Friday, October 31, 2014

Chào ngày mới 01 tháng 11

Vị trí của Algérie

CNM365 Chào ngày mới 01 tháng 11. Wikipedia Ngày này năm xưa. Lễ Các Thánh (Kitô giáo Tây Phương); ngày kỷ niệm Cách mạng tại Algérie (1954) (hình); ngày lập bang tại Andhra Pradesh, Haryana, Karnataka, KeralaNăm 1922Hội nghị Đại quốc dân Thổ Nhĩ Kỳ bãi bỏ chế độ quân chủ, Sultan Mehmed VI bị phế truất và bị trục xuất khỏi thủ đô, Đế quốc Ottoman diệt vong. Năm 1942Chiến tranh thế giới thứ hai: Cuộc tấn công Matanikau bắt đầu trong khuôn khổ Chiến dịch Guadalcanal và kết thúc ba ngày sau với thắng lợi của Hoa Kỳ. Năm 1963 – Khởi đầu một cuộc đảo chính nhằm lật đổ chính phủ Đệ nhất Cộng hòa Việt Nam. Ngày này về sau trở thành ngày quốc khánh của Đệ nhị Cộng hòa Việt Nam. Năm 1993Hiệp ước Maastricht có hiệu lực, chính thức thành lập Liên minh châu Âu.

Algérie

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Algérie
الجمهورية الجزائرية الديمقراطية الشعبية (tiếng Ả Rập)
ad-Dīmūqrāṭiyya aš-Šaʿbiyya (tiếng Ả Rập)
Flag of Algeria.svg Seal of Algeria.svg
Quốc kỳ Huy hiệu
Vị trí của Algérie
Khẩu hiệu
Tiếng Ả Rập: من الشعب و للشعب
"Cách mạng do dân và vì dân"
Quốc ca
Kassaman (Qasaman Bin-Nāzilāt Il-Māḥiqāt)
Hành chính
Chính phủ Cộng hòa bán tổng thống
Tổng thống
Thủ tướng
Abdelaziz Bouteflika
Ahmed Ouyahia
Ngôn ngữ chính thức Tiếng Ả Rập
Thủ đô Alger [1]
36°42′B, 3°13′Đ
Thành phố lớn nhất Alger
Địa lý
Diện tích 2.381.741 km² (hạng 11)
Múi giờ CET (UTC+1); mùa hè: CET
Lịch sử
Ngày thành lập Từ Pháp
5 tháng 7, 1962
Dân cư
Dân số ước lượng (2012) 37.367.226[2] người (hạng 34)
Mật độ 13 người/km²
Kinh tế
GDP (PPP) (2004) Tổng số: $217.224 tỷ đô la Mỹ
HDI (2003) 0,722 trung (hạng 103)
Đơn vị tiền tệ Dinar Algérie (DZD)
Thông tin khác
Tên miền Internet .dz
Algérie
Algérie (tiếng Ả Rập: الجزائر Bảng ký hiệu ngữ âm quốc tế [ɛlʤɛˈzɛːʔir], tiếng Berber (Tamazight): Lz̦ayer [ldzæjər], phiên âm tiếng Việt: "An-giê-ri", phiên âm Hán-Việt: "A Nhĩ Cập Lợi Á"), tên chính thức Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Algérie, là một nước tại Bắc Phi, và là nước lớn nhất trên lục địa Châu Phi (Sudan lớn hơn nhưng chia làm 2 nước Sudan và Nam Sudan). Nước này có chung biên giới với Tunisia ở phía đông bắc, Libya ở phía đông, Niger phía đông nam, MaliMauritanie phía tây nam, và Maroc cũng như một vài kilômét lãnh thổ phụ thuộc, Tây Sahara, ở phía tây. Theo hiến pháp, nước này được xác định là một quốc gia Hồi giáo, Ả RậpAmazigh (Berber). Tên gọi "Algérie" xuất phát từ tên thành phố Algiers, và chính thức từ al-jazā’ir trong tiếng Ả Rập, có nghĩa là "hòn đảo", để chỉ bốn hòn đảo nằm ngoài khơi thành phố này trước khi chúng trở thành một phần lục địa năm 1525. Nhưng có lẽ chính xác nhất từ "Algiers" xuất phát từ Ziriya Bani Mazghana (được các nhà địa lý thời trung cổ như al-IdrisiYaqut al-Hamawi sử dụng) để chỉ người sáng lập ra nó vua Ziri Amazigh (thành phố của Ziri Amazigh), người thành lập thành phố Algiers thời trung cổ. Không may thay, để dấu nguồn gốc Amazigh của cái tên Algérie đi ngược lại với chính sách quốc gia Ả Rập của các chính phủ Algérie, nguồn gốc Amazigh này không được công nhận.

Lịch sử

Bài chi tiết: Lịch sử Algérie
Algérie từng là nơi sinh sống của người Berber (hay Imazighen) từ ít nhất năm 10.000 TCN. Từ năm 1000 TCN trở về sau, người Carthage bắt đầu tạo lập ảnh hưởng tại đây, thành lập nên những khu định cư dọc bờ biển. Các vương quốc Berber bắt đầu xuất hiện, nổi tiếng nhất là Numidia, lợi dụng cơ hội sau Các cuộc chiến tranh Punic để trở thành độc lập với Carthage nhưng ngay sau đó lại bị Cộng hòa La Mã chiếm năm 200 TCN. Khi Đế chế Tây La Mã sụp đổ, người Berber một lần nữa giành lại độc lập trong khi người Vandals chiếm nhiều vùng khác cho tới khi bị các vị tướng của Hoàng đế Byzantine, Justinian I trục xuất khỏi nơi này. Sau đó, Đế chế Byzantinee tạm thời kiểm soát được vùng phía đông đất nước cho tới khi người Ả Rập xuất hiện vào thế kỷ thứ 8.
Vòm La Mã của Trajan tại Thamugadi (Timgad), Algérie
Sau một số thập kỷ kháng chiến dữ dội dưới sự lãnh đạo của KusaylaKahina, người Berbers chấp nhận Hồi giáo en masse (theo số đông), nhưng hầu như ngay lập tức trục xuất umayyad Caliphate ra khỏi Algérie, thành lập nên một nhà nước Ibadi của những người Rustamid. Sau khi đã cải đạo Kutama của người Kabylie sang đạo của mình nhà Fatima Shia lật đổ Rustamids, và chinh phục Ai Cập. Họ để lại Algérie và Tunisia cho những kẻ chư hầu Zirid; sau này người Zirid nổi loạn và theo dòng Hồi giáo Sunni, họ đồng hóa với một bộ lạc Ả Rập đông dân, bộ lạc Banu Hilal, để làm yếu bộ lạc đó, nhưng điều đó bất ngờ lại dẫn tới quá trình Ả Rập hoá vùng nông thôn. AlmoravidAlmohad, các triều đại của người Berber từ phía tây do những người cải cách tôn giáo lập nên đã mang lại một giai đoạn khá ổn định và phát triển; tuy nhiên với sự sụp đổ của Almohads, Algérie trở thành một chiến trường cho ba quốc gia tiếp theo, Zayyanid của Algérie, Hafsid của Tunisia, và Marinid của Maroc. Trong thế kỷ mười lăm và mười sáu, Tây Ban Nha bắt đầu tấn công chiếm giữ nhiều thành phố ven biển, tìm cách lôi kéo sự hỗ trợ từ Đế chế Ottoman.
Algérie được gộp vào trong Đế chế Ottoman bởi Khair ad-Din và em trai ông là Aruj, người đã lập ra những biên giới hiện đại của Algérie ở phía bắc và biến bờ biển nước này thành cơ sở cho những tên cướp biển; cướp biển phát triển mạnh nhất tại trong những năm 1600. Việc cướp bóc các tàu buôn Hoa Kỳ trên Địa Trung Hải dẫn tới cuộc chiến Berber thứ nhấtthứ hai với Hoa Kỳ. Viện lý do coi thường Lãnh sự của mình, Pháp xâm chiếm Algiers năm 1830; tuy nhiên, nhiều cuộc kháng chiến do các cá nhân như Emir Abdelkader, Ahmed BeyFatma N'Soumer tiến hành khiến công cuộc chinh phục Algérie của Pháp diễn ra chậm chạp, về mặt kỹ thuật chỉ hoàn thành vào cuối những năm 1900 khi Tuareg cuối cùng bị chinh phục.
Constantine, Algérie 1840
Tuy nhiên, trong lúc ấy Pháp đã biến Algérie thành một phần lãnh thổ của mình, tình trạng này chỉ chấm dứt với sự sụp đổ của nền Đệ tứ Cộng hoà. Hàng chục nghìn người định cư từ Pháp, Ý, Tây Ban NhaMalta đã tới sống tại các trang trại trên đồng bằng ven biển Algérie và chiếm đa số những vùng ưu thế tại các thành phố ở Algérie, lợi dụng việc sung công các đất do các cộng đồng sở hữu của Pháp, và ứng dụng các công nghệ nông nghiệp mới để tăng diện tích đất canh tác. Hậu duệ của những người Châu Âu tại Algérie (được gọi là "chân đen" - Pieds-Noirs), cũng như những người gốc Algérie theo Do Thái (thường có nguồn gốc Sephardic), trở thành các công dân Pháp thực sự bắt đầu từ cuối thế kỷ 19; trái lại, đa phần dân Hồi giáo Algérie (thậm chí cả những cựu chiến binh trong quân đội Pháp) không được nhận Pháp tịch cũng như quyền bầu cử. Kết cấu xã hội Algérie đã bị đẩy tới mức căng thẳng tột cùng trong giai đoạn này: tỷ lệ biết chữ giảm sút[3], trong khi việc quốc hữu hóa đất đai đã khiến nhiều người dân trở thành vô gia cư. Tuy nhiên, dân số vẫn tăng đều đặn[4].
Năm 1954, Mặt trận Giải phóng Quốc gia (có lúc gọi là Mặt trận giải phóng Dân tộc Algérie(FLN) bắt đầu một cuộc chiến tranh giành độc lập cho Algérie; sau gần một thập kỷ chiến đấu cả tại thành thị và vùng nông thôn, họ đã thành công trong việc hất cẳng Pháp năm 1962. Đa phần trong số 1.025.000 người "chân đen", cũng như 91.000 người "harki" (người Hồi giáo Algérie ủng hộ Pháp trong quân đội Pháp), chiếm khoảng 10% dân số Algérie năm 1962, đã di cư sang Pháp trong vài tháng giữa năm đó.
Tổng thống đầu tiên của Algérie, người lãnh đạo Mặt trận Giải phóng Quốc gia Ahmed Ben Bella, bị cựu đồng minh cũ và là bộ trưởng quốc phòng Houari Boumédiènne lật đổ năm 1965. Dưới thời Ben Bella chính phủ ngày càng đi theo khuynh hướng xã hội chủ nghĩa và độc tài, và chiều hướng này tiếp tục kéo dài tới thời chính phủ Boumedienne; tuy vậy, Boumedienne tiếp tục dựa nhiều vào quân đội, giảm bớt vai trò của đảng cầm quyền duy nhất chỉ còn mang tính tượng trưng. Nông nghiệp được hợp tác hoá, và một phong trào công nghiệp hóa rộng rãi được triển khai. Các cơ sở khai thác dầu khí được tư nhân hóa giúp tăng tài sản quốc gia, đặc biệt sau cuộc khủng hoảng dầu mỏ năm 1973, nhưng nền kinh tế Algérie dần trở nên phụ thuộc vào dầu mỏ, khiến nó gặp khó khăn khi giá dầu thế giới giảm mạnh trong thập kỷ 1980. Trong chính sách đối ngoại Algérie là một thành viên và lãnh đạo của phong trào các quốc gia "không liên kết". Sự tranh giành Tây Sahara với Maroc hầu như đã đưa hai nước tới bờ vực chiến tranh. Bất đồng chính trị ít được nhân nhượng và sự kiểm soát của nhà nước đối với phương tiện truyền thông cũng như việc đặt các đảng chính trị không phải Phong trào Giải phóng Quốc gia ra ngoài vòng pháp luật được thể chế hóa theo hiến pháp hà khắc năm 1976. Boumédienne chết năm 1978, nhưng thời cầm quyền của người kế vị, Chadli Bendjedid, cũng không mang lại nhiều cải cách hơn. Nhà nước mang nặng tính quan liêu và tham nhũng tràn lan.
Hiện đại hóa đã mang lại những thay đổi lớn trong nhân khẩu Algérie. Các truyền thống làng xã trải qua những thay đổi lớn cùng với sự tăng lên của quá trình đô thị hoá, các ngành công nghiệp mới xuất hiện, nông nghiệp bị thu hẹp ai trò, và giáo dục, vốn không phát triển ở thời thuộc địa, đã được mở rộng ra khắp đất nước, nâng tỷ lệ biết chữ từ chưa tới 10% thành hơn 60%. Những cải thiện trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe gây ra sự tăng trưởng rất cao ở tỷ lệ sinh (7-8 trẻ trên mỗi phụ nữ) gây ra hai hậu quả: một dân số rất trẻ và sự khủng hoảng chỗ ở. Thế hệ mới đấu tranh để liên hệ với nỗi ám ảnh văn hóa những năm chiến tranh và hai phong trào phản kháng bắt đầu phát triển: những người cánh tả, gồm các phong trào của người Berber, và những người bảo vệ Hồi giáo. Cả hai đều chống lại sự cầm quyền độc đảng nhưng cũng xung đột với nhau cả trong các trường đại học và trên đường phố trong thập kỷ 1980. Những cuộc tuần hành đông đảo của hai phe trong mùa thu năm 1988 buộc Benjedid phải chấm dứt chế độ cầm quyền một đảng và cuộc bầu cử tự do được tuyên bố diễn ra năm 1991.
Tháng 12 năm 1991, Mặt trận Bảo vệ Hồi giáo thắng lợi tại vòng một cuộc bầu cử đa đảng đầu tiên của nước này. Quân đội sau đó đã hủy bỏ vòng hai, buộc tổng thống khi ấy là Bendjedid từ chức và cấm Mặt trận Bảo vệ Hồi giáo. Những cuộc xung đột tiếp sau nhận chìm Algérie vào vòng bạo lực với cuộc Nội chiến Algérie. Hơn 100.000 người đã thiệt mạng, thường là trong những cuộc thảm sát dân thường vô có. Câu hỏi về người chịu trách nhiệm cho những cuộc thảm sát đó vẫn gây tranh cãi trong những nhà quan sát trong quốc hội; nhiều vụ bị gán cho các Nhóm vũ trang Hồi giáo. Sau năm 1998, cuộc chiến tranh gần tàn lụi và tới năm 2002 các nhóm du kích chính hoặc đã bị tiêu diệt hoặc đầu hàng đưa lại cơ hội cho một chương trình ân xá quốc gia, dù những cuộc xung đột lẻ tẻ vẫn diễn ra ở một số vùng. Các cuộc bầu cử được tiến hành lại năm 1995, và vào ngày 27 tháng 4 năm 1999, sau thời kỳ cầm quyền ngắn của một loạt tướng lĩnh quân đội, Abdelaziz Bouteflika, vị tổng thống hiện nay được bầu lên[5]. Vấn đề bản sắc và ngôn ngữ Berber ngày càng trở nên nghiêm trọng, đặc biệt sau cuộc phản kháng Kabyle đông đảo năm 2001 và cuộc tẩy chay hầu như hoàn toàn cuộc tuyển cử tại Kabylie; chính phủ nhượng bộ và coi Tamazight (tiếng Berber) là ngôn ngữ quốc gia sử dụng trong các trường học.
Đa phần các lĩnh vực Algérie hiện đã phục hồi, phát triển trở thành một nền kinh tế đang nổi. Giá dầu mỏ và khí gas cao là nhân tố giúp chính phủ cải thiện cơ sở hạ tầng đất nước và đặc biệt cải thiện công nghiệp và nông nghiệp. Những khoản đầu tư nước ngoài vào Algérie đã gia tăng gần đây.

