CNM365. Chào ngày mới 16 tháng 10. Wikipedia Ngày này năm xưa. Ngày Lương thực thế giới. Năm 456 – Tư lệnh Ricimer đánh bại Hoàng đế Avitus tại Piacenza để trở thành chấp chính quan Đế quốc Tây La Mã. Năm 690 – Sau khi phế con là Đường Duệ Tông thành "hoàng tự" , Võ Tắc Thiên (hình) lên ngôi hoàng đế, đổi quốc hiệu từ "Đường" thành "Chu".Năm 1813 – Liên minh thứ sáu tấn công Napoléon và Đế chế thứ nhất Pháp tại Trận Leipzig, xung đột lớn nhất trong các cuộc chiến tranh của Napoléon có hơn nửa triệu lính hai bên. Năm 1978 – Hồng y Karol Józef Wojtyła được bầu làm giáo hoàng, lấy tên Gioan Phaolô II, là người Slav đầu tiên và là giáo hoàng đầu tiên không phải người Ý từ thế kỷ 16.
Ngày Lương thực thế giới
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Ngày Lương thực thế giới được cử hành vào ngày 16 tháng 10 hàng năm trên khắp thế giới, để kỷ niệm ngày thành lập Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên Hiệp Quốc của Liên Hiệp Quốc năm 1945. Ngày này cũng là Ngày Khoa học kỹ thuật thực phẩm.
Tại Đức, Bộ bảo vệ người tiêu dùng, Lương thực và Nông nghiệp liên bang đều tham gia Ngày Lương thực thế giới thông qua các cuộc họp báo.
Tại Tây Ban Nha, đài truyền hình Tây Ban Nha đã tích cực truyền các sự kiện về Ngày Lương thực thế giới. Đại sứ thiện chí của FAO - cầu thủ bóng đá Tây Ban Nha Raul – đã tham gia vào các sự kiện kỷ niệm và giúp làm nổi bật các vấn đề an ninh lương thực trên khắp nước.
Tại Vương quốc Anh, nhóm Lương thực vương quốc Anh cũng tham gia tích cực ngày kỷ niệm này thông qua các hội nghị và các phương tiện truyền thông đại chúng.
Tại các nước có nền kinh tế mới nổi ở Đông Âu – như Albania, Armenia, Croatia, Cộng hòa Séc, Gruzia, Macedonia, Moldova, Serbia và Montenegro, Slovakia – nhiều hoạt động kỷ niệm Ngày Lương thực thế giới cũng được tổ chức.
Tại Hungary, các chuyên gia lương thực nổi tiếng tham gia vào các buổi trình diễn tại Nhà bảo tàng Nông nghiệp Hungary. Đại diện của "Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên Hiệp Quốc" trong khu vực cũng đã trao các Huy chương Ngày Lương thục thế giới cho các chuyên gia Hungary.
Nhân danh Tòa Thánh, các giáo hoàng Gioan Phaolô II và giáo hoàng Biển Đức XVI đã gửi thông điệp hàng năm cho các nhà sản xuất lương thực thực phẩm và những người tiêu dùng vào Ngày Lương thực thế giới.[5][6][7][8][9][10][11]
Tại Chad, hàng ngàn người đã tham dự các cuộc thảo luận, hội nghị và các hoạt động ngày Lương thực thế giới, như xem kịch, phim, nhẩy múa dân gian, thăm các nơi có dự án nông nghiệp và các công ty nông nghiệp.
Tại Ghana, Bộ Lương thực và Nông nghiệp tổ chức một hội nghị an ninh lương thực. Còn tại Namibia thì phát động một chiến dịch nâng cao ý thức về an ninh lương thực thông qua các phương tiện truyền thong quốc gia.
Ai Cập tổ chức một cuộc hội thảo về các vấn đề dinh dưỡng. Maroc và Tunisia thì tổ chức các hội nghị chuyên đề và triển lãm về lương thực.
Tại Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên, tổ chức các hội thảo chuyên đề và tham quan các địa điểm có dự án nông nghiệp.
Tại Indonesia Bộ Nông nghiệp tổ chức Triển lãm Lương thực tại Bandung, Tây Java, còn các tổ chức phi chính phủ của nông dân và ngư dân thì tổ chức hội thảo ở Bali.
Tại Armenia, Bộ Nông nghiệp, các tổ chức phi chính phủ, Trường Đại học Nông nghiệp quốc gia Armenia, các tổ chức quốc tế và các phương tiện truyền thông đại chúng tham gia lễ kỷ niệm Ngày Lương thực thế giới.
Tại Afghanistan, các đại diện các Bộ trong chính phủ, các đại sứ quán, các cơ quan Liên Hiệp Quốc, các tổ chức tài chính quốc tế, các tổ chức phi chính phủ quốc gia và quốc tế cùng các nhân viên FAO đã tham dự lễ kỷ niệm Ngày Lương thực thế giới.
Tại Cyprus, các buổi lễ đặc biệt được tổ chức ở các trường tiểu và trung học, nơi các giáo viên giải thích ý nghĩa của Ngày Lương thực thế giới.
Tại Argentina, các quan chức chính phủ, các tổ chức quốc tế và giới báo chí tham dự lễ kỷ niệm Ngày Lương thực thế giới.
Tại Mexico năm 2005, một chiến dịch quốc gia cho một "Mexico không có Nạn đói" đã đưọc tổ chức, với sự hỗ trợ của các sinh viên và xã hội dân sự.
Tại Cuba, các nhà sản xuất lương thực thực phẩm trao đổi quan điểm tại các hội chợ nông nghiệp.
Tại Venezuela các phương tiện truyền thông tích cực hỗ trợ chiến dịch nâng cao nhận thức về vấn đề lương thực trong Ngày Lương thực thế giới.
Mục lục
Nguồn gốc
Ngày Lương thực thế giới được các nước thành viên của Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên Hiệp Quốc thiết lập tại Đại hội lần thứ 20 của Tổ chức này trong tháng 11 năm 1979. Phái đoàn Hungary - do tiến sĩ Pál Romány, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Thực phẩm Hungary thời bấy giờ lãnh đạo – đã đề xuất ý tưởng cử hành Ngày Lương thực thế giới trên toàn cầu. Từ đó, ngày Lương thực thế giới được cử hành hàng năm ở hơn 150 quốc gia, nhằm nâng cao nhận thức về những vấn đề nghèo và đói, về sử dụng hợp lý lương thực và thực phẩm.Các chủ đề
Từ năm 1981, mỗi năm Ngày Lương thực thế giới đều chọn một chủ đề khác nhau để làm nổi bật các phạm vi cần thiết cho hành động và đưa ra một tiêu điểm chung (xem cuối trang).Việc tổ chức Ngày Lương thực thế giới
Ngày Lương thực thế giới được tổ chức hàng năm ở hơn 150 quốc gia. Dưới đây là một số ví dụ về việc cử hành Ngày Lương thực thế giới tại một số nước trong những năm gần đây.Hoa Kỳ
Ngày Lương thực thế giới đã trở thành một ngày truyền thống ở Hoa Kỳ từ khi thiết lập năm 1981. Ở Hoa Kỳ nỗ lực dành cho ngày này được 450 tổ chức công và tư tự nguyện bảo trợ.[1] Một ví dụ về Ngày Lương thực thế giới năm 2011 là các bữa ăn trong ngày này do Oxfam hợp tác với nhiều tổ chức phi lợi nhuận khác bảo trợ.[2] Tổng giám mục danh dự Desmond Tutu[3] và tác giả Francis Moore Lappe[4] đã hợp sức với Oxfam để xúc tiến việc tổ chức bữa ăn ngày chủ nhật Lương thực thế giới này.Châu Âu
Tại Ý năm 2005, các bộ, các trường đại học, các cơ quan nghiên cứu, các cơ quan quốc tế và các tổ chức phi chính phủ đã tổ chức nhiều hội nghị, hội nghị chuyên đề cũng như triển lãm về lương thực. Bộ Nông Lâm Ý đã tổ chức một cuộc mít tinh tập chú vào vấn đề quyền của các phụ nữ ở vùng nông thôn.Tại Đức, Bộ bảo vệ người tiêu dùng, Lương thực và Nông nghiệp liên bang đều tham gia Ngày Lương thực thế giới thông qua các cuộc họp báo.
Tại Tây Ban Nha, đài truyền hình Tây Ban Nha đã tích cực truyền các sự kiện về Ngày Lương thực thế giới. Đại sứ thiện chí của FAO - cầu thủ bóng đá Tây Ban Nha Raul – đã tham gia vào các sự kiện kỷ niệm và giúp làm nổi bật các vấn đề an ninh lương thực trên khắp nước.
Tại Vương quốc Anh, nhóm Lương thực vương quốc Anh cũng tham gia tích cực ngày kỷ niệm này thông qua các hội nghị và các phương tiện truyền thông đại chúng.
Tại các nước có nền kinh tế mới nổi ở Đông Âu – như Albania, Armenia, Croatia, Cộng hòa Séc, Gruzia, Macedonia, Moldova, Serbia và Montenegro, Slovakia – nhiều hoạt động kỷ niệm Ngày Lương thực thế giới cũng được tổ chức.
Tại Hungary, các chuyên gia lương thực nổi tiếng tham gia vào các buổi trình diễn tại Nhà bảo tàng Nông nghiệp Hungary. Đại diện của "Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên Hiệp Quốc" trong khu vực cũng đã trao các Huy chương Ngày Lương thục thế giới cho các chuyên gia Hungary.
Nhân danh Tòa Thánh, các giáo hoàng Gioan Phaolô II và giáo hoàng Biển Đức XVI đã gửi thông điệp hàng năm cho các nhà sản xuất lương thực thực phẩm và những người tiêu dùng vào Ngày Lương thực thế giới.[5][6][7][8][9][10][11]
Châu Phi
Angola đã cử hành Ngày Lương thực thế giới năm 2005 bằng việc tổ chức Diễn đàn về Phụ nữ nông thôn lần thứ 4. Còn tại Burundi đệ nhị Phó tổng thống đã tham gia lễ trồng khoai tây như một biểu tượng của việc sản xuất lương thực. Tại Cộng hòa Trung Phi, tổng thống nước này đã khánh thành một cây cầu ở Boda nhân Ngày Lương thực thế giới, tạo thuận lợi cho việc giao thông vận chuyển tới khu vực sản xuất lương thực này.Tại Chad, hàng ngàn người đã tham dự các cuộc thảo luận, hội nghị và các hoạt động ngày Lương thực thế giới, như xem kịch, phim, nhẩy múa dân gian, thăm các nơi có dự án nông nghiệp và các công ty nông nghiệp.
Tại Ghana, Bộ Lương thực và Nông nghiệp tổ chức một hội nghị an ninh lương thực. Còn tại Namibia thì phát động một chiến dịch nâng cao ý thức về an ninh lương thực thông qua các phương tiện truyền thong quốc gia.
Ai Cập tổ chức một cuộc hội thảo về các vấn đề dinh dưỡng. Maroc và Tunisia thì tổ chức các hội nghị chuyên đề và triển lãm về lương thực.
Châu Á
Chính phủ Bangladesh tổ chức lễ hội lương thực. Tại Trung quốc năm 2005, Bộ Nông nghiệp tổ chức kỷ niệm Ngày Lương thực thế giới tại thành phố Khúc Tĩnh, nơi có nhiều sắc tộc thiểu số sinh sống.Tại Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên, tổ chức các hội thảo chuyên đề và tham quan các địa điểm có dự án nông nghiệp.
Tại Indonesia Bộ Nông nghiệp tổ chức Triển lãm Lương thực tại Bandung, Tây Java, còn các tổ chức phi chính phủ của nông dân và ngư dân thì tổ chức hội thảo ở Bali.
Tại Armenia, Bộ Nông nghiệp, các tổ chức phi chính phủ, Trường Đại học Nông nghiệp quốc gia Armenia, các tổ chức quốc tế và các phương tiện truyền thông đại chúng tham gia lễ kỷ niệm Ngày Lương thực thế giới.
Tại Afghanistan, các đại diện các Bộ trong chính phủ, các đại sứ quán, các cơ quan Liên Hiệp Quốc, các tổ chức tài chính quốc tế, các tổ chức phi chính phủ quốc gia và quốc tế cùng các nhân viên FAO đã tham dự lễ kỷ niệm Ngày Lương thực thế giới.
Tại Cyprus, các buổi lễ đặc biệt được tổ chức ở các trường tiểu và trung học, nơi các giáo viên giải thích ý nghĩa của Ngày Lương thực thế giới.
Châu Mỹ Latinh
Tại Chile, các cuộc triển lãm các sản phẩm lương thực bản xứ được các cộng đồng địa phương tổ chức.Tại Argentina, các quan chức chính phủ, các tổ chức quốc tế và giới báo chí tham dự lễ kỷ niệm Ngày Lương thực thế giới.
Tại Mexico năm 2005, một chiến dịch quốc gia cho một "Mexico không có Nạn đói" đã đưọc tổ chức, với sự hỗ trợ của các sinh viên và xã hội dân sự.
Tại Cuba, các nhà sản xuất lương thực thực phẩm trao đổi quan điểm tại các hội chợ nông nghiệp.
Tại Venezuela các phương tiện truyền thông tích cực hỗ trợ chiến dịch nâng cao nhận thức về vấn đề lương thực trong Ngày Lương thực thế giới.
Tham khảo
- ^ World Food Day USA Directory of Organizations
- ^ World Food Day Sunday Dinner
- ^ Video from Archbishop Desmond Tutu on World Food Day
- ^ Video from Francis Moore Lappe on World Food Day
- ^ Message to the XIV World Food Day
- ^ Message to the XII World Food Day
- ^ World Food Day observed in some 150 countries
- ^ World Food Day 2004 highlights the importance of biodiversity to global food security
- ^ Feeding the hungry is moral obligation, pope says for World Food Day
- ^ Global food crisis caused by selfishness, speculation, says pope
- ^ Pope Benedict Sends Message to Mark World Food Day
Liên kết ngoài
- World Food Day
- Food and Agriculture Organization of the United Nations
- World Summit on Food Security 2009
- World Food Programme
- Child In Need Institute agency working in India to combat malnutrition
- International Fund for Agricultural Development
- International Alliance Against Hunger
- Friends of the World Food Program United States agency helping raise funds and awareness about global hunger
Năm | Chủ đề |
---|---|
2012 | Hợp tác nông nghiệp - chìa khóa nuôi sống thế giới |
2011 | Giá lương thực - từ khủng hoảng đến ổn định |
2010 | Đoàn kết chống nạn đói |
2009 | Mục tiêu an ninh lương thực trong thời khủng hoảng |
2008 | An ninh lương thực thế giới: các thách thức của Biến đổi khí hậu và Năng lượng sinh học |
2007 | Quyền sử dụng lương thực |
2006 | Đầu tư vào nông nghiệp để được an ninh lương thực |
2005 | Nông nghiệp và đối thoại liên văn hóa |
2004 | Đa dạng sinh học đối với an ninh lương thực |
2003 | Cùng làm việc cho một Liên minh quốc tế chống nạn đói |
2002 | Nước: nguồn an ninh lương thực |
2001 | Đấu tranh chống nạn đói để giảm nghèo |
2000 | Một thiên niên kỷ không có nạn đói |
1999 | Tuổi trẻ chống nạn đói |
1998 | Phụ nữ nuôi thế giới |
1997 | Đầu tư vào an ninh lương thực |
1996 | Đấu tranh chống nạn đói và suy dinh dưỡng |
1995 | Thực phẩm cho mọi người |
1994 | Nước cho sự sống |
1993 | Gặt hái sự đa dạng của Thiên nhiên |
1992 | Thực phẩm và dinh dưỡng |
1991 | Cây trồng cho đời sống |
1990 | Thực phẩm cho tương lai |
1989 | Thực phẩm và môi trường |
1988 | Tuổi trẻ nông thôn |
1987 | Các chủ nông trại nhỏ |
1986 | Ngư dân và các Cộng đồng ngư nghiệp |
1985 | Nạn nghèo nông thôn |
1984 | Phụ nữ trong Nông nghiệp |
1983 | an ninh lương thực |
1982 | Thực phẩm trước hết |
1981 | Thực phẩm trước hết |
Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên Hiệp Quốc
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Bài viết hoặc đoạn này cần thêm chú thích nguồn gốc để có thể kiểm chứng thông tin. Những nội dung không có nguồn có thể bị đặt vấn đề và xóa bỏ. Mời bạn bổ sung chú thích từ các nguồn đáng tin cậy để giúp cải thiện bài viết. |
Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên Hiệp Quốc | |
---|---|
Food and Agriculture Organization of the United Nations (tiếng Anh) منظمة الأغذية والزراعة للأمم المتحدة (tiếng Ả Rập) 聯合國糧食及農業組織 (tiếng Trung) Organisation des Nations Unies pour l'alimentation et l'agriculture (tiếng Pháp) Продовольственная и сельскохозяйственная организация (tiếng Nga) Organización de las Naciones Unidas para la Agricultura y la Alimentación (tiếng Tây Ban Nha) |
|
Loại hình | Cơ quan chuyên môn |
Tên gọi tắt | FAO |
Lãnh đạo | Jacques Diouf |
Hiện trạng | Đang hoạt động |
Thành lập | 16 tháng 10 năm 1945 tại Canada |
Trụ sở | Roma, Ý |
Trang web | www.fao.org |
Trực thuộc | ECOSOC |
- Nâng cao mức sống cũng như mức dinh dưỡng của nhân dân các nước thành viên.
