43% là bãi biển cát; 11% là bờ đá, gồm cả vách đá; và 46% là bãi bùn hay bãi lầy.[114]
Các sông lớn bắt nguồn từ dãy Himalaya về căn bản chảy qua lãnh thổ Ấn Độ gồm có sông Hằng và Brahmaputra, cả hai đều đổ nước vào vịnh Bengal.[115] Các chi lưu quan trọng của sông Hằng bao gồm Yamuna và Kosi; độ dốc quá nhỏ của sông Kosi thường dẫn đến các trận lụt nghiêm trọng và thay đổi dòng chảy.[116] Các sông chính ở phần bán đảo có độ dốc lớn hơn nên giúp ngăn ngừa nạn lụt, gồm có Godavari, Mahanadi, Kaveri, và Krishna, chúng đều đổ nước vào vịnh Bengal;[117] trong khi Narmada và Tapti đổ nước vào biển Ả Rập.[118] Các địa điểm đặc biệt của vùng ven biển Ấn Độ là đồng lầy nước mặn Kutch ở tây bộ Ấn Độ và đồng bằng phù sa Sundarbans (chia sẻ với Bangladesh) ở đông bộ Ấn Độ.[119] Ấn Độ có hai quần đảo lớn: Lakshadweep, gồm các đảo san hô vòng ở ngoài khơi bờ biển tây-nam Ấn Độ; còn Quần đảo Andaman và Nicobar là một dãy núi lửa trên biển Andaman.[120]
Khí hậu Ấn Độ chịu ảnh hưởng mạnh từ dãy Himalaya và hoang mạc Thar, các cơn gió mùa vào mùa hè và mùa đông có sự tác động từ hai nơi này và mang ý nghĩa quan trọng về kinh tế và văn hóa.[121] Himalaya ngăn gió hạ giáng lạnh từ Trung Á thổi xuống, giữ cho phần lớn tiểu lục địa Ấn Độ ấm hơn so với những nơi khác cùng vĩ độ.[122][123] Hoang mạc Thar đóng một vai trò quyết định trong việc hút gió mùa mùa hè tây-nam chứa nhiều hơi ẩm từ tháng 6 đến tháng 10, cung cấp phần lớn lượng mưa của Ấn Độ.[121] Bốn nhóm khí hậu lớn chi phối tại Ấn Độ: nhiệt đớt mưa, nhiệt đới khô, cận nhiệt đới ẩm, núi cao.[124]
Môi trường
Tại Ấn Độ, các vấn đề chủ yếu về môi trường bao gồm suy thoái rừng và suy thoái đất nông nghiệp; cạn kệt tài nguyên nước, khoáng sản, rừng, cát và đá; suy thoái môi trường; các vấn đề về y tế công; mất đa dạng sinh học; các hệ sinh thái mất khả năng phục hồi và an ninh sinh kế cho người nghèo.[125] Tuy nhiên, theo các dữ liêu thu thập được và nghiên cứu tác động môi trường của các chuyên gia Ngân hàng Thế giới, từ năm 1995 đến năm 2010, Ấn Độ là một trong những nước có sự tiến bộ nhanh nhất thế giới trong việc giải quyết các vấn đề môi trường và cải thiện chất lượng môi trường.[126][127]Đa dạng sinh học
Ấn Độ nằm trong vùng sinh thái Indomalaya và gồm có ba điểm nóng đa dạng sinh học.[128] Ấn Độ là một trong 17 quốc gia đa dạng sinh vật siêu cấp, có 8,6% tổng số loài thú, 13,7% tổng số loài chim, 7,9% tổng số loài bò sát, 6% tổng số loài lưỡng cư, 12,2% tổng số loài cá, và 6,0% tổng số loài thực vật có hoa.[129][130] Ấn Độ có nhiều loài đặc hữu, chiếm tỷ lệ 33%, và nằm tại các vùng sinh thái như rừng shola.[131] Môi trường sống trải dài từ rừng mưa nhiệt đới của quần đảo Andaman, Ghat Tây, và Đông Bắc đến rừng tùng bách trên dãy Himalaya. Giữa chúng là rừng sala sớm rụng ẩm ở đông bộ Ấn Độ; rừng tếch sớm rụng khô ở trung bộ và nam bộ Ấn Độ; và rừng gai do keo Ả Rập thống trị nằm ở trung bộ Deccan và tây bộ đồng bằng sông Hằng.[132] Dưới 12% đất đai của Ấn Độ có rừng rậm bao phủ.[133] Sầu đâu là một loài cây quan trọng tại Ấn Độ, được sử dụng rộng rãi trong thảo dược nông thôn Ấn Độ. Cây đề xuất hiện trên các ấn ở di chỉ Mohenjo-daro, Đức Phật giác ngộ dưới gốc của loài cây này.Nhiều loài tại Ấn Độ bắt nguồn từ các taxon có nguồn gốc từ Gondwana- nơi mà mảng Ấn Độ tách ra từ hơn 106 triệu năm trước.[134] Ấn Độ bán đảo sau đó di chuyển đến và va chạm với siêu lục địa Laurasia và khởi đầu sự trao đổi loài trên quy mô lớn. Việc khởi đầu kỷ nguyên núi lửa và thay đổi khí hậu vào 20 triệu năm trước dẫn đến tuyệt chủng hàng loạt.[135] Các loài thú sau đó tiến vào Ấn Độ từ châu Á thông qua hai hành lang động vật địa lý học đi vòng qua sườn dãy Himalaya đang nổi lên.[132] Do đó, trong khi 45,8% số loài bò sát và 55,8% số loài lưỡng cư là đặc hữu, thì chỉ có 12,6% số loài thú và 4,5% số loài chim là đặc hữu.[130] Ấn Độ có 172 loài động vật bị đe dọa theo chỉ định của IUCN, hay 2,9% số loài gặp nguy hiểm.[136]
Việc loài người tràn ngập và tàn phá sinh thái trong những thập niên gần dây khiến các loài hoang dã gặp nguy hiểm cực kỳ lớn. Hệ thống các vườn quốc gia và khu bảo tồn khởi đầu từ năm 1935, và sau đó được mở rộng về căn bản. Năm 1972, Ấn Độ ban hành Luật bảo vệ loài hoang dã[137] và Dự án Hổ để bảo vệ những vùng hoang vu cốt yếu; Đạo luật Bảo tồn rừng được ban hành vào năm 1980 và sửa đổi bổ sung vào năm 1988.[138] Ấn Độ có hơn 500 khu bảo tồn loài hoang dã và 13 khu dự trữ sinh quyển,[139] bốn trong số đó là một phần của Hệ thống khu dự trữ sinh quyển thế giới; 25 khu đất ngập nước được đăng ký nằm dưới Công ước Ramsar.[140]
Chính trị
Ấn Độ được xem là nền dân chủ đông dân nhất trên thế giới.[141] Đây là một nước cộng hòa nghị viện với một hệ thống đa đảng,[142] có sáu chính đảng cấp quốc gia được công nhận, bao gồm Đảng Quốc đại Ấn Độ và Đảng Bharatiya Janata (Đảng Nhân dân Ấn Độ), và trên 40 chính đảng cấp địa phương.[143] Đảng Quốc đại được nhận định là có tư tưởng trung-tả hay là "tự do" trong văn hóa chính trị Ấn Độ, còn Đảng Bharatiya Janata có tư tưởng trung-hữu hay là "bảo thủ". Trong hầu hết giai đoạn từ 1950 — tức khi Ấn Độ lần đầu tiên trở thành một nước cộng hòa — đến cuối thập niên 1980, Đảng Quốc đại nắm giữ đa số ghế trong Quốc hội. Tuy nhiên, kể từ đó, Đảng Quốc đại ngày càng chia sẻ nhiều hơn vũ đài chính trị với Đảng Bharatiya Janata,[144] cũng như với các chính đảng cấp địa phương mạnh khác trong các một liên minh đa đảng.[145]Trong ba cuộc tổng tuyển cử đầu tiên tại nước Cộng hòa Ấn Độ, tức vào các năm 1951, 1957, và 1962, Đảng Quốc đại do Jawaharlal Nehru lãnh đạo đã dễ dàng giành chiến thắng. Khi Jawaharlal Nehru qua đời vào năm 1964, Lal Bahadur Shastri trở thành thủ tướng trong một thời gian ngắn; người kế vị sau khi Lal Bahadur Shastri qua đời năm 1966 là Indira Gandhi, người này lãnh đạo Đảng Quốc đại giành chiến thắng trong cuộc bầu cử năm 1967 và 1971. Sau khi quần chúng bất mãn vì tình trạng khẩn cấp mà bà tuyên bố vào năm 1975, Đảng Quốc đại thất cử vào năm 1977; đa số cử tri khi đó bỏ phiếu cho Đảng Janata mới thành lập và phản đối tình trạng khẩn cấp. Chính phủ của Đảng Janata kéo dài hơn ba năm. Đảng Quốc đại lại được bầu lên nắm quyền vào năm 1980, và trải qua thay đổi trong hàng ngũ lãnh đạo vào năm 1984 khi Indira Gandhi bị ám sát; kế nhiệm bà là người con trai Rajiv Gandhi, người này dễ dàng giành chiến thắng trong cuộc tổng tuyển cử cùng năm đó. Đảng Quốc đại lại thất cử vào năm 1989 trước một liên minh Mặt trận Quốc gia, lãnh đạo liên minh này là Đảng Janata Dal mới thành lập và liên minh với Mặt trận Cánh tả; chính phủ của liên minh này tồn tại chưa đầy hai năm.[146] Các cuộc bầu cử lại được tổ chức vào năm 1991; lần này không đảng nào giành được đa số tuyệt đối. Tuy nhiên, Đảng Quốc đại có thể thành lập nên một chính phủ thiểu số do P. V. Narasimha Rao lãnh đạo với địa vị là đảng đơn lẻ lớn nhất.[147]
Sau cuộc tổng tuyển cử năm 1996 là hai năm bất ổn chính trị, một vài liên minh đoản mệnh chia sẻ quyền lực. Đảng Bharatiya Janata lập nên một chính phủ tồn tại một thời gian ngắn trong năm 1996; sau đó là hai chính phủ do liên minh Mặt trận Thống nhất thành lập. Năm 1998, Đảng Bharatiya Janata có thể thành lập nên một liên minh thắng lợi là Liên minh Dân chủ Quốc gia do Atal Bihari Vajpayee lãnh đạo. Chính phủ Liên minh Dân chủ Quốc gia trở thành chính phủ phi Quốc đại, chính phủ liên minh đầu tiên hoàn tất nhiệm kỳ 5 năm.[148] Trong cuộc tổng tuyển cử năm 2004, một lần nữa không có đảng nào giành đa số tuyệt đối, song lần này Đảng Quốc đại nổi lên với địa vị là đảng đơn lẻ lớn nhất, họ thành lập một liên minh thắng lợi là Liên minh Cấp tiến Quốc gia (UPA). Liên minh nhận được sự ủng hộ của các đảng tả khuynh và các thành viên quốc hội phản đối Đảng Bharatiya Janata. Liên minh Cấp tiến Quốc gia trở lại nắm quyền sau cuộc tổng tuyển cử năm 2009 với số ghế cao hơn, và không còn cần phải có sự ủng hộ từ các đảng cộng sản tại Ấn Độ.[149] Năm đó, Manmohan Singh trở thành thủ tướng đầu tiên được tái cử cho một nhiệm kỳ 5 năm liên tiếp kể từ thời Jawaharlal Nehru.[150] Trong tổng tuyển cử năm 2014, đảng Bharatiya Janata trở thành chính đảng đầu tiên kể từ năm 1984 giành được đa số ghế và có thể cầm quyền mà không cần sự ủng hộ từ các chính đảng khác.[151]
Chính phủ
Ấn Độ là một liên bang với một hệ thống nghị viện nằm dưới sự khống chế của Hiến pháp Ấn Độ. Đây là một nước cộng hòa lập hiến với chế độ dân chủ đại nghị, trong đó "quyền lực đa số bị kiềm chế bởi các quyền thiểu số được bảo vệ theo pháp luật". Chế độ liên bang tại Ấn Độ xác định rõ sự phân chia quyền lực giữa chính phủ liên bang và các bang. Chính phủ tuân theo sự kiểm tra và cân bằng của Hiến pháp. Hiến pháp Ấn Độ có hiệu lực vào ngày 26 tháng 1 năm 1950,[152] trong lời mở đầu của nó có viết rằng Ấn Độ là một nước cộng hòa có chủ quyền, xã hội, thế tục, dân chủ.[153] Mô hình chính phủ của Ấn Độ theo truyền thống được mô tả là "bán liên bang" do trung ương mạnh và các bang yếu,[154] song kể từ cuối thập niên 1990 thì Ấn Độ đã phát triển tính liên bang hơn nữa do kết quả của các thay đổi về chính trị, kinh tế và xã hội.[155][156]Quốc kỳ | Tam sắc |
Quốc huy | Sư kinh Sarnath |
Quốc ca | Jana Gana Mana |
Bài hát | Vande Mataram |
Quốc lịch | Saka |
Quốc hí | không tuyên bố[157] |
Quốc hoa | sen hồng |
Quốc quả | xoài |
Quốc thụ | đa |
Quốc điểu | công Ấn Độ |
Động vật lục địa | hổ Bengal |
Động vật thủy sinh | cá heo sông |
Quốc hà | Hằng (Ganga) |
- Hành pháp: Tổng thống Ấn Độ là nguyên thủ quốc gia[158] và được một đại cử tri đoàn quốc gia bầu gián tiếp[159] với một nhiệm kỷ 5 năm.[160] Thủ tướng Ấn Độ đứng đầu chính phủ và thi hành hầu hết quyền lực hành pháp.[161] Thủ tướng do tổng thống bổ nhiệm,[162] và theo quy ước là người được chính đảng hoặc liên minh đảng phải nắm giữ đa số ghế trong hạ viện ủng hộ.[161] Nhánh hành pháp của chính phủ Ấn Độ gồm có tổng thống, phó tổng thống, và Hội đồng Bộ trưởng do thủ tướng đứng đầu. Người được bổ nhiệm làm bộ trưởng phải là một thành viên trong các viện của quốc hội.[158] Trong hệ thống quốc hội Ấn Độ, hành pháp lệ thuộc lập pháp; thủ tướng và hội đồng Bộ trưởng chịu trách nhiệm trực tiếp trước hạ viện của quốc hội.[163]
- Lập pháp: Cơ quan lập pháp của Ấn Độ là lưỡng viện quốc hội. Quốc hội Ấn Độ hoạt động theo một hệ thống kiểu Westminster và gồm có thượng viện được gọi là Rajya Sabha ("Hội đồng các bang") và hạ viện được gọi là Lok Sabha ("Viện Nhân dân").[164] Rajya Sabha là một thể chế thường trực gồm có 245 thành viên phục vụ trong nhiệm kỳ 6 năm được đặt so le.[165] Hầu hết họ được bầu gián tiếp từ các cơ quan lập pháp bang và lãnh thổ và số lượng tương ứng với tỷ lệ dân số của bang so với dân số quốc gia.[162] 543 thành viên của Lok Sabha được bầu trực tiếp theo thể chế phổ thông đầu phiếu; họ đại diện cho các khu vực bầu cử riêng rẽ trong nhiệm kỳ 5 năm.[166] Hai thành viên còn lại của Lok Sabha do tổng thống chỉ định từ cộng đồng người Anh-Ấn, trong trường hợp tổng thống quyết định rằng cộng đồng này không được đại diện tương xứng.[167]
- Tư pháp: Ấn Độ có bộ máy tư pháp độc lập gồm ba cấp nhất thể,[168] gồm: Tòa án Tối cao do Chánh án đứng đầu, 25 tòa thượng thẩm, và một lượng lớn tòa án sơ thẩm.[168] Toà án Tối cao có thẩm quyền ban đầu đối với các vụ án liên quan đến các quyền cơ bản và tranh chấp giữa các bang và Trung ương; nó có quyền chống án đối với các tòa án thượng thẩm.[169] Nó có quyền công bố luật và vô hiệu hóa các luật liên bang hay bang mà trái với hiến pháp.[170] Tòa án Tối cao cũng là cơ quan diễn giải cuối cùng của hiến pháp.[171]
Phân vùng
Các bang
Quan hệ ngoại giao và quân sự
Kể từ khi độc lập vào năm 1947, Ấn Độ duy trì các quan hệ thân mật với hầu hết các quốc gia. Trong thập niên 1950, Ấn Độ ủng hộ mạnh mẽ quá trình phi thực dân hóa tại châu Phi và châu Á, đóng một vai trò lãnh đạo trong Phong trào Không liên kết.[174] Vào cuối thập niên 1980, quân đội Ấn Độ can thiệp ra nước ngoài theo lời mời của các quốc gia láng giềng: một hoạt động gìn giữ hòa bình tại Sri Lanka từ năm 1987 đếm năm 1990; và một cuộc can thiệp vũ trang để ngăn chặn một nỗ lực đảo chính tại Maldives. Ấn Độ có các mối quan hệ căng thẳng với Pakistan; hai quốc gia từng bốn lần tiến tới chiến tranh vào các năm 1947, 1965, 1971 và 1999. Ba trong số bốn cuộc chiến diễn ra trên lãnh thổ tranh chấp Kashmir, còn cuộc chiến năm 1971 diễn ra sau khi Ấn Độ ủng hộ nền độc lập cho Bangladesh.[175] Sau khi tiến hành chiến tranh với Trung Quốc vào năm 1962 và với Pakistan vào năm 1965, Ấn Độ theo đuổi các mối quan hệ quân sự và kinh tế gần gũi với Liên Xô; Liên Xô là nước cung ứng vũ khí lớn nhất cho Ấn Độ vào cuối thập niên 1960.[176]Ngoài việc tiếp tục mối quan hệ chiến lược với Nga, Ấn Độ có quan hệ quân sự ở phạm vi rộng với Israel và Pháp. Trong những năm gần đây, quốc gia này đóng vai trò then chốt trong Hiệp hội Nam Á vì sự Hợp tác Khu vực và Tổ chức Thương mại Thế giới. Ấn Độ cung cấp 100.000 nhân viên quân sự và cảnh sát để phục vụ trong 35 hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên Hiệp Quốc. Ấn Độ tham gia vào Hội nghị cấp cao Đông Á, G8+5, và nhiều diễn đàn đa phương khác.[177] Ấn Độ có các mối quan hệ kinh tế gần gũi với các khu vực Nam Mỹ, châu Á, và châu Phi; theo đuổi một chính sách "Hướng Đông" mà theo đó mưu cầu tăng cường quan hệ đối tác với các quốc gia ASEAN, Nhật Bản, và Hàn Quốc xoay quanh nhiều vấn đề, song đặc biệt là các vấn đề liên quan đến đầu tư kinh tế và an ninh khu vực.[178][179]
Sau khi Trung Quốc tiến hành vụ thử nghiệm hạt nhân vào năm 1964, và liên tục hăm dọa can thiệp hỗ trợ Pakistan trong cuộc chiến năm 1965, Ấn Độ tin rằng cần phải phát triển vũ khí hạt nhân.[180] Ấn Độ tiến hành vụ thử nghiệm vũ khí hạt nhân đầu tiên của mình vào năm 1974 và tiếp tục tiến hành vụ thử nghiệm dưới lòng đất vào năm 1998. Bất chấp các chỉ trích và trừng phạt quân sự, Ấn Độ không ký kết cả Hiệp ước cấm thử hạt nhân toàn diện và Hiệp ước không phổ biến vũ khí hạt nhân, cho rằng chúng thiếu sót và phân biệt đối xử.[181] Ấn Độ duy trì chính sách hạt nhân "không sử dụng trước tiên" và phát triển năng lực bộ ba hạt nhân như một phần của học thuyết "răn đe tối thiểu đáng tin cậy" của mình.[182][183] Ấn Độ phát triển một hệ thống phòng thủ tên lửa đạn đạo, và hợp tác với Nga nhằm phát triển một loại máy bay chiến đấu thế hệ thứ năm.[184] Các dự án quân sự bản địa khác liên quan đến việc thiết kế và bổ sung hàng không mẫu hạm lớp Vikrant và tàu ngầm hạt nhân lớp Arihant.[184]
Sau khi kết thúc Chiến tranh Lạnh, Ấn Độ tăng cường hợp tác về kinh tế, chiến lược và quân sự với Hoa Kỳ và Liên minh châu Âu.[185] Năm 2008, Hoa Kỳ và Ấn Độ ký kết một thỏa thuận hạt nhân dân sự. Mặc dù đương thời Ấn Độ là quốc gia sở hữu vũ khí hạt nhân và không phải là một bên của Hiệp ước không phổ biến vũ khí hạt nhân, song quốc gia này nhận được miễn trừ từ Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế và Nhóm các nhà cung cấp hạt nhân, Ấn Độ do vậy thoát khỏi các hạn chế trước đây đối với công nghệ và thương mại hạt nhân. Như một hệ quả, Ấn Độ trở thành quốc gia thứ sáu sở hữu vũ khí hạt nhân trên thực tế.[186] Ấn Độ sau đó ký kết các thỏa thuận hợp tác liên quan đến năng lượng hạt nhân dân sự với Nga,[187] Pháp,[188] Anh Quốc,[189] và Canada.[190]
Tổng thống Ấn Độ là thống soái tối cao của lực lượng vũ trang quốc gia; với 1,6 triệu quân tại ngũ và xếp thứ ba thế giới trên tiêu chí này.[191] Quân đội Ấn Độ gồm có lục quân, hải quân, và không quân; các tổ chức phụ trợ gồm có Bộ tư lệnh chiến lược (Strategic Forces Command) và ba nhóm bán quân sự: Đội quân súng trường Assam, Lực lượng biên cảnh đặc chủng, và Lực lượng bảo vệ bờ biển Ấn Độ.[192] Ngân sách quốc phòng chính thức của Ấn Độ vào năm 2011 là 36,03 tỷ đô la Mỹ, chiếm 1,83% GDP.[193] Đối với năm tài chính 2012–2013, ngân sách dự thảo là 40,44 tỷ đô la Mỹ.[194] Theo một báo cáo của SIPRI năm 2008, phí tổn quân sự hàng năm của Ấn Độ dựa theo sức mua đứng ở mức 72,7 tỷ đô la Mỹ,[195] Năm 2011, ngân sách quốc phòng hàng năm tăng 11,6%,[196] song đây chưa bao gồm các ngân quỹ đến với quân đội thông qua các nhánh khác của chính phủ.[197] Năm 2012, Ấn Độ là nước nhập khẩu vũ khí lớn nhất thế giới; từ năm 2007 đến năm 2011, tiền mua vũ khí của Ấn Độ chiếm 10% tổng phí tổn dành cho mua sắm vũ khí quốc tế.[198] Phần lớn chi tiêu quân sự tập trung vào phòng thủ chống Pakistan và chống lại ảnh hưởng ngày càng gia tăng của Trung Quốc tại Ấn Độ Dương.[196]
Kinh tế
Ấn Độ có lực lượng lao động gồm 486,6 triệu người theo số liệu năm 2011.[192] Lĩnh vực dịch vụ chiếm 55,6% GDP, lĩnh vực công nghiệp chiếm 26,3% và lĩnh vực nông nghiệp chiếm 18,1%. Các nông sản chính của Ấn Độ là lúa gạo, lúa mì, hạt có dầu, bông, đay, chè, mía, và khoai tây.[172] Các ngành công nghiệp chính của Ấn Độ là dệt, viễn thông, hóa chất, dược phẩm, công nghệ sinh học, chế biến thực phẩm, thép, thiết bị vận tải, xi măng, khai mỏ, dầu mỏ, máy móc, và phần mềm.[172] Năm 2008, Ấn Độ chiếm 1,68% giá trị ngoại thương toàn cầu;[206] Năm 2011, Ấn Độ là nước nhập khẩu lớn thứ 10 và nước xuất khẩu lớn thứ 19 trên thế giới.[207] Các mặt hàng xuất khẩu chính của Ấn Độ bao gồm các sản phẩm dầu mỏ, hàng dệt may, đồ kim hoàn, phần mềm, sản phẩm công nghệ, hóa chất, và gia công đồ da thuộc.[172] Các mặt hàng nhập khẩu chính gồm dầu, máy móc, ngọc, đá quý, phân bón, và hóa chất.[172] Từ năm 2001 đến năm 2011, đóng góp của các mặt hàng hóa dầu và công nghệ vào giá trị xuất khẩu tăng từ 14% lên 42%.[208]
