Hoa kiều
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Người Hoa Hải ngoại 海外華人 海外华人 |
|||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
|
|||||||||
Tổng số dân | |||||||||
40.000.000 | |||||||||
Ngôn ngữ | |||||||||
Tiếng Trung Quốc và các ngôn ngữ nơi họ cư trú. | |||||||||
Tôn giáo | |||||||||
Phật giáo cùng Đạo giáo và Nho giáo, Thiên chúa giáo, khác. | |||||||||
Dân tộc thiểu số có liên quan | |||||||||
Người Hán |
Gần đây đích di cư nhắm về Bắc Mỹ và châu Úc, chủ yếu là đến Hoa Kỳ, Úc, Canada và New Zealand.[2]
Hoa kiều khác nhau nhiều về mức độ đồng hoá, tương tác với cộng đồng xung quanh (xem Phố Tàu) và mối liên hệ với Trung Quốc. Ở Thái Lan, phần lớn Hoa kiều kết hôn và đồng hoá với cộng đồng bản xứ. Ở Myanma, người Hoa hiếm khi kết hôn với người bản xứ nhưng lại theo văn hoá Miến Điện, duy trì đặc tính Hoa và Miến. Trái lại, ở Malaysia và Singapore, Hoa kiều vẫn giữ đặc tính chủng tộc riêng biệt.
Thường những làn sóng di dân khác nhau dẫn đến hình thành các phân nhóm trong số Hoa kiều, như những di dân cũ và mới ở Campuchia và Indonesia. Người Hoa ở các nước Đông Nam Á thường tham gia vào thương mại và tài chính. Và khả năng kinh doanh của người Hoa tại các khu vực này đều được đa phần người bản xứ công nhận. Ở Bắc Mỹ, nhờ các chính sách di trú, Hoa kiều thường có mặt trong các ngành nghề chuyên môn, các nghề có thứ hạng cao trong y khoa và học thuật.
Mục lục
Thuật ngữ
Tiếng Trung có nhiều thuật ngữ khác nhau để đề cập đến khái nhiệm này. Huáqiáo (Trung văn giản thể: 华侨; Trung văn phồn thể: 華僑, Hoa Kiều) hay Hoan-kheh trong tiếng Phúc Kiến (tiếng Trung: 番客) dùng để đề cập đến công dân Trung Quốc sinh sống ngoài Trung Quốc. Huáyì (Trung văn giản thể: 华裔; Trung văn phồn thể: 華裔; Bạch Thoại tự: Hôa-è, Hoa duệ) dùng để đề cập đến người thuộc dân tộc Hán sinh sống ngoài Trung Quốc.[3] thuật ngữ thường dùng khác là 海外华人 (hǎiwài huárén, hải ngoại hoa nhân); và từ này thường được chính phủ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa sử dụng để đề cập đến những người thuộc sắc tộc Trung Hoa sinh sống ngoài Trung Quốc nói chung mà không xét tới quốc tịch.Trong tiếng Việt, cụm từ Hoa kiều vẫn được dùng phổ biến và tồn tại song song với từ Việt kiều để đề cập đến những người gốc Việt nói chung tại nước ngoài mà không kể tới quốc tịch, mặc dù vậy, thuật ngữ "kiều" có nghĩa là "ở nhờ" và khô thích hợp để chỉ những người đã mang quốc tịch nước ngoài.
Hoa kiều thuộc sắc tộc Hán như Quảng Đông, Phúc Kiến, hay Khách Gia đề cập tới Hoa kiều với tên gọi 唐人 (tángrén, đường nhân), đọc là tòhng yàn trong tiếng Quảng Đông, Tn̂g-lâng trong tiếng Mân Nam, và tong nyin trong tiếng Khách Gia. Từ "đường nhân" ám chỉ đến nhà Đường khi chyế độ này kiểm soát toàn bộ Trung Nguyên.
Thống kê
Xem thêm
Chú thích
- ^ Blondeau, Anne-Marie; Buffetrille, Katia and Wei Jing (2008). Authenticating Tibet: Answers to China's 100 Questions. University of California Press. tr. 127.
- ^ http://phunutoday.vn/xa-hoi/doi-song/201304/Nguoi-Trung-Quoc-thay-thieu-an-toan-tren-dat-nuoc-minh-2213493/
- ^ [1]
- ^ a ă â b c d đ e ê The Ranking of Ethnic Chinese Population Overseas Compatriot Affairs Commission, R.O.C.
- ^ Malaysia. Background Notes. United States: Department of State. December năm 2008. Truy cập ngày 8 tháng 5 năm 2009
- ^ [2], BBC
- ^ “Table 3 Ethnic Composition of the Resident Population”, Singapore Department of Statistics, Social Statistics Section, truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2011
- ^ “Kết quả toàn bộ Tổng điều tra Dân số và Nhà ở Việt Nam năm 2009” (Thông cáo báo chí). Tổng cục Thống kê. 4 tháng 1 năm 2009. Truy cập 22/2/2011.
- ^ Cambodia: Zongzi becomes a tool of affection relay
- ^ Ministry of Justice. Japan. July, 2009.<http://www.moj.go.jp/PRESS/090710-1/090710-3.pdf>.
- ^ “More Than 1 Million Foreigners Live in Korea”. Chosun Ilbo. 6 tháng 8 năm 2009. Truy cập ngày 18 tháng 10 năm 2009
- ^ Chinese expats in Dubai - TimeOut Dubai
- ^ “Brunei”. The World Factbook. Langley, VA: Central Intelligence Agency. 2006. Truy cập ngày 17 tháng 9 năm 2006. The total population of Brunei is estimated at 380,000, of whom 11.2% are of Chinese descent.
- ^ “Chinese in N.Korea 'Face Repression'”. Chosun Ilbo. 10 tháng 10 năm 2009. Truy cập ngày 15 tháng 10 năm 2009
- ^ Fazl-e-Haider, Syed (11 tháng 9 năm 2009). “Chinese shun Pakistan exodus”. Asia Times. Truy cập ngày 11 tháng 9 năm 2009
- ^ http://www.nationmaster.com/graph/peo_chi_pop-people-chinese-population
- ^ Bangladesh, Lonely Planet by Marika McAdam
- ^ “Selected Population Profile in the United States”. Truy cập ngày 29 tháng 9 năm 2008.
- ^ " Ethnic Origin (247), Single and Multiple Ethnic Origin Responses (3) and Sex (3) for the Population of Canada, Provinces, Territories, Census Metropolitan Areas and Census Agglomerations, 2006 Census - 20% Sample Data," [3]
- ^ CIA World Factbook. Cuba. 2008. May 15, 2008.<https://www.cia.gov/library/publications/the-world-factbook/geos/cu.html>.
- ^ People Daily community estimation.<http://spanish.peopledaily.com.cn/31621/6415237.html>.
- ^ http://www.embajadachina.org.mx/esp/zmgx/t44249.htm=B
- ^ “Nicaragua: People groups”. Joshua Project. Truy cập ngày 26 tháng 3 năm 2007.
- ^ Romero, Simon (10 tháng 4 năm 2011). “China Aids Suriname, Expanding South American Role”. The New York Times.
- ^ Joshua Project - Han Chinese, Hakka of Jamaica Ethnic People Profile
- ^ dr1.com - The Chinese Community and Santo Domingo’s Barrio Chino - Page 1
- ^ History of the Chinese in Guyana
- ^ http://celade.cepal.org/cgibin/RpWebEngine.exe/PortalAction?&MODE=MAIN&BASE=CPVBLZ2000&MAIN=WebServerMain.inl
- ^ “"Population of the UK, by ethnic group, 2001" (Note that in UK usage Asian in this context refer to South Asia)”. Truy cập ngày 23 tháng 6 năm 2006.
- ^ Statistiche demografiche ISTAT.
- ^ Instituto Nacional de Estadística: Padrón 2008 [4].
- ^ Dutch Census Bureau (excludes ethnic Chinese not from China)[5].
- ^ Federal Statistical Office Germany [6].
- ^ Little China in Belgrade
- ^ Beyond 20/20 WDS - Table View
- ^ Statistics Denmark 2009
- ^ Кръстева, Анна (2005). “Китайците”. Имиграцията в България. София: IMIR. tr. 80–104. ISBN 954-8872-56-0.
- ^ “Foreign population with legal status of residence (No.) by Place of residence (NUTS-2002) and Nationality”. Population. Instituto Nacional de Estatística. 2007. Truy cập ngày 18 tháng 3 năm 2009
- ^ Statistiska centralbyrån
- ^ Tilastokeskus [7].
- ^ Czech Statistical Office 2007
- ^ Vasiliu, Adrian O.; Vasileanu, Marius; Duţă, Mihai; Covaci, Talida (1 tháng 8 năm 2005). “Chinezii din Romania - polul est-european al civilizatiei asiatice/Chinese in Romania - Eastern European pole of Asian civilisation”. Adevărul. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2009
- ^ 2006 Australian Bureau of Statistics [8].
- ^ QuickStats About Culture and Identity - Asian, 2006 Census, Statistics New Zealand. Accessed 2007-07-13.
- ^ Nelson 2007, tr. 8
- ^ Chin 2008, tr. 118
- ^ "Tonga announces the expulsion of hundreds of Chinese immigrants", John Braddock, wsws.org, December 18, 2001
- ^ "Tonga to expel race-hate victims", Paul Raffaele & Matthew Dearnaley, New Zealand Herald, November 22, 2001
- ^ Palau, CIA World Factbook, rertieved October 14, 2009
- ^ Park, Yoon Jung (2009). “Recent Chinese Migrations to South Africa - New Intersections of Race, Class and Ethnicity”. Representation, Expression and Identity (Interdisciplinary Perspectives). ISBN 978-1-904710-81-3. Truy cập ngày 20 tháng 9 năm 2010.
- ^ http://www.newsweek.com/id/72028/page/1
- ^ “Chinese prostitution ring busted in Maadi”, Almasry Alyoum, 13 tháng 9 năm 2010, truy cập ngày 3 tháng 10 năm 2010
- ^ Man 2006
- ^ Bureau of Foreign Affairs and Overseas Chinese Affairs 2007
- ^ http://www.migrationinformation.org/Feature/display.cfm?id=690
- ^ 非洲华人华侨简况. Dongguan: Bureau of Foreign Affairs and Overseas Chinese Affairs. 20 tháng 4 năm 2007. Truy cập ngày 30 tháng 10 năm 2008
- ^ Chinese Language Educational Foundation 1999
- ^ Time. 11 tháng 3 năm 2009 http://www.time.com/time/photogallery/0,29307,1884396_1854955,00.html
|tựa đề=
trống hay bị thiếu (trợ giúp). Truy cập ngày 20 tháng 5 năm 2010. - ^ 1999 年底非洲国家和地区华侨、华人人口数 (1999 year-end statistics on Chinese expatriate and overseas Chinese population numbers in African countries and territories). Chinese Language Educational Foundation.
Trận Sekigahara
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
|
|
|
Chiến thắng của "Đông quân" dưới sự chỉ huy của Ieyasu khiến ông trở thành người cuối cùng trong số 3 người thống nhất Nhật Bản cùng với Oda Nobunaga và Toyotomi Hideyoshi.[5] Sau trận đại chiến này, ông chính thức giành được tước hiệu Chinh di Đại tướng quân (征夷大将軍, Sei-i Daishōgun), người có quyền lực chính trị và quân sự nhất thời phong kiến Nhật Bản. Trận chiến mở đầu thời đại của Mạc phủ Tokugawa, mạc phủ cuối cùng trong lịch sử Nhật Bản kéo dài hơn 250 năm.[6]
Tầm quan trọng trận chiến này, toàn bộ kết quả của một chiến dịch quân sự, là nó đã gần như kết thục một thời kỳ nội chiến khốc liệt. Nó đã thiết lập nền hòa bình gần như tuyệt đối trên suốt quần đảo Nhật Bản, và chỉ bị gián đoạn bởi các cuộc khởi nghĩa nhỏ cho đến khi Thiên hoàng giành lại quyền lực tối cao sau cuộc chiến tranh Mậu Thìn (1868-1869).
Mặc dù không ai biết chính xác số lượng binh lính tham chiến của hai bên, nhưng phần lớn học giả cho rằng đã có hơn 17 đến 20 vạn binh lính tập trung ngày hôm đó, và một số người nói rằng, đây là trận đánh lớn nhất trong lịch sử Nhật Bản.[7]
Mục lục
Tên gọi
Trận đánh lịch sử này còn được gọi là Tenka Wakeme no Tatakai (天下分け目の戦い, trận chiến phân thiên hạ) trong tiếng Nhật. Tên gọi Sekigahara bắt nguồn từ tên vùng đất mà nó đã diễn ra: Sekigahara, nằm trong khu vực quận Fuwa, tỉnh Gifu ngày nay.Bao gồm hai khía cạnh khác nhau: Mặc dù thường được xem như là một trận đánh, một phần của một chiến dịch quân sự quy mô lớn. Về điều này, cả hai bên đều đã chuẩn bị trước, như việc bao vây lâu đài đối phương hay chặn đánh các tuyến đường giao thông chính để cố gắng chiếm được lợi thế hơn đối thủ. Điều đáng chú ý là khi hai bên đã chuẩn bị cho trận đánh hàng tháng trời, việc quyết định nơi giao tranh được thực hiện cách nhanh chóng bởi một trong hai bên tham chiến. Ishida Mitsunari đã lựa chọn được chỗ rất có lợi cho quân của mình. Nhưng trớ trêu thay, chính một trong những đồng minh đáng tin nhất của ông đã phản bội khiến ông không kịp trở tay.[8]
Bối cảnh và nguyên cớ
Hideyoshi tìm kiếm danh hiệu shogun để thực sự được coi là người nắm quyền thống trị Nhật Bản. Tuy nhiên Hoàng đế không ban cho ông tước hiệu đó. Ông yêu cầu shogun cuối cùng của Muromachi, Ashikaga Yoshiaki, nhận ông làm con nuôi, nhưng bị từ chối. Không thể trở thành shogun, năm 1585 ông nhận lấy vị trí còn đầy thanh thế hơn là Nhiếp chính quan (kampaku)[11]. Năm 1586, Hideyoshi chính thức được triều đình ban tên Toyotomi[11]. Ông xây dựng một lâu đài to lớn, Jurakudai, năm 1587 và điều khiển Hoàng đế Go-Yozei năm sau đó[12].
