Hàn lộ
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
|
Bài viết hoặc đoạn này cần thêm chú thích nguồn gốc để có thể kiểm chứng thông tin. Những nội dung không có nguồn có thể bị đặt vấn đề và xóa bỏ. Mời bạn bổ sung chú thích từ các nguồn đáng tin cậy để giúp cải thiện bài viết. |
Hai mươi tư tiết khí Kỷ nguyên J2000 |
||
Kinh độ | Tiết khí | Dương lịch (thông thường) |
---|---|---|
Xuân | ||
315° | Lập xuân | 4 - 5/2 |
330° | Vũ thủy | 18 - 19/2 |
345° | Kinh trập | 5 - 6/3 |
0° | Xuân phân | 20 - 21/3 |
15° | Thanh minh | 4 - 5/4 |
30° | Cốc vũ | 20 - 21/4 |
Hạ | ||
45° | Lập hạ | 5 - 6/5 |
60° | Tiểu mãn | 21 - 22/5 |
75° | Mang chủng | 5 - 6/6 |
90° | Hạ chí | 21 - 22/6 |
105° | Tiểu thử | 7 - 8/7 |
120° | Đại thử | 22 - 23/7 |
Thu | ||
135° | Lập thu | 7 - 8/8 |
150° | Xử thử | 23 - 24/8 |
165° | Bạch lộ | 7 - 8/9 |
180° | Thu phân | 23 - 24/9 |
195° | Hàn lộ | 8 - 9/10 |
210° | Sương giáng | 23 - 24/10 |
Đông | ||
225° | Lập đông | 7 - 8/11 |
240° | Tiểu tuyết | 22 - 23/11 |
255° | Đại tuyết | 7 - 8/12 |
270° | Đông chí | 21 - 22/12 |
285° | Tiểu hàn | 5 - 6/1 |
300° | Đại hàn | 20 - 21/1 |
Theo quy ước, tiết hàn lộ là khoảng thời gian bắt đầu từ khoảng ngày 8 hay 9 tháng 10 khi kết thúc tiết thu phân và kết thúc vào khoảng ngày 23 hay 24 tháng 10 trong lịch Gregory theo các múi giờ Đông Á khi tiết sương giáng bắt đầu.
Lịch Trung Quốc, cũng như lịch ở các nước Đông Á cổ đại bao gồm Việt Nam, bị nhiều người lầm là âm lịch thuần túy, dẫn đến ngộ nhận về việc tiết khí nói chung và Hàn lộ nói riêng được tính theo chu kỳ của Mặt Trăng quay xung quanh Trái Đất. Trên thực tế lịch Trung Quốc cổ đại là một loại âm dương lịch, trong đó tiết khí, từ thời Hán Vũ Đế, đã được tính theo vị trí của Trái Đất trong chu kỳ chuyển động trên quỹ đạo xung quanh Mặt Trời. Theo cách tính hiện đại, với điểm xuân phân là gốc có kinh độ Mặt Trời bằng 0°, thì điểm diễn ra hay bắt đầu tiết Hàn lộ ứng với kinh độ Mặt Trời bằng 195°. Ngày bắt đầu tiết Hàn lộ do vậy được tính theo cách tính của dương lịch hiện đại và nó thông thường rơi vào ngày 8 hay 9 tháng 10 dương lịch tùy theo từng năm. Tiết khí đứng ngay trước Hàn lộ là Thu phân và tiết khí kế tiếp sau là Sương giáng.
Xem thêm
195°
San Marino
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Cộng hòa Đại bình yên San Marino | |||||
---|---|---|---|---|---|
Serenissima Repubblica di San Marino (tiếng Ý) | |||||
|
|||||
Khẩu hiệu | |||||
Libertas (Tiếng Latinh: "Tự do") |
|||||
Quốc ca | |||||
Inno Nazionale | |||||
Hành chính | |||||
Chính phủ | Cộng hòa nghị viện | ||||
Đại thủ lĩnh | Claudio Muccioli và Antonello Bacciocchi |
||||
Ngôn ngữ chính thức | Tiếng Ý | ||||
Thủ đô | San Marino |
||||
Thành phố lớn nhất | Serravalle | ||||
Địa lý | |||||
Diện tích | 61 km² (hạng 190) | ||||
Diện tích nước | ~0% % | ||||
Múi giờ | Giờ châu Âu (CET) (UTC+1); mùa hè: Giờ mùa hè châu Âu (UTC+2) | ||||
Lịch sử | |||||
Độc lập
|
|||||
Ngày thành lập | 3 tháng 9 năm 301 | ||||
Dân số (2000) | 27336 người | ||||
Mật độ | 448 người/km² | ||||
Đơn vị tiền tệ | Euro¹ (EUR ) |
||||
Thông tin khác | |||||
Tên miền Internet | .sm |
Mục lục
Lịch sử
Theo truyền thuyết, San Marino được thành lập vào thế kỉ 4 bởi một người thợ khắc đá Thiên Chúa giáo tên là Marino từ vùng Dalmatia đến đây lánh nạn tránh cuộc truy lùng, bách hại đạo dưới triều Hoàng đế Diocletianus. Nền độc lập của San Marino được Giáo hoàng Urban VIII thừa nhận năm 1631. Có lẽ đây là một trong những quốc gia cộng hòa độc lập lâu đời nhất trên thế giới.Năm 1862, San Marino và Ý kí hiệp ước thuế quan và hiệp ước hữu nghị, hiệp ước được kí kết lại theo định kì. San Marino tuyên chiến với Đức trong chiến tranh thế giới thứ nhất, nhưng lại cố gắng duy trì tính trung lập trong chiến tranh thế giới thứ hai. San Marino gia nhập Liên Hiệp Quốc năm 1992.