Mức lương theo giờ tại Ấn Độ tăng gấp đôi trong thập niên đầu của thế kỷ 21.[209] Khoảng 431 triệu người Ấn Độ thoát nghèo kể từ năm 1985; các tầng lớp trung lưu của Ấn Độ được dự tính sẽ đạt khoảng 580 triệu người vào năm 2030.[210]
Năm 2010, Ấn Độ xếp hạng 51 về năng lực cạnh tranh toàn cầu, xếp hạng 7 về trình độ phát triển của thị trường tài chính, xếp hạng 24 về lĩnh vực ngân hàng, xếp hạng 44 về trình độ phát triển trong kinh doanh và xếp thứ 39 về cách tân, đứng trước một số nền kinh tế tiến bộ.[211] Năm 2009, 7 trong số 15 công ty gia công phần mềm hàng đầu thế giới đặt tại Ấn Độ, do vậy đất nước này được nhìn nhận là nơi gia công phần mềm thuận lợi thứ hai sau Hoa Kỳ.[212] Thị trường tiêu dùng của Ấn Độ hiện lớn thứ 11 thế giới, và dự kiến sẽ lên vị trí thứ 5 vào năm 2030.[210] Đến cuối tháng 5 năm 2012, Ấn Độ có 960,9 triệu thuê bao điện thoại,[213] và sau quý đầu tiên của năm 2013, Ấn Độ vượt qua Nhật Bản để trở thành thị trường điện thoại thông minh lớn thứ ba trên thế giới sau Trung Quốc và Hoa Kỳ.[214]
Ngành công nghiệp ô tô của Ấn Độ tăng trưởng nhanh thứ hai thế giới, doanh số bán hàng nội địa tăng 26% trong giai đoạn 2009–10,[215] và doanh số xuất khẩu tăng 36% trong giai đoạn 2008–09.[216] Công suất điện năng của Ấn Độ là 250 GW, trong đó 8% là năng lượng tái tạo.[217] Đến cuối năm 2011, ngành công nghiệp công nghệ thông tin của Ấn Độ tạo việc làm cho 2,8 triệu chuyên viên, tạo ra doanh thu gần 100 tỷ đô la Mỹ, tức bằng 7,5% GDP của Ấn Độ và đóng góp 26% kim ngạch xuất khẩu của Ấn Độ.[218]
Ngành công nghiệp dược phẩm của Ấn Độ nằm trong số các thị trường mới nổi quan trọng của công nghiệp dược phẩm thế giới. Thị trường dược phẩm Ấn Độ dự kiến đạt doanh thu 48,58 tỷ đô la Mỹ vào năm 2020. Ấn Độ chiếm 60% thị phần ngành công nghiệp sinh dược phẩm.[219]
Mặc dù tăng trưởng kinh tế ấn tượng trong các thập niên gần đây, Ấn Độ tiếp tục phải đối mặt với các thách thức về kinh tế-xã hội. Ấn Độ là nơi có số lượng người nhiều nhất sống dưới chuẩn nghèo quốc tế (1,25 đô la Mỹ/ngày) của Ngân hàng Thế giới,[220] tỷ lệ này giảm từ 60% năm 1981 xuống 42% năm 2005.[221] 48% số trẻ em Ấn Độ dưới 5 tuổi bị thiếu cân, một nửa số trẻ em dưới năm tuổi bị suy dinh dưỡng mãn tính, và tại các bang Madhya Pradesh, Andhra Pradesh, Bihar, Chhattisgarh, Haryana, Jharkhand, Karnataka, và Uttar Pradesh, chiếm 50,04% dân số Ấn Độ, 70% số trẻ em từ 6 tháng đến 59 tháng bị thiếu máu.[222] Kể từ năm 1991, bất bình đẳng kinh tế giữa các bang của Ấn Độ liên tục phát triển: sản phẩm nội địa ròng bình quân đầu người cấp bang của các bang giàu nhất vào năm 2007 gấp 3,2 lần so với các bang nghèo nhất.[223] Tham nhũng tại Ấn Độ được cho là gia tăng đáng kể.[224] Nhờ tăng trưởng mà GDP danh nghĩa bình quân đầu người của Ấn Độ tăng lên nhanh chóng kể từ năm 1991, tuy nhiên nó luôn ở mức thấp hơn so với các quốc gia đang phát triển khác tại châu Á như Indonesia, Iran, Malaysia, Philippines, Sri Lanka, hay Thái Lan, và được dự báo sẽ vẫn tiếp tục như vậy trong tương lai gần.[225]
Nhân khẩu
Với dân số 1.210.193.422 người theo điều tra tạm thời năm 2011,[4] Ấn Độ là quốc gia đông dân thứ hai trên thế giới. Tốc độ tăng trưởng dân số của Ấn Độ giảm xuống còn trung bình 1,76% mỗi năm trong giai đoạn 2001–2011,[4] từ mức 2,13% mỗi năm trong thập niên trước (1991–2001).[226] Tỷ suất giới tính theo điều tra năm 2011 là 940 nữ trên 1.000 nam.[4] Tuổi bình quân của cư dân Ấn Độ là 24,9 theo điều tra năm 2001.[192] Trong cuộc điều tra dân số hậu thuộc địa đầu tiên, tiến hành vào năm 1951, Ấn Độ có 361,1 triệu người.[227] Các tiến bộ về y tế trong suốt 50 năm vừa qua cùng với năng suất nông nghiệp gia tăng (Cách mạng xanh) khiến dân số Ấn Độ gia tăng nhanh chóng.[228] Ấn Độ tiếp tục phải đối mặt với một số thách thức liên quan đến sức khỏe cộng đồng.[229] Theo Tổ chức Y tế thế giới, 900.000 người Ấn Độ tử vong mỗi năm do uống nước bị nhiễm bẩn hay hít khí bị ô nhiễm.[230] Có khoảng 50 bác sĩ trên 100.000 người Ấn Độ.[231] Số người Ấn Độ sinh sống tại thành thị tăng trưởng 31,2% từ 1991 đến 2001.[232] Tuy nhiên, theo số liệu năm 2001, có trên 70% cư dân Ấn Độ sinh sống tại các vùng nông thôn.[233][234] Theo điều tra dân số năm 2001, có 27 đô thị trên 1 triệu dân tại Ấn Độ;[232] trong đó Delhi, Mumbai, Kolkata, Chennai, Bangalore, Hyderabad, Ahmedabad, và Pune là các vùng đô thị đông dân nhất. Tỷ lệ biết chữ năm 2011 là 74,04%: 65,46% đối với nữ giới và 82,14% đối với nam giới.[4] Kerala là bang có tỷ lệ người biết chữ cao nhất;[235] còn bang Bihar có tỷ lệ người biết chữ thấp nhất.[236]Ấn Độ là nơi có hai nhóm ngôn ngữ lớn: Ấn-Arya (74% cư dân nói) và Dravidia (24%). Các ngôn ngữ khác được nói tại Ấn Độ thuộc các ngữ hệ Nam Á và Tạng-Miến. Ấn Độ không có ngôn ngữ quốc gia.[237] Tiếng Hindi có số lượng người nói lớn nhất và là ngôn ngữ chính thức của chính phủ.[238][239] Tiếng Anh được sử dụng rộng rãi trong kinh doanh và hành chính và có địa vị "ngôn ngữ phó chính thức";[240] và có vị thế quan trọng trong giáo dục, đặc biệt là trong môi trường giáo dục đại học. Mỗi bang và lãnh thổ liên bang có một hoặc nhiều hơn các ngôn ngữ chính thức, và hiến pháp công nhận cụ thể 21 "ngôn ngữ xác định" (scheduled languages). Hiến pháp công nhận 212 nhóm bộ lạc xác định, họ chiếm tỷ lệ 7,5% trong dân số quốc gia.[241] Điều tra dân số năm 2001 đưa ra số liệu là 800 triệu người Ấn Độ (80,5% tổng dân số) là tín đồ Ấn Độ giáo, Ấn Độ giáo do vậy là tôn giáo lớn nhất tại Ấn Độ, sau đó là Hồi giáo (13,4%), Ki tô giáo (2,3%), đạo Sikh (1,9%), Phật giáo (0,8%), đạo Jaina (0,4%), Do Thái giáo, Hỏa giáo, và Bahá'í.[242] Ấn Độ có số tín đồ Ấn Độ giáo, Sikh giáo, Jaina giáo, Hỏa giáo, Bahá'í giáo đông nhất thế giới, và có số tín đồ Hồi giáo lớn thứ ba thế giới, đồng thời là quốc gia có đông người Hồi giáo nhất trong số các quốc gia mà họ không chiếm đa số.[243][244]
Văn hóa
Lịch sử văn hóa Ấn Độ kéo dài hơn 4.500 năm.[245] Trong thời kỳ Vệ Đà (k. 1700 – 500 TCN), các nền tảng của triết học, thần thoại, văn học Ấn Độ giáo được hình thành, ngoài ra còn có sự hình thành của nhiều đức tin và thực hành vẫn tồn tại cho đến nay, chẳng hạn như Dharma, Karma, yoga, và moksha.[15] Ấn Độ có sự đa dạng về mặt tôn giáo, trong đó Ấn Độ giáo, Sikh giáo, Hồi giáo, Kitô giáo, và Jaina giáo nằm trong số các tôn giáo lớn của quốc gia.[246] Ấn Độ giáo là tôn giáo chiếm ưu thế, được định hình thông qua nhiều trường phái mang tính lịch sử về tư tưởng, bao gồm các tư tưởng trong Áo nghĩa thư,[247] kinh Yoga, phong trào Bhakti,[246] và từ triết học Phật giáo.[248]Nghệ thuật và kiến trúc
Phần nhiều kiến trúc Ấn Độ, bao gồm Taj Mahal, các công trình theo kiến trúc Mogul, và kiến trúc Nam Ấn, là sự pha trộn giữa các truyền thống bản địa cổ xưa với các phong cách nhập ngoại.[249] Kiến trúc bản xứ cũng mang tính vùng miền cao. Học thuyết Vastu shastra dịch theo nghĩa đen là "khoa học xây dựng" hay "kiến trúc", và được gán cho những người mang tước vị Mamuni Mayan,[250] khám phá xem các quy luật của thiên nhiên ảnh hưởng thế nào đến chỗ ở của con người;[251] nó sử dụng các điều chỉnh hình học và định hướng chính xác để phản ánh nhận thức về cấu trúc vũ trụ.[252] Khi áp dụng trong kiến trúc đền Ấn Độ giáo, nó chịu ảnh hưởng từ Shilpa Shastras, một loạt các văn bản mang tính nền tảng có hình dạng thần thoại học cơ bản là Vastu-Purusha mandala- một hình vuông là hiện thân của "tuyệt đối".[253] Taj Mahal được xây dựng tại Agra từ năm 1631 đến năm 1648 theo lệnh của Hoàng đế Shah Jahan để tưởng nhớ hoàng hậu của ông, nó được liệt vào danh sách di sản thế giới của UNESCO với miêu tả "viên ngọc quý của nghệ thuật Hồi giáo tại Ấn Độ và một trong những kiệt tác được khắp nơi ca tụng thuộc về di sản thế giới."[254] Từ các yếu tố của kiến trúc Ấn-Hồi, Anh Quốc phát triển thành kiến trúc Ấn-Saracen phục hưng vào cuối thế kỷ 19.[255]Văn học
Các tác phẩm văn học sớm nhất tại Ấn Độ được biên soạn từ khoảng năm 1400 TCN đến 1200 TCN, chúng được viết bằng tiếng Phạn.[256][257] Các tác phẩm nổi bật trong nền văn học tiếng Phạn này bao gồm các sử thi như Mahabharata và Ramayana, các tác phẩm kịch của tác gia Kālidāsa như Abhijnanasakuntalam, và thơ ca như Mahakavya.[258][259][260] Cuốn sách nổi tiếng về quan hệ tình dục là Kama Sutra (Dục kinh) cũng được viết bằng tiếng Phạn. Văn học Sangam phát triển từ năm 600 TCN đến năm 300 TCN tại Nam Ấn Độ, bao gồm 2.381 bài thơ, được xem như một tiền thân của văn học Tamil.[261][262][263][264] Từ thế kỷ 14 đến thế kỷ 18, các truyền thống văn học của Ấn Độ trải qua một giai đoạn thay đổi mạnh mẽ do sự xuất hiện của các thi nhân sùng đạo như Kabir, Tulsidas, và Guru Nanak. Điểm đặc trưng của văn học giai đoạn này là thể hiện một hình ảnh đa dạng và rộng lớn về tư tưởng và biểu lộ tình cảm; như một hệ quả, các tác phẩm văn học Ấn Độ trung đại có sự khác biệt đáng kể so với các tác phẩm truyền thống cổ điển.[265] Đến thế kỷ 19, các tác gia Ấn Độ đi theo mối quan tâm mới về các vấn đề xã hội và mô tả tâm lý. Trong thế kỷ 20, văn học Ấn Độ chịu ảnh hưởng từ các tác phẩm của thi nhân và tiểu thuyết gia người Bengal Rabindranath Tagore.[266]Nghệ thuật biểu diễn
Âm nhạc Ấn Độ có các phong cách truyền thống và khu vực khác biệt. Âm nhạc cổ điển gồm có hai thể loại và các nhánh dân gian khác nhau của chúng: trường phái Hindustan ở bắc bộ và Carnatic ở nam bộ.[267] Các loại hình phổ biến được địa phương hóa gồm filmi và âm nhạc dân gian: baul bắt nguồn từ Bengal với truyền thống hổ lốn là một loại hình âm nhạc dân gian được biết đến nhiều. Khiêu vũ Ấn Độ cũng có các loại hình dân gian và cổ điển đa dạng, trong số những vũ điệu dân gian được biết đến nhiều, có Bhangra của Punjab, Bihu của Assam, Chhau của Tây Bengal và Jharkhand, Garba và Dandiya của Gujarat, Sambalpuri của Odisha, Ghoomar của Rajasthan, và Lavani của Maharashtra. Tám loại vũ điệu, trong đó nhiều loại đi kèm với các hình thức kể chuyện và yếu tố thần thoại được Viện Âm nhạc, Vũ đạo, Hí kịch Quốc gia ban cho địa vị vũ đạo cổ điển. Chúng gồm có Bharatanatyam của bang Tamil Nadu, Kathak của Uttar Pradesh, Kathakali và Mohiniyattam của Kerala, Kuchipudi của Andhra Pradesh, Manipuri của Manipur, Odissi của Odisha, và Sattriya của Assam.[268] Sân khấu tại Ấn Độ pha trộn các loại hình âm nhạc, vũ điệu, ứng khẩu hay đối thoại.[269] Sân khấu Ấn Độ thường dựa trên thần thoại Ấn Độ giáo, song cũng vay mượn từ các mối tình từ thời trung cổ hay các sự kiện xã hội và chính trị, và gồm có bhavai của Gujarat, Jatra của Tây Bengal, Nautanki và rRamlila ở Bắc Ấn Độ, Tamasha của Maharashtra, Burrakatha của Andhra Pradesh, Terukkuttu của Tamil Nadu, và Yakshagana của Karnataka.[270]Điện ảnh
Ngành công nghiệp điện ảnh Ấn Độ tạo ra nghệ thuật điện ảnh đông người xem nhất thế giới.[271] Các truyền thống điện ảnh địa phương tồn tại trong các ngôn ngữ gồm Assam, Bengal, Hindi, Kannada, Malayalam, Punjab, Gujarat, Marath, Oriya, Tamil, và Telugu.[272] Điện ảnh nam bộ Ấn Độ chiếm tới 75% doanh thu phim toàn quốc.[273] Truyền hình tại Ấn Độ khởi đầu từ năm 1959 như một phương tiện truyền thông quốc doanh, và được mở rộng chậm chạp trong hai thập niên sau.[274] Sự độc quyền của nhà nước đối với truyền hình kết thúc vào thập niên 1990, và kể từ đó các kênh truyền hình vệ tinh ngày càng góp phần hình thành văn hóa đại chúng của xã hội Ấn Độ.[275] Ngày nay, truyền hình là phương tiện truyền thông đi sâu vào xã hội Ấn Độ nhất; các ước tính cho thấy vào năm 2012 có trên 554 triệu khán giả truyền hình, 462 triệu có kết nối vệ tinh hoặc/và kết nối cáp, lớn hơn các loại hình truyền thông đại chúng khác như báo chí (350 triệu), phát thanh (156 triệu) hay internet (37 triệu).[276]Xã hội
Xã hội truyền thống Ấn Độ được xác định theo đẳng cấp xã hội, hệ thống đẳng cấp của Ấn Độ là hiện thân của nhiều xếp tầng xã hội và nhiều hạn chế xã hội tồn tại trên tiểu lục địa Ấn Độ. Các tầng lớp xã hội được xác định theo hàng nghìn nhóm đồng tộc thế tập, thường được gọi là jāti, hay "đẳng cấp".[277] Ấn Độ tuyên bố tiện dân là bất hợp pháp vào năm 1947 và kể từ đó ban hành các luật chống phân biệt đối xử khác và khởi xướng phúc lợi xã hội, tuy vậy nhiều tường thuật vẫn cho thấy rằng nhiều Dalit ("tiện dân cũ") và các đẳng cấp thấp khác tại các khu vực nông thôn tiếp tục phải sống trong sự cách ly và phải đối mặt với ngược đãi và phân biệt.[278][279][280] Tại những nơi làm việc ở đô thị của Ấn Độ, tại các công ty quốc tế hay công ty hàng đầu tại Ấn Độ, tầm quan trọng của hệ thống đẳng cấp bị mất đi khá nhiều.[281][282] Các giá trị gia đình có vị trí quan trọng trong văn hóa Ấn Độ, và các gia đình chung sống gia trưởng đa thế hệ là quy tắc tiêu chuẩn tại Ấn Độ, song các gia đình hạt nhân cũng trở nên phổ biến tại những khu vực thành thị.[283] Đại đa số người Ấn Độ, với sự ưng thuận của họ, kết hôn theo sự sắp xếp của cha mẹ hay các thành viên khác trong gia đình.[284] Hôn nhân được cho là gắn liền với sinh mệnh,[284] và tỷ lệ ly hôn rất thấp.[285] Tảo hôn tại Ấn Độ là việc phổ biến, đặc biệt là tại các vùng nông thôn; nhiều nữ giới tại Ấn Độ kết hôn trước độ tuổi kết hôn hợp pháp là 18.[286] Nhiều lễ hội tại Ấn Độ có nguồn gốc tôn giáo, trong đó có Chhath, Giáng sinh, Diwali, Durga Puja, Bakr-Id, Eid ul-Fitr, Ganesh Chaturthi, Holi, Makar Sankranti hay Uttarayan, Navratri, Thai Pongal, và Vaisakhi. Ấn Độ có ba ngày lễ quốc gia được tổ chức trên toàn bộ các bang và lãnh thổ liên bang: Ngày Cộng hòa, ngày Độc lập, và Gandhi Jayanti.Trang phục
Bông được thuần hóa tại Ấn Độ từ khoảng 4000 TCN, và y phục truyền thống Ấn Độ có sự khác biệt về màu sắc và phong cách giữa các vùng và phụ thuộc vào các yếu tố khác nhau, bao gồm khí hậu và đức tin. Phong cách y phục phổ biến gồm phục trang được xếp nếp như sari cho nữ giới và dhoti hay lungi cho nam giới. Các loại phục trang được khâu cũng phổ biến, như shalwar kameez cho nữ giới và kết hợp kurta–pyjama hay quần áo kiểu Âu cho nam giới.[287] Việc đeo đồ kim hoàn tinh tế, được làm theo hình hoa thật thời Ấn Độ cổ đại, là một phần của truyền thống kéo dài từ khoảng 5.000 năm; người Ấn Độ cũng đeo đá quý như một thứ bùa.[288]Thể thao
Tại Ấn Độ, một số môn thể thao bản địa truyền thống vẫn còn khá phổ biến, chẳng hạn như kabaddi, kho kho, pehlwani và gilli-danda. Một số hình thái sơ khởi của võ thuật châu Á, như kalarippayattu, musti yuddha, silambam, và marma adi, bắt nguồn tại Ấn Độ. Cờ vua thường được cho là có nguồn gốc từ Ấn Độ với tên gọi chaturanga, môn thể thao này đang lấy lại tính đại chúng bằng sự gia tăng số Đại kiện tướng người Ấn Độ.[289][290] Pachisi là tiền thân của parcheesi, Akbar Đại đế từng chơi trò này trên một kì trường khổng lồ bằng cẩm thạch.[291]Việc đội tuyển Davis Cup Ấn Độ và các đội tuyển quần vợt khác tại Ấn Độ cải thiện được kết quả vào đầu thập niên 2010 khiến môn thể thao này gia tăng tính đại chúng tại nước này.[292] Ấn Độ có sự hiện diện tương đối mạnh trong các môn thể thao bắn súng, và giành một vài huy chương tại Thế vận hội, Giải vô địch bắn súng Thế giới, và Đại hội thể thao Thịnh vượng chung.[293][294] Ấn Độ cũng thành công trên cấp độ quốc tế trong các môn gồm cầu lông,[295] quyền Anh,[296] và đấu vật.[297] Bóng đá là môn thể thao phố biến tại Tây Bengal, Goa, Tamil Nadu, Kerala, và các bang đông-bắc.[298]
Ấn Độ có một Liên đoàn quản lý môn khúc côn cầu, đội tuyển khúc côn cầu quốc gia Ấn Độ từng giành chiến thắng trong Giải vô địch khúc côn cầu thế giới năm 1975, và tính đến năm 2012, Ấn Độ giành được tổng cộng 8 huy chương vàng, một huy chương bạc, và hai huy chương đồng Thế vận hội. Ấn Độ cũng đóng một vai trò quan trọng trong việc đại chúng hóa môn cricket, và đây là môn thể thao phổ biến nhất tại quốc gia này. Đội tuyển cricket quốc gia Ấn Độ giành chiến thắng tại các giải vô địch cricket thế giới năm 1983 và 2011.
Ấn Độ từng tổ chức hoặc đồng tổ chức một vài sự kiện thể thao quốc tế: Á vận hội năm 1951 và 1982, vòng chung kết Giải vô địch Cricket thế giới năm 1987, 1996 và 2011; Đại hội thể thao Á-Phi năm 2013; Giải khúc côn cầu nam thế giới năm 2010; Đại hội thể thao khối Thịnh vương chung năm 2010. Các sự kiện thể thao quốc tế được tổ chức thường niên tại Ấn Độ bao gồm Chennai Open, Mumbai Marathon, Delhi Half Marathon, và Indian Masters. Cuộc đua Indian Grand Prix đầu tiên diễn ra vào cuối năm 2011.[299] Ấn Độ có truyền thống là quốc gia chiếm ưu thế tại Đại hội Thể thao Nam Á.
Chú thích
- ^ a ă â National Informatics Centre 2005
- ^ Wolpert 2003, tr. 1
- ^ “Profile | National Portal of India”. India.gov.in. Truy cập 23 tháng 8 năm 2013.
- ^ a ă â b c Ministry of Home Affairs 2011
- ^ a ă â b “Report for Selected Countries and Subjects”. World Economic Outlook Database, Quỹ Tiền tệ Quốc tế. 27 tháng 10 năm 2013. Truy cập 27 tháng 10 năm 2013.
- ^ United Nations 2012
- ^ Human Development Reports
- ^ Stein 1998, tr. 16–17
- ^ “Gross domestic product, current prices in US dollars, Oct 2013”. Truy cập 31 tháng 10 năm 2013.
- ^ Ministry of Law and Justice 2008
- ^ Kaye 1997, tr. 639–640
- ^ Encyclopædia Britannica
- ^ “Ấn Độ (India)-Tên gọi từ một con sông”. Bách khoa tri thức. Truy cập ngày 2 tháng 4 năm 2014.