Giáo dục

Giáo dục ở Algérie là bắt buộc và miễn phí 9 năm (bắt đầu từ năm 6 tuổi). Học sinh được giảng dạy chủ yếu bằng tiếng Ả Rập (trước đây là tiếng Pháp). Algérie có một số trường đại học ở các thành phố lớn Alger, OranQacentina (Constantine).

Cơ cấu hệ thống trường

Căn bản
Kiểu trường cung cấp dịch vụ giáo dục này: Retared, Trường cơ sở
Thời gian chương trình: 9 năm
Độ tuổi: 6 tới 15 tuổi
Chứng nhận/bằng được cấp: Bằng giáo dục cơ sở
Trung học phổ thông
Kiểu trường cung cấp dịch vụ giáo dục này: Trung học phổ thông, trung học đa ngành
Thời gian chương trình: 3 năm
Độ tuổi: 15 tới 18
Chứng nhận/bằng được cấp: Bằng trung học phổ thông
Trung học kỹ thuật
Kiểu trường cung cấp dịch vụ giáo dục này: Trung học kỹ thuật
Thời gian chương trình: 3 năm
Chứng nhận/bằng được cấp: Tú tài kỹ thuật

Chính trị

Bài chính về chính trị và chính quyền của Algérie có thể tìm đọc tại Loạt bài về chính trị và chính quyền của Algérie.

Thể chế

Cộng hòa Tổng thống, dân chủ đa nguyên. Tổng thống được lựa chọn thông qua bầu cử phổ thông đầu phiếu, nhiệm kỳ của Tổng thống là 5 năm. Hiến pháp sửa đổi vào tháng 11 năm 2008 huỷ bỏ giới hạn mỗi người chỉ được 2 nhiệm kỳ Tổng thống liên tiếp. Tổng thống có quyền cao nhất, đứng đầu lực lượng vũ trang, chỉ định Thủ tướng và xét duyệt thành phần các bộ trưởng trong Chính phủ, giải tán Hạ viện (nếu cần), tổ chức bầu cử sớm, trưng cầu dân ý

Cơ quan lập pháp

Gồm 2 Viện: Hội đồng Dân tộc (Thượng viện) và Đại hội đồng nhân dân (Hạ viện). Hạ viện có 389 ghế, đại biểu được bầu qua phổ thông đầu phiếu, nhiệm kỳ 5 năm. Thượng viện có 144 ghế, 1/3 số đại biểu do Tổng thống chỉ định, 2/3 do bầu gián tiếp thông qua đại biểu Hội đồng nhân dân huyện, tỉnh, nhiệm kỳ 6 năm, hiến pháp quy định cứ 3 năm phải bầu lại ½ số đại biểu Thượng viện. Cơ quan lập pháp làm luật, thông qua ngân sách, luật tài chính và kiểm soát hoạt động của Chính phủ.

Đảng phái chính trị

Mặt trận giải phóng dân tộc (FLN-Đảng cầm quyền), Tập hợp quốc gia dân chủ (RND), Phong trào xã hội vì hòa bình (MSP), Tập hợp vì văn hóa và dân chủ (RCD), Phong trào cải cách quốc gia (MRN), Mặt trận các lực lượng xã hội (FFS), Đảng lao động (PT), Mặt trận quốc gia Algérie (FNA).
Trong suốt thập niên 1960, Algérie đã ủng hộ nhiều phong trào độc lập vùng Hạ Sahara tại Châu Phi, nước này là một lãnh đạo Phong trào không liên kết. Trong khi cùng có nhiều di sản lịch sử và văn hóa chung với Maroc, hai nước lại có quan hệ thù địch với nhau kể từ khi Algérie giành lại độc lập. Điều này xuất phát từ hai nguyên nhân: những vùng đất tranh chấp tại tây Algéria của Maroc (dẫn tới Chiến tranh Sand năm 1963), và việc Algérie ủng hộ Polisario, một nhóm vũ trang của người tị nạn Sahrawi đang tìm cách đòi độc lập cho vùng Tây Sahara thuộc quyền quản lý của Maroc, bên trong biên giới nước này tại thành phố Tindouf. Căng thẳng giữa Algérie và Maroc, cũng như các vấn đề liên quan tới cuộc Nội chiến Algérie, đã đặt ra nhiều vật cản trên con đường củng cố Liên đoàn Maghreb Ả Rập, trên danh nghĩa được thành lập năm 1989 nhưng ít có vai trò thực tiễn, với các nước láng giềng dọc bờ biển[6].

Đối ngoại

Algérie là thành viên của Liên Hợp Quốc (UN), Liên minh châu Phi (AU), Phong trào không liên kết (NAM), Liên đoàn Ả Rập (ACL), Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ (OPEC), Tổ chức các nước Ả Rập xuất khẩu dầu mỏ (OAPEC), Khối Maghreb (UMA)...vv.

Khu vực hành chính

Bài chi tiết: Các tỉnh tại Algérie
Bản mẫu:Tindouf Province
Algérie được chia thành 48 tỉnh (wilayah):[1]
Bản đồ các tỉnh Algérie theo thứ tự chữ cái
1 Adrar 17 El Bayadh (tỉnh) 33 Ouargla
2 Aïn Defla 18 El Oued 34 Oum el-Bouaghi
3 Aïn Témouchent 19 El Tarf (tỉnh) 35 Relizane
4 Algiers 20 Ghardaïa 36 Saida
5 Annaba 21 Guelma 37 Sétif
6 Batna 22 Illizi 38 Sidi Bel Abbes
7 Béchar 23 Jijel 39 Skikda
8 Béjaïa 24 Khenchela (tỉnh) 40 Souk Ahras (tỉnh)
9 Biskra 25 Laghouat 41 Tamanghasset
10 Blida 26 Médéa 42 Tébessa
11 Bordj Bou Arréridj  27 Mila 43 Tiaret
12 Bouira 28 Mostaganem 44 Tindouf
13 Boumerdès 29 M'Sila (tỉnh) 45 Tipasa
14 Chlef 30 Mascara 46 Tissemsilt
15 Constantine 31 Naama 47 Tizi Ouzou
16 Djelfa 32 Oran 48 Tlemcen

Địa lý

Dãy núi Hoggar
Bài chi tiết: Địa lý Algérie
Ảnh chụp vệ tinh của Algérie
Algérie nằm ở Bắc Phi, Bắc giáp Địa Trung Hải, Nam giáp Niger, Mali, Mauritanie, Đông giáp TunisiaLibya, Tây giáp Maroc. Lãnh thổ được chia thành ba vùng địa lí tự nhiên nối tiếp nhau từ Bắc đến Nam:
  • Những đồng bằng nhỏ hẹp ven biển không liên tục, xen kẽ với vùng đồi núi Atlas Tell, thích hợp cho việc phát triển lúa mì và các loại cây cận nhiệt đới.
  • phía nam dãy Atlas Tell là những cao nguyên rộng lớn rải rác những hồ mặn, một khu vực thuận lợi cho việc chăn nuôi cừu, trồng ô liu.
  • Vùng phía nam là bộ phận của sa mạc Sahara chiếm 80% diện tích đất nước, nơi có tiềm năng khổng lồ về dầu mỏ, khí đốt và nhiều khoáng sản giá trị khác.
Đa phần vùng bờ biển có nhiều đồi, thỉnh thoảng thậm chí là các dãy núi, và có ít bến cảng tốt. Vùng ngay phía nam bờ biển, được gọi là Tell, khá màu mỡ. Xa hơn nữa về phía nam là dãy núi Atlas và sa mạc Sahara. Algiers, OranConstantine là các thành phố lớn.
Khí hâu Algérie khô cằn và nóng, dù khí hậu vùng bờ biển khá dễ chịu, mùa đông tại các vùng núi có thể rất khắc nghiệt. Algérie có nhiều gió nóng ẩm, một loại gió nóng mang theo bụi và cát đặc biệt thường xảy ra vào mùa hè[1].

Kinh tế

Bài chi tiết: Kinh tế Algérie
Kinh tế Algeria gặp nhiều khó khăn, dân số tăng cao làm cho tình hình trở nên trầm trọng hơn. Cơ cấu nông nghiệp bị xáo trộn do chính sách tập thể hóa (1971) và tư nhân hóa (1990). Sản lượng lương thực không đáp ứng đủ nhu cầu tiêu thụ trong nước, phải nhập khẩu thực phẩm. Việc lựa chọn phát triển các ngành công nghiệp nặng đã để lộ ra những nhược điểm tai hại: các sản phẩm của ngành công nghiệp luyện kimcông nghiệp hóa học không phù hợp với nhu cầu nội địa và xuất khẩu gặp nhiều khó khăn. Lợi nhuận thu được từ xuất khẩu dầu mỏkhí đốt đã làm giảm bớt những tác động của khủng hoảng.
Lĩnh vực năng lượng hóa thạch là xương sống của nền kinh tế, chiếm khoảng 60% thu ngân sách, 30% GDP, và hơn 95% thu nhập xuất khẩu. Nước này xếp hạng 14 về trữ lượng dầu khí, với 11.8 tỷ thùng trữ lượng đã được chứng minh và ước tính số thực có thể vượt mức trên.[7] Cơ quan Thông tin Năng lượng đã thông báo rằng năm 2005, Algérie có 160 tỷ feet khối (Tcf) trữ lượng khí tự nhiên đã được khảo sát, đứng hàng thứ 8 thế giới.
Các chỉ số tài chính và kinh tế Algérie đã được cải thiện ở giữa thập niên 1990, một phần nhờ chính sách cải cách được Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) hỗ trợ và việc tái cơ cấu nợ của Câu lạc bộ Paris. Tình hình tài chính Algérie trong năm 2000 và 2001 có bước cải thiện nhờ giá dầu tăng và chính sách thuế chặt chẽ của chính phủ, dẫn tới tăng trưởng mạnh thặng dư thương mại, và đạt mức cao kỷ lục về dự trữ ngoại tệ, giảm mạnh nợ nước ngoài. Những nỗ lực tiếp theo của chính phủ nhằm đa dạng hóa nền kinh tế bằng cách thu hút đầu tư trong nước và nước ngoài ra các lĩnh vực khác ngoài dầu khí mang lại ít thành công về mặt giảm mức độ thất nghiệp cao và cải thiện tiêu chuẩn sống. Năm 2001, chính phủ đã ký kết một thỏa ước liên hiệp với Liên minh Châu Âu cho phép hạ thấp các mức thuế và tăng cường thương mại giữa hai bên. Tháng 3 năm 2006, Nga đã đồng ý xoá 4.74 tỷ dollar nợ của Algérie với Liên bang Xô viết cũ sau chuyến thăm viếng của Tổng thống Vladimir Putin tới nước này, lần đầu tiên của một nhà lãnh đạo Nga sau nửa thế kỷ. Đổi lại, tổng thống Abdelaziz Bouteflika đồng ý mua số máy bay chiến đấu, các hệ thống phòng không và các loại vũ khí khác của Nga trị giá 7.5 tỷ dollar, theo công ty xuất khẩu vũ khí nhà nước Nga Rosoboronexport.
Năm 2006 Algérie cũng đá quyết định trả hết toàn bộ số nợ 8 tỷ dollar cho Câu lạc bộ Paris trước thời hạn. Điều này giúp giảm số nợ của Algérie xuống còn chưa tới 5 tỷ dollar vào cuối năm 2006. Câu lạc bộ Paris cho rằng động thái này phản ánh sự hồi phục kinh tế Algérie trong những năm gần đây. Nhờ nguồn tài nguyên dầu mỏ và khí gas phong phú, họ được lợi nhờ tăng giá năng lương[8][9].

Nhân khẩu

Bờ biển Algiers
Bài chi tiết: Nhân khẩu Algérie
Dân số hiện tại của Algérie là 32.930.091 người (ước tính tháng 7, 2006)[1]. Báo cáo từ các nguồn quốc tế và phi chính phủ về số dân hiện tại khoảng 40 tới 50 triệu người[cần dẫn nguồn].
Khoảng 70% người Algérie sống ở miền bắc, vùng ven biển; một bộ phận nhỏ sống tại sa mạc Sahara và chủ yếu tập trung tại các ốc đảo, có khoảng 1.5 triệu người vẫn sống kiểu du mục hay bán du mục.
Chín chín phần trăm dân số được xếp hạng theo chủng tộc Ả Rập/Berber và là tín đồ Hồi giáo; các tôn giáo khác chỉ hạn chế trong những cộng đồng rất nhỏ, chủ yếu là người nước ngoài. Người Châu Âu chiếm chưa tới 1% dân số.
Trong thời thuộc địa, có một cộng đồng Châu Âu lớn (chủ yếu là người Pháp) "chân đen" tại Algérie, tập trung ở ven biển và tạo thành một cộng đồng đa số trong nhiều thành phố. Hầu như toàn bộ số người này đã rời đi ngay sau khi nước này giành lại độc lập từ Pháp.
Đa phần người dân Algérie là người Ả Rập theo ngôn ngữ và đặc tính, và có tổ tiên hòa trộn giữa Berber-Ả Rập.[1] Người Berbers đã sống ở Algérie trước khi các bộ lạc Ả Rập tới đây trong thời đạo Hồi bành trướng ảnh hưởng ở thế kỷ thứ 7. Vấn đề chủng tộc và ngôn ngữ đã trở thành khá nhạy cảm sau nhiều năm hạn chế văn hóa Berber (hay Imazighen, như một số người muốn dùng) của chính phủ. Ngày nay, vấn đề Ả Rập-Berber thường là về việc tự đồng hóa hay đồng hóa thông qua ngôn ngữ và văn hoá, chứ không phải là vấn đề phân biệt nguồn gốc hay chủng tộc. Khoảng chừng 20% dân số tự cho mình là người Berbers, và chủ yếu sử dụng các ngôn ngữ Berber (cũng được gọi bằng thuật ngữ Tamazight), và được chia thành nhiều nhóm chủng tộc, đáng chú ý gồm Kabyle (lớn nhất) ở vùng núi phía bắc miền trung, Chaoui ở phía đông núi Atlas, Mozabite sống tại thung lũng M'zab, và Tuareg ở cực nam.