San Marino trong thế kỷ 20
Trong chiến tranh thế giới thứ nhất, khi Ý tuyên chiến với Đế quốc Áo-Hung ngày 23 tháng 5 năm 1915, San Marino vẫn thái độ trung lập và Ý đã có một cái nhìn thù địch về tính trung lập của San Marino, nghi ngờ rằng San Marino có thể là gián điệp Áo. Ý đã cố gắng để buộc San Marino thành lập một đội quân gọi là Carabinieri và sau đó Ý đã cắt đường dây điện thoại của San Marino khi nước này đã từ chối yêu cầu của Ý. Hai nhóm người gồm 10 tình nguyện viên đã tham gia vào lực lượng quân đội của Ý trong cuộc chiến trên mặt trận Ý, đây là các chiến binh San Marino đầu tiên và lần thứ hai như là một hoạt động quân đoàn y tế một bệnh viện Chữ thập đỏ để cứu chữa cho lính Ý. Sự tồn tại của bệnh viện này sau đó làm cho Đế quốc Áo-Hung đình chỉ quan hệ ngoại giao với San Marino.[1]Từ năm 1923 đến 1943, San Marino đã được cai trị bởi đảng phát xít Sammarinese (PFS).
Trong Thế chiến II, San Marino vẫn trung lập, mặc dù nó đã được báo cáo sai là đã tuyên chiến với Vương quốc Anh ngày 17 tháng 9 năm 1940.
Ba ngày sau sự sụp đổ của Benito Mussolini ở Ý, Mỹ cai trị Ý và San Marino sau sự sụp đổ này và chính phủ mới của San Marino tuyên bố trung lập trong cuộc xung đột. Bọn phát xít giành lại quyền lực vào ngày 1 tháng 4 năm 1944 nhưng vẫn giữ thái độ trung lập. Mặc dù vậy, vào ngày 26 tháng 6 năm 1944, San Marino đã bị đánh bom bởi quân Hoàng gia Anh, do nhầm lẫn tin rằng San Marino đã bị tàn phá bởi quân Đức và San Marino đã được sử dụng thành nơi để tích lũy đạn dược cho quân Phát xít Đức. Ít nhất 35 người đã thiệt mạng trong hoạt động không kích của không quân Anh. San Marino chấp nhận hàng ngàn người tị nạn dân sự khi các lực lượng Đồng minh đã đi qua vùng Gothic. Trong tháng 9 năm 1944, San Marino đã nhanh chóng bị Đức chiếm đóng, tuy nhiên quân Đức đã bị tấn công bởi lực lượng Đồng Minh ở mặt trận San Marino. Quân Đồng minh rút khỏi San Marino trong thời gian ngắn sau đó.
San Marino đã có một chính phủ cộng sản đầu tiên được bầu dân chủ trên thế giới, từ năm 1945 và năm 1957 và giữa năm 2006 và 2008.
San Marino là nước cộng hòa nhỏ nhất thế giới.
San Marino đã trở thành một thành viên của Hội đồng châu Âu vào năm 1988 và của Liên Hợp Quốc vào năm 1992. Nó không phải là một thành viên của Liên minh châu Âu.
Chính trị
San Marino là nước cộng hòa dân chủ đại diện và đa đảng: với hai vị Nhiếp chính là người đứng đầu của nhà nước và chính phủ, Vị nhiếp chính thứ nhất đứng đầu Chính phủ kiêm nhiệm vị trí Bộ trưởng Ngoại giao, lo về các vấn đề chính trị của đất nước. Vị nhiếp chính thứ hai lãnh đạo Nhà nước. Quyền hành pháp thuộc về chính phủ. Quyền lập pháp thuộc cả chính phủ và Hội đồng nhân dân (quốc hội). Tư pháp độc lập với hành pháp và cơ quan lập pháp.San Marino ban đầu được dẫn dắt bởi các Arengo, hình thành từ người đứng đầu của mỗi gia đình. Trong thế kỷ 13, quyền lực đã được trao cho Hội đồng nhân dân. Năm 1243, hai vị nhiếp chính đầu tiên đã được đề cử bởi Hội đồng. Đến năm 2010, phương pháp được đề cử vẫn còn sử dụng.
Cơ quan lập pháp của nền cộng hòa San Marino Hội đồng nhân dân (Consiglio grande e Generale). Hội đồng này là một cơ quan lập pháp đơn viện với 60 thành viên. Có cuộc bầu cử năm năm một lần đại diện tỷ lệ trong tất cả chín huyện hành chính. Các quận, huyện (thị trấn) tương ứng với các giáo xứ cũ của nền cộng hòa.
Công dân từ 18 tuổi trở lên có đủ điều kiện để bỏ phiếu. Bên cạnh pháp luật nói chung, Hội đồng nhân dân còn có quyền phê duyệt ngân sách và bầu các vị nhiếp chính, người đứng đầu Hội đồng nhân dân, Hội đồng 12 người (mà hình thức \ là chi nhánh tư pháp trong cơ quan lập pháp của Hội đồng), các Uỷ ban Tư vấn, và Chính phủ Liên hiệp. Hội đồng cũng có quyền phê chuẩn các điều ước quốc tế với các nước khác. Hội đồng được chia thành năm Uỷ ban Tư vấn khác nhau bao gồm mười lăm thành viên hội đồng để kiểm tra, đề xuất và thảo luận về việc thực hiện pháp luật mới trên các cuộc đề nghị của Hội đồng.
Mỗi 6 tháng, Hội đồng nhân dân lại bầu hai nhiếp chính là người đứng đầu của nhà nước và chính phủ. Nhiếp chính được lựa chọn từ các bên đối lập để có một sự cân bằng quyền lực giữa các đảng phái. Họ phục vụ một nhiệm kỳ sáu tháng. Lễ tuyên thệ nhậm chức của hai vị nhiếp chính diễn ra vào ngày 1 tháng 4 và ngày 1 tháng 10 hàng năm. Sau khi nhậm chức, công dân có ba ngày để khiếu nại về hoạt động của hai vị nhiếp chính.