- ^ Oxford English Dictionary
- ^ a ă Kuiper 2010, tr. 86
- ^ Petraglia, Allchin & 2007, tr. 6
- ^ Singh 2009, tr. 64
- ^ Singh 2009, tr. 89–93
- ^ Possehl 2003, tr. 24–25
- ^ Kulke & Rothermund 2004, tr. 21–23
- ^ a ă Singh 2009, tr. 181
- ^ Possehl 2003, tr. 2
- ^ a ă â Singh 2009, tr. 255
- ^ a ă Singh 2009, tr. 186–187
- ^ Witzel 2003, tr. 68–69
- ^ Kulke & Rothermund 2004, tr. 31
- ^ Stein 2010, tr. 47
- ^ Kulke & Rothermund 2004, tr. 41–43
- ^ Singh 2009, tr. 250–251
- ^ a ă â Singh 2009, tr. 319
- ^ Kulke & Rothermund 2004, tr. 53–54
- ^ Kulke & Rothermund 2004, tr. 54–56
- ^ Stein 1998, tr. 21
- ^ Stein 1998, tr. 67–68
- ^ Singh 2009, tr. 312–313
- ^ Singh 2009, tr. 300
- ^ Stein 1998, tr. 78–79
- ^ Kulke & Rothermund 2004, tr. 70
- ^ Singh 2009, tr. 367
- ^ Kulke & Rothermund 2004, tr. 63
- ^ Stein 1998, tr. 89–90
- ^ Singh 2009, tr. 408–415
- ^ Stein 1998, tr. 92–95
- ^ Kulke & Rothermund 2004, tr. 89–91
- ^ a ă â Singh 2009, tr. 545
- ^ Stein 1998, tr. 98–99
- ^ a ă Stein 1998, tr. 132
- ^ a ă â Stein 1998, tr. 119–120
- ^ a ă Stein 1998, tr. 121–122
- ^ a ă Stein 1998, tr. 123
- ^ a ă Stein 1998, tr. 124
- ^ a ă Stein 1998, tr. 127–128
- ^ Ludden 2002, tr. 68
- ^ Asher & Talbot 2008, tr. 47
- ^ Metcalf & Metcalf 2006, tr. 6
- ^ Ludden 2002, tr. 67
- ^ Asher & Talbot 2008, tr. 50–51
- ^ a ă Asher & Talbot 2008, tr. 53
- ^ Metcalf & Metcalf 2006, tr. 12
- ^ Robb 2001, tr. 80
- ^ Stein 1998, tr. 164
- ^ Asher & Talbot 2008, tr. 115
- ^ Robb 2001, tr. 90–91
- ^ a ă Metcalf & Metcalf 2006, tr. 17
- ^ a ă â Asher & Talbot 2008, tr. 152
- ^ Asher & Talbot 2008, tr. 158
- ^ Stein 1998, tr. 169
- ^ Asher & Talbot 2008, tr. 186
- ^ a ă Metcalf & Metcalf 2006, tr. 23–24
- ^ Asher & Talbot 2008, tr. 256
- ^ a ă â Asher & Talbot 2008, tr. 286
- ^ Metcalf & Metcalf 2006, tr. 44–49
- ^ Robb 2001, tr. 98–100
- ^ Ludden 2002, tr. 128–132
- ^ Metcalf & Metcalf 2006, tr. 51–55
- ^ Metcalf & Metcalf 2006, tr. 68–71
- ^ Asher & Talbot 2008, tr. 289
- ^ Robb 2001, tr. 151–152
- ^ Metcalf & Metcalf 2006, tr. 94–99
- ^ Brown 1994, tr. 83
- ^ Peers 2006, tr. 50
- ^ Metcalf & Metcalf 2006, tr. 100–103
- ^ Brown 1994, tr. 85–86
- ^ Stein 1998, tr. 239
- ^ Metcalf & Metcalf 2006, tr. 103–108
- ^ Robb 2001, tr. 183
- ^ Sarkar 1983, tr. 1–4
- ^ Copland 2001, tr. ix–x
- ^ Metcalf & Metcalf 2006, tr. 123
- ^ Stein 1998, tr. 260
- ^ Bose & Jalal 2011, tr. 117
- ^ Stein 1998, tr. 258
- ^ a ă Metcalf & Metcalf 2006, tr. 126
- ^ a ă Metcalf & Metcalf 2006, tr. 97
- ^ Metcalf & Metcalf 2006, tr. 163
- ^ Metcalf & Metcalf 2006, tr. 167
- ^ Metcalf & Metcalf 2006, tr. 195–197
- ^ Metcalf & Metcalf 2006, tr. 203
- ^ Metcalf & Metcalf 2006, tr. 231
- ^ a ă â b Metcalf & Metcalf 2006, tr. 265–266
- ^ United States Department of Agriculture
- ^ Metcalf & Metcalf 2006, tr. 266–270
- ^ Metcalf & Metcalf 2006, tr. 253
- ^ Metcalf & Metcalf 2006, tr. 274
- ^ a ă Metcalf & Metcalf 2006, tr. 247–248
- ^ Metcalf & Metcalf 2006, tr. 293–295
- ^ a ă â Ali & Aitchison 2005
- ^ Dikshit & Schwartzberg, tr. 7
- ^ Prakash et al. 2000
- ^ Dikshit & Schwartzberg, tr. 11
- ^ Dikshit & Schwartzberg, tr. 8
- ^ Dikshit & Schwartzberg, tr. 9–10
- ^ Ministry of Information and Broadcasting 2007, tr. 1
- ^ a ă Kumar và đồng nghiệp 2006
- ^ Dikshit & Schwartzberg, tr. 15
- ^ Duff 1993, tr. 353
- ^ Dikshit & Schwartzberg, tr. 16
- ^ Dikshit & Schwartzberg, tr. 17
- ^ Dikshit & Schwartzberg, tr. 12
- ^ Dikshit & Schwartzberg, tr. 13
- ^ a ă Chang 1967, tr. 391–394
- ^ Posey 1994, tr. 118
- ^ Wolpert 2003, tr. 4
- ^ Heitzman & Worden 1996, tr. 97
- ^ Environmental Issues, Law and Technology – An Indian Perspective. Ramesha Chandrappa và Ravi.D.R, Research India Publication, Delhi, 2009, ISBN 978-81-904362-5-0
- ^ “The Little Green Data Book”. The World Bank. 2010.
- ^ “Environment Assessment, Country Data: India”. The World Bank. 2011.
- ^ Conservation International 2007
- ^ Zoological Survey of India 2012, tr. 1
- ^ a ă Puri
- ^ Basak 1983, tr. 24
- ^ a ă Tritsch 2001
- ^ Fisher 1995, tr. 434
- ^ Crame & Owen 2002, tr. 142
- ^ Karanth 2006
- ^ Mace 1994, tr. 4
- ^ Ministry of Environments and Forests 1972
- ^ Department of Environment and Forests 1988
- ^ Ministry of Environment and Forests
- ^ Secretariat of the Convention on Wetlands
- ^ United Nations Population Division
- ^ Burnell & Calvert 1999, tr. 125
- ^ Election Commission of India
- ^ Sarkar 2007, tr. 84
- ^ Chander 2004, tr. 117
- ^ Bhambhri 1992, tr. 118, 143
- ^ The Hindu 2008
- ^ Dunleavy, Diwakar & Dunleavy 2007
- ^ Kulke & Rothermund 2004, tr. 384
- ^ Business Standard 2009
- ^ DNA 2014
- ^ Pylee & 2003 a, tr. 4
- ^ Dutt 1998, tr. 421
- ^ Wheare 1980, tr. 28
- ^ Echeverri-Gent 2002, tr. 19–20
- ^ Sinha 2004, tr. 25
- ^ “In RTI reply, Centre says India has no national game”. Truy cập 4 tháng 8 năm 2012.
- ^ a ă Sharma 2007, tr. 31
- ^ Sharma 2007, tr. 138
- ^ Gledhill 1970, tr. 112
- ^ a ă Sharma 1950
- ^ a ă Sharma 2007, tr. 162
- ^ Mathew 2003, tr. 524
- ^ Gledhill 1970, tr. 127
- ^ Sharma 2007, tr. 161
- ^ Sharma 2007, tr. 143
- ^ Sharma 2007, tr. 360
- ^ a ă Neuborne 2003, tr. 478
- ^ Sharma 2007, tr. 238, 255
- ^ Sripati 1998, tr. 423–424
- ^ Pylee & 2003 b, tr. 314
- ^ a ă â b c Library of Congress 2004
- ^ Sharma 2007, tr. 49
- ^ Rothermund 2000, tr. 48, 227
- ^ Gilbert 2002, tr. 486–487
- ^ Sharma 1999, tr. 56
- ^ Alford 2008
- ^ Ghosh 2009, tr. 282–289
- ^ Sisodia & Naidu 2005, tr. 1–8
- ^ Perkovich 2001, tr. 60–86, 106–125
- ^ Kumar 2010
- ^ Nair 2007
- ^ Pandit 2009
- ^ a ă The Hindu 2011
- ^ Europa 2008
- ^ The Times of India 2008
- ^ British Broadcasting Corporation 2009
- ^ Rediff 2008 a
- ^ Reuters 2010
- ^ Curry 2010
- ^ Ripsman & Paul 2010, tr. 130
- ^ a ă â Central Intelligence Agency
- ^ Behera 2011
- ^ Behera 2012
- ^ Stockholm International Peace Research Institute 2008, tr. 178
- ^ a ă Miglani 2011
- ^ Shukla 2011
- ^ Stockholm International Peace Research Initiative 2012
- ^ International Monetary Fund 2011, tr. 2
- ^ Nayak, Goldar & Agrawal 2010, tr. xxv
- ^ International Monetary Fund
- ^ Wolpert 2003, tr. xiv
- ^ a ă Gargan 1992
- ^ Alamgir 2008, tr. 23, 97
- ^ WTO 1995
- ^ The Times of India 2009
- ^ World Trade Organisation 2010
- ^ Economist 2011
- ^ Bonner 2010
- ^ a ă Farrell & Beinhocker 2007
- ^ Schwab 2010
- ^ Sheth 2009
- ^ Telecom Regulatory Authority 2012
- ^ Natasha Lomas (26 tháng 6 năm 2013). “India Passes Japan To Become Third Largest Global Smartphone Market, After China & U.S.”. TechCrunch. AOL Inc. Truy cập 27 tháng 6 năm 2013.
- ^ Business Line 2010
- ^ Express India 2009
- ^ Yep 2011
- ^ Nasscom 2011–2012
- ^ Vishal Dutta, ET Bureau (10 tháng 7 năm 2012). “Indian biotech industry at critical juncture, global biotech stabilises: Report”. Economic Times. Truy cập 31 tháng 10 năm 2012.
- ^ World Bank 2006
- ^ World Bank a
- ^ Social Statistics Division. “Children in India 2012: A Statistical Appraisal”. Central Statistics Office, Government of India. tr. 10–11. Truy cập 2 tháng 9 năm 2013.
- ^ Pal & Ghosh 2007
- ^ Transparency International 2010
- ^ International Monetary Fund 2011
- ^ Ministry of Home Affairs 2010–2011 b
- ^ “Census Population” (PDF). Census of India. Ministry of Finance India.
- ^ Rorabacher 2010, tr. 35–39
- ^ World Health Organisation 2006
- ^ Robinson 2008
- ^ Dev & Rao 2009, tr. 329
- ^ a ă Garg 2005
- ^ Dyson & Visaria 2005, tr. 115–129
- ^ Ratna 2007, tr. 271–272
- ^ Skolnik 2008, tr. 36
- ^ Singh 2004, tr. 106
- ^ Dharwadker 2010, tr. 168–194, 186
- ^ Ottenheimer 2008, tr. 303
- ^ Mallikarjun 2004
- ^ Ministry of Home Affairs 1960
- ^ Bonner 1990, tr. 81
- ^ Ministry of Home Affairs 2010–2011
- ^ Global Muslim population estimated at 1.57 billion. The Hindu (8 tháng 10 năm 2009)
- ^ India Chapter Summary 2012
- ^ Kuiper 2010, tr. 15
- ^ a ă Heehs 2002, tr. 2–5
- ^ Deutsch 1969, tr. 3, 78
- ^ Nakamura 1999
- ^ Kuiper 2010, tr. 296–329
- ^ Silverman 2007, tr. 20
- ^ Kumar 2000, tr. 5
- ^ Roberts 2004, tr. 73
- ^ Lang & Moleski 2010, tr. 151–152
- ^ United Nations Educational, Scientific, and Cultural Organisation
- ^ Chopra 2011, tr. 46
- ^ Hoiberg & Ramchandani 2000
- ^ Sarma 2009
- ^ Johnson 2008
- ^ MacDonell 2004, tr. 1–40
- ^ Kālidāsa & Johnson 2001
- ^ Zvelebil 1997, tr. 12
- ^ Hart 1975
- ^ Encyclopædia Britannica 2008
- ^ Ramanujan 1985, tr. ix–x
- ^ Das 2005
- ^ Datta 2006
- ^ Massey & Massey 1998
- ^ Encyclopædia Britannica b
- ^ Lal 2004, tr. 23, 30, 235
- ^ Karanth 2002, tr. 26
- ^ Dissanayake & Gokulsing 2004
- ^ Rajadhyaksha & Willemen 1999
- ^ The Economic Times
- ^ Kaminsky & Long 2011, tr. 684–692
- ^ Mehta 2008, tr. 1–10
- ^ Media Research Users Council 2012
- ^ Schwartzberg 2011
- ^ World Bank 2011
- ^ Rawat 2011, tr. 3
- ^ Wolpert 2003, tr. 126
- ^ Messner 2009, tr. 51-53
- ^ Messner 2012, tr. 27-28
- ^ Makar 2007
- ^ a ă Medora 2003
- ^ Jones & Ramdas 2005, tr. 111
- ^ Cullen-Dupont 2009, tr. 96
- ^ Tarlo 1996, tr. xii, xii, 11, 15, 28, 46
- ^ Eraly 2008, tr. 160
- ^ Wolpert 2003, tr. 2
- ^ Rediff 2008 b
- ^ Binmore 2007, tr. 98
- ^ The Wall Street Journal 2009
- ^ British Broadcasting Corporation 2010 b
- ^ The Times of India 2010
- ^ British Broadcasting Corporation 2010 a
- ^ Mint 2010
- ^ Xavier 2010
- ^ Majumdar & Bandyopadhyay 2006, tr. 1–5
- ^ Dehejia 2011
Tham khảo
Tổng quan- “India”, The World Factbook (Cơ quan Tình báo Trung ương (Hoa Kỳ)), truy cập 4 tháng 10 năm 2011
- “Country Profile: India” (PDF), Library of Congress Country Studies (ấn bản 5) (Đơn vị Nghiên cứu Liên bang Thư viện Quốc hội Mỹ), Tháng 12 năm 2004, truy cập 30 tháng 9 năm 2011
- Heitzman, J.; Worden, R. L. (tháng 8 năm 1996), India: A Country Study, Area Handbook Series, Washington, D.C.: Library of Congress, ISBN 978-0-8444-0833-0
- India, Quỹ Tiền tệ Quốc tế, truy cập 14 tháng 10 năm 2011
- “Provisional Population Totals – Census 2011”, Office of the Registrar General and Census Commissioner (Bộ Nội chính Ấn Độ), 2011, truy cập 29 tháng 3 năm 2011
- “Constituent Assembly of India—Volume XII”, Constituent Assembly of India: Debates (Trung tâm Tin học Quốc gia (Ấn Độ)), 24 tháng 1 năm 1950, truy cập 17 tháng 7 năm 2011
- There's No National Language in India: Gujarat High Court, The Times Of India, 6 tháng 1 năm 2007, truy cập 17 tháng 7 năm 2011
- “Table 1: Human Development Index and its Components” (PDF), Human Development Report 2011, Liên Hiệp Quốc, 2011
- Hindustan, Encyclopædia Britannica, truy cập 17 tháng 7 năm 2011
- Kaye, A. S. (1 tháng 9 năm 1997), Phonologies of Asia and Africa, Eisenbrauns, ISBN 978-1-57506-019-4
- Kuiper, K. biên tập (tháng 7 năm 2010), Culture of India, Rosen Publishing Group, ISBN 978-1-61530-203-1
- Constitution of India (PDF), Bộ Pháp luật và Tư pháp Ấn Độ, 29 tháng 7 năm 2008, truy cập 3 tháng 3 năm 2012, ‘Article 1(1): "India, that is Bharat, shall be a Union of States."’
- “India”, Oxford English Dictionary, Oxford University Press, truy cập 17 tháng 7 năm 2011
- Asher, C. B.; Talbot, C (1 tháng 1 năm 2008), India Before Europe (ấn bản 1), Cambridge University Press, ISBN 978-0-521-51750-8
- Bose, S.; Jalal, A. (11 tháng 3 năm 2011), Modern South Asia: History, Culture, Political Economy (ấn bản 3), Routledge, ISBN 978-0-415-77942-5
- Brown, J. M. (26 tháng 5 năm 1994), Modern India: The Origins of an Asian Democracy, The Short Oxford History of the Modern World (ấn bản 2), Oxford University Press, ISBN 978-0-19-873113-9
- Copland, I. (8 tháng 10 năm 2001), India 1885–1947: The Unmaking of an Empire (ấn bản 1), Longman, ISBN 978-0-582-38173-5
- Kulke, H.; Rothermund, D. (1 tháng 8 năm 2004), A History of India, 4th, Routledge, ISBN 978-0-415-32920-0
- Ludden, D. (13 tháng 6 năm 2002), India and South Asia: A Short History, One World Media, ISBN 978-1-85168-237-9
- Metcalf, B.; Metcalf, T. R. (9 tháng 10 năm 2006), A Concise History of Modern India (ấn bản 2), Cambridge University Press, ISBN 978-0-521-68225-1
- Peers, D. M. (3 tháng 8 năm 2006), India under Colonial Rule 1700–1885 (ấn bản 1), Pearson Longman, ISBN 978-0-582-31738-3
- Petraglia, Michael D.; Allchin, Bridget (2007), “Human evolution and culture change in the Indian subcontinent”, trong Michael Petraglia, Bridget Allchin, The Evolution and History of Human Populations in South Asia: Inter-disciplinary Studies in Archaeology, Biological Anthropology, Linguistics and Genetics, Springer, ISBN 978-1-4020-5562-1
- Possehl, G. (tháng 1 năm 2003), The Indus Civilization: A Contemporary Perspective, Rowman Altamira, ISBN 978-0-7591-0172-2
- Robb, P. (2001), A History of India, London: Palgrave, ISBN 978-0-333-69129-8
- Sarkar, S. (1983), Modern India: 1885–1947, Delhi: Macmillan India, ISBN 978-0-333-90425-1
- Singh, U. (2009), A History of Ancient and Medieval India: From the Stone Age to the 12th Century, Delhi: Longman, ISBN 978-81-317-1677-9
- Sripati, V. (1998), “Toward Fifty Years of Constitutionalism and Fundamental Rights in India: Looking Back to See Ahead (1950–2000)”, American University International Law Review 14 (2): 413–496
- Stein, B. (16 tháng 6 năm 1998), A History of India (ấn bản 1), Oxford: Wiley-Blackwell, ISBN 978-0-631-20546-3
- Stein, B. (27 tháng 4 năm 2010), trong Arnold, D., A History of India (ấn bản 2), Oxford: Wiley-Blackwell, ISBN 978-1-4051-9509-6
- “Briefing Rooms: India”, Economic Research Service (Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ), 17 tháng 12 năm 2009
- Thapar, Romila (2003), Penguin history of early India: from the origins to A.D.1300, Penguin Books, truy cập 13 tháng 2 năm 2012
- Witzel, Michael (2003), “Vedas and Upanișads”, trong Gavin D. Flood, The Blackwell companion to Hinduism, John Wiley & Sons, ISBN 978-0-631-21535-6, truy cập 15 tháng 3 năm 2012
- Wolpert, S. (25 tháng 12 năm 2003), A New History of India (ấn bản 7), Oxford University Press, ISBN 978-0-19-516678-1
- Ali, J. R.; Aitchison, J. C. (2005), “Greater India”, Earth-Science Reviews 72 (3–4): 170–173, doi:10.1016/j.earscirev.2005.07.005
- Chang, J. H. (1967), “The Indian Summer Monsoon”, Geographical Review 57 (3): 373–396, doi:10.2307/212640
- Forest (Conservation) Act, 1980 with Amendments Made in 1988 (PDF), Bộ Môi trường và Lâm nghiệp Quần đảo Andaman và Nicobar, 1988, truy cập 25 tháng 7 năm 2011
- Dikshit, K. R.; Schwartzberg, Joseph E., Land, “India”, Encyclopædia Britannica: 1–29
- Duff, D. (29 tháng 10 năm 1993), Holmes Principles of Physical Geology (ấn bản 4), Routledge, ISBN 978-0-7487-4381-0
- Kumar, V. S.; Pathak, K. C.; Pednekar, P.; Raju, N. S. N. (2006), “Coastal processes along the Indian coastline” (PDF), Current Science 91 (4): 530–536
- India Yearbook 2007, New Delhi: Cục Xuất bản, Bộ Thông tin và Truyền thông Ấn Độ, 2007, ISBN 978-81-230-1423-4
- Posey, C. A. (1 tháng 11 năm 1994), The Living Earth Book of Wind and Weather, Reader's Digest, ISBN 978-0-89577-625-9
- Prakash, B.; Kumar, S.; Rao, M. S.; Giri, S. C. (2000), “Holocene Tectonic Movements and Stress Field in the Western Gangetic Plains” (PDF), Current Science 79 (4): 438–449
- Ali, S.; Ripley, S. D.; Dick, J. H. (15 tháng 8 năm 1996), A Pictorial Guide to the Birds of the Indian Subcontinent (ấn bản 2), Mumbai: Oxford University Press, ISBN 978-0-19-563732-8
- Animal Discoveries 2011: New Species and New Records (PDF), Zoological Survey of India, 2012, truy cập 20 tháng 7 năm 2012
- Basak, R. K. (1983), Botanical Survey of India: Account of Its Establishment, Development, and Activities, truy cập 20 tháng 7 năm 2011
- “Hotspots by Region”, Biodiversity Hotspots (Conservation International), 2007, Bản gốc lưu trữ 11 tháng 8 năm 2010, truy cập 28 tháng 2 năm 2011
- Crame, J. A.; Owen, A. W. (1 tháng 8 năm 2002), Palaeobiogeography and Biodiversity Change: The Ordovician and Mesozoic–Cenozoic Radiations, Geological Society Special Publication (194), Học hội Địa chất Luân Đôn, ISBN 978-1-86239-106-2, truy cập 8 tháng 12 năm 2011
- Fisher, W. F. (tháng 1 năm 1995), Toward Sustainable Development?: Struggling over India's Narmada River, Columbia University Seminars, M. E. Sharpe, ISBN 978-1-56324-341-7
- Griffiths, M. (6 tháng 7 năm 2010), The Lotus Quest: In Search of the Sacred Flower, St. Martin's Press, ISBN 978-0-312-64148-1
- Karanth, K. P. (25 tháng 3 năm 2006), “Out-of-India Gondwanan Origin of Some Tropical Asian Biota” (PDF), Current Science (Học viện Khoa học Ấn Độ) 90 (6): 789–792, truy cập 18 tháng 5 năm 2011
- Mace, G. M. (tháng 3 năm 1994), “1994 IUCN Red List of Threatened Animals”, World Conservation Monitoring Centre (Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế), ISBN 978-2-8317-0194-3
- “Biosphere Reserves of India”, C. P. R. Environment Education Centre (Bộ Môi trường và Lâm nghiệp Ấn Độ), truy cập 17 tháng 7 năm 2011
- Indian Wildlife (Protection) Act, 1972, Bộ Môi trường và Lâm nghiệp Ấn Độ, 9 tháng 9 năm 1972, truy cập 25 tháng 7 năm 2011
- Puri, S. K., Biodiversity Profile of India, truy cập 20 tháng 6 năm 2007
- The List of Wetlands of International Importance (PDF), Ban Thư ký Công ước về Đất ngập nước, 4 tháng 6 năm 2007, tr. 18, Bản gốc lưu trữ 21 tháng 6 năm 2007, truy cập 20 tháng 6 năm 2007
- Tritsch, M. F. (3 tháng 9 năm 2001), Wildlife of India, London: HarperCollins, ISBN 978-0-00-711062-9
- Bhambhri, C. P. (1 tháng 5 năm 1992), Politics in India, 1991–1992, Shipra, ISBN 978-81-85402-17-8, truy cập 20 tháng 7 năm 2011
- Burnell, P. J.; Calvert, P. (1 tháng 5 năm 1999), The Resilience of Democracy: Persistent Practice, Durable Idea (ấn bản 1), Taylor & Francis, ISBN 978-0-7146-8026-2, truy cập 20 tháng 7 năm 2011
- Second UPA Win, A Crowning Glory for Sonia's Ascendancy, Business Standard, 16 tháng 5 năm 2009, truy cập 13 tháng 6 năm 2009
- Chander, N. J. (1 tháng 1 năm 2004), Coalition Politics: The Indian Experience, Concept Publishing Company, ISBN 978-81-8069-092-1, truy cập 20 tháng 7 năm 2011
- Dunleavy, P.; Diwakar, R.; Dunleavy, C. (2007), The Effective Space of Party Competition (PDF) (5), Trường Kinh tế và Khoa học Chính trị Luân Đôn, truy cập 27 tháng 9 năm 2011
- Dutt, S. (1998), “Identities and the Indian State: An Overview”, Third World Quarterly 19 (3): 411–434, doi:10.1080/01436599814325
- Echeverri-Gent, J. (tháng 1 năm 2002), “Politics in India's Decentred Polity”, trong Ayres, A.; Oldenburg, P., Quickening the Pace of Change, India Briefing, London: M. E. Sharpe, tr. 19–53, ISBN 978-0-7656-0812-3
- “Current Recognised Parties” (PDF), Election Commission of India, 14 tháng 3 năm 2009, truy cập 5 tháng 7 năm 2010
- Gledhill, A. (30 tháng 3 năm 1970), The Republic of India: The Development of its Laws and Constitution, Greenwood, ISBN 978-0-8371-2813-9, truy cập 21 tháng 7 năm 2011
- Narasimha Rao Passes Away, The Hindu, 24 tháng 12 năm 2004, truy cập 2 tháng 11 năm 2008
- Mathew, K. M. (1 tháng 1 năm 2003), Manorama Yearbook, Malayala Manorama, ISBN 978-81-900461-8-3, truy cập 21 tháng 7 năm 2011
- “National Symbols of India”, Know India (Trung tâm Tin học Quốc gia (Ấn Độ)), truy cập 27 tháng 9 năm 2009
- Neuborne, B. (2003), “The Supreme Court of India”, International Journal of Constitutional Law 1 (1): 476–510, doi:10.1093/icon/1.3.476
- Pylee, M. V. (2003), “The Longest Constitutional Document”, Constitutional Government in India (ấn bản 2), S. Chand, ISBN 978-81-219-2203-6
- Pylee, M. V. (2003), “The Union Judiciary: The Supreme Court”, Constitutional Government in India (ấn bản 2), S. Chand, ISBN 978-81-219-2203-6, truy cập 2 tháng 11 năm 2007