Ngôn ngữ

Bài chi tiết: Ngôn ngữ tại Algérie
Ngôn ngữ lớn nhất đồng thời là ngôn ngữ chính thức của Algérie, tiếng Ả Rập, là tiếng mẹ đẻ ở hình thức thổ ngữ ("Darja") của 80% dân số, và giống như toàn bộ thế giới Ả Rập, được sử dụng như biến thể của tiếng Ả Rập tiêu chuẩn hiện đại trên các phương tiện truyền thông đại chúng và các dịp nghi lễ chính thức. Khoảng 20% dân số, tự coi mình là người Berber hay Imazighen, có tiếng mẹ đẻ không phải Ả Rập mà là một kiểu thổ ngữ Tamazight. Tuy nhiên, nhiều người Algérie sử dụng thành thạo cả hai ngôn ngữ trên. Tiếng Ả Rập là ngôn ngữ chính thức duy nhất của Algérie, dù tiếng Tamazight gần đây cũng được công nhận là ngôn ngữ quốc gia cùng với nó. Nghiên cứu phong tục học cho thấy có 18 ngôn ngữ tại Algérie, chia thành hai nhóm chính là tiếng Ả Rập và Tamazight, ngoài ra còn có tiếng Korandje[10].
Về mặt chính trị, vấn đề ngôn ngữ khá nhạy cảm, đặc biệt đối với cộng đồng thiểu số Berber, vốn đã trở nên yếu thế sau khi quốc gia chấp nhận Ả Rập hoá. Chính sách ngôn ngữ và sự Ả Rập hóa một phần là sự phản ứng trước sự thực rằng 130 năm thuộc địa hoá của Pháp đã để lại cho đất nước cả nền hành chính và giáo dục bậc cao đều hoàn toàn bằng tiếng Pháp, cũng như sự thúc đẩy của chủ nghĩa quốc gia Ả Rập do nhiều chính phủ liên tiếp tại Algérie tiến hành.
Tiếng Pháp vẫn là ngôn ngữ được học nhiều nhất trong số các ngoại ngữ, và được sử dụng rộng rãi (vượt xa ngoại ngữ thứ hai là tiếng Anh), nhưng hiếm khi được coi là tiếng mẹ đẻ. Từ khi giành độc lập, chính phủ đã theo đuổi một chính sách Ả Rập hóa ngôn ngữ giáo dục và hành chính, đã mang lại một số thành công, dù nhiều giáo trình đại học vẫn được giảng dạy bằng tiếng Pháp.

Văn hoá

Bài chi tiết: Văn hoá Algérie
Văn học hiện đại Algérie, bị phân chia giữa Ả Rập và Pháp, bị ảnh hưởng mạnh mẽ bởi lịch sử gần đây của đất nước. Các nhà văn nổi tiếng thế kỷ 20 gồm Mohammed Dib, Albert CamusKateb Yacine, còn Assia Djebar là nhà văn có số lượng tác phẩm được dịch khá lớn. Những nhà văn nổi bật thập niên 1980 gồm Rachid Mimouni, sau này là phó chủ tịch tổ chức Ân xá Quốc tế, và Tahar Djaout, bị một nhóm Hồi giáo giết hại năm 1993 vì các quan điểm thế tục của ông[11]. Ngay từ thời La Mã, Apuleius, sinh tại Mdaourouch, đã có tư tưởng về một quốc gia Algérie.
Trong triết học và nhân loại học, Malek BennabiFrantz Fanon được chú ý về các tư tưởng của họ với quá trình giải thực, trong khi Augustine thành Hippo sinh tại Tagaste (khoảng 60 dặm từ thành phố Annaba hiện nay), và Ibn Khaldun, dù sinh tại Tunis, đã viết ra Muqaddima khi đang sống ở Algérie.
Văn hoá Algérie đã bị ảnh hưởng mạnh mẽ bởi Hồi giáo, tôn giáo chính của quốc gia này. Các tác phẩm của gia đình Sanusi thời tiền thuộc địa và của Emir Abdelkader và Sheikh Ben Badis thời thuộc địa, rất đáng chú ý.
Thể loại âm nhạc Algérie nổi tiếng nhất trên thế giới là raï, một loại nhạc có khuynh hướng pop, dựa trên âm nhạc dân gian, được các ngôi sao quốc tế như KhaledCheb Mami thể hiện. Tuy nhiên, tại chính Algérie kiểu âm nhạc cổ điển hơn, biểu diễn rõ từng chữ là chaabi lại phổ biến hơn, với các ngôi sao như El Hadj El Anka hay Dahmane El Harrachi, trong khi thể loại âm nhạc có các giai điệu du dương Kabyle, được Idir, Ait Menguellet, hay Lounès Matoub biểu diễn, thu hút được rất đông thính giả. Về các thị hiếu âm nhạc cổ điển hơn, âm nhạc cổ điển Andalusia, do những người tị nạn Morisco từ Al-Andalus đưa tới, vẫn được gìn giữ trong nhiều thị trấn cổ ven biển.
Trong lĩnh vực hội hoạ, Mohammed Khadda[12]M'Hamed Issiakhem[13] là hai khuôn mặt đáng chú ý trong những năm gần đây.

Tôn giáo

Hồi giáo là tôn giáo chiếm ưu thế với 99% dân số tin theo.[14] Hầu như tất cả người Hồi giáo Algeria đều thuộc Hồi giáo Sunni, và một cộng đồng nhỏ 200.000 người theo giáo phái Ibadis trong thung lũng M'zab của Ghardaia.[15]
Ước tính có khoảng 10.000 tín hữu Kitô giáo tại Algeria vào năm 2008. Sau cuộc cách mạng dẫn đến sự độc lập của Algeria, có tất cả 6500 trong tổng số 140.000 người Do Thái của nước này rời khỏi đất nước, trong đó khoảng 90% chuyển sang Pháp và 10% chuyển đến Israel.

Các chủ đề khác

Chú thích

  1. ^ a ă â b c CIA World Factbook Algeria (accessed 4 tháng 4, 2006)
  2. ^ Dân số các Quốc Gia trên Thế Giới, CIA World Factbook ước tính
  3. ^ [1]
  4. ^ [2]
  5. ^ Arabic German Consulting www.arab.de (truy cập 4 April, 2006)
  6. ^ Bin Ali calls for reactivating Arab Maghreb Union, Tunisia-Maghreb, Politics, 2/19/1999 www.arabicnews.com (truy cập 04 April, 2006)
  7. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên eia
  8. ^ “Russia agrees Algéria arms deal, writes off debt”. Reuters. 11 tháng 3 2006.
  9. ^ (tiếng Pháp) “La Russie efface la dette algérienne”. Radio France International. 10 tháng 3 2006.
  10. ^ Gordon, Raymond G., Jr. (ed.), 2005. Ethnologue: Languages of the World, Fifteenth edition. Dallas, Tex.: SIL International. Online version: http://www.ethnologue.com/ (truy cập 04 April, 2006)
  11. ^ Tahar Djaout French Publishers' Agency and France Edition, Inc. (truy cập 04 April, 2006)
  12. ^ Mohammed Khadda official site (truy cập 4 April, 2006)
  13. ^ M'Hamed Issiakhem -Algérian painter people.africadatabase.org (truy cập 04 April, 2006
  14. ^ "Africa: Algeria". The World Factbook. Central Intelligence Agency. Archived from the original on 17 January 2010. Retrieved 7 December 2009.
  15. ^ [unreliable source?] "Ibadis and Kharijis". (via Angelfire). Retrieved 23 April 2010.

Tham khảo

Liên kết ngoài

Chính phủ
Tin tức
Tổng quan
Du lịch
Khác
Di sản văn hoá

Liên minh châu Âu

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Cờ Liên minh châu Âu

Khẩu hiệu
Thống nhất trong đa dạng (United in diversity)[1][2][3]
Bài hát ca ngợi
Trình đơn
0:00
Ode to Joy[2] (orchestral)
Vị trí của Liên minh châu Âu
Trung tâm chính trị Brussels
Luxembourg
Strasbourg
Ngôn ngữ chính thức
Tên dân tộc Người châu Âu[4]
Nước thành viên
Người đứng đầu
 •  Ủy ban José Manuel Barroso
 •  Hội đồng bộ trưởng Tây Ban Nha
 •  Hội đồng châu Âu Herman Van Rompuy
 •  Quốc hội Jerzy Buzek
Thành lập
 •  Hiệp ước Paris 23 tháng 7, 1952 
 •  Hiệp ước Rome 1 tháng 1, 1958 
 •  Hiệp ước Maastricht 1 tháng 11, 1993 
 •  Hiệp ước Lisbon 1 tháng 12, 2009 
Diện tích
 •  Tổng số 4.324.782 km²
1.669.807 mi² 
 •  Nước (%) 3.08
Dân số
 •  Ước lượng 2010 501,259,840[5] 
 •  Mật độ 115.9 /km²
300,2 /sq mi
GDP (PPP) Ước tính 2008 (IMF)
 •  Tổng số $15.247 trillion 
 •  Bình quân đầu người $30,513 
GDP (danh nghĩa) Ước tính 2008 (IMF)
 •  Tổng số $18.394 trillion 
 •  Bình quân đầu người $36,812 
Gini? (2009) 30.7 (EU25)[6] (High) 
HDI (2007) 0.937 (High) 
Đơn vị tiền tệ
Múi giờ (UTC+0 đến +2)
 •  Mùa hè (DST)  (UTC+1 to+3[7])
Tên miền Internet .eu[8]
Trang web
europa.eu
Mã số điện thoại Xem
Liên minh châu Âu hay Liên hiệp châu Âu (tiếng Anh: European Union), cũng được gọi là Khối Liên Âu, viết tắt là EU, là một liên minh kinh tế chính trị bao gồm 28 quốc gia thành viên[9] thuộc Châu Âu. Liên minh châu Âu được thành lập bởi Hiệp ước Maastricht vào ngày 1 tháng 11 năm 1993 dựa trên Cộng đồng châu Âu (EC).[10] Với hơn 500 triệu dân,[11] Liên minh châu Âu chiếm 30% (18,4 nghìn tỉ đô la Mỹ năm 2008) GDP danh nghĩa và khoảng 22% (15,2 nghìn tỉ đô la Mỹ năm 2008) GDP sức mua tương đương của thế giới.[12]
Liên minh châu Âu đã phát triển một thị trường chung thông qua hệ thống luật pháp tiêu chuẩn áp dụng cho tất cả các nước thành viên nhằm đảm bảo sự lưu thông tự do của con người, hàng hóa, dịch vụ và vốn.[13] EU duy trì các chính sách chung về thương mại,[14] nông nghiệp, ngư nghiệp[15] và phát triển địa phương.[16] 17 nước thành viên đã chấp nhận đồng tiền chung, đồng Euro, tạo nên khu vực đồng Euro. Liên minh châu Âu đã phát triển một vai trò nhất định trong chính sách đối ngoại, có đại diện trong Tổ chức Thương mại Thế giới, G8, G-20 nền kinh tế lớnLiên hiệp quốc. Liên minh châu Âu đã thông qua việc bãi bỏ kiểm tra hộ chiếu bằng Hiệp ước Schengen giữa 22 quốc gia thành viên và 4 quốc gia không phải là thành viên Liên minh châu Âu.[17]),[18]
Là một tổ chức quốc tế, Liên minh châu Âu hoạt động thông qua một hệ thống chính trị siêu quốc gia và liên chính phủ hỗn hợp.[19][20][21] Những thể chế chính trị quan trọng của Liên minh châu Âu bao gồm Ủy ban châu Âu, Nghị viện Châu Âu Hội đồng Liên minh châu Âu, Hội đồng châu Âu, Tòa án Công lý Liên minh châu ÂuNgân hàng Trung ương châu Âu.
Liên minh châu Âu có nguồn gốc từ Cộng đồng Than Thép châu Âu[22] từ 6 quốc gia thành viên ban đầu vào năm 1951. Từ đó cho đến nay, Liên minh châu Âu đã lớn mạnh hơn về số lượng cũng như chất lượng thông qua việc tăng cường thẩm quyền của Liên minh châu Âu.

Địa lý

Mont Blanc đỉnh núi cao nhất Liên minh châu Âu
Lãnh thổ của Liên minh châu Âu là tập hợp lãnh thổ của tất cả các quốc gia thành viên nhưng cũng có những ngoại lệ. Chẳng hạn như quần đảo Faroe thuộc Đan Mạch là một bộ phận lãnh thổ của châu Âu nhưng không nằm trong lãnh thổ của Liên minh châu Âu hay đảo Síp, thành viên Liên minh châu Âu thường được xem là một phần của châu Á vì gần Thổ Nhĩ Kỳ hơn châu Âu lục địa.[23][24] Một vài vùng lãnh thổ khác nằm ngoài châu Âu và cũng không thuộc lãnh thổ của Liên minh châu Âu như trường hợp của Greenland hay Aruba.
Liên minh châu Âu chủ yếu nằm ở TâyTrung Âu, với diện tích 4.422.773 kilômét vuông (1.707.642 dặm vuông) [25] Ngược lại, mặc dù trên danh nghĩa là một bộ phận của Liên minh châu Âu [26] tuy nhiên luật pháp của Liên minh châu Âu không được áp dụng ở Bắc Cyprusde facto vùng lãnh thổ này nằm dưới quyền quản lý của Cộng hòa Bắc Cyprus thuộc Thổ Nhĩ Kỳ - một quốc gia tự tuyên bố độc lập và chỉ được Thổ Nhĩ Kỳ thừa nhận.
Liên minh châu Âu kéo dài về phía đông bắc đến Phần Lan, tây bắc về phía Ireland, đông nam về phía Cộng hòa Síp và tây nam về phía bán đảo Iberia, là lãnh thổ rộng thứ 7 thế giới [27] và có đường bờ biển dài thứ 2 thế giới sau Canada.[20][28][29] Điểm cao nhất trên lãnh thổ Liên minh châu Âu đó là đỉnh Mont Blanc, cao 4810,45 m trên mực nước biển [30] và điểm thấp nhất là Zuidplaspolder ở Hà Lan, thấp hơn mực nước biển 7m.
Dân cư của Liên minh châu Âu có tỉ lệ đô thị hóa cao. 75% người dân Liên minh châu Âu sống ở các thành phố (con số này dự kiến sẽ là 90% ở 7 quốc gia thành viên vào năm 2020). Giải thích cho điều này có hai nguyên nhân chính: một là mật độ dân cư đô thị hạn chế vươn ra những khu vực tự nhiên, hai là trong một số trường hợp nguồn vốn của Liên minh châu Âu được dồn vào một khu vực nào đó, chẳng hạn như Benelux.[31]

