CNM365. Chào ngày mới 23 tháng 10. Wikipedia. Ngày này năm xưa. Sương giáng (2014); ngày Chulalongkorn tại Thái Lan; ngày quốc khánh tại Hungary; ngày Hiệp định hòa bình Paris (1991) tại Campuchia. Năm 1868 – Thiên hoàng Nhật Bản cải niên hiệu sang Minh Trị (hình) , Nhật Bản phát triển mạnh mẽ trong thời kỳ này. Năm 1944 – Chiến tranh thế giới thứ hai: Hải chiến lớn nhất trong lịch sử diễn ra tại vịnh Leyte, Philippines. Năm 1955 – Thủ tướng Ngô Đình Diệm đánh bại Quốc trưởng Bảo Đại trong một cuộc trưng cầu dân ý gây tranh cãi được tổ chức tại miền Nam Việt Nam. Năm 2002 – Phiến quân Chechnya chiếm giữ một nhà hát tại thủ đô Moskva của Nga, bắt gần 700 khán giả và diễn viên làm con tin.
Thiên hoàng
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Thiên hoàng | |
---|---|
Kanji/Hán tự: | 天皇 |
Kana: | てんのう |
Hán-Việt: | Thiên hoàng |
Rōmaji: | Tennō |
Hoàng gia Nhật Bản là nền quân chủ di truyền còn tồn tại lâu dài nhất trên thế giới. Các Thiên hoàng xuất thân là thủ lĩnh bộ lạc Yamato. Theo Cổ Sự Ký và Nhật Bản Thư Kỷ, Đế quốc Nhật Bản được Thiên hoàng Thần Vũ sáng lập năm 660 TCN. Tuy nhiên, phần chính sử Nhật Bản chỉ được bắt đầu với Thiên hoàng Khâm Minh, Thiên hoàng thứ 29 theo Danh sách Thiên hoàng truyền thống. Đương kim Thiên hoàng là Akihito (明仁 - Minh Nhân), niên hiệu là Bình Thành (Heisei). Ông lên ngôi năm 1989 sau khi vua cha Hirohito, tức Thiên hoàng Chiêu Hòa (昭和天皇, Shōwa tennō) qua đời.
Với truyền thống tôn sùng hoàng đế, Thiên hoàng được coi là thiên tử - con của trời. Thiên hoàng bắt đầu xưng "Thiên tử" (天子 tenshi) từ đầu thế kỷ thứ VII.[2]
Thiên hoàng được xem là con cháu của Thái Dương Thần Nữ và do đó cũng được xem là thần trước khi Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc năm 1945. Cho đến năm 1945, triều đình Nhật đã luôn luôn là chỉ huy của các lực lượng quân sự. Tuy nhiên, hầu như thời nào, Thiên hoàng cũng bị điều khiển bởi các thế lực chính trị, với mức độ cao hay thấp, tiêu biểu là họ từng bị Mạc phủ chi phối từ thế kỉ XII đến thế kỉ XIX.
Từ giữa thế kỷ XIX, Hoàng cung Nhật Bản được gọi là "Kyūjō" (宮城 "Cung thành"), sau đó là Kōkyo (皇居 "Hoàng cư"), và tọa lạc trên địa điểm cũ của thành Edo (江戸城 "Giang Hộ thành") tại trung tâm Tokyo. Trước đó, kinh đô Nhật Bản đã đặt tại Kyoto trong gần 11 thế kỷ.
Thiên hoàng đản sanh (sinh nhật Thiên hoàng) được tổ chức ngày 23 tháng 12 là ngày nghỉ quốc gia Nhật, chỉ 2 ngày trước lễ Giáng sinh (được tổ chức ngày 25 tháng 12).
Chú thích
Wikimedia Commons có thêm thể loại hình ảnh và phương tiện truyền tải về Thiên hoàng |
- ^ 役員、総代としての基礎知識 全国神社総代会編集発行「改訂神社役員、総代必携」
- ^ Boscaro, Adriana; Gatti, Franco; Raveri, Massimo biên tập (2003). Rethinking Japan: Social Sciences, Ideology and Thought II. Japan Library Limited. tr. 300. ISBN 0-904404-79-X.
Tài liệu tham khảo
- Sakaiya Taichi, Mười hai người lập ra nước Nhật, Chương I: Thái tử Shotoku, Đặng Lương Mô biên dịch, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2004.
Xem thêm
|
Thời kỳ Minh Trị
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Đối với các định nghĩa khác, xem Minh Trị (định hướng).