- Nâng cao hiệu quả của việc sản xuất lương thực và nông sản.
- Góp phần vào việc phát triển kinh tế thế giới và giải phóng nhân dân khỏi nạn đói.
Chú thích
Liên kết ngoài
Phương tiện liên quan tới Food and Agriculture Organization tại Wikimedia Commons
|
Thể loại:
- Sơ khai
- Cơ quan chuyên môn thuộc Liên Hiệp Quốc
- Nhóm các tổ chức phát triển Liên hợp quốc
- Tổ chức được thành lập năm 1945
- Tổ chức nông nghiệp
- Vận động môi trường
- Chính trị lương thực
Cây lương thực
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Cây lương thực là các loại cây trồng mà sản phẩm dùng làm lương thực cho người, nguồn cung cấp chính về năng lượng và chất bột cacbohydrat trong khẩu phần thức ăn.
Năm loại cây lương thực chính của thế giới là ngô (Zea Mays L.), lúa nước (Oryza sativa L.),lúa mì (Triticum sp. tên khác: tiểu mạch), sắn (Manihot esculenta Crantz tên khác khoai mì) và khoai tây (Solanum tuberosum L.). Ngô, lúa gạo và lúa mì chiếm khoảng 87% sản lượng lương thực toàn cầu và khoảng 43% calori từ tất cả mọi lương thực, thực phẩm vào năm 2003.[1]
Bốn loại cây lương thực chính của Việt Nam là lúa, ngô, sắn và khoai lang (Ipomoea batatas L.).
Các loại hạt cốc khác, diện tích trồng và sản lượng ít hơn, có Đại mạch (Hordeum vulgare L.), cao lương (Sorghum, tên khác lúa miến, mộc mạch), kê (Setaria L.Beauv kê hạt vàng, kê đuôi chồn; Panicum miliaceum L. kê Nga; Pennisetum glaucum lúa miêu, kê trân châu, kê ngọc, kê Xu đăng; Eleusine coracana L. Gaertn), Hắc mạch (Secale cereale, tên khác lúa mạch đen, Tiểu hắc mạch (Triticale, Triticum x Secale, cây lai giữa tiểu mạch và hắc mạch), Yến mạch (Avena sativa), Kiều mạch (Fagopyrum esculentum Moench = Polygonum fagopyrum L., tên khác mạch hoa, mạch ba góc), Fonio, Quinoa.
Các loại cây có củ khác có khoai môn (Colocasia esculenta L. Schott, khoai sọ (Colocasia antiquorum Schott = C.esculenta L.Schott), củ mỡ (Dioscorea alata L., tên khác củ cái, khoai vạc, khoai ngọt), củ từ (Dioscorea esculenta (Lour) Burk tên khác khoai từ), dong riềng (Canna edulis Ker., tên khác khoai riềng, khoai đao), củ dong (Maranta arundinacea, tên khác dong đao, dong tây, củ bình tinh, củ trút), khoai mài (Dioscorea persimilis Prain et Burk, tên khác củ mài, hoài sơn), sắn dây (Pueraria thomsoni Benth), khoai nưa (Amorphophallus rivieri Dur.).
Ở châu Phi, chuối bột cũng được dùng làm lương thực tương tự như việc sử dụng qủa sakê (Artocarpus indisa) ở nước Nhật. Tại Ấn Độ, một số nước châu Phi và một số đảo ở Thái Bình Dương, những loại đậu đỗ ăn hạt như đậu trắng, đậu đen, đậu xanh,đậu đỏ, đậu trứng cuốc, đậu nho nhe hay thân giàu tinh bột từ một số cây như cây báng… cũng được sử dụng làm lương thực tương tự như thực phẩm ở Việt Nam.
Hạt hoặc củ của cây lương thực là thành phần chính trong khẩu phần ăn của những người dân nghèo tại nhiều nước đang phát triển. Việc tiêu thụ này ở các nước phát triển tuy ít hơn nhưng vẫn là đáng kể nhất.
Trong một số ngôn ngữ phương Tây, cây lương thực, cây "ngũ cốc" được gọi là cereal, cereali, cerealo, zerial, có nguồn gốc từ Ceres, tên gọi của vị nữ thần nông nghiệp và mùa màng của thời kỳ tiền La Mã. Nó dùng để chỉ các loài thực vật thuộc họ Hòa thảo (Poaceae) được con người gieo trồng để lấy hạt có thể ăn được (về mặt thực vật học, chúng là kiểu quả gọi là quả thóc).
Trong tiếng Việt ngày nay, cây lương thực được dùng để chỉ toàn bộ nhóm cây lương thực có hạt (Cereals for grain) và nhóm cây củ có bột (Cereals for tuber), chủ yếu là bốn cây lương thực chính lúa, ngô, sắn, khoai lang.
Bảng sau đây chỉ ra sản lượng mỗi năm của các loại cây lương thực có hạt chính vào các năm 1961,[2] 2005 và 2008, sắp xếp theo sản lượng năm 2008[1]. Trong số này chỉ có kiều mạch và quinoa không phải thuộc họ Hòa thảo (còn gọi là giả ngũ cốc).
Một vài lại cây trồng khác cũng là quan trọng tại một số khu vực,
nhưng sản lượng toàn thế giới là rất nhỏ (và không được đưa vào thống kê
của FAO), bao gồm:
Sắn: Năm 2013 toàn thế giới có 105 nước trồng sắn (FAO 2009) với tổng diện tích 20,73 triệu ha, năng suất 13,34 tấn/ ha, sản lượng 276,72 triệu tấn. Sắn được trồng nhiều nhất tại châu Phi 14,17 triệu ha, kế đến là châu Á 4,18 triệu ha và châu Mỹ La tinh 2,35 triệu ha . Nước có sản lượng sắn nhiều nhất thế giới là Nigeria (54,00 triệu tấn), kế đến là Thái Lan (30,22 triệu tấn) và Indonesia (23,93 triệu tấn). Việt Nam đứng thứ bảy trên thế giới về sản lượng sắn (9,74 triệu tấn) với diện tích thu hoạch năm 2013 là 544,30 nghìn ha, năng suất bình quân 17,90 tấn/ha. Việt Nam là điển hình của châu Á và thế giới về tốc độ phát triển sắn, so với năm 2000, năng suất sắn là 8,36 tấn/ha và sản lượng 1,99 triệu tấn thì năm 2008 năng suất sắn đã tăng gấp đôi và sản lượng sắn đã tăng 4,72 lần. Sắn là cây lương thực-thực phẩm chính của nhiều nước châu Phi và làm thức ăn cho gia cầm, gia súc. Sắn cũng là nguyên liệu chính để chế biến cồn sinh học (bio-ethanol), rượu, tinh bột,tinh bột biến tính, xi rô, nước giải khát, bánh kẹo, bún miến, mì ăn liền, chất hồ vải, phụ gia dược phẩm, màng phủ sinh học (bioplastic). Đặc biệt, hướng chế biến cồn sinh học bằng nguyên liệu sắn lát hoặc bột sắn nghiền có lợi thế cạnh tranh rất cao vì 2,5 kg sắn lát khô (tương đương 6,0 kg sắn củ tươi)chế được một lít cồn sinh học để sử dụng làm xăng pha cồn E10.
Khoai lang: Năm 2013, toàn thế giới có 111 nước trồng khoai lang (FAO 2014) trên diện tích 8,24 triệu ha, trong đó 95% tại các nước đang phát triển, năng suất bình quân 13,44 tấn/ha, sản lượng 110,74 triệu tấn (so với năm 2005 là 123,27 triệu tấn và năm 1961 là 98,19 triệu tấn). Việt Nam có sản lượng khoai lang 1,36 triệu tấn, đứng thứ năm của toàn thế giới sau Trung Quốc (78,87 triệu tấn), Nigeria (3,40 triệu tấn), Uganda (2,58 triệu tấn) và Indonesia (2,38 triệu tấn). Khoai lang dùng làm lương thực cho người, thức ăn chăn nuôi và làm nguyên liệu chế biến tinh bột, rượu, cồn, xi rô, nước giải khát, bánh kẹo, mì, miến, phụ gia dược phẩm, màng phủ sinh học.
Khoai tây: Là cây lương thực-thực phẩm chính ở vùng ôn đới và cận nhiệt đới tại châu Âu, Bắc Mỹ, Nam Mỹ, Châu Á và châu Đại dương.
Năm loại cây lương thực chính của thế giới là ngô (Zea Mays L.), lúa nước (Oryza sativa L.),lúa mì (Triticum sp. tên khác: tiểu mạch), sắn (Manihot esculenta Crantz tên khác khoai mì) và khoai tây (Solanum tuberosum L.). Ngô, lúa gạo và lúa mì chiếm khoảng 87% sản lượng lương thực toàn cầu và khoảng 43% calori từ tất cả mọi lương thực, thực phẩm vào năm 2003.[1]
Bốn loại cây lương thực chính của Việt Nam là lúa, ngô, sắn và khoai lang (Ipomoea batatas L.).
Các loại hạt cốc khác, diện tích trồng và sản lượng ít hơn, có Đại mạch (Hordeum vulgare L.), cao lương (Sorghum, tên khác lúa miến, mộc mạch), kê (Setaria L.Beauv kê hạt vàng, kê đuôi chồn; Panicum miliaceum L. kê Nga; Pennisetum glaucum lúa miêu, kê trân châu, kê ngọc, kê Xu đăng; Eleusine coracana L. Gaertn), Hắc mạch (Secale cereale, tên khác lúa mạch đen, Tiểu hắc mạch (Triticale, Triticum x Secale, cây lai giữa tiểu mạch và hắc mạch), Yến mạch (Avena sativa), Kiều mạch (Fagopyrum esculentum Moench = Polygonum fagopyrum L., tên khác mạch hoa, mạch ba góc), Fonio, Quinoa.
Các loại cây có củ khác có khoai môn (Colocasia esculenta L. Schott, khoai sọ (Colocasia antiquorum Schott = C.esculenta L.Schott), củ mỡ (Dioscorea alata L., tên khác củ cái, khoai vạc, khoai ngọt), củ từ (Dioscorea esculenta (Lour) Burk tên khác khoai từ), dong riềng (Canna edulis Ker., tên khác khoai riềng, khoai đao), củ dong (Maranta arundinacea, tên khác dong đao, dong tây, củ bình tinh, củ trút), khoai mài (Dioscorea persimilis Prain et Burk, tên khác củ mài, hoài sơn), sắn dây (Pueraria thomsoni Benth), khoai nưa (Amorphophallus rivieri Dur.).
Ở châu Phi, chuối bột cũng được dùng làm lương thực tương tự như việc sử dụng qủa sakê (Artocarpus indisa) ở nước Nhật. Tại Ấn Độ, một số nước châu Phi và một số đảo ở Thái Bình Dương, những loại đậu đỗ ăn hạt như đậu trắng, đậu đen, đậu xanh,đậu đỏ, đậu trứng cuốc, đậu nho nhe hay thân giàu tinh bột từ một số cây như cây báng… cũng được sử dụng làm lương thực tương tự như thực phẩm ở Việt Nam.
Hạt hoặc củ của cây lương thực là thành phần chính trong khẩu phần ăn của những người dân nghèo tại nhiều nước đang phát triển. Việc tiêu thụ này ở các nước phát triển tuy ít hơn nhưng vẫn là đáng kể nhất.
Trong một số ngôn ngữ phương Tây, cây lương thực, cây "ngũ cốc" được gọi là cereal, cereali, cerealo, zerial, có nguồn gốc từ Ceres, tên gọi của vị nữ thần nông nghiệp và mùa màng của thời kỳ tiền La Mã. Nó dùng để chỉ các loài thực vật thuộc họ Hòa thảo (Poaceae) được con người gieo trồng để lấy hạt có thể ăn được (về mặt thực vật học, chúng là kiểu quả gọi là quả thóc).
Trong tiếng Việt ngày nay, cây lương thực được dùng để chỉ toàn bộ nhóm cây lương thực có hạt (Cereals for grain) và nhóm cây củ có bột (Cereals for tuber), chủ yếu là bốn cây lương thực chính lúa, ngô, sắn, khoai lang.
Sản lượng
Cây lương thực có hạtBảng sau đây chỉ ra sản lượng mỗi năm của các loại cây lương thực có hạt chính vào các năm 1961,[2] 2005 và 2008, sắp xếp theo sản lượng năm 2008[1]. Trong số này chỉ có kiều mạch và quinoa không phải thuộc họ Hòa thảo (còn gọi là giả ngũ cốc).
Cây | 2013 (Mt) | 2005 (Mt) | 1961 (Mt) | |
---|---|---|---|---|
Ngô Maize | 1.016.736.092 |
712.877.757 | 205.004.683 | Cây lương thực chính của người dân Bắc Mỹ, Nam Mỹ, châu Phi và thức ăn cho gia cầm, gia súc trên khắp thế giới. |
Lúa gạo[3] Paddy, Rice | 745.709.788 | 631.508.532 | 284.654.697 | Cây lương thực chính của khu vực nhiệt đớicận nhiệt đới ở châu Á, châu Phi, Bắc Mỹ, Nam Mỹ |
Lúa mì (Tiểu mạch)Wheat | 713.182.914 |
628.697.531 | 222.357.231 | Cây lương thực chính của khu vực ôn đới |
Đại mạch Barley | 144.755.038 | 141.334.270 | 72.411.104 | Được trồng để sản xuất mạch nha và nuôi gia cầm, gia súc tại các khu vực quá lạnh hay đất quá nghèo dinh dưỡng đối với lúa mì |
Lúa miến = Cao lương Sorghum | 61.384.559 |
59.214.205 | 40.931.625 | Cây lương thực quan trọng ở châu Á và châu Phi, sử dụng khắp thế giới để nuôi gia cầm, gia súc |
Kê Millets | 29.870.058 | 30.589.322 | 25.703.968 | Nhóm các loài cây lương thực trông tương tự nhưng khác biệt, nguồn lương thực quan trọng tại châu Á và châu Phi. |
Yến mạch Oats | 23.821.207 | 23.552.531 | 49.588.769 | Trước đây là cây lương thực chính tại Scotland và phổ biến khắp thế giới để nuôi gia cầm, gia súc |
Lúa mạch đen Rye | 16.695.636 | 15.223.162 | 35.109.990 | Quan trọng tại khu vực có khí hậu lạnh |
Tiểu hắc mạch Triticale | 14.595.262 | 13.293.233 | 0 | Cây lai ghép giữa lúa mì và lúa mạch đen, trông tương tự lúa mạch đen |
Kiều mạch Buckwheat | 2.547.014 | 2.078.299 | 2.478.596 | Được sử dụng tại châu Á và châu Âu. |
Fonio | 587.810 | 363.021 | 178.483 | Một vài thứ được trồng làm cây lương thực tại châu Phi |
Quinoa | 103.418 | 58.443 | 32.435 | Giả ngũ cốc, được gieo trồng tại khu vực Andes |
- Teff, phổ biến tại Ethiopia nhưng gần như không có ở những nơi khác. Loài cây lương thực cổ đại này là chủ yếu tại Ethiopia. Nó chứa nhiều xơ tiêu hóa và protein. Bột của nó thường được dùng để sản xuất một loại bánh mì gọi là injera. Nó cũng có thể dùng để ăn như là loại thức ăn nóng từ bột cho bữa sáng tương tự như farina với hương vị sôcôlat hay mùi vị của quả phỉ. Bột và hạt nguyên vẹn có thể được bày bán ở một vài cửa hàng lương thực trên thế giới.