Thành viên

Các thành viên (màu tím) và ứng viên (màu đỏ) của Liên minh châu Âu giai đoạn 2004-2007 (ISO 3166)
Lịch sử của Liên Minh Châu Âu bắt đầu từ sau Chiến tranh thế giới lần thứ 2. Có thể nói rằng nguyện vọng ngăn ngừa chiến tranh tàn phá tái diễn đã đẩy mạnh sự hội nhập châu Âu. Bộ trưởng Ngoại giao Pháp Robert Schuman là người đã nêu ra ý tưởng và đề xuất lần đầu tiên trong một bài phát biểu nổi tiếng ngày 9 tháng 5 năm 1950. Cũng chính ngày này là ngày mà hiện nay được coi là ngày sinh nhật của Liên minh châu Âu và được kỉ niệm hàng năm là "Ngày Châu Âu".
Ban đầu, Liên minh châu Âu bao gồm 6 quốc gia thành viên: Bỉ, Đức, Ý, Luxembourg, Pháp, Hà Lan. Năm 1973, tăng lên thành gồm 9 quốc gia thành viên. Năm 1981, tăng lên thành 10. Năm 1986, tăng lên thành 12. Năm 1995, tăng lên thành 15. Năm 2004, tăng lên thành 25. Năm 2007 tăng lên thành 27. Từ 01.07.2013 EU có 28 thành viên.
Quá trình gia nhập của các quốc gia thành viên Liên minh châu Âu
Sau đây là danh sách 28 quốc gia thành viên của Liên minh châu Âu xếp theo năm gia nhập.
Hiện nay, Liên minh châu Âu có diện tích là 4.422.773 km² với dân số là 492,9 triệu người (2006) [32]; với tổng GDP là 11.6 nghìn tỉ euro (xấp xỉ 15.7 nghìn tỉ USD) trong năm 2007. Hầu hết các quốc gia châu Âu đều đang là thành viên của Liên minh châu Âu.
Tính đến cuối năm 2010, có 4 quốc gia được đánh giá là ứng viên chính thức để kết nạp thành viên Liên minh châu Âu đó là: Iceland, Macedonia,[nb 1][33] MontenegroThổ Nhĩ Kỳ. Albania, Bosnia và HerzegovinaSerbia là những ứng viên tiềm năng.[34] Kosovo cũng được xếp vào danh sách những ứng viên tiềm năng gia nhập vào Liên minh châu ÂuỦy ban châu Âu và hầu như tất cả các quốc gia thành viên Liên minh châu Âu khác đã thừa nhận Kosovo như một quốc gia độc lập, tách biệt khỏi Serbia.[35]
Năm quốc gia Tây Âu không phải là thành viên Liên minh châu Âu nhưng đã có những thỏa thuận hợp tác nhất định kinh tế và pháp luật của Liên minh châu Âu đó là: Iceland (ứng viên gia nhập Liên minh châu Âu), LiechtensteinNa Uy, thành viên thị trường duy nhất thông qua Khu vực kinh tế châu Âu, và Thụy Sĩ, tương tự như trường hợp của Na Uy nhưng thông qua hiệp định song phương giữa nước này và Liên minh châu Âu.[36][37] Ngoài ra, đồng tiền chung EURO và các lĩnh vực hợp tác khác cũng được áp dụng đối với các quốc gia thành viên nhỏ như Andorra, Monaco, San MarinoVatican.[38]

Ba trụ cột chính của Liên minh châu Âu


Hiệp ước Maastricht - Trụ cột thứ nhất

Bài chi tiết: Hiệp ước Maastricht
Các nước phê chuẩn Hiệp ước Maastricht
Hiệp ước Maastricht hay còn gọi là Hiệp ước Liên minh Châu Âu (tiếng Anh, "Treaty of European Union"), ký ngày 7 tháng 2 năm 1992 tại Maastricht Hà Lan [39], nhằm mục đích:
  • Thành lập liên minh kinh tế và tiền tệ vào cuối thập niên 1990, với một đơn vị tiền tệ chung và một ngân hàng trung ương độc lập,
  • Thành lập một liên minh chính trị bao gồm việc thực hiện một chính sách đối ngoại và an ninh chung để tiến tới có chính sách phòng thủ chung, tăng cường hợp tác về cảnh sát và luật pháp.
Hiệp ước này đánh dấu một bước ngoặt trong tiến trình nhất thể hóa châu Âu và dẫn đến việc thành lập Cộng đồng châu Âu.

Liên minh chính trị

  • Tất cả các công dân của các nước thành viên được quyền tự do đi lại và cư trú trong lãnh thổ của các nước thành viên.
  • Được quyền bầu cử và ứng cử chính quyền địa phương và Nghị viện châu Âu tại bất kỳ nước thành viên nào mà họ đang cư trú.
  • Thực hiện một chính sách đối ngoại và an ninh chung trên cơ sở hợp tác liên chính phủ với nguyên tắc nhất trí để vẫn bảo đảm chủ quyền quốc gia trên lĩnh vực này.
  • Tăng cường quyền hạn của Nghị viện châu Âu.
  • Mở rộng quyền của Cộng đồng trong một số lĩnh vực như môi trường, xã hội, nghiên cứu...
  • Phối hợp các hoạt động tư pháp, thực hiện chính sách chung về nhập cư, quyền cư trú và thị thực.

Liên minh kinh tế và tiền tệ

Được chia làm 3 giai đoạn, từ 1 tháng 7 năm 1990 tới 1 tháng 1 năm 1999, và kết thúc bằng việc giải tán Viện tiền tệ châu Âu, thành lập Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB).
Điều kiện để tham gia vào liên minh kinh tế và tiền tệ (còn gọi là những tiêu chỉ hội nhập) là:
  • Lạm phát thấp, không vượt quá 1,5% so với mức trung bình của 3 nước có mức lạm phát thấp nhất;
  • Thâm hụt ngân sách không vượt quá 3% GDP;
  • Nợ công dưới 60% GDP và biên độ dao động tỷ giá giữa các đồng tiền ổn định trong hai năm theo cơ chế chuyển đổi (ERM);
  • Lãi suất (tính theo lãi suất công trái thời hạn từ 10 năm trở lên) không quá 2% so với mức trung bình của 3 nước có lãi suất thấp nhất.
Kể từ ngày 1 tháng 1 năm 2002 đồng Euro đã chính thức được lưu hành trong 12 quốc gia thành viên (còn gọi là khu vực đồng Euro) gồm Pháp, Đức, Áo, Bỉ, Phần Lan, Ireland, Ý, Luxembourg, Hà Lan, Tây Ban NhaBồ Đào Nha; các nước đứng ngoài là Anh, Đan MạchThuỵ Điển. Hiện nay, đồng Euro đang có tỉ giá hối đoái cao hơn đồng đô la Mỹ.

Hiệp ước Schengen

Bài chi tiết: Hiệp ước Schengen
Các nước trong hiệp ước Schengen
Ngày 19 tháng 6 năm 1990, Hiệp ước Schengen được thoả thuận xong. Đến ngày 27 tháng 11 năm 1990, 6 nước Pháp, Đức, Luxembourg, Bỉ, Hà LanÝ chính thức ký Hiệp ước Schengen. Hai nước Tây Ban NhaBồ Đào Nha ký ngày 25 tháng 6 năm 1991. Ngày 26 tháng 3 năm 1995, hiệp ước này mới có hiệu lực tại 7 nước thành viên. Hiệp ước quy định quyền tự do đi lại của công dân các nước thành viên. Đối với công dân nước ngoài chỉ cần có visa của 1 trong 9 nước trên là được phép đi lại trong toàn bộ khu vực Schengen. Tính đến 19/12 năm 2011, tổng số quốc gia công nhận hoàn toàn hiệp ước này là 26 nước: Ba Lan, Cộng hòa Séc, Hungary, Slovakia, Slovenia, Estonia, Latvia, Litva, Malta, Iceland, Na Uy, Thụy Điển, Phần Lan, Đan Mạch, Hà Lan, Bỉ, Luxembourg, Pháp, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Đức, Áo, Ý, Hy Lạp, Thụy Sĩ, Liechtenstein (trong đó có 22 nước thuộc khối liên minh Châu Âu).[18]

Hiệp ước Amsterdam - Trụ cột thứ hai

Bài chi tiết: Hiệp ước Amsterdam
Hiệp ước Amsterdam còn gọi là Hiệp ước Maastricht sửa đổi, ký ngày 2 tháng 10 năm 1997 tại Amsterdam, bắt đầu có hiệu lực vào ngày 1 tháng 5 năm 1999, đã có một số sửa đổi và bổ sung trong các vấn đề như:
  1. Những quyền cơ bản, không phân biệt đối xử;
  2. Tư pháp và đối nội;
  3. Chính sách xã hội và việc làm;
  4. Chính sách đối ngoại và an ninh chung.

Hiệp ước Nice - Trụ cột thứ ba

Bài chi tiết: Hiệp ước Nice
Hiệp ước Nice được lãnh đạo các quốc gia thành viên châu Âu kí vào ngày 26 tháng 2 năm 2001 và bắt đầu có hiệu lực vào ngày 1 tháng 2 năm 2003. Hiệp ước Nice là sự bổ sung cho Hiệp ước Maastricht và Hiệp ước Rome. Hiệp ước Nice tập trung vào vấn đề cải cách thể chế để đón nhận các thành viên mới theo chính sách mở rộng về phía Đông châu Âu, vốn ban đầu là nhiệm vụ của Hiệp ước Amsterdam nhưng không được hoàn thành.[40]
Trong cuộc trưng cầu dân ý diễn ra vào tháng 6 năm 2001, các cử tri Ireland đã phản đối việc thông qua Hiệp ước Nice. Tuy nhiên, sau hơn một năm, kết quả đã bị đảo ngược.

Hiệp ước Lisbon - Tái cấu trúc Liên minh châu Âu

Bài chi tiết: Hiệp ước Lisbon
Ngày 1 tháng 12 năm 2009, Hiệp ước Lisbon chính thức có hiệu lực và đã cải tổ nhiều khía cạnh của Liên minh châu Âu. Đặc biệt, Hiệp ước Lisbon đã thay đổi cấu trúc pháp lý của Liên minh châu Âu bằng cách sáp nhập cấu trúc 3 trụ cột thành một chính thể pháp lý duy nhất. Hiệp ước là cơ sở pháp lý cho vị trí Chủ tịch thường trực Hội đồng Liên minh châu Âu, chức vụ mà ngài Herman Van Rompuy đang nắm giữ, cũng như vị trí Đại diện cấp cao của Liên minh châu Âu về ngoại giao và an ninh, chức vụ mà bà Catherine Ashton đang phụ trách.[41]

Cơ cấu tổ chức

Liên minh châu Âu có 7 thể chế chính trị chính đó là: Nghị viện Châu Âu, Hội đồng bộ trưởng, Ủy ban châu Âu, Hội đồng châu Âu, Ngân hàng Trung ương Châu Âu, Tòa án Công lý Liên minh châu ÂuTòa án Kiểm toán châu Âu. Thẩm quyền xem xét và sửa đổi hệ thống luật pháp của Liên minh châu Âu - quyền lập pháp - thuộc về Nghị viện châu ÂuHội đồng Bộ trưởng. Quyền hành pháp được giao cho Ủy ban châu Âu và một bộ phận nhỏ thuộc về Hội đồng châu Âu (trong tiếng Anh, cần tránh nhầm lẫn giữa "Council of the European Union" bản chất thuộc về các quốc gia thành viên và "European Council" bản chất thuộc về Liên minh châu Âu). Chính sách tiền tệ của khu vực đồng tiền chung châu Âu (tiếng Anh, "eurozone") được quyết định bởi Ngân hàng Trung ương Châu Âu. Việc giải thích và áp dụng luật của Liên minh châu Âu và các điều ước quốc tế có liên quan - quyền tư pháp - được thực thi bởi Tòa án Công lý Liên minh châu Âu. Ngoài ra còn có một số cơ quan nhỏ khác phụ trách tư vấn cho Liên minh châu Âu hoặc hoạt động riêng biệt trong các lĩnh vực đặc thù.

Hội đồng châu Âu

Bài chi tiết: Hội đồng châu Âu
Chủ tịch Hội đồng châu Âu Herman Van Rompuy
Hội đồng châu Âu phụ trách điều hành Liên minh châu Âu và có nhiệm vụ nhóm họp ít nhất 4 lần trong năm. Hội đồng châu Âu bao gồm Chủ tịch Hội đồng châu Âu, Chủ tịch của Ủy ban châu Âu và một đại diện của mỗi quốc gia thành viên Liên minh châu Âu, có thể là người đứng đầu nhà nước hoặc chính phủ của quốc gia thành viên đó. Hội đồng châu Âu được xem là cơ quan lãnh đạo tối cao của Liên minh châu Âu.[42] Hội đồng châu Âu chủ động xem xét những thay đổi trong các hiệp ước điều chỉnh hoạt động Liên minh châu Âu cũng như xác định chương trình nghị sự và chiến lược cho Liên minh châu Âu.
Hội đồng châu Âu sử dụng vai trò lãnh đạo của mình để dàn xếp các tranh chấp giữa các quốc gia thành viên và các thể chế chính trị của Liên minh châu Âu cũng như giải quyết các cuộc khủng hoảng chính trị và bất đồng trong những vấn đề và chính sách gây nhiều tranh cãi. Về đối ngoại, hoạt động của Hội đồng châu Âu có thể ví với một nguyên thủ của tập thể các nguyên thủ quốc gia để kí kết, phê chuẩn các thỏa thuận và điều ước quốc tế quan trọng giữa Liên minh châu Âu và các quốc gia khác trên thế giới.[43]
Ngày 19 tháng 1 năm 2009, ngài Herman Van Rompuy đã được chỉ định làm chủ tịch thường trực của Hội đồng châu Âu. Ngày 1 tháng 12 năm 2009 khi Hiệp ước Lisbon bắt đầu có hiệu lực, ngài Herman Van Rompuy chính thức nhận công tác tại nhiệm sở. Chủ tịch Hội đồng châu Âu chịu trách nhiệm đại diện đối ngoại cho Liên minh châu Âu,[44] giải quyết mâu thuẫn nảy sinh giữa các quốc gia thành viên để hướng tới sự đồng thuận trong các hội nghị của Hội đồng châu Âu cũng như trong các giai đoạn chuyển tiếp giữa các hội nghị đó. Cần tránh nhầm lẫn Hội đồng châu Âu của Liên minh châu Âu với một tổ chức quốc tế độc lập khác của có tên gọi là Hội đồng châu Âu (tiếng Anh, "Council of Europe").