- Sarkar, N. I. (1 tháng 1 năm 2007), Sonia Gandhi: Tryst with India, Atlantic, ISBN 978-81-269-0744-1, truy cập 20 tháng 7 năm 2011
- Sharma, R. (1950), “Cabinet Government in India”, Parliamentary Affairs 4 (1): 116–126
- Sharma, B. K. (tháng 8 năm 2007), Introduction to the Constitution of India (ấn bản 4), Prentice Hall, ISBN 978-81-203-3246-1
- Sinha, A. (2004), “The Changing Political Economy of Federalism in India”, India Review 3 (1): 25–63, doi:10.1080/14736480490443085
- World's Largest Democracy to Reach One Billion Persons on Independence Day, Cơ quan Dân số Liên Hiệp Quốc, truy cập 5 tháng 10 năm 2011
- Wheare, K. C. (tháng 6 năm 1980), Federal Government (ấn bản 4), Oxford University Press, ISBN 978-0-313-22702-8
- “BJP first party since 1984 to win parliamentary majority on its own”, DNA, IANS, 16 tháng 5 năm 2014, truy cập ngày 20 tháng 5 năm 2014
- Alford, P. (7 tháng 7 năm 2008), G8 Plus 5 Equals Power Shift, The Australian, truy cập 21 tháng 11 năm 2009
- Behera, L. K. (7 tháng 3 năm 2011), Budgeting for India's Defence: An Analysis of Defence Budget 2011–2012, Học viện Nghiên cứu và Phân tích Quốc phòng, truy cập 4 tháng 4 năm 2011
- Behera, L. K. (20 tháng 3 năm 2012), India's Defence Budget 2012–13, Học viện Nghiên cứu và Phân tích Quốc phòng, truy cập 26 tháng 3 năm 2012
- “Russia Agrees India Nuclear Deal”, BBC News (BBC), 11 tháng 2 năm 2009, truy cập 22 tháng 8 năm 2010
- Curry, B. (27 tháng 6 năm 2010), Canada Signs Nuclear Deal with India, The Globe and Mail, truy cập 13 tháng 5 năm 2011
- “India, Europe Strategic Relations”, Europa: Summaries of EU Legislation (Liên minh châu Âu), 8 tháng 4 năm 2008, truy cập 14 tháng 1 năm 2011
- Ghosh, A. (1 tháng 9 năm 2009), India's Foreign Policy, Pearson, ISBN 978-81-317-1025-8
- Gilbert, M. (17 tháng 12 năm 2002), A History of the Twentieth Century, William Morrow, ISBN 978-0-06-050594-3, truy cập 22 tháng 7 năm 2011
- India, Russia Review Defence Ties, The Hindu, 5 tháng 10 năm 2009, truy cập 8 tháng 10 năm 2011
- Kumar, A. V. (1 tháng 5 năm 2010), “Reforming the NPT to Include India”, Bulletin of Atomic Scientists, truy cập 1 tháng 11 năm 2010
- Miglani, S. (28 tháng 2 năm 2011), With An Eye on China, India Steps Up Defence Spending, Reuters, truy cập 6 tháng 7 năm 2011
- Nair, V. K. (2007), No More Ambiguity: India's Nuclear Policy (PDF), Bản gốc lưu trữ 27 tháng 9 năm 2007, truy cập 7 tháng 6 năm 2007
- Pandit, R. (27 tháng 7 năm 2009), N-Submarine to Give India Crucial Third Leg of Nuke Triad, The Times of India, truy cập 10 tháng 3 năm 2010
- Perkovich, G. (5 tháng 11 năm 2001), India's Nuclear Bomb: The Impact on Global Proliferation, University of California Press, ISBN 978-0-520-23210-5, truy cập 22 tháng 7 năm 2011
- India, France Agree on Civil Nuclear Cooperation, Rediff, 25 tháng 1 năm 2008, truy cập 22 tháng 8 năm 2010
- UK, India Sign Civil Nuclear Accord, Reuters, 13 tháng 2 năm 2010, truy cập 22 tháng 8 năm 2010
- Ripsman, N. M.; Paul, T. V. (18 tháng 3 năm 2010), Globalization and the National Security State, Oxford University Press, ISBN 978-0-19-539390-3, truy cập 22 tháng 7 năm 2011
- Rothermund, D. (17 tháng 10 năm 2000), The Routledge Companion to Decolonization, Routledge Companions to History (ấn bản 1), Routledge, ISBN 978-0-415-35632-9
- India Gets Its First Homegrown Fighter Jet, RIA Novosti, 10 tháng 1 năm 2011, truy cập 1 tháng 4 năm 2009
- Sharma, S. R. (1 tháng 1 năm 1999), India–USSR Relations 1947–1971: From Ambivalence to Steadfastness 1, Discovery, ISBN 978-81-7141-486-4
- Shukla, A. (5 tháng 3 năm 2011), China Matches India's Expansion in Military Spending, Business Standard, truy cập 6 tháng 7 năm 2011
- Sisodia, N. S.; Naidu, G. V. C. (2005), Changing Security Dynamic in Eastern Asia: Focus on Japan, Promilla, ISBN 978-81-86019-52-8
- “SIPRI Yearbook 2008: Armaments, Disarmament, and International Security”, Stockholm International Peace Research Institute (Oxford University Press), 8 tháng 8 năm 2008, ISBN 978-0-19-954895-8, truy cập 22 tháng 7 năm 2011
- “Rise in international arms transfers is driven by Asian demand, says SIPRI”, Stockholm International Peace Research Initiative, 19 tháng 3 năm 2012, Bản gốc lưu trữ 13 tháng 1 năm 2013, truy cập 26 tháng 3 năm 2012
- India, US Sign 123 Agreement, The Times of India, 11 tháng 10 năm 2008, truy cập 21 tháng 7 năm 2011
- Alamgir, J. (24 tháng 12 năm 2008), India's Open-Economy Policy: Globalism, Rivalry, Continuity, Taylor & Francis, ISBN 978-0-415-77684-4, truy cập 23 tháng 7 năm 2011
- Bonner, B (20 tháng 3 năm 2010), Make Way, World. India Is on the Move, The Christian Science Monitor, truy cập 23 tháng 7 năm 2011
- “India Lost $462bn in Illegal Capital Flows, Says Report”, BBC News (BBC), 18 tháng 11 năm 2010, truy cập 23 tháng 7 năm 2011
- “India Second Fastest Growing Auto Market After China”, Business Line, 9 tháng 4 năm 2010, truy cập 23 tháng 7 năm 2011
- Drèze, Jean; Sen, Amartya (2013), An Uncertain Glory: India and Its Contradictions, Allen Lane
- India's Economy: Not Just Rubies and Polyester Shirts, The Economist, 8 tháng 10 năm 2011, truy cập 9 tháng 10 năm 2011
- “Indian Car Exports Surge 36%”, Express India, 13 tháng 10 năm 2009, Bản gốc lưu trữ 2 tháng 1 năm 2013, truy cập 23 tháng 7 năm 2011
- Report for Selected Countries and Subjects: India, Indonesia, Islamic Republic of Iran, Malaysia, Philippines, Sri Lanka, Thailand, Quỹ Tiền tệ Quốc tế, Tháng 4 năm 2011, truy cập 23 tháng 7 năm 2011
- Farrell, D.; Beinhocker, E. (19 tháng 5 năm 2007), Next Big Spenders: India's Middle Class, McKinsey & Company, truy cập 17 tháng 9 năm 2011
- Gargan, E. A. (15 tháng 8 năm 1992), India Stumbles in Rush to a Free Market Economy, The New York Times, truy cập 22 tháng 7 năm 2011
- World Economic Outlook Update (PDF), Quỹ Tiền tệ Quốc tế, Tháng 6 năm 2011, truy cập 22 tháng 7 năm 2011
- Nayak, P. B.; Goldar, B.; Agrawal, P. (10 tháng 11 năm 2010), India's Economy and Growth: Essays in Honour of V. K. R. V. Rao, SAGE Publications, ISBN 978-81-321-0452-0
- Pal, P.; Ghosh, J (tháng 7 năm 2007), “Inequality in India: A Survey of Recent Trends” (PDF), Economic and Social Affairs: DESA Working Paper No. 45 (Liên Hiệp Quốc), truy cập 23 tháng 7 năm 2011
- The World in 2050: The Accelerating Shift of Global Economic Power: Challenges and Opportunities (PDF), PricewaterhouseCoopers, 1 tháng 1 năm 2011, truy cập 23 tháng 7 năm 2011
- Schwab, K. (2010), The Global Competitiveness Report 2010–2011 (PDF), World Economic Forum, truy cập 10 tháng 5 năm 2011
- Sheth, N. (28 tháng 5 năm 2009), “Outlook for Outsourcing Spending Brightens”, The Wall Street Journal, truy cập 3 tháng 10 năm 2010
- Srivastava, V. C. (2008), “Introduction”, trong V.C. Srivastava, Lallanji Gopal, D.P. Chattopadhyaya, History of Agriculture in India (p to c1200 AD), History of Science, Philosophy and Culture In Indian Civization, V (Part 1), Concept Publishing Co, ISBN 8180695212
- Information Note to the Press (Press Release No. 143/2012) (PDF), Telecom Regulatory Authority of India, 4 tháng 7 năm 2012, truy cập 1 tháng 4 năm 2012
- Exporters Get Wider Market Reach, The Times of India, 28 tháng 8 năm 2009, truy cập 23 tháng 7 năm 2011
- Corruption Perception Index 2010—India Continues to be Corrupt (PDF), Transparency International, 26 tháng 10 năm 2011, truy cập 23 tháng 7 năm 2011
- New Global Poverty Estimates—What It Means for India, Ngân hàng Thế giới, truy cập 23 tháng 7 năm 2011
- “India: Undernourished Children—A Call for Reform and Action”, Ngân hàng Thế giới, truy cập 23 tháng 7 năm 2011
- Inclusive Growth and Service Delivery: Building on India's Success (PDF), Ngân hàng Thế giới, 29 tháng 5 năm 2006, truy cập 7 tháng 5 năm 2009
- India Country Overview tháng 9 năm 2010, Ngân hàng Thế giới, Tháng 9 năm 2010, truy cập 23 tháng 7 năm 2011
- Trade to Expand by 9.5% in 2010 After a Dismal 2009, WTO Reports, Tổ chức Thương mại Thế giới, 26 tháng 3 năm 2010, truy cập 23 tháng 7 năm 2011
- Yep, E. (27 tháng 9 năm 2011), ReNew Wind Power Gets $201 Million Goldman Investment, The Wall Street Journal, truy cập 27 tháng 9 năm 2011
- Indian IT-BPO Industry, NASSCOM, 2011-2012, truy cập 22 tháng 6 năm 2012
- UNDERSTANDING THE WTO: THE ORGANIZATION Members and Observers, WTO, 1995, truy cập 23 tháng 6 năm 2012
- Bonner, A. (1990), Averting the Apocalypse: Social Movements in India Today, Duke University Press, ISBN 978-0-8223-1048-8, truy cập 24 tháng 7 năm 2011
- Dev, S. M.; Rao, N. C. (2009), India: Perspectives on Equitable Development, Academic Foundation, ISBN 978-81-7188-685-2
- Dharwadker, A. (28 tháng 10 năm 2010), “Representing India's Pasts: Time, Culture, and Problems of Performance Historiography”, trong Canning, C. M.; Postlewait, T., Representing the Past: Essays in Performance Historiography, University of Iowa Press, ISBN 978-1-58729-905-6, truy cập 24 tháng 7 năm 2011
- Drèze, J.; Goyal, A. (9 tháng 2 năm 2009), “The Future of Mid-Day Meals”, trong Baru, R. V., School Health Services in India: The Social and Economic Contexts, SAGE Publications, ISBN 978-81-7829-873-3
- Dyson, T.; Visaria, P. (7 tháng 7 năm 2005), “Migration and Urbanisation: Retrospect and Prospects”, trong Dyson, T.; Casses, R.; Visaria, L., Twenty-First Century India: Population, Economy, Human Development, and the Environment, Oxford University Press, ISBN 978-0-19-928382-8
- Garg, S. C. (19 tháng 4 năm 2005), Mobilizing Urban Infrastructure Finance in India (PDF), Ngân hàng Thế giới, truy cập 27 tháng 1 năm 2010
- Mallikarjun, B (tháng 11 năm 2004), “Fifty Years of Language Planning for Modern Hindi—The Official Language of India”, Language in India 4 (11), ISSN 19302940, truy cập 24 tháng 7 năm 2011
- Notification No. 2/8/60-O.L, Bộ Nội chính Ấn Độ, 27 tháng 4 năm 1960, truy cập 13 tháng 5 năm 2011
- “Religious Composition”, Office of the Registrar General and Census Commissioner (Bộ Nội chính Ấn Độ), 2010–2011, truy cập 23 tháng 7 năm 2011
- “Census Data 2001”, Office of the Registrar General and Census Commissioner (Bộ Nội chính Ấn Độ), 2010–2011, truy cập 22 tháng 7 năm 2011
- Ottenheimer, H. J. (2008), The Anthropology of Language: An Introduction to Linguistic Anthropology, Cengage, ISBN 978-0-495-50884-7
- Ratna, U. (2007), “Interface Between Urban and Rural Development in India”, trong Dutt, A. K.; Thakur, B, City, Society, and Planning 1, Concept, ISBN 978-81-8069-459-2
- Robinson, S. (1 tháng 5 năm 2008), “India's Medical Emergency”, Time, truy cập 23 tháng 7 năm 2011
- Rorabacher, J. A. (2010), Hunger and Poverty in South Asia, Gyan, ISBN 978-81-212-1027-0
- Singh, S. (2004), Library and Literacy Movement for National Development, Concept, ISBN 978-81-8069-065-5
- Skolnik, R. L. (2008), Essentials of Global Health, Jones & Bartlett Learning, ISBN 978-0-7637-3421-3
- Country Cooperation Strategy: India (PDF), Tổ chức Y tế Thế giới, Tháng 11 năm 2006, truy cập 23 tháng 7 năm 2011
- Binmore, K. G. (27 tháng 3 năm 2007), Playing for Real: A Text on Game Theory, Oxford University Press, ISBN 978-0-19-530057-4
- Bladholm, L. (12 tháng 8 năm 2000), The Indian Grocery Store Demystified (ấn bản 1), Macmillan Publishers, ISBN 978-1-58063-143-3
- “Saina Nehwal: India's Badminton Star and "New Woman"”, BBC News, 1 tháng 8 năm 2010, truy cập 5 tháng 10 năm 2010
- “Commonwealth Games 2010: India Dominate Shooting Medals”, BBC News, 7 tháng 10 năm 2010, truy cập 3 tháng 6 năm 2011
- Chopra, P. (18 tháng 3 năm 2011), A Joint Enterprise: Indian Elites and the Making of British Bombay, University of Minnesota Press, ISBN 978-0-8166-7037-6
- Cullen-Dupont, K. (tháng 7 năm 2009), Human Trafficking (ấn bản 1), Infobase Publishing, ISBN 978-0-8160-7545-4
- Das, S. K. (1 tháng 1 năm 2005), A History of Indian Literature, 500–1399: From Courtly to the Popular, Sahitya Akademi, ISBN 978-81-260-2171-0
- Datta, A. (2006), The Encyclopaedia of Indian Literature 2, Sahitya Akademi, ISBN 978-81-260-1194-0
- Dehejia, R. S. (7 tháng 11 năm 2011), “Indian Grand Prix Vs. Encephalitis?”, The Wall Street Journal, truy cập 20 tháng 12 năm 2011
- Deutsch, E. (30 tháng 4 năm 1969), Advaita Vedānta: A Philosophical Reconstruction, University of Hawaii Press, ISBN 978-0-8248-0271-4
- Dissanayake, W. K.; Gokulsing, M. (tháng 5 năm 2004), Indian Popular Cinema: A Narrative of Cultural Change (ấn bản 2), Trentham Books, ISBN 978-1-85856-329-9
- Southern Movies Account for over 75% of Film Revenues, The Economic Times, 18 tháng 11 năm 2009, truy cập 18 tháng 6 năm 2011
- Indian Dance, “South Asian Arts”, Encyclopædia Britannica, truy cập 17 tháng 7 năm 2011
- “Tamil Literature”, Encyclopædia Britannica, 2008, truy cập 24 tháng 7 năm 2011
- Eraly, A. (2008), India, Penguin Books, ISBN 978-0-7566-4952-4, truy cập 24 tháng 7 năm 2011
- Hart, G. L. (tháng 8 năm 1975), Poems of Ancient Tamil: Their Milieu and Their Sanskrit Counterparts (ấn bản 1), University of California Press, ISBN 978-0-520-02672-8
- Heehs, P. biên tập (1 tháng 9 năm 2002), Indian Religions: A Historical Reader of Spiritual Expression and Experience, New York University Press, ISBN 978-0-8147-3650-0, truy cập 24 tháng 7 năm 2011
- Henderson, C. E. (2002), Culture and Customs of India, Greenwood Publishing Group, ISBN 978-0-313-30513-9
- Hoiberg, D.; Ramchandani, I. (2000), Students' Britannica India: Select Essays, Popular Prakashan, ISBN 978-0-85229-762-9
- Johnson, W. J. biên tập (1 tháng 9 năm 2008), The Sauptikaparvan of the Mahabharata: The Massacre at Night, Oxford World's Classics (ấn bản 2), Oxford University Press, ISBN 978-0-19-282361-8
- Jones, G.; Ramdas, K. (2005), (Un)tying the Knot: Ideal and Reality in Asian Marriage, National University of Singapore Press, ISBN 978-981-05-1428-0
- Kālidāsa; Johnson, W. J. (15 tháng 11 năm 2001), The Recognition of Śakuntalā: A Play in Seven Acts, Oxford University Press, ISBN 978-0-19-283911-4
- Kaminsky, Arnold P.; Long, Roger D. (30 tháng 9 năm 2011), India Today: An Encyclopedia of Life in the Republic: An Encyclopedia of Life in the Republic, ABC-CLIO, ISBN 978-0-313-37462-3, truy cập 12 tháng 9 năm 2012</ref>
- Karanth, S. K. (tháng 10 năm 2002), Yakṣagāna, Abhinav Publications, ISBN 978-81-7017-357-1
- Kiple, K. F.; Ornelas, K. C. biên tập (2000), The Cambridge World History of Food, Cambridge: Cambridge University Press, ISBN 978-0-521-40216-3
- Kuiper, K. biên tập (1 tháng 7 năm 2010), The Culture of India, Britannica Educational Publishing, ISBN 978-1-61530-203-1, truy cập 24 tháng 7 năm 2011
- Kumar, V. (tháng 1 năm 2000), Vastushastra, All You Wanted to Know About Series (ấn bản 2), Sterling Publishing, ISBN 978-81-207-2199-9
- Lal, A. (2004), The Oxford Companion to Indian Theatre, Oxford University Press, ISBN 978-0-19-564446-3, truy cập 24 tháng 7 năm 2011
- Lang, J.; Moleski, W. (1 tháng 12 năm 2010), Functionalism Revisited, Ashgate Publishing, ISBN 978-1-4094-0701-0
- MacDonell, A. A. (2004), A History of Sanskrit Literature, Kessinger Publishing, ISBN 978-1-4179-0619-2
- Majumdar, B.; Bandyopadhyay, K. (2006), A Social History of Indian Football: Striving To Score, Routledge, ISBN 978-0-415-34835-5
- Makar, E. M. (2007), An American's Guide to Doing Business in India, Adams, ISBN 978-1-59869-211-2
- Massey, R.; Massey, J (1998), The Music of India, Abhinav Publications, ISBN 978-81-7017-332-8
- Medora, N. (2003), “Mate Selection in Contemporary India: Love Marriages Versus Arranged Marriages”, trong Hamon, R. R.; Ingoldsby, B. B., Mate Selection Across Cultures, SAGE Publications, tr. 209–230, ISBN 978-0-7619-2592-7
- Messner, W. (2009), Working with India. The Softer Aspects of a Successful Collaboration with the Indian IT & BPO Industry, Springer, ISBN 978-3-540-89077-5
- Messner, W. (2012), Engaging with India. How to Manage the Softer Aspects of a Global Collaboration, Createspace, ISBN 978-1-466244900
- “Indian Readership Survey 2012 Q1: Topline Findings” (PDF). Media Research Users Council. Growth: Literacy & Media Consumption. Truy cập 12 tháng 9 năm 2012.
- Mehta, Nalin (30 tháng 7 năm 2008), Television in India: Satellites, Politics and Cultural Change, Taylor & Francis US, ISBN 978-0-415-44759-1, truy cập 12 tháng 9 năm 2012
- Is Boxing the New Cricket?, Mint, 24 tháng 9 năm 2010, truy cập 5 tháng 10 năm 2010
- Nakamura, H. (1 tháng 4 năm 1999), Indian Buddhism: A Survey with Bibliographical Notes, Buddhist Tradition Series (ấn bản 12), Motilal Banarsidass, ISBN 978-81-208-0272-8
- Puskar-Pasewicz, M. (16 tháng 9 năm 2010), Cultural Encyclopedia of Vegetarianism, Greenwood Publishing Group, ISBN 978-0-313-37556-9
- Raghavan, S. (23 tháng 10 năm 2006), Handbook of Spices, Seasonings, and Flavorings (ấn bản 2), CRC Press, ISBN 978-0-8493-2842-8
- Raichlen, S. (10 tháng 5 năm 2011), A Tandoor Oven Brings India's Heat to the Backyard, The New York Times, truy cập 14 tháng 6 năm 2011
- Rajadhyaksha, A.; Willemen, P. biên tập (22 tháng 1 năm 1999), Encyclopaedia of Indian Cinema (ấn bản 2), British Film Institute, ISBN 978-0-85170-669-6
- Ramanujan, A. K. (dịch giả) (15 tháng 10 năm 1985), Poems of Love and War: From the Eight Anthologies and the Ten Long Poems of Classical Tamil, New York: Columbia University Press, tr. ix–x, ISBN 978-0-231-05107-1
- Rawat, Ramnarayan S (23 tháng 3 năm 2011), Reconsidering Untouchability: Chamars and Dalit History in North India, Indiana University Press, ISBN 978-0-253-22262-6
- Anand Crowned World Champion, Rediff, 29 tháng 10 năm 2008, truy cập 29 tháng 10 năm 2008
- Roberts, N. W. (12 tháng 7 năm 2004), Building Type Basics for Places of Worship (ấn bản 1), John Wiley & Sons, ISBN 978-0-471-22568-3
- Sarma, S. (1 tháng 1 năm 2009), A History of Indian Literature 1 (ấn bản 2), Motilal Banarsidass, ISBN 978-81-208-0264-3
- Schoenhals, M. (22 tháng 11 năm 2003), Intimate Exclusion: Race and Caste Turned Inside Out, University Press of America, ISBN 978-0-7618-2697-2
- Schwartzberg, J. (2011), Caste, “India”, Encyclopædia Britannica, truy cập 17 tháng 7 năm 2011
- Sen, A. (5 tháng 9 năm 2006), The Argumentative Indian: Writings on Indian History, Culture, and Identity (ấn bản 1), Picador, ISBN 978-0-312-42602-6
- Seymour, S.C. (28 tháng 1 năm 1999), Women, Family, and Child Care in India: A World in Transition, Cambridge University Press, ISBN 978-0-521-59884-2
- Silverman, S. (10 tháng 10 năm 2007), Vastu: Transcendental Home Design in Harmony with Nature, Gibbs Smith, ISBN 978-1-4236-0132-6
- Tarlo, E. (1 tháng 9 năm 1996), Clothing Matters: Dress and Identity in India (ấn bản 1), University of Chicago Press, ISBN 978-0-226-78976-7, truy cập 24 tháng 7 năm 2011
- Sawant Shoots Historic Gold at World Championships, The Times of India, 9 tháng 8 năm 2010, truy cập 25 tháng 5 năm 2011
- Taj Mahal, UNESCO, truy cập 3 tháng 3 năm 2012
- India Aims for Center Court, The Wall Street Journal, 11 tháng 9 năm 2009, truy cập 29 tháng 9 năm 2010
- Wengell, D. L.; Gabriel, N. (1 tháng 9 năm 2008), Educational Opportunities in Integrative Medicine: The A-to-Z Healing Arts Guide and Professional Resource Directory (ấn bản 1), The Hunter Press, ISBN 978-0-9776552-4-3
- “Intergenerational Mobility for Dalits Is Visible, Albeit Limited” (PDF). World Bank Report 2011. doi:10.1596/978-0-8213-8689-7. Truy cập 6 tháng 9 năm 2012.