Lịch sử Nhật Bản |
---|
|
Thuật ngữ |
Sau khi Thiên hoàng Minh Trị qua đời năm 1912, Thiên hoàng Đại Chính kế vị ngai vàng, do đó bắt đầu thời kỳ Đại Chính.
Mục lục
Nhật hoàng và cuộc Minh Trị Duy tân
Cải cách đầu tiên là việc tuyên cáo lời thề Ngũ cá điều ngự thệ văn năm 1868, một lời tuyên bố chung về mục đích của triều đình Minh Trị để củng cố sĩ khí và giành được sự ủng hộ tài chính cho chính phủ mới. Những điều khoản của nó bao gồm:
- Thành lập các hội đồng thảo luận.
- Mọi tầng lớp đều tham gia vào việc tiến hành các sự vụ quốc gia.
- Bãi bỏ luật điều chỉnh chi tiêu và hạn chế tầng lớp trong việc thuê mướn.
- Thay thế các phong tục xấu xa bằng các điều luật công bằng của tự nhiên và
- Một cuộc tìm kiếm quốc tế tri thức để củng cố nền tảng thống trị của Đế quốc.
Chính phủ Minh Trị đảm bảo với các cường quốc rằng họ sẽ thực hiện các điều ước cũ đã được Mạc phủ đàm phán và thông báo họ sẽ hành động phù hợp với luật pháp quốc tế. Mutsuhito, người mà triều đại của ông sẽ kéo dài cho đến năm 1912, chọn một niên hiệu mới— Minh Trị (Meiji) — để đánh dấu sự khởi đầu của một kỷ nguyên mới trong lịch sử. Để nhấn mạnh hơn nữa trật tự mới, thủ đô được dời khỏi Kyoto, nơi đã đóng đo từ năm 794, đến Tokyo (Đông Kinh), tên mới của Edo. Trong một bước đi quan trọng cho việc củng cố triều đại mới, phần lớn các daimyo tự nguyện dân nộp đất đai và số liệu về dân số cho Nhật hoàng trong cuộc giải thể hệ thống phiên, biểu tượng cho việc đất đai và dân số nay đã đặt dưới phạm vi quyền lực của Nhật hoàng. Được xác nhận ví trí cha truyền con nối của mình, các daimyo trở thành Thống đốc, và chính quyền trung ương thừa nhận các chi tiêu hành chính của họ và việc trả lương cho samurai. Các phiên được thay thế bằng tỉnh năm 1871, và quyền lực tiếp tục rơi về tay chính quyền trung ương. Các quan chức từ các phiên được ân sủng trước đó, ví dụ như Satsuma, Chōshū, Tosa, và Hizen, được chọn làm các Bộ trưởng mới. Các quý tộc trong triều vốn ít được ân sủng trước kia và các samurai cấp thấp nhưng từ gốc rễ thay thế những người được Mạc phủ bổ nhiệm, daimyo, và các quý tộc cũ trong triều, trở thành tầng lớp thống trị mới.
Minh Trị phục quyền cố gắng Nhật hoàng trở lại vị trí nổi trội, cố gắng đưa Thần đạo trở thành quốc giáo như 1.000 năm trước. Vì Thần đạo và Phật giáo đã hòa trộn thành một niềm tin tổng hợp trong gần 1.000 năm trước đó, một Quốc gia Thần đạo mới được xây dựng để phục vụ mục đích này. Cơ quan thờ phụng Thần đạo được thành lập, về mặt quan trọng thì còn hơn cả Hội đồng Quốc gia. Tư tưởng Quốc thể của trường Mito được nắm lấy, và nguồn gốc thần thánh của Hoàng gia Nhật Bản được nhấn mạnh. Chính quyền ủng hộ các giáo viên Shinto, một bước chuyển nhỏ nhưng quan trọng. Mặc dù Cơ quan thờ phụng Thần đạo bị hạ cấp năm 1872, và đến năm 1877 Nội vụ tỉnh kiểm soát tất cả các đến thờ Thần đạo và các giáo phái Thần đạo chủ yếu nhận được sự công nhân quốc gia. Thần đạo được giải thoát khỏi sự bó buộc của Phật giáo và những giá trị của nó được phục hồi. Mặc dù Phật giáo chịu nhiều thiệt hai do sự ủng hộ mang tính quốc gia cho Thần đạo, nó vẫn có sự hồi sinh của riêng mình. Thiên Chúa giáo cũng được hợp pháp hóa, và Nho giáo vẫn là một học thuyết đạo đức quan trọng. Tuy vậy, càng ngày các nhà tư tưởng Nhật Bản càng nhận biết được các phương pháp và tư tưởng phương Tây.