Hội đồng Bộ trưởng

Hội đồng Liên minh châu Âu thường được gọi tắt trong tiếng AnhCouncil [45] hay còn gọi là Hội đồng Bộ trưởng (tiếng Anh, "Council of Ministers") [46] là một trong hai bộ phận lập pháp của Liên minh châu Âu (bộ phận còn lại là sự kết hợp của Ủy ban châu ÂuNghị viện châu Âu) chịu trách nhiệm quyết định các chính sách lớn của EU, bao gồm các Bộ trưởng đại diện cho các thành viên. Các nước luân phiên làm Chủ tịch với nhiệm kỳ 6 tháng. Giúp việc cho Hội đồng có Uỷ ban Thường vụ và Ban Thư ký. [cần dẫn nguồn] Tuy nhiên, dù cơ cấu tổ chức phức tạp nhưng Hội đồng Bộ trưởng vẫn được xem là một trong các thể chế chính trị chính thức của Liên minh châu Âu.[47]
Từ năm 1975, người đứng đầu nhà nước, hoặc đứng đầu chính phủ, các ngoại trưởng, Chủ tịch và Phó Chủ tịch Uỷ ban châu Âu có các cuộc họp thường kỳ để bàn quyết định những vấn đề lớn của EU. Cơ chế này gọi là Hội đồng châu Âu hay Hội nghị Thượng đỉnh Liên minh châu Âu. [cần dẫn nguồn]

Nghị viện Châu Âu

Bài chi tiết: Nghị viện Châu Âu
Gồm 751 nghị sĩ, nhiệm kỳ 5 năm, được bầu theo nguyên tắc phổ thông đầu phiếu từ tất cả các quốc gia thành viên Liên minh châu Âu. Trong Nghị viện châu Âu các nghị sĩ ngồi theo nhóm chính trị khác nhau, không theo quốc tịch.[48]
Thủ tục lập pháp của Liên minh châu Âu.
Nhiệm vụ của Nghị viện châu Âu là phối hợp với Hội đồng Châu Âu thông qua đề xuất lập pháp của Ủy ban châu Âu trong hầu hết các lĩnh vực. Nghị viện châu Âu còn có thẩm quyền thông qua ngân sách, kiểm tra, giám sát việc thực hiện các chính sách của Liên minh châu Âu. Ủy ban châu Âu chịu trách nhiệm trước Nghị viện châu Âu, đối với mọi hoạt động phải có sự chấp thuận của Nghị viện châu Âu, báo cáo kết quả công tác trước Nghị viện châu Âu để đánh giá, phê bình và rút kinh nghiệm. Chủ tịch Nghị viện châu Âu, được bầu bởi các nghị sĩ với nhiệm kì 2 năm rưỡi, đồng thời phải phụ trách vai trò người phát ngôn trong và ngoài nghị viện.[49]

Ủy ban châu Âu

Bài chi tiết: Ủy ban châu Âu
Chủ tịch Ủy ban châu Âu José Manuel Barroso
Là cơ quan điều hành của Liên minh châu Âu chịu trách nhiệm đề xuất lập pháp và những hoạt động thường nhật của Liên minh châu Âu. Ủy ban châu Âu bao gồm 27 uỷ viên đại diện cho 27 quốc gia thành viên Liên minh châu Âu, nhiệm kỳ 5 năm do các chính phủ nhất trí cử và chỉ bị bãi miễn với sự nhất trí của Nghị viện Châu Âu. Chủ tịch hiện nay là ngài José Manuel Barroso, cựu Thủ tướng Bồ Đào Nha (được bầu tại cuộc họp Thượng đỉnh EU bất thường ngày 23 tháng 3 năm 1999 tại Berlin). Vị trí quyền lực số 2 trong Ủy ban châu Âu là Đại diện cao cấp của Liên minh châu Âu về ngoại giao và chính sách an ninh đồng thời là ex-officio Phó chủ tịch Ủy ban châu Âu, hiện tại là bà Catherine Ashton.[50]

Tòa án Công lý Liên minh châu Âu

Có thẩm quyền tư pháp đối với các vấn đề liên quan đến luật pháp của Liên minh châu Âu. Bao gồm hai tòa án chính, đó là: "Tòa sơ thẩm châu Âu" (tiếng Anh, "European General Court") và "Tòa án Công lý Châu Âu" (tiếng Anh, "European Court of Justice").[51]

Hệ thống pháp luật

Cơ sở pháp lý hình thành Liên minh châu Âu là các hiệp ước được kí kết và phê chuẩn bởi các quốc gia thành viên Liên minh châu Âu. Các hiệp ước đầu tiên đánh dâu sự thành lập Cộng đồng châu ÂuLiên minh châu Âu. Các hiệp ước kế tiếp chỉnh sửa và bổ sung các hiệp ước đầu tiền ngày một đầy đủ và hoàn thiện hơn.[52] Đó chính là những hiệp ước tạo ra các thể chế chính trị của Liên minh châu Âu cũng như cung cấp cho các thể chế chính trị đó thẩm quyền thực hiện các mục tiêu và chính sách đã đặt ra ngay trong chính các hiệp ước. Những thẩm quyền này bao gồm thẩm quyền lập pháp [nb 2] ảnh hưởng trực tiếp đến tất cả các quốc gia thành viên Liên minh châu Âu và công dân của các quốc gia thành viên đó.[nb 3] Liên minh châu Âu có đầy đủ tư cách pháp nhân để kí kết các thỏa thuận và điều ước quốc tế.[53]
Căn cứ theo nguyên tắc "uy quyền tối cao" (tiếng Anh, "supremacy"), tòa án của các quốc gia thành viên có trách nhiệm thực hiện đầy đủ và đúng đắn tất cả quy định và nghĩa vụ đặt ra tuân theo các hiệp ước mà quốc gia thành viên đó đã phê chuẩn, kể cả khi điều đó gây ra các xung đột pháp luật trong hệ thống pháp luật nội địa, thậm chí trong vài trường hợp đặc biệt là hiến pháp của một số quốc gia thành viên.[nb 4]

Các quyền cơ bản

Điều 1 và 2 Hiến chương Liên minh châu Âu về những quyền cơ bản:
"Nhân phẩm là không thể xâm phạm. Nhân phẩm phải được tôn trọng và bảo vệ.
Mọi người đều có quyền được sống. Không một ai bị kết án tử hình hoặc bị xử tử."
Các điều ước đã kí kết giữa các quốc gia thành viên Liên minh châu Âu công nhận rằng Liên minh châu Âu được "thành lập trên cơ sở tôn trọng những giá trị nhân phẩm, tự do, dân chủ, công bằng, pháp trị và nhân quyền, bao gồm quyền của những người thuộc những sắc tộc thiểu số... trong một xã hội đa dạng, không phân biệt, khoan dung, công lý, đoàn kết và bình đẳng giới."[54]
Hiệp ước Lisbon đã trao hiệu lực pháp lý cho Hiến chương Liên minh châu Âu về những quyền cơ bản vào năm 2009. Hiến chương là sự tập hợp có chỉnh sửa những quyền lợi cơ bản của con người mà từ đó các điều luật của Liên minh châu Âu có thể bị xem xét và đánh giá lại trước Tòa án Công lý Liên minh châu Âu. Hiến chương cũng là sự hợp nhất nhiều quyền khác nhau vốn trước đây đã được Tòa án Công lý Liên minh châu Âu thừa nhận và đồng thời là "những giá trị truyền thống được thừa nhận trong hiến pháp của nhiều quốc gia thành viên Liên minh châu Âu." [55] Tòa án Công lý Liên minh châu Âu từ lâu đã công nhận những quyền cơ bản và đôi lúc đã hủy bỏ một số điều luật của Liên minh châu Âu vì đi ngược lại với những quyền cơ bản đó.[56] Hiến chương được soạn thảo vào năm 2000. Mặc dù ban đầu Hiến chương không có giá trị ràng buộc về mặt pháp lý nhưng các điều khoản của Hiến chương luôn được nêu ra trước các tòa án Liên minh châu Âu. Bởi vì Hiến chương, bản thân nó, đã chứa đựng những quyền lợi hợp pháp mà các tòa án Liên minh châu Âu công nhận như các nguyên tắc nền tảng của luật pháp Liên minh châu Âu.
Quốc gia thành viên Liên minh châu Âu ban hành hộ chiếu riêng của Liên minh châu Âu trên đó có ghi tên gọi cùng với biểu tượng và dòng chữ Liên minh châu Âu bằng ngôn ngữ chính thức của quốc gia thành viên đó - (Mẫu hộ chiếu của Ireland)
Mặc dù việc kí kết Công ước châu Âu về quyền con người (tiếng Anh, "European Convention on Human Rights" hay "ECHR") là một trong những điều kiện để trở thành thành viên Liên minh châu Âu,[nb 5] nhưng bản thân Liên minh châu Âu không thể tham gia Công ướcLiên minh châu Âu vốn không phải là một quốc gia[nb 6] và cũng không có quyền hạn để tham gia.[nb 7] Hiệp ước LisbonNghị định thư 14 đối với Công ước đã thay đổi bản chất vấn đề này trong đó Nghị định thư 14 ràng buộc Liên minh châu Âu với Công ước trong khi Hiệp ước Lisbon cho phép việc thực thi việc ràng buộc đã nêu.
Trên bình diện thế giới, Liên minh châu Âu cũng thúc đẩy các vấn đề về nhân quyền. Liên minh châu Âu phản đối việc kết án tử hình và đề nghị loại bỏ khung hình phạt này trên khắp thế giới.[57] Ngoài ra, việc loại bỏ khung hình phạt tử hình cũng là một điều kiện đối với quy chế thành viên Liên minh châu Âu.[58]

Các đạo luật

Các đạo luật chính của Liên minh châu Âu được thông qua dưới 3 dạng có tính chất pháp lý và phạm vi ảnh hưởng khác nhau: quy chế (tiếng Anh, "regulation"), sắc lệnh (tiếng Anh, "directive") và phán quyết (tiếng Anh, "decision"). Quy chế của Liên minh châu Âu tự động bổ sung vào luật pháp hiện hành của các quốc gia thành viên Liên minh châu Âu vào thời điểm các quy chế này bắt đầu có hiệu lực mà không cần bất kì một biện pháp can thiệp pháp lý hay triển khai nào từ các quốc gia thành viên Liên minh châu Âu,[nb 8] và có giá trị pháp lý cao hơn nội luật của các quốc gia thành viên đó nếu phát sinh xung đột pháp luật.[nb 2] Sắc lệnh đòi hỏi các quốc gia thành viên Liên minh châu Âu hoàn tất một yêu cầu nhất định đưa ra bởi Liên minh châu Âu nhưng để cho các quốc gia thành viên đó quyền tự quyết về cách thức thực hiện hoặc triển khai sắc lệnh.[nb 9] Đến hết thời hạn triển khai sắc lệnh, nếu những sắc lệnh đó không được thực thi, thì chúng có thể, trong một số điều kiện nhất định, sẽ có "hiệu lực trực tiếp" (tiếng Anh, "direct effect") vượt trên nội luật của các quốc gia thành viên Liên minh châu Âu.
Phán quyết là một lựa chọn hoàn toàn khác với hai cách thức lập pháp nêu trên. Phán quyết được hiểu là những đạo luật được áp dụng trực tiếp cho một cá nhân cụ thể, một công ty hay một quốc gia thành viên nhất định. Phán quyết thường được sử dụng trong lĩnh vực luật cạnh tranh hoặc những vấn đề liên quan đến trợ giá của chính phủ (tiếng Anh, State Aid) nhưng mục đích chủ yếu nhất vẫn là xử lý các thủ tục hành chính trong nội bộ các thể chế Liên minh châu Âu. Quy chế, sắc lệnh và phán quyết của Liên minh châu Âu tương đương với nhau về giá trị pháp lý và không phân thứ bậc.[59]

Tư pháp và Nội vụ

Khu vực Schengen bao gồm hầu hết các quốc gia thành viên Liên minh châu Âu
Kể từ khi thành lập vào năm 1993, Liên minh châu Âu bước đầu đã có những phát triển trong lĩnh vực tư pháp và nội vụ từ cấp độ liên chính phủ đến chủ nghĩa siêu quốc gia. Hàng loạt các cơ quan được thành lập để phối hợp hành động: Europol giữa lực lượng cảnh sát các quốc gia thành viên Liên minh châu Âu,[60] Eurojust đối với các công tố viên,[61]Frontex đối với các cơ quan phụ trách biên giới và cửa khẩu.[62] Liên minh châu Âu cũng triển khai Hệ thống thông tin Schegen (tiếng Anh, "Schengen Information System")[17] có khả năng cung cấp cơ sở dữ liệu chung cho lực lượng cảnh sát và cơ quan nhập cảnh của các quốc gia thành viên. Công tác phối hợp hoạt động được quan tâm đặc biệt kể từ khi Hiệp ước Schengen được kí kết tạo điều kiện cho việc mở cửa biên giới cũng như sự gia tăng đáng kể của vấn đề tội phạm xuyên quốc gia.
Bên cạnh đó, Liên minh châu Âu cũng đã có những đạo luật giải quyết vấn đề gây nhiều tranh cãi như dẫn độ,[63] hôn nhân gia đình,[64] tị nạn,[65] và xét xử tội phạm.[66] Ngoài ra, các hiệp ước được kí kết giữa các quốc gia thành viên "Liên minh châu Âu" cũng đề cao việc ngăn cấm sự phân biệt đối xử liên quan đến giới tính và quốc tịch.[nb 10] Trong những năm gần đây, hệ thống pháp luật của Liên minh châu Âu còn được bổ sung thêm vấn đề chống phân biệt sắc tộc, tôn giáo, khuyết tật, tuổi tác và khuynh hướng tình dục[nb 11], (ví dụ) ở nơi làm việc.[nb 12]

Ngoại giao

Đại diện cao cấp của Liên minh châu Âu về ngoại giao và chính sách an ninh, bà Catherine Ashton.
Việc hợp tác trong các vấn đề đối ngoại giữa các quốc gia thành viên Liên minh châu Âu được bắt đầu vào năm 1957 với sự hình thành Cộng đồng châu Âu. Vào thời điểm đó, các quốc gia thành viên tập hợp lại như một khối thống nhất trong việc thương lượng các vấn đề thương mại quốc tế theo Chính sách thương mại chung (tiếng Anh, "Common Commercial Policy").[67] Quan hệ đối ngoại của Liên minh châu Âu chuyển sang một giai đoạn mới vào năm 1970 với nhiều phát triển đáng lưu ý, trong đó có thể kể tới sự ra đời của Tổ chức hợp tác chính trị châu Âu (tiếng Anh, "European Political Cooperation") có vai trò như nơi để các quốc gia thành viên tham vấn một cách không chính thức để hướng tới một chính sách đối ngoại chung. Nhưng phải đến tận năm 1987 khi Luật châu Âu duy nhất (tiếng Anh, "Single European Act") được ban hành, Tổ chức hợp tác chính trị châu Âu mới có được một cơ sở pháp lý hoàn chỉnh. Sau đó, tổ chức này được đổi thành Chính sách an ninh và đối ngoại chung (tiếng Anh, "Common Foreign and Security Policy" hay "CFSP") khi Hiệp ước Maastricht bắt đầu có hiệu lực.[68]
Mục tiêu của Chính sách an ninh và đối ngoại chung (CFSP) là thúc đẩy lợi ích của chính Liên minh châu Âu cũng như của cộng đồng thế giới trong việc xúc tiến hợp tác quốc tế, tôn trọng nhân quyền, dân chủ và pháp trị.[69] CFSP đòi hỏi sự thống nhất giữa các quốc gia thành viên của Liên minh châu Âu để quyết định chính sách phù hợp cho bất kì một vấn đề quan trọng nào. Mặc dù không hay xảy ra, nhưng CFSP đôi lúc cũng gây ra những bất đồng giữa các quốc gia thành viên như trong trường hợp của Chiến tranh Iraq.[70]