- Xavier, L. (12 tháng 9 năm 2010), Sushil Kumar Wins Gold in World Wrestling Championship, The Times of India, truy cập 5 tháng 10 năm 2010
- Yadav, S. S.; McNeil, D.; Stevenson, P. C. (23 tháng 10 năm 2007), Lentil: An Ancient Crop for Modern Times, Springer, ISBN 978-1-4020-6312-1
- Zvelebil, K. V. (1 tháng 8 năm 1997), Companion Studies to the History of Tamil Literature, Brill Publishers, ISBN 978-90-04-09365-2
Liên kết ngoài
Tìm thêm về Ấn Độ tại những đồng dự án của Wikipedia: | |
Từ điển ở Wiktionary | |
Sách ở Wikibooks | |
Cẩm nang du lịch ở Wikivoyage | |
Hồ sơ ở Wikiquote | |
Văn kiện ở Wikisource | |
Hình ảnh và phương tiện ở Commons | |
Tin tức ở Wikinews | |
Tài liệu giáo dục ở Wikiversity |
- Cổng thông tin quốc gia của Chính phủ Ấn Độ
- Mục “India” trên trang của CIA World Factbook.
- Ấn Độ tại DMOZ (trang đề nghị)
- Sơ lược Ấn Độ từ BBC News
- Mục từ Ấn Độ trên Encyclopædia Britannica
- Ấn Độ trên Thư viện Thông tin Chính phủ UCB
|
|
|
Cộng hòa Nhân dân Mông Cổ
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
|
Bài viết này cần thêm chú thích để kiểm tra được tính xác thực. Hãy giúp hoàn thiện bài này bằng cách bổ sung các nguồn tham khảo tin cậy. Các nội dung không rõ nguồn có thể bị nghi ngờ và xóa bỏ. |
|
Mục lục
Thành lập
Một phần của loạt bài về |
Lịch sử Mông Cổ |
---|
Thời kỳ tiền Mông Cổ |
Hung Nô 209 TCN–155 |
Tiên Ti 93–234 |
Nhu Nhiên 330–555 |
Đột Quyết 552–744 |
Hồi Cốt 742–848 |
Kiên Côn 539–1219 |
Khiết Đan 916–1125 |
Thời kỳ trung đại |
Mông Ngột Quốc 1120–1206 |
Đế quốc Mông Cổ 1206–1271 |
Nguyên 1271–1368 |
Bắc Nguyên 1368–1636 |
Thanh trị 1636/1691–1911 |
Thời hiện đại |
Cách mạng Dân tộc 1911 |
Hãn quốc Bác Khắc Đa 1911–1924 |
Chiếm đóng 1919–1921 |
Cách mạng Nhân dân 1921 |
Cộng hòa Nhân dân 1924–1992 |
Cách mạng Dân chủ 1990 |
Mông Cổ hiện đại 1990–nay |
Củng cố quyền lực (1925 - 1938)
Từ năm 1925 đến 1928, chế độ mới được hình thành. Vào thời điểm này, Mông Cổ là nơi lạc hậu nhất tại chậu Á, đi sau phần còn lại của thế giới tới khoảng 200 năm. Công nghiệp không tồn tại và sự thịnh vượng do giới quý tộc và tăng lữ kiểm soát. Dân số ít hơn một triệu người và suy giảm do gần một nửa số đàn ông sống trong các tu viện Phật giáo. Năm 1928, Stalin ra lệnh tập thể hóa ngành nông nghiệp của Mông Cổ. Chính sách này dẫn đến các vấn đề trong nền kinh tế và giao thông vận tải, và nghiêm trọng hơn là đã xảy ra các cuộc nổi dậy ở phía tây và nam và chỉ có thể được dập tắt với sự trợ giúp của Hồng quân Liên Xô.[cần dẫn nguồn] Năm 1934, Pejidiin Genden viếng thăm Moskva và giận dữ kết tội Stalin là "đế quốc đỏ". Sau đó, ông đã chết trong Đại thanh trừng sau khi bị lừa đi nghỉ ở Hắc Hải. Sau năm 1932, người ta đã thu nhỏ quy mô thi hành nền kinh tế tập trung. Năm 1936, Stalin đã ra lệnh trừ khử các tổ chức Phật giáo tại Mông Cổ. Trong khi đó, cuộc xâm lược của người Nhật ở Mãn Châu là một biến cố khơi mào cho việc Liên Xô đưa các đội quân đến Mông Cổ. Đồng thời cuộc Đại thanh trừng đã ập đến Mông Cổ. Trong số những người bị giết chết có những nhân vật nổi bật như Peljidiin Genden, Anandyn Amar, Demid, và Losol. Sau khi loại bỏ Genden khỏi quyền lực, Khorloogiin Choibalsan, một người tin theo Joseph Stalin, đã lên nắm quyền. Các cuộc thành trừng đã loại bỏ gần như hoàn toàn Phật giáo Tây Tạng tại Mông Cổ, và dẫn đến việc mất đi 30.000-35.000 mạng sống,[3] tương đương 5% dân số Mông Cổ.Thế chiến II (1939-1945)
Trong Thế chiến II, do mối đe dọa đến từ Nhật Bản ngày càng tăng tại biên giới Mông Cổ-Mãn Châu Quốc, Liên Xô đã đảo ngược quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Mông Cổ với việc ủng hộ một chính sách kinh tế mới theo phương pháp tiệm tiến và xây dựng quốc phòng. Hồng quân Liên Xô và Mông Cổ đã đánh bại các lực lượng Nhật Bản xâm chiếm miền đông Mông Cổ vào mùa hè năm 1939 trong trận Khalkhin Gol, và thỏa thuận ngừng bắn đã được ký kết theo đó thiết lập nên một ủy ban để xác định biên giới Mông Cổ-Mãn Châu Quốc vào mùa thu năm đó.Sau năm 1941, kinh tế Mông Cổ đã được điều chỉnh để có thể hỗ trợ Liên Xô mọi cách có thể, bao gồm cả việc cung cấp tài trợ cho một số đơn vị quân đội Xô viết. Vào mùa hè năm 1945, Liên Xô đã sử dụng Mông Cổ làm căn cứ cho chiến dịch Mãn Châu và đã đánh bại được quân Nhật. Các hoạt động xây dựng trước đó đã đưa 650.000 lính Xô viết đến Mông Cổ cùng với một số lượng lớn thiết bị. Quân đội Nhân dân Mông Cổ đóng vai trò giới hạn trong xung đột, nhưng nó đã giúp Stalin có phương tiện để buộc phía Trung Quốc phải công nhận nền độc lập của Mông Cổ.
Hiệp ước Trung-Xô 1945 và Sự độc lập của Mông Cổ
Vào tháng 2 năm 1945, hội nghị Yalta đã quy định sự tham gia của Liên Xô trong chiến tranh Thái Bình Dương. Một trong số các điều kiện Liên Xô đưa ra để tham gia là sau chiến tranh, Ngoại Mông sẽ được giữ "nguyên trạng." Ý nghĩa chính xác của "nguyên trạng" trở thành một điều gây tranh cãi trong cuộc hội đàm Trung-Xô tại Moskva vào mùa hè năm 1945 giữa Stalin và phái viên của Tưởng Giới Thạch là Tống Tử Văn.Stalin khăng khăng đói Trung Hoa Dân Quốc công nhận độc lập của Ngoại Mông, một điều đang diễn ra trên thực tế. Tưởng Giới Thạch mặc dù chống lại ý tưởng này song cuối cùng đã phải chấp thuận. Tuy nhiên, Tưởng đã nhận được một lời hứa từ Stalin là sẽ không hỗ trợ cho Đảng Cộng sản Trung Quốc, một phần là để trao đổi việc công nhận Ngoại Mông.
Như vậy, Hiệp ước Trung-Xô đã đảm bảo độc lập của Ngoại Mông. Nhưng nó cũng đã kết thúc hy vọng của Khorloogiin Choibalsan về việc thống nhất Ngoại Mông với Nội Mông, vùng đất vẫn nằm trong tay Trung Quốc. Choibalsan ban đầu hy vọng rằng Stalin sẽ hỗ trợ viễn cảnh Đại Mông Cổ của ông song nhà lãnh đạo Liên Xô đã hy sinh điều này vì lợi ích của đất nước mình, được đảm bảo theo Hiệp ước Trung-Xô và được hợp pháp hóa theo các thỏa thuận Yalta. Dưới ý nghĩa này, Hiệp ước Trung-Xô đã đánh dấu việc phân chia vĩnh viễn Mông Cổ thành nước Cộng hòa Nhân dân Mông Cổ độc lập và vùng Nội Mông láng giềng.[4]
Chính trị Chiến tranh Lạnh (1945 - 1985)
Được bảo đảm đảo trong quan hệ với Liên Xô, chính phủ Mông Cổ chuyển sang phát triển hậu chiến, tập trung vào các hoạt động dân sự. Mông Cổ vào thời gian này là một trong số các nước cô lập nhất thế giới, hầu như không có liên lạc với bất kỳ quốc gia nào khác ngoài Liên Xô. Sau chiến tranh, các mối quan hệ quốc tế được mở rộng, Mông Cổ thiết lập quan hệ với Bắc Triều Tiên và các nước cộng sản mới ở Đông Âu. Mông Cổ và Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đã công nhận lẫn nhau vào năm 1949, và Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa từ bỏ tất cả chủ quyền tại Ngoại Mông. Tuy nhiên, cá nhân Mao Trạch Đông vẫn hy vọng tái hợp nhất Mông Cổ vào Trung Quốc. Ông nếu ra vấn đề này trước nhà lãnh đạo Liên Xô sớm nhất là năm 1949 (trong buổi gặp gỡ với Anastas Mikoyan), và sau đó, Stalin đã kiến quyết từ chối điều này. Năm 1956, theo sau tố cáo Stalin của Nikita Khrushchev, các lãnh đạo Trung Quốc đã cố gắng trình bày rằng sự độc lập của Mông Cổ là một trong những sai lầm của Stalin trong buổi gặp với Mikoyan. Phản ứng của Liên Xô là người Mông Cổ được tự do quyết định số phận của mình.[5]Năm 1952, Choibalsan mất tại Moskva, nơi ông trải qua điều trị ung thư. Người thay ông giữ chức Tổng bí thư Đảng là Yumjaagin Tsedenbal. Không như người tiền nhiệm, Tsedenbal hăng hái trong việc hợp nhất Mông Cổ thành một nước cộng hòa thành phần của Liên Xô. Ý tưởng này đã vấp phải sự phản đối dữ đội từ các thành viên khác trong Đảng và bị bãi bỏ.
Trong những năm 1950, quan hệ giữa Mông Cổ và Trung Quốc được cải thiện đáng kể. Trung Quốc cung cấp viện trợ kinh tế đang rất cần thiết, xây dựng toàn bộ ngành công nghiệp tại Ulaanbaatar, cũng như các khối nhà cho cán bộ. Hàng nghìn người Trung Quốc đã tham gia vào các dự án này cho đến khi Trung Quốc rút lui sau năm 1962 trong một nỗ lực để gây áp lực Mông Cổ phá vỡ mối quan hệ với Liên Xô vào thời điểm quan hệ Trung-Xô xấu đi.
Sau khi bắt đầu tranh chấp Trung-Xô, Mông Cổ trong một thời gian ngắn đã lưỡng lự, những ngay sau đó đã mạnh mẽ ủng hộ Liên Xô, trở thành một trong các nước XHCN đầu tiên tán thành lập trường của Liên Xô trong cuộc tranh cãi với Trung Quốc. Các căn cứ quân sự trên biên giới Trung-Mông bắt đầu được xây dựng từ năm 1963; vào tháng 12 năm 1965 Bộ chính trị Mông Cổ yêu cầu Liên Xô đến đóng quân tại các căn cứ ở Mông Cổ. Vào tháng 1 năm 1966, với chuyến thăm của Leonid Brezhnev đến Mông Cổ, hai nước đã ký kết hiệp ước tương trợ lẫn nhau, mở đường cho sự hiện diện quận sự của Liên Xô tại Mông Cổ. Vào tháng 2 năm 1967, sau những tuần quan hệ với Trung Quốc trở nên căng thẳng hơn, Moskva đã chính thức thông qua việc đóng quân ở Mông Cổ.
Với sự khuyến khích của Liên Xô, Mông Cổ gia tăng sự tham gia trong các hội nghị cộng sản và tổ chức quốc tế. Điều này được thực hiện với một số khó khăn nhất định do Mông Cổ được cộng đồng quốc tế nhìn nhận rộng rãi là một phần phụ thuộc Liên Xô hơn là một quốc gia độc lập. Năm 1955, Mông Cổ cố gắng gia nhập Liên Hiệp Quốc, nhưng yêu cầu bị Trung Hoa Dân Quốc phủ quyết, chế độ này sau chiến tranh Thế giới thứ hai đã tái tuyên bố chủ quyền với Mông Cổ. Mông Cổ trở thành thành viên của Liên Hiệp Quốc vào năm 1961 sau khi Liên Xô đe dọa phủ quyết việc gia nhập của tất cả các quốc gia mới độc lập tại châu Phi nếu THDQ vẫn dùng quyền phủ quyết. Quan hệ ngoại giao với Hoa Kỳ không được thiết lập cho đến cuối Chiến tranh Lạnh. Mông Cổ trở thành nơi ganh đua giữa Trung Quốc và Liên Xô trong những năm 1960, 1970 và 1980 vì sự hiện diện vũ khí hạt nhân của Liên Xô.
Bắt đầu những năm 1980, Tsedenbal trở nên ngày càng độc đoán và thất thường. Sau một loạt các thanh trừng trong đảng, ông bị trục xuất khỏi văn phòng vào tháng 8 năm 1984 với lý do tuổi già và không đủ khả năng trí tuệ. Việc loại bỏ Tsedenbal có được sự ủng hộ từ Liên Xô, và ông nghỉ hưu tại Moskva cho đến khi chết vì bện ung thư vào năm 1991. Jambyn Batmönkh trở thành Tổng bí thư và nhiệt thành lao vào những cải cách tương tự như Gorbachev đã thực hiện ở Liên Xô.
Sụp đổ (1985 - 1996)
Sau khi Mikhail Gorbachev lên nắm quyền ở Liên Xô, ông đã thực thi các chính sách perestroika và glasnost. Bầu không khí cải cách ở Liên Xô đã lan đến Mông Cổ. Sau các cuộc biểu tình quần chúng vào mùa đông 1990, CHND Mông Cổ bắt đầu nới lỏng kiểm soát hệ thống chính trị. Bộ Chính trị từ chức vào tháng 3, và đến tháng 5 thì hiến pháp đã được sử đổi, xóa bỏ các chi tiết đến vai trò của Đảng NDCM Mông Cổ là lực lượng chỉ dẫn tại đất nước, hợp thức hóa các đảng đối lập, tạo ra một cơ quan lập pháp thường trực, và thiết lập văn phòng chủ tịch nước. Vào ngày 29 tháng 7, 1990, cuộc bầu cử đa đảng tự do đầu tiên được tổ chức tại Mông Cổ. Kết quả bầu cử phần lớn nghiên về Đảng NDCM Mông Cổ, với 85% số phiếu. Cho đến tận năm 1996 Đảng này mới bị đảy ra khỏi vị trí lãnh đạo.Liên Xô rút quân đội đồn trú tại Mông Cổ cùng các hỗ trợ về kỹ thuật và tài chính từ năm 1987 đến 1992.[6] Sau đó, các chính sách ngoại giao và quốc phòng của Mông Cổ có thay đổi sâu sắc: "Duy trì quan hệ thân thiện với Nga và Trung Quốc phải là một ưu tiên trong hoạt động đối ngoại của Mông Cổ. Sẽ không chấp thuận rơi vào chướng quốc gia nào song sẽ duy trì nguyên tắc một mối quan hệ cân bằng với cả hai và thúc đẩy tất cả các hoạt động hợp tác láng giềng thân thiết."[7]
Tham khảo
- ^ Cotton, James (1989). Trong D. K. Adams. Asian Frontier Nationalism: Owen Lattimore and the American Policy Debates. Manchester University Press. tr. 130. ISBN 978-0-7190-2585-3.
- ^ C.R. Bawden, The modern history of Mongolia, London 1968, p. 191-201
- ^ Christopher Kaplonski: "Thirty thousand bullets: remembering political repression in Mongolia", in Kenneth Christie and Robert Cribb, eds., Historical Injustice and Democratic Transition in Eastern Asia and Northern Europe: Ghosts at the Table of Democracy, London 2002, p. 156, 167n2
- ^ Liu Xiaoyuan, Reins of Liberation: An Entangled History of Mongolian Independence, Chinese Territoriality, and Great Power Hegemony, 1911-1950 (Washington D.C.: Woodrow Wilson Press, 2006)
- ^ Sergey Radchenko, "New Documents on Mongolia and the Cold War," Cold War International History Project Bulletin no. 16 (2008)
- ^ Mongolia, Landmine Monitor Report 2000
- ^ Permanent Mission of Mongolia to the United Nations, Concept of Mongolia’s Foreign Policy, 1994
|
|
Thể loại:
Casablanca là một bộ phim tình cảm Mỹ của đạo diễn Michael Curtiz được công chiếu năm 1942. Dàn diễn viên của phim gồm hai ngôi sao hàng đầu của Hollywood là Humphrey Bogart và Ingrid Bergman cùng các diễn viên Paul Henreid, Claude Rains, Conrad Veidt, Sydney Greenstreet và Peter Lorre. Lấy bối cảnh giai đoạn đầu Thế chiến thứ hai, Casablanca đề cập tới số phận của những người do cuộc chiến mà phải mắc kẹt lại tại thành phố biển Casablanca, Maroc lúc này thuộc quyền quản lý của chính quyền Vichy Pháp thân Đức Quốc xã.
Trung tâm của bộ phim là Rick Blaine (do Bogart thủ vai), một chủ quán
bar bị giằng xé bởi lựa chọn khó khăn giữa tình yêu của anh dành cho
Ilsa Lund (do Bergman thủ vai) và trách nhiệm giúp cô cùng chồng là
Victor Laszlo (do Henreid thủ vai), một lãnh tụ kháng chiến người Tiệp Khắc thoát khỏi Maroc để tới Hoa Kỳ.
Mặc dù là một bộ phim có đầu tư lớn với dàn diễn viên nhiều ngôi sao cùng đội ngũ sản xuất tên tuổi, không ai trong đoàn làm phim tin rằng nó sẽ trở thành một sản phẩm vượt trội so với hàng chục bộ phim Hollywood khác được sản xuất cùng năm.[1] Được đưa ra rạp công chiếu sớm nhằm tận dụng sự kiện quân Đồng minh tấn công Bắc Phi,[2] bộ phim được coi là một thành công về doanh thu cũng như về mặt nghệ thuật khi giành được ba giải Oscar trong đó có giải quan trọng Phim hay nhất. Trải qua thời gian, bộ phim tiếp tục được đánh giá cao và nó được coi là một trong những tác phẩm kinh điển của điện ảnh Hollywood với nhiều câu thoại, hình tượng nhân vật và phần nhạc phim đã trở thành mẫu mực trong lịch sử điện ảnh. Hơn 60 năm sau ngày công chiếu đầu tiên, Casablanca vẫn thường xuyên đứng ở nhóm đầu trong các bảng xếp hạng những bộ phim hay nhất trong lịch sử.
Một buổi tối, Ugarte (Peter Lorre), vốn kiếm sống bằng những mánh khóe lặt vặt và là khách quen của Rick, tới Rick's Café Américain với hai tờ giấy thông hành mà gã lấy được sau khi giết chết hai nhân viên đưa thư người Đức. Đây là những giấy tờ có giá trị cực lớn đối với những người mắc kẹt ở Casablanca vì nó cho phép người mang chúng được đi lại tự do trong vùng của Đức Quốc xã kiểm soát tại châu Âu, đồng nghĩa với việc họ có thể đặt chân tới Lisboa, Bồ Đào Nha để rồi từ đó bay tới Mỹ và thoát khỏi sự tàn khốc của cuộc chiến. Dự định bán lại hai tờ thông hành với giá cao của Ugarte không thành khi gã bị viên đại úy cảnh sát Louis Renault bắt ngay tại quán cà phê. Nhưng Renault và các sĩ quan Đức Quốc xã không biết rằng trước khi bị bắt Ugarte đã kịp giao lại hai tờ thông hành cho Rick. Cùng thời điểm với vụ bắt giữ Ugarte, Rick gặp hai người khách mà anh không hề mong đợi, đó là người yêu cũ của anh Ilsa Lund (Ingrid Bergman) cùng chồng của cô là Victor Laszlo (Paul Henreid). Laszlo vốn là một lãnh tụ kháng chiến người Tiệp Khắc đã từng chạy thoát khỏi trại tập trung của Đức Quốc xã và đang tìm cách vượt khỏi Casablanca tới Mỹ nhằm tiếp tục tổ chức cuộc kháng chiến tại châu Âu.
Sau cuộc nói chuyện với ông Ferrari (Sydney Greenstreet), chủ quán bar cạnh tranh với Rick Blaine, Victor Laszlo tin rằng Rick đang có hai tờ thông hành trong tay và quyết định thuyết phục Rick nhượng chúng lại cho mình. Trước lời đề nghị của Laszlo, Rick thẳng thừng từ chối với lời giải thích đơn giản rằng Laszlo hãy về hỏi lý do từ người vợ của mình. Trong lúc đó bên ngoài quán bar, các viên sĩ quan Đức đang hát vang bài hát mà họ rất tự hào là "Die Wacht am Rhein", để đáp trả, Laszlo đề nghị ban nhạc của quán chơi bản quốc ca của Pháp "La Marseillaise" và bắt nhịp cho toàn bộ khách trong quán hát theo át lời người Đức. Hành động của Laszlo khiến viên thiếu tá Strasser của Đức Quốc xã tức giận tới mức ông ta buộc đại úy cảnh sát người Pháp Renault đóng cửa ngay lập tức cơ sở kinh doanh của Rick.
Đêm hôm đó, đích thân Ilsa tới gặp Rick tại quán cà phê sau khi Laszlo phải tham gia một cuộc họp bí mật của những người kháng chiến. Một lần nữa Rick từ chối giao lại hai tờ thông hành khiến Ilsa phải rút súng ra đe dọa, tuy nhiên cô nhanh chóng thừa nhận rằng mình không thể bắn anh và rằng cô vẫn còn rất yêu anh. Ilsa giải thích với Rick rằng khi hai người phải lòng nhau ở Paris trong những ngày trước khi thành phố rơi vào tay người Đức, cô không biết rằng người chồng tưởng như đã chết trong trại tập trung của cô thực tế vẫn còn sống và thậm chí đã thoát được về ngoại ô thành phố. Đứng trước trách nhiệm chăm sóc người chồng bị thương, cô buộc phải ở lại thành phố mà không thể tới ga tàu cùng Rick như lời ước hẹn. Mặc dù còn tỏ ra chua cay vì mối tình tan vỡ, Rick vẫn hứa giúp chồng Ilsa chạy thoát để rồi sau đó anh cùng cô có thể một lần nữa sống bên nhau.
Tại quán Rick's Café Américain, Laszlo tới gặp Rick để tiết lộ rằng mình đã biết về tình cảm của Ilsa với Rick và anh đề nghị Rick dùng những tờ thông hành để đưa vợ mình tới nơi an toàn. Ngay lúc này Renault ập tới bắt Laszlo khi đang giao dịch giấy thông hành với Rick, với tội danh dính líu tới giấy tờ bị đánh cắp. Lúc này Rick trở mặt với kế hoạch vạch sẵn ban đầu vốn để lừa Renault, rút súng buộc ông thả Laszlo và đưa cả hai vợ chồng Ilsa tới sân bay để bắt chuyến bay đêm tới Lisboa. Tại sân bay Rick bộc lộ kế hoạch thực sự của mình, đó là cho cả hai vợ chồng Ilsa chạy trốn vì theo Rick, Ilsa không thể ở lại sống cùng anh bởi cô là một phần quan trọng trong cuộc chiến đấu của Laszlo sau này. Sau đó anh còn tiếp tục giết viên sĩ quan Strasser khi ông ta tìm cách ngăn cản chuyến bay của hai người. Chiếc máy bay chở Ilsa cùng Laszlo cất cánh cùng lúc Renault quyết định rời bỏ Casablanca để cùng Rick tới vùng do Chính phủ tự do Pháp quản lý ở Brazzaville. Cả hai bước vào màn sương mù dày đặc với câu thoại cuối cùng của Rick: "Louis, tôi nghĩ rằng đây là sự bắt đầu của một tình bạn đẹp." ("Louis, I think this is the beginning of a beautiful friendship.")