San Marino là một nước cộng hòa dân chủ đa đảng. Hai đảng chính là Đảng Dân chủ Thiên chúa giáo San Marino (PDC) và Đảng Xã hội Dân chủ PSD (đảng này một sự hợp nhất của Đảng Xã hội San Marino và Đảng Cộng sản San Marino). Chưa có bất kỳ đảng nào giành thắng lợi tuyệt đối để tự thành lập chính phủ, và hầu hết các chính phủ San Marino được điều hành bởi liên minh giữa hai đảng này. Trong cuộc bầu cử năm 2006, PSD đã giành được 20 ghế trong Hội đồng nhân dân và hiện đang điều chỉnh việc liên minh với đảng Dân chủ Thiên chúa giáo San Marino.
Ý là quốc gia chịu trách nhiệm về quốc phòng và cung cấp các viện trợ về nhiều mặt hàng năm cho San Marino.
Quân đội
Quân đội San Marino là một trong những lực lượng quân sự nhỏ nhất trên thế giới. Quân đội nước này có các ngành khác nhau với chức năng đa dạng, bao gồm: thực hiện nhiệm vụ nghi lễ, tuần tra biên giới, bảo vệ các tòa nhà chính phủ và cảnh sát hình sự. Cảnh sát không có trong quân đội của San Marino.Quân đoàn Crossbow
Mặc dù được xem là trung tâm của quân đội San Marino, nhưng Quân đoàn Crossbow bây giờ chỉ là một lực lượng nghi lễ với khoảng 80 tình nguyện viên. Kể từ 1295, Quân Đoàn Crossbow đã cung cấp đội bắn nỏ tại lễ hội. Mặc dù một đơn vị quân sự theo luật định, nhưng ngày nay Quân Đoàn Crossbow không có chức năng quân sự.Lực lượng Rock
Lực lượng Rock là một đơn vị trong quân đội San Marino, lực lượng này có nhiệm vụ tuần tra biên giới và bảo vệ chúng. Trong vai trò của họ như là đội Fortress, họ chịu trách nhiệm về bảo vệ các tòa nhà của chính phủ ở thành phố San Marino. Trong vai trò này họ là lực lượng có thể nhìn thấy hầu hết các khách du lịch, và được biết đến với buổi lễ đầy màu sắc của họ về thay đổi lực lượng Cảnh sát. Theo quy chế năm 1987, Lực lượng Rock được ghi danh là cảnh sát hình sự (ngoài vai trò quân sự của họ) và hỗ trợ cảnh sát điều tra tội phạm. Quân phục thống nhất của Lực lượng Rock là quần màu đỏ đặc biệt và áo màu xanh lá cây.Lực lượng bảo vệ Hội đồng nhân dân và nhiếp chính
Lực lượng bảo vệ Hội đồng nhân dân thường được gọi là Lực lượng Cảnh sát của Hội đồng hoặc địa phương quân Guard của nhà quý tộc, được hình thành năm 1740, là một đơn vị tình nguyện với nhiệm vụ nghi lễ. Do màu xanh nổi bật, màu trắng, và đồng phục vàng, nó có lẽ là phần nổi tiếng nhất của quân đội San Marino, và xuất hiện vô số lần trên tấm bưu thiếp của San Marino. Các chức năng của lực lượng này là để bảo vệ Nhiếp chính, để bảo vệ Hội đồng và bảo vệ các phiên họp chính thức của Hội đồng.Lực lượng dân quân tự vệ địa phương
Trong thời gian trước đây, tất cả các gia đình San Marino đều phải có hai hay nhiều người thành niên là nam giới được yêu cầu phải ghi danh cho một nửa trong số họ trong Lực lượng dân quân tự vệ địa phương. Đơn vị này vẫn là lực lượng chiến đấu cơ bản của Quân đội San Marino, nhưng phần lớn là nghi lễ. Được trở thành thành viên của lực lượng này là một niềm tự hào dân sự đối với nhiều người San Marino, và tất cả các công dân với ít nhất là sáu năm cư trú ở San Marino mới có thể tham gia lực lượng.Quân phục thống nhất của Lực lượng dân quân tự vệ địa phương là màu xanh đậm, với một mũ kepi mang chùm lông màu xanh và trắng.
Lực lượng Ensemble
Lực lượng này chính thức là một phần của của quân đội San Marino, và là ban nhạc nghi lễ quân sự của San Marino. Nó bao gồm khoảng 50 nhạc sĩ.Lực lượng hiến binh
Được thành lập năm 1842, Lực lượng hiến binh của San Marino là một cơ quan thực thi pháp luật quân sự. Lực lượng hiến binh có trách nhiệm bảo vệ công dân và tài sản, và bảo đảm quyên thực thi pháp luật và an ninh trật tự của quốc gia.Địa lí
Với diện tích 61 km2, San Marino là quốc gia nhỏ nằm ở khu vực Nam Âu, và nằm hoàn toàn trong lãnh thổ của Ý. Phía Bắc, Tây và Đông giáp tỉnh Rimini, phía Nam giáp tỉnh Pesaro và Urbino. San Marino nằm gần biển Adriatic phía đông nước Ý. Hầu hết lãnh thổ quốc gia trải dài trên sườn núi Titano. San Marino có khí hậu Địa Trung Hải mùa đông ẩm và mát, mùa hè nóng và khô.Hành chính
San Marino được chia thành 9 thành phố, được biết đến với từ ngữ địa phương là Castelli (có nghĩa là "lâu đài").Chín thành phố của San Marino là:
- San Marino
- Acquaviva
- Borgo Maggiore
- Chiesanuova
- Domagnano
- Faetano
- Fiorentino
- Montegiardino
- Serravalle
Kinh tế
San Marino là nước có nền kinh tế công nghiệp, dịch vụ và du lịch phát triển.Kinh tế chủ yếu dựa vào nguồn tài nguyên truyền thống (nho, đá xây dựng), phát hành tem thư và nhất là du lịch. Ngành du lịch đóng góp hơn 50% tổng sản phẩm quốc nội của San Marino. Năm 1997, có hơn 3,3 triệu du khách đến San Marino. Các ngành dịch vụ và công nghiệp chính gồm có: ngân hàng, dệt may, điện tử và đồ gốm.