Quân sự

Chiến đấu cơ Eurofighter được chế tạo bởi một tập đoàn hợp tác giữa bốn quốc gia thành viên Liên minh châu Âu.
Liên minh châu Âu không có một quân đội chung. Các tổ chức tiền thân của Liên minh châu Âu không hướng đến mục đích hình thành một liên minh quân sự hùng mạnh bởi vì NATO đã được thiết lập với vai trò này.[71] 21 trong tổng số 27 quốc gia thành viên Liên minh châu Âu đang là thành viên của NATO.[72] trong khi các nước thành viên còn lại theo đuổi chính sách của trung lập.[73] Tuy nhiên, đối với quy chế thành viên Liên minh châu Âu thì tình trạng trung lập của các quốc gia thành viên này đang bị đặt một dấu hỏi lớn bởi Thủ tướng Phần Lan [74] cũng như vấn đề tương hỗ trong trường hợp thiên tai, tấn công khủng bố hay xâm lược vũ trang vốn được quy định trong điều 42 (7) TEU và điều 222 TFEU. Mặt khác, Liên minh Tây Âu (tiếng Anh, "Western European Union"), liên minh quân sự với các điều khoản quốc phòng chung, đã giải thể vào năm 2010 vì vai trò của liên minh này hiện tại đã được chuyển giao cho Liên minh châu Âu.[75]
Năm 2009, theo thống kê của Viện nghiên cứu hòa bình quốc tế Stockholm (tiếng Anh, "Stockholm International Peace Research Institute" hay "SIPRI"), Vương quốc Anh đã dành hơn 48 tỷ EUR (tương đương 69 tỷ USD) cho quốc phòng, đứng thứ 3 trên thế giới sau MỹTrung Quốc, trong khi Pháp đứng ở vị trí thứ 4 với 47 tỷ EUR (khoảng 67,31 tỷ USD) cho quân đội. AnhPháp đóng góp 45% ngân sách quốc phòng, 50% khả năng quân sự và 70% tất cả các chi phí nghiên cứu và phát triển quân sự của cả Liên minh châu Âu. Trong năm 2000, Anh, Pháp, Tây Ban Nha, và Đức chiếm đến 97% tổng ngân sách nghiên cứu quân sự của Liên minh châu Âu so với tất cả 15 quốc gia thành viên còn lại.[76]

Kinh tế

10 nền kinh tế có GDP và PPP lớn nhất tính theo USD
trong đó Liên minh châu Âu được tính là một thể chế duy nhất (IMF, 2009).[77]
Ngày từ lúc mới thành lập, Liên minh châu Âu đã đặt ra mục tiêu trọng tâm là thiết lập một thị trường kinh tế duy nhất ở châu Âu bao gồm lãnh thổ của tất cả các quốc gia thành viên. Hiện tại, hệ thống tiền tệ chung đang được sử dụng ở 16 nước thuộc Liên minh châu Âu, thường biết đến với tên gọi khu vực đồng euro (tiếng Anh, "eurozone").[78][79] Vào năm 2009, sản lượng kinh tế của Liên minh châu Âu chiếm khoảng 21% tổng sản lượng kinh tế toàn cầu, ước tính vào khoảng 14,8 nghìn tỉ USD,[80], trở thành nền kinh tế lớn nhất thế giới. Liên minh châu Âu cũng đạt được sản lượng xuất khẩu và nhập khẩu lớn nhất thế giới,[81][82] về hàng hóa và dịch vụ, đồng thời cũng là đối tác thương mại lớn nhất đối với các thị trường lớn trên thế giới như Ấn ĐộTrung Quốc.[83][84][85]

Thị trường nội địa châu Âu

Airbus A380 một trong những sản phẩm hợp tác sản xuất của các thành viên Liên minh châu Âu
Hai trong số những mục tiêu cơ bản của Cộng đồng Kinh tế châu Âu là việc phát triển của một thị trường chung (tiếng Anh, "common market"), hay sau này thường được biết với tên gọi thị trường duy nhất (tiếng Anh, "single market"), và một liên minh hải quan giữa các quốc gia thành viên. Thị trường duy nhất của Liên minh châu Âu liên quan mật thiết đến bốn vấn đề tự do bao gồm tự do lưu thông hàng hóa, vốn, con người và dịch vụ trong phạm vi của Liên minh châu Âu.[79] Còn liên minh hải quan là việc áp dụng một hệ thống thuế khóa chung cho tất cả các loại hàng hóa nhập khẩu vào thị trường duy nhất này. Một khi hàng hóa đã được nhập vào thị trường duy nhất, hàng hóa đó sẽ không phải chịu thuế hải quan, các loại thuế về hạn chế nhập khẩu (quota) mang tính chất phân biệt đối xử khi lưu thông trong phạm vi Liên minh châu Âu. Các quốc gia không phải là thành viên của Liên minh châu Âu như Iceland, Na Uy, Liechtenstein hay Thụy Sĩ đều đã gia nhập vào thị trường duy nhất nhưng chưa tham gia vào liên minh hải quan.[36] Một nửa các hoạt động thương mại của Liên minh châu Âu chịu sự điều chỉnh của hệ thống cân đối pháp luật của Liên minh châu Âu (giữa các quốc gia thành viên với pháp luật của Liên minh).[86]
Quyền tự do di chuyển vốn nhằm mục đích cho phép các hoạt động đầu tư như mua bán tài sản cũng như cổ phần doanh nghiệp giữa các quốc gia thành viên được dễ dàng hơn.[87] Trước khi sử dụng Liên minh về kinh tế và tiền tệ (tiếng Anh, "Economic and Monetary Union"), các quy phạm pháp luật về vốn phát triển rất chậm chạp. Sau Hiệp ước Maastricht, đã có rất nhiều các phán quyết của Tòa án Công lý Châu Âu thúc đẩy sự phát triển đối với các quy phạm pháp luật điều chỉnh vấn đề này. Quyền tự do di chuyển vốn cũng được các quốc gia không phải thành viên Liên minh châu Âu công nhận.
Quyền tự do di chuyển về con người được hiểu rằng những người mang quốc tịch của một quốc gia thành viên Liên minh châu Âu có thể tự do đi lại trong phạm vị Liên minh châu Âu để sinh sống, làm việc hoặc nghỉ ngơi. Quyền tự do di chuyển về con người đòi hỏi một quốc gia thành viên Liên minh châu Âu phải giảm bớt các thủ tục hành chính cũng như công nhận đánh giá về chuyên môn của một quốc gia thành viên khác.[88]
Quyền tự do di chuyển về dịch vụ và cư trú cho phép công dân của quốc gia thành viên có khả năng cung cấp các hình thức dịch vụ được tự do đi lại để kiếm thu nhập tạm thời hoặc cố định. Mặc dù lĩnh vực dịch vụ chiếm đến 60-70% GDP nhưng hệ thống quy phạm pháp luật đối với vấn đề này chưa thật sự được phát triển đúng mức như các lĩnh vực khác. Sự thiếu sót này vừa được Liên minh châu Âu điều chỉnh với sự thông qua "Luật dịch vụ trong thị trường nội địa" (tiếng Anh, "Directive on services in the internal market").[89] Căn cứ theo Hiệp ước Lisbon, quy phạm pháp luật về dịch vụ là một quyền dư thừa, chỉ được áp dụng khi các quyền tự do khác không có khả năng thực hiện.

Liên minh tiền tệ

Eurozone map
Khu vực đồng tiền chung euro (eurozone) (màu xanh đậm) bao gồm 16 quốc gia thành viên sử dụng đồng euro như đồng tiền chính thức.
European Central Bank
Ngân hàng Trung ương châu Âu ở Frankfurt chịu trách nhiệm quản lý chính sách tiền tệ.
Đồng tiền chung Euro được sử dụng từ năm 2002.
Việc tạo ra một đơn vị tiền tệ duy nhất đã trở thành mục tiêu chính thức của Cộng đồng Kinh tế châu Âu từ năm 1969. Tuy nhiên, chỉ cho đến khi Hiệp ước Maastricht có những cải tiến vào năm 1993 thì các quốc gia thành viên Liên minh châu Âu mới thực sự bị ràng buộc về mặt pháp lý bởi liên minh tiền tệ kể từ ngày 1 tháng 1 năm 1999. Kể từ thời điểm phát hành đồng tiền chung euro, từ 11 nước ban đầu hiện nay đã có 17 quốc gia sử dụng đồng tiền này. Mới đây nhất là Estonia vào năm 2011
Tất cả các nước thành viên của Liên minh châu Âu, trừ Đan MạchVương quốc Anh, đều bị ràng buộc trên cơ sở pháp lý về việc sử dụng đồng euro như đơn vị tiền tệ chính thức.[90] khi đã đáp ứng đủ các tiêu chuẩn kinh tế đặt ra. Tuy nhiên, chỉ có một vài quốc gia thành viên của Liên minh châu Âu lên thời gian biểu cụ thể cho việc gia nhập hệ thống tiền tệ này. Ví dụ như Thụy Điển đã cố tình không đáp ứng đủ các tiêu chuẩn thành viên của Liên minh châu Âu để lẩn tránh việc sử dụng đồng euro.[nb 13]
Đồng tiền chung euro được tạo ra nhằm mục đích xây dựng một thị trường duy nhất. Ý nghĩa của hành động này bao gồm việc thúc đẩy các quyền tự do di chuyển, xóa bỏ vấn đề trao đổi ngoại tệ, cải thiện sự minh bạch về giá cả hàng hóa và dịch vụ, thiết lập một thị trường tài chính thống nhất, ổn định giá cả và lãi suất thấp và nhất là hạn chế những tác động tiêu cực do khối lượng giao dịch thương mại nội đại khổng lồ trong phạm vi Liên minh châu Âu. Đồng tiền chung euro cũng chính là biểu tượng chính trị cho sự hòa hợp và phát triển kinh tế liên tục.[78] Từ khi ra mắt đồng euro đến nay, đồng euro đã trở thành đồng tiền dự trữ lớn thứ hai trên thế giới với một phần tư ngoại hối dự trữ là bằng đồng euro.[91] Ngân hàng Trung ương châu Âu, căn cứ trên các hiệp ước của Liên minh châu Âu, chịu trách quản lý chính sách tiền tệ của đồng euro nói chung và Liên minh châu Âu nói riêng.[92]

Luật cạnh tranh

Liên minh châu Âu thực hiện chính sách cạnh tranh nhằm mục đích đảm bảo tính lành mạnh của việc cạnh tranh kinh tế trong thị trường nội địa Liên minh châu Âu.[nb 14] Hội đồng châu Âu với vai trò là người quản lý luật cạnh tranh chịu trách nhiệm xử lý những vấn đề liên quan đến luật này cũng như cho phép việc sáp nhập và hợp nhất các công ty/tập đoàn lớn của Liên minh châu Âu hay giải thế các cartel để phát triển tự do thương mại và giảm bớt trợ giá từ chính phủ của các quốc gia thành viên cho các công ty/tập đoàn lớn của nước mình.[93]
Thanh tra Liên minh châu Âu về cạnh tranh, hiện tại là ngài Joaquín Almunia, là một trong những vị trí quyền uy nhất trí quyền uy nhất trong Hội đồng châu Âu vì khả năng chi phối đến các lợi ích thương mại của các tập đoàn xuyên quốc gia có liên quan đến Liên minh châu Âu.[94] Điển hình, vào năm 2001, lần đầu tiên Hội đồng châu Âu đã ngăn cản một vụ sáp nhập giữa hai công ty có trụ sở tại Hoa Kỳ (General Electric và Honeywell), vốn đã được chính quyền quốc gia đồng ý cho tiến hành sáp nhập.[95] Một vụ việc đáng quan tâm khác liên quan đến luật cạnh tranh của Liên minh châu Âu đó là việc Hội đồng châu Âu tuyên án phạt Microsoft 777 triệu euro sau 9 năm tranh tụng.[96]

Dân số

Ngày 1 tháng 1 năm 2011, tổng dân số của 27 quốc gia thành viên thuộc Liên minh châu Âu dự tính đạt 501.259.840 người.[5] Tuy Liên minh châu Âu chỉ chiếm 3% diện tích đất liền, dân số liên minh này chiếm đến 7,3% dân số thế giới. Mật độ dân số lên đến 115,9 người/km ² đã khiến cho Liên minh châu Âu trở thành một trong những khu vực đông dân cư nhất trên thế giới.

Đô thị hóa

Dân số của 5 thành phố lớn nhất thuộc Liên minh châu Âu[97]
Thành phố Theo địa giới hành chính
(2006)
Mật độ
/km²
Mật độ
/dặm vuông
Khu vực đô thị
(2005)
Khu vực đô thị lớn
(2004)
Berlin 3,410,000 3,815 9,880 3,761,000 4,971,331
Luân Đôn 7,512,400 4,761 12,330 9,332,000 11,917,000
Madrid 3,228,359 5,198 13,460 4,990,000 5,804,829
Paris 2,153,600 24,672 63,900 9,928,000 11,089,124
Roma 2,708,395 2,105 5,450 2,867,000 3,457,690
Liên minh châu Âu là nơi có nhiều thành phố toàn cầu hơn bất cứ khu vực nào khác trên thế giới, có tất cả 16 thành phố trên một triệu dân, trong đó lớn nhất là Luân Đôn.[98]
Ngoài các thành phố lớn, Liên minh châu Âu còn có những vùng với mật độ dân cư dày đặc với không chỉ một trung tâm đơn lẻ mà mở rộng kết nối với những thành phố khác, hiện nay đều được những vùng đô thị vây quanh. Vùng đông dân nhất là Rhine-Ruhr với khoảng 11,5 triệu dân (bao gồm Köln, Dortmund, Düsseldorf,...), Randstad có xấp xỉ 7 triệu dân (gồm Amsterdam, Rotterdam, The Hague, Utrecht,...), Frankfurt/Rhine-Main có khoảng 5,8 triệu dân (gồm Frankfurt, Wiesbaden,...), Flemish diamond xấp xỉ 5,5 triệu dân (gồm vùng đô thị giữa Antwerp, Brussel, LeuvenGhent), vùng Öresund xấp xỉ 3,7 triệu dân (gồm Copenhagen, Đan MạchMalmö, Thụy Điển) và vùng công nghiệp Thượng Silesia có khoảng 3,5 triệu dân (gồm Katowice, Sosnowiec,...).[99]
Báo cáo các Ngôn ngữ chính thức ở châu Âu (EU-251)
Ngôn ngữ Mẹ đẻ Tổng cộng
Anh 13% 51%
Đức 18% 32%
Pháp 12% 26%
Ý 13% 16%
Tây Ban Nha 9% 15%
Ba Lan 9% 10%
Hà Lan 5% 6%
Hy Lạp 3% 3%
Séc 2% 3%
Thụy Điển 2% 3%
Hungary 2% 2%
Bồ Đào Nha 2% 2%
Slovakia 1% 2%
Đan Mạch 1% 1%
Phần Lan 1% 1%
Litva 1% 1%
Slovenia 1% 1%
Estonia <1% <1%
Ai Len <1% <1%
Latvia <1% <1%
Malta <1% <1%
1Thống kê năm 2006
trước khi BulgariaRomânia gia nhập Liên minh Châu Âu.
Khảo sát tiến hành trong năm 2005
dựa trên số dân có độ tuổi tối thiểu là 15.
Mẹ đẻ: tiếng mẹ đẻ[100]
Tổng số: số dân Liên minh châu Âu có thể giao tiếp
bằng ngôn ngữ này.[101]