- Lúa hoang, được trồng với số lượng nhỏ ở một vài nơi như Bắc Mỹ
- Hạt dền, một loại giả ngũ cốc cổ đại, trước đây là loại cây lương thực chính của đế quốc Aztec
- Kañiwa, họ hàng gần của quinoa
- Lúa mì spenta, họ hàng gần của lúa mì
- Lúa mì một hạt, một loài lúa mì với một hạt
- Lúa mì Emmer, một trong số các loài cây lương thực được gieo trồng tại khu vực Trung Đông
- Lúa mì cứng, dạng tứ bội duy nhất của lúa mì hiện nay đã được gieo trồng, được dùng để sản xuất bột hòn
Sắn: Năm 2013 toàn thế giới có 105 nước trồng sắn (FAO 2009) với tổng diện tích 20,73 triệu ha, năng suất 13,34 tấn/ ha, sản lượng 276,72 triệu tấn. Sắn được trồng nhiều nhất tại châu Phi 14,17 triệu ha, kế đến là châu Á 4,18 triệu ha và châu Mỹ La tinh 2,35 triệu ha . Nước có sản lượng sắn nhiều nhất thế giới là Nigeria (54,00 triệu tấn), kế đến là Thái Lan (30,22 triệu tấn) và Indonesia (23,93 triệu tấn). Việt Nam đứng thứ bảy trên thế giới về sản lượng sắn (9,74 triệu tấn) với diện tích thu hoạch năm 2013 là 544,30 nghìn ha, năng suất bình quân 17,90 tấn/ha. Việt Nam là điển hình của châu Á và thế giới về tốc độ phát triển sắn, so với năm 2000, năng suất sắn là 8,36 tấn/ha và sản lượng 1,99 triệu tấn thì năm 2008 năng suất sắn đã tăng gấp đôi và sản lượng sắn đã tăng 4,72 lần. Sắn là cây lương thực-thực phẩm chính của nhiều nước châu Phi và làm thức ăn cho gia cầm, gia súc. Sắn cũng là nguyên liệu chính để chế biến cồn sinh học (bio-ethanol), rượu, tinh bột,tinh bột biến tính, xi rô, nước giải khát, bánh kẹo, bún miến, mì ăn liền, chất hồ vải, phụ gia dược phẩm, màng phủ sinh học (bioplastic). Đặc biệt, hướng chế biến cồn sinh học bằng nguyên liệu sắn lát hoặc bột sắn nghiền có lợi thế cạnh tranh rất cao vì 2,5 kg sắn lát khô (tương đương 6,0 kg sắn củ tươi)chế được một lít cồn sinh học để sử dụng làm xăng pha cồn E10.
Khoai lang: Năm 2013, toàn thế giới có 111 nước trồng khoai lang (FAO 2014) trên diện tích 8,24 triệu ha, trong đó 95% tại các nước đang phát triển, năng suất bình quân 13,44 tấn/ha, sản lượng 110,74 triệu tấn (so với năm 2005 là 123,27 triệu tấn và năm 1961 là 98,19 triệu tấn). Việt Nam có sản lượng khoai lang 1,36 triệu tấn, đứng thứ năm của toàn thế giới sau Trung Quốc (78,87 triệu tấn), Nigeria (3,40 triệu tấn), Uganda (2,58 triệu tấn) và Indonesia (2,38 triệu tấn). Khoai lang dùng làm lương thực cho người, thức ăn chăn nuôi và làm nguyên liệu chế biến tinh bột, rượu, cồn, xi rô, nước giải khát, bánh kẹo, mì, miến, phụ gia dược phẩm, màng phủ sinh học.
Khoai tây: Là cây lương thực-thực phẩm chính ở vùng ôn đới và cận nhiệt đới tại châu Âu, Bắc Mỹ, Nam Mỹ, Châu Á và châu Đại dương.
Xem thêm
Liên kết ngoài
Wikimedia Commons có thêm thể loại hình ảnh và phương tiện truyền tải về Cây lương thực |
- “Home Grown Cereals Authority website”. Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2009.
- Cây Lương thực trong www.cayluongthuc.blogspot.com
- Knowledge Bank trong www.knowledgebank.irri.org/default.htm
- Thư viện nghề lúa trong www.vaas.org.vn/download/caylua/index.htm
- FoodCrops trong www.foodcrops.blogspot.com
- Dữ liệu về giá trị dinh dưỡng của hàng trăm loại cây lương thực
Ghi chú
Thể loại:
Norman Ernest Borlaug (25 tháng 3 năm 1914 – 12 tháng 9 năm 2009) là nhà nông học Mỹ, nhà nhân đạo, người đoạt giải Nobel hòa bình năm 1970. Ông được coi là cha đẻ của Cách mạng xanh.[1]. Ông là người đã nhận được đồng thời ba giải thưởng lớn (Giải Nobel Hòa bình, Huân chương Tự do của Tổng thống và Congressional Gold Medal) cùng Giải Vannevar Bush năm 2000 vì những cống hiến đặc biệt cao quý cho nhân loại.
Borlaug đã cống hiến suốt đời để cải thiện đời sống và thu nhập cho hàng trăm triệu nông dân nghèo trên toàn cầu. Ông dành nhiều thời gian cho giảng dạy, nghiên cứu, làm việc tại CIMMYT, CIANO ở Mexico, Trường đại học Texas A&M University và Trung tâm chọn tạo giống cây trồng Center for Southern Crop Improvement ở Mỹ. Ông đã thực hiện nhiều dự án giúp đẩy mạnh sản xuất lương thực của nhiều nước ở châu Phi tại Benin, Burkina Faso, Ethiopia, Ghana, Guinea, Mali, Malawi, Mozambique, Nigeria, Tanzania và Uganda, ở châu Á tại Ấn Độ, Pakistan,...; Ông là một trong những người sáng lập Giải thưởng Lương thực Thế giới (World Food Prize) và tổ chức nhiều hoạt động thiết thực khác. Đây là Cuộc cách mạng thứ hai của ông thắp sáng niềm tin yêu cuộc sống.
Trung văn giản thể: 武则天; Trung văn phồn thể: 武則天; bính âm: Wǔ Zétiān, 17 tháng 2, 625– 16 tháng 12, 705), thường được biết với tên gọi Võ Mị Nương (武媚娘), tên thật là Võ Chiếu (武曌).
Bà là nữ hoàng duy nhất trong lịch sử Trung Quốc, và để lại nhiều tranh luận về công tội giữa các nhà sử học. Bà đã trải qua các vị trí Tài nhân, Chiêu nghi, Hoàng hậu, Hoàng thái hậu, Hoàng đế, Thái thượng hoàng, nhưng cuối cùng trước khi qua đời đã quay lại với vị trí Hoàng hậu của nhà Đường. Việc bà nổi lên nắm quyền cai trị bị các nhà sử học Khổng giáo chỉ trích mạnh mẽ nhưng các nhà sử học từ sau thập kỷ 1950 đã có cái nhìn khác về bà.
Khi lên ngôi Hoàng đế bà đổi tên thành Võ Chiếu (武曌), chữ "Chiếu" trong tên bà vốn là chữ "chiếu" (照) nhưng để may mắn bà đã tự tạo chữ mới (日月当空, nhật nguyệt đương không) và là một trong những chữ trong Võ Hậu Tân tự. Bà là nữ hoàng duy nhất trong lịch sử Trung Quốc đã lập ra triều đại của riêng mình, nhà Võ Chu (周), và cai trị dưới danh hiệu Thánh Thần Hoàng Đế (聖神皇帝) từ 690 đến 705.
Võ Tắc Thiên không phải sinh ở Văn Thuỷ, bởi cha bà đảm nhận nhiều chức trách ở nhiều nơi trong suốt cuộc đời. Bà được cho là sinh ở Lợi Châu (利州) (hiện là thành phố Quảng Nguyên (廣元市), phía bắc tỉnh Tứ Xuyên, cách Văn Thủy khoảng 800 km về phía tây nam) vì có bài thơ "Lợi Châu Giang Đàm Tác" của Lý Thương Ẩn đời nhà Đường, trong đó có câu "Cảm dục kim luân sở", "Kim Luân Thánh Vương" được nhà thơ chú thích ở phía dưới là Lợi Châu, "Kim Luân Thánh Vương" tức Võ Tắc Thiên., nhưng một số nơi khác cũng được cho là nơi sinh của bà gồm cả thủ đô Trường An. Một số người khác cho rằng quê bà ở Tinh Châu (nay là Văn Thủy, tỉnh Sơn Tây).
Năm 649, Đường Thái Tông băng hà, theo luật lệ, Võ Mị Nương phải rời cung để vào chùa Cảm Nghiệp xuống tóc. Thái tử Lý Trị lên ngôi, tức là Đường Cao Tông.
Tháng 5, năm 651, Võ Mị được phong Chiêu Nghi (昭儀), việc phong Chiêu nghi được các đại thần thanh liêm đồng ý hết mình.
Năm 654, Võ Chiêu nghi sinh một con gái, nhưng đứa trẻ bị chết sau khi sinh 1 tháng. Trước khi đứa trẻ chết, Vương hoàng hậu có đến thăm nên bị nghi ngờ là nhân cơ hội hạ độc thủ tiểu công chúa (An Bình, tên thật Lý Lệnh Ngọc).
Năm 655, Vương hoàng hậu và Tiêu thục phi mời đồng cốt yếm bùa mong gian hại Võ Chiêu nghi nhưng bại lộ. Đường Cao Tông sau khi phát hiện đã phế bỏ hai người họ.
Năm 660, Đường Cao Tông bị trúng gió đột quỵ, Võ hậu liền tham gia chính sự từ phía sau rèm cùng vua, nên gọi là Nhị thánh lâm triều. Cao Tông nhất nhất đều nghe theo lời Võ hậu, tuy nhiên nhận thấy sự nguy hiểm của bà, nên đã ngầm ra lệnh cho Thượng Quan Nghi tìm cách phế truất. Việc bại lộ, Thượng Quan Nghi bị Võ hậu xử tội chết, Cao Tông cũng mất hết quyền lực, hoàn toàn phụ thuộc vào Võ hậu. Tuy nhiên Võ hậu về sau lại rất trọng dụng Thượng Quan Uyển Nhi, là cháu nội của Thượng Quan Nghi.
Thái tử Lý Trung (con của Cao Tông và một người thiếp thấp kém, Vương hoàng hậu nhận làm con) bị giáng và bị giết. Con cả của Võ hậu là Lý Hoằng (Lý Cường) được phong thái tử.
Năm 667, Cao Tông quá yếu, giao cho thái tử Lý Cường giám quốc, thực ra vẫn do Võ hậu làm chủ. Năm 674, triều đình tôn Cao Tông là Thiên hoàng, Võ hậu là Thiên hậu. Võ Tắc Thiên thích dùng tôn xưng Thiên hậu cho đến tận khi làm hoàng đế. Vì vậy, sử sách nhà Đường chép rằng: "Các quần thần tấu sự, mọi việc hoàng hậu đều thay vua quyết đinh". Vì vậy, dân chúng có câu: "Cao Tông là Thiên Hoàng, Tắc Thiên là Thiên Hậu" và gọi là "Nhị thánh" trong cung. Hai chữ "Tắc Thiên" có nghĩa: "Tắc" là phép tắc, tức pháp luật. "Thiên" là trời, tức Võ Tắc Thiên là người "thay trời hành đạo".
Lý Hoằng có thái độ bất mãn với việc mẹ mình can dự quá nhiều vào triều chính. Trong chuyến thăm hành cung ở Hà Bắc cùng cha mẹ, Lý Hoằng đột ngột qua đời. Hầu hết các sử gia thời phong kiến cho rằng ông đã bị mẹ đầu độc.
Võ hậu đưa con thứ hai là Lý Hiền lên làm thái tử. Thái tử Lý Hiền vốn có khoảng cách với Võ hậu, lại hay tỏ vẻ bất kính nên bị giáng làm thứ dân năm 684. Sau đưa con thứ ba là Lý Hiển lên thay. Lý Hiền được trở lại vị trí hoàng tử vài năm sau. Ông cố gắng hiếu thảo với mẫu thân Võ Mị Nương và Cao Tông Hoàng Đế.
Trong giai đoạn này, Võ hậu đã có nhiều chính sách chính trị đổi mới, được đánh giá cao.
Đồng thời Võ hậu cho xây dựng nhiều cung điện, lớn nhất là tòa Minh Đường cao gần ba trăm trượng, sau đổi là Vạn Tượng Thần cung. Minh Đường hoàn thành, có kẻ dâng viên đá trên có chữ "Thánh mẫu lâm nhân, Vĩnh xương đế nghiệp" nên Võ hậu đổi tôn hiệu của mình là Thánh mẫu thần hoàng.
Tháng 9 năm 690, Võ hậu lên ngôi Hoàng đế cùng với sự nhường ngôi hoàng đế của Đường Duệ Tông, đổi quốc hiệu là Chu với ý kế tục sự nghiệp nhà Chu xưa kia, quốc tính là họ Võ, tôn Chu Văn Vương làm Thủy tổ Văn hoàng đế. Giáng Đường Duệ Tông xuống làm Hoàng tử, rồi sau đó phế bỏ, lại phong cháu là Võ Thừa Tự làm Ngụy vương, Võ Tam Tư làm Lương vương.
Trước đó, Võ hậu đổi cách viết chữ Chiếu trong tên của mình thành (曌), với hình Mặt trời, Mặt Trăng trên không, để tỏ quyền tối thượng. Cùng với đó là 11 chữ khác gọi là Võ hậu tân tự
Lý thuyết chính trị Trung Quốc truyền thống không cho phép một phụ nữ được lên ngôi, Võ hậu quyết định dẹp yên chống đối và đưa các quan lại trung thành vào triều. Từ Kính Nghiệp, một viên tư mã cử binh đánh bà bị thua rồi chết. Một vài thân vương cũng đem quân chống bà, cũng bị giết.
Thời cai trị của bà để dấu ấn về sự xảo quyệt tài tình và chuyên quyền hung bạo. Dưới thời cai trị, bà lập ra tuần tra mật để đối phó với bất kỳ chống đối nào có thể nổi lên, với cái tên khét tiếng Lai Tuấn Thần, Chu Hưng, nhưng đồng thời cũng có những hiền tài như Địch Nhân Kiệt.