Nông nghiệp chiếm tỷ trọng nhỏ trong nền kinh tế. Các sản phẩm nông nghiệp chính gồm có ngô, lúa mì, nho, ô liu; ngựa, bò, lợn, pho mát, da thuộc.
Dân cư - tôn giáo
Dân số San Marino hiện nay là khoảng 29.615 người. Gồm 2 dân tộc chính là người Sammarin và người Italia. Ngôn ngữ chính thức là tiếng Italia.San Marino là một nhà nước có đa số dân theo Công giáo Rôma - hơn 97% dân số tuyên xưng đức tin Công giáo Rôma, nhưng nó không phải là tôn giáo của quốc gia. Khoảng một nửa trong số những người xưng là Công Giáo thực hành đức tin,không thấy Giám mục ở San Marino. Trong lịch sử, các giáo xứ khác nhau ở San Marino đã được phân chia giữa hai giáo phận Ý, chủ yếu trong giáo phận Montefeltro, và một phần trong giáo phận Rimini. Năm 1977, biên giới giữa Montefeltro và Rimini đã được điều chỉnh để tất cả các giáo xứ ở San Marino tách khỏi giáo phận Montefeltro. Các Giám mục Montefeltro-San Marino nằm ở Pennabilli, Ý.
Tuy nhiên, có một quy định về thuế thu nhập mà đối tượng nộp thuế có quyền yêu cầu phân bổ 0,3% thuế thu nhập của họ với Giáo hội Công giáo Rôma hoặc các tổ chức từ thiện khác. Các nhà thờ khác bao gồm hai giáo phái của Kitô giáo là Giáo hội Waldensian và Nhân Chứng Giê-hô-va.
Sự hiện diện của Do Thái giáo ở San Marino đã có ít nhất là 600 năm qua được đề cập đến đầu tiên bởi người Do Thái ở San Marino cuối thế kỷ 14, trong các văn bản chính thức có ghi lại các giao dịch kinh doanh của người Do Thái. Có nhiều tài liệu trong suốt thế kỷ 15 và thế kỷ 17 mô tả các giao dịch của người Do Thái và xác minh sự hiện diện của một cộng đồng Do Thái ở San Marino. Người Do Thái đã được yêu cầu đeo phù hiệu đặc biệt và sống cách biệt với người Công giáo, nhưng cũng được phép có sự bảo vệ chính thức của chính phủ.
Tham khảo
- ^ “San Marino e la Prima Guerra Mondiale”. Educazione.sm. Truy cập ngày 24 tháng 10 năm 2009.
Liên kết ngoài
Wikimedia Commons có thêm thể loại hình ảnh và phương tiện truyền tải về San Marino |
- Chief of State and Cabinet Members
- Secretary of State for External Relations and Politics
- Mục “San Marino” trên trang của CIA World Factbook.
- San Marino from UCB Libraries GovPubs
- San Marino tại DMOZ (trang đề nghị)
- Wikimedia Atlas của San Marino, có một số bản đồ liên quan đến San Marino.
- San Marino—San Marino Tourism Site
- Meteo San Marino National Center Of Meteorology and Climatology of San Marino, Local Forecast and Webcams
- Musei di Stato della Repubblica di San Marino
- History of San Marino: Primary Documents from EUdocs
- Renata Tebaldi International Voice Competition
- San Marino from allcountries.eu
Wikivoyage có chỉ dẫn du lịch về San Marino |
- Visit San Marino—Official San Marino Tourism Site Contrada Omagnano
- (tiếng Ý) General information of San Marino: Politics, Institutions and very other
- San Marino: excerpt from a 1769 Guidebook
- Score San Marino Soccer— Score live San Marino
|
Thể loại:
Hoàng hậu Minh Thành (1851-1895), còn được biết đến như Vương phi Mẫn thị hay vương hậu Minh Thành. Là vợ chính thức của Triều Tiên Cao Tông và là Vương hậu cuối cùng của nhà Triều Tiên thời kỳ Vương quốc.
Sau khi Triều Tiên Cao Tông xưng Hoàng đế của Đế quốc Đại Hàn, năm 1902, bà được truy phong là Hoàng hậu, hiệu là Minh Thành Hoàng hậu (Hangul: 명성황후, chữ Hán: 明成皇后).
Mẫn thị sinh ra trong gia tộc họ Mẫn, vào ngày 19 tháng 10 năm 1851, là con gái của Mẫn Trí Lộc (Min Chi-rok(민치록,闵致禄)). Bà được biết với tên Mẫn Tư Anh (Min Ja Yeong(민자영)), tuy nhiên điều này không được xác nhận. Năm 8 tuổi, bà trở thành mồ côi và cũng là điều may mắn khi đó chính là nguyên nhân bà được chọn trở thành Vương phi của Nhà vua.