Ngôn ngữ

Trong số rất nhiều ngôn ngữ và tiếng địa phương được sử dụng ở Liên minh châu Âu, có 23 ngôn ngữ chính thức và tiếng phổ thông: Bungary, Séc, Đan Mạch, Hà Lan, Anh, Estonia, Phần Lan, Pháp, Đức, Hy Lạp, Ý, Ailen, Latvia, Litva, Malta, Ba Lan, Bồ Đào Nha, Rumani, Slovak, Slovenia, Tây Ban Nha và tiếng Thụy Điển.[102][103] Các tài liệu quan trọng, chẳng hạn như luật pháp, được dịch sang mọi ngôn ngữ chính thức. Nghị viện châu Âu cung cấp các bản dịch tài liệu văn bản và phiên toàn thể ở tất cả các ngôn ngữ.[104] Một số tổ chức sử dụng chỉ một số ít các ngôn ngữ phổ thông nội bộ.[105] ​​Chính sách ngôn ngữ do các thành viên trong liên minh quản lý, nhưng các tổ chức Liên minh châu Âu luôn thúc đẩy việc học các ngôn ngữ khác.[nb 15][106]
Tiếng Đức là tiếng mẹ đẻ thông dụng nhất (khoảng 88,7 triệu người vào năm 2006), tiếp theo là tiếng Anh, tiếng Ýtiếng Pháp. Tiếng Anh là ngoại ngữ được nói nhiều nhất và được 51% dân số Liên minh châu Âu sử dụng (bao gồm cả người bản ngữ tiếng Anh),[107] sau đó là tiếng Đứctiếng Pháp. 56% công dân Liên minh châu Âu có thể tham gia vào các cuộc hội thoại bằng một ngôn ngữ khác ngoài tiếng mẹ đẻ.[108] Hầu hết các ngôn ngữ chính thức của Liên minh châu Âu thuộc hệ ngôn ngữ Ấn-Âu, ngoại trừ tiếng Estonia, tiếng Phần Lan, và tiếng Hungary thuộc hệ ngôn ngữ Uralic, tiếng Malta thuộc hệ ngôn ngữ Á-Phi. Hầu hết các ngôn ngữ chính thức của Liên minh châu Âu được viết bằng hệ chữ Latinh trừ tiếng Bungari được viết bằng hệ chữ tiếng Ngatiếng Hy Lạp được viết bằng chữ cái Hy Lạp.[109]
Bên cạnh 23 ngôn ngữ chính thức, có khoảng 150 ngôn ngữ địa phương và dân tộc thiểu số, với số lượng người nói lên đến 50 triệu người.[109] Trong số này, chỉ có những ngôn ngữ vùng Tây Ban Nha (như Catalan/Valencian, Galiciantiếng Basque hệ phi Ấn-Âu), tiếng Gaelic Scotland, và tiếng Wales[109] là công dân có thể dùng trong giao tiếp với các cơ quan chính của Liên minh châu Âu.[110][111] Mặc dù các chương trình của Liên minh châu Âu có thể hỗ trợ các ngôn ngữ địa phương và dân tộc thiểu số, việc bảo vệ quyền ngôn ngữ là một vấn đề đối với cá nhân các nước thành viên. Hiến chương châu Âu về ngôn ngữ thiểu số và địa phương (tiếng Anh: "European Charter for Regional or Minority Languages", viết tắt ECRML) được phê chuẩn bởi hầu hết cấc quốc gia thành viên, nêu ra những hướng dẫn chung mà các quốc gia có thể theo đó bảo vệ di sản ngôn ngữ của họ.

Tôn giáo

Tôn giáo phổ biến nhất trong Liên minh châu ÂuKitô giáo, mặc dù nhiều tôn giáo khác cũng được thực hành. Liên minh châu Âu chính thức thế tục, mặc dù một số quốc gia thành viên có nhà thờ nhà nước: đây là những Malta (Công giáo La Mã), Hy Lạp (Chính thống giáo phương Đông), Đan Mạch (Lutheran), và các bộ phận của Vương quốc Anh (Anh giáo) và Scotland (Trưởng Lão), tại Đức và một số quốc gia Bắc Âu khác tôn giáo chiếm phần lớn dân số là Tin Lành.
Tỷ lệ người châu Âu ở mỗi quốc gia thành viên những người tin vào "một Thiên Chúa"[112]
Những lời mở đầu của Hiệp ước Liên minh châu Âu (tiếng Anh, "Treaty on European Union") đề cập đến "di sản văn hoá, tôn giáo và nhân văn của châu Âu" thảo luận [113] trên các văn bản dự thảo Hiến pháp châu Âu. Sau đó, các đề xuất trong lời mở đầu Hiệp ước Lisbon đã đề cập đến Thiên Chúa giáo hay Chúa hoặc cả hai nhưng ý tưởng không nhận được sự ủng hộ của phe đối lập và đã bị bác bỏ.[114]
Kitô hữuLiên minh châu Âu được phân chia giữa người theo đạo Công giáo La Mã, rất nhiều giáo phái Tin Lành (đặc biệt là ở Bắc Âu), và Chính Thống Giáo Đông Phương và Đông Công giáo (ở miền đông nam châu Âu). Các tôn giáo khác, chẳng hạn như Hồi giáoDo Thái giáo, cũng góp mặt trong Liên minh châu Âu. Đến năm 2009, ước tính số lượng người theo Hồi giáo tại Liên minh châu Âu là 13 triệu người,[115] còn Do Thái là hơn 1 triệu.[116]
Eurostat của Eurobarometer thăm dò dư luận cho thấy trong năm 2005 là 52% của công dân Liên minh châu Âu tin tưởng vào thần linh, 27% trong "một số loại lực lượng tinh thần, cuộc sống", và 18% không có hình thức của niềm tin.[112] Nhiều quốc gia đã có kinh nghiệm rơi tại nhà thờ và thành viên trong những năm gần đây [.[117] Các quốc gia nơi người dân ít nhất báo cáo một niềm tin tôn giáo đã được Estonia (16%) và Cộng hoà Séc (19%) [112] Các quốc gia tôn giáo nhất là Malta (95%;.. chủ yếu là Công giáo La Mã), và SípRomânia cả hai với khoảng 90% công dân tin tưởng vào Thiên Chúa (cả hai chủ yếu là Chính thống giáo Đông). Trên toàn lãnh thổ Liên minh châu Âu, tín ngưỡng tôn giáo phổ biến ở phụ nữ, tăng theo tuổi tác, những người có sự giáo dục tôn giáo, những người bỏ học ở tuổi 15 với một nền giáo dục cơ bản, và những vị cứ phải quy mô chính trị chiếm (57 %).[112]

Văn hóa

Turku của Phần Lan (trái) và Tallinn của Estonia (phải) là trung tâm văn hóa châu Âu (năm 2011).
Kể từ Hiệp ước Maastricht, hợp tác văn hóa giữa các quốc gia thành viên là một trong những mối quan tâm hàng đầu của Liên minh châu Âu.[118] Những hành động thiết thực của Liên minh châu Âu trong lĩnh vực này bao gồm chương trình "Văn hóa 2000" kéo dài trong 7 năm,[118] các sự kiện trong "Tháng văn hóa châu Âu",[119] hay chương trình hòa nhạc "Media Plus",[120][121] và đặc biệt là chương trình "Thủ đô văn hóa châu Âu" – diễn ra đều đặn hàng năm nhằm mục đích tôn vinh một thủ đô đã được lựa chọn trong số các quốc gia thành viên Liên minh châu Âu.[122]
Thể thao cũng rất được chú ý ở Liên minh châu Âu. Chính sách của Liên minh châu Âu về tự do di chuyển và lao động đã tác động không nhỏ đến nền thể thao của các quốc gia thành viên, điển hình như luật Bosman, đạo luật ngăn cấm việc áp dụng hạn ngạch đối với các cầu thủ mang quốc tịch thuộc Liên minh châu Âu thi đấu trong các giải bóng đá của các quốc gia thành viên khác.[123] Hiệp ước Lisbon còn đòi hỏi các quy định về kinh tế nếu được áp dụng phải tính đến tính chất đặc biệt của thể thao và phải được xây dựng trên tinh thần tự nguyện.[124] Đây là kết quả của các cuộc vận động hành lang tại Ủy ban Olympic quốc tếFIFA trước sự ngại về việc gia tăng khoảng cách giàu-nghèo giữa các câu lạc bộ trong Liên minh châu Âu nếu các nguyên tắc về thị trường tự do được áp dụng rộng rãi.[125]