Sau khi đọc kịch bản, nhà phân tích của hãng Warner Bros. là Stephen Karnot cho rằng đây là một "kịch bản rẻ tiền nhưng tinh tế" ("sophisticated hokum"),[13] với kết quả là biên tập viên Irene Diamond thuyết phục nhà sản xuất Hal Wallis mua lại bản quyền kịch bản Everybody Comes to Rick's với giá 20.000 đô la Mỹ,[14] số tiền lớn nhất từng được trả cho một kịch bản sân khấu chưa bao giờ công diễn.[15] Sau khi mua lại kịch bản sân khấu, các nhà sản xuất đổi tên dự án thành Casablanca nhằm bắt chước tựa đề của một bộ phim ăn khách năm 1938 là Algiers.[16] Các biên kịch đầu tiên được giao chuyển thể tác phẩm sân khấu này là anh em Julius và Philip Epstein, hai người quyết định bỏ phần nói tới quá khứ của Rick và thêm vào những chi tiết hài. Người thứ ba tham gia nhóm chuyển thể là nhà biên kịch Howard Koch, khác với anh em Epstein, ông đề nghị nhấn mạnh yếu tố chính trị và tình cảm lãng mạn của kịch bản gốc.[17] Tuy không được nhắc tới trong thành phần biên kịch, Casey Robinson cũng đóng góp cho kịch bản chuyển thể của Casablanca khi tham gia chỉnh sửa những cuộc gặp gỡ của Rick và Ilsa ở quán bar.[18] Cuối cùng đạo diễn phim là Michael Curtiz quyết định ưu tiên các trường đoạn lãng mạn của bộ phim và ông nhất quyết giữ lại những cảnh phim hồi tưởng của Rick và Ilsa về giai đoạn hai người còn ở Paris. Phần kết của kịch bản sân khấu gốc Everybody Comes to Rick's là cảnh Rick đưa Ilsa và Victor tới sân bay. Do quy định của luật điện ảnh Mỹ (Hays Code) thời đó nên Casablanca không thể kết thúc với việc một người đàn bà đã có chồng bỏ đi với người đàn ông khác, vì vậy vấn đề của kịch bản chuyển thể không phải là Ilsa có ra đi cùng Laszlo hay không mà là sự kiện đó sẽ diễn ra thế nào.[19] Vì vậy Casey Robinson đã đề nghị với Hal Wallis về một đoạn kết có nút thắt với việc Rick giả như sẽ giữ Ilsa ở lại cùng mình trong khi thực tế thì anh quyết định sẽ để cả hai người cùng ra đi. Theo Casey thì đoạn kết này sẽ giải quyết được mối tình tay ba trong phim cũng như nêu bật được ý nghĩa của cuộc chiến đấu chống phát xít vốn có vị trí quan trọng nhất vào thời điểm chiến tranh này.[20]
Mặc dù trải qua tay nhiều biên kịch với những ý đồ chuyển thể khác nhau, kịch bản Casablanca theo nhà phê bình Ebert vẫn là một kịch bản hết sức chặt chẽ và thống nhất. Còn theo Koch nhận xét sau này thì chính sức ép giữa ý đồ chuyển thể của ông và của Curtiz đã giúp kịch bản phim có được sự thống nhất đó,[21] tuy không hoàn toàn tán thành với kịch bản chuyển thể cuối cùng, Julius Epstein cũng thừa nhận rằng dù sao thì bộ phim được hoàn thành suôn sẻ vẫn là điều tốt nhất.[22] Kịch bản chuyển thể Casablanca còn gặp rắc rối ở cơ quan kiểm duyệt của Hollywood là Production Code Administration khi có người phản đối chi tiết viên đại úy Renault tìm cách tống tiền những người mắc kẹt ở Casablanca hay chi tiết Rick và Ilsa từng ngủ cùng nhau ở Paris.[23] Một số thay đổi nhỏ trong kịch bản được thực hiện tuy nhiên thực tế thì cả hai chi tiết này đều vẫn được giữ nguyên trong kịch bản cuối cùng.[24]
Lựa chọn đầu tiên của Wallis cho vị trí đạo diễn Casablanca là William Wyler, tuy nhiên đạo diễn nổi tiếng này không thể tham gia dự án, và Wallis quyết định quay sang người bạn thân của mình là Michael Curtiz, một đạo diễn vốn là người Do Thái gốc Hungary di cư tới Mỹ trong thập niên 1920 và có một số người thân phải tị nạn tới Mỹ để tránh chính quyền Đức Quốc xã.[27] Một số nhà phê bình cho rằng cách làm phim của Curtiz không đóng góp nhiều về mặt cốt truyện cho Casablanca[6][28] trong khi đó một số khác lại đánh giá cao phong cách đạo diễn của Michael Curtiz, ví dụ Sidney Rosenzweig đã đánh giá Casablanca là điển hình cho phong cách nhấn mạnh vào những xung đột về đạo đức của Curtiz.[29] Bên cạnh nhóm làm phim chính của Curtiz, một tổ quay phụ cũng được thành lập dưới sự chỉ đạo của đạo diễn Don Siegel để thực hiện những cảnh quay về người tị nạn ở Casablanca và cảnh quân Đức tiến vào Paris.[30]
Tất cả phân cảnh của Casablanca được quay trong trường quay, trừ cảnh thiếu tá Strasser lái xe tới sân bay, vốn được quay trực tiếp tại Sân bay Van Nuys. Các đường phố phục vụ cho phần ngoại cảnh Casablanca vốn vừa được xây dựng trước đó cho bộ phim The Desert Song,[31] các nhà sản xuất chỉ cần thay đổi sửa chữa lại để chúng phù hợp với những đường phố Paris nơi Rick và Ilsa trải qua những giờ phút hạnh phúc. Quán bar của Rick được thiết kế gồm ba phần riêng biệt để thuận lợi cho các góc quay khác nhau. Ở trường đoạn cuối cùng của phim, chiếc máy bay Lockheed Model 12 Electra Junior được làm ở dạng mô hình và để che lấp những khiếm khuyết của nó người ta đã tận dụng tới sương mù.[32] Mặc dù vậy, công viên chủ đề Disney's Hollywood Studios ở Orlando, Florida sau này lại mua hẳn một chiếc Lockheed 12A thật và tuyên bố rằng chiếc máy bay này đã được sử dụng để quay Casablanca.[33]
Theo nhà phê bình Roger Ebert, nhà sản xuất Wallis quả thực là một động lực sáng tạo chính của Casablanca khi ông quan tâm tới từng chi tiết nhỏ của bộ phim, ông buộc người trong đoàn làm phim phải kiếm cho bằng được một con vẹt thật để phục vụ cho bối cảnh quán bar Blue Parrot (Quán Con vẹt xanh).[6] Vị trí quay phim của Casablanca được giao cho nhà quay phim kì cựu Arthur Edeson, người từng tham gia quay nhiều bộ phim kinh điển như Frankenstein (1931) và The Maltese Falcon (1941). Edeson đặc biệt chú trọng tới các cảnh quay có sự xuất hiện của nữ diễn viên Ingrid Bergman, cô thường được quay từ phía bên trái ưa thích, các khung hình của Bergman thường được lấy nét mềm và bố trí ánh sáng sao cho đôi mắt của nữ diễn viên này trở nên lấp lánh, giúp cho nhân vật Ilsa có được vẻ đẹp buồn bã, nhẹ nhàng và mang chút hoài cổ.[6] Nhiều cảnh quay trong Casablanca dùng biểu tượng bóng cột dài đổ trên nhân vật tạo cảm giác họ bị cầm tù, những dải bóng ngang dọc cũng để ám chỉ Chữ thập Lorraine, biểu tượng của Chính phủ Tự do Pháp cũng như các xung đột về tinh thần của nhân vật.[6] Theo Rosenzweig, những hiệu quả hình ảnh này là chi tiết kinh điển trong các bộ phim của Curtiz bên cạnh cách di chuyển máy bay và sử dụng bối cảnh phim để phân đoạn.[34]
Một rắc rối trong quá trình quay Casablanca là sự chênh lệch về chiều cao giữa Bergman và Bogart, nữ diễn viên gốc Thụy Điển cao hơn bạn diễn chừng 5 cm nên cô thường đề nghị Curtiz cho Bogart đứng ở tầm cao hơn hoặc ngồi trong các cảnh quay cùng cô.[35] Câu thoại cuối cùng của phim phim ("Louis, tôi nghĩ rằng đây là sự bắt đầu của một tình bạn đẹp") được Wallis nghĩ ra sau khi đoàn làm phim đã đóng máy, vì vậy mãi một tháng sau Bogard mới được mời lại để lồng tiếng cho câu cuối cùng này. Người ta còn có dự định quay thêm một cảnh phim mô tả Renault và những binh lính của chính phủ Pháp Tự do tham gia cuộc tấn công Bắc Phi của quân Đồng minh, tuy nhiên việc mời lại Claude Rains là quá khó khăn và đạo diễn nổi tiếng David O. Selznick cũng cho rằng thay đổi cái kết có sẵn của Casablanca sẽ là một "sai lầm tồi tệ" ("terrible mistake").[36]
Trải qua thời gian, bộ phim tiếp tục nhận được đánh giá cao từ giới phê bình phim. Nhân dịp kỉ niệm lần thứ 50 ngày Casablanca được công chiếu lần đầu, tờ Los Angeles Times nhận xét rằng bộ phim đã đạt được sự cân bằng gần như hoàn hảo của cả ba thể loại phim ly kì, tình cảm và hài hước, tờ LA Times cho rằng sức sống lâu bền của bộ phim chính là tinh túy của các bộ phim Hollywood giai đoạn hoàng kim.[48] Theo nhà phê bình Roger Ebert thì Casablanca có lẽ là bộ phim nằm trong nhiều danh sách Phim hay nhất hơn tất cả các bộ phim khác, kể cả Công dân Kane (Citizen Kane) vì tầm ảnh hưởng rộng rãi của nó mà theo lời ông là Công dân Kane "xuất sắc hơn" nhưng Casablanca "được yêu thích hơn".[6] Ebert cho rằng sự phổ biến của bộ phim đến từ cách xây dựng hình ảnh nhân vật vô cùng đẹp đẽ trong phim, theo sự phát triển của tình tiết phim, các nhân vật càng bộc lộ sự tốt đẹp của mình tuy rằng một số nhân vật như Laszlo được xây dựng quá hoàn hảo tới mức thiếu thực tế.[49]
Không phải toàn bộ ý kiến phê bình đều đánh giá cao Casablanca, tờ The New Yorker chỉ đánh giá bộ phim là "tạm được" ("pretty tolerable").[50] Còn theo Pauline Kael thì bộ phim còn lâu mới có thể coi là một tác phẩm lớn mà chỉ là một bộ phim lãng mạn rẻ tiền.[51] Tương tự Kael, Umberto Eco đánh giá "theo bất cứ tiêu chuẩn phê bình chính xác nào thì Casablanca cũng là một bộ phim hết sức tầm thường"[52] với tuyến nhân vật không phải phức tạp mà là đầy sự mâu thuẫn.[53] Bộ phim cũng bị nhận xét là có một số sai sót về mặt lịch sử và lôgic. Ví dụ tờ thông hành trong phim theo lời Ugarte là nó có chữ ký của cả Weygard, toàn quyền Vichy Pháp tại các thuộc địa Bắc Phi, và De Gaulle, lãnh tụ chính phủ Pháp Tự do lưu vong, trong khi thực tế thì tòa án quân sự của chính quyền Vichy Pháp đã kết án vắng mặt De Gaulle tội phản quốc với án chung thân vào ngày 2 tháng 8 năm 1940, vì vậy một tờ thông hành có chữ ký của De Gaulle thì hoàn toàn vô giá trị trong lãnh thổ do Vichy Pháp quản lý.[25] Theo Harmetz thì tờ thông hành này được Joan Allison nghĩ ra cho kịch bản sân khấu và nó chưa bao giờ bị đặt dấu hỏi về mức độ chính xác về mặt lịch sử.[54] Một chi tiết không hợp lý khác là việc Laszlo được đi lại tự do ở Casablanca sau khi trốn khỏi trại tập trung Đức Quốc xã vì "đây vẫn là vùng chưa bị chiếm đóng của nước Pháp", chi tiết này hoàn toàn không hợp lý vì chính quyền Vichy Pháp quản lý thành phố vốn có quan hệ cực kỳ chặt chẽ với Đức Quốc xã và chắc chắn Laszlo phải bị bắt ngay khi xuất hiện trước mặt cảnh sát Pháp.[6] Một câu thoại của Renault cũng đề cập tới chi tiết ông từng "đi cùng người Mỹ khi họ tiến về Berlin năm 1918", thực tế thủ đô nước Đức chưa bao giờ bị chiếm đóng trong Thế chiến thứ nhất, việc Renault bị các sĩ quan Đức giám sát trực tiếp cũng là vô lý vì quân đội Đức không hề chính thức có mặt ở Casablanca suốt Thế chiến thứ hai.[25] Casablanca còn gặp một số lỗi về tính liên tục trên phim, điển hình là cảnh Rick ướt sũng khi tới ga tàu để rời Paris nhưng khi anh lên tàu thì chiếc áo khoác lại khô cong, theo lời Michael Curtiz thì những lỗi về tính liên tục Casablanca gặp phải là do ông "làm bộ phim quá nhanh và chẳng ai để ý".[49]
Tại Hoa Kỳ, Casablanca luôn được chiếu lại trong tuần kiểm tra cuối kì của Đại học Harvard, truyền thống này đã được nhiều trường đại học Mỹ khác bắt chước.[57] Trong khi nhiều bộ phim sản xuất thập niên 1940 dần bị quên lãng theo thời gian thì Casablanca cho tới năm 1977 vẫn là tác phẩm điện ảnh được chiếu lại nhiều nhất trên truyền hình Mỹ.[58] Tuy nhiên dường như Casablanca có ảnh hưởng sâu đậm với giới hâm mộ điện ảnh hơn là giới làm điện ảnh. Năm 1982 trong một bài báo trên tờ American Film, Chuck Ross đã tuyên bố rằng ông vừa thử nghiệm việc đánh máy lại kịch bản Casablanca, chỉ thay lại tựa đề thành Everybody Comes to Rick's và thay tên nghệ sĩ chơi piano thành Dooley Wilson rồi gửi nó tới 217 đại diện môi giới. Trong số 85 đại diện đọc nó thì 38 đại diện thẳng thừng từ chối kịch bản này, 33 nhận ra được nó là kịch bản cũ (tuy chỉ có 8 là xác định được đây là kịch bản Casablanca), 3 nhận xét rằng nó có khả năng thương mại hóa, và 1 thì đề nghị chuyển kịch bản thành tiểu thuyết.[59]
Đã có hai bộ phim truyền hình ngắn được sản xuất dựa trên Casablanca, chúng đều được coi là những phần trước của bộ phim. Loạt phim truyền hình đầu tiên được hãng ABC phát sóng trong hai năm 1955 và 1956 với Charles McGraw thủ vai Rick và Marcel Dalio thủ vai Renault. Đây là một trong các tác phẩm của chương trình Warner Bros. Presents[72] với tổng thời lượng các tập là 10 tiếng. Loạt phim thứ hai có tổng thời lượng 5 tiếng do đài NBC phát sóng năm 1983 với David Soul vào vai Rick còn Ray Liotta vào vai Sacha.[73] Casablanca còn được chuyển thể thành kịch truyền thanh nhiều lần trong đó đáng chú ý có vở kịch dài 30 phút phát trên The Screen Guild Theater vào ngày 26 tháng 4 năm 1943 với sự góp mặt của cả Bogart, Bergman và Henreid, hay phiên bản chuyển thể dài 1 tiếng phát trên Lux Radio Theater vào ngày 24 tháng 1 năm 1944 với Alan Ladd vào vai Rick còn Hedy Lamarr vào vai Ilsa. Biên kịch Casablanca là Julius Epstein từng hai lần dự định chuyển thể bộ phim lên sân khấu Broadway vào các năm 1951 và 1967 nhưng cả hai lần dự định của Epstein đều không thành hiện thực.[74] Vở kịch gốc của Casablanca là Everybody Comes to Rick's cũng từng được công diễn ở Newport, Rhode Island vào tháng 8 năm 1946 và Luân Đôn tháng 4 năm 1991 nhưng đều không phải là những vở diễn thành công.[75]
Casablanca được hãng Warner Bros. cho phép nhà văn Michael Walsh chuyển thể thành tiểu thuyết với tựa đề As Time Goes By, tác phẩm được xuất bản năm 1998.[76][77] Ngoài những tình tiết có trong phim, tiểu thuyết còn đề cập tới nhiều chi tiết khác không có trong Casablanca như quá khứ bí ẩn của Rick ở Mỹ. Tuy nhiên không giống như bộ phim gốc, tiểu thuyết As Time Goes By không phải là một tác phẩm thành công.[78]
Casablanca được Warner Home Video phát hành dưới dạng đĩa lade vào năm 1991 và băng VHS vào năm 1992. Tới năm 1997, bộ phim được hãng MGM phát hành dưới dạng đĩa DVD kèm theo đoạn phim giới thiệu và một phim tài liệu ngắn nói về quá trình sản xuất. Năm 2003 phiên bản DVD Casablanca đặc biệt gồm 2 đĩa được ra mắt công chúng, phiên bản này ngoài nội dung phim với hình ảnh được phục chế còn có phần bình luận và các phim tài liệu đính kèm.[81] Ngày 14 tháng 11 năm 2006, Casablanca được phát hành dưới dạng HD DVD với phần nội dung tương tự bản DVD năm 2003.[82] Phiên bản này được khen ngợi vì phần hình ảnh phim có chất lượng rất tốt.[83][84] Tới năm 2008, tới lượt phiên bản Blu-ray của Casablanca xuất hiện với một số phần kèm thêm mới.[85]
(tiếng Việt)
http://www.youtube.com/user/hoangkimvietnam
Trở về trang chính
hoangkim vietnam, hoangkim, hoangkimvietnam, Hoàng Kim, Ngọc Phương Nam, Chào ngày mới Thung dung, Dạy và học, Cây Lương thực, Tin Nông nghiệp Việt Nam, Food Crops, foodcrops.vn, Cassava in Vietnam, VietnamAfricaCassavaRice, Khát khao xanh, Dayvahoc, Học mỗi ngày, Danh nhân Việt , Food Crops News, Điểm chính, CNM365, Câu chuyện ảnh, 5 phút thư giản, Kim LinkedIn, KimTwitter, KimFaceBook Đọc lại và suy ngẫm, Việt Nam tổ quốc tôi, Tình yêu cuộc sống, Thơ cho con
Casablanca (phim)
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Đối với các định nghĩa khác, xem Casablanca (định hướng).
Casablanca | |
---|---|
Áp phích phim do Bill Gold thiết kế
|
|
Thông tin phim | |
Đạo diễn | Michael Curtiz |
Sản xuất | Hal B. Wallis |
Tác giả | Kịch: Murray Burnett Joan Alison Chuyển thể: Julius J. Epstein Philip G. Epstein Howard Koch Casey Robinson (không chính thức) |
Diễn viên | Humphrey Bogart Ingrid Bergman Paul Henreid |
Âm nhạc | Max Steiner |
Quay phim | Arthur Edeson |
Dựng phim | Owen Marks |
Phát hành | Warner Bros. |
Công chiếu | 26 tháng 11 năm 1942 (New York) 23 tháng 1 năm 1943 (toàn nước Mỹ) |
Độ dài | 102 phút |
Quốc gia | Hoa Kỳ |
Ngôn ngữ | Tiếng Anh |
Kinh phí | 1.039.000 đôla Mỹ |
Doanh thu | 3,9 triệu đô la Mỹ |
Mặc dù là một bộ phim có đầu tư lớn với dàn diễn viên nhiều ngôi sao cùng đội ngũ sản xuất tên tuổi, không ai trong đoàn làm phim tin rằng nó sẽ trở thành một sản phẩm vượt trội so với hàng chục bộ phim Hollywood khác được sản xuất cùng năm.[1] Được đưa ra rạp công chiếu sớm nhằm tận dụng sự kiện quân Đồng minh tấn công Bắc Phi,[2] bộ phim được coi là một thành công về doanh thu cũng như về mặt nghệ thuật khi giành được ba giải Oscar trong đó có giải quan trọng Phim hay nhất. Trải qua thời gian, bộ phim tiếp tục được đánh giá cao và nó được coi là một trong những tác phẩm kinh điển của điện ảnh Hollywood với nhiều câu thoại, hình tượng nhân vật và phần nhạc phim đã trở thành mẫu mực trong lịch sử điện ảnh. Hơn 60 năm sau ngày công chiếu đầu tiên, Casablanca vẫn thường xuyên đứng ở nhóm đầu trong các bảng xếp hạng những bộ phim hay nhất trong lịch sử.
Mục lục
Nội dung
Rick Blaine (Humphrey Bogart) là một người Mỹ lưu vong sống tại thành phố biển Casablanca của Maroc thuộc Pháp. Anh là ông chủ của một quán bar sang trọng kiêm sòng bạc nổi tiếng có tên "Rick's Café Américain", nơi tập trung đủ mọi thành phần của thành phố, từ những viên chức Vichy Pháp hay sĩ quan Đức Quốc xã cho tới những người tị nạn bị mắc kẹt tại thành phố cảng trên đường chạy trốn cuộc chiến đang lan rộng ở châu Âu. Có vẻ ngoài lạnh lùng và không bao giờ tiếp rượu khách tới quán bar, Rick thực tế lại là một người Mỹ nhiệt huyết từng chiến đấu bên cạnh những người Cộng hòa trong cuộc Nội chiến Tây Ban Nha chống lại phe phát xít của Francisco Franco.Một buổi tối, Ugarte (Peter Lorre), vốn kiếm sống bằng những mánh khóe lặt vặt và là khách quen của Rick, tới Rick's Café Américain với hai tờ giấy thông hành mà gã lấy được sau khi giết chết hai nhân viên đưa thư người Đức. Đây là những giấy tờ có giá trị cực lớn đối với những người mắc kẹt ở Casablanca vì nó cho phép người mang chúng được đi lại tự do trong vùng của Đức Quốc xã kiểm soát tại châu Âu, đồng nghĩa với việc họ có thể đặt chân tới Lisboa, Bồ Đào Nha để rồi từ đó bay tới Mỹ và thoát khỏi sự tàn khốc của cuộc chiến. Dự định bán lại hai tờ thông hành với giá cao của Ugarte không thành khi gã bị viên đại úy cảnh sát Louis Renault bắt ngay tại quán cà phê. Nhưng Renault và các sĩ quan Đức Quốc xã không biết rằng trước khi bị bắt Ugarte đã kịp giao lại hai tờ thông hành cho Rick. Cùng thời điểm với vụ bắt giữ Ugarte, Rick gặp hai người khách mà anh không hề mong đợi, đó là người yêu cũ của anh Ilsa Lund (Ingrid Bergman) cùng chồng của cô là Victor Laszlo (Paul Henreid). Laszlo vốn là một lãnh tụ kháng chiến người Tiệp Khắc đã từng chạy thoát khỏi trại tập trung của Đức Quốc xã và đang tìm cách vượt khỏi Casablanca tới Mỹ nhằm tiếp tục tổ chức cuộc kháng chiến tại châu Âu.
Sau cuộc nói chuyện với ông Ferrari (Sydney Greenstreet), chủ quán bar cạnh tranh với Rick Blaine, Victor Laszlo tin rằng Rick đang có hai tờ thông hành trong tay và quyết định thuyết phục Rick nhượng chúng lại cho mình. Trước lời đề nghị của Laszlo, Rick thẳng thừng từ chối với lời giải thích đơn giản rằng Laszlo hãy về hỏi lý do từ người vợ của mình. Trong lúc đó bên ngoài quán bar, các viên sĩ quan Đức đang hát vang bài hát mà họ rất tự hào là "Die Wacht am Rhein", để đáp trả, Laszlo đề nghị ban nhạc của quán chơi bản quốc ca của Pháp "La Marseillaise" và bắt nhịp cho toàn bộ khách trong quán hát theo át lời người Đức. Hành động của Laszlo khiến viên thiếu tá Strasser của Đức Quốc xã tức giận tới mức ông ta buộc đại úy cảnh sát người Pháp Renault đóng cửa ngay lập tức cơ sở kinh doanh của Rick.
Đêm hôm đó, đích thân Ilsa tới gặp Rick tại quán cà phê sau khi Laszlo phải tham gia một cuộc họp bí mật của những người kháng chiến. Một lần nữa Rick từ chối giao lại hai tờ thông hành khiến Ilsa phải rút súng ra đe dọa, tuy nhiên cô nhanh chóng thừa nhận rằng mình không thể bắn anh và rằng cô vẫn còn rất yêu anh. Ilsa giải thích với Rick rằng khi hai người phải lòng nhau ở Paris trong những ngày trước khi thành phố rơi vào tay người Đức, cô không biết rằng người chồng tưởng như đã chết trong trại tập trung của cô thực tế vẫn còn sống và thậm chí đã thoát được về ngoại ô thành phố. Đứng trước trách nhiệm chăm sóc người chồng bị thương, cô buộc phải ở lại thành phố mà không thể tới ga tàu cùng Rick như lời ước hẹn. Mặc dù còn tỏ ra chua cay vì mối tình tan vỡ, Rick vẫn hứa giúp chồng Ilsa chạy thoát để rồi sau đó anh cùng cô có thể một lần nữa sống bên nhau.