Khi Cao Tông được 15 tuổi, Vương thất quyết định chọn cho ông một Vương phi để củng cố quyền lực, Hưng Tuyên Đại Viện Quân tìm kiếm một tiểu thư ít thân nhân để không làm chi phối quyền lực Vương thất. Thông qua Phủ Đại phu nhân(여흥 부대 부인,骊兴府大夫人, vợ của Hưng Tuyên quân và là mẹ vua Cao Tông) cũng là một người trong gia tộc họ Mẫn, quyết định chọn con gái của Mẫn Trí Lộc trở thành Vương phi.
Qua một cuộc tuyển chọn và một loạt những nghi thức rườm rà, phức tạp, ngày 20 tháng 3 năm 1866, bà được chính thức sắc phong Vương phi của Đại Triều Tiên quốc, trở thành Quốc mẫu khi bà 16 mới tuổi. Sở dĩ tước vị chính thức của bà khi còn sống là Vương phi, nhưng sau khi bà mất, Hoàng đế Cao Tông đã truy phong cho bà trở thành Hoàng hậu.
Các Vương phi trước đây thường hay buông rèm nhiếp chính, nắm giữ quyền lực thay cho con hoặc cháu của mình, nhưng với Mẫn thị thì khác. Bà là người luôn đi đầu trong xúc tiến cải cách, mở cửa bằng trí tuệ và sự sáng suốt của mình. Có tài năng ngoại giao xuất chúng, bà đã trở thành một nhà chính trị có chính sách bảo vệ quyền tự chủ của quốc gia thông qua việc bắt tay với các cường quốc trên thế giới.
Tới nay, những ghi chép về Mẫn Vương phi của nhà Triều Tiên vẫn còn được lưu lại ở nhiều nơi trên thế giới. Isabella Bird Bishop, nhà địa lí học và là Hội viên hội Địa lý Hoàng thất Anh Quốc từng có thời gian sinh sống ở Triều Tiên vào giai đoạn cuối, đã miêu tả Mẫn thị là "người có cặp mắt lạnh và sắc sảo, để lại ấn tượng về trí tuệ và tài giỏi hơn người".
William F. Sands, bí thư tòa công sứ Mỹ thì nhìn nhận rằng: "Bà là một nữ chính trị gia vĩ đại vượt lên trên thời đại và giới hạn của một người phụ nữ".
Còn Miura, công sứ người Nhật cũng đã có những ghi chép cho thấy sự cảm phục và dè chừng đối với bà như: "Khi tiếp kiến vua, tôi thấy hoàng hậu khẽ đến bên nói giúp vua, tỏ ra là người có nhiều tài năng, không hề sơ suất". Tuy nhiên, trên thực tế, Vương phi Mẫn thị không phải là người ngay từ đầu đã tham dự vào việc triều chính. Dù đã kết hôn với bà, nhưng vua Cao Tông vốn sủng ái cung nữ mà ít gần gũi bà, nên bà thường lấy việc đọc sách làm thú vui cho bớt cô đơn. Chính những kiến thức thu được qua những cuốn sách này, về sau đã trở thành bước đệm để bà tham gia vào việc triều chính giúp vua cai quản đất nước.
Mẫn Vương phi đương thời sinh được 2 người con trai, nhưng cả hai đều sớm qua đời. Hưng Tuyên Đại Viện Quân đã gây ra mâu thuẫn khi sai người kê thuốc sai cho các hoàng tử và từ đó, Mẫn thị đã quay lưng, chống lại sự độc đoán, can thiệp cả vào việc nước lẫn việc nhà của người cha chồng này. Hơn nữa, vào giai đoạn này, Hưng Tuyên Đại Viện Quân cũng đang làm lung lạc lòng dân bởi nhiều quyết định không thỏa đáng, như chính sách bế quan tỏa cảng, bài xích nước ngoài hay việc xây sửa lại cung Gyeongbok (Cung Cảnh Phúc).
Năm 1873, nhân có bản tấu của viên quan là Choi Ik-hyeon lên án các chính sách và đường lối sai trái của Hưng Tuyên Đại Viện Quân, vua Cao Tông và Vương phi Mẫn thị đã tuyên bố sẽ trực tiếp đứng ra giải quyết việc triều chính, rút bỏ hoàn toàn quyền lực của cha mình.
Trong bối cảnh đó, năm 1882 đã xảy ra cuộc nổi dậy của quân đội gọi là sự kiện "quân loạn năm Nhâm Ngọ", thể hiện sự bất mãn của lực lượng binh sĩ đối với quân đội theo hình thức mới du nhập vào từ phương Tây. Mẫn thị Vương phi, bấy giờ phải đối đầu trước nhiều khó khăn đến mức phải rời khỏi cung để lánh nạn. Nhưng chính trong tình cảnh ấy, bà đã phát huy được khả năng ngoại giao sắc sảo, nhanh nhẹn của mình, nhờ được nhà Thanh hỗ trợ giành lại chính quyền.
Không chỉ có thế, sau sự kiện chiếm đảo Geomun của Anh vào năm 1885, Mẫn thị cũng đã cử cố vấn ngoại giao người Đức là Paul Georg von Möllendorff sang Nhật Bản hiệp thương với Anh để giải quyết vấn đề.
Năm 1894, trải qua các cuộc nổi dậy của phong trào nông dân Donghak (Đông học), qua cuộc chiến giữa nhà Thanh (Trung Quốc) và Nhật, người Nhật ngày càng can thiệp sâu hơn vào tình hình chính trị của Triều Tiên. Để ngăn chặn dã tâm xâm chiếm của Nhật, Vương phi Mẫn thị đã chọn chính sách thân Nga, thể hiện rõ ý chí đối đầu với Nhật.