Chính trị
Từ năm 1871 đến năm 1873, hàng loạt các luật đất đai và thuế được ban hành làm nền tảng cho chính sách tài khóa hiện đại. Sở hữu tư nhân được hợp pháp hóa, chứng thư được phát hành, và đất đai được định giá theo giá trị thị trường với thuế trả bằng tiền mặt thay vì hàng hóa trong thời kỳ tiền Minh Trị, và với tỉ lệ thấp hơn.
Không hài lòng với nhịp độ cải cách sau khi tái tham gia Hội đồng Quốc gia năm 1875, Itagaki tổ chức những người đi theo mình và những người chủ trương dân chủ trong tổ chức rộng rãi Aikokusha ("Ái Quốc xã") để đẩy mạnh việc thực hiện chính phủ đại nghị năm 1878. Năm 1881, trong một hành động nổi tiếng nhất của mình, Itakaki giúp thành lập Jiyuto (Tự do Đảng), đi theo học thuyết chính trị của Pháp.
Năm 1882 Okuma Shigenobu thành lập Rikken Kaishinto (Lập hiến Cải cách Đảng), ủng hộ cho nền dân chủ nghị viện kiểu Anh. Đáp lại, quan chức chính phủ, các viên chức chính quyền địa phương, và những người bảo thủ khác thành lập Rikken Teiseito (Lập hiến Đế chính Đảng), một đảng ủng hộ chính quyền, vào năm 1882. Rất nhiều cuộc tuần hành chính trị diễn ra sau đó, một số chuyển thành bạo động, kết quả là sự giới hạn nghiêm ngặt hơn của chính phủ. Sự giới hạn cản trở các đảng chính trị và dẫn đến sự chia rẽ trong nội bộ chúng. Đảng Jiyuto, chống lại Kaishinto, bị giải tán năm 1884, và Okuma từ chức Chủ tịch Đảng Kaishinto.
Lãnh đạo chính phủ, vốn từ lâu bận tâm với mối đe dọa bạo lực với sự ổn định và các lãnh đạo chủ chốt chia rẽ về vấn đề Triều Tiên, nhìn chung đều đồng tình với một chính thể lập hiến sẽ được thiết lập vào một ngày nào đó. Lãnh đạo phiên Nagato Kido Takayoshi đồng tình với một dạng chính thể lập hiến từ trước năm 1874, và vài lời đề xướng bảo đảm hiến pháp đã được phác thảo. Tuy vậy, những đầu sỏ chính trị, trong khi nhận thức được áp lực chính trị hiện tại, quyết tâm giữ quyền kiểm soát. Do đó, mọi việc vẫn tiến triển một cách ít ỏi.
Hội nghị Osaka năm 1875 đi đến kết luận tái tổ chức lại chính quyền với bộ máy tư pháp độc lập và bổ nhiệm một Hội đồng Nguyên lão (Genronin) với nhiệm vụ xem xét các ý kiến cho việc thành lập cơ quan lập pháp. Nhật hoàng tuyên bố rằng "chính thể lập hiến sẽ được thiết lập từng bước" và ngài ra lệnh cho Hội đồng Nguyên lão sơ thảo Hiến pháp.
3 năm sau, Hội nghị Thống đốc các tỉnh thành lập một hội đồng được bầu tại các tỉnh. Mặc dù giới hạn quyền lực của chúng nhưng những hội đồng này địa diện cho một bước chuyển của chính phủ đại nghị ở tầm quốc gia, và cho đế năm 1880, các hội đồng tương tự cũng được thành lập ở các làng và thị trấn. Năm 1880, các ứng cử viên từ 24 tỉnh tổ chức một hội nghị quốc gia để thành lập Kokkai Kisei Domei (Liên đoàn Thành lập Quốc hội).
Mặc dù chính quyền không chống lại các luật lệ của nghị viện, đối đầu với sự thúc đẩy "dân quyền", nó tiếp tục cố kiểm soát tình hình chính trị. Các bộ luật mới năm 1875 cấm báo chí phê phán chính phủ hay thảo luận về các bộ luật quốc gia. Luật hội họp công cộng (1880) giới hạn nghiêm khác các cuộc tụ tập đông người bởi sự hiện diện không được phép của các viên chức và yêu cầu giấy phép của cảnh sát cho mọi cuộc mít ting.