Sau đó, Hideyoshi khuất phục tỉnh Kii[13] và chinh phục Shikoku của gia tộc Chōsokabe[14]. Ông cũng dành quyền kiểm soát tỉnh Etchū[15] và xâm lăng Kyūshū[16]. Năm 1587, Hideyoshi trục xuất người truyền đạo Thiên chúa khỏi Kyūshū để áp đặt sự thống trị lớn hơn đối với các daimyo Kirishitan (người Nhật theo Thiên chúa giáo)[17]. Tuy nhiên, vì ông vẫn giao thương với châu Âu, những người theo Thiên chúa giáo riêng lẻ được lờ đi. Năm 1588, Hideyoshi cấm nông dân bình thường sở hữu vũ khí và bắt đầu cuộc săn lùng kiếm để sung công vũ khí[18]. Kiếm được nấu chảy để đúc tượng Phật. Biện pháp này ngăn ngừa rất hiệu quả sự phản ứng của nông dân và đảm bảo sự ổn định lớn hơn đặc biệt là từ các daimyo tự do. Cuộc vây hãm Odawara chống lại gia tộc Hậu Hōjō ở đồng bằng Kantō[19] tiêu diệt những kẻ chống đối cuối cùng của Hideyoshi. Chiến thắng của ông đánh dấu sự kết thúc của thời kỳ Sengoku.
Tháng 2 năm 1591, Hideyoshi ra lệnh cho Sen no Rikyū phải tự sát[20]. Rikyū đã từng là một thuộc hạ tin cẩn và là bậc thầy trà đạo dưới thời cả Hideyoshi lẫn Nobunaga. Dưới sự bảo trợ của Hideyoshi, Rikyū tạo ra những thay đổi quan trọng trong mỹ học của trà đạo, ảnh hưởng đến rất nhiều khía cạnh của văn hóa Nhật Bản. Kể cả sau khi ra lệnh buộc Rikyū phải tự sát, Hideyoshi vẫn tiến hành nhiều công trình xây dựng dựa trên những tiêu chuẩn về cái đẹp do Rikyū đề xướng. Sự ổn định của triều đại Toyotomi sau cái chết của Hideyoshi bị đặt một dấu hỏi lớn sau cái chết của người con trai độc nhất mới 3 tuổi của ông, Tsurumatsu, tháng 9 năm 1591. Khi người anh cùng cha khác mẹ Hidenaga qua đời ít lâu sau người con trai, Hideyoshi chọn cháu trai Hidetsugu làm người kế vị, nhận Hidetsugu làm con nuôi vào tháng 1 năm 1592. Hideyoshi rời bỏ chức vụ kampaku rồi nhận tước hiệu taikō (Nhiếp chính về hưu). Hidetsugu được ban tước hiệu kampaku.
Hai lần xâm lược Triều Tiên thất bại của ông đã làm quyền lực của gia tộc Toyotomi cũng như những người trung thành và những quan viên vẫn còn phục vụ và ủng hộ gia tộc này sau khi Toyotomi chết suy yếu một cách khủng khiếp. Sự hiện diện của Hideyoshi và em trai ông ta Hidenaga làm hai phe không bùng nổ xung đột, nhưng khi cả hai người đều qua đời, sự xích mích ngày càng trầm trọng và biết thành thù địch. Đáng chú ý nhất là, Kato Kiyomasa và Fukushima Masanori đã công phái các quan chức cũ, đặc biệt là Ishida Mitsunari và Konishi Yukinaga. Tokugawa Ieyasu chớp lấy thời cơ, lấy lòng họ, và hướng sự thù địch làm yếu đi gia tộc Toyotomi.
Khai cuộc
Tokugawa Ieyasu không còn đối thủ về thâm niên, thứ bậc, danh tiếng và ảnh hưởng nói chung trong gia tộc Toyotomi sau cái chết của Nhiếp chính Maeda Toshiie. Tin đồn lan tràn về việc Ieyasu, lúc này là đồng minh duy nhất còn sống của Oda Nobunaga, sẽ chiếm lấy cơ nghiệp của Hideyoshi, như cách mà Hideyoshi đã đoạt lấy của Nobunaga. Điều này được những quan viên trung thành với Hideyoshi đặc biệt tin tưởng, vì họ đã nghi ngờ Ieyasu đã kích động mối bất hòa giữa các chư hầu của của Toyotomi.Sau đó, âm mưu ám sát Ieyasu bị lộ, và rất nhiều những người trung thành với Toyotomi đã bị buộc tội và bị ép phải phục tùng quyền lực của Ieyasu. Tuy vậy, Uesugi Kagekatsu, một trong các Nhiếp chính được Hideyoshi tiến cử, không tuân lệnh của Ieyasu và xây dựng đội quân của riêng mình. Khi Ieyasu công khai kết tội ông và đòi ông phải đến Kyoto để đối chất trước mặt Thiên Hoàng. Quân sư của Kagekatsu, Naoe Kanetsugu đáp lời bằng việc kết tội Ieyasu lăng mạ vi phạm di huấn của Hideyoshi, làm Ieyasu tức điên lên.
Sau đó, Ieyasu tập hợp những người ủng hộ mình, tiến quân lên phía Bắc tấn công gia tộc Uesugi, sử gọi là Cuộc vây hãm Hasedō, nhưng Ishida Mitsunari, chớp lấy thời cơ này, nổi dậy và tạo lập một liên minh làm đối trọng với những người theo Ieyasu, đánh trúng tâm lý của rất nhiều daimyo thù địch ở lâu đài Osaka.
Ieyasu để lại một ít quân dưới quyền của Date Masamune để canh chừng nhà Uesugi và tiến về phía Tây để giao chiến với Tây quân. Một vài daimyo, đáng chú ý nhất là Sanada Masayuki, từ bỏ liên minh của Ieyaus, mặc dù, đa số đều căm thù Mitsunari hay trung thành với Ieyasu đều ở lại với quân Tokugawa.
Trận đánh
Mitsunari, ở lâu đài Sawayama, gặp gỡ Otani Yoshitsugu, Mashita Nagamori, và Ankokuji Ekei. Ở đây, họ thành lập liên minh, gửi lời mời đến Mori Terumoto, người thực ra không tham gia vào trận chiến, làm thủ lĩnh.Mitsunari sau đó chính thức tuyên chiến với Ieyasu và bao vây lâu đài Fushimi, do thuộc hạ của Ieyasu là Torii Mototada trấn giữ vào ngày 19 tháng 7. Sau đó, Tây quân hạ được vài tiền đồn của quân Tokugawa ở vùng Kansai và trong không đầy một tháng, Tây quân đã tiến đến tỉnh Mino, nơi có ngôi làng Sekigahara.
Trở lại Edo, Ieyasu nhận được tin tức về tình hình ở Kansai và quyết định triển khai quân đội của mình. Ông ra lệnh cho vài daimyo cũ của Toyotomi giao chiến với Tây quân khi ông chia quân thành các đường và tiến về phía Tây trên con đường Tōkaidō đến lâu đài Osaka.
Con trai của Ieyasu là Hidetada dẫn một đạo quân khác qua ngả Nakasendō. Tuy vậy, quân đội của Hidetada sa lầy khi cố công phá lâu đài Ueda của Sanada Masayuki. Mặc dù quân đội Tokugawa đông gấp bội với 38.000 lính so với chỉ vẻn vẹn 2.000 lính của nhà Sanada, họ vẫn không thể chiếm được vị trí chiến lược được phòng thủ cẩn mật này. Cùng lúc đó, 15.000 quân nhà Toyotomi bị giam chân chỉ bằng 5.00 quân của Hosokawa Fujitaka tại lâu đài Tanabe ở quận Wakayama. Một vài trong số 15.000 người đó kính trọng Hosokawa đến độ mà họ trù tính sẽ làm chậm nhịp độ tấn công lại. Những sự kiện này khiến cho một số lượng lớn quân của Tokugawa và Toyotomi không thể tham chiến tại Sekigahara.
Biết rằng Ieyasu đang tiến tới Osaka, Mitsunari quyết định rời bỏ vị trí của mình và tiến đến Sekigahara. Ngày 15 tháng 9, hai bên bắt đầu sắp xếp đội ngũ. Đông quân của Ieyasu có 88.888 lính, trong khi quân số của Mitsumari là 81.890 người.
Tây quân thất bại
Mặc dù Tây quân có được lợi thế chiến thuật rất lớn, Ieyasu đã liên hệ với nhiều daimyo ở phía Tây, đảm bảo cho họ về đất đai và tính mạng sau trận chiến nếu họ chuyển phe. Điều này làm vài tướng lĩnh phía Tây giữ các vị trí quan trọng dao động và phải đưa quân tiếp viện hay tham chiến, việc này đã phát huy tác dụng.Mori Hidemoto và Kobayakawa Hideaki là hai daimyo như thế. Họ ở những vị trí mà nếu đánh thúc vào Đông quân, họ sẽ làm cho Ieyasu bị vây cả ba mặt. Hidemoto, bị lời hứa của Ieyasu lung lạc, cũng thuyết phục Kikkawa Hiroie không tham chiến.
Mặc dù Kobayakawa đã nghe theo lời Ieyasu, ông vẫn do dự và giữ thái độ trung lập. Khi trận đánh vào hồi căng thẳng, Ieyasu cuối cùng ra lệnh cho súng hỏa mai bắn vào vị trí của Kobayakawa trên núi Matsuo. Đến lức này, Kobayakawa mới tham chiến theo phe phía Đông. Quân đội của ông đánh vào vị trí của Yoshitsugu. Mắt thấy hành động phản bội này, hàng loạt các tướng quân phía Tây như Wakisaka Yasuharu, Ogawa Suketada, Akaza Naoyasu, và Kutsuki Mototsuna ngay lập tức chuyển phe, khiến chiều hướng của trận đánh thay đổi hẳn.
Tây quân tan rã, các chỉ huy bỏ chạy. Một vài người như Ukita Hideie chạy thoát, trong khi những người khác như Otani Yoshitsugu tự sát. Mitsunari, Yukinaga và Ekei bị bắt và một số ít như Mori Terumoto và Shimazu Yoshihiro trở về được lãnh địa của mình.
Thành phần tham chiến
Vũ khí
Cận chiến
Vũ khí phụ là nihonto, thường được biết đến ở phương Tây là kiếm katana. Kiếm Katana có chuôi dài đủ để người sử dụng dùng hai bàn tay nắm chặt. Theo truyền thống, kiếm được đeo với lưỡi quay lên phía trên. Mặc dù là một kiểu vũ khí có liên kết chặt chẽ nhất với các samurai thời kỳ Edo, một thời gian hòa bình trong lịch sử Nhật Bản, và người ta đã gọi nó là "linh hồn của những samurai". Katana được sử dụng song song với một thanh kiếm ngắn là Wakizashi và được gọi chung với nhau là daishō (大小, đại tiểu), biểu tượng cho tác phong và danh dự của người võ sĩ. Thanh kiếm dài Katana dùng để chém trong tác chiến. Kiếm ngắn để đâm khi đến gần đối phương hoặc để thực hiện một nghi thức mang tên seppuku.
Khi một samurai mặc giáp trụ đầy đủ và giao tranh trên chiến trường, thanh katana vẫn được sử dụng trong khi thanh wakizashi được thay thế bằng tanto. Trên chiến trường, katana được xem là vũ khí quan trọng nhất, vì nó thường được định nghĩa với cận chiến.
Mở đầu thời kỳ Mạc phủ Tokugawa
Tokugawa Ieyasu phân bổ lại đất đai và thái ấp cho những người tham chiến, nói chung là ban thưởng cho những người trợ giúp ông và thay đổi chỗ, trừng phạt hay lưu đầy những người chống lại mình. Thực hiện việc này, ông giành được quyền kiểm soát rất nhiều đất đai trước kia của nhà Toyotomi. Sau khi xử tử công khai Ishida Mitsunari, Konishi Yukinaga và Ankokuji Ekei, ảnh hưởng và uy tín của gia tộc Toyotomi cùng những người trung thành với họ suy giảm nghiêm trọng.Từ góc nhìn của gia tộc Toyotomi, trận đánh này theo một nghĩa nào đỏ chỉ là cuộc giao tranh giữa các chư hầu nhà Toyotomi. Tuy vậy, quan điểm này không chính xác lắm vì Ieyasu sau này đã trở thành Shogun, vị trí vẫn còn bỏ trống sau khi Mạc phủ Ashikaga sụp đổ 27 năm trước. Sự thay đổi này cũng đảo ngược địa vị thuộc hạ của gia tộc Tokugawa, sau đó biến gia tộc Toyotomi thành chư hầu của nhà Tokugawa. Dù thế nào đi chăng nữa, Ieyasu cũng không kiếm được cớ gì để hành động chống lại nhà Toyotomi bạc nhược; thay vào đó, Ieyasu phải tốn công dàn xếp nhiều kế hoạch chính trị để tiêu diệt Hideyori một lần và mãi mãi.
Mầm mống nổi loạn
Trong khi phần lớn các gia tộc đều bằng lòng với vị trí mới của mình, có những gia tộc, đặc biệt là những người ở phía Tây, cay đắng vì việc bị thuyên chuyển lãnh địa hay cảm thấy việc bại trận hay bị trừng phạt là một sự sỉ nhục. Ba gia tộc sau trận Sekigahara bị thiệt hại nặng nề:- Gia tộc Mori, đứng đầu là Mori Terumoto, vẫn giận dữ với Mạc phủ Tokugawa vì phải chuyển khỏi thái ấp của mình, Aki, và được phân cho lãnh địa Chōshū, mặc dù gia tộc này không hề tham gia vào trận đánh này.