Thế kỉ 19 là giai đoạn xảy ra nhiều cuộc chiến tranh giành lãnh thổ của các nước lớn trên thế giới. Một nước nhỏ như Triều Tiên thời bấy giờ chỉ còn cách tận dụng sự chia tách của các nước lớn này. Để làm được điều đó, đòi hỏi người lãnh đạo phải có một năng lực hoạt động chính trị hết sức sắc bén, gây dựng được thanh thế cho quốc gia.
Trong hoàn cảnh khó khăn đó, Vương phi Mẫn thị đã luôn tìm kiếm đường đi nước bước, đứng ra định hướng mọi việc chính sự quốc gia. Nhận thấy bà là vật cản lớn nhất trong cuộc xâm chiếm Triều Tiên của mình, đế quốc Nhật đã cho người đột nhập vào cung sát hại bà, gây nên "Biến sự năm Ất Mùi".
Định mệnh đã xảy ra đối với bà, ngày 8/10/1895, Vương phi họ Mẫn bị một thích khách Nhật ám sát ngay khi bà đang ở tại Cung điện Gyeongbokgung. Trong nỗi sầu khổ vì khóc thương nhớ vợ của nhà vua Cao Tông, Thái tử Lý Chước đã đưa vua cha đến trú ẩn tại Đại sứ quán Nga.
Sau khi đẩy lùi ách đô hộ của người Nhật ra khỏi bờ cõi đất nước, vua Cao Tông đã tái khẳng định nền độc lập của vương quốc bằng cách xưng là Hoàng đế của đế quốc Triều Tiên. Ngay từ lúc đó, Mẫn thị được biết đến dưới cái tên là Hoàng hậu Minh Thành.
Mặc dù Vương phi Minh Thành đã ngã xuống vì nền độc lập của vương quốc Triều Tiên, song tinh thần quật cường chiến đấu của bà vẫn là nguồn cảm hứng bất tận cho các thế hệ tương lai của Triều Tiên, tinh thần của một vị Vương phi đã làm lay động đến người dân Triều Tiên cả trăm năm sau ngày mất của bà.
Việc Vương phi bị thế lực bên ngoài giết hại đã khiến tình hình trong nước sôi sục, xuất hiện nhiều hoạt động đòi trả thù rửa hận, dấy lên một phong trào chống Nhật của "Nghĩa binh năm Ất Mùi" (năm 1895), mà sau này nó được tiếp nối, phát triển thành phong trào vận động độc lập của Hàn Quốc.
Hoàng đế Cao Tông cũng luôn tâm niệm, hướng tới sự phát triển của một quốc gia độc lập tự chủ. Năm 1897 đã đổi quốc hiệu, cho ra đời nhà nước "Đại Hàn Đế quốc" nhưng đến năm 1910 thì đất nước vẫn rơi vào tay của đế quốc Nhật.
Như vậy, có thể xem Vương phi Mẫn thị là nhân vật tượng trưng cuối cùng cho chủ quyền của nhà Triều Tiên. Bà chính là vị quốc mẫu chân chính, người đã hi sinh để tìm đường cứu nước trong lịch sử của Hàn Quốc.
Hoàng hậu Minh Thành
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
|
Thông tin trong bài này hoặc đoạn này không thể kiểm chứng được do không được chú giải từ bất kỳ nguồn tham khảo nào. Xin bạn hãy cải thiện bài viết này bằng cách bổ sung chú thích tới các nguồn uy tín. Nếu bài được dịch từ Wikipedia ngôn ngữ khác thì hãy chuyển nguồn tham khảo từ phiên bản đó cho bài này. |
Minh Thành Hoàng hậu | |
---|---|
Hoàng hậu nhà Triều Tiên | |
Giai đoạn nhiếp chính nhà Triều Tiên | |
Tại vị | ngày 1 tháng 11, 1873 – ngày 1 tháng 7, 1894 (20 năm, 242 ngày) ngày 6 tháng 7, 1895 – ngày 10 tháng 10 1895 (96 days) |
Thông tin chung | |
Phối ngẫu | Triều Tiên Cao Tông |
Hậu duệ | Triều Tiên Thuần Tông 3 hoàng tử 1 công chúa |
Thụy hiệu |
Ngắn: Minh Thành Hoàng hậu(명성황후 hay 明成皇后) Đầy đủ: Hiếu Từ Nguyên Thánh Chính Hóa Hợp Thiên Hồng Công Thành Đức Minh Thành Thái hoàng hậu *효자원성정화합천홍공성덕명성태황후 *孝慈元聖正化合天洪功誠德明成太皇后 *Hyoja Wonseong Jeonghwa Hapcheon Honggong Seongdeok Myeongseong Taehwanghu |
Thân phụ | Min Chi-rok |
Thân mẫu | Lady Hanchang of Yi clan |
An táng | Hongneung |
Tên người Triều Tiên | |
---|---|
Hangul | 명성황후 |
Hanja (Hán tự) | 明成皇后 |
Romaja quốc ngữ | Myeongseong Hwanghu |
McCune-Reischauer | Myŏngsŏng Hwanghu |
Sau khi Triều Tiên Cao Tông xưng Hoàng đế của Đế quốc Đại Hàn, năm 1902, bà được truy phong là Hoàng hậu, hiệu là Minh Thành Hoàng hậu (Hangul: 명성황후, chữ Hán: 明成皇后).
Vương phi tương lai
Sau khi Triều Tiên Triết Tông qua đời khong có người thừa tự, Đại phi Triết Nhân, vợ góa của Triết Tông là người của Gia tộc Kim Andong nắm quyền thông qua quyết định chọn một người trị vì Vương thất Triều Tiên. Mùa thu năm 1864, con trai thứ hai của '''Hưng Tuyên Đại Viên Quân''' được chọn làm người nối ngôi trở thành Triều Tiên Cao Tông.Mẫn thị sinh ra trong gia tộc họ Mẫn, vào ngày 19 tháng 10 năm 1851, là con gái của Mẫn Trí Lộc (Min Chi-rok(민치록,闵致禄)). Bà được biết với tên Mẫn Tư Anh (Min Ja Yeong(민자영)), tuy nhiên điều này không được xác nhận. Năm 8 tuổi, bà trở thành mồ côi và cũng là điều may mắn khi đó chính là nguyên nhân bà được chọn trở thành Vương phi của Nhà vua.