Tuy vậy, trong vòng luật pháp, và bất chấp sự bảo thủ của các lãnh đạo, Okuma tiếp tục là một người chủ trương đơn độc chính thể kiểu Anh, một chính thể với các đảng phái chính trị và nội các tổ chức bởi nhiều đảng, có thể chịu chất vấn của Quốc hội. Ông kêu gọi tổ chức bầu cử vào năm 1882 để triệu tập Quốc hội vào năm 1883; trong khi làm việc đó, ông tham dự vào một cuộc khủng hoảng chính trị kết thúc với một chỉ dủ năm 1881 tuyên bố thành lập Quốc hội vào năm 1890 và bãi chức Okuma.
Từ chối theo kiểu Anh, Iwakura và những người bảo thủ khác vay mượn nhiều điều từ hệ thống lập hiến Phổ. Một trong các đầu sỏ chính trị thời Minh Trị, Ito Hirobumi (1841–1909), một người quê Chōshū từ lâu tham gia vào các vấn đề chính thế, lĩnh trách nhiệm soạn thảo hiến pháp Nhật Bản. Ông dẫn đầu một phái đoàn học hỏi Hiến pháp ra nước ngoài năm 1882, dành phần lớn thời gian ở Đức. Ông không chấp nhân Hiến pháp Hợp chủng quốc Hoa Kỳ vì "quá tự do" và hệ thống Anh quá kềnh càng và có một quốc hội kiểm soát quá mạnh với triều đình; kiểu Pháp và Tây Ban Nha bị loại vì hướng tới chế độ chuyên quyền.
Ito được cử làm người đứng Cục nghiên cứu hệ thống Hiến pháp năm 1884, và năm 1885 Hội đồng Quốc gia được thay thế bằng một nội các do Ito làm Thủ tướng. Vị trí Thái chính đại thần, Tả đại thần, Hữu đại thần, đã tồn tại từ thế kỷ thứ 7 như là cố vấn cho Nhật hoàng đều bị bãi bỏ. Thay vào vị trí đó, Cơ mật viện được thành lập năm 1888 để đánh giá bản hiến pháp sắp tới và tham vấn cho Nhật hoàng.
Để củng cố hơn nữa quyền lực quốc gia, Hội đồng Quân sự tối cao theo kiểu Đức với hệ thống các tướng quân chịu trách nhiệm trực tiếp trước Nhật hoàng và có thể hành động độc lập với Bộ lục quân các viên chức dân sự.
Khi cuối cùng cũng nhận được sự phê chuẩn của Nhật hoàng như dấu hiệu của việc chia sẻ quyền lực và trao quyền và sự tự do cho đề tài của ông, Hiếp pháp năm 1889 của Đế quốc Nhật Bản (Hiến pháp Minh Trị cho ra đời Nghị viện Hoàng gia (Teikoku Gikai), được soạn thảo bởi Hạ Nghị viên dân bầu với giới hạn rất lớn về số lượng nam công dân được đi bầu cử, phải trên 25 tuổi và phải nộp 15 yên thuế quốc gia, khoảng 1% dân số, và Thượng viện, bao gồm quý tộc và những người được Hoàng gia chỉ định; và một nội các chịu trách nhiệm trước Nhật hoàng và sự độc lập của cơ quan tư pháp. Nghị viện có thể phê chuẩn pháp luật của chính thể và các bộ luật được đề xuất, đại diện cho chính thể, và tập hợp lời thỉnh nguyện đến Thiên hoàng. Tuy nhiên, bất chấp thay đổi về cơ cấu chính quyền, quyền lực tối cao vẫn nằm trong tay Nhật hoàng trên cơ sở tổ tiên thần thánh của ông.
Hiến pháp mới định rõ thể chế chính thể vẫn là độc tài, với Nhật hoàng nắm quyền lực vô hạn và chỉ nhượng bộ một chút cho dân quyền và cơ cấu nghị viện. Sự tham dự của chính đảng được coi là một phần của tiến trình chính trị. Hiến pháp Minh Trị sẽ tồn tại cho đến năm 1947 như là nền tảng của các đạo luật.
Trong những năm đầu của chính thể lập hiến, ưu khuyết điểm của Hiến pháp Minh Trị đều bộc lộ. Một nhms nhỏ quý tộc Satsuma và Chōshū tiếp tục thống trị Nhật Bản, được thể chế hóa thành một cơ cấu trên Hiến pháp gọ là genro (Nguyên lão). Các genro cùng nhau đưa ra các quyết định dành riêng cho Thiên hoàng, và genro, chứ không phải Thiên hoàng, kiểm soát nền chính trị quốc gia.