- Gia tộc Shimazu, đứng đầu là Shimazu Yoshihiro, việc thu thập thông tin tình báo yếu kém, và họ vẫn không bị thuyên chuyển khỏi tỉnh nhà Satsuma, họ vẫn không hoàn toàn trung thành với Mạc phủ Tokugawa. Tận dụng lợi thế là xa Edo và ở trên đảo Kyushu cũng như tăng cường công tác thám báo, gia tộc Shimazu công khai tuyên bố rằng đây gần như là một vương quốc tự trị độc lập khỏi Mạc phủ Tokugawa.
- Gia tộc Chosokabe, đứng đầu là Chosokabe Morichika, bị lột bỏ tước hiệu và lãnh địa ở Tosa và bị lưu đày. Các thuộc hạ cũ của Chosokabe không bao giờ phục vụ cho những người mới đến, gia tộc Yamauchi, tạo ra sự khác biệt giữa các thuộc hạ của họ với các thuộc hạ cũ của Chosokabe, khiến họ phải chịu địa vị thấp hơn cũng như sự phân biệt đối xử. Việc phân biệt đẳng cấp này tiếp diễn hàng thế hệ cho đến khi gia tộc Chosokabe sụp đổ.
Miyamoto Musashi
- Theo lưu truyền lại, kensei (kiếm thánh) huyền thoại Miyamoto Musashi cũng tham chiến trong hàng ngũ quân đội của Ukita Hideie. Người ta cho là ông đã chiến đấu anh dũng và thoát khỏi quân đội thất trận của Ukita mà không bị một vết thương nào. Đây là thực tế hay huyền thoại vẫn còn chưa rõ ràng; nhưng Musashi mới chỉ khoảng 16 tuổi vào thời điểm đó.
Xuất hiện trong văn hóa đại chúng
- Trận đánh này là cảnh chiến đấu chính trong phim Sengoku jieitai 1549 (2005). Trong phim cũng xuất hiện một số nhân vật chính và tình huống chính trị, khá trụy lạc do kịch bản phim.
- Trận đánh này được miêu tả nổi bật trong seri manga và anime Samurai Deeper Kyo.
- Trận đánh xuất hiện trong video game Kessen và Samurai Warriors 2 cho dòng máy Playstation 2. Cả hai game có những kịch bản viễn tưởng, một vài chuyển thắng lợi về cho phe Tây Quân.
- Trận chiến cũng xuất hiện trong Age of Empires III: The Asian Dynasties trong phần các chiến dịch Nhật Bản.
- Trận chiến xuất hiện trong Shogun: Total War, là một trong những trận chiến lịch sử PC.
- Trong Azumi, Trận Sekigahara là một trong những yếu tố quan trọng của kịch bản.
- Tiểu thuyết best-seller của James Clavell, "Shogun" miêu tả các sự kiện dẫn đến trận chiến đỉnh điểm này, mặc dù chính bản thân trận chiến lại chỉ được kể trong hai khổ ngắn ngủi.
- Seri nhỏ năm 2003, Musashi bắt đầu với việc Miyamoto Musashi trẻ tuổi trở dậy từ hàng đống tử thi sau trận chiến Sekigahara. Manga Nhật Bản Vagabond cũng bắt đầu với cảnh tương tự.
Chú thích
- ^ “The Story of the Battle of Sekigahara”. Truy cập 6 tháng 5 năm 2009.
- ^ a ă Bryant 1995, trang 25.
- ^ a ă “Fight for the future” (bằng inglés). Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 12 năm 2012. Truy cập 9 tháng 5 năm 2009.
- ^ “The Battle of Sekigahara”. Truy cập 9 tháng 9 năm 2008.
- ^ “Japan - AD 1573-1615 Momoyama”. Truy cập 6 tháng 3 năml 2009.
- ^ “Edo Period”. Truy cập 6 tháng 5 năm 2009.
- ^ Turnbull 2003, trang 47.
- ^ Bryant 1995, trang 84.
- ^ Berry, trang 74.
- ^ Berry, trang 78.
- ^ a ă Berry, trang 179.
- ^ Berry, các trang 184–186.
- ^ Berry, các trang 85–86.
- ^ Berry, trang 83.
- ^ Berry, trang 84.
- ^ Berry, pp. 87–93.
- ^ Berry, pp. 91–93.
- ^ Berry, các trang 102–106.
- ^ Berry, các trang 93–96.
- ^ Berry, các trang 223–225.
- ^ a ă Tomados del ejército principal de Mitsunari.
- ^ Tomados del ejército de Yoshihiro.
- ^ El historiador George Sansom estimó que 95.000 soldados estuvieron en el campo de batalla en el bando de Mitsunari según un cálculo basado en los ingresos en koku de cada feudo representado en la batalla. Sanson, 1961:412.
- ^ El historiador George Sansom estimó que 138.000 soldados estuvieron en el campo de batalla en el bando de Ieyasu según un cálculo basado en los ingresos en koku de cada feudo representado en la batalla. Sanson, 1961:412.
Liên kết ngoài
- Anthony J. Bryant, Sekigahara 1600: The Final Struggle For Power. Osprey Campaign Series #40. Oxford: Osprey Publishing. ISBN 1-85532-395-8; ISBN 978-1-85532-395-7.;(tháng 9, 2005)
Wikimedia Commons có thêm thể loại hình ảnh và phương tiện truyền tải về Trận Sekigahara |
Mét
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
|
Bài viết hoặc đoạn này cần thêm chú thích nguồn gốc để có thể kiểm chứng thông tin. Những nội dung không có nguồn có thể bị đặt vấn đề và xóa bỏ. Mời bạn bổ sung chú thích từ các nguồn đáng tin cậy để giúp cải thiện bài viết. |
Đơn vị quốc tế | |
---|---|
1 m | 1×10−3 km |
1.000 mm | 10×109 Å |
6,685×10−12 AU | 105,7×10−18 ly |
Kiểu Mỹ / Kiểu Anh | |
39,37 in | 3,281 ft |
1,094 yd | 621,371×10−6 mi |
Lịch sử
- 1664: Christian Huygens đề nghị dùng độ dài con lắc toán học thực hiện một dao động trong một giây để làm đơn vị đo độ dài.
- 1771: nhiều người đề nghị lấy độ dài quãng đường một vật rơi tự do trong một giây làm đơn vị đo độ dài.
- 1790: Một ủy ban được thành lập tại Pháp đã quyết định chọn độ dài một phần mười triệu của đoạn kinh tuyến từ xích đạo qua Paris đến Bắc Cực làm một độ dài chuẩn gọi là mét.
- 1799: Ủy ban chế tạo thước mét chuẩn đầu tiên làm bằng 90% platin và 10% iridi.
- Thế kỉ 19: các phép đo chính xác hơn cho thấy rằng độ dài của thước mét bằng platin ấy ngắn hơn độ dài 1/10 triệu đoạn kinh tuyến trên một đoạn 0,08 mm.
- 1889: Hội nghị Đo lường Quốc tế quyết định chọn độ dài thước mét bằng platin ấy làm cơ sở để chế tạo một thước mét bằng platin-iridi, có mặt cắt hình chữ X để làm thước mét tiêu chẩn quốc tế, cất giữ tại Viện Đo lường Quốc tế ở Paris.
- Tháng 10 năm 1960: Hội nghị Đo lường Quốc tế khóa 11 quyết định: "độ dài một mét bằng 1.650.763,73 lần độ dài bước sóng ánh sáng màu vàng cam của Kprypton-86 phát ra trong chân không".
- Ngày 20 tháng 10 năm 1983: Hội nghị Đo lường Quốc tế khóa 17 định nghĩa lại mét: "một mét là khoảng cách mà ánh sáng truyền được trong chân không trong khoảng thời gian của 1 / 299 792 458 giây".
Hệ thống SI
Bội số | Tên | Kí hiệu | Bội số | Tên | Kí hiệu | |
---|---|---|---|---|---|---|
100 | mét | m | ||||
101 | đềcamét | dam | 10−1 | đêximét | dm | |
102 | hêctômét | hm | 10−2 | xentimét | cm | |
103 | kilômét | km | 10−3 | milimét | mm | |
106 | mêgamét | Mm | 10−6 | micrômét | µm | |
109 | gigamét | Gm | 10−9 | nanômét | nm | |
1012 | têramét | Tm | 10−12 | picômét | pm | |
1015 | pêtamét | Pm | 10−15 | femtômét | fm | |
1018 | examét | Em | 10−18 | atômét | am | |
1021 | zêtamét | Zm | 10−21 | zéptômét | zm | |
1024 | yôtamét | Ym | 10−24 | yóctômét | ym | |
Đơn vị in đậm là đơn vị hay dùng |
Xem thêm
Tham khảo
- Bureau International des Poids et Mesures. The International System of Units (SI), 7th ed. 1998 (tiếng Anh)
Liên kết ngoài
Wikimedia Commons có thêm thể loại hình ảnh và phương tiện truyền tải về Mét |
- Length—Evolution from Measurement Standard to a Fundamental Constant tại website NIST
- The History of the Meter
- La convention du mètre, BIPM
- Quy đổi các đơn vị đo chiều dài
|
Thể loại:
Florence Nightingale (12 tháng 5 năm 1820 – 13 tháng 8 năm 1910), còn được tưởng nhớ là Người phụ nữ với cây đèn, là người sáng lập ra ngành y tá hiện đại và là một nhà thống kê y tế.[1]
Nhưng khi bà nghe được tiếng gọi thiêng liêng năm 1837 tại khu vườn Embley, bà quyết định cãi lời cha mẹ, đi làm y tá và bỏ hết nhiệt huyết của mình vào ngành nghề y tế giúp người này từ năm 1845. Hành động này một phần là vì bà có cảm xúc khi thấy người khác bị bệnh tật đau đớn, một phần khác là vì bà muốn chống lại xu hướng hạ thấp giới phụ nữ thời bấy giờ - đòi hòi phụ nữ phải phục tòng gia đình, làm nội trợ, sinh sản và không có quyền theo đuổi chuyên ngành chuyên nghiệp mình muốn.
Bà rất quan tâm về tình trạng thê thảm của các trung tâm y tế cho người nghèo và thổ dân. Tháng 12 năm 1844, khi một người ăn xin bị chết trong trạm xá ở Luân Đôn và tạo chấn động công luận, Nightingale lãnh đạo phong trào đòi cải tiến các trạm xá này. Bà được ông Charles Villiers hỗ trợ việc cải tổ luật về y tế cho người nghèo và sau đó bà tiếp tục tham gia cải tiến các phương án giúp người nghèo - trong và ngoài lãnh vực y tế.
Năm 1846 bà tham quan nhà thương tại Kaiserswerth, Đức và rất khâm phục khả năng phục vụ y tế của vùng này. Cùng lúc này, chính trị gia và nhà thơ Richard Monckton Milnes có ý muốn kết hôn nhưng Nightingale khước từ với lý do là lấy chồng sẽ làm bà xao lãng công tác y tế bà muốn thực hiện.
Năm 1847, trong lúc bà đang bị khủng hoảng tinh thần vì liên hệ với Milnes, Nightingale gặp Sidney Herbert, nhà chính trị lỗi lạc từng làm Thư Ký Chiến Tranh của Anh Quốc. Herbert khi đó đã có gia đình nhưng hai người rất tương đắc và trở thành bạn thân. Herbert giúp Nightingale khai thác và phát huy ngành y tá (trong thời chiến tranh vùng Krym), và ngược lại, bà là cố vấn chính yếu của ông ta trong những đường bước chính trị. Năm 1851, Nightingale không nghe lời cha mẹ, từ khước lới cầu hôn của Milnes.
Nightingale cũng có đi lại thân mật với ông Benjamin Jowett, đặc biệt là trong thời gian bà tính để di chúc dành tài sản cho khoa thống kê của Đại học Oxford.[2]
Năm 1851 bà bắt đầu theo đuổi nghề y tá chính thức, và học được rất nhiều kinh nghiệm trong 4 tháng huấn luyện tại Kaiserswerth. Gia đình bà hết sức ngăn cản nhưng không thể thay đổi ý định của bà. Ngày 22 tháng 8 năm 1853, Nightingale lên chức y viện trưởng Trung tâm chăm sóc bệnh nhân phụ nữ tại Luân Đôn, và giữ chức này đến tháng 10 năm 1854. Cha bà mỗi năm gửi cho bà khoảng £500 để giúp bà theo đuổi nghề từ thiện này.
Nightingale đến nhà thương quân y Scutari tại Istanbul và chứng kiến một cảnh kinh hoàng: thương binh bị bỏ bê không ai chăm sóc vì các y sĩ quá mệt mỏi, thuốc men hiếm, dụng cu dơ bẩn, và nhiễm trùng tràn lan gây thương vong rất nhiều. Ngoài ra không có hệ thống nấu và phát thức ăn cho bệnh nhân.
Nightingale cùng các chị em y tá thay nhau chùi rửa nhà thương, dụng cụ y tế và sắp đặt lại hệ thống chăm sóc bệnh nhân. Tuy thế, số tử vong vẫn tăng lên. Nhà thương này quá chật, chứa quá nhiều bệnh nhân và hệ thống ống cống và thoáng khí bị nghẽn làm ô uế không khí. Trong thời gian Nightingale làm việc tại nhà thương Scutari, 4077 thương binh bị chết. Binh lính chết vì bệnh tật (kiết lỵ và thương hàn) gấp 10 lần vì chiến thương. Đến tháng 3 năm 1855, sáu tháng sau khi Nightingale vào làm việc tại nhà thương này, chính phủ Anh mới gửi nhân viên tẩy trùng sang làm thông hệ thống ống cống và thoáng khí. Số tử vong giảm xuống ngay sau đó.