Tại quán Rick's Café Américain, Laszlo tới gặp Rick để tiết lộ rằng mình đã biết về tình cảm của Ilsa với Rick và anh đề nghị Rick dùng những tờ thông hành để đưa vợ mình tới nơi an toàn. Ngay lúc này Renault ập tới bắt Laszlo khi đang giao dịch giấy thông hành với Rick, với tội danh dính líu tới giấy tờ bị đánh cắp. Lúc này Rick trở mặt với kế hoạch vạch sẵn ban đầu vốn để lừa Renault, rút súng buộc ông thả Laszlo và đưa cả hai vợ chồng Ilsa tới sân bay để bắt chuyến bay đêm tới Lisboa. Tại sân bay Rick bộc lộ kế hoạch thực sự của mình, đó là cho cả hai vợ chồng Ilsa chạy trốn vì theo Rick, Ilsa không thể ở lại sống cùng anh bởi cô là một phần quan trọng trong cuộc chiến đấu của Laszlo sau này. Sau đó anh còn tiếp tục giết viên sĩ quan Strasser khi ông ta tìm cách ngăn cản chuyến bay của hai người. Chiếc máy bay chở Ilsa cùng Laszlo cất cánh cùng lúc Renault quyết định rời bỏ Casablanca để cùng Rick tới vùng do Chính phủ tự do Pháp quản lý ở Brazzaville. Cả hai bước vào màn sương mù dày đặc với câu thoại cuối cùng của Rick: "Louis, tôi nghĩ rằng đây là sự bắt đầu của một tình bạn đẹp." ("Louis, I think this is the beginning of a beautiful friendship.")
Diễn viên
Giống như khách hàng của Rick's Café Américain, dàn diễn viên của Casablanca có đặc điểm nổi bật là sự đa dạng về quốc tịch, chỉ có 3 trong số các diễn viên được giới thiệu là người Mỹ, còn lại chủ yếu là các diễn viên châu Âu mà nhiều người trong số này đã phải rời bỏ châu Âu để chạy trốn chế độ Đức Quốc xã. Những diễn viên châu Âu này đã đóng góp rất nhiều vào hiệu quả cảm xúc của bộ phim mà tiêu biểu là cảnh phim "song đấu" giữa hai bài La Marseillaise và Die Wacht am Rhein. Theo Aljean Harmetz thì các diễn viên lưu vong đã đem lại cho Casablanca sự am hiểu và cảm xúc tuyệt vọng mà nếu chỉ tuyển các diễn viên thông thường thì bộ phim sẽ không bao giờ có.[3]Diễn viên chính
- Humphrey Bogart trong vai Rick Blaine. Vốn là ngôi sao của các bộ phim hình sự, Rick là vai diễn lãng mạn đầu tiên của Bogart. Theo một số thông tin thì vai diễn này từng được hãng phim nhắm cho Ronald Reagan nhưng thực tế thì hãng Warner Bros khi đó đã biết rằng ngôi sao này phải nhập ngũ, vì vậy họ chưa từng thực sự có ý định để Reagan đóng vai Rick Blaine.[4]
- Ingrid Bergman trong vai Ilsa Lund. Theo trang web chính thức của Bergman thì Ilsa là vai diễn nổi tiếng và có sức sống lâu bền nhất của ngôi sao người Thụy Điển.[5] Vốn khởi đầu sự nghiệp ở Hollywood từ năm 1939 với Intermezzo, Casablanca là thành công lớn đầu tiên của Bergman. Theo ý kiến của nhà phê bình Roger Ebert, Ingrid Bergman đã thực sự tỏa sáng và đóng cặp rất ăn ý với ngôi sao lớn Humphrey Bogart.[6] Trước Bergman, một số nữ diễn viên từng được thử vai Ilsa là Ann Sheridan, Hedy Lamarr, Michèle Morgan, bản thân Bergman cũng chỉ có thể tham gia bộ phim sau khi Wallis cho David O. Selznick mượn lại một ngôi sao khác là Olivia de Havilland.[7]
- Paul Henreid trong vai Victor Laszlo. Henreid vốn là một diễn viên Áo rời đất nước từ năm 1935, ông chỉ miễn cưỡng nhận vai Laszlo[8] sau khi được hứa trả khoản thù lao cao hơn cả hai Bogart và Bergman. Quan hệ giữa Henreid và hai diễn viên chính còn lại cũng không thực sự tốt trong quá trình quay phim, ông coi Bogart là một diễn viên "tầm thường" ("mediocre"), ngược lại Bergman cũng nhận xét rằng Henreid là một người khó tính và hay giận dỗi.[9]
Diễn viên phụ
- Claude Rains trong vai đại úy Louis Renault. Rains là một diễn viên Anh từng cộng tác với Curtiz trong Những cuộc phiêu lưu của Robin Hood (The Adventures of Robin Hood).
- Peter Lorre trong vai Ugarte. Lorre là một diễn viên gốc Hungary phải rời Đức sang Mỹ năm 1933.
- Sydney Greenstreet trong vai ngài Ferrari. Greenstreet là đồng hương của Rains, ông đã từng đóng chung với Lorre và Bogart trong bộ phim nổi tiếng The Maltese Falcon (1941).
- Conrad Veidt trong vai thiếu tá Heinrich Strasser. Veidt vốn là một diễn viên Đức từng tham gia tác phẩm huyền thoại của điện ảnh Đức The Cabinet of Dr. Caligari (1920) trước khi phải chạy trốn chế độ Quốc xã.
- Dooley Wilson trong vai Sam. Wilson là một trong số rất ít các diễn viên Mỹ tham gia Casablanca. Vốn là một tay trống, ông không hề biết chơi piano và mãi đến sau khi hoàn thành bộ phim, nhà sản xuất Wallis vẫn có ý định lồng tiếng diễn viên khác thay cho tiếng của Wilson trong các bài hát. Vai diễn Sam cũng từng được Hal Wallis dự kiến là một vai nữ mà trong số các ứng cử viên có sự góp mặt của Hazel Scott và Ella Fitzgerald.[10]
- Joy Page trong vai Annina Brandel. Tuy vào vai một phụ nữ lưu vong người Bulgaria nhưng Page lại là người Mỹ, cô là con gái của ông chủ hãng Warner Bros. Jack Warner.
- S. Z. Sakall trong vai Carl. Cũng giống như đạo diễn Curtiz và Peter Lorre, Sakall là một diễn viên người Hungary chạy trốn chế độ Đức Quốc xã. Sakall là bạn của Curtiz từ ngày hai người còn làm việc tại Budapest, ông có ba người thân thiệt mạng trong các trại tập trung của Đức Quốc xã.
Sản xuất
Kịch bản
Kịch bản gốc của Casablanca là kịch bản sân khấu chưa được công diễn của Murray Burnett và Joan Alison có tựa đề Everybody Comes to Rick's.[11] Vở kịch này được viết dựa trên cảm hứng từ chuyến đi châu Âu năm 1938 của Murray Burnett, trong chuyến đi này Burnett đã tới Viên chỉ một thời gian ngắn sau khi sự kiện Anschluss xảy ra và ông được tận mắt chứng kiến sự phân biệt đối xử của chính quyền Đức quốc xã. Tiếp đó nhà biên kịch còn tới một hộp đêm ở miền Nam nước Pháp nơi ông gặp những khách hàng đến từ nhiều quốc gia trên thế giới và một nhạc công mà ông lấy làm hình mẫu cho nghệ sĩ người da đen Sam trong phim sau này.[12] Trong kịch bản sân khấu gốc, nhân vật Ilsa là một cô gái Mỹ có tên Lois Meredith, cô không biết Laszlo cho tới sau khi kết thúc cuộc tình với Rick, vốn là một luật sư, ở Paris.Sau khi đọc kịch bản, nhà phân tích của hãng Warner Bros. là Stephen Karnot cho rằng đây là một "kịch bản rẻ tiền nhưng tinh tế" ("sophisticated hokum"),[13] với kết quả là biên tập viên Irene Diamond thuyết phục nhà sản xuất Hal Wallis mua lại bản quyền kịch bản Everybody Comes to Rick's với giá 20.000 đô la Mỹ,[14] số tiền lớn nhất từng được trả cho một kịch bản sân khấu chưa bao giờ công diễn.[15] Sau khi mua lại kịch bản sân khấu, các nhà sản xuất đổi tên dự án thành Casablanca nhằm bắt chước tựa đề của một bộ phim ăn khách năm 1938 là Algiers.[16] Các biên kịch đầu tiên được giao chuyển thể tác phẩm sân khấu này là anh em Julius và Philip Epstein, hai người quyết định bỏ phần nói tới quá khứ của Rick và thêm vào những chi tiết hài. Người thứ ba tham gia nhóm chuyển thể là nhà biên kịch Howard Koch, khác với anh em Epstein, ông đề nghị nhấn mạnh yếu tố chính trị và tình cảm lãng mạn của kịch bản gốc.[17] Tuy không được nhắc tới trong thành phần biên kịch, Casey Robinson cũng đóng góp cho kịch bản chuyển thể của Casablanca khi tham gia chỉnh sửa những cuộc gặp gỡ của Rick và Ilsa ở quán bar.[18] Cuối cùng đạo diễn phim là Michael Curtiz quyết định ưu tiên các trường đoạn lãng mạn của bộ phim và ông nhất quyết giữ lại những cảnh phim hồi tưởng của Rick và Ilsa về giai đoạn hai người còn ở Paris. Phần kết của kịch bản sân khấu gốc Everybody Comes to Rick's là cảnh Rick đưa Ilsa và Victor tới sân bay. Do quy định của luật điện ảnh Mỹ (Hays Code) thời đó nên Casablanca không thể kết thúc với việc một người đàn bà đã có chồng bỏ đi với người đàn ông khác, vì vậy vấn đề của kịch bản chuyển thể không phải là Ilsa có ra đi cùng Laszlo hay không mà là sự kiện đó sẽ diễn ra thế nào.[19] Vì vậy Casey Robinson đã đề nghị với Hal Wallis về một đoạn kết có nút thắt với việc Rick giả như sẽ giữ Ilsa ở lại cùng mình trong khi thực tế thì anh quyết định sẽ để cả hai người cùng ra đi. Theo Casey thì đoạn kết này sẽ giải quyết được mối tình tay ba trong phim cũng như nêu bật được ý nghĩa của cuộc chiến đấu chống phát xít vốn có vị trí quan trọng nhất vào thời điểm chiến tranh này.[20]
Mặc dù trải qua tay nhiều biên kịch với những ý đồ chuyển thể khác nhau, kịch bản Casablanca theo nhà phê bình Ebert vẫn là một kịch bản hết sức chặt chẽ và thống nhất. Còn theo Koch nhận xét sau này thì chính sức ép giữa ý đồ chuyển thể của ông và của Curtiz đã giúp kịch bản phim có được sự thống nhất đó,[21] tuy không hoàn toàn tán thành với kịch bản chuyển thể cuối cùng, Julius Epstein cũng thừa nhận rằng dù sao thì bộ phim được hoàn thành suôn sẻ vẫn là điều tốt nhất.[22] Kịch bản chuyển thể Casablanca còn gặp rắc rối ở cơ quan kiểm duyệt của Hollywood là Production Code Administration khi có người phản đối chi tiết viên đại úy Renault tìm cách tống tiền những người mắc kẹt ở Casablanca hay chi tiết Rick và Ilsa từng ngủ cùng nhau ở Paris.[23] Một số thay đổi nhỏ trong kịch bản được thực hiện tuy nhiên thực tế thì cả hai chi tiết này đều vẫn được giữ nguyên trong kịch bản cuối cùng.[24]
Quay phim
Bộ phim được khởi quay ngày 25 tháng 5 năm 1942 và được hoàn thành chưa đầy ba tháng sau vào ngày 3 tháng 8 với kinh phí 1.039.000 đô la Mỹ (vượt dự toán 75.000 đô la),[25] đây là một số tiền không phải quá lớn nhưng cũng vượt hơn kinh phí trung bình của một bộ phim Hollywood thời bấy giờ.[26]Lựa chọn đầu tiên của Wallis cho vị trí đạo diễn Casablanca là William Wyler, tuy nhiên đạo diễn nổi tiếng này không thể tham gia dự án, và Wallis quyết định quay sang người bạn thân của mình là Michael Curtiz, một đạo diễn vốn là người Do Thái gốc Hungary di cư tới Mỹ trong thập niên 1920 và có một số người thân phải tị nạn tới Mỹ để tránh chính quyền Đức Quốc xã.[27] Một số nhà phê bình cho rằng cách làm phim của Curtiz không đóng góp nhiều về mặt cốt truyện cho Casablanca[6][28] trong khi đó một số khác lại đánh giá cao phong cách đạo diễn của Michael Curtiz, ví dụ Sidney Rosenzweig đã đánh giá Casablanca là điển hình cho phong cách nhấn mạnh vào những xung đột về đạo đức của Curtiz.[29] Bên cạnh nhóm làm phim chính của Curtiz, một tổ quay phụ cũng được thành lập dưới sự chỉ đạo của đạo diễn Don Siegel để thực hiện những cảnh quay về người tị nạn ở Casablanca và cảnh quân Đức tiến vào Paris.[30]
Tất cả phân cảnh của Casablanca được quay trong trường quay, trừ cảnh thiếu tá Strasser lái xe tới sân bay, vốn được quay trực tiếp tại Sân bay Van Nuys. Các đường phố phục vụ cho phần ngoại cảnh Casablanca vốn vừa được xây dựng trước đó cho bộ phim The Desert Song,[31] các nhà sản xuất chỉ cần thay đổi sửa chữa lại để chúng phù hợp với những đường phố Paris nơi Rick và Ilsa trải qua những giờ phút hạnh phúc. Quán bar của Rick được thiết kế gồm ba phần riêng biệt để thuận lợi cho các góc quay khác nhau. Ở trường đoạn cuối cùng của phim, chiếc máy bay Lockheed Model 12 Electra Junior được làm ở dạng mô hình và để che lấp những khiếm khuyết của nó người ta đã tận dụng tới sương mù.[32] Mặc dù vậy, công viên chủ đề Disney's Hollywood Studios ở Orlando, Florida sau này lại mua hẳn một chiếc Lockheed 12A thật và tuyên bố rằng chiếc máy bay này đã được sử dụng để quay Casablanca.[33]
Theo nhà phê bình Roger Ebert, nhà sản xuất Wallis quả thực là một động lực sáng tạo chính của Casablanca khi ông quan tâm tới từng chi tiết nhỏ của bộ phim, ông buộc người trong đoàn làm phim phải kiếm cho bằng được một con vẹt thật để phục vụ cho bối cảnh quán bar Blue Parrot (Quán Con vẹt xanh).[6] Vị trí quay phim của Casablanca được giao cho nhà quay phim kì cựu Arthur Edeson, người từng tham gia quay nhiều bộ phim kinh điển như Frankenstein (1931) và The Maltese Falcon (1941). Edeson đặc biệt chú trọng tới các cảnh quay có sự xuất hiện của nữ diễn viên Ingrid Bergman, cô thường được quay từ phía bên trái ưa thích, các khung hình của Bergman thường được lấy nét mềm và bố trí ánh sáng sao cho đôi mắt của nữ diễn viên này trở nên lấp lánh, giúp cho nhân vật Ilsa có được vẻ đẹp buồn bã, nhẹ nhàng và mang chút hoài cổ.[6] Nhiều cảnh quay trong Casablanca dùng biểu tượng bóng cột dài đổ trên nhân vật tạo cảm giác họ bị cầm tù, những dải bóng ngang dọc cũng để ám chỉ Chữ thập Lorraine, biểu tượng của Chính phủ Tự do Pháp cũng như các xung đột về tinh thần của nhân vật.[6] Theo Rosenzweig, những hiệu quả hình ảnh này là chi tiết kinh điển trong các bộ phim của Curtiz bên cạnh cách di chuyển máy bay và sử dụng bối cảnh phim để phân đoạn.[34]
Một rắc rối trong quá trình quay Casablanca là sự chênh lệch về chiều cao giữa Bergman và Bogart, nữ diễn viên gốc Thụy Điển cao hơn bạn diễn chừng 5 cm nên cô thường đề nghị Curtiz cho Bogart đứng ở tầm cao hơn hoặc ngồi trong các cảnh quay cùng cô.[35] Câu thoại cuối cùng của phim phim ("Louis, tôi nghĩ rằng đây là sự bắt đầu của một tình bạn đẹp") được Wallis nghĩ ra sau khi đoàn làm phim đã đóng máy, vì vậy mãi một tháng sau Bogard mới được mời lại để lồng tiếng cho câu cuối cùng này. Người ta còn có dự định quay thêm một cảnh phim mô tả Renault và những binh lính của chính phủ Pháp Tự do tham gia cuộc tấn công Bắc Phi của quân Đồng minh, tuy nhiên việc mời lại Claude Rains là quá khó khăn và đạo diễn nổi tiếng David O. Selznick cũng cho rằng thay đổi cái kết có sẵn của Casablanca sẽ là một "sai lầm tồi tệ" ("terrible mistake").[36]
Nhạc phim
Phần nhạc phim của Casablanca được giao cho nhà soạn nhạc nổi tiếng Max Steiner, người vào năm 1939 đã sáng tác phần nhạc cho bộ phim bất hủ Cuốn theo chiều gió (Gone with the Wind). Bài hát chủ đề của phim, "As Time Goes By" do Herman Hupfeld sáng tác đã được Burnett chọn ngay từ kịch bản sân khấu. Steiner vốn dự định bỏ As Time Goes By để thay mới hoàn toàn bằng nhạc của ông, tuy nhiên do Bergman vừa cắt tóc ngắn cho vai diễn María trong Chuông nguyện hồn ai (For Whom the Bell Tolls) nên cô không thể quay lại các cảnh có xuất hiện giai điệu của As Time Goes By và kết quả là Max Steiner quyết định dựa trên bài hát này cùng bản quốc ca Pháp "La Marseillaise" để viết nhạc phim cho phù hợp với sự thay đổi tâm trạng nhân vật.[37] Trong cảnh quay đáng nhớ khi Laszlo bắt nhịp khách hàng trong quán hát La Marseillaise át tiếng sĩ quan Đức đang hát Die Wacht am Rhein, bài hát Đức ban đầu được chọn là "Horst Wessel Lied", tác phẩm được coi là quốc ca thứ hai của Đức Quốc xã, tuy nhiên các nhà làm phim đã không thể sử dụng bài hát này do nó vẫn còn hạn bản quyền. Một số bài hát khác được sử dụng trong Casablanca, chủ yếu thông qua tiếng hát của người nhạc công da đen Sam, là "It Had to Be You" (1924, nhạc của Isham Jones, lời của Gus Kahn), "Knock on Wood" (nhạc của M.K. Jerome, lời của Jack Scholl) và "Shine" (1910, nhạc của Ford Dabney, lời của Cecil Mack và Lew Brown). Từ năm 1999, As Time Goes By được Warner Bros. dùng làm nhạc hiệu mở đầu cho hãng.[hiện]Nhạc phim Casablanca |
---|
Công chiếu và đánh giá
Bộ phim được công chiếu chính thức tại Hollywood Theater ở Thành phố New York ngày 26 tháng 11 năm 1942, trùng với dịp quân Đồng minh tấn công Bắc Phi và chiếm Casablanca.[2] Casablanca sau đó được công chiếu rộng rãi từ ngày 23 tháng 1 năm 1943 nhằm tận dụng tiếng vang của Hội nghị Casablanca, một hội nghị cấp cao của phe Đồng minh với sự xuất hiện của cả thủ tướng Anh Winston Churchill và tổng thống Mỹ Franklin D. Roosevelt. Bộ phim tương đối thành công về mặt kinh doanh khi nó đem lại cho các nhà sản xuất 3,7 triệu đô la Mỹ trong lần đầu công chiếu ở Hoa Kỳ, đây là bộ phim ăn khách thứ 7 ở nước này trong năm 1943.[40]Đánh giá
Phần lớn ý kiến phê bình trong thời gian Casablanca ra mắt lần đầu cũng có đánh giá tích cực.[41] Bên cạnh diễn xuất của Bogart và Bergman, tờ Variety còn khen ngợi phim là một tác phẩm tuyên truyền chống phe Trục tuyệt vời,[42] về đánh giá này Koch sau đó đã nhận xét: "đó là một bộ phim khán giả cần... có những giá trị... đáng để người ta hy sinh. Và nó được kể một cách hết sức hấp dẫn".[43][44] Vì lý do này mà Cơ quan thông tin chiến tranh Hoa Kỳ (United States Office of War Information) đã ngăn việc chiếu Casablanca cho binh lính ở Bắc Phi vì họ sợ bộ phim sẽ khiến những người ủng hộ chính phủ Vichy Pháp tức giận.[45] Bài phê bình phim trên tờ The New York Times cho rằng bộ phim là một tác phẩm cảm động tới "sởi gai ốc" và rằng các nhà làm phim đã kết hợp rất tốt các yếu tố tình cảm, hài hước và cảm động; NY Times cũng đánh giá cao chất lượng kịch bản và diễn xuất của dàn diễn viên trong phim.[46] Tại lễ trao giải Oscar năm 1944, Casablanca đã chiến thắng ở ba hạng mục quan trọng là Phim hay nhất, Đạo diễn xuất sắc nhất và Kịch bản chuyển thể xuất sắc nhất. Tuy là người được đứng tên nhận giải phim hay nhất nhưng Wallis lại không được giữ giải thưởng vì ông chủ hãng phim Jack Warner đã giữ lại tượng vàng, tức giận vì hành động này của Warner, Wallis đã cắt hợp đồng với hãng phim ngay tháng 4 cùng năm.[47]Trải qua thời gian, bộ phim tiếp tục nhận được đánh giá cao từ giới phê bình phim. Nhân dịp kỉ niệm lần thứ 50 ngày Casablanca được công chiếu lần đầu, tờ Los Angeles Times nhận xét rằng bộ phim đã đạt được sự cân bằng gần như hoàn hảo của cả ba thể loại phim ly kì, tình cảm và hài hước, tờ LA Times cho rằng sức sống lâu bền của bộ phim chính là tinh túy của các bộ phim Hollywood giai đoạn hoàng kim.[48] Theo nhà phê bình Roger Ebert thì Casablanca có lẽ là bộ phim nằm trong nhiều danh sách Phim hay nhất hơn tất cả các bộ phim khác, kể cả Công dân Kane (Citizen Kane) vì tầm ảnh hưởng rộng rãi của nó mà theo lời ông là Công dân Kane "xuất sắc hơn" nhưng Casablanca "được yêu thích hơn".[6] Ebert cho rằng sự phổ biến của bộ phim đến từ cách xây dựng hình ảnh nhân vật vô cùng đẹp đẽ trong phim, theo sự phát triển của tình tiết phim, các nhân vật càng bộc lộ sự tốt đẹp của mình tuy rằng một số nhân vật như Laszlo được xây dựng quá hoàn hảo tới mức thiếu thực tế.[49]
Không phải toàn bộ ý kiến phê bình đều đánh giá cao Casablanca, tờ The New Yorker chỉ đánh giá bộ phim là "tạm được" ("pretty tolerable").[50] Còn theo Pauline Kael thì bộ phim còn lâu mới có thể coi là một tác phẩm lớn mà chỉ là một bộ phim lãng mạn rẻ tiền.[51] Tương tự Kael, Umberto Eco đánh giá "theo bất cứ tiêu chuẩn phê bình chính xác nào thì Casablanca cũng là một bộ phim hết sức tầm thường"[52] với tuyến nhân vật không phải phức tạp mà là đầy sự mâu thuẫn.[53] Bộ phim cũng bị nhận xét là có một số sai sót về mặt lịch sử và lôgic. Ví dụ tờ thông hành trong phim theo lời Ugarte là nó có chữ ký của cả Weygard, toàn quyền Vichy Pháp tại các thuộc địa Bắc Phi, và De Gaulle, lãnh tụ chính phủ Pháp Tự do lưu vong, trong khi thực tế thì tòa án quân sự của chính quyền Vichy Pháp đã kết án vắng mặt De Gaulle tội phản quốc với án chung thân vào ngày 2 tháng 8 năm 1940, vì vậy một tờ thông hành có chữ ký của De Gaulle thì hoàn toàn vô giá trị trong lãnh thổ do Vichy Pháp quản lý.[25] Theo Harmetz thì tờ thông hành này được Joan Allison nghĩ ra cho kịch bản sân khấu và nó chưa bao giờ bị đặt dấu hỏi về mức độ chính xác về mặt lịch sử.[54] Một chi tiết không hợp lý khác là việc Laszlo được đi lại tự do ở Casablanca sau khi trốn khỏi trại tập trung Đức Quốc xã vì "đây vẫn là vùng chưa bị chiếm đóng của nước Pháp", chi tiết này hoàn toàn không hợp lý vì chính quyền Vichy Pháp quản lý thành phố vốn có quan hệ cực kỳ chặt chẽ với Đức Quốc xã và chắc chắn Laszlo phải bị bắt ngay khi xuất hiện trước mặt cảnh sát Pháp.[6] Một câu thoại của Renault cũng đề cập tới chi tiết ông từng "đi cùng người Mỹ khi họ tiến về Berlin năm 1918", thực tế thủ đô nước Đức chưa bao giờ bị chiếm đóng trong Thế chiến thứ nhất, việc Renault bị các sĩ quan Đức giám sát trực tiếp cũng là vô lý vì quân đội Đức không hề chính thức có mặt ở Casablanca suốt Thế chiến thứ hai.[25] Casablanca còn gặp một số lỗi về tính liên tục trên phim, điển hình là cảnh Rick ướt sũng khi tới ga tàu để rời Paris nhưng khi anh lên tàu thì chiếc áo khoác lại khô cong, theo lời Michael Curtiz thì những lỗi về tính liên tục Casablanca gặp phải là do ông "làm bộ phim quá nhanh và chẳng ai để ý".[49]