Tuy vậy, trong suốt thời kỳ này, các vấn đề chính trị thường được giải quyết thông qua thương lượng, và các đảng phái chính trị dần gia tăng quyền lực của mình thông qua chính phủ và kết quả là họ giữ vị thế ngày càng lớn trong tiến trình chính trị. Từ năm 1891 đến năm 1895, Ito làm Thủ tướng với nội các gồm phần lớn các genro những người muốn thành lập một đảng chính quyền kiểm soát Hạ viện. Mặc dù họ không hoàn toàn nhận ra, xu hướng đi tới nền chính trị chính đảng cũng được hình thành.
Xã hội
Đáp lại, một trong những việc làm đầu tiên của chính phủ là thiết lập hệ thống cấp bậc quý tộc. 500 người từ các quý tộc cũ trong triều, cựu daimyo, và samurai, những người đã có đóng góp giá trị cho Nhật hoàng được chia làm 5 cấp: công tước, hầu tước, bá tước, tử tước, và nam tước.Đây là lúc phong trào Ee ja nai ka, sự bùng nổ tự phát cách ứng xử thể hiện trạng thái mê ly, ngây ngất đã diễn ra.
Năm 1885, nhà trí thức Yukichi Fukuzawa viết bài tiểu luận gây ấn tượng Thoát Á luận, cho rằng Nhật Bản nên hướng mình đến các nước văn minh phương Tây, bỏ lại đằng sau những người láng giềng Á Đông tụt hậu vô vọng, Triều Tiên và Trung Hoa. Bài tiểu luận này chắc chắc có đóng góp cho sự phát triển kinh tế và khoa học kỹ thuật của Nhật Bản thời kỳ Minh Trị nhưng nó cũng đặt nền móng cho chủ nghĩa thực dân Nhật Bản trong vùng sau này.
Kinh tế
Có ít nhất hai lý do cho tốc độ hiện đại hóa của Nhật Bản: việc thuê mướn hơn 3.000 chuyên gia nước ngoài (gọi là o-yatoi gaikokujin hay 'người làm thuê ngoại quốc') trong rất nhiều lĩnh vực chuyên ngành ví dụ như dạy tiếng Anh, khoa học, kỹ sư, lục quân và hải quân…; và gửi nhiều sinh viên Nhật Bản sang học ở châu Âu và Mỹ, dựa trên điều thứ năm và cuối cùng của Ngũ điều cá nguyên lệnh năm 1868: 'Tri thức sẽ được tìm kiếm trên toàn thế giới để tăng cường nền tảng sức mạnh của Đế quốc.' Quá trình hiện đại hóa được điều hành sâu xát và bao cấp mạnh mẽ từ chính phủ Minh Trị, nâng cao quyền lực của các tập đoàn zaibatsu khổng lồ như Mitsui và Mitsubishi.Chính phủ và các zaibatsu cùng nhau điều hành quốc gia, mượn công nghệ từ phương Tây. Nhật Bản dần kiểm soát phần lớn thị trường châu Á về hàng gia công, khởi đầu là dệt may. Cơ cấu kinh tế trở nên ngày càng trọng thương, nhập khẩu nguyên liệu thô và xuất khẩu thành — một sự phản ánh sự nghèo nàn nguyên liệu thô của Nhật Bản.
Nhật Bản nổi lên từ sự hoán đổi Tokugawa-Meiji như là nước châu Á đầu tiên thực hiện công nghiệp hóa. Các hoạt động nội thương và ngoại thương có giới hạn đáp ứng được nhu cầu văn hóa vật chất thời Tokugawa, nhưng thời kỳ hiện đại hóa Minh Trị đi theo khái niệm kinh tế thị trường và ứng dụng thể chế Anh và Bắc Mỹ cho các công ty tư bản tự do. Khu vực tư nhân — trên tầm quốc gia được sự phù trợ với số lượng đông đảo những nhà doanh nghiệp năng nổ — đón chào những đổi thay như vậy.
Cải cách kinh tế bao gồm tỷ giá hiện đại thống nhất dựa trên đồng yên, ngân hàng, thương mại và luật thuế, thị trường chứng khoán và một hệ thống thông tin liên lạc. Sự thiết lập một khuôn khổ cơ quan hiện đại cho phép kinh tế tư bản tiên tiến có thêm thời gian nhưng được hoàn thành trong thập kỷ 1890. Cho đến lúc này, chính phủ đã từ bỏ phần lớn sự kiểm soát trực tiếp quá trình hiện đại hóa, chủ yếu là vì lý do ngân sách.