Nightingale tuy thế vẫn tin rằng bệnh nhân tử vong là do ăn uống thiếu dinh dưỡng và binh lính làm việc quá sức. Mãi cho đền khi bà về lại Anh và nghiên cứu các bằng chứng cụ thể do Ủy ban Sức khỏe Quân đội Hoàng gia đưa ra và nhận thức được tử vong phần lớn là do điều kiện ăn ở thiếu vệ sinh. Qua kinh nghiệm này bà sau đó luôn coi vấn đề vệ sinh là quan trọng hàng đầu trong môi trường sinh sống. Tử vong của bệnh nhân trong nhà thương vào thời bình nhờ đó cũng giảm nhiều.
Theo lời mời của Hoàng hậu Victoria, Nightingale tuy bị bệnh nhưng vẫn sốt sắng tham gia vào cuộc điều tra của Uỷ ban Sức khoẻ Quân đội Hoàng gia do Sidney Herbert cầm đầu. Vì là phụ nữ, bà không được chính thức làm giám sát uỷ ban, nhưng bà viết bản báo cáo hơn 1000 trang, gồm đâỳ đủ thống kê danh sách liệt kê các khiá cạnh của y tế quân đội, và bà đi đầu trong cuộc thiết kế những phương pháp cải tiến y tế. Qua đó, Uỷ ban này ra quyệt nghị tu chỉnh hoàn toàn hệ thống quân y, thiết lập Trường Quân Y và cải tổ hệ thống lưu trữ bệnh sử.
Nightingale là người đầu tiên đưa ra khái niệm du lịch y khoa. Bà mô tả rõ ràng những dịch vụ của các trung tâm nghỉ ngơi và chữa bệnh tại Thổ Nhĩ Kỳ trước khi gửi bệnh nhân về đó, thay vì gửi họ đi Thụy Sĩ là nơi rất đắt tiền.
Đến năm 1859 Nightingale đem £45000 từ Quỹ Nightingale lập Trường Đào tạo Y tá Nightingale tại Nhà thương St. Thomas. Trường khai trương ngày 9 tháng 7 năm 1860 (ngày nay gọi là Trường Y tá và Hộ sản Florence Nightingale thuộc trường cao đẳng Kings ở London). Ngoài ra Nightingale cũng kêu gọi quyên góp thiết lập nhà thương Hoàng gia ở Buckinghamshire thuộc Aylesbury gần quê cũ của bà.
Năm 1860 bà xuất bản sách 136 trang tựa đề Những bài ghi chép về Y tá, sách này được dùng làm căn bản cho chương trình đào tạo y tá tại trường Y tá Nightingale và các trường y tá khác. Sách cũng bán chạy trong thị trường sách phổ thông và coi như một sách hay giới thiệu về ngành y tá. Nightingale luôn tìm cách phát huy và củng cố ngành y tá trong suốt quãng đời còn lại của mình. Nhờ bà mà ngành y tá mới phát triển và trưởng thành như ngày nay.
Trong thời Nội chiến Hoa Kỳ, chính phủ phe miền Bắc Hoa Kỳ đến viếng và nhờ Nightingale chỉ dẫn phương thức sắp xếp hệ thống y tế cho thương binh tại chiến trường. Ý kiến của bà không được chấp thuận, nhưng sau đó đưa đến sự thành lập Ủy ban Vệ sinh Hoa Kỳ.
Năm 1869 Nightingale và bác sĩ Elizabeth Blackwell mở trường Y khoa cho Phụ nữ.
Năm 1870, Nightingale huấn luyện Linda Richards, Y tá Hoa Kỳ đầu tiên và giúp bà này thiết lập các trường đào tạo y tá tại Hoa Kỳ. Linda Richards sau này là một trong những y tá tiên phong tại Mỹ và Nhật Bản.
Năm 1882, những y tá tốt nghiệp từ trường Nightingale bắt đầu có chức vụ chuyên nghiệp trong các cơ sở y tế Anh quốc. Nhiều người trở thành Y tá trưởng của các nhà thương chính tại Anh và sang cả tại Úc (nhà thương Sydney New South Wales).
Nightingale được trao tặng huy chương Thập tự Đỏ năm 1883, bằng khen Order of Merit năm 1907.
Tuy bà bị bệnh mệt mỏi kinh niên phải nằm liệt giường từ năm 1896 bà vẫn tiếp tục nghiên cứu và là người tiên phong trong ngành thiết kế nhà thương và nhiều ý kiến của bà được trọng dụng tại Anh và cả trên thế giới.
Video yêu thích
http://www.youtube.com/user/hoangkimvietnam
Trở về trang chính
hoangkim vietnam, hoangkim, hoangkimvietnam, Hoàng Kim, Ngọc Phương Nam, Chào ngày mới Thung dung, Dạy và học, Cây Lương thực, Tin Nông nghiệp Việt Nam, Food Crops, Cassava in Vietnam, VietnamAfricaCassavaRice, Khát khao xanh, Dayvahoc, Học mỗi ngày, Danh nhân Việt , Food Crops News, Điểm chính, CNM365, Kim LinkedIn, KimTwitter, KimFaceBook Đọc lại và suy ngẫm, Việt Nam tổ quốc tôi, Tình yêu cuộc sống, Thơ cho con
Florence Nightingale
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Florence Nightingale | |
---|---|
Sinh | 12 tháng 5, 1820 Florence, Đại Công quốc Toscana |
Mất | 13 tháng 8, 1910 (90 tuổi) Park Lane, Luân Đôn, Anh Quốc |
Nơi công tác | Selimiye Barracks, Scutari |
Nổi tiếng vì | Mở đường cho y tá hiện đại |
Giải thưởng | Royal Red Cross (1883) Order of Merit (1907) |
Mục lục
Những giai đoạn ban đầu
Florence Nightingale sinh tại Florence (Ý). Gia đình bà giàu có và có liên hệ cao cấp trong chính phủ Anh quốc. Do đó mà bà bị cấm không cho đi làm những nghề nghèo hèn như nghề y tá lúc bấy giờ.Nhưng khi bà nghe được tiếng gọi thiêng liêng năm 1837 tại khu vườn Embley, bà quyết định cãi lời cha mẹ, đi làm y tá và bỏ hết nhiệt huyết của mình vào ngành nghề y tế giúp người này từ năm 1845. Hành động này một phần là vì bà có cảm xúc khi thấy người khác bị bệnh tật đau đớn, một phần khác là vì bà muốn chống lại xu hướng hạ thấp giới phụ nữ thời bấy giờ - đòi hòi phụ nữ phải phục tòng gia đình, làm nội trợ, sinh sản và không có quyền theo đuổi chuyên ngành chuyên nghiệp mình muốn.
Bà rất quan tâm về tình trạng thê thảm của các trung tâm y tế cho người nghèo và thổ dân. Tháng 12 năm 1844, khi một người ăn xin bị chết trong trạm xá ở Luân Đôn và tạo chấn động công luận, Nightingale lãnh đạo phong trào đòi cải tiến các trạm xá này. Bà được ông Charles Villiers hỗ trợ việc cải tổ luật về y tế cho người nghèo và sau đó bà tiếp tục tham gia cải tiến các phương án giúp người nghèo - trong và ngoài lãnh vực y tế.
Năm 1846 bà tham quan nhà thương tại Kaiserswerth, Đức và rất khâm phục khả năng phục vụ y tế của vùng này. Cùng lúc này, chính trị gia và nhà thơ Richard Monckton Milnes có ý muốn kết hôn nhưng Nightingale khước từ với lý do là lấy chồng sẽ làm bà xao lãng công tác y tế bà muốn thực hiện.
Năm 1847, trong lúc bà đang bị khủng hoảng tinh thần vì liên hệ với Milnes, Nightingale gặp Sidney Herbert, nhà chính trị lỗi lạc từng làm Thư Ký Chiến Tranh của Anh Quốc. Herbert khi đó đã có gia đình nhưng hai người rất tương đắc và trở thành bạn thân. Herbert giúp Nightingale khai thác và phát huy ngành y tá (trong thời chiến tranh vùng Krym), và ngược lại, bà là cố vấn chính yếu của ông ta trong những đường bước chính trị. Năm 1851, Nightingale không nghe lời cha mẹ, từ khước lới cầu hôn của Milnes.
Nightingale cũng có đi lại thân mật với ông Benjamin Jowett, đặc biệt là trong thời gian bà tính để di chúc dành tài sản cho khoa thống kê của Đại học Oxford.[2]
Năm 1851 bà bắt đầu theo đuổi nghề y tá chính thức, và học được rất nhiều kinh nghiệm trong 4 tháng huấn luyện tại Kaiserswerth. Gia đình bà hết sức ngăn cản nhưng không thể thay đổi ý định của bà. Ngày 22 tháng 8 năm 1853, Nightingale lên chức y viện trưởng Trung tâm chăm sóc bệnh nhân phụ nữ tại Luân Đôn, và giữ chức này đến tháng 10 năm 1854. Cha bà mỗi năm gửi cho bà khoảng £500 để giúp bà theo đuổi nghề từ thiện này.
Chiến tranh Krym
Florence Nightingale nổi tiếng khi bà theo làm ý tá chăm sóc cho thương binh quân đội Anh trong chiến tranh vùng Krym. Ngày 21 tháng 10 năm 1854 bà và 38 người y tá tình nguyện được Sidney Herbert gửi sang Thổ Nhĩ Kỳ nơi quân Anh đồn trú.[3]Nightingale đến nhà thương quân y Scutari tại Istanbul và chứng kiến một cảnh kinh hoàng: thương binh bị bỏ bê không ai chăm sóc vì các y sĩ quá mệt mỏi, thuốc men hiếm, dụng cu dơ bẩn, và nhiễm trùng tràn lan gây thương vong rất nhiều. Ngoài ra không có hệ thống nấu và phát thức ăn cho bệnh nhân.
Nightingale cùng các chị em y tá thay nhau chùi rửa nhà thương, dụng cụ y tế và sắp đặt lại hệ thống chăm sóc bệnh nhân. Tuy thế, số tử vong vẫn tăng lên. Nhà thương này quá chật, chứa quá nhiều bệnh nhân và hệ thống ống cống và thoáng khí bị nghẽn làm ô uế không khí. Trong thời gian Nightingale làm việc tại nhà thương Scutari, 4077 thương binh bị chết. Binh lính chết vì bệnh tật (kiết lỵ và thương hàn) gấp 10 lần vì chiến thương. Đến tháng 3 năm 1855, sáu tháng sau khi Nightingale vào làm việc tại nhà thương này, chính phủ Anh mới gửi nhân viên tẩy trùng sang làm thông hệ thống ống cống và thoáng khí. Số tử vong giảm xuống ngay sau đó.
Nightingale tuy thế vẫn tin rằng bệnh nhân tử vong là do ăn uống thiếu dinh dưỡng và binh lính làm việc quá sức. Mãi cho đền khi bà về lại Anh và nghiên cứu các bằng chứng cụ thể do Ủy ban Sức khỏe Quân đội Hoàng gia đưa ra và nhận thức được tử vong phần lớn là do điều kiện ăn ở thiếu vệ sinh. Qua kinh nghiệm này bà sau đó luôn coi vấn đề vệ sinh là quan trọng hàng đầu trong môi trường sinh sống. Tử vong của bệnh nhân trong nhà thương vào thời bình nhờ đó cũng giảm nhiều.
Người phụ nữ với cây đèn
Báo Times lúc bầy giờ viết phóng sự về diễn tiến cuộc chiến tại Krym. Trong một bài, ký giả báo này kể về Florence Nightingale và tặng bà danh hiệu "The Lady with the Lamp" (Người phụ nữ với cây đèn):Nói không ngoa, Cô là một tiên nữ cho thuốc, vóc dáng mảnh mai của cô thầm lặng lướt qua những hành lang của bệnh viện, những khuôn mặt bệnh nhân đang đau khổ lộ vẻ biết ơn mỗi khi thấy bóng cô. Khi các bác sĩ đã về nghỉ, khi bóng đêm và sự tĩnh mịch phủ lên các hành lang đầy những bệnh nhân co quắp, cô xuất hiện với cây đèn leo lét trên tay, lặng lẽ đi tuần các trại bệnh một mình.[4]Henry Longfellow viết bài thơ "Santa Filomena" về bà năm 1857:
Kìa! trong giờ phút đớn đau
Tôi thấy Cô đến với cây đèn
Lướt qua những bóng mờ bi đát,
Thấp thoáng từ phòng này sang phòng khác.
Trở về Anh quốc
Florence Nightingale về Anh ngày 7 tháng 8 năm 1857 và được đón chào như anh hùng quốc gia, theo đài BBC thì bà là ngươì nổi tiếng thứ nhì trong xứ, chỉ sau Hoàng hậu Victoria. Nightingale dọn lên khách sạn Burlington thuộc khu phố Piccadilly ở London. Bà bị mắc phải chứng sốt Krym từ khi sang làm việc ở đó.[5] Bà tự giam mình trong phòng riêng, cấm cả mẹ và em không được vào thăm.Theo lời mời của Hoàng hậu Victoria, Nightingale tuy bị bệnh nhưng vẫn sốt sắng tham gia vào cuộc điều tra của Uỷ ban Sức khoẻ Quân đội Hoàng gia do Sidney Herbert cầm đầu. Vì là phụ nữ, bà không được chính thức làm giám sát uỷ ban, nhưng bà viết bản báo cáo hơn 1000 trang, gồm đâỳ đủ thống kê danh sách liệt kê các khiá cạnh của y tế quân đội, và bà đi đầu trong cuộc thiết kế những phương pháp cải tiến y tế. Qua đó, Uỷ ban này ra quyệt nghị tu chỉnh hoàn toàn hệ thống quân y, thiết lập Trường Quân Y và cải tổ hệ thống lưu trữ bệnh sử.