Hình ảnh về Liên minh châu Âu

Tham khảo

  1. ^ Barnard, Catherine (August năm 2007). The Substantive Law of the EU: The four freedoms (ấn bản 2). Oxford University Press. tr. 447. ISBN 9780199290352.
  2. ^ a ă “United in diversity”. Europa (web portal). European Commission. Truy cập ngày 20 tháng 1 năm 2010. “'United in diversity' is the motto of the European Union. The motto means that, via the EU, Europeans are united in working together for peace and prosperity, and that the many different cultures, traditions and languages in Europe are a positive asset for the continent.”
  3. ^ “European Parliament: The Legislative Observatory”. Europa (web portal). European Commission. Truy cập ngày 20 tháng 1 năm 2010. “the motto 'United in diversity' shall be reproduced on Parliament's official documents;”
  4. ^ The New Oxford American Dictionary, Second Edn., Erin McKean (editor), 2051 pages, May 2005, Oxford University Press, ISBN 0-19-517077-6.
  5. ^ a ă “Total population as of 1 January”. Eurostat. Truy cập ngày 9 tháng 2 năm 2010.
  6. ^ European Foundation for the Improvement of Living and Working Conditions [1]
  7. ^ Not including overseas territories
  8. ^ .eu is representative of the whole of the EU, member states also have their own TLDs
  9. ^ Oxford Dictionary of English: European 5 b. spec. Designating a developing series of economic and political unions between certain countries of western (and later also eastern) Europe from 1952 onwards, as European Economic Community, European Community, European Union.”.
  10. ^ Craig, Paul; Grainne De Burca, P. P. Craig (2007). EU Law: Text, Cases and Materials (ấn bản 4). Oxford: Oxford University Press. tr. 15. ISBN 978-0-19-927389-8.; “Treaty of Maastricht on European Union”. Activities of the European Union. Europa web portal. Truy cập 20 tháng 10 năm 2007.
  11. ^ “First demographic estimates for 2009”. 11 tháng 12 năm 2009. Truy cập ngày 3 tháng 2 năm 2010.
  12. ^ “World Economic Outlook Database, tháng 4 năm 2009 Edition”. Tổ chức tiền tệ quốc tế. Tháng 4 năm 2009. Truy cập 24 tháng 4 năm 2009. Đã bỏ qua văn bản “IMF ” (trợ giúp)
  13. ^ European Commission. “The EU Single Market: Fewer barriers, more opportunities”. Europa web portal. Truy cập 27 tháng 9 năm 2007.
    “Activities of the European Union: Internal Market”. Europa web portal. Truy cập ngày 29 tháng 6 năm 2007.
  14. ^ “Common commercial policy”. Europa Glossary. Europa web portal. Truy cập 6 tháng 9 năm 2008.
  15. ^ “Agriculture and Fisheries Council”. The Council of the European Union. Truy cập 6 tháng 9 năm 2008.
  16. ^ “Overview of the European Union activities: Regional Policy”. Europa web portal. Truy cập 6 tháng 9 năm 2008.
  17. ^ a ă “Abolition of internal borders and creation of a single EU external frontier”. Europa web portal. Truy cập 10 tháng 2 năm 2007.
  18. ^ a ă “Schengener Übereinkommen”. Auwärtiges Amt. Truy cập ngày 1 tháng 7 năm 2014.
  19. ^ “European Union”. Encyclopædia Britannica. Truy cập 1 tháng 7 năm 2009. “international organisation comprising 27 European countries and governing common economic, social, and security policies....”
  20. ^ a ă “European Union”. The World Factbook. Central Intelligence Agency. Truy cập 11 tháng 10 năm 2009. “The evolution of the European Union (EU) from a regional economic agreement among six neighbouring states in 1951 to today's supranational organisation of 27 countries across the European continent stands as an unprecedented phenomenon in the annals of history....”
  21. ^ Anneli Albi (2005). “Implications of the European constitution”. EU enlargement and the constitutions of Central and Eastern Europe. Cambridge, UK: Cambridge University Press, 2008. tr. 204. ISBN 9067042854: "In practical terms, the EU is perhaps still best characterised as a ‘supranational organisation sui generis’: this term has proved relatively uncontroversial in respect of national constitutional sensitivities, being at the same time capable of embracing new facets of integration."
  22. ^ The Road Ahead: Lessons in Nation Building from Japan, Germany, and Afghanistan for Postwar Iraq, by Ray Salvatore Jennings May 2003, Peaceworks No. 49, United States Institute of Peace pg. 15
  23. ^ “UN”. Millenniumindicators.un.org. 1 tháng 4 năm 2010. Truy cập ngày 27 tháng 4 năm 2010.
  24. ^ “National Geographic”. National Geographic. Truy cập ngày 27 tháng 4 năm 2010.
  25. ^ . Con số này bao gồm 4 tỉnh hải ngoại của Pháp (Guyane thuộc Pháp, Guadeloupe, Martinique, Réunion) là một phần không thế tách rời của Liên minh châu Âu, nhưng không tính các tập hợp hải ngoại của Pháp (tiếng Anh, "French overseas collectivities") và lãnh thổ hải ngoại Pháp (tiếng Anh, "French overseas territory"), những khu vực không thuộc Liên minh châu Âu.
  26. ^ “Turkish Cypriot Community”. Europa web portal. Truy cập ngày 19 tháng 4 năm 2009.
  27. ^ List of countries and outlying territories by total area
  28. ^ “European countries”. Europa web portal. 2007. Truy cập ngày 29 tháng 6 năm 2007.
  29. ^ “Countries of the Earth”. home.comcast.net. 2006. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 8 năm 2003. Truy cập ngày 8 tháng 8 năm 2007.
  30. ^ “Mont Blanc shrinks by 45 cm (17,72 [[inch|in]]) in two years”. Smh.com.au. Truy cập ngày 26 tháng 11 năm 2010. Tựa đề URL chứa liên kết wiki (trợ giúp)
  31. ^ Urban sprawl in Europe: The ignored challenge European Environmental Agency
  32. ^ “Total population”. Eurostat. Truy cập ngày 14 tháng 7 năm 2007.
  33. ^ Soren Jessen-Petersen; Daniel Serwer (10 tháng 11 năm 2010). “The Balkans Can Still Be Lost”. The New York Times. Truy cập ngày 12 tháng 11 năm 2010.
  34. ^ “European Commission – Enlargement – Candidate and Potential Candidate Countries”. Europa web portal. Truy cập ngày 1 tháng 8 năm 2009.
  35. ^ “Enlargement Newsletter”. Europa web portal. Truy cập ngày 3 tháng 11 năm 2010.
  36. ^ a ă European Commission. “The European Economic Area (EEA)”. Europa web portal. Truy cập ngày 10 tháng 2 năm 2010.
  37. ^ “The EU's relations with Switzerland”. Europa web portal. Truy cập ngày 3 tháng 11 năm 2010.
  38. ^ European Commission. “Use of the euro in the world”. The euro outside the euro area. Europa web portal. Truy cập ngày 27 tháng 2 năm 2008.
  39. ^ “1992”. The EU at a glance - The History of the European Union. Europa. Truy cập ngày 9 tháng 4 năm 2010.
  40. ^ “A decade of further expansion”. Europa web portal. Truy cập ngày 25 tháng 6 năm 2007.
  41. ^ “European Parliament announces new President and Foreign Affairs Minister”. Truy cập ngày 1 tháng 12 năm 2009.
  42. ^ “How does the EU work”. Europa (web portal). Truy cập ngày 12 tháng 7 năm 2007.
  43. ^ With US or against US?: European trends in American perspective Parsons, Jabko. European Union Studies Association, p.146:
    Fourth, the European Council acts a "collective head of state" for the EU.
  44. ^ “President of the European Council” (PDF). General Secretariat of the Council of the EU. 24 tháng 11 năm 2009. Truy cập ngày 24 tháng 11 năm 2009.
  45. ^ The Latin word consilium is occasionally used when a single identifier is required, as on the Council Web site
  46. ^ “Institutional affairs: Council of the European Union”. Europa. European Commission. 6 tháng 1 năm 2010. “It is commonly called the Council of Ministers”
  47. ^ “Institutions: The Council of the European Union”. Europa web portal. Truy cập ngày 25 tháng 6 năm 2007.
  48. ^ Wellfire Interactive. “MEPs must be elected on the basis of proportional representation, the threshold must not exceed 5%, and the electoral area may be subdivided in constituencies if this will not generally affect the proportional nature of the voting system”. Fairvote.org. Truy cập ngày 26 tháng 11 năm 2010.
  49. ^ “Institutions: The European Parliament”. Europa web portal. Truy cập ngày 25 tháng 6 năm 2007.
  50. ^ Treaty on European Union: Article 17:7
  51. ^ “Article 19 of the Treaty on European Union”. eur-lex.europa.eu. Truy cập ngày 31 tháng 10 năm 2010.
  52. ^ “Sources of EU law”. European Commission. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 2 năm 2008. Truy cập ngày 5 tháng 9 năm 2007.
  53. ^ de Schoutheete, Philippe (2007). “The Legal Personality of the European Union”. Studia Diplomatica LX (1). Truy cập ngày 15 tháng 11 năm 2010. Đã bỏ qua văn bản “author2-lastAndoura ” (trợ giúp) And Article 47 of the Consolidated Treaty on European Union.
  54. ^ Article 2, Treaty on European Union (consolidated 01/12/09)
  55. ^ Case 11/70, Internationale Handelsgesellschaft v. Einfuhr und Vorratstelle für Getreide und Futtermittel; Article 6(2) of the Maastrict Treaty (as amended).
  56. ^ “Respect for fundamental rights in the EU – general development”. European Parliament Fact Sheets. The European Parliament. Truy cập ngày 6 tháng 9 năm 2008.
  57. ^ European Commission. “EU Policy on Death Penalty”. Europa Web Portal. Truy cập ngày 27 tháng 8 năm 2009.
  58. ^ European Commission. “The death penalty in Europe”. Europa Web Portal. Truy cập ngày 27 tháng 8 năm 2009.
  59. ^ “How EU takes decisions”. Truy cập tháng 11 năm 2010.
  60. ^ “European police office now in full swing”. Europa web portal. Truy cập ngày 4 tháng 9 năm 2007.
  61. ^ “Eurojust coordinating cross-border prosecutions at EU level”. Europa web portal. Truy cập ngày 4 tháng 9 năm 2007.
  62. ^ Frontex. “What is Frontex?”. Europa web portal. Truy cập ngày 4 tháng 9 năm 2007.
  63. ^ “European arrest warrant replaces extradition between EU Member States”. Europa web portal. Truy cập ngày 4 tháng 9 năm 2007.
  64. ^ “Jurisdiction and the recognition and enforcement of judgments in matrimonial matters and in matters of parental responsibility (Brussels II)”. Europa web portal. Truy cập ngày 5 tháng 9 năm 2008.
  65. ^ “Minimum standards on the reception of applicants for asylum in Member States”. Europa web portal. Truy cập ngày 5 tháng 9 năm 2008.
  66. ^ “Specific Programme: 'Criminal Justice'”. Europa web portal. Truy cập ngày 5 tháng 9 năm 2008.
  67. ^ “Qualified-Majority Voting: Common commercial policy”. Europa web portal. Truy cập ngày 3 tháng 9 năm 2007.
  68. ^ The European commission. “European political co-operation (EPC)”. Europa Glossary. Europa web portal. Truy cập ngày 3 tháng 9 năm 2007.
  69. ^ Article 21 of the Treaty on European Union (as inserted by the Treaty of Lisbon), on eur-lex.europa.eu
  70. ^ “Divided EU agrees Iraq statement”. British Broadcasting Corporation. 27 tháng 1 năm 2003. Truy cập ngày 13 tháng 3 năm 2009.
  71. ^ Wilkinson, Paul. International Relations. Oxford University Press. tr. 100. ISBN 1845425391. “The EU states have never felt the need to make the organization into a powerful military alliance. They already have NATO to undertake that task.”
  72. ^ "Britain and France to work together" - By Catherine Field - 04 November 2010 - nzherald.co.nz - According to the Stockholm International Peace Research Institute (SIPRI), Britain spent more than US$69 billion ($89.5 billion) on defence last year, placing it third in the world after the United States and China, while France spent US$67.31 billion, the fourth largest. Together, Britain and France account for 45 per cent of Europe's defence budget, 50 per cent of its military capacity and 70 per cent of all spending in military research and development. Copyright 2010, APN Holdings NZ Limited.
  73. ^ “NATO Member Countries”. Truy cập ngày 25 tháng 8 năm 2009.
  74. ^ Laursen, Finn (29 May −1 June 1997). “The EU 'neutrals,' the CFSP and defence policy”. Biennial Conference of the European Union Studies Association. Seattle, WA.: University of Pittsburgh. tr. 27. Truy cập ngày 24 tháng 7 năm 2009.
  75. ^ Presentation of the programme of the Finnish presidency (debate) 5 July 2006, European Parliament Strasbourg
  76. ^ Statement of the Presidency of the Permanent Council of the WEU – on behalf of the High Contracting Parties to the Modified Brussels Treaty - Belgium, France, Germany, Greece, Italy, Luxembourg, the Netherlands, Portugal, Spain and the United Kingdom - Western European Union 31 March 2010.
  77. ^ “International Monetary Fund, World Economic Outlook Database, April 2010: GDP PPP list of countries. Data for the year 2009”. Imf.org. Tháng 4 năm 2010. Truy cập ngày 12 tháng 12 năm 2010.
  78. ^ a ă European Commission. “The Euro”. Europa web portal. Đã bỏ qua văn bản “accessdate≈26 June 2010” (trợ giúp)
  79. ^ a ă “The Single Market”. Europa web portal. Truy cập ngày 27 tháng 6 năm 2007.
  80. ^ “World Economic Outlook Database, April 2010 Edition”. International Monetary Fund. Tháng 4 năm 2010.
  81. ^ “Rank Order – Exports”. The World Factbook. Central Intelligence Agency. Truy cập ngày 21 tháng 8 năm 2007.
  82. ^ “World trade report 2009” (PDF). WTO information website. Truy cập ngày 12 tháng 10 năm 2009.
  83. ^ “China now EU's biggest import market”. People's Daily Online. 31 tháng 1 năm 2007. Truy cập ngày 22 tháng 7 năm 2007.
  84. ^ “EU now biggest trading partner of China”. Chinese Embassy. 15 tháng 9 năm 2006. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2008.
  85. ^ “India and the EU: strategic partners?”. Centre for European Reform. February/March 2006. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2008.
  86. ^ European Commission. “A Single Market for goods”. Europa web portal. Truy cập ngày 27 tháng 6 năm 2007.
  87. ^ European Commission. “A Single Market for Capital”. Europa web portal. Truy cập ngày 27 tháng 6 năm 2007.
  88. ^ European Commission. “Living and working in the Single Market”. Europa web portal. Truy cập ngày 27 tháng 6 năm 2007.
  89. ^ European Commission. “A Single Market for Services”. Europa. Truy cập ngày 27 tháng 6 năm 2007.
  90. ^ Kuchler, Teresa (25 tháng 10 năm 2006). “Almunia says 'undesirable' to act on Sweden's euro refusal”. EUobserver.com. Truy cập ngày 26 tháng 12 năm 2006.
  91. ^ DB Research (4 tháng 5 năm 2007). “Euro riding high as an inter- national reserve currency” (PDF). Deutsche Bank AG. Đã bỏ qua văn bản “accessdate≈3 September 2009” (trợ giúp)
  92. ^ “ECB, ESCB and the Eurosystem”. European Central Bank. Truy cập ngày 15 tháng 9 năm 2007.
  93. ^ European Commission. “Competition: making markets work better”. Europa web portal. Truy cập ngày 12 tháng 11 năm 2007.
  94. ^ Lungescu, Oana (23 tháng 7 năm 2004). “Examining the EU executive”. BBC News. Truy cập ngày 18 tháng 9 năm 2007.
  95. ^ “The Commission prohibits GE's acquisition of Honeywell”. Europa web portal. 3 tháng 7 năm 2001. Truy cập ngày 12 tháng 11 năm 2007.
  96. ^ Gow, David (22 tháng 10 năm 2007). “Microsoft caves in to European Commission”. Guardian (London). Truy cập ngày 12 tháng 11 năm 2007.
  97. ^ LUZ figures all for 2004 “Data that can be accessed”. Urban Audit. European Commission, Directorate-General Regional Policy, Unit D2 Urban Actions. Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2008.
    Urban areas: all figures for 2005 (est.): “Pays, villes d'Europe et du monde”. InsInstitut National de la Statistiqueet des Études Économiques. Truy cập ngày 6 tháng 2 năm 2008.
    City limits figures:
    London as at 1 July 2006: “Mid-2006 Population Estimates” (CSV). Office for National Statistics. Truy cập ngày 6 tháng 2 năm 2008.
    Berlin as at September 2007: “Bevölkerung Berlin”. Statistische Ämter des Bundes und der Länder (German statistics office). Truy cập ngày 6 tháng 2 năm 2008.
    Paris as at 1 July 2005: “Résultats des enquêtes annuelles de recensement de 2004 à 2007 pour les grandes villes”. Institut National de la Statistique et des Études Économiques (French national institute for statistics). Truy cập ngày 6 tháng 2 năm 2008.
  98. ^ “The World According to GaWC”. Loughborough University. Truy cập ngày 29 tháng 6 năm 2007.
  99. ^ Eurostat. “Indicators for larger urban zones 1999–2003”. Europa web portal. Truy cập ngày 25 tháng 1 năm 2007.
  100. ^ European Commission (2006), “Europeans and their Languages”, Special Eurobarometer 243 (Europa): 141–143, truy cập ngày 19 tháng 11 năm 2008
  101. ^ European Commission (2006), “Europeans and their Languages”, Special Eurobarometer 243 (Europa): 152–154, truy cập ngày 19 tháng 11 năm 2008
  102. ^ EUR-Lex (12 tháng 12 năm 2006). “Council Regulation (EC) No 1791/2006 of 20 November 2006”. Official Journal of the European Union. Europa web portal. Truy cập ngày 2 tháng 2 năm 2007.
  103. ^ “Languages in Europe – Official EU Languages”. EUROPA web portal. Truy cập ngày 12 tháng 10 năm 2009.
  104. ^ “europarltv, official webtv of the European Parliament, is also available in all UE languages”.
  105. ^ “Languages and Europe. FAQ: Is every document generated by the EU translated into all the official languages?”. Europa web portal. 2004. Truy cập ngày 3 tháng 2 năm 2007.
  106. ^ European Parliament (2004). “European Parliament Fact Sheets: 4.16.3. Language policy”. Europa web portal. Truy cập ngày 3 tháng 2 năm 2007.
  107. ^ European Commission (2006). “Special Eurobarometer 243: Europeans and their Languages (Executive Summary)” (PDF). Europa web portal. tr. 4. Truy cập ngày 11 tháng 3 năm 2011. “English is clearly the most commonly used language in the EU with over a half of the respondents (51%) speaking it either as their mother tongue or as a foreign language.”
  108. ^ European Commission (2006). “Special Eurobarometer 243: Europeans and their Languages (Executive Summary)” (PDF). Europa web portal. tr. 3. Truy cập ngày 11 tháng 3 năm 2011. “56% of citizens in the EU Member States are able to hold a conversation in one language apart from their mother tongue.”
  109. ^ a ă â European Commission (2004). “Many tongues, one family. Languages in the European Union” (PDF). Europa web portal. Truy cập ngày 3 tháng 2 năm 2007.
  110. ^ Rory Watson (5 tháng 7 năm 2008), “Welsh and Gaelic are official EU tongues”, The Times (London), truy cập ngày 13 tháng 3 năm 2009
  111. ^ “Mercator Newsletter – n. 29”. Mercator Central. 2006. Truy cập ngày 1 tháng 2 năm 2007.
  112. ^ a ă â b Eurostat (2005), “Social values, Science and Technology”, Special Eurobarometer 225 (Europa, web portal): 9, truy cập ngày 11 tháng 6 năm 2009
  113. ^ Castle, Stephen (21 tháng 3 năm 2007). “EU celebrates 50th birthday-with a row about religion”. The Independent (London). Truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2008.
  114. ^ Consolidated version of the Treaty on European Union.
  115. ^ “Muslim Population”. europa web portal. Truy cập tháng 11 năm 2010.
  116. ^ Jewish population figures may be unreliable. Sergio DellaPergola. “World Jewish Population (2002)”. American Jewish Year Book. The Jewish Agency for Israel. Truy cập ngày 3 tháng 5 năm 2007.
  117. ^ Ford, Peter (22 tháng 2 năm 2005). “What place for God in Europe”. USA Today. Truy cập ngày 24 tháng 7 năm 2009.
  118. ^ a ă Bozoki, Andras. “Cultural Policy and Politics in the European Union” (PDF). IECOB, Institute for Central Eastern and Balkan Europe. Truy cập ngày 13 tháng 7 năm 2007.
  119. ^ European Commission. “European Culture Month”. Europa web portal. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 2 năm 2008. Truy cập ngày 27 tháng 2 năm 2008.
  120. ^ European Commission (5 tháng 7 năm 2007). “Media programme”. Europa web portal. Truy cập ngày 13 tháng 7 năm 2007.
  121. ^ “An Overture to the European Union Youth Orchestra”. The European Youth Orchestra. Truy cập ngày 12 tháng 8 năm 2007.
  122. ^ European Commission. “European Capitals of Culture”. Europa web portal. Truy cập tháng 11 năm 2010.
  123. ^ Fordyce, Tom (11 tháng 7 năm 2007). “10 years since Bosman”. BBC News. Truy cập ngày 13 tháng 7 năm 2007.
  124. ^ Cases C-403/08 and C-429/08, Opinon of Advocate General Kokott, para 207
  125. ^ “IOC, FIFA presidents welcomes new EU treaty, call it breakthrough to give sports more power”. International Herald Tribune. 19 tháng 10 năm 2007. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 12 năm 2008. Truy cập ngày 21 tháng 10 năm 2007.

Liên kết ngoài




Video yêu thích 
http://www.youtube.com/user/hoangkimvietnam


Trở về trang chính 
hoangkim vietnam, hoangkim, hoangkimvietnam, Hoàng Kim, Ngọc Phương NamChào ngày mới Thung dung, Dạy và học, Cây Lương thực, Tin Nông nghiệp Việt Nam, Food Crops, Cassava in Vietnam, VietnamAfricaCassavaRice, Khát khao xanh, DayvahocHọc mỗi ngày,  Danh nhân Việt , Food Crops News, Điểm chính, CNM365, Kim LinkedIn, KimTwitter, KimFaceBook  Đọc lại và suy ngẫm, Việt Nam tổ quốc tôi, Tình yêu cuộc sốngThơ cho con