Rất nhiều cựu daimyo, với lương hưu được trả thành một khoản lớn, hưởng lợi lớn nhờ qua hoạt động đầu tư trong ngành công nghiệp đang lên. Những người không chính thức tham gia vào ngoại thương trước cuộc Minh Trị Duy Tân cũng phát đạt. Các Công ty phục vụ cho Mạc phủ cũ bám vào lối kinh doanh truyền thống chịu thất bại trong môi trường kinh doanh mới.
Chính phủ ban đầu tham gia vào hiện đại hóa kinh tế, xây dựng rất nhiều "nhà máy hiện đại" để trợ giúp cho sự chuyển đổi sang thời kỳ hiện đại. Sau 20 năm đầu thời Minh Trị, kinh tế công nghiệp mở rộng nhanh chóng cho đến khoảng năm 1920 với sự nhập khẩu công nghệ tiên tiến phương Tây và các khoản đầu tư cá nhân lớn. Được thúc đẩy kích thích bằng các cuộc chiến và qua các kế hoạch kinh tế cẩn trọng, Nhật Bản nổi lên từ Chiến tranh thế giới thứ nhất như một quốc gia công nghiệp chủ yếu.
Quân sự
Ngoại giao
Sau sự thất bại của Trung Hoa tại Cao Ly trong Chiến tranh Trung-Nhật (1894-1895), Nhật Bản vươn tới tầm cường quốc thế giới với chiến thắng trước người Nga tại Mãn Châu Lý (Đông Bắc Trung Quốc) trong Chiến tranh Nga-Nhật năm 1904–1905. Liên minh với Anh kể từ khi Liên minh Anh-Nhật được kí kết tại Luân Đôn ngày 30 tháng 1, 1902, Nhật Bản tham dự phe Đồng minh trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, chiếm lấy các vùng lãnh thổ do người Đức nắm giữ tại Trung Quốc và Thái Bình Dương, tuy vậy vẫn tránh khỏi phần lớn cuộc chiến.
Sau chiến tranh, châu Âu suy yếu để mất thị phần to lớn trên thị trường quốc tế cho Hoa Kỳ và Nhật Bản, lúc này đang mạnh lên trông thấy. Sự cạnh tranh của Nhật Bản đã tạo ra con đường rộng mở cho các thị trường vốn bị châu Âu thống trị cho đến lúc đó tại châu Á, không chỉ ở Trung quốc, mà thậm chí cả ở các thuộc địa của châu Âu như Ấn Độ và Indonesia, phản ánh sự phát triển của thời kỳ Minh Trị.
Các nhà thám hiểm và sử học
Một nhà thám hiểm nước ngoài chính về sự thay đổi nhanh chóng và đáng ghi nhớ của xã hội Nhật Bản trong thời kỳ này là Ernest Mason Satow, Công sử Nhật Bản từ trong các năm 1862–83 và 1895–1900.Xem thêm
- Chủ nghĩa dân tộc Nhật Bản
- Danh sách nhân vật chính trị thời kỳ Minh Trị Nhật Bản
- Rurouni Kenshin, manga lịch sử lấy bối cảnh thời kỳ Minh Trị
- Samurai X, anime lịch sử lấy bối cảnh gần với cuộc Minh Trị Duy Tân
Chú thích
- ^ chuyển đổi âm-dương lịch.
- ^ Nussbaum, Louis-Frédéric. (2005). "Meiji" in Japan encyclopedia, p. 624 tại Google Books; n.b., Louis-Frédéric is pseudonym of Louis-Frédéric Nussbaum, see Deutsche Nationalbibliothek Authority File.
Tham khảo
Wikimedia Commons có thêm thể loại hình ảnh và phương tiện truyền tải về Thời kỳ Minh Trị |
Rama V
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
(đổi hướng từ Chulalongkorn)
Thông tin trong bài này hoặc đoạn này không thể kiểm chứng được do không được chú giải từ bất kỳ nguồn tham khảo nào. Xin bạn hãy cải thiện bài viết này bằng cách bổ sung chú thích tới các nguồn uy tín. Nếu bài được dịch từ Wikipedia ngôn ngữ khác thì hãy chuyển nguồn tham khảo từ phiên bản đó cho bài này. |
Chulalongkorn Đại vương | ||
---|---|---|
Vua Rama V | ||
Vua Xiêm La | ||
Tại vị | 1 tháng 10 năm 1868 – 23 tháng 10 năm 1910 | |
Tiền nhiệm | Rama IV | |
Kế nhiệm | Rama VI | |
Thông tin chung | ||
Thê thiếp | Saovabha Bhongsi Savang Vadhana Sunandha Kumariratana Sukumalmarsri |
|
Hậu duệ |
|
|
Triều đại | Nhà Chakri | |
Thân phụ | Rama IV | |
Thân mẫu | Debsirindra | |
Sinh | 20 tháng 9, 1853 | |
Mất | 23 tháng 10, 1910 (57 tuổi) |
Chulalongkorn sinh ngày 20 tháng 9 năm 1853 tại kinh đô Bangkok, là con trai trưởng của vua Mongkut (Rama IV) và vương hậu Debsirinda. Ông được vua cha cho học rộng, bao gồm cả học vấn từ những gia sư người châu Âu như Anna Leonowens.