Những thành công sau
Khi còn ở Thổ, ngày 29 tháng 11 1855, sau một buổi họp khen ngợi Florence Nightingale về công trạng của bà, một số người cùng bà tổ chức quyên góp tiền gây quỹ đào tạo y tá, gọi là Quỹ Nightingale. Rất nhiều người góp tiền ủng hộ. Sidney Herbert làm bí thư danh dự và Công tước Cambridge làm chủ tịch.Nightingale là người đầu tiên đưa ra khái niệm du lịch y khoa. Bà mô tả rõ ràng những dịch vụ của các trung tâm nghỉ ngơi và chữa bệnh tại Thổ Nhĩ Kỳ trước khi gửi bệnh nhân về đó, thay vì gửi họ đi Thụy Sĩ là nơi rất đắt tiền.
Đến năm 1859 Nightingale đem £45000 từ Quỹ Nightingale lập Trường Đào tạo Y tá Nightingale tại Nhà thương St. Thomas. Trường khai trương ngày 9 tháng 7 năm 1860 (ngày nay gọi là Trường Y tá và Hộ sản Florence Nightingale thuộc trường cao đẳng Kings ở London). Ngoài ra Nightingale cũng kêu gọi quyên góp thiết lập nhà thương Hoàng gia ở Buckinghamshire thuộc Aylesbury gần quê cũ của bà.
Năm 1860 bà xuất bản sách 136 trang tựa đề Những bài ghi chép về Y tá, sách này được dùng làm căn bản cho chương trình đào tạo y tá tại trường Y tá Nightingale và các trường y tá khác. Sách cũng bán chạy trong thị trường sách phổ thông và coi như một sách hay giới thiệu về ngành y tá. Nightingale luôn tìm cách phát huy và củng cố ngành y tá trong suốt quãng đời còn lại của mình. Nhờ bà mà ngành y tá mới phát triển và trưởng thành như ngày nay.
Trong thời Nội chiến Hoa Kỳ, chính phủ phe miền Bắc Hoa Kỳ đến viếng và nhờ Nightingale chỉ dẫn phương thức sắp xếp hệ thống y tế cho thương binh tại chiến trường. Ý kiến của bà không được chấp thuận, nhưng sau đó đưa đến sự thành lập Ủy ban Vệ sinh Hoa Kỳ.
Năm 1869 Nightingale và bác sĩ Elizabeth Blackwell mở trường Y khoa cho Phụ nữ.
Năm 1870, Nightingale huấn luyện Linda Richards, Y tá Hoa Kỳ đầu tiên và giúp bà này thiết lập các trường đào tạo y tá tại Hoa Kỳ. Linda Richards sau này là một trong những y tá tiên phong tại Mỹ và Nhật Bản.
Năm 1882, những y tá tốt nghiệp từ trường Nightingale bắt đầu có chức vụ chuyên nghiệp trong các cơ sở y tế Anh quốc. Nhiều người trở thành Y tá trưởng của các nhà thương chính tại Anh và sang cả tại Úc (nhà thương Sydney New South Wales).
Nightingale được trao tặng huy chương Thập tự Đỏ năm 1883, bằng khen Order of Merit năm 1907.
Tuy bà bị bệnh mệt mỏi kinh niên phải nằm liệt giường từ năm 1896 bà vẫn tiếp tục nghiên cứu và là người tiên phong trong ngành thiết kế nhà thương và nhiều ý kiến của bà được trọng dụng tại Anh và cả trên thế giới.
Qua đời
Florence Nightingale mất ngày 13 tháng 8 năm 1910, thọ 90 tuổi, tại phòng số 10 South Street, Park Lane. Chính phủ Anh cho phép chôn bà tại nghĩa trang Westminster Abbey nhưng gia đình bà từ chối và đưa về chôn tại nghĩa trang nhà thờ St. Margaret tại Wellow, Hampshire.[1][6][7]Chú thích
- ^ a ă “Miss Nightingale Dies, Aged Ninety”. The New York Times. 15 tháng 8 năm 1910. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2007.
- ^ Bibby, John. (1986) Notes towards a history of teaching statistics
- ^ Gill, Christopher J.; Gillian C. Gill (2005). “Nightingale in Scutari: Her Legacy Reexamined”. Clinical Infectious Diseases 40: 1799–1805. Truy cập ngày 7 tháng 10 năm 2007.
- ^ Cited in Cook, E. T. The Life of Florence Nightingale(1913) Vol 1, p 237.
- ^ Florence Nightingale's fever. BMJ 1995;311:1697-1700
- ^ http://www.countryjoe.com/nightingale/joe_grave.jpg
- ^ http://www.countryjoe.com/nightingale/wellow.htm
Wikimedia Commons có thêm thể loại hình ảnh và phương tiện truyền tải về Florence Nightingale |
Thần phong
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Thần phong, gió thần hay Kamikaze (tiếng Nhật: 神風; kami = thần, kaze = phong) là một từ tiếng Nhật, được những tiếng khác vay mượn để chỉ các cuộc tấn công cảm tử bởi các phi công chiến đấu Nhật Bản chống lại tàu chiến của các nước Đồng Minh trong Thế chiến thứ hai trong giai đoạn kết thúc Chiến dịch Thái Bình Dương.
Phi công Kamikaze sẽ lái máy bay của mình, thường là chở đầy thuốc nổ, bom, thủy lôi và bình đựng xăng đâm vào tàu địch. Máy bay của anh như vậy có vai trò hỏa tiễn sống trong một nỗ lực tuyệt vọng nhằm tăng tối đa độ chính xác và tổn thất cho địch quân so với bom đạn thông thường. Mục tiêu của các phi công này là đánh phá càng nhiều càng tốt tàu bè của phe Đồng Minh.
Các cuộc tấn công này bắt đầu từ tháng 10 năm 1944, sau một số trận thua nặng nề của Nhật Bản. Việc tiềm lực chiến tranh giảm sút– cùng với việc mất đi rất nhiều phi công giỏi giàu kinh nghiệm–sản xuất công nghiệp suy yếu đi so với Hoa Kỳ, cũng như việc chính phủ Nhật Bản không muốn đầu hàng, dẫn đến chiến thuật sử dụng kamikaze khi lực lượng Đồng Minh tiến đánh Quần đảo Nhật Bản.
Các cuộc tấn công cảm tử Kamikaze là các cuộc tấn công nổi tiếng nhất và được biết đến nhiều nhất, giống như các cuộc "xung phong banzai" bởi bộ binh Nhật. Ngoài ra, người Nhật còn có các đội tấn công cảm tử khác như tàu ngầm Kairyu, thủy lôi sống Kaiten, khinh tốc đỉnh Shinyo.
Trong Thế chiến thứ hai, một tokubetsu kōgeki tai (特別攻撃隊, đặt biệt công kích đội), hay đặc công đội (特攻隊 tokkōtai) được thành lập để tấn công bảo vệ Nhật Bản. Các đội thực hiện các cuộc tấn công tự sát của các đơn vị thuộc Hải quân Hoàng gia Nhật Bản được gọi là shinpū tokubetsu kōgeki tai (神風特別攻撃隊, thần phong đặc biệt công kích đội).
Từ những năm 1943-1944, lực lượng Hoa Kỳ ngày càng tiến đến gần chính quốc Nhật. Các chiến đấu cơ Nhật ngày càng lỗi thời và thua kém về số lượng so với phi cơ Mỹ, đặc biệt là các máy bay F6F Hellcat và F4U Corsair. Không lực Hải quân Nhật (IJNAS) bị tiêu hao trong các trận không chiến chống lại Đồng Minh tại Quần đảo Solomon và đảo New Guinea. Thêm nữa, trong trận chiến trên biển Philippine, Nhật mất hơn 400 máy bay trên tàu sân bay và phi công. Số phi công giàu kinh nghiệm ngày càng trở nên hiếm hoi. Bệnh tật nhiệt đới, cũng như thiếu phụ kiện và xăng dầu, khiến cho hoạt động của IJNAS ngày càng trở nên khó khăn.
Sau Trận chiến đảo Saipan ngày 15 tháng 4 năm 1944, đảo này thất thủ, khiến cho Hoa Kỳ giành được một căn cứ tiền đồn để từ đó tung các Siêu pháo đài bay B-29 Superfortress đánh vào nội địa Nhật Bản. Từ khi mất Saipan, bộ chỉ huy Nhật tiên đoán Mỹ sẽ tìm cách đánh chiếm Philippines, có vị trí quan trọng chiến lược vì vị trí án ngữ các mỏ dầu ở Đông Nam Á và Nhật Bản.
Cuộc tấn công cảm tử phối hợp đầu tiên được tiến hành vào ngày 5 tháng 7 năm 1944 với 9 chiếc khu trục cơ Zero và 8 oanh tạc cơ từ căn cứ Iwo Jima. Kết quả thu được không như mong muốn khi 12 chiếc bị hạm đội Mỹ bắn hạ, 5 chiếc trở về an toàn. Ngày 15 tháng 10 năm 1944, Đô đốc Masabumi Arima cùng một hạm đội nhỏ đụng độ với hải quân Mỹ ngoài khơi Philippines và thất bại thảm hại.
Ngày 17 tháng 10 năm 1944, lực lượng Đồng Minh tấn công đảo Suluan, bắt đầu trận vịnh Leyte. Đệ nhất hạm đội không quân Hải quân Đế quốc Nhật Bản đóng tại Manila được giao nhiệm vụ hộ tống các tàu Nhật làm nhiệm vụ tiêu diệt lực lượng Đồng Minh trên Vịnh Leyte. Tuy nhiên, Đệ nhất hạm đội khi đó chỉ có 40 máy bay: 34 Mitsubishi Zero trên tàu sân bay, 3 máy bay phóng lôi Nakajima B6N Tenzan ("Jill"), 1 Mitsubishi G4M ("Betty") và 2 máy bay ném bom Yokosuka P1Y Ginga ("Frances"), cộng với 1 máy bay trinh sát. Nhiệm vụ được giao xem như vượt quá sức Đệ nhất hạm đội. Chỉ huy hạm đội, Phó Đô đốc Takijiro Onishi quyết định thiết lập một lực lượng đặc nhiệm cảm tử, Đội công kích đặc biệt. Trong cuộc họp tại Sân bay Mabalacat (mà người Mỹ gọi là sân bay Clark) gần Manila, ngày 19 10, Onishi tuyên bố với các sỹ quan đoàn bay 201:"Tôi không thấy có cách nào tiến hành chiến dịch (bảo vệ Philippines), ngoài cách gắn một quả bom 250kg lên một chiếc máy bay Zero rồi đâm thẳng vào một hàng không mẫu hạm Mỹ, loại nó ra khỏi vòng chiến đấu trong một tuần."
Ngày 24 tháng 10, chiếc tàu kéo Sonoma 1.120 tấn trở thành tàu đầu tiên bị kamikaze đánh chìm[3] ngoài đảo Dio, trong vịnh San Pedro, thuộc Vịnh Leyte.
Tàu Australia bị tấn công tiếp ngày 25 tháng 10 và buộc phải rút về New Hebrides để sửa chữa. Cùng ngày đó, Biệt đội Kamikaze tiến hành chiến dịch đầu tiên. Năm chiếc Zero, dẫn đầu bởi Seki, được hộ tống bởi phi công giỏi nhất Nhật Bản Hiroyoshi Nishizawa, tấn công mấy tàu sân bay hộ tống. Một chiếc Zero định tấn công vào đài chỉ huy của chiếc Kitkun Bay nhưng lại đánh trượt và bổ nhào xuống biển. Hai chiếc khác bổ nhào vào tàu Fanshaw Bay nhưng bị hỏa lực phòng không tiêu diệt. Hai chiếc cuối cùng xông vào chiếc White Plains, nhưng một chiếc bị hỏa lực bắn rát và bốc khói, bỏ mục tiêu mà đâm vào chiếc hàng không mẫu hạm St. Lo, nó cắm vào boong tàu, làm quả bom mang theo phát nổ làm nổ tung kho chứa bom, đánh chìm tàu sân bay này[4].
Tới cuối ngày 26 tháng 10, 55 kamikaze từ lực lượng đặc nhiệm đã đánh bị thương các tàu sân bay hộ tống lớn Sangamon, Suwannee, Santee và tàu sân bay hộ tống nhỏ White Plains, Kalinin Bay và Kitkun Bay. Tổng cộng có 7 hàng không mẫu hạm bị đánh trúng, cộng với khoảng 40 tàu khác (5 chiếc bị chìm, 23 bị thương nặng, 12 bị thương nhẹ).
Chiếc Australia trở lại tác chiến trong trận Vịnh Lingayen tháng 1 năm 1945. Tuy nhiên, trong khoảng từ 5-9 tháng 1, tàu này bị kamikaze đánh năm lần, bị thương tích phải rút lui một lần nữa[1], mất 70 thủy thủ. Hàng không mẫu hạm Franklin, thuộc lớp Essex, và Intrepid cũng bị thương.
Khi chính quốc Nhật Bản bắt đầu bị pháo đài bay chiến lược B-29 ném bom, bộ máy quân sự Nhật quyết định sử dụng các cuộc tấn công cảm tử để đáp lại. Tại bán cầu bắc trong mùa đông 1944-45, IJAAF thành lập trung đoàn bay số 47, còn được biết đến là đơn vị đặc nhiệm Shinten (Shinten Seiku Ta) tại sân bay Narimasu, Nerima, Tokyo, để bảo vệ Tokyo. Đơn vị này được trang bị chiến đấu cơ Nakajima Ki-44 Shoki ("Tojo"), với mục tiêu đâm thẳng vào các siêu pháo đài bay B-29 khi chúng tấn công Nhật Bản. Tuy nhiên, việc này tỏ ra khó thành công và không thực tiễn khi các máy bay B-29 bay nhanh hơn, cơ động hơn và nhỏ hơn tàu chiến rất nhiều. Các máy bay B-29 cũng được trang bị hỏa lực đáng gờm, nên việc tấn công cảm tử vào các pháo đài bay này cần các phi công lão luyện. Điều này trái ngược với nguyên tắc chủ đạo là sử dụng các phi công có thể thay thế được, và khuyến khích các phi công giỏi nhảy dù trước khi máy bay của họ lao vào địch quân, vì các phi công giỏi thường hy sinh khi họ tính thời gian nhảy dù sai, và bị chết khi máy bay đâm vào địch.