Khi về già, Võ hậu sủng ái hai anh em Trương Dịch Chi và Trương Xương Tông là hai kẻ bất tài nhưng đẹp trai, khiến triều đình rất bất bình. Tháng 10 năm 695, sau nhiều lần thêm chữ, tên của bà được đổi thành Thiên Sách Kim Luân Thánh Thần Hoàng Đế, làm lễ phong thiền ở Tung sơn.
Võ hậu phân vân khi chọn người truyền ngôi, giữa con ruột họ Lý và cháu ruột họ Võ. Cuối cùng với sự khuyên giải của Địch Nhân Kiệt, bà quyết định lập Lý Hiển làm thái tử. Tuy nhiên bà bắt các con thề độc rằng không được làm hại họ Võ (dù vậy cuối cùng họ Võ vẫn bị tiêu diệt bởi người cháu nội của bà là Lý Long Cơ).
Bà được chôn tại Càn Lăng, cùng chỗ với Đường Cao Tông. Bia mộ của bà là một tấm bia để trống hoàn toàn (Vô tự bi), với ý là để đời sau phán xét.
Càn Lăng đã ít nhất 17 lần bị âm mưu đục phá, trong đó có 3 lần nghiêm trọng nhất. Lần đầu trong loạn Hoàng Sào, có tới 40 vạn binh sĩ đào bới mé tây đồi Lương Sơn, vạt hẳn một nửa quả đồi. Lần thứ 2 do Ôn Thao, tiết độ sứ tại Diệu Châu thời Ngũ Đại Thập Quốc, kẻ trước đó đã đào trộm 17 ngôi hoàng lăng nhà Đường. Lần thứ 3 do quân Quốc Dân đảng của Tôn Liên Trọng thời Trung Hoa Dân quốc, đã dùng cả thuốc nổ để phá. Nhưng cả 3 lần đều không thành, và Càn Lăng vẫn nguyên vẹn cho tới ngày nay, trở thành di tích khảo cổ và tham quan quý báu. Về điểm này, Võ hậu và chồng đã may mắn hơn những vị hoàng đế nổi tiếng khác, khi mà Mậu Lăng của Hán Vũ Đế, Chiêu Lăng của Đường Thái Tông... đã bị phá sạch trong thời chiến loạn.
Đầu tháng 5/2008, khi các nhà khảo cổ Trung Quốc khai quật mộ Võ Tắc Thiên tại Huyện Càn cách 80 km về phía Tây Bắc thành phố Tây An, tỉnh Thiểm Tây, Trung Quốc, họ đã tìm được hơn 500 tấn văn vật trong mộ. Việc tìm ra mộ phần và các cổ vật trong mộ Võ Tắc Thiên đã giúp các nhà sử học xác định được nhiều thông tin xung quanh thân thế, sự nghiệp của vị nữ hoàng này. Các nhà khảo cổ phát hiện thấy Đường Cao Tông Lý Trị và Võ Tắc Thiên cùng hợp táng ở tầng ngầm sâu cuối cùng của lăng mộ. Khu lăng tẩm này có ba cửa Đông, Bắc, Tây. Ba cửa này có kết cấu giống nhau, đều có các đài tế lễ trước cửa cung điện, có hành lang đặt vũ khí gươm giáo và cửa cung điện. Tại cửa phía Bắc, các nhà khảo cổ phát hiện thấy rất nhiều ngựa đá, hổ đá, tảng đá trạm trổ điêu khắc, trong đó hổ đá đặc trưng của đời Đường vẫn còn nguyên vẹn. Khu lăng tẩm có quy mô rất lớn với những bức tường bao quanh được xây theo hình vuông rất vững chắc, mỗi cạnh có chiều dài tới 380 mét vuông.
Viện trưởng danh dự Viện nghiên cứu khảo cổ tỉnh Thiểm Tây - ông Thạch Hưng Bang cho biết, qua những văn vật khai quật được trong mộ cho thấy, thời kỳ Đường Cao Tông và Võ Tắc Thiên trị vì là thời kỳ hưng thịnh nhất của triều đại nhà Đường. Khi Đường Cao Tông chết, giá trị của vật tùy táng quí báu chôn theo vua chiếm tới 1/3 quốc khố. Hơn 20 năm sau, khi Võ Tắc Thiên qua đời, triều đình cũng chôn theo số báu vật trị giá tới 1/3 quốc khố trong mộ bà.[1]
Nhiều người đời sau coi Võ hậu là điển hình của sự độc ác, khi mà vì quyền lực, Võ hậu sẵn sàng hạ thủ người thân, thậm chí ngay cả với con ruột mình. Nhìn vào các sự kiện trong cuộc đời bà theo ám chỉ trong văn chương có thể mang lại nhiều ý nghĩa: một phụ nữ đã vượt qua những giới hạn của mình một cách không thích hợp, thái độ đạo đức giả khi thuyết giáo về lòng trắc ẩn, trong khi cùng lúc ấy lại tiến hành mô hình tham nhũng và hành xử một cách xấu xa, tàn nhẫn ngay cả với người thân và cai trị bằng cách điều khiển từ phía sau hậu trường.
Tuy nhiên, trong triều cũng có nhiều người ủng hộ bà, vì phục bà minh sát, quyết đoán đúng, có tài trị nước. Trong số đó có cả những đại thần hiền năng, được trọng vọng như Lâu Sử Đức, Địch Nhân Kiệt, Tống Cảnh; và bà biết tin dùng những người đó, nên việc chính không rối loạn, dân chúng vẫn yên ổn làm ăn, coi những vụ lộn xộn ở triều chỉ là việc riêng của họ Lí. Khi đọc bài Hịch dẹp Võ Chiếu, trong đó Lạc Tân Vương mạt sát bà thậm tệ, bà đã không giận, còn khen Lạc là có tài và trách viên tể tướng đã không biết thu phục. Về sau, bà bị truất ngôi nhưng không bị giết mà chỉ bị giam trong cung rồi chết vì già yếu, như vậy đủ biết triều thần không quá oán hận bà.[2]
Truyền thuyết cho rằng khi sinh đứa con đầu lòng là con gái, Võ Chiêu nghi rất không vui, dù Đường Cao Tông thì rất yêu quý. Một ngày khi Vương hoàng hậu (không có con) vì muốn làm lành và cũng yêu trẻ nhỏ đến thăm đứa bé. Khi hoàng hậu ra về, Võ Chiêu nghi đã bóp mũi chết đứa con của mình. Khi Đường Cao Tông vào thăm công chúa nhỏ, thấy nó đã chết, vô cùng giận dữ tra hỏi cung nữ, thì thấy bảo chỉ có mỗi hoàng hậu là người vào thăm. Do đó Cao Tông cho rằng hoàng hậu giết con mình vì ganh ghét.
Võ hậu cũng bị kết tội đã đầu độc chết con trai cả là thái tử Lý Cường vào năm 675 vì thái tử tỏ ý chống lại việc mình can dự vào triều chính (dù có giả thuyết khác là thái tử đã qua đời tự nhiên vì lao phổi). Dù sao, Võ hậu chắc chắn có liên quan đến vụ việc thứ ba: ra lệnh ép người con thứ hai là thái tử Lý Hiền phải tự tử vào năm 684.
Vì lý do này mà người đời sau coi Võ hậu là điển hình của sự độc ác, khi mà đến cả "Hổ dữ cũng không ăn thịt con", trong khi Võ hậu thì sẵn sàng hạ thủ ngay cả với con ruột mình.
Võ Hậu sợ mèo vì đã giết chết con mèo mà bà từng yêu quý nhất. Nhưng nó đã phản bội bà đi theo Vương Hoàng Hậu khi bà bị bắt vào lãnh cung. Do đó, bà thẳng tay giết nó và luôn luôn bị ám ảnh bởi tiếng mèo kêu, đêm đêm thấy hình ảnh con mèo hiện về trong giấc ngủ.[3]
Trận Leipzig hay còn có tên gọi khác là Trận Liên Quốc gia[1] diễn ra từ ngày 16 tháng 10 cho đến ngày 19 tháng 10 năm 1813, là một trận đánh lớn trong những cuộc chiến tranh của Napoléon giữa một bên là Liên minh thứ sáu bao gồm Nga, Phổ, Áo và Thụy Điển do Đại tướng Barklay-de-Tolli, Bá tước von Bennigsen, Công tước Schwarzenberg, Thái tử Karl Johan và Thống chế Gebhard von Blücher chỉ huy, và một bên là Quân đội Đế chế Pháp do đích thân Hoàng đế Napoléon Bonaparte chỉ huy. Lực lượng của Napoléon còn bao gồm các binh sĩ đến từ Ba Lan, Ý, và những đồng minh Đức trong Liên minh sông Rhine. Với hơn 60 vạn quân lính của khoảng 10 quốc gia tham chiến, đây được xem là trận đánh có quy mô lớn nhất trước Chiến tranh thế giới thứ nhất.[8][9]
Diễn ra trong vòng ba ngày, trận đấu đước mở đầu bằng các cuộc giao tranh vào ngày 16 tháng 10 khi Napoléon đã không thể giáng một đòn quyết định vào đối phương.[10][11] Và, ngày 17 tháng 10 thì yên tĩnh hơn. Tuy nhiên, trong ngày hôm ấy liên quân có thêm được viện binh của Bá tước Bennigsen và Thái tử Karl Johan - góp phần dẫn đến thắng lợi quyết định của họ.[2] Sang hôm sau (ngày 18 tháng 10 năm 1813), các tướng lĩnh quân đồng minh là Schwarzenberg, Karl Johan và Blücher đã vây được đại quân của Napoléon, và những cuộc giao chiến hết sức đẫm máu đã khiến cho cả hai phe đều hứng chịu thiệt hại nặng nề, cuối cùng quân Pháp đại bại và bị đánh lui vào thành phố. Quân Phổ tiên phong chọc thủng hàng ngũ quân Pháp.[12][13] Napoléon không những thất thế mà lại còn phải hứng chịu thiệt hại nặng nề. Thua tan tác, Napoléon phải rút quân vào ngày 19 tháng 10 năm 1813. Quân Phổ thừa thắng đột phá vào Leipzig trong khi quân Thụy Điển cũng đánh bật quân Pháp. Chiến thắng quyết định của phe Liên minh đã bẻ gãy chiến dịch cuối cùng của ông tại Đức.[1][14][15] Do bị áp đảo về quân số, Napoléon dù đã dựa vào nội tuyến để chống lại quân đồng minh vốn thiếu hợp tác và đố kỵ nhau, vẫn bị đại bại.[16] Trên đường rút quân, ông còn gặp tai ương khi một viên Hạ sĩ được lệnh đánh sập cầu để chặn đứng Liên quân lại hành động lúc quân Pháp còn kẹt lại, làm cho quân Pháp chịu thêm nhiều thiệt hại thê thảm nữa.[13][17] Trận Leipzig đẫm máu được xem là thất bại nặng nề nhất của Napoléon[18] và là một quả đắng tiếp tục thể hiện hạn chế của tài nghệ của ông kể từ sau trận Borodino diễn ra năm 1812.[16] Tuy rút được quân ra khỏi sông Rhein, quân đội Pháp đã bị rệu rã và chiến thắng bước ngoặt này của các nước phong kiến châu Âu đã định đoạt cho tương lai của cả châu lục.[3][13]
Chiến thắng vẻ vang của quân Liên minh tại Leipzig được xem là đại họa của nước Pháp dưới thời Napoléon, báo hiệu sự mất ngai vàng của ông lần đầu.[4][10][19] Để giành thắng lợi trong trận đánh này, quân đội Liên minh thứ sáu đã phải chịu nhiều hy sinh, tuy nhiên tổn thất bên phía quân Pháp nhiều hơn cả đối phương. Với sức chiến đấu hiệu quả của mình, lực lượng Quân đội Phổ, sau một quá trình cải cách lâu dài, đã giành lại được vinh quang nức tiếng kể từ sau thảm bại trong trận Jena hồi năm 1806.[20][21] Trong trận ác chiến này thì xứ Sachsen chuyển từ phe Đế chế Pháp sang Liên minh - một sự kiện khiến quân Pháp choáng ngập[10], góp phần đem lại thảm họa cho Napoléon. Chiến thắng quyết định tại trận Leipzig là sự tiếp nối cho chiến thắng của nước Nga trong cuộc cuộc Chiến tranh Vệ quốc chống quân xâm lược Napoléon hồi năm 1812,[22] và diễn ra đúng lúc quân Anh cũng đang dần tiến vào nước Pháp. Với thắng lợi quyết định này, phe Liên minh đã phá vỡ đế quốc của ông tại Đức và Ba Lan.[13] Quân Liên minh thừa thắng đã tiến công thẳng vào chính quốc Pháp và cuối cùng dẫn đến sự thất bại hoàn toàn của Napoléon buộc ông phải thoái vị vô điều kiện vào mùa xuân năm 1814.[17][23]
Bấy giờ Napoléon cũng tái xây dựng quân đội của mình.[13] Vị Hoàng đế cố gắng khôi phục lại quyền kiểm soát của mình ở Đức và ông giành được hai chiến thắng khó nhọc trước liên quân Nga - Phổ tại Lützen ngày 2 tháng 5 và Bautzen vào ngày 20-21 tháng 5. Hai chiến thắng này đưa tới một sự đình chiến tạm thời. Vào ngày 26 tháng 6, Bộ trưởng Ngoại giao của Áo là Franz Georg Karl von Metternich (cũng là một trong những nhân vật quan trọng trong việc thành lập Liên minh thứ sáu) tới gặp Napoléon ở Dresden để thương lượng cho một hòa ước lâu dài hơn. Metternich đòi hỏi Napoléon phải buông bỏ hầu hết các lãnh thổ ở bên ngoài biên giới tự nhiên của Pháp, và cuộc đàm phán không đi đến kết quả.[28]
Vị Tham mưu trưởng 46 tuổi của quân đội Áo là Radetzky đã lập sẵn kế hoạch dự bị, đồng thời tổng động viên được tới 37.000 quân tinh nhuệ.[29] Sau khi hòa ước ngắn ngủi kết thúc, Napoléon giành được thắng lợi lớn trong trận Dresden vào ngày 27 tháng 8. Từ sau thời điểm này, quân Liên minh, dưới quyền chỉ huy tối cao của Đại tướng Nga là Mikhail Bogdanovich Barklay-de-Tolli và những sự chỉ huy riêng rẽ của Gebhard Leberecht von Blücher, Thái tử Karl Johan của Thụy Điển, Karl Philipp zu Schwarzenberg, và Bá tước Bennigsen của Nga, đã làm theo chiến lược được vạch ra trong Kế hoạch Trachenberg của Radetzky[30] là tránh đụng độ trực tiếp với Napoléon mà tấn công các thống chế của ông. Chiến lược này giúp họ chiến thắng trong các trận đánh ở Großbeeren, Kulm, Katzbach và Dennewitz.