Chulalongkorn kế vị cha mình ngày 1 tháng 10 năm 1868, nhưng thừa tướng Chao Praya Si Suriyawongse làm nhiếp chính vương trong 4 năm do Chulalongkorn vẫn còn quá trẻ để cai trị đất nước. Trong thời gian này, ông đã đi qua các thuộc địa phương tây, bao gồm Singapore, Java và Ấn Độ, để học chính trị, hành chính, lối sống và chính sách thực dân phương Tây. Sau này trong thời gian trị vì, ông cũng đi thăm châu Âu hai lần vào năm 1897 và 1907, là vua Xiêm đầu tiên viếng thăm châu Âu.
Ngày 16 tháng 11 năm 1873, ông đã lên ngôi lần thứ hai. Trong thời gian đi thăm các nước, ông đã học được nhiều chính sách cải cách để hiện đại hóa đất nước mình. Với sự giúp đỡ của một người Bỉ tên là Gustave Rolin-Jaequemyns, ông đã có thể giữ độc lập cho đất nước mình dù Pháp và Anh đang thuộc địa hóa phần lớn các nước Đông Nam Á và đế quốc Anh lúc đó đã tiếp tục chính sách đối nghịch và gây hấn trong quan hệ đối với Xiêm. Ông cũng đã phải nhượng một số lãnh thổ cho hai cường quốc thực dân này, đáng chú ý là các tuyên bố chủ quyền ở nhiều khu vực ngày nay là Lào, Campuchia và một số khu vực phía bắc của Malaysia.
Chulalongkorn đã hiện đại hóa triều đình Xiêm thông qua việc du nhập một chế độ Nội các, và hệ thống hành chính tỉnh bán phong kiến được đổi qua thành tỉnh (changwat) và huyện (amphoe) như ngày nay vẫn áp dụng. Ông đã tuyên bố ân xá cho tất cả tù nhân chính trị và dần bỏ chế độ nô lệ.
Sự giải phóng nô lệ này thường bị hiểu sai nhưng chủ ý của ông là giảm quyền lực của Bunnag, một gia đình quý tộc kiểm soát chặt chẽ triều Chakri vào lúc đó. Ngoài ra, động thái này cũng làm yếu đi các thủ hiến địa phương và trung lập hóa đất nước.
Tuyến đường sắt đầu tiên của Thái Lan đã được khai trương năm 1896 nối Bangkok với Ayutthaya. Trong thời kỳ trị vì của ông, lịch phương Tây đã thay thế âm lịch. Năm 1896, nhà ngoại giao người Anh là Alfred Mitchell-Innes đã được bổ nhiệm làm Cố vấn tài chính cho nhà vua trong 3 năm và ông này đã du nhập hệ thống giấy bạc cho Xiêm. Chulalongkorn cũng tuyên bố tự do tôn giáo, cho phép Ki-tô giáo và Hồi giáo được hành đạo trong vương quốc Phật giáo này.
Người ta thường hiểu nhầm rằng vua Chulalongkorn đã ban hành sắc lệnh năm 1909 trong thời kỳ trị vì của ông, bắt buộc một số lượng dân số người Thái gốc Hoa trên thực tế đồng hóa dân tộc khác vào xã hội Xiêm La và làm giảm căng thẳng dân tộc và tội phạm bạo động. Sắc lệnh này yêu cầu tất cả dân thường trú phải dùng họ Thái. Tuy nhiên, trên thực tế thì Đạo luật Họ được con trai ông là vua Rama VI ban hành năm 1913.
Vua Chulalongkorn có 4 vương hậu (พระมเหสี), Vương hậu Saovabha Bhongsi, Vương hậu Savang Vadhana, Vương hậu Sunandha Kumariratana và Vương hậu Sukumalmarsri và 92 phi tần khác. Ông có ít nhất 77 người con, trong đó 33 con trai. Con trai thứ hai của ông, Vajiravudh, đã kế vị ông làm vua Rama VI. Ngày qua đời của ông, 23 tháng 10 năm 1910, được làm ngày nghỉ lễ trong năm của dân Thái Lan.