Các đô đốc Mỹ bắt đầu nhận thấy sự nguy hiểm của chiến dịch Kamikaze trong khi phía Nhật lại xem đây là bước ngoặt của cuộc chiến. Ngày 25 tháng 11 năm 1944, 35 kamikaze gây thiệt hại nặng nề cho hàng không mẫu hạm Independence, Essex cùng một số tàu chiến khác. Ngày 27 tháng 11 năm 1944 làm thiệt hại thiết giáp hạm Colorado và 2 tuần dương hạm.
Đầu năm 1945 khi ở Châu Âu sự thất bại của phát xít Đức đã cận kề thì ở Thái Bình Dương, quân Nhật cũng đang gặp rất nhiều khó khăn với những đợt tấn công liên tục của quân Mỹ và trong hoàn cảnh đó chiến thuật Kamikaze vẫn được sử dụng. Tháng 4 năm 1945, Đô đốc Matome Ugaki chịu trách nhiệm phối hợp những cuộc tấn công đặc biệt để bảo vệ Okinawa, đã bố trí 700 tàu cảm tử Shinyo và một lượng lớn phi cơ ở Kyushu, trong đó có hàng ngàn chiếc Zero và oanh tạc cơ Nakajima Ki-115 mang trên mình 1 quả bom 500 kg có tầm sát thương 1.200 m. Những máy bay Kamikaze được máy bay tiêm kích hộ tống bay ở tầm thấp và khi đến gần hạm đội Mỹ thì nhảy vọt lên độ cao 4.500 m rồi bất ngờ bổ nhào xuống nhắm vào những chiếc hàng không mẫu hạm. Ngày 6 thág 4 năm 1945, 355 Kamikaze đã tham gia một cuộc tấn công lớn và hạm đội Mỹ đã kịp tiêu diệt 250 chiếc trước khi chúng lao vào mục tiêu. Những chiếc còn lại đã loại ra khỏi vòng chiến hàng không mẫu hạm Hancock, đánh đắm 2 tàu vận tải xung kích lớn và làm thiệt hại thiết giáp hạm Maryland và nhiều tàu khu trục. Ngày 12 tháng 4 năm 1945, 185 chiếc Kamikaze có 135 chiếc tiêm kích đi kèm đã mở cuộc tấn công mới nhưng kết quả của lần xuất kích này không đáp ứng được kì vọng của quân đội Nhật.
Ngoài các phi cơ chiến đấu và máy bay ném bom được chuyển thành kamikaze, từ tháng 3 năm 1945, trong trận chiến còn xuất hiện loại máy bay Yokosuka MXY7 Ohka, thực chất là một loại hỏa tiễn có người lái, phóng đi từ máy bay mẹ. Quân Mỹ gọi nó là "Baka" (baka nghĩa là "thằng ngốc" trong tiếng Nhật). Một loại thiết bị bay khác là Nakajima Ki-115 Tsurugi chỉ gồm một động cơ đẩy đơn giản lắp trên khung bằng gỗ, dễ sản xuất, mục tiêu là để sử dụng hết số động cơ còn tồn kho. Trong năm 1945, quân lực Nhật bắt đầu tích trữ hàng trăm loại Tsurugi, Ohka, và các tàu cảm tử để chuẩn bị cho cuộc đổ bộ của Đồng Minh, nhưng cuộc đổ bộ rút cuộc không diễn ra, và chỉ có rất ít số vũ khí cảm tử này được sử dụng.
Thiếu tá Thach cũng đề xuất sử dụng một lực lượng phi cơ chiến đấu tuần tiễu lớn (CAP), bay xa hơn trước để bảo vệ các hàng không mẫu hạm; sử dụng máy bay tăng cường ném bom các sân bay Nhật, bỏ bom đường băng với bom nổ chậm để ngăn cản Nhật sửa chữa đường băng, sử dụng lực lượng cảnh giới gồm các tàu khu trục và tàu hộ tống đặt các hạm đội chính ít nhất 80 km để sớm phát hiện và phối hợp tác chiến giữa các sỹ quan chỉ huy phi cơ trên hàng không mẫu hạm.
Từ cuối năm 1944, Hạm đội Anh đã sử dụng các máy bay tầm cao Supermarine Seafire để tuần tiễu rất có hiệu quả. Các máy bay này được dùng thường xuyên để ngăn ngừa Kamikaze tấn công trong trận Iwo Jima. Ngày 15 tháng 8 năm 1945, các máy bay Seafire giành được thắng lợi lớn khi hạ được 8 máy bay địch mà chỉ mất duy nhất một máy bay.
Về cuối cuộc chiến, phe Đồng Minh không bị thêm nhiều tổn thất, dù sử dụng thêm rất nhiều tàu bè và bị tấn công dữ dội hơn. Việc chỉ được huấn luyện sơ sài khiến phi công kamikaze trở thành mồi ngon cho các phi công Đồng Minh lão luyện, được trang bị máy bay tốt hơn. Hơn thế nữa, chỉ riêng Hạm đội Đặc nhiệm Hoa Kỳ đã có thể ném vào trận chiến hơn một ngàn phi cơ. Phi công Đồng minh trở nên hữu hiệu trong việc tiêu diệt phi cơ đối phương trước khi chúng kịp đâm vào tàu chiến. Lính thủy trên các tàu Đồng Minh cũng phát triển các kỹ thuật chống kamikaze, như bắn đại pháo xuống mặt biển trước các phi cơ địch bay thấp gần mặt nước biển, tạo thành các cột nước lớn trùm lên phi cơ địch. Nếu chiến thuật này không thể sử dụng chống lại Okhas và các cuộc tấn công tầm cao, thì họ sử dụng súng phòng không. Từ năm 1945, một lượng lớn đạn pháo phòng không sử dụng ngòi nổ gần (phát nổ khi tới gần mục tiêu), chính xác hơn loại đạn thường đến bảy lần.
Tuy nhiên cũng có nhiều người tỏ ý nghi ngờ hiệu quả của chiến thuật kamikaze, trong đó có cả các phi công nổi tiếng. Trung úy Yukio Seki, phi công kamikaze thứ 24 trong đội đặc nhiệm tham gia đánh chìm hàng không mẫu hạm St. Lo viết: "Tương lai Nhật Bản thật ảm đạm nếu như chúng ta buộc phải hy sinh những phi công giỏi nhất của mình. Tôi tham gia chiến dịch này không vì Đế quốc Nhật hay vì Hoàng Đế... Tôi tham gia vì tôi được lệnh phải tham gia!" Trong chuyến bay, chỉ huy của anh nghe thấy anh nói "Thà chết còn hơn sống như một kẻ hèn hạ."[6]
Tuy nhiên, nhìn chung người ta không có khó khăn tuyển mộ phi công. Yêu cầu rất đơn giản: "trẻ tuổi, nhanh nhẹn và hăng hái. Chỉ cần kinh nghiệm bay ở mức tối thiểu, kỹ năng hạ cánh không cần thiết". Đại tá Motoharu Okamura nhận xét "có nhiều người tình nguyện cho các phi vụ cảm tử đến mức đông như đàn ong, vì ‘ong chết sau khi đốt’".[7] Các phi công Kamikaze tin tưởng bằng sự hy sinh của mình, họ đã đền đáp lại công ơn gia đình, bạn bè và Thiên hoàng. "Họ hăng hái đến mức khi chuyến bay bị trì hoãn hay hủy bỏ, thì các phi công trẻ được huấn luyện sơ sài này tỏ ra hết sức bực dọc. Nhiều người sau khi được chọn thực hiện các phi vụ cảm tử được kể lại là rất hân hoan vui sướng trước phi vụ cuối cùng của mình".[8].
Các phi công được cấp một bản hướng dẫn chi tiết về cách tiến hành tiến công cảm tử. Theo đó phi công phải bổ nhào nhắm vào giữa tháp chỉ huy và ống khói, vì đó là cách hiệu quả nhất để đánh chìm tàu. Phi công cũng được dặn không nên nhắm vào đài chỉ huy hay tháp pháo, mà nên nhắm vào cầu thang máy hoặc boong tàu. Nếu tiếp cận từ đường chân trời thì phi công nên "nhắm vào thân tàu, cao hơn mặt nước biển một chút", hoặc "nhắm vào cửa khoang chứa máy bay hoặc chân ống khói".
Ngày 15 tháng 8
năm 1945, Thiên hoàng Hirohito đọc tuyện bố đầu hàng vô điều kiện, một
số người không chịu đựng được nỗi nhục thất trận đã mổ bụng tự sát theo
tinh thần người Nhật. Hàng ngàn phi công trở về nhà bị lãng quên trong
thời kì sau chiến tranh. Một số người cùng với những người khác xây dựng
lại đất nước và khắc phục hậu quả chiến tranh, một số gia nhập Đảng Cộng sản Nhật Bản trong những năm 1946-1948, số khác bị khủng hoảng tinh thần và chỉ sau thập niên 1950, khi nền kinh tế Nhật Bản dần dần phục hồi đa phần trong số họ trở thành công nhân trong các hãng sản xuất lớn như: Sony, Honda, Denzu,… để quên đi quá khứ tuy đau thương nhưng không kém phần hào hùng.
Số tàu đối phương bị đánh chìm vẫn là đề tài tranh cãi. Theo thông tin cổ động thời chiến Nhật, họ đánh chìm 81 tàu địch, đánh bị thương 195 tàu khác, gây ra 80% số tổn thất của Mỹ trong giai đoạn cuối cuộc chiến Thái Bình Dương. Trong cuốn sách World War II ra năm 2004, sử gia Wilmott, Cross & Messenger cho biết hơn 70 tàu của Hoa Kỳ bị "đánh đắm hoặc bị thương nặng tới không cứu vãn được" bởi kamikazes.
Số liệu chính thức của Mỹ cho biết có ít thiệt hại hơn. Theo Không lực Hoa Kỳ:
Phi công Kamikaze sẽ lái máy bay của mình, thường là chở đầy thuốc nổ, bom, thủy lôi và bình đựng xăng đâm vào tàu địch. Máy bay của anh như vậy có vai trò hỏa tiễn sống trong một nỗ lực tuyệt vọng nhằm tăng tối đa độ chính xác và tổn thất cho địch quân so với bom đạn thông thường. Mục tiêu của các phi công này là đánh phá càng nhiều càng tốt tàu bè của phe Đồng Minh.
Các cuộc tấn công này bắt đầu từ tháng 10 năm 1944, sau một số trận thua nặng nề của Nhật Bản. Việc tiềm lực chiến tranh giảm sút– cùng với việc mất đi rất nhiều phi công giỏi giàu kinh nghiệm–sản xuất công nghiệp suy yếu đi so với Hoa Kỳ, cũng như việc chính phủ Nhật Bản không muốn đầu hàng, dẫn đến chiến thuật sử dụng kamikaze khi lực lượng Đồng Minh tiến đánh Quần đảo Nhật Bản.
Các cuộc tấn công cảm tử Kamikaze là các cuộc tấn công nổi tiếng nhất và được biết đến nhiều nhất, giống như các cuộc "xung phong banzai" bởi bộ binh Nhật. Ngoài ra, người Nhật còn có các đội tấn công cảm tử khác như tàu ngầm Kairyu, thủy lôi sống Kaiten, khinh tốc đỉnh Shinyo.
Mục lục
Nguồn gốc tên gọi
Tên gọi "thần phong" xuất phát từ thời kỳ 1274-1281 khi có một cơn bão đã cứu Nhật Bản khỏi thảm họa thôn tính của Đế quốc Mông Cổ. Khi quân Mông Cổ tấn công Nhật Bản với khí thế như chẻ tre, nước Nhật hầu như chắc chắn bị thất thủ thì có một cơn bão nổi lên đánh chìm tàu thuyền quân Mông Cổ. Do đó người Nhật gọi cơn bão này là "thần phong".Trong Thế chiến thứ hai, một tokubetsu kōgeki tai (特別攻撃隊, đặt biệt công kích đội), hay đặc công đội (特攻隊 tokkōtai) được thành lập để tấn công bảo vệ Nhật Bản. Các đội thực hiện các cuộc tấn công tự sát của các đơn vị thuộc Hải quân Hoàng gia Nhật Bản được gọi là shinpū tokubetsu kōgeki tai (神風特別攻撃隊, thần phong đặc biệt công kích đội).
Những chiến công trong Thế chiến thứ hai
Hoàn cảnh
Trong những năm đầu của thập niên 1940 khi hạm đội Mỹ khống chế Thái Bình Dương, những cuộc đụng độ giữa hải quân Nhật-Mỹ liên tục diễn ra, đặc biệt là sau trận Trân Châu cảng ngày 7 tháng 12 năm 1941 với thắng lợi thường thuộc về người Mỹ vì Mỹ có ưu thế lớn về hải quân và không quân. Những thất bại đó mà đỉnh điểm là trận Hải chiến biển Philippines đã khiến quân Nhật nghĩ đến những phương sách khác, trong bối cảnh đó bộ tham mưu Nhật đã nghĩ đến những cuộc tấn công cảm tử để tái lập thế quân bình lực lượng. Người đầu tiên đưa ra ý tưởng này là chỉ huy trưởng căn cứ Nhật Tateyama tuy không được chấp thuận nhưng ý kiến này đã được bảo lưu và nghiên cứu.Từ những năm 1943-1944, lực lượng Hoa Kỳ ngày càng tiến đến gần chính quốc Nhật. Các chiến đấu cơ Nhật ngày càng lỗi thời và thua kém về số lượng so với phi cơ Mỹ, đặc biệt là các máy bay F6F Hellcat và F4U Corsair. Không lực Hải quân Nhật (IJNAS) bị tiêu hao trong các trận không chiến chống lại Đồng Minh tại Quần đảo Solomon và đảo New Guinea. Thêm nữa, trong trận chiến trên biển Philippine, Nhật mất hơn 400 máy bay trên tàu sân bay và phi công. Số phi công giàu kinh nghiệm ngày càng trở nên hiếm hoi. Bệnh tật nhiệt đới, cũng như thiếu phụ kiện và xăng dầu, khiến cho hoạt động của IJNAS ngày càng trở nên khó khăn.