Khi Cao Tông được 15 tuổi, Vương thất quyết định chọn cho ông một Vương phi để củng cố quyền lực, Hưng Tuyên Đại Viện Quân tìm kiếm một tiểu thư ít thân nhân để không làm chi phối quyền lực Vương thất. Thông qua Phủ Đại phu nhân(여흥 부대 부인,骊兴府大夫人, vợ của Hưng Tuyên quân và là mẹ vua Cao Tông) cũng là một người trong gia tộc họ Mẫn, quyết định chọn con gái của Mẫn Trí Lộc trở thành Vương phi.
Qua một cuộc tuyển chọn và một loạt những nghi thức rườm rà, phức tạp, ngày 20 tháng 3 năm 1866, bà được chính thức sắc phong Vương phi của Đại Triều Tiên quốc, trở thành Quốc mẫu khi bà 16 mới tuổi. Sở dĩ tước vị chính thức của bà khi còn sống là Vương phi, nhưng sau khi bà mất, Hoàng đế Cao Tông đã truy phong cho bà trở thành Hoàng hậu.
Can thiệp chính sự
Mẫn thị đăng quang vào giai đoạn cuối nhà Triều Tiên, khi đất nước đang trong cảnh bên ngoài chịu áp lực từ Trung Quốc, Nga, Nhật Bản và các nước phương Tây, bên trong ẩn chứa nhiều hiểm họa và rối ren về chính trị và bị chi phối bởi nhiều thế lực. Tuy nhiên, vị Vương phi này đã chứng tỏ cho mọi người thấy mình là một bậc quốc mẫu hết sức đặc biệt trong lịch sử của Hàn Quốc.Các Vương phi trước đây thường hay buông rèm nhiếp chính, nắm giữ quyền lực thay cho con hoặc cháu của mình, nhưng với Mẫn thị thì khác. Bà là người luôn đi đầu trong xúc tiến cải cách, mở cửa bằng trí tuệ và sự sáng suốt của mình. Có tài năng ngoại giao xuất chúng, bà đã trở thành một nhà chính trị có chính sách bảo vệ quyền tự chủ của quốc gia thông qua việc bắt tay với các cường quốc trên thế giới.
Tới nay, những ghi chép về Mẫn Vương phi của nhà Triều Tiên vẫn còn được lưu lại ở nhiều nơi trên thế giới. Isabella Bird Bishop, nhà địa lí học và là Hội viên hội Địa lý Hoàng thất Anh Quốc từng có thời gian sinh sống ở Triều Tiên vào giai đoạn cuối, đã miêu tả Mẫn thị là "người có cặp mắt lạnh và sắc sảo, để lại ấn tượng về trí tuệ và tài giỏi hơn người".
William F. Sands, bí thư tòa công sứ Mỹ thì nhìn nhận rằng: "Bà là một nữ chính trị gia vĩ đại vượt lên trên thời đại và giới hạn của một người phụ nữ".
Còn Miura, công sứ người Nhật cũng đã có những ghi chép cho thấy sự cảm phục và dè chừng đối với bà như: "Khi tiếp kiến vua, tôi thấy hoàng hậu khẽ đến bên nói giúp vua, tỏ ra là người có nhiều tài năng, không hề sơ suất". Tuy nhiên, trên thực tế, Vương phi Mẫn thị không phải là người ngay từ đầu đã tham dự vào việc triều chính. Dù đã kết hôn với bà, nhưng vua Cao Tông vốn sủng ái cung nữ mà ít gần gũi bà, nên bà thường lấy việc đọc sách làm thú vui cho bớt cô đơn. Chính những kiến thức thu được qua những cuốn sách này, về sau đã trở thành bước đệm để bà tham gia vào việc triều chính giúp vua cai quản đất nước.
Mẫn Vương phi đương thời sinh được 2 người con trai, nhưng cả hai đều sớm qua đời. Hưng Tuyên Đại Viện Quân đã gây ra mâu thuẫn khi sai người kê thuốc sai cho các hoàng tử và từ đó, Mẫn thị đã quay lưng, chống lại sự độc đoán, can thiệp cả vào việc nước lẫn việc nhà của người cha chồng này. Hơn nữa, vào giai đoạn này, Hưng Tuyên Đại Viện Quân cũng đang làm lung lạc lòng dân bởi nhiều quyết định không thỏa đáng, như chính sách bế quan tỏa cảng, bài xích nước ngoài hay việc xây sửa lại cung Gyeongbok (Cung Cảnh Phúc).
Năm 1873, nhân có bản tấu của viên quan là Choi Ik-hyeon lên án các chính sách và đường lối sai trái của Hưng Tuyên Đại Viện Quân, vua Cao Tông và Vương phi Mẫn thị đã tuyên bố sẽ trực tiếp đứng ra giải quyết việc triều chính, rút bỏ hoàn toàn quyền lực của cha mình.