Rama V
Nhà Chakri
Sinh: 20 tháng 9 1853 Mất: 23 tháng 10 1910 |
||
Tiền vị: Rama IV |
Vua Xiêm La 1868–1910 |
Kế vị Rama VI |
Wikimedia Commons có thêm thể loại hình ảnh và phương tiện truyền tải về Rama V |
Sương giáng
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Bài viết hoặc đoạn này cần thêm chú thích nguồn gốc để có thể kiểm chứng thông tin. Những nội dung không có nguồn có thể bị đặt vấn đề và xóa bỏ. Mời bạn bổ sung chú thích từ các nguồn đáng tin cậy để giúp cải thiện bài viết. |
Hai mươi tư tiết khí Kỷ nguyên J2000 |
||
Kinh độ | Tiết khí | Dương lịch (thông thường) |
---|---|---|
Xuân | ||
315° | Lập xuân | 4 - 5/2 |
330° | Vũ thủy | 18 - 19/2 |
345° | Kinh trập | 5 - 6/3 |
0° | Xuân phân | 20 - 21/3 |
15° | Thanh minh | 4 - 5/4 |
30° | Cốc vũ | 20 - 21/4 |
Hạ | ||
45° | Lập hạ | 5 - 6/5 |
60° | Tiểu mãn | 21 - 22/5 |
75° | Mang chủng | 5 - 6/6 |
90° | Hạ chí | 21 - 22/6 |
105° | Tiểu thử | 7 - 8/7 |
120° | Đại thử | 22 - 23/7 |
Thu | ||
135° | Lập thu | 7 - 8/8 |
150° | Xử thử | 23 - 24/8 |
165° | Bạch lộ | 7 - 8/9 |
180° | Thu phân | 23 - 24/9 |
195° | Hàn lộ | 8 - 9/10 |
210° | Sương giáng | 23 - 24/10 |
Đông | ||
225° | Lập đông | 7 - 8/11 |
240° | Tiểu tuyết | 22 - 23/11 |
255° | Đại tuyết | 7 - 8/12 |
270° | Đông chí | 21 - 22/12 |
285° | Tiểu hàn | 5 - 6/1 |
300° | Đại hàn | 20 - 21/1 |
Theo quy ước, tiết sương giáng là khoảng thời gian bắt đầu từ khoảng ngày 23 hay 24 tháng 10 khi kết thúc tiết hàn lộ và kết thúc vào khoảng ngày 7 hay 8 tháng 11 trong lịch Gregory theo các múi giờ Đông Á khi tiết lập đông bắt đầu.
Lịch Trung Quốc, cũng như lịch ở các nước Đông Á cổ đại bao gồm Việt Nam, bị nhiều người lầm là âm lịch thuần túy, dẫn đến ngộ nhận về việc tiết khí nói chung và Sương giáng nói riêng được tính theo chu kỳ của Mặt Trăng quay xung quanh Trái Đất. Trên thực tế lịch Trung Quốc cổ đại là một loại âm dương lịch, trong đó tiết khí, từ thời Hán Vũ Đế, đã được tính theo vị trí của Trái Đất trong chu kỳ chuyển động trên quỹ đạo xung quanh Mặt Trời. Theo cách tính hiện đại, với điểm xuân phân là gốc có kinh độ Mặt Trời bằng 0°, thì điểm diễn ra hay bắt đầu tiết Sương giáng ứng với kinh độ Mặt Trời bằng 210°. Ngày bắt đầu tiết Sương giáng do vậy được tính theo cách tính của dương lịch hiện đại và nó thông thường rơi vào ngày 23 hay 24 tháng 10 dương lịch tùy theo từng năm. Tiết khí đứng ngay trước Sương giáng là Hàn lộ và tiết khí kế tiếp sau là Lập đông.
Xem thêm
210°
Video yêu thích
http://www.youtube.com/user/hoangkimvietnam
Trở về trang chính
hoangkim vietnam, hoangkim, hoangkimvietnam, Hoàng Kim, Ngọc Phương Nam, Chào ngày mới Thung dung, Dạy và học, Cây Lương thực, Tin Nông nghiệp Việt Nam, Food Crops, Cassava in Vietnam, VietnamAfricaCassavaRice, Khát khao xanh, Dayvahoc, Học mỗi ngày, Danh nhân Việt , Food Crops News, Điểm chính, CNM365, Kim LinkedIn, KimTwitter, KimFaceBook Đọc lại và suy ngẫm, Việt Nam tổ quốc tôi, Tình yêu cuộc sống, Thơ cho con
No comments:
Post a Comment