Sau Trận chiến đảo Saipan ngày 15 tháng 4 năm 1944, đảo này thất thủ, khiến cho Hoa Kỳ giành được một căn cứ tiền đồn để từ đó tung các Siêu pháo đài bay B-29 Superfortress đánh vào nội địa Nhật Bản. Từ khi mất Saipan, bộ chỉ huy Nhật tiên đoán Mỹ sẽ tìm cách đánh chiếm Philippines, có vị trí quan trọng chiến lược vì vị trí án ngữ các mỏ dầu ở Đông Nam Á và Nhật Bản.
Cuộc tấn công cảm tử phối hợp đầu tiên được tiến hành vào ngày 5 tháng 7 năm 1944 với 9 chiếc khu trục cơ Zero và 8 oanh tạc cơ từ căn cứ Iwo Jima. Kết quả thu được không như mong muốn khi 12 chiếc bị hạm đội Mỹ bắn hạ, 5 chiếc trở về an toàn. Ngày 15 tháng 10 năm 1944, Đô đốc Masabumi Arima cùng một hạm đội nhỏ đụng độ với hải quân Mỹ ngoài khơi Philippines và thất bại thảm hại.
Ngày 17 tháng 10 năm 1944, lực lượng Đồng Minh tấn công đảo Suluan, bắt đầu trận vịnh Leyte. Đệ nhất hạm đội không quân Hải quân Đế quốc Nhật Bản đóng tại Manila được giao nhiệm vụ hộ tống các tàu Nhật làm nhiệm vụ tiêu diệt lực lượng Đồng Minh trên Vịnh Leyte. Tuy nhiên, Đệ nhất hạm đội khi đó chỉ có 40 máy bay: 34 Mitsubishi Zero trên tàu sân bay, 3 máy bay phóng lôi Nakajima B6N Tenzan ("Jill"), 1 Mitsubishi G4M ("Betty") và 2 máy bay ném bom Yokosuka P1Y Ginga ("Frances"), cộng với 1 máy bay trinh sát. Nhiệm vụ được giao xem như vượt quá sức Đệ nhất hạm đội. Chỉ huy hạm đội, Phó Đô đốc Takijiro Onishi quyết định thiết lập một lực lượng đặc nhiệm cảm tử, Đội công kích đặc biệt. Trong cuộc họp tại Sân bay Mabalacat (mà người Mỹ gọi là sân bay Clark) gần Manila, ngày 19 10, Onishi tuyên bố với các sỹ quan đoàn bay 201:"Tôi không thấy có cách nào tiến hành chiến dịch (bảo vệ Philippines), ngoài cách gắn một quả bom 250kg lên một chiếc máy bay Zero rồi đâm thẳng vào một hàng không mẫu hạm Mỹ, loại nó ra khỏi vòng chiến đấu trong một tuần."
Vịnh Leyte: trận tấn công đầu tiên
Theo các nhân chứng kể lại, tàu Đồng minh đầu tiên bị kamikaze tấn công là kỳ hạm của Hải quân hoàng gia Úc, tuần dương hạm hạng nặng Australia, ngày 21 tháng 10 năm 1944[1]. Cuộc tấn công này có vẻ như một cuộc tấn công tự phát, được thực hiện bởi một phi công không thuộc biệt đội của Onishi. Phi công này có lẽ là một phi công của Không lực Hoàng gia Nhật Bản (IJAAF) từ Lữ đoàn bay số 6, lái một chiếc Mitsubishi Ki-51 ("Sonia")[2]. Cuộc tấn công diễn ra gần đảo Leyte; với xạ thủ từ tàu Australia và tàu bạn Shropshire bắn súng phòng không trúng 3 máy bay Nhật. Một chiếc khác bay vòng đi, rồi quay lại và bay thẳng vào tàu Australia, đánh trúng thượng tầng tàu trên đài chỉ huy, làm bắn tung dầu và mảnh vỡ khắp nơi trước khi rơi xuống biển. Ít nhất có 30 thủy thủ bị chết, trong đó có cả sỹ quan chỉ huy Australia, Thuyền trưởng Emile Dechaineux; trong số người bị thương là Phó Đề đốc John Collins, chỉ huy lực lượng Úc. May mắn cho chiếc tàu Úc là quả bom nặng 200 kg mà chiếc máy bay chở theo không phát nổ.Ngày 24 tháng 10, chiếc tàu kéo Sonoma 1.120 tấn trở thành tàu đầu tiên bị kamikaze đánh chìm[3] ngoài đảo Dio, trong vịnh San Pedro, thuộc Vịnh Leyte.
Tàu Australia bị tấn công tiếp ngày 25 tháng 10 và buộc phải rút về New Hebrides để sửa chữa. Cùng ngày đó, Biệt đội Kamikaze tiến hành chiến dịch đầu tiên. Năm chiếc Zero, dẫn đầu bởi Seki, được hộ tống bởi phi công giỏi nhất Nhật Bản Hiroyoshi Nishizawa, tấn công mấy tàu sân bay hộ tống. Một chiếc Zero định tấn công vào đài chỉ huy của chiếc Kitkun Bay nhưng lại đánh trượt và bổ nhào xuống biển. Hai chiếc khác bổ nhào vào tàu Fanshaw Bay nhưng bị hỏa lực phòng không tiêu diệt. Hai chiếc cuối cùng xông vào chiếc White Plains, nhưng một chiếc bị hỏa lực bắn rát và bốc khói, bỏ mục tiêu mà đâm vào chiếc hàng không mẫu hạm St. Lo, nó cắm vào boong tàu, làm quả bom mang theo phát nổ làm nổ tung kho chứa bom, đánh chìm tàu sân bay này[4].
Tới cuối ngày 26 tháng 10, 55 kamikaze từ lực lượng đặc nhiệm đã đánh bị thương các tàu sân bay hộ tống lớn Sangamon, Suwannee, Santee và tàu sân bay hộ tống nhỏ White Plains, Kalinin Bay và Kitkun Bay. Tổng cộng có 7 hàng không mẫu hạm bị đánh trúng, cộng với khoảng 40 tàu khác (5 chiếc bị chìm, 23 bị thương nặng, 12 bị thương nhẹ).
Chiếc Australia trở lại tác chiến trong trận Vịnh Lingayen tháng 1 năm 1945. Tuy nhiên, trong khoảng từ 5-9 tháng 1, tàu này bị kamikaze đánh năm lần, bị thương tích phải rút lui một lần nữa[1], mất 70 thủy thủ. Hàng không mẫu hạm Franklin, thuộc lớp Essex, và Intrepid cũng bị thương.
Giai đoạn ác liệt của cuộc chiến
Các thắng lợi ban đầu, nhất là sau việc đánh chìm hàng không mẫu hạm St. Lo, chương trình Kamikaze được mở rộng, với việc chỉ trong mấy tháng tiếp đó, có đến hơn 2 ngàn máy bay được sử dụng trong các phi vụ cảm tử.Khi chính quốc Nhật Bản bắt đầu bị pháo đài bay chiến lược B-29 ném bom, bộ máy quân sự Nhật quyết định sử dụng các cuộc tấn công cảm tử để đáp lại. Tại bán cầu bắc trong mùa đông 1944-45, IJAAF thành lập trung đoàn bay số 47, còn được biết đến là đơn vị đặc nhiệm Shinten (Shinten Seiku Ta) tại sân bay Narimasu, Nerima, Tokyo, để bảo vệ Tokyo. Đơn vị này được trang bị chiến đấu cơ Nakajima Ki-44 Shoki ("Tojo"), với mục tiêu đâm thẳng vào các siêu pháo đài bay B-29 khi chúng tấn công Nhật Bản. Tuy nhiên, việc này tỏ ra khó thành công và không thực tiễn khi các máy bay B-29 bay nhanh hơn, cơ động hơn và nhỏ hơn tàu chiến rất nhiều. Các máy bay B-29 cũng được trang bị hỏa lực đáng gờm, nên việc tấn công cảm tử vào các pháo đài bay này cần các phi công lão luyện. Điều này trái ngược với nguyên tắc chủ đạo là sử dụng các phi công có thể thay thế được, và khuyến khích các phi công giỏi nhảy dù trước khi máy bay của họ lao vào địch quân, vì các phi công giỏi thường hy sinh khi họ tính thời gian nhảy dù sai, và bị chết khi máy bay đâm vào địch.
Các đô đốc Mỹ bắt đầu nhận thấy sự nguy hiểm của chiến dịch Kamikaze trong khi phía Nhật lại xem đây là bước ngoặt của cuộc chiến. Ngày 25 tháng 11 năm 1944, 35 kamikaze gây thiệt hại nặng nề cho hàng không mẫu hạm Independence, Essex cùng một số tàu chiến khác. Ngày 27 tháng 11 năm 1944 làm thiệt hại thiết giáp hạm Colorado và 2 tuần dương hạm.
Đầu năm 1945 khi ở Châu Âu sự thất bại của phát xít Đức đã cận kề thì ở Thái Bình Dương, quân Nhật cũng đang gặp rất nhiều khó khăn với những đợt tấn công liên tục của quân Mỹ và trong hoàn cảnh đó chiến thuật Kamikaze vẫn được sử dụng. Tháng 4 năm 1945, Đô đốc Matome Ugaki chịu trách nhiệm phối hợp những cuộc tấn công đặc biệt để bảo vệ Okinawa, đã bố trí 700 tàu cảm tử Shinyo và một lượng lớn phi cơ ở Kyushu, trong đó có hàng ngàn chiếc Zero và oanh tạc cơ Nakajima Ki-115 mang trên mình 1 quả bom 500 kg có tầm sát thương 1.200 m. Những máy bay Kamikaze được máy bay tiêm kích hộ tống bay ở tầm thấp và khi đến gần hạm đội Mỹ thì nhảy vọt lên độ cao 4.500 m rồi bất ngờ bổ nhào xuống nhắm vào những chiếc hàng không mẫu hạm. Ngày 6 thág 4 năm 1945, 355 Kamikaze đã tham gia một cuộc tấn công lớn và hạm đội Mỹ đã kịp tiêu diệt 250 chiếc trước khi chúng lao vào mục tiêu. Những chiếc còn lại đã loại ra khỏi vòng chiến hàng không mẫu hạm Hancock, đánh đắm 2 tàu vận tải xung kích lớn và làm thiệt hại thiết giáp hạm Maryland và nhiều tàu khu trục. Ngày 12 tháng 4 năm 1945, 185 chiếc Kamikaze có 135 chiếc tiêm kích đi kèm đã mở cuộc tấn công mới nhưng kết quả của lần xuất kích này không đáp ứng được kì vọng của quân đội Nhật.
Ngoài các phi cơ chiến đấu và máy bay ném bom được chuyển thành kamikaze, từ tháng 3 năm 1945, trong trận chiến còn xuất hiện loại máy bay Yokosuka MXY7 Ohka, thực chất là một loại hỏa tiễn có người lái, phóng đi từ máy bay mẹ. Quân Mỹ gọi nó là "Baka" (baka nghĩa là "thằng ngốc" trong tiếng Nhật). Một loại thiết bị bay khác là Nakajima Ki-115 Tsurugi chỉ gồm một động cơ đẩy đơn giản lắp trên khung bằng gỗ, dễ sản xuất, mục tiêu là để sử dụng hết số động cơ còn tồn kho. Trong năm 1945, quân lực Nhật bắt đầu tích trữ hàng trăm loại Tsurugi, Ohka, và các tàu cảm tử để chuẩn bị cho cuộc đổ bộ của Đồng Minh, nhưng cuộc đổ bộ rút cuộc không diễn ra, và chỉ có rất ít số vũ khí cảm tử này được sử dụng.
Chiến thuật phòng vệ của Đồng Minh
Đầu năm 1945, thiếu tá John Thach, sỹ quan điều hành không chiến của Hải quân Hoa Kỳ, người nổi tiếng qua việc phát minh ra một chiến thuật không chiến rất hiệu quả chống lại không quân Nhật, phát triển chiến thuật chống kamikaze gọi.[5] Theo chiến thuật này, phi cơ sẽ tuần tra suốt ngày đêm xung quanh hạm đội Đồng Minh. Tuy nhiên, vì Hải quân Hoa Kỳ cắt giảm chương trình huấn luyện phi công chiến đấu, nên Hải quân không có đủ phi công để chống lại hiểm họa từ kamikaze.Thiếu tá Thach cũng đề xuất sử dụng một lực lượng phi cơ chiến đấu tuần tiễu lớn (CAP), bay xa hơn trước để bảo vệ các hàng không mẫu hạm; sử dụng máy bay tăng cường ném bom các sân bay Nhật, bỏ bom đường băng với bom nổ chậm để ngăn cản Nhật sửa chữa đường băng, sử dụng lực lượng cảnh giới gồm các tàu khu trục và tàu hộ tống đặt các hạm đội chính ít nhất 80 km để sớm phát hiện và phối hợp tác chiến giữa các sỹ quan chỉ huy phi cơ trên hàng không mẫu hạm.