Những chiến thắng của quân Liên minh đã lật ngược ý nghĩa của những thắng lợi ban đầu của Napoléon, đưa ông vào tình thế nguy kịch.[10][31] Trong khi ấy, Napoléon cho rằng quân Pháp phải đóng cứ thật đông tại kinh thành Dresden để hộ vệ cho vua chư hầu xứ Sachsen.[13] Thống chế Pháp Nicolas Oudinot với 6 vạn quân sĩ đã thất bại ở Großbeeren và không thể đánh chiếm được kinh thành Berlin. Napoléon vì vậy phải rút về phía tây, do sự uy hiếp từ phía bắc. Sau khi Napoléon cử Ney thế chức Oudinot ở phía bắc, từ bên kia sông Elbe quân Ney không chặn nổi quân Thụy Điển do Thái tử Bernadotte chỉ huy và thua trận Dennewitz.[17][31] Napoléon vượt sông Elbe vào cuối tháng 9, vốn đã có ý định từ bỏ nước Đức,[31] nhưng ông không thể triệt thoái khỏi chiến trường mà để cho quân ông bị các lực lượng không chính quy và quân Cozak đánh phá, chưa kể là mọi quân đội của đối phương vốn đều nguyên vẹn và sẵn sàng chiến đấu.[32] Sau đó, ông tập hợp lực lượng ở Leipzig để bảo vệ con đường tiếp vận và chạm trán với quân Liên minh. Ông triển khai quân đội xung quanh thành phố, nhưng lấy trong tâm từ Taucha đến Stötteritz, nơi ông trực tiếp chỉ huy. Lúc này thì quân Phổ tiến đánh từ Wartenburg, quân Áo và quân Nga tiến đánh từ Dresden, còn quân Thụy Điển từ phía bắc kéo tới. Đối đầu với một khối Liên minh quá ư là hùng mạnh,[4] Napoléon không thể xuất binh đánh bại từng đối phương một của ông.[10] Trong khi đó, Nga hoàng Aleksandr I đã giành lại được một số quyền chủ động về ngoại giao từ tay người Áo, trong khi vua Friedrich Wilhelm III nước Phổ vẫn là "đồng minh trung thành" của Nga. Nhà vua nước Phổ cho rằng chính ông cứ thân cận với Đế quốc Nga như thế thì ắt hẳn là thanh danh của nước Phổ sẽ gia tăng tại Đức, bất chấp Đế quốc Áo.[31] Ngoài ra, những thắng lợi tại Großbeeren, Katzbach, Dennewitz,… nêu trên đã khiến cho nước Phổ bình đẳng với Áo trong khối Liên minh.[32]
Vào ngày 6 tháng 10 năm 1813, theo thỏa thuận với Bộ trưởng Ngoại giao Metternich của Áo,[30] xứ Bayern chuyển qua khối Liên minh để bảo vệ nền độc lập của mình. Đến đây, Liên minh sông Rhine chư hầu của Napoléon bắt đầu tan rã.[10] Trong lúc ấy, Napoléon hãy còn phân vân trước tình thế và cho đến ngày 14 tháng 10 năm 1813 thì ông mới hay tin từ vua xứ Württemberg là xứ Bayern rời bỏ ông.[30]
Quân đội Pháp La Grande Armée dưới sự chỉ huy của Napoléon phần lớn đều chủ quan, hầu hết binh lính đều mới tuyển,[13] còn trẻ và còn thiếu kinh nghiệm cộng với sự thiếu hụt về lực lượng kỵ binh do bị thiệt hại nặng nề trong chiến dịch xâm lược Nga năm 1812.[28] Không có nhiều kỵ binh, vấn đề trinh sát đối phương trở nên khó khăn với quân Pháp.[28] Trước đó, Napoleon đã tuyển thêm tân binh để chuẩn bị cho chiến dịch tiếp chống lại phe Liên minh thứ sáu vừa mới được thành lập và đội quân này đóng tại Đức. Tuy giành thắng lợi tại Lützen và Bautzen, quân đội Grande Armee đã tiếp tục suy yếu sau khi gặp thất bại trong một số trận đánh do các thống chế của Napoleon dẫn đầu trong khi các chỉ huy phe liên minh lại thực hiện theo sát kế hoạch Trachenberg được đề ra.
Ngay từ khi đại bại trong trận Austerlitz, Vương công Karl đã canh tân quân đội Áo. Năm 1808, Áo thành lập lượng dân quân gồm 240.000 người, họ cũng bắt chước Napoléon tổ chức quân đội theo kiểu quân đoàn. Nhờ thế nên quân Áo đã giáng cho quân Pháp một trận thua nhục nhã ở Aspern-Essling năm 1809. Còn Phổ, sau một loạt những thất bại vào năm 1806, một loạt những cải cách có hiệu quả đã thay đổi toàn diện quân đội Phổ. Gerhard von Scharnhorst, người lãnh đạo cuộc cách tân đã viết: "Tựa những đảng viên Jacobins, chúng ta sẽ chiến thắng khi biết khơi dậy tinh thần nhân dân".[33] Sau đó nhà cầm quyền Phổ ra sắc lệnh giải phóng, hủy bỏ chế độ nông nô. Họ cũng đào tạo được một lớp sĩ quan trẻ, có học thức, thuộc mọi tầng lớp chứ không chỉ mỗi lớp quý tộc. Schanhorst cũng đã đặt nền tảng cho một ban tham mưu mà sau này đã giúp cho Phổ đạt được nhiều chiến thắng. Giới hạn 42,000 quân do Napoléon ấn định cho nước Phổ đã được các sĩ quan Phổ tránh né bằng cách huấn luyện và tổ chức các đoàn tân binh nhờ đó vào năm 1813, nước Phổ đã có hơn 150,000 binh lính sẵn sàng chiến đấu.
Quân Liên minh, dưới sự chỉ huy tối cao của Sa hoàng Aleksandr I nhà Romanov, Thống chế Nga Barklay-de-Tolli là chỉ huy trưởng của quân đội, quân đội Nga-Áo dưới sự chỉ huy của Công tước Schawarzenberg, quân đội Nga-Phổ dược sự chỉ huy của Gebhard von Blücher, quân Ba Lan của Nga dưới sự chỉ huy của Levin August von Benningsen và quân đội Thụy Điển-Nga-Phổ dưới sự chỉ huy của Jean-Baptiste Bernadotte.
Thêm vào đó, binh lính còn đến từ các nước đồng minh của Pháp. Binh lính phần nhiều đến từ Ý và Napoli, và họ trở thành một trong những phần quan trọng trong quân đội đế chế Pháp. Tuy vậy không phải chiến dịch nào họ cũng tham gia vì còn phải bảo vệ đất Ý trước những kẻ thù như Áo. Và nguồn nhân lực có sẵn đáng tin cậy xuất phát từ Liên bang sông Rhein, một liên bang tập hợp rất nhiều chư hầu Đức dưới sự bảo hộ của Hoàng đế Napoléon. Vào đầu năm 1813, đã có khoảng 25.000 người Đức tham gia vào quân đội Pháp và con số này tăng lên đến 75.000 trong thời gian mùa hè. Con số này bao gồm 25.000 người Bayern chiến đấu cho quân Pháp, nhưng khác với các đội quân khác trong liên bang, dưới sự chỉ huy của riêng mình. Họ đổi phe ngay trước khi trận Leipzig diễn ra. Hơn nữa còn có khoảng 16.000 người Ba Lan chiến đấu dưới sự chỉ huy của Pháp, và Đan Mạch cũng góp thêm 10.500 người để trợ chiến cho Pháp. Phần lớn những đội quân này trở thành có sẵn trong suốt thời gian diễn ra các thỏa thuận ngừng bắn sau đó.
Quân lực Pháp giữa tháng 8 năm 1813
Tướng Friedrich Graf Kleist von Nollendorf của Phổ tiến quân dọc sông Pleisse và tấn công các thống chế bên Pháp là Poniatowski và Augereau ở làng Markkleeberg. Họ sửa lại một cây cầu và chiếm một trường học cùng một thái ấp. Quân Pháp phản công đẩy lui quân Áo ra khỏi trường trở lại sông. Đợt tấn công của Pháp vào thái ấp thì lại khiến họ gặp nhiều tổn thất. Sư đoàn 14 của Nga bắt đầu thọc sườn để đẩy lui quân Ba Lan khỏi Markkleeberg. Tướng Poniatowski tới ngăn cuộc rút lui này và chặn đứng quân Nga. Sau đó ông tấn công một bộ phận quân Phổ đang ở vị trí trống trải trước khi lực lượng Khinh Kỵ binh Nga giải cứu họ. Poniatowski chiếm lại được Markkleeberg, nhưng rồi lại bị quân đội Phổ đẩy lui. Lính ném lựu đạn Áo tập hợp ở Markkleeberg và tấn công thọc sườn để đánh bật quân Pháp và Ba Lan khỏi vùng này.[34]
Lúc 8 sáng, cuộc tấn công bắt đầu với việc Công tước Eugene tiến quân đến Wachau nhưng lại bị nhiều khóm quân nhỏ lẻ đánh chặn. Nỗ lực để thoát ra khỏi ngôi làng bị dừng lại do gặp phải hỏa lực của pháo binh Pháp. Wachau rơi vào tay Pháp một lần nữa vào lúc 9 giờ 30. Cuộc đấu pháo giữa hai bên được mở vào lúc 8 giờ sáng, khi mà 31 khẩu pháo của quân đồng minh khai hỏa và lúc 11 giờ trưa chỉ còn có 9 đại pháo bên quân đồng minh còn hoạt động.[37] Vào lúc này quân Đồng minh tổ chức một cuộc tấn công về phía ngôi làng, dồn quân Pháp vào đúng tầm bắn của họ. Tuy nhiên, trong đợt tấn công này, liên quân thiệt hại quá nhiều. Quân Pháp cố gắng phản công và tràn qua Wachau nhưng không thể tiến thêm nữa vì quân Phổ và Nga đã tham gia và chặn đánh phía trước mặt.[38] Không những thế, Józef Poniatowski còn bị tướng Kleist của Áo nhử ra giao chiến ngay giữa con đường cái. Tuy nhiên Kleist bị buộc phải rút lui để đảm bảo lực lượng vì vị trí của ông lúc 11 giờ rất quan trọng. Vào lúc này, Klenau vẫn chưa tham gia vào hàng của mình, nên Gortschakow phải dùng pháo binh của mình để chống lại quân của Jacques Lauriston. Bộ binh Nga được đặt ở phía sau pháo binh, tuy nhiên nhiên họ phải chịu đựng nhiều cuộc pháo kích từ khẩu đội pháo của Pháp được đặt trên đồi Gallows.[39] Klenau bắt đầu tấn công lúc 10 giờ. Kolmberg, một điểm lý tưởng, đối diện với người Pháp để Klenau có thể phân chia quân lực. Liebertwolkwitz bị chiếm đóng bởi một nhóm quân nhỏ của Pháp, họ di chuyển ra khắp làng ngoại trừ nhà thờ để phòng thủ trước quân Áo. Sau một hồi giao chiến, đợt phản công của quân Áo bị đẩy lui.[40]
Tình hình vào lúc 11 giờ càng trở nên gay cấn. Những lợi ích ban đầu đã được đẩy lùi và rõ ràng rằng đội Pháp đang tiến gần, Wittgenstein không thể mong chờ nhiều sự giúp đỡ ngày hôm đó.[41] Napoleon đã đến thăm doanh trại chính của Joachim Murat tại Galgenberg lúc 9 giờ và được thông báo về tình hình chiến sự. Tiếp đó, Napoléon hạ lệnh cho thống chế ông dẫn 10.000 kỵ binh xông lên, đánh vào ngay lỗ hổng trong hàng ngũ đối phương vừa được tạo ra giữa Wachau và đồi Gallows. Murat cho tiến quân theo các đội hình dọc và đẩy lui được những lực lượng đầu tiên mà ông giáp mặt. Sa hoàng Alexander phản ứng với tình hình này bằng cách cam kết đưa quân đoàn Rajewski cũng như cận vệ Nga-Phổ tham chiến. Hơn nữa Schwarzenberg đã được lệnh di chuyển quân của mình từ bờ trái sang bờ phải sông Pleisse. Tuy nhiên, đội quân dưới quyền của tướng Merveldt không gặp may như Schwarzenberg vì cây cầu Connewitz đã bị chặn và được bảo vệ rất tốt.[42] Thành công duy nhất của ông là chiếm đóng một Thái ấp tại Dölitz.[43]
Liên quân chống Pháp đã đánh cho đối phương thiệt hại nặng. Poniatowski phải mất đến 1/3 quân sĩ của ông ta, Augereau thì tới một nửa. Ở hàng ngũ của Martmont, Dombrowski, Bertrand và Macdonald bắt đầu rạn nứt. Tiếp tế thì quá chậm.[50] Quân đội Phổ đã giành thắng lợi, và Napoléon không chỉ bị đánh bật về phía tây bắc[32] mà còn thất bại trong việc đánh một trận quyết định vào ngày hôm ấy, dù ban đầu quân của ông đánh thắng quân đội Áo song lại bị quân đội Phổ đánh bật[31]. Mặc dù tình hình vẫn còn chưa phân thắng bại[32], đêm ngày 16 tháng 10 năm 1813, ông phải gửi thư xin hòa cho Hoàng đế Franz I nước Áo. Điều này cho thấy ông đã bắt đầu nhận thấy chiến bại của mình. Cùng thời điểm ấy, sự kiểm soát của Napoléon đối với các chư hầu Đức bắt đầu buông lỏng: ông hay tin 3 vạn lính Bayern dưới quyền ông đã đào ngũ, và dự định sẽ phá rối đường tiếp tế của ông với chính quốc.[17][32]
Theo nhà sử học người Úc là Christopher M. Clark, hai bên đều tổn thất nặng nề trong ngày đầu tiên: phía Pháp mất gần 25.000 quân còn phe Liên minh mất 3 vạn quân.[32]
Phía Pháp chỉ nhận thêm 14 nghìn viện binh, một con số ít ỏi nếu so với 145.000 viện binh của liên quân, bao gồm cả những lực lượng được chỉ huy bởi tướng Nga von Bennigsen và Thái tử Thụy Điển Karl Johan (trước kia từng phục vụ cho Napoléon với danh hiệu Thống chế Bernadotte). Nếu như Karl Johan đến sớm hơn thì rất có thể là mặt trận phía bắc của quân Pháp với binh lực ít ỏi đã bị đánh tan nát trong ngày hôm qua.[47]
Đêm ngày 17 tháng 10 năm 1813, Hoàng đế Napoléon phải rút ngắn mặt trận của ông ta bằng việc cho rút quân về vị trí gần Leipzig. Ông ta cho bố trí như sau: Trong quân cánh phải do Murat chỉ huy, Quân đoàn Poniatowski, Augereau và Victor được triển khai từ Connewitz về Probstheida, được lực lượng Cận vệ và quân chủ lực Kỵ binh hỗ trợ. Trung quân dưới quyền Macdonald - Quân đoàn số XI được triển khai từ Zuckelhausen thông qua Holzhausen tới Steinberg và được yểm trợ bởi Lauriston và Sebastiani. Quân cánh trái dưới quyền Ney - ở trong và xung quanh Paunsdorf gồm có Sư đoàn Sachsen, Sư đoàn Durutte và Quân đoàn Marmont được yểm trợ bởi Souham và vài binh sĩ của Quân đoàn Kỵ binh Arrighi. Tại Leipzig - có Sư đoàn Dombrowski, lực lượng đồn trú Leipzig, Sư đoàn Kỵ binh Lorge. Tại Lindenau - hai Sư đoàn Tân Cận vệ do Mortier cầm đầu. Do những tổn thất ê chề của quân Pháp trong suốt hai ngày, Napoléon còn có 16 vạn quân sĩ và 630 khẩu đại bác.[50]
Mặt trời bắt đầu mọc lên. Lúc 9 giờ sáng, các đội hình cũng nhau hành binh. Napoléon yêu cầu thương thuyết nhưng họ quyết không khoan nhượng với kẻ thù. Song, quân Pháp vẫn ngoan cố kháng cự khi phải đối đầu với lực lượng hùng hậu của Liên minh thứ sáu.[50] Trong hơn chín giờ giao tranh, cả hai bên đều bị thiệt hại nặng nề, quân Pháp ngăn chặn được những cuộc đột phá xuyên thủng hàng ngũ họ, nhưng cũng dần dần bị đẩy lui về phía Leipzig. Điều đó khẳng định với Napoléon rằng ông ta đã không thể đánh bại đối phương trong một cuộc chiến tranh tiêu hao.[51] Liên minh thứ sáu có Thống chế Phổ Blücher và Thái tử Thụy Điển ở phía bắc, các tướng Nga là Barcklay-de-Tolli và Bennigsen cùng Vương công Áo von Hessen-Homburg ở phía nam, và tướng Áo Ignaz Gyulai ở phía tây. Đây sẽ là cái ngày quyết định đến chiến thắng lớn lao của Liên minh thứ sáu.[50]
Lữ đoàn 9 của Phổ chiếm đóng ngôi làng Wachau bỏ hoang, trong lúc quân Áo, cùng một đội quân người Hungary của tướng Bianchi, đánh bật quân Pháo khỏi Lößnig. Người Áo tiếp tục triển khai chiến thuật theo kiểu kết hợp các đơn vị: kỵ binh Áo tấn công bộ binh Pháp để bộ binh Áo có thời gian tới và triển khai tấn công Dölitz. Sư đoàn Tân Cận vệ của Pháp đã đẩy lui họ. Vào lúc này thì ba tiểu đoàn lính ném lựu đạn của Áo bắt đầu giành giật làng với pháo binh yểm trợ.