Bị quân Nhật ám sát
Được làm chủ trong mọi việc, vua Cao Tông đã bỏ chính sách đóng cửa trước đây của Hưng Tuyên Đại Viện Quân, lập quan hệ ngoại giao với Nhật Bản và lần lượt tiếp đó là các nước lớn ở phương Tây. Tuy nhiên, tình hình chính sự ngày càng rối ren bởi những mâu thuẫn với thế lực cũ, sự đối lập với cha là Hưng Tuyên Đại Viện Quân, cùng với mối đe dọa xâm chiếm của Nhật Bản và các cường quốc phương Tây.Trong bối cảnh đó, năm 1882 đã xảy ra cuộc nổi dậy của quân đội gọi là sự kiện "quân loạn năm Nhâm Ngọ", thể hiện sự bất mãn của lực lượng binh sĩ đối với quân đội theo hình thức mới du nhập vào từ phương Tây. Mẫn thị Vương phi, bấy giờ phải đối đầu trước nhiều khó khăn đến mức phải rời khỏi cung để lánh nạn. Nhưng chính trong tình cảnh ấy, bà đã phát huy được khả năng ngoại giao sắc sảo, nhanh nhẹn của mình, nhờ được nhà Thanh hỗ trợ giành lại chính quyền.
Không chỉ có thế, sau sự kiện chiếm đảo Geomun của Anh vào năm 1885, Mẫn thị cũng đã cử cố vấn ngoại giao người Đức là Paul Georg von Möllendorff sang Nhật Bản hiệp thương với Anh để giải quyết vấn đề.
Năm 1894, trải qua các cuộc nổi dậy của phong trào nông dân Donghak (Đông học), qua cuộc chiến giữa nhà Thanh (Trung Quốc) và Nhật, người Nhật ngày càng can thiệp sâu hơn vào tình hình chính trị của Triều Tiên. Để ngăn chặn dã tâm xâm chiếm của Nhật, Vương phi Mẫn thị đã chọn chính sách thân Nga, thể hiện rõ ý chí đối đầu với Nhật.
Thế kỉ 19 là giai đoạn xảy ra nhiều cuộc chiến tranh giành lãnh thổ của các nước lớn trên thế giới. Một nước nhỏ như Triều Tiên thời bấy giờ chỉ còn cách tận dụng sự chia tách của các nước lớn này. Để làm được điều đó, đòi hỏi người lãnh đạo phải có một năng lực hoạt động chính trị hết sức sắc bén, gây dựng được thanh thế cho quốc gia.
Trong hoàn cảnh khó khăn đó, Vương phi Mẫn thị đã luôn tìm kiếm đường đi nước bước, đứng ra định hướng mọi việc chính sự quốc gia. Nhận thấy bà là vật cản lớn nhất trong cuộc xâm chiếm Triều Tiên của mình, đế quốc Nhật đã cho người đột nhập vào cung sát hại bà, gây nên "Biến sự năm Ất Mùi".
Định mệnh đã xảy ra đối với bà, ngày 8/10/1895, Vương phi họ Mẫn bị một thích khách Nhật ám sát ngay khi bà đang ở tại Cung điện Gyeongbokgung. Trong nỗi sầu khổ vì khóc thương nhớ vợ của nhà vua Cao Tông, Thái tử Lý Chước đã đưa vua cha đến trú ẩn tại Đại sứ quán Nga.
Sau khi đẩy lùi ách đô hộ của người Nhật ra khỏi bờ cõi đất nước, vua Cao Tông đã tái khẳng định nền độc lập của vương quốc bằng cách xưng là Hoàng đế của đế quốc Triều Tiên. Ngay từ lúc đó, Mẫn thị được biết đến dưới cái tên là Hoàng hậu Minh Thành.
Mặc dù Vương phi Minh Thành đã ngã xuống vì nền độc lập của vương quốc Triều Tiên, song tinh thần quật cường chiến đấu của bà vẫn là nguồn cảm hứng bất tận cho các thế hệ tương lai của Triều Tiên, tinh thần của một vị Vương phi đã làm lay động đến người dân Triều Tiên cả trăm năm sau ngày mất của bà.
Việc Vương phi bị thế lực bên ngoài giết hại đã khiến tình hình trong nước sôi sục, xuất hiện nhiều hoạt động đòi trả thù rửa hận, dấy lên một phong trào chống Nhật của "Nghĩa binh năm Ất Mùi" (năm 1895), mà sau này nó được tiếp nối, phát triển thành phong trào vận động độc lập của Hàn Quốc.
Hoàng đế Cao Tông cũng luôn tâm niệm, hướng tới sự phát triển của một quốc gia độc lập tự chủ. Năm 1897 đã đổi quốc hiệu, cho ra đời nhà nước "Đại Hàn Đế quốc" nhưng đến năm 1910 thì đất nước vẫn rơi vào tay của đế quốc Nhật.
Như vậy, có thể xem Vương phi Mẫn thị là nhân vật tượng trưng cuối cùng cho chủ quyền của nhà Triều Tiên. Bà chính là vị quốc mẫu chân chính, người đã hi sinh để tìm đường cứu nước trong lịch sử của Hàn Quốc.
Một vài mô tả
Bộ phim Hoàng hậu Minh Thành hãng KBS sản suất năm 2001 nói khá cụ thể về cuộc đời Hoàng hậu Minh Thành và tình hình chính trị xã hội Triều Tiên lúc bấy giờ.Xem thêm
http://www.youtube.com/user/hoangkimvietnam
Trở về trang chính
hoangkim vietnam, hoangkim, hoangkimvietnam, Hoàng Kim, Ngọc Phương Nam, Chào ngày mới Thung dung, Dạy và học, Cây Lương thực, Tin Nông nghiệp Việt Nam, Food Crops, Cassava in Vietnam, VietnamAfricaCassavaRice, Khát khao xanh, Dayvahoc, Học mỗi ngày, Danh nhân Việt , Food Crops News, Điểm chính, CNM365, Kim LinkedIn, KimTwitter, KimFaceBook Đọc lại và suy ngẫm, Việt Nam tổ quốc tôi, Tình yêu cuộc sống, Thơ cho con
No comments:
Post a Comment