Từ cuối năm 1944, Hạm đội Anh đã sử dụng các máy bay tầm cao Supermarine Seafire để tuần tiễu rất có hiệu quả. Các máy bay này được dùng thường xuyên để ngăn ngừa Kamikaze tấn công trong trận Iwo Jima. Ngày 15 tháng 8 năm 1945, các máy bay Seafire giành được thắng lợi lớn khi hạ được 8 máy bay địch mà chỉ mất duy nhất một máy bay.
Về cuối cuộc chiến, phe Đồng Minh không bị thêm nhiều tổn thất, dù sử dụng thêm rất nhiều tàu bè và bị tấn công dữ dội hơn. Việc chỉ được huấn luyện sơ sài khiến phi công kamikaze trở thành mồi ngon cho các phi công Đồng Minh lão luyện, được trang bị máy bay tốt hơn. Hơn thế nữa, chỉ riêng Hạm đội Đặc nhiệm Hoa Kỳ đã có thể ném vào trận chiến hơn một ngàn phi cơ. Phi công Đồng minh trở nên hữu hiệu trong việc tiêu diệt phi cơ đối phương trước khi chúng kịp đâm vào tàu chiến. Lính thủy trên các tàu Đồng Minh cũng phát triển các kỹ thuật chống kamikaze, như bắn đại pháo xuống mặt biển trước các phi cơ địch bay thấp gần mặt nước biển, tạo thành các cột nước lớn trùm lên phi cơ địch. Nếu chiến thuật này không thể sử dụng chống lại Okhas và các cuộc tấn công tầm cao, thì họ sử dụng súng phòng không. Từ năm 1945, một lượng lớn đạn pháo phòng không sử dụng ngòi nổ gần (phát nổ khi tới gần mục tiêu), chính xác hơn loại đạn thường đến bảy lần.
Sự kết thúc của thời đại Thần phong
Những trận chiến ở Okinawa đã kết thúc vào ngày 22 tháng 6 năm 1945 với thất bại của quân đội Nhật và Đô đốc Nhật Ushijima đã mổ bụng tự sát (harakiri) theo truyền thống Nhật Bản. Ngày 15 tháng 8 năm 1945, những người lính Nhật bàng hoàng khi nghe tin Nhật hoàng Hirohito đọc tuyên bố đầu hàng vô điều kiện. Cùng ngày hôm đó, Đô đốc Ugaki, tư lệnh hạm đội 5 ở Kyushu cùng với 10 phi công cảm tử bay về hướng Okinawa và trước khi mất hút đã gửi lại một thông điệp bày tỏ niềm tin về sự bất tử của đế chế và tinh thần Kamikaze. Tổng kết lại, trong 1.900 phi vụ cảm tử, các Kamikaze đã đánh đắm khoảng 30 tàu chiến Mỹ, làm thiệt hại gần 300 chiếc khác và 4.907 lính Mỹ đã tử trận. Từ đó có thể thấy những cuộc tấn công cảm tử này đã mang lại hiệu quả cao hơn những cuộc tấn công thông thường và Đô đốc Onischi đã nói về giai đoạn Kamikaze như sau: "Dù có hiệu quả hay không thì những cuộc tấn công đó cũng cho thế giới và cả chúng ta hình ảnh của chủ nghĩa anh hùng, của lòng tự hào và đảm bảo sự tồn tại của di sản tinh thần chúng ta."[cần dẫn nguồn]Những phi công Thần phong
Nói đến thành công của chiến thuật Kamiakaze không thể không kể đến sự hi sinh anh dũng của những phi công cảm tử trong quân đội Nhật. Nhật hoàng Hirohito đã đọc diễn văn ca ngợi những chàng trai trẻ tuổi đã "chết hạnh phúc và tự hào vì hoàng đế và sự chiến thắng". Điều đáng ngạc nhiên là số người tự nguyện hi sinh nhiều gấp 10 lần số máy bay quân đội Nhật Bản có lúc đó. Những người tự nguyện xem sự hi sinh của mình là sự đền đáp lại công ơn Thiên hoàng và giúp ích cho đất nước trong hoàn cảnh khó khăn.Tuy nhiên cũng có nhiều người tỏ ý nghi ngờ hiệu quả của chiến thuật kamikaze, trong đó có cả các phi công nổi tiếng. Trung úy Yukio Seki, phi công kamikaze thứ 24 trong đội đặc nhiệm tham gia đánh chìm hàng không mẫu hạm St. Lo viết: "Tương lai Nhật Bản thật ảm đạm nếu như chúng ta buộc phải hy sinh những phi công giỏi nhất của mình. Tôi tham gia chiến dịch này không vì Đế quốc Nhật hay vì Hoàng Đế... Tôi tham gia vì tôi được lệnh phải tham gia!" Trong chuyến bay, chỉ huy của anh nghe thấy anh nói "Thà chết còn hơn sống như một kẻ hèn hạ."[6]
Tuy nhiên, nhìn chung người ta không có khó khăn tuyển mộ phi công. Yêu cầu rất đơn giản: "trẻ tuổi, nhanh nhẹn và hăng hái. Chỉ cần kinh nghiệm bay ở mức tối thiểu, kỹ năng hạ cánh không cần thiết". Đại tá Motoharu Okamura nhận xét "có nhiều người tình nguyện cho các phi vụ cảm tử đến mức đông như đàn ong, vì ‘ong chết sau khi đốt’".[7] Các phi công Kamikaze tin tưởng bằng sự hy sinh của mình, họ đã đền đáp lại công ơn gia đình, bạn bè và Thiên hoàng. "Họ hăng hái đến mức khi chuyến bay bị trì hoãn hay hủy bỏ, thì các phi công trẻ được huấn luyện sơ sài này tỏ ra hết sức bực dọc. Nhiều người sau khi được chọn thực hiện các phi vụ cảm tử được kể lại là rất hân hoan vui sướng trước phi vụ cuối cùng của mình".[8].
Chế độ huấn luyện
Những người tình nguyện hi sinh, bao gồm nhiều thành phần từ phi công chính quy, binh lính cho đến cả sinh viên được huấn luyện theo một chế độ đặc biệt trong vòng 7 ngày: 2 ngày cho việc cất cánh với 1 quả bom 250 kg; 2 ngày cho việc bay theo đội hình và 3 ngày tập cách tiếp cận mục tiêu và tấn công.Các phi công được cấp một bản hướng dẫn chi tiết về cách tiến hành tiến công cảm tử. Theo đó phi công phải bổ nhào nhắm vào giữa tháp chỉ huy và ống khói, vì đó là cách hiệu quả nhất để đánh chìm tàu. Phi công cũng được dặn không nên nhắm vào đài chỉ huy hay tháp pháo, mà nên nhắm vào cầu thang máy hoặc boong tàu. Nếu tiếp cận từ đường chân trời thì phi công nên "nhắm vào thân tàu, cao hơn mặt nước biển một chút", hoặc "nhắm vào cửa khoang chứa máy bay hoặc chân ống khói".
Thời khắc ra đi mãi mãi
Vào buổi chiều trước ngày xuất phát, người chỉ huy trưởng căn cứ thông báo cho họ biết lệnh xuất phát vào ngày hôm sau và họ còn một đêm cuối cùng để viết một bức thư cuối cùng cho người thân trước khi ra đi mãi mãi vào hôm sau. Sáng sớm, sau buổi thuyết trình ca ngợi sự hi sinh, họ có mặt trong bộ đồ phi công, đeo bên mình thanh gươm của người võ sĩ đạo, đầu quấn chiếc băng chéo thiêu nổi hình mặt trời mọc, quốc kỳ của Đế quốc Nhật Bản. Chỉ huy trưởng căn cứ trao cho mỗi người một ly rượu sake, tất cả nghiêng mình về hướng cung điện để tỏ lòng tôn kính Nhật hoàng trước khi leo lên máy bay trong sự hoan nghênh của những người còn lại.Cuộc sống sau chiến tranh
|
Thông tin trong bài này hoặc đoạn này không thể kiểm chứng được do không được chú giải từ bất kỳ nguồn tham khảo nào. Xin bạn hãy cải thiện bài viết này bằng cách bổ sung chú thích tới các nguồn uy tín. Nếu bài được dịch từ Wikipedia ngôn ngữ khác thì hãy chuyển nguồn tham khảo từ phiên bản đó cho bài này. |
Hiệu quả
Tới cuối chiến tranh, hải quân Nhật đã mất 2.525 phi công kamikaze, còn lục quân Nhật mất 1.387 phi công.Số tàu đối phương bị đánh chìm vẫn là đề tài tranh cãi. Theo thông tin cổ động thời chiến Nhật, họ đánh chìm 81 tàu địch, đánh bị thương 195 tàu khác, gây ra 80% số tổn thất của Mỹ trong giai đoạn cuối cuộc chiến Thái Bình Dương. Trong cuốn sách World War II ra năm 2004, sử gia Wilmott, Cross & Messenger cho biết hơn 70 tàu của Hoa Kỳ bị "đánh đắm hoặc bị thương nặng tới không cứu vãn được" bởi kamikazes.
Số liệu chính thức của Mỹ cho biết có ít thiệt hại hơn. Theo Không lực Hoa Kỳ:
- "Chừng 2.800 Kamikaze đánh chìm 34 tàu hải quân, làm bị thương 368 tàu khác, giết chết 4.900 thủy quân và làm bị thương hơn 4.800 người khác. Dù có radar cảnh báo, không quân chặn đánh và tiêu hao cũng như hỏa lực phòng không dày dặc, có đến 14% Kamikazes sống sót và đánh trúng tàu Mỹ; gần 8.5% số tàu bị Kamikazes đánh trúng bị chìm."[9]
Hình ảnh
-
-
Tàu sân bay Enterprise sau khi bị Kamikaze đánh trúng ngày 14 tháng 5 năm 1945.
-
Đám cháy trên tàu sân bay Saratoga sau khi bị năm máy bay Kamikaze tấn công, ngày 21 tháng 2 năm 1945.
-
Đô đốc Matome Ugaki trước chiếc Yokosuka D4Y3 của ông trước đợt tấn công Kamikaze cuối cùng ngoài khơi Okinawa ngày 15 tháng 8 năm 1945.
-
Piloto tokkōtai portando un hachimaki en la cabeza.
Chú thích
- ^ a ă ww2australia.gov.au, 2006, "kamikaze". Access date: September 16, 2007.
- ^ Richard L. Dunn, 2002-05, "First Kamikaze? Attack on HMAS Australia — October 21, 1944" (j-aircraft.com). Access date: June 20, 2007. If the pilot was from the 6th Flying Brigade, it was probably either Lieutenant Morita or Sergeant Itano, flying out of San Jose, Mindoro.
- ^ a ă Bill Gordon, 2007, "49 Ships Sunk by Kamikaze Aircraft" Access date: September 15, 2007.
- ^ Toland, p.567
- ^ Bill Coombes, 1995, "Divine Wind The Japanese secret weapon – kamikaze suicide attacks"
- ^ Axell, trang 16
- ^ Axell, trang 35
- ^ Axell, trang 40
- ^ Dr Richard P. Hallion, 1999, "Precision Weapons, Power Projection, and The Revolution In Military Affairs" (USAF Historical Studies Office). Access date: September 15, 2007.
Tham khảo
- Axell, Albert; Kase, Hideaki (2002). Kamikaze: Japan's suicide gods. New York: Longman. ISBN 0-582-77232-X.
- Axell, Albert; Kase, Hideaki (2002). Kamikaze: Japan’s suicide gods. London: Pearson Education. ISBN 978-0-582-77232-8
- Brown, David. (1990). Fighting Elites: Kamikaze. New York: Gallery Books. ISBN 978-0-8317-2671-3
- Hobbes, Nicholas (2003). Essential militaria. London: Atlantic Books. ISBN 9781843542292.
- Hoyt, Edwin P. (1993). The Last Kamikaze. Praeger. ISBN 0-275-94067-5.
- Mahon, John K. (May 1959). The Pacific Historical Review. Vol. 28, No. 2.
- Millot, Bernard (1971). Divine Thunder: The life and death of the Kamikazes. Macdonald. ISBN 0-356-03856-4. OCLC 8142990.
- Ohnuki-Tierney, Emiko. (2006). Kamikaze Diaries: Reflections of Japanese Student Soldiers. Chicago and London: The University of Chicago Press. ISBN 978-0-226-61950-7
- Sheftall, Mordecai G. (2005). Blossoms in the Wind: Human Legacies of the Kamikaze. NAL Caliber. ISBN 0-451-21487-0.
- Toland, John (1970). The rising sun; the decline and fall of the Japanese Empire, 1936-1945. New York: Random House. OCLC 105915.
- Ugaki, Matome; Masataka Chihaya (Translator) (1991). Fading Victory: The Diary of Admiral Matome Ugaki, 1941-1945. University of Pittsburgh Press. ISBN 0-8229-3665-8.
- Warner, Denis & Peggy; Sadao Seno (1984; first published 1982). The Sacred Warriors: Japan’s Suicide Legions. Avon Books (previously Van Nostrand Reinhold). ISBN 0-380-67678-8.
- Willmott, H.P; Cross, Robin & Messenger, Charles (2004). World War II. London: Dorling Kindersley. ISBN 9781405305877.
Wikimedia Commons có thêm thể loại hình ảnh và phương tiện truyền tải về Thần phong |
http://www.youtube.com/user/hoangkimvietnam
Trở về trang chính
hoangkim vietnam, hoangkim, hoangkimvietnam, Hoàng Kim, Ngọc Phương Nam, Chào ngày mới Thung dung, Dạy và học, Cây Lương thực, Tin Nông nghiệp Việt Nam, Food Crops, Cassava in Vietnam, VietnamAfricaCassavaRice, Khát khao xanh, Dayvahoc, Học mỗi ngày, Danh nhân Việt , Food Crops News, Điểm chính, CNM365, Kim LinkedIn, KimTwitter, KimFaceBook Đọc lại và suy ngẫm, Việt Nam tổ quốc tôi, Tình yêu cuộc sống, Thơ cho con
No comments:
Post a Comment