Trong cùng lúc này, theo yêu cầu của các sĩ quan Thụy Điển, vốn cảm thấy xấu hổ về việc đã không đến kịp để chiến đấu trong ngày hôm qua, Thái tử ra lệnh cho bộ binh nhẹ của họ tham gia vào cuộc tấn công cuối cùng trong ngày, vào chính Leipzig. Những người lính Thụy Điển chiến đấu rất tốt và chỉ mất có 121 hoặc là 200[52] người trong trận đánh này. Thực sự, Bernadotte luôn rất lo lắng sợ Napoléon sẽ tiến chiếm kinh kỳ Berlin cùng với đường rút quân của chính ông, cho dù nhiều nhà phê bình chỉ trích rằng ông đến chậm và sẽ không đến nếu không có lời đe dọa là nước Anh sẽ cắt viện trợ cho ông. Đánh giá sử học về vai trò của Bernadotte vẫn còn là điều gây tranh cãi.[30]
Trong cuộc chiến, 5.400 người lính Sachsen thuộc quân đoàn VII của Pháp bỏ qua phe liên quân. Quân Pháp choáng váng. Quân Sachsen nổ súng nhằm thẳng vào quân Pháp, và mặc dù quân Pháp đánh bật được họ, điều này chẳng còn có ý nghĩa gì nữa.[10] Một trong những người chứng kiến cảnh này là Thống chế MacDonald qua ống nhòm của ông và ông mô tả họ đã bắn gục những đồng đội tận trung trước kia của họ với thái độ "kinh tởm và máu lạnh".[32] Các binh sĩ Baden của Napoléon thừa thế cũng đào ngũ và chạy qua phe Liên minh.[30] Những nỗ lực tuyệt vọng của Ney nhằm củng cố trận tuyến và phản công bị Tiểu đoàn hỏa tiễn Anh đập tan, và hỏa tiễn Congreve của họ đã gây thảm họa cho các đội hình quân Pháp đang tiến bước.[32] Sau khi thất bại nặng nề trong cuộc tàn sát đẫm máu tại Leipzig, Napoléon biết rằng thất bại là điều không thể tránh khỏi và cho rút quân qua sông Elster vào đêm 18-19 tháng 10. Nguồn tiếp tế của ông đã bị suy sụp và quân sĩ ông cũng uể oải và vô cùng hỗn loạn đến mức bản thân ông cũng bị kéo đi giữa một mớ tàn binh.[9][10][13][53] Tuy thất bại của quân Pháp đã được quyết định nhưng trận đánh vẫn chưa kết thúc.[32] Liên quân không hay biết về cuộc rút lui của quân Pháp cho đến 7 giờ sáng, và sau đó họ bị cầm chân bởi đạo quân chặn hậu dũng mãnh của tướng Oudinot. Một Tiểu đoàn Dân binh Đông Phổ do Friccius chỉ huy đã lập nên chiến công đột phá vào Leipzig. Một đợt phản kích của quân Pháp đã gần như là giành thắng lợi, nhưng quân Thụy Điển đã đập tan cuộc phản kích này.[54] Cuộc rút lui diễn ra êm thắm cho đến khi xảy ra sự cố ở cây cầu bắc qua sông Elster. Viên hạ sĩ có nhiệm vụ đánh sập cầu để chặn đường truy đuổi của liên quân đã tính toán sai thời gian. Nhìn thấy quân Cozak kéo đến, ông ta đánh sập cầu vào lúc 1 giờ chiều, khi trên cầu vẫn còn nhiều quân Pháp và quân chặn hậu của Oudinot vẫn còn kẹt lại ở Leipzig. Hàng ngàn lính Pháp đã chết đuối và hàng ngàn bị bắt sống. Theo Clark thì trong số quân Pháp mắc kẹt này có những người bị dồn lại và giết chết, và theo Sked thì tổng số quân Pháp bị kẹt là 5 vạn người Do sự cố này, tướng Ba Lan là Poniatowski đã bị chết đuối dưới sông. Vụ nổ làm chấn động cả thành phố.[30][32][55]
Trong suốt những ngày quyết chiến, những thây tử sĩ chất đầy thành phố Leipzig, gây cho cả thành phố một cảm giác thật là rùng rợn.[56] Sau trận huyết chiến này, người ta đối xử rất phi nhân tính với thi hài các tử sĩ. Ghê rợn nhất, họ bị tước bỏ sạch y phục và vũ khí, và bị chôn trong một ngôi mộ tập thể.[57] Các xe goòng trong chiến trận cũng bị cướp bóc.[58] Một thầy thuốc có tên tuổi ở kinh đô Berlin là Johann Christian Reil đã viết thư cho Bá tước Vom Stein, trong đó ông ghi nhận:[59]
Vào ngày 20 tháng 10 năm 1813, nhà triết học Wilhelm von Humboldt cũng phải gửi thư cho vợ ông, kể về cảnh tượng kinh hoàng sau trận chiến:[56]
Điều này nêu ra cho thấy các đoàn quân đương thời hãy còn rất man rợ.[60]
Những thương binh đều được đưa vào các Trường học, Bệnh viện và Thánh
đường, mà thị dân khó thể cứu chữa được họ. Như thường thấy, các binh sĩ
trong chiến tranh luôn hứng chịu tổn thất kinh hoàng trước dịch bệnh.
Trên khắp các đường phố đầy người của Leipzig, một cơn sốt phát ban đã
làm cho các thương binh đều tắt thở và các quân y cũng bị lây nhiễm.[56]
Sau chiến thắng, Nga hoàng Aleksandr I và vua Friedrich Wilhelm III của
Phổ đã hội kiến với Thái tử Thụy Điển, Bennigsen, Blücher và Gneisenau.
Niềm vui thắng trận đã khiến cho họ quên đi mọi ý định truy kích.[54] Tại Khu Thương trường Nhờ chiến công hiển hách của tướng Blücher, Friedrich Wilhelm III đã vinh danh ông:[61]
Kết thúc thắng lợi cuộc Chiến tranh Giải phóng Đức, đây được xem là
trận đánh quan trọng nhất thời kỳ Napoléon, cùng với trận đánh nổi tiếng
tại Waterloo gắn liền với sự thất bại triệt để của ông.[12][19] Thảm bại Leipzig của Napoléon được xem là trận thắng lớn đầu tiên của phe Đồng minh,[63] là sự nối tiếp của chiến thắng bằng cái giá đắt của ông trong trận Borodino (1812) nói riêng và thất bại của ông trong cuộc xâm lược nước Nga nói chung, thể hiện những hạn chế của tài năng của ông.[16][22] Thất bại nặng nề này trở nên một bước ngoặt của Vương triều nhà Bonaparte trong lịch sử Pháp, và cũng là một điểm ngoặt trong lịch sử thế giới[14][19].
Thương vong của cả hai bên đều cao đến đáng ngạc nhiên; tổng cộng
khoảng 8 vạn đến 11 vạn người chết và bị thương. Napoléon mất 38.000
quân do tử trận hoặc bị thương. Liên quân cũng bắt giữ 15.000 quân còn
khỏe mạnh, 21.000 quân bị thương hoặc bệnh tật, thu về 325 súng đại bác
và 28 cờ hiệu. Ngoài ra họ còn thu nạp thêm số quân Sachsen, như đã nói ở
trên. Józef Antoni Poniatowski, vị thống chế mới được phong chức ngày
hôm qua, và cũng là cháu của vị vua Ba Lan cuối cùng là Stanisław August Poniatowski,
bị chết đuối khi vượt sông. Mất Poniatowski chính là sự mất mát đau đớn
nhất của Napoléon trong trận thảm bại này. Poniatowski bản chất vốn
nồng nhiệt trung thành với ông, là đại diện cho lòng yêu mến của người
Ba Lan đối với vị Hoàng đế nước Pháp.[10]
Hai tướng chỉ huy quân đoàn của Pháp là Lauriston và Reynier bị bắt
sống. 15 tướng Pháp tử trận và 51 người bị thương. Chưa kể, Hoàng đế
Pháp cũng phải từ bỏ đến hơn 300 hỏa pháo, cùng với phần lớn phương tiện
vận tải và tiếp tế của ông.[56] Thiệt hại nặng nề của hai phe trong trận chiến tại Leipzig đã chứng tỏ sự quay trở về của chiến tranh tiêu hao
trong các trận đánh của Napoléon. Trong vòng 14 ngày sau trận chiến
này, Blücher đã không ngừng truy kích địch thủ và bắt được hàng nghìn tù
binh;[64]
những mất mát dọc đường của đoàn quân rệu rã trong cuộc tháo chạy về
hướng Tây khiến Napoléon chỉ còn có 6 vạn quân khi về tới kinh đô Paris.[3][47][65][66][67]
Chính vụ nổ cầu khi quân Pháp tháo chạy sau cuộc bại trận tại Leipzig
là một trong những nguyên nhân mang lại tổn thất kinh hoàng cho họ trong
cuộc chiến này.[24]
Đối với nước Pháp, trận thảm bại tại Leipzig có nhẽ là ghê gớm hơn tất
cả mọi thảm kịch khác của ông dưới sự thống trị của Napoléon, với tính
chất quyết định và báo hiệu cho sự mất ngôi lần thứ nhất của Napoléon.[4][10][67] Trong suốt cả sự nghiệp chinh chiến của mình, vị Hoàng đế nước Pháp chưa bao giờ bị thua một trận cay đắng như thế.[16]
Trận Leipzig được xem là một cơn bão đạn thật sự: Pháo binh Pháp đã nã đến 20 vạn phát pháo và quân Đồng minh cũng đáp trả họ từng phát đạn một.[63] Quân Đồng minh đã áp dụng chiến thuật của Napoléon: họ tập trung hỏa lực vào một khu vực trọng yếu để ngăn ngừa cuộc tàn sát của đối phương.[65] Sau thắng lợi lớn tại Leipzig, do có công về mặt ngoại giao nên Metternich được Triều đình Áo phong làm Vương tước, và ban tặng Đại Thập tự của Huy chương Maria Theresia. Nhờ ông, xứ Bayern đã rời bỏ Napoléon.[30] Quân sĩ Áo cũng đóng vai trò hệ trọng cho chiến thắng nổi bật của khối Liên minh trong trận đánh Leipzig này.[19][29] Trong toàn thể lực lượng đồng minh, quân Kỵ binh đã góp phần không nhỏ với chiến thắng oanh liệt tại Leipzig, làm tiêu tan ước vọng chiến thắng cuối cùng của Đế chế Pháp.[68]
Với thắng lợi này, khối Liên minh đã xua tan cái vết chiến bại tại trận Dresden vừa qua.[29] Trận đánh này có số lượng tổn thất lớn hơn tất cả những trận chiến trước đó.[69] Phe Liên quân mất mát khoảng 54.000 binh lính trên tổng số 362.000 quân. Binh đoàn của Schwarzenberg tổn thất 34.000 binh lính, Binh đoàn của Blücher tổn thất 12.000 binh lính, còn Binh đoàn của Thái tử Thụy Điển và Bennigsen đều mất 4.000 quân sĩ. Trong số các liệt sĩ này có cả một cảnh sát chuyên cần là Friedrich Wagner, anh đã hy sinh để lại người vợ góa và một đứa con mới sáu tháng tuổi tên là Richard.[56] Bản thân Tham mưu trưởng Radetzky của Áo (khi ấy đã 46 tuổi[70]) cũng bị thương.[30] Trên cương vị là Tham mưu trưởng của Schwarzenberg, ông được xem là có đóng góp xuất sắc[71], tham gia lập kế hoạch góp phần không nhỏ đến đại thắng của quân Đồng minh trong trận Leipzig.[72] Đây được xem là chiến tích đỉnh cao của ông và nâng cao tiếng tăm của vị tướng này.[73][74] Kế hoạch Trachenberg trước đó của ông cũng được xem là thúc đẩy sự giải phóng nước Đức khỏi tay Napoléon sau trận Leipzig.[70] Sau trận chiến này, Franz I đã dự đoán rằng một ngày nào đó Radetzky sẽ được ban tặng Đại Thập tự của Huy chương Maria Theresia, và quả nhiên, vào ngày 30 tháng 7 năm 1848, do thắng lợi của ông trong cuộc Chiến tranh giành độc lập Ý lần thứ nhất, tiên đoán ấy đã thành hiện thực.[75] Đến cả Tướng August Neidhardt von Gneisenau của Phổ - Tham mưu trưởng của Blücher trong trận đánh này[76] - là người nổi tiếng lạnh lùng, mà cũng phải rơi nước mắt khi ông cùng Đại úy Stosch dạo trên bãi chiến trường Möckern (nơi Yorck chiếm lĩnh vào ngày 16 tháng 10) vào ngày 19 tháng 10 năm 1813 - gần như là dạo trên những thi thể liệt sỹ của Binh đoàn Silesia. Khuôn mặt ông trở nên trịnh trọng, và nói: "Chiến thắng được mua với máu của người Đức trở thành cái giá rất đắt, cái giá hết sức là đắt". Do có công trong chiến dịch Leipzig, Gneisenau được phong làm Bá tước.[77] Con số thiệt hại của liên quân cũng không phải là nhỏ, chưa kể 5.000 quân Liên minh còn đào ngũ sang phe Pháp trong trận chiến, nhưng chiến thắng của họ thực sự là có ý nghĩa quan trọng.[56] Vả lại, việc bù đắp lại không khó khăn mấy cho họ, xét tới khả năng kinh tế và nhân lực của Liên minh ở thời điểm đó. Về thất bại thê lương[78] của Napoléon ở Leipzig, chính ông cho rằng nếu phía Pháp có thêm 3 vạn pháo binh thì họ sẽ giành chiến thắng.[79] George Nafziger trong cuốn Napoleon at Leipzig cho rằng cả hai phía đều không tác chiến một cách hoàn hảo, nhưng Napoléon thất bại vì đã không có phương án để chủ động tấn công từng đạo quân riêng rẽ trong liên quân, mà co cụm lại phòng thủ ở Leipzig.[80] Với thất bại hoàn toàn của ông trong việc tấn công từng đối phương một, cuộc bại trận ở Leipzig đã ghi dấu sự sa ngã của ông với tư cách là một chủ tướng.[24] Theo Hofschröer, đây là một thất bại chiến thuật có thể được coi là "vô đối", là thất bại mang tính hủy diệt hơn cả[18] trong sự nghiệp của Napoléon. Thua tan nát, nỗi nhục thất bại được thể hiện ngay trên mặt của Napoléon trên đường rút quân, báo hiệu cho sự sụp đổ hoàn toàn của nền Đế chế thứ nhất Pháp.[17][66] Hình ảnh một Napoléon bất khả chiến bại đã hoàn toàn tan biến.[9]