Ảnh hưởng
Casablanca sau khi ra đời đã để lại dấu ấn sâu đậm trong lịch sử điện ảnh Mỹ. Murray Burnett đã nhận xét rằng bộ phim luôn "chân thực với ngày hôm qua, hôm nay và cả ngày mai" ("true yesterday, true today, true tomorrow").[55] Tính cho đến năm 1955, bộ phim có doanh thu tổng cộng 6,8 triệu đô la Mỹ, đứng thứ ba trong số các bộ phim của hãng Warner Bros. sản xuất thời kỳ chiến tranh. Sức ảnh hưởng của Casablanca được thể hiện qua nhiều chi tiết của bộ phim được tái hiện trong các tác phẩm điện ảnh ra đời sau nó. Năm 1944, bộ phim Passage to Marseille tập hợp gần như toàn bộ dàn diễn viên chính của Casablanca với Bogart, Rains, Curtiz, Greenstreet và Lorre. Riêng Humphrey Bogart đã có thêm hai bộ phim có rất nhiều điểm tương tự với Casablanca, đó là To Have and Have Not (1944) và Sirocco (1951). Casablanca còn được gợi lại qua nhiều bộ phim khác như A Night in Casablanca (1946) của anh em nhà Marx, The Cheap Detective (1978) của Neil Simon, Brazil (1985) của Terry Gilliam, Barb Wire (1996) hay Out Cold (2001). Steven Soderbergh trong bộ phim The Good German (2006) đã tái sử dụng rất nhiều kỹ thuật quay và chi tiết phim của Casablanca để tưởng nhớ tới bộ phim, The Good German nói về một vụ giết người xảy ra tại Berlin thời hậu Thế chiến thứ hai, tác phẩm được hoàn toàn quay bằng phim đen trắng và kết thúc bằng cảnh hai nhân vật chính (do George Clooney và Cate Blanchett thủ vai) ở sân bay, tương tự với cảnh kết của Casablanca, thậm chí áp phích của bộ phim cũng được thiết kế tương tự với áp phích nổi tiếng của Casablanca. Nhiều bộ phim còn tưởng nhớ tới Casablanca thông qua chính tựa đề của nó, ví dụ bộ phim Play It Again, Sam (1972) của Woody Allen gợi tới câu thoại "Play it, Sam. Play As Time Goes By!" còn The Usual Suspects (1995) của Bryan Singer lại sử dụng câu thoại ở phần kết của Casablanca là "Round up the usual suspects". Bộ phim Caboblanco (1980) thì thậm chí gần như là một tác phẩm làm lại Casablanca với bối cảnh Nam Mỹ.[56] Bản thân hãng Warner Bros. vào năm 1995 cũng cho làm một bộ phim nhái lại Casablanca với tựa đề Carrotblanca, đây là một tập phim hoạt hình thuộc loạt Bugs Bunny. Trên truyền hình, ảnh hưởng của Casablanca có thể thấy rõ qua cốt truyện của bộ phim Overdrawn at the Memory Bank (1983) hay tập phim Casablanca của loạt Moonlighting trong đó hai nhân vật chính có tên "Rick" (Curtis Armstrong) và "Agnes" (Allyce Beasley). Trò chơi máy tính được đánh giá cao năm 1998 Grim Fandango cũng chịu nhiều ảnh hưởng của bộ phim, cụ thể rõ nhất là ở cảnh II, Rubacava, khi các nhân vật chính của game là Manny Calavera và Glottis mặc trang phục giống Rick Blaine và Sam.Tại Hoa Kỳ, Casablanca luôn được chiếu lại trong tuần kiểm tra cuối kì của Đại học Harvard, truyền thống này đã được nhiều trường đại học Mỹ khác bắt chước.[57] Trong khi nhiều bộ phim sản xuất thập niên 1940 dần bị quên lãng theo thời gian thì Casablanca cho tới năm 1977 vẫn là tác phẩm điện ảnh được chiếu lại nhiều nhất trên truyền hình Mỹ.[58] Tuy nhiên dường như Casablanca có ảnh hưởng sâu đậm với giới hâm mộ điện ảnh hơn là giới làm điện ảnh. Năm 1982 trong một bài báo trên tờ American Film, Chuck Ross đã tuyên bố rằng ông vừa thử nghiệm việc đánh máy lại kịch bản Casablanca, chỉ thay lại tựa đề thành Everybody Comes to Rick's và thay tên nghệ sĩ chơi piano thành Dooley Wilson rồi gửi nó tới 217 đại diện môi giới. Trong số 85 đại diện đọc nó thì 38 đại diện thẳng thừng từ chối kịch bản này, 33 nhận ra được nó là kịch bản cũ (tuy chỉ có 8 là xác định được đây là kịch bản Casablanca), 3 nhận xét rằng nó có khả năng thương mại hóa, và 1 thì đề nghị chuyển kịch bản thành tiểu thuyết.[59]
Giải thưởng và xếp hạng
Tại lễ trao giải Oscar lần thứ 16 (1942), Casablanca đã được đề cử tổng cộng 8 giải Oscar.[60] Bộ phim chiến thắng tại 3 hạng mục quan trọng là Phim hay nhất (cho Hal B. Wallis), Đạo diễn xuất sắc nhất (cho Michael Curtiz) và Kịch bản chuyển thể hay nhất (cho Julius J. Epstein, Philip G. Epstein và Howard Koch). Đây là giải Oscar đầu tiên của đạo diễn Michael Curtiz sau 3 lần đề cử vào các năm 1942 và 1938 (hai phim). Với Curtiz và Hal B. Wallis, đây đều là chiến thắng duy nhất của họ ở giải thưởng này. Với vai diễn xuất sắc của mình, Humphrey Bogart cũng có một đề cử ở hạng mục Vai nam chính xuất sắc nhất tuy nhiên tượng vàng cuối cùng lại được trao cho Paul Lukas, một đồng hương người Hungary của đạo diễn Curtiz, với vai diễn trong bộ phim Watch on the Rhine (tên tiếng Anh của bài hát Die Wacht am Rhein được nhắc tới trong trường đoạn nổi tiếng của Casablanca). Năm 1989, bộ phim đã được Viện lưu trữ phim quốc gia của Mỹ chọn vào danh sách bảo tồn của viện ngay trong đợt đầu tiên.[60] Trong các danh sách xếp hạng phim hay nhất trong lịch sử điện ảnh, Casablanca thường xuyên được lựa chọn, ví dụ trong danh sách 100 phim hay nhất của Viện phim Mỹ, Casablanca đứng thứ 2 trong bảng xếp hạng 1998 và thứ 3 trong bảng xếp hạng 2007. Những câu thoại nổi tiếng của bộ phim cũng thường được nhắc tới trong các danh sách câu thoại nổi tiếng, Danh sách 100 câu thoại đáng nhớ trong phim của Viện phim Mỹ có tới 6 câu thoại trích từ bộ phim: "Here's looking at you, kid." (Nhìn em kìa, cô bé) (thứ 5), "Louis, I think this is the beginning of a beautiful friendship." (Louis, tôi nghĩ rằng đây là sự bắt đầu của một tình bạn đẹp)(thứ 20), "Play it, Sam. Play 'As Time Goes By.'" (thứ 28), "Round up the usual suspects." (thứ 32), "We'll always have Paris." (Trong chúng ta luôn có Paris) (thứ 43) và "Of all the gin joints in all the towns in all the world, she walks into mine." (Trong vô vàn những quán rượu ở mọi thành phố trên khắp thế giới này, cô ấy lại tới đúng chỗ của tôi) (thứ 67). Với 6 câu thoại, Casablanca là bộ phim có nhiều câu thoại đứng trong danh sách nhất, đứng trên Cuốn theo chiều gió và The Wizard of Oz.[61] Trong số 6 câu thoại thì "Here's looking at you, kid" không hề nằm trong kịch bản gốc mà nó xuất phát từ một câu nói ngẫu hứng của Bogart khi ông dạy Bergman chơi bài poker trong thời gian nghỉ giữa các cảnh quay.[62][hiện]Danh sách giải thưởng và vị trí trong các bảng xếp hạng của Casablanca |
---|
Chuyển thể
Sau khi bộ phim đạt được thành công lớn cả về nghệ thuật và doanh thu, các nhà sản xuất đã lập tức dự định về một phần tiếp theo của Casablanca. Phần kết này được dự định lấy tên Brazzaville, tên thành phố mà viên cảnh sát Renault nhắc tới ở cảnh cuối cùng, tuy vậy Brazzaville chưa bao giờ được đưa vào sản xuất thực sự. Cũng từng có những dự án làm lại bộ phim tuy nhiên không có dự án nào được hiện thực hóa, đạo diễn nổi tiếng người Pháp François Truffaut vào năm 1974 đã từ chối một dự án như vậy vì theo ông bộ phim đã trở thành một tác phẩm được sinh viên Mỹ tôn thờ.[70] Ở bên ngoài Hollywood, một nhà làm phim Ấn Độ của Bollywood là Rajeev Nath vào năm 2007 cũng đưa ra một dự án làm lại Casablanca như một cách tưởng nhớ tới bộ phim nổi tiếng.[71]Đã có hai bộ phim truyền hình ngắn được sản xuất dựa trên Casablanca, chúng đều được coi là những phần trước của bộ phim. Loạt phim truyền hình đầu tiên được hãng ABC phát sóng trong hai năm 1955 và 1956 với Charles McGraw thủ vai Rick và Marcel Dalio thủ vai Renault. Đây là một trong các tác phẩm của chương trình Warner Bros. Presents[72] với tổng thời lượng các tập là 10 tiếng. Loạt phim thứ hai có tổng thời lượng 5 tiếng do đài NBC phát sóng năm 1983 với David Soul vào vai Rick còn Ray Liotta vào vai Sacha.[73] Casablanca còn được chuyển thể thành kịch truyền thanh nhiều lần trong đó đáng chú ý có vở kịch dài 30 phút phát trên The Screen Guild Theater vào ngày 26 tháng 4 năm 1943 với sự góp mặt của cả Bogart, Bergman và Henreid, hay phiên bản chuyển thể dài 1 tiếng phát trên Lux Radio Theater vào ngày 24 tháng 1 năm 1944 với Alan Ladd vào vai Rick còn Hedy Lamarr vào vai Ilsa. Biên kịch Casablanca là Julius Epstein từng hai lần dự định chuyển thể bộ phim lên sân khấu Broadway vào các năm 1951 và 1967 nhưng cả hai lần dự định của Epstein đều không thành hiện thực.[74] Vở kịch gốc của Casablanca là Everybody Comes to Rick's cũng từng được công diễn ở Newport, Rhode Island vào tháng 8 năm 1946 và Luân Đôn tháng 4 năm 1991 nhưng đều không phải là những vở diễn thành công.[75]
Casablanca được hãng Warner Bros. cho phép nhà văn Michael Walsh chuyển thể thành tiểu thuyết với tựa đề As Time Goes By, tác phẩm được xuất bản năm 1998.[76][77] Ngoài những tình tiết có trong phim, tiểu thuyết còn đề cập tới nhiều chi tiết khác không có trong Casablanca như quá khứ bí ẩn của Rick ở Mỹ. Tuy nhiên không giống như bộ phim gốc, tiểu thuyết As Time Goes By không phải là một tác phẩm thành công.[78]
Dạng phát hành khác
Trong thập niên 1980, Casablanca từng được chuyển thành phim màu trong một dự án gây nhiều tranh cãi.[79] Phiên bản màu này được phát sóng trên truyền hình và phát hành dưới dạng băng VHS tuy nhiên chúng không được người xem đón nhận. Con trai của Humphrey Bogart là Stephen đã nhận xét về dự án màu hóa bộ phim này như sau: "Nếu các ngài định màu hóa Casablanca thì tại sao không thêm tay cho Tượng thần Vệ Nữ?".[70][80]Casablanca được Warner Home Video phát hành dưới dạng đĩa lade vào năm 1991 và băng VHS vào năm 1992. Tới năm 1997, bộ phim được hãng MGM phát hành dưới dạng đĩa DVD kèm theo đoạn phim giới thiệu và một phim tài liệu ngắn nói về quá trình sản xuất. Năm 2003 phiên bản DVD Casablanca đặc biệt gồm 2 đĩa được ra mắt công chúng, phiên bản này ngoài nội dung phim với hình ảnh được phục chế còn có phần bình luận và các phim tài liệu đính kèm.[81] Ngày 14 tháng 11 năm 2006, Casablanca được phát hành dưới dạng HD DVD với phần nội dung tương tự bản DVD năm 2003.[82] Phiên bản này được khen ngợi vì phần hình ảnh phim có chất lượng rất tốt.[83][84] Tới năm 2008, tới lượt phiên bản Blu-ray của Casablanca xuất hiện với một số phần kèm thêm mới.[85]
Tham khảo
Chú thích
- ^ Ebert, Roger (15 tháng 9 năm 1996). “Casablanca (1942)”. Chicago Sun-Times. Truy cập ngày 29 tháng 7 năm 2007.
- ^ a ă Eliot Stein (tháng 5 năm 1995). “"Howard Koch, Julius Epstein, Frank Miller Interview"”. vincasa.com. Truy cập ngày 11 tháng 6 năm 2008. Frank Miller: "There was a scene planned, after the ending, that would have shown Rick and Renault on an Allied ship just prior to the landing at CASABLANCA but plans to shoot it were scrapped when the marketing department realized they had to get the film out fast to capitalize on the liberation of North Africa."
- ^ Harmetz, tr. 214
- ^ Harmetz, tr. 74
- ^ “From quintessential "good girl" to Hollywood heavyweight”. The Family of Ingrid Bergman. Truy cập ngày 3 tháng 8 năm 2007.
- ^ a ă â b c d đ Ebert, Roger. Casablanca .
- ^ Harmetz, tr. 88, 89, 92, 95
- ^ Harmetz, tr. 99
- ^ Harmetz, tr. 97
- ^ Harmetz, tr. 139–40, 260 và Behlmer, tr. 214
- ^ Behlmer, Rudy (1985). Inside Warner Bros. (1935–1951). Luân Đôn: Weidenfeld and Nicolson. tr. 194. ISBN 0297792423.
- ^ Harmetz, tr. 53–54
- ^ Harmetz, Aljean (1992). Round Up the Usual Suspects: The Making of Casablanca. Luân Đôn: Weidenfeld and Nicolson. tr. 17. ISBN 0297812947.
- ^ Harmetz, tr. 18
- ^ Wilson, Kristi M. (2002). “Casablanca”. St James Encyclopedia of Pop Culture, Gale Group. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 6 năm 2012. Truy cập ngày 10 tháng 8 năm 2007.
- ^ Harmetz, tr. 30
- ^ Harmetz, tr. 56–59
- ^ Harmetz, tr. 175 và 179
- ^ Harmetz, tr. 229
- ^ Behlmer, tr. 206–207
- ^ Sorel, Edward (tháng 12 năm 1991). “Casablanca”. American Heritage. Truy cập ngày 3 tháng 8 năm 2007.
- ^ “Casablanca' writer dies at 91”. CNN. 1 tháng 1 năm 2001. Truy cập ngày 3 tháng 8 năm 2007.
- ^ “Censored Films and Television”. Đại học Virginia. Truy cập ngày 25 tháng 5 năm 2009.
- ^ Harmetz, tr. 162–166 và Behlmer, tr. 207–208, 212–213
- ^ a ă â Robertson, James C. (1993). The Casablanca Man: The Cinema of Michael Curtiz. London: Routledge. tr. 79. ISBN 0415068045.
- ^ Behlmer, tr. 208
- ^ Harmetz, tr. 75.
- ^ Sarris, Andrew (1968). The American Cinema: Directors and Directions 1929–1968. New York: Dutton. tr. 176.
- ^ Rosenzweig, Sidney (1982). Casablanca and Other Major Films of Michael Curtiz. Ann Arbor, Mich: UMI Research Press. tr. 158–159. ISBN 0835713040.
- ^ Harmetz, tr. 264
- ^ Behlmer, tr. 214–215
- ^ Harmetz, tr. 237
- ^ “The Plane Truth”. Snopes. 21 tháng 8 năm 2007. Truy cập ngày 6 tháng 12 năm 2007.
- ^ Rosenzweig, tr. 6–7
- ^ Harmetz, tr. 170
- ^ Harmetz, tr. 280–81
- ^ Harmetz, tr. 253–58
- ^ “Casablanca (1942) - Soundtrack”. IMDb. Truy cập ngày 25 tháng 5 năm 2009.
- ^ “Casablanca: Original Motion Picture Soundtrack”. Amazon.com. Truy cập ngày 25 tháng 5 năm 2009.
- ^ Harmetz, tr. 12
- ^ Stanley, John (5 tháng 4 năm 1992). “'Casablanca' Celebrates Its 50th”. San Francisco Chronicle.
- ^ “Film reviews through the years”. Variety. 2 tháng 12 năm 1942. Truy cập ngày 29 tháng 7 năm 2007.
- ^ Nguyên văn: "it was a picture the audiences needed... there were values... worth making sacrifices for. And it said it in a very entertaining way."
- ^ Cass Warner Sperling và Cork Millner (1994). Hollywood Be Thy Name: The Warner Bros. Story. Rocklin, California: Prima. tr. 249.
- ^ Harmetz, tr. 286
- ^ Crowther, Bosley (27 tháng 11 năm 1942). “'Casablanca', with Humphrey Bogart and Ingrid Bergman, at Hollywood”. The New York Times. tr. 27.
- ^ Harmetz, tr. 321–24
- ^ Strauss, Bob (10 tháng 4 năm 1992). “Still the best: Casablanca loses no luster over time”. Los Angeles Times.
- ^ a ă Quoted in Ebert commentary.
- ^ Harmetz, tr. 12–13
- ^ Pauline Kael. “Casablanca”. geocities.com. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 10 năm 2009. Truy cập ngày 5 tháng 1 năm 2009.[[]][liên kết hỏng]
- ^ Nguyên văn: "by any strict critical standards... Casablanca is a very mediocre film."
- ^ Eco, Umberto (1994). Signs of Life in the USA: Readings on Popular Culture for Writers. Bedford Books. ISBN 0-312-25925-5.
- ^ Harmetz, tr. 55
- ^ “Casablanca 50th Anniversary Special: You Must Remember This”. IMDb. 1992. Truy cập ngày 25 tháng 5 năm 2009.
- ^ Yoram Allon và Hannah Patterson (2001). Contemporary British & Irish Directors. Wallflower Press. tr. 332.
- ^ Harmetz, tr. 343
- ^ Harmetz, tr. 346
- ^ Zinman, David (10 tháng 4 năm 1983). The Magazine. The Province. tr. 12.
- ^ a ă â b “Casablanca (1942)”. Yahoo! Movies. Truy cập ngày 21 tháng 5 năm 2009.
- ^ “'Frankly, my dear...' named number one movie quote”. Australian Broadcasting Company. 23 tháng 6 năm 2005. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 11 năm 2005. Truy cập ngày 4 tháng 11 năm 2006.
- ^ Harmetz, tr. 187
- ^ “Trang thống kê”. Viện phim Mỹ. Truy cập ngày 21 tháng 5 năm 2009.
- ^ “The 100 Greatest Movie Characters of All Time”. Premiere. 4 tháng 12 năm 2004. Truy cập ngày 21 tháng 5 năm 2009.
- ^ “The 101 Greatest Screenplays of All Time”. Premiere. 4 tháng 3 năm 2006. Truy cập ngày 21 tháng 5 năm 2009.
- ^ “The 100 Greatest Movie Lines”. Premiere. 4 tháng 11 năm 2007. Truy cập ngày 21 tháng 5 năm 2009.
- ^ “Top 250 movies - IMDb”. IMDb. Truy cập ngày 21 tháng 5 năm 2009.
- ^ “Casablanca (1942)”. Rotten Tomatoes. Truy cập ngày 21 tháng 5 năm 2009.
- ^ “Trang web chính thức”. Viện lưu trữ phim quốc gia (Hoa Kỳ). Truy cập ngày 21 tháng 5 năm 2009.
- ^ a ă Harmetz, tr. 342
- ^ “'Casablanca' to be remade by Bollywood”. Independent News. Truy cập ngày 11 tháng 8 năm 2007.
- ^ “Casablanca (1955)”. IMDb. Truy cập ngày 6 tháng 8 năm 2007.
- ^ “Casablanca (1983)”. IMDb. Truy cập ngày 6 tháng 8 năm 2007.
- ^ Harmetz, tr. 338
- ^ Harmetz, tr. 331
- ^ “Borders.com presents Michael Walsh, Author of "As Time Goes By"”. LiveWorld, Inc. 8 tháng 1 năm 1999. Truy cập ngày 13 tháng 8 năm 2007.[[]][liên kết hỏng]
- ^ Walsh, Michael (1998). “How Did I Write "As Time Goes By"?”. Hachette Book Group USA. Truy cập ngày 13 tháng 8 năm 2007.
- ^ Lawless, Jill (31 tháng 5 năm 2006). “'Mrs. Robinson' Returns in Sequel”. CBS News. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 10 năm 2007. Truy cập ngày 13 tháng 8 năm 2007.
- ^ Krauthammer, Charles (12 tháng 1 năm 1987). “Casablanca In Color?”. Time. Truy cập ngày 6 tháng 8 năm 2007.
- ^ Nguyên văn: "if you're going to colorize Casablanca, why not put arms on the Venus de Milo?"
- ^ “Casablanca: Two-Disc Special Edition”. Amazon.com. Truy cập ngày 25 tháng 5 năm 2009.
- ^ “Casablanca HD-DVD (1943)”. Amazon.com. Truy cập ngày 25 tháng 5 năm 2009.
- ^ “Casablanca — Humphrey Bogart”. Dvdbeaver.com. Truy cập ngày 25 tháng 5 năm 2009.
- ^ “HD DVD Review: Casablanca”. High-Def Digest. Truy cập ngày 25 tháng 5 năm 2009.
- ^ “WHV Press Release: Casablanca Ultimate Collector's Edition (DVD/Blu-ray) - Home Theater”. Homtheaterforum.com. Truy cập ngày 25 tháng 5 năm 2009.
Thư mục
- Behlmer, Rudy (1985). Inside Warner Bros. (1935–1951). Luân Đôn: Weidenfeld and Nicolson. ISBN 0297792423.
- Harmetz, Aljean (1993). Round Up the Usual Suspects: The Making of Casablanca. Warner Books Inc. ISBN 1-56282-761-8.
- Robertson, James C (1993). The Casablanca Man: The Cinema of Michael Curtiz. Luân Đôn: Routledge. ISBN 0-415-06804-5.
- Rosenzweig, Sidney (1982). Casablanca and Other Major Films of Michael Curtiz. Ann Arbor, Michigan: UMI Research Press. ISBN 0-8357-1304-0.
- Michael Walsh (2004). Casablanca . NXB Hội nhà văn.
Liên kết ngoài
Wikimedia Commons có thêm thể loại hình ảnh và phương tiện truyền tải về Phim Casablanca |
- Thông tin trên PAN
- Cả 3 diễn viên chính Humphrey Bogart, Ingrid Bergman và Paul Henreid đều không muốn tham gia
|
Thể loại:
Video yêu thích - Phim tiếng Anh
- Album có hộp thông tin sai màu
- Phim giành giải Oscar cho phim hay nhất
- Michael Curtiz
- Phim của Warner Bros.
- Phim của Viện lưu trữ phim Quốc gia Mỹ
- Phim về Thế chiến II
- Phim trắng đen
- Phim 1942
- Phim lấy bối cảnh năm 1941
- Phim lấy bối cảnh ở Paris
- Phim quay tại California
- Phim được lưu trữ tại Cơ quan lưu trữ phim Quốc gia Hoa Kỳ
http://www.youtube.com/user/hoangkimvietnam
Trở về trang chính
hoangkim vietnam, hoangkim, hoangkimvietnam, Hoàng Kim, Ngọc Phương Nam, Chào ngày mới Thung dung, Dạy và học, Cây Lương thực, Tin Nông nghiệp Việt Nam, Food Crops, foodcrops.vn, Cassava in Vietnam, VietnamAfricaCassavaRice, Khát khao xanh, Dayvahoc, Học mỗi ngày, Danh nhân Việt , Food Crops News, Điểm chính, CNM365, Câu chuyện ảnh, 5 phút thư giản, Kim LinkedIn, KimTwitter, KimFaceBook Đọc lại và suy ngẫm, Việt Nam tổ quốc tôi, Tình yêu cuộc sống, Thơ cho con
No comments:
Post a Comment