Đây được xem là trận đánh lớn nhất trong suốt các cuộc chiến tranh của Napoléon[66] và cả thế kỷ 19, với số lượng dân tộc tham gia đông đảo. Quy mô của nó còn to lớn hơn cả những trận đánh đẫm máu trong cuộc Nội chiến Hoa Kỳ.[1] Thậm chí, đây có thể được xem là cuộc giao tranh đẫm máu nhất trong lịch sử châu Âu nói riêng và lịch sử nhân loại nói chung cho đến thời điểm đó. Dù chưa thể chấm dứt các cuộc chiến tranh của ông,[32] trận Leipzig được xem như chiến thắng có ý nghĩa quyết định trong việc buộc Napoléon rời bỏ ngai vàng. Nhà lý luận quân sự người Anh John Frederick Charles Fuller cho rằng tên gọi "Trận Liên Quốc Gia" là hợp lý vì sau trận chiến Leipzig, một châu Âu mới đã được hình thành.[81] Dù vậy, theo tác giả A. J. P. Taylor trong cuốn The Course of German History thì trận đánh giải phóng nước Đức không phải là của các quốc gia mà là của các lực lượng quân đội nhà nghề và lính nghĩa vụ.[82] Chiến thắng lừng lẫy này đã đi vào huyền thoại trong cuộc Chiến tranh Giải phóng Đức.[56] Bất chấp những khó khăn của họ,[21] các Binh đoàn Phổ được xem là có công lao to lớn cho thắng lợi lớn và đã thể hiện rõ rệt sự thiện chiến của mình, cùng với lòng yêu nước dân trào của dân tộc Đức[17]. Đại thắng Leipzig còn được xem là thành quả của quá trình canh tân quân lực Phổ trong suốt thời gian từ sau năm 1806 cho tới năm 1813, trong khi thắng lợi quan trọng này cũng tạo điều kiện cho Phổ chiếm được một lãnh thổ rộng lớn của Sachsen, khiến cho Leipzig bỗng dưng trở thành nơi biên cương.[20][83] Chính quân đội dưới quyền Thống chế Blücher đã tiên phong chọc thủng hàng ngũ đối phương trong cái ngày quyết định của chiến thắng vang dội.[12] Đối với ông, trận thắng ở Leipzig là một trong những niềm vinh hạnh to tát hơn cả của ông.[61] Đại thắng này, kết hợp với chiến thắng sông Katzbach trước đó, đã lấy lại vinh dự cho lực lượng Quân đội Phổ, kể từ khi họ bị quân xâm lăng Pháp đánh bại trong trận Jena và trận Auerstädt vào năm 1806, đồng thời đã đi vào ký ức về những thắng lợi quân sự vốn gắn liền với nước Phổ[20][84]. Bản thân vị tướng thắng trận Blücher cũng được xem là một bậc công thần hàng đầu của cuộc cải cách quân đội Phổ.[85] Sự kiên cường mạnh mẽ của ông không những đã đem lại cho ông chiến thắng ở trận Leipzig, mà còn ở trận La Rothière và trận Laon[86]. Đồng thời, các quân đội thắng trận Leipzig khác là Nga và Áo cũng đã từng được canh tân ở một mức độ thấp hơn.[23] Theo ghi nhận của Charles Esdaile, "Tại Jena và Auerstadt quân đội Phổ đã chiến đấu khá tốt, nhưng hầu như không thể hiện sự hào hùng. Tại Leipzig và Waterloo, ngược lại, người ta nói rằng một cảnh tượng khác hoàn toàn đã hiện lên."[21] Giờ đây, các nhà yêu nước Đức đã trở nên mãnh liệt hơn, mừng rỡ hân hoan chiến thắng đã đánh đuổi kẻ thù xâm lược ra khỏi quê cha đất tổ, và thậm chí còn khát khao mãnh liệt, ao ước ngày nước Đức được thống nhất.[69][87] Nước Đức đã được giải phóng toàn vẹn, chủ nghĩa yêu nước truyền thống của dân tộc Đức hòa quyện với chủ nghĩa dân tộc mới mẻ. Tại kinh thành Berlin, nhiều nhà ái quốc Phổ đã chuyển mình thành nhà dân tộc chủ nghĩa.[88] Quân đội Phổ, vốn đã đóng vai trò quyết định cho chiến thắng to lớn tại trận Leipzig này cùng với số phận của Napoléon, sẽ tiếp tục giữ vai trò tương tự cho chiến thắng của khối Liên minh thứ bảy vào năm 1815 trong trận Waterloo[89][90]. Nhờ có hai thắng lợi này, tại Đức, nước Phổ sáp nhập vùng ven sông Rhine, Westfalen và Posen, qua đó thanh toán ba nước chư hầu của Napoléon và trở thành "tên sen đầm của miền Bắc Đức".[63] Trận Leipzig đẫm máu được xem là thắng lợi quyết định nhất của cuộc chiến, cũng như là một trong những trận đánh quan trọng nhất trong lịch sử thế giới[51].[3]. Ngoài ra, theo nhà sử học quân sự Hoa Kỳ là Robert Michael Citino, chiến thắng Leipzig là "trận hợp vây" (Kesselschlacht) đầu tiên trong lịch sử quân sự Đức.[91]
Không những chiến thắng bước ngoặt của quân đồng minh trong trận đánh Leipzig đã đánh đổ đế chế của Napoléon tại Đức mà còn tại Ba Lan[13]. Liên quân ở thời điểm đó tuy đông đảo, nhưng vẫn có những sự bất đồng trong nội bộ giữa các nước với nhau. Nếu Napoléon Bonaparte có thể đại thắng họ như ở trận Austerlitz thì cũng không loại trừ khả năng Liên minh sẽ tan rã.[28] Trước kia, Napoléon đã thắng nhiều cuộc chiến trước các nước có binh lực đông đảo hơn, nhưng giờ đây, ông đã bại trận.[16] Vì vậy tuy trận đánh này không có tính chất quyết định bằng trận Waterloo vào năm 1815, nhưng có thể xem là nó còn trọng đại hơn cả chiến thắng của liên quân Anh - Phổ - Hà Lan tại Waterloo.[51] Theo tác giả Peter Hofschroer, thảm họa Leipzig của ông thực sự đã quyết định cho tình hình châu Âu lục địa trong vòng một thế kỷ sau đó, mà thảm bại ở trận Waterloo chỉ là sự củng cố.[92] Thực chất chính Napoléon trong giai đoạn đầu của trận Leipzig đã dựa vào lợi thế nội tuyến để chiến đấu, trong khi các đường ngoại tuyến khiến cho quân đồng minh vốn hay đố kỵ nhau, khó thể liên hợp với nhau mà tác chiến. Thế nhưng, quân số đông đảo của họ đã đè bẹp quân Pháp tại trận Leipzig, tạo nên quả đắng rất lớn giành cho Napoléon.[16][87] Ngoài ra, có thể thấy dù là một tướng giỏi nhưng khi tập trung 18 vạn người tại Leipzig, Hoàng đế Pháp đã không thể kiểm soát một quân số đông đảo như thế.[93] Khi Napoléon lần đầu tiên bước chân vào nghị viện sau khi trở về, ông đã thốt lên rằng: "Một năm trước cả châu Âu đều hành quân cùng chúng ta, giờ thì cả châu Âu đều hành quân chống lại chúng ta."[94] Dù cho Napoléon đã tổ chức thành công cuộc triệt thoái khỏi nước Đức, thất bại này đã chấm dứt sự hiện diện của nền Đế chế thứ nhất Pháp ở bờ đông sông Rhine, đặt dấu chấm hết cho sự bá quyền của tại châu Âu.[13][56] Và, chiến thắng vẻ vang này còn khiến các quốc gia tại Đức gia nhập vào Liên minh. Không những Napoléon vừa mới đại bại tại Leipzig mà quân đội Anh vừa mới giành thắng lợi trong cuộc chiến tranh tại bán đảo Iberia cũng bắt đầu tiến công miền Nam nước Pháp.[4][82] Jérôme Bonaparte - vua xứ Westfalen do Napoléon lập nên, cũng phải theo chân đoàn quân tàn tạ của ông mà bỏ chạy.[14] Không lâu sau khi liên quân Nga - Áo - Phổ đại thắng tại trận đánh Leipzig, xứ Holland cũng thừa cơ mà giành lại độc lập khỏi Pháp vào tháng 11 năm 1813.[26] Trong khi ba ngày chiến đấu tại Leipzig đã quyết định thất bại của Napoléon tại Đức, các đồn bót của quân Pháp tại Đức cũng sẽ nhanh chóng ra đầu hàng trong thời gian sau đó.[30] Dưới quyền Schwarzenberg, khối Liên minh tận dụng cơ hội này và tấn công mãnh liệt vào chính quốc Pháp trong năm 1814. Kể từ sau đại bại năm 1813, Nhà nước Pháp suy sụp, trong khi chí khí của người Pháp thì bị sụt giảm trầm trọng.[24][95] Napoléon giờ đây đã hoàn toàn lui về thế thủ và số phận của ông đã được quyết định[14][96]. Sau khi quân Pháp bị đánh bại trong trận Paris,[51] Napoléon buộc phải thoái vị và bị lưu đày tới đảo Elba.
Ông mong muốn được thể hiện lòng tự hào dân tộc Đức vinh quang thông
qua đài kỷ niệm tráng lệ ấy. Cùng năm ấy còn có ông Friedrich
Weinbrenner, vốn từng thiết kế những công trình kỷ niệm nền Cộng hòa Pháp
và Napoléon, giờ đây cũng đề nghị dựng xây một công trình tưởng niệm
nhằm tôn vinh trận chiến Leipzig. Đó sẽ là một đài kỷ niệm dân tộc thật
hùng vĩ, và cả dân tộc sẽ quây quần lại cứ mỗi ngày lễ kỷ niệm đại thắng
tại Leipzig. Tuy ước vọng cao cả này đã không thể trở thành hiện thực,
những đặc điểm chính của nó sau này sẽ được ông Bruno Schmidt áp dụng để
thiết kế. Vào năm 1863,
cả dân tộc Đức tiến hành lễ kỷ niệm 50 năm ngày đại thắng, và đại biểu
của 240 thành phố đã bắt đầu đặt viên đá đầu tiên cho đài tưởng niệm
chiến thắng/[69] Ngày kỷ niệm 50 năm chiến thắng Leipzig cùng với ngày kỷ niệm 50 năm chiến thắng Waterloo đã trở thành những dịp để người Đức thể hiện lòng tự hào dân tộc của mình.[97]
Tuy nhiên, quá trình thi công thì diễn ra chậm trễ hơn, một trong những
lý do là vì thắng lợi to lớn của nước Phổ và các đồng minh Đức trong
cuộc Chiến tranh Pháp-Phổ (1870 - 1871) đã khiến cho chiến thắng Leipzig bị quên lãng đi bớt.[69]
Ngoài đài kỷ niệm này, khắp thành phố Leipzig cũng có xấp xỉ 125 đài
tưởng niệm nhỏ hơn, hoặc là bia kỷ niệm cho chiến thắng tại Leipzig,
phần lớn đều được xây dựng nhân ngày lễ kỷ niệm 50 năm đại thắng Leipzig
vào năm 1863.[98]
Gioan Phaolô II (hay Gioan Phaolô Đệ Nhị, Latinh: Ioannes Paulus II; tên sinh ; 18 tháng 5 năm 1920 – 2 tháng 4 năm 2005) là vị giáo hoàng thứ 264 của Giáo hội Công giáo Rôma và là người lãnh đạo tối cao của Vatican kể từ ngày 16 tháng 10 năm 1978. Cho đến khi qua đời, triều đại của ông đã kéo dài hơn 26 năm và trở thành triều đại Giáo hoàng dài thứ hai trong lịch sử hiện đại, sau triều đại dài 32 năm của Giáo hoàng Piô IX. Cho đến hiện tại, ông là vị Giáo hoàng duy nhất người Ba Lan và là Giáo hoàng đầu tiên không phải người Ý trong gần 500 năm, kể từ Giáo hoàng Ađrianô VI năm 1520.[1] Ông được tạp chí TIME bình chọn là một trong bốn người có ảnh hưởng lớn nhất thế kỷ 20.[2] và cả những năm đầu thế kỷ 21.
Trong triều đại của mình, Giáo hoàng Gioan Phaolô II không ngừng mở rộng ảnh hưởng của Giáo hội Công giáo trong Thế giới thứ ba. Ông đã thực hiện rất nhiều chuyến tông du hơn 129 quốc gia,[3] ông có thể nói được hơn 10 ngôn ngữ (ngoài tiếng Ba Lan còn có tiếng Ý, tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Tây Ban Nha, tiếng Nga và một chút tiếng Việt[4][5].
Trong suốt triều đại của mình, ông đã lên tiếng phản đối chiến tranh và kêu gọi hòa bình, phản đối chủ nghĩa phát xít, chủ nghĩa cộng sản, chế độ độc tài, chủ nghĩa duy vật, các phương pháp phá thai, thuyết tương đối, chủ nghĩa tư bản và cách thức chết êm dịu. Ông cũng được coi là một trong những nguồn lực dẫn đến sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản ở Ba Lan và Đông Âu[1][2][3][6][7][8][9][10].
Ông là vị Giáo hoàng đầu tiên công khai xin lỗi về những lỗi lầm của Giáo hội trong quá khứ; tổng cộng hơn 100 lần về những hành động sai trái của Giáo hội Công giáo[11][12][13][14] trong đó có sự kiện xưng thú 7 tội của Giáo hội trước đám đông tại quảng trường thánh Phêrô vào ngày 12 tháng 3 năm 2000[15]. Ông cũng là vị Giáo hoàng đầu tiên đứng ra hòa giải với Chính thống giáo Đông phương[1] và Do Thái giáo,[1][10][16]; Anh giáo.[1][17]; là vị Giáo hoàng đầu tiên đứng ra tổ chức cuộc gặp gỡ với các lãnh đạo của các tôn giáo khác như Phật giáo, Khổng giáo, Chính thống giáo Đông phương, Do Thái giáo, Cao Đài và Hồi giáo; là vị Giáo hoàng đầu tiên đến thăm một ngôi đền Hồi giáo ở Syria; là vị Giáo hoàng đầu tiên tổ chức ra Ngày Giới trẻ Thế giới hằng năm; và cũng là vị Giáo hoàng đầu tiên đến thăm vùng Thánh Địa Jerusalem[18]. Gioan Phaolô II cũng đã lên tiếng thừa nhận vai trò của thuyết Tiến hóa[19], thuyết Nhật tâm[20], nguồn gốc thế giới theo quan điểm khoa học ngày nay[21], phủ nhận sự hiện hữu của một thiên đường vật chất trên các tầng mây và một địa ngục vật chất nơi con người bị thiêu đốt như trong Thánh kinh miêu tả[22]
Gioan Phaolô II đã được Giáo hoàng Biển Đức XVI phong là Đấng đáng kính ngày 19 tháng 12 năm 2009[23] và phong chân phước ngày 1 tháng 5 năm 2011.[24] Ông được Giáo hoàng Phanxicô tuyên thánh vào ngày 27 tháng 4 năm 2014. Vì ông là người sáng lập ra Đại hội Giới trẻ Thế giới nên ông được chọn là một trong những vị quan thầy bảo trợ cho ba kỳ Đại hội Giới trẻ Thế giới liên tiếp là Sydney 2008[25], Madrid 2011 và Rio de Janeiro 2013.
Trong trường tiều học dành cho trẻ em trai ở Wadowice, ông tỏ ra là một học sinh xuất sắc. Trong phiếu báo điểm đầu tiên, cậu được các điểm "rất tốt" về tôn giáo, hành vẽ, vẽ, hát, trò chơi, thể dục và "tốt" trong tất cả các môn còn lại. Ông rất thích thể thao, là thủ môn cho đội tuyển nhà trường. Ông được rước lễ lần đầu lúc 9 tuổi, được lãnh bí tích thêm sức lúc 17 tuổi. Mẹ ông qua đời ngày 13 tháng 4 năm 1929, lúc ông mới 9 tuổi. Giấy chứng tử của bà ghi bà bị sung huyết tim và thận.[28].
Ở tuổi 11, Karol vào học trường trung học dành cho nam sinh của Wadowice. Cũng trong năm đó, ông trở thành một chú bé phụ lễ và có mối quan hệ gần gũi với linh mục Kazimiers Figlewicz. Ngày 5 tháng 12 năm 1932 anh ông là Edmund qua đời khi đang chăm sóc những người bị bệnh dịch. Sau này, trong một giây phút giãi bày tâm sự hiếm hoi, Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã kể lại với tác giả người Pháp André Frossard: "cái chết của anh tôi có thể đã tác động tới tôi sâu sắc hơn cái chết của mẹ, do những hoàn cảnh riêng biệt, tất nhiên là đau thương và do tôi đã lớn hơn"[29].
Trong thời gian này ông cũng đã đến với sân khấu. Nhiều trong số các vở kịch được diễn trên sân khấu của trường trung học là do Karol Wojtyla đạo diễn. Những vở kịch này thường đề cập tới những chủ đề yêu nước[30]. Karol cũng thích khiêu vũ, ông có thể khiêu vũ thoải mái với các điệu pôlône, maduka, van, tănggô. Vào cuối những năm trung học, ông đã quen biết với Mieczyslaw Kotlarczyk - một nhà trí thức, người đã sáng lập Nhà hát Đại học nghiệp dư ở Wadowice. Ngày 6 tháng 5 năm 1938, tổng Giám mục địa phận Kraków, Adam Sapieha đến Wadowice để chủ tọa buổi lễ xác nhận trước khi tốt nghiệp. Ấn tượng trước cậu học sinh Karol, Giám mục đã hỏi cậu sẽ vào trường dòng chứ? Những Karol đã trả lời rằng: "con sẽ nghiên cứu văn học Ba Lan và triết học"[31].
Sau khi học xong trung học tại Wadowice, Cha ông đưa ông đến Kraków vào tháng 8 năm 1938 khi ông 18 tuổi. Ở đó ông ghi danh vào Đại học Kraków giống như ông anh Edmund. Karol Wojtyła nhanh chóng thích ứng với 1 chương trình rất nặng tại trường đại học bao gồm các môn: từ vựng và ngữ âm Ba Lan, Văn học trung cổ Ba Lan, Kịch Ba Lan thế kỷ XVIII và thi ca đương đại. Ông đã trở thành một sinh viên triết lý và văn chương rất xuất săc, vừa đồng thời theo học thêm ngành kịch nghệ. Wojtyła nhanh chóng kết bạn với một loạt các thi sĩ và kịch gia. Ông thường lui tới ngôi nhà của gia đình Szkoci - một nhà âm nhạc cừ khôi[32].
Ông được huấn luyện quân sự ở Hermanice năm 1935. Vào tháng Bảy 1939, các sinh viên Ba Lan và Ukraine phải vào trung tâm huấn luyện quân sự ở Ozomla, gần Sadowa Wiszna[33]. Vào ngày 1/9/1939 khi Đức tấn công Ba Lan mở màn cho Chiến tranh thế giới lần thứ hai, hai cha con Wojtyła quyết định rời khỏi Kraków. Hai người cuốc bộ đi về phía đông tới vùng núi Tarmobrzeg, cách Kraków 120 dặm thì nhận được tin Nga chuẩn bị xâm nhập phía đông Ba Lan. Hai cha con quyết định quay trở lại Kraków [34].
Vào mùa Đông năm 1939, Tyranowski đã mời ông tham gia tổ chức Living Rosary - một tổ chức hoạt động tôn giáo rất bí mật. Wojtyła gặp Tyranowski một tuần một lần. Dưới sự chỉ đạo của Tyranowski, ông lao vào những thực hành huyền bí [35]. Wojtyła đã học cách điều chỉnh cuộc sống hàng ngày một cách chính xác cho công việc cũng như cho các hoạt động tôn giáo của mình. Chính cách làm việc này đã ảnh hưởng rất nhiều tới ông sau này. Trong thời gian này, ông cũng viết cùng một lúc ba vở kịch: David, Job và Jeremiah bảy tỏ những suy nghĩ, tính huyền bí của sự hi sinh và sự khát khao về một sự giải phóng dân tộc mới [36].
Bất kỳ ai không có một việc làm thường xuyên được nhà chức trách Đức xác nhận đều có nguy cơ bị đưa sang Đức. Chính vì lý do đó, tháng 10/1940 ông đã làm việc lao động chân tay trong một nhà máy hóa học ở Solvay ở ngoại ô Kraków. Đây là những kinh nghiệm cho những quan điểm và thái độ với phong trào công nhân và nhân dân lao động sau này. Ông chỉ phải lao động nặng trong vài tháng còn sau đó đã chuyển sang lao động nhẹ hơn. Thậm chí có thể kiếm được một chân văn phòng thế nhưng để đảm bảo an toàn và không gây chú ý ông đã từ chối [37].
Ngày 18/2/1941, cha ông Wojtyla sau một trận ốm nặng đã qua đời. Sau khi những nghi thức cuối cùng dành cho người qua đời đã được cử hành, ông đã thức suốt đêm để canh thi hài cho cha và suy nghĩ về tương lai và nghề nghiệp của mình. Ông đã nói với tác giả André Frossard: "ở tuổi 20, tôi đã mất tất cả những người mà tôi yêu quý, và thậm chí cả những người mà có thể tôi đã yêu quý". Đầu năm 1941, theo lời giới thiệu của vị giáo sư tiếng Pháp cũ của ông, các quản đốc ở Solvay trao cho ông công việc kế toán ở mỏ đá và theo dõi số chất nổ được dùng để phá đá.
Lúc nhỏ tuổi ông có tiếp xúc nhiều lần với nhóm người Do Thái tại Kraków. Trong thời Đức quốc xã chiếm Ba Lan trong Chiến tranh thế giới thứ hai, rất nhiều bạn bè Do thái của Karol Józef Wojtyła đã bị giết hay bị trục xuất. Tuy nhiên thái độ của Wojtyla với những hành động này là "cầu nguyện". Ông nói rằng: "Hãy nhớ rằng, chúng ta có bổn phận cầu chúa ban cho họ đủ sức mạnh chịu đựng tất cả những thứ này" [38]. Ông không bao giờ tham gia vào bất kỳ một sự kháng cự nào chống lại Đức quốc xã hay vào những hoạt động nhằm giải cứu người Do Thái.[39].
Trong những lúc rảnh rỗi, ông đã dành thời gian say mê điện ảnh. Cùng với những người bạn trong đó có Mieczyslaw Katlarczyk, ông đã sáng lập nên nhà hát Rhapsodic, tiền thân của đoàn kịch nghệ quốc gia Ba Lan. Nhưng họ phải hoạt động một cách bí mật vì nếu bị lính Đức quốc xã phát hiện họ sẽ có thể bị giết hay trục xuất. Mặc dù vậy trong khoảng thời gian từ 1941 - 1945, nhà hát đã trình diễn được 22 buổi và Wojtyła đã tỏ ra là một diễn viên xuất sắc[40].
Vào mùa thu năm 1942, sau một cuộc thảo luận dài với cha giải tội Figlewicz, Wojtyla đến nhà riêng tổng Giám mục Sapieha và trình bày ước nguyện trở thành tu sĩ với vị Giám mục. Trước đó, ông đã tới tu viện khổ hạnh dòng Carmeline ở Czerna với hy vọng được vào đây nhưng tu viện này đã bị quốc xã đóng cửa[42]. Mặc dù những người bạn đã cố gắng thuyết phục ông đừng rời bỏ sự nghiệp sân khấu, nhưng ông vẫn quyết định theo con đường mình đã chọn.
Ông bắt đầu lén lút học những môn của Chủng viện Kraków, do Hồng y Adam Stefan Sapieha, lúc đó là Tổng Giám mục Kraków, điều khiển[43]. Mỗi người được trao cho một vị giáo sư. Các lớp học được tổ chức ở nhà tu, nhà thờ và ở nhà riêng. Những chủng sinh này được yêu cầu không để những người quen biết về việc học tập của họ và bản thân những người này vẫn duy trì một nếp sống bên ngoài như bình thường. Trong thời gian này, ông đã đọc cuốn: Luận về sự hiến dâng hoàn toàn cho Đức mẹ đồng trinh của St Louis Grignion de Montfort, Lý thuyết tự nhiên của Kazimierz Wars. Ngày 6 tháng 8 năm 1944, "Ngày Chủ Nhật đen" hơn 8000 người đàn ông và các cậu bé đã bị quân đội phát xít bắt giam, rất may mắn Wojtyla đã không nằm trong số đó. Sau sự kiện này, ông vào ẩn trú trong dinh tổng Giám mục và không tiếp tục làm việc tại Solvay nữa. Ngày 13 tháng 11, ông chịu lễ xuống tóc - một nghi lễ từ thời trung cổ để biểu tượng hóa sự khuất phục trước Chúa.
Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Karol Wojtyla trở về phân khoa Thần học của Ðại học Jagiellonia vừa được mở cửa lại. Tại đây, ông đã được bầu làm phó chủ tịch hội sinh viên. Trong thời gian này, ông đã tập trung vào việc hoàn tất các chương trình nghiên cứu của năm 3 và năm 4. Từ tháng 4 năm 1945 cho tới tháng 8 năm 1946, ông cũng làm việc ở cương vị phụ giáo.
Karol Wojtyla cũng đệ đơn xin gia nhập tu viện Czera của dòng Carmelite đã được mở của trở lại. Tuy nhiên, tổng Giám mục Sapieha đã kiên quyết từ chối việc cho phép Wojtyla gia nhập dòng tu. Sau này, ông còn cố thử gia nhập dòng này một lần nữa vào năm 1948 nhưng vẫn bị vị tổng Giám mục từ chối[44].
Sau khi hoàn tất học trình tiến sĩ trong thời gian du học ở Roma, tháng 7 năm 1948, Karol Wojtyla được hồng y Sapieha bổ nhiệm làm linh mục phụ tá Niegowic, một giáo xứ hẻo lánh thuộc vùng quê Galicia, cách Kraków 30 dặm[45].Mỗi buổi sáng, Wojtyla thức giấc lúc 5 giờ, dâng Thánh Lễ, điểm tâm rồi dùng xe ngựa di chuyển một vòng qua các khu trong giáo xứ, hướng dẫn giáo lý cho thiếu nhi và cử hành Thánh Lễ tại một khu xóm. Sau đó, ông trở về nhà xứ ăn trưa, tiếp khách hoặc đi thăm viếng giáo dân. Những buổi chiều hoặc những cuối tuần rảnh rỗi ông còn tự mình phụ giúp giáo dân địa phương những công việc lao động trong nhà [45].
Cũng trong thời gian làm phó xứ Niegowic, linh mục Wojtyla đã cống hiến nhiều thì giờ cho giới trẻ tại đây. Ông hướng dẫn họ trình diễn trên sân khấu, giúp họ học thêm để bồi bổ kiến thức, tổ chức những buổi cắm trại trong rừng hoặc những chuyến du ngoạn trong các khu lân cận thuộc giáo phận Krakow, thành lập các đội bóng chuyền và túc cầu cho thanh thiếu niên trong vùng[45].
Tháng 3 năm 1949, hồng y Sapieha thuyên chuyển ông về làm việc tại một trường của Ðại học Kraków thuộc giáo xứ Saint Florian. Ông tiếp tục trau dồi triết và thần học tại Ðại học Công giáo Lublin. Tại đây, ông có cơ hội tìm hiểu thêm về giới trẻ, đồng thời khai triển những phương pháp mục vụ trong khi tiếp xúc với đời sống văn hóa cùng các thức giả tại tổng giáo phận Kraków. Cũng tại nơi đây, Linh mục Wojtyla còn có dịp tiếp tục triển khai những kiến thức về văn chương và triết học của mình.
Ông thường đưa những sinh viên đi cắm trại và du ngoại ngoài trời để hòa mình vào thiên nhiên[45]. Chính nhờ những sinh hoạt với giới sinh viên trong thời gian ở Saint Florian, mà sau này khi được cử làm Giám mục Phụ Tá Giáo phận Krakow, linh mục Wojtyla đã hoàn tất những tác phẩm nói lên mối liên hệ phái tính theo tinh thần Kitô giáo mà tiêu biểu là: The Jeweler’s Shop (Tiệm Nữ Trang), Love And Responsibility (Tình Yêu Và Trách Nhiệm).
Năm 1953, ông trình bày một luận án với đề tài "Thẩm định khả thể xây dựng nền luân lý Công giáo trên hệ thống luân lý của Max Scheler" tại Ðại học Lublin. Sau đó, ông trở thành giáo sư thần học luân lý và luân lý xã hội tại Ðại chủng viện Kraków và tại phân khoa thần học của Ðại học Công giáo Lublin[43].
Tháng 10 năm 1954, phân khoa Thần học tại Đại học Jagiellonian, nơi ông đang giảng dạy môn luân lý Kitô giáo, bị đóng cửa. Lúc ấy Linh mục Karol Wojtyla thường cùng một nhóm giáo sư bí mật gặp gỡ để trao đổi quan điểm về mối liên hệ giữa nhà nước và Giáo hội[45].
Ngày 28 tháng 9 năm 1958, ông được tấn phong Giám mục tại Nhà thờ lớn Wawel ở Kraków, 11 ngày trước khi Giáo hoàng Piô XII qua đời. Một tháng sau, Giáo hoàng Gioan XXIII lên kế vị, mở ra một kỷ nguyên mới cho Giáo hội Công giáo qua quyết định triệu tập Công đồng Vatican II. Vị tân Giám mục 38 tuổi nhận được giấy mời tham dự công đồng[45].
Tại đây, ông đã có sự đóng góp tích cực và hữu hiệu vào chương trình của công đồng với bảy diễn từ đọc trước các nghị phụ tham dự Công đồng và với 13 tuyên ngôn, Giám mục Karol Wojtyla đã gây được một ấn tượng sâu sắc đối với hầu hết các thành phần tham dự Công đồng. Đặc biệt là của Giáo hoàng Gioan XXIII, và nhất là Giáo hoàng Phaolô VI sau đó[45].
Vào ngày 30 tháng 12 năm 1963, Giáo hoàng Phaolô VI đề bạt ông làm Tổng Giám mục Kraków. Trong cương vị tổng Giám mục, ông tham dự Công đồng Vatican II, góp công soạn thảo các tài liệu Tuyên ngôn về tự do tôn giáo (Dignitatis Humanae) và Hiến chế Mục Vụ Giáo hội trong thế giới ngày nay (Gaudium et Spes, Vui mừng và Hy vọng), hai văn bản có tính cách lịch sử và quan trọng nhất của Công đồng này.
Tháng 5 năm 1964, Wojtyla đã đệ trình đoàn chủ tịch công đồng 1 văn bản được soạn thảo nhân danh các Giám mục Ba Lan tuyên bố rằng: mối quan hệ của Giáo hội với thế giới hiện đại phải được dựa trên khái niệm coi Giáo hội là một xã hội hoàn thiện do Chúa sáng lập và ở bên trên lịch sử. Ngày 30 tháng 11 năm 1964, ông đã có cuộc nói chuyện riêng đầu tiên với Giáo hoàng Phaolô VI, người đã theo dõi chặt chẽ các phát biểu của người Giám mục mới này.
Trong thời gian này, nhà cầm quyền Ba Lan đã cho rằng Wojtyla là một người dễ có những thỏa hiệp với nhà nước hơn là Hồng y Wyszynski. Chính quyền đã gợi ý để Wyszynski lựa chọn Wojtyla vào ghế tổng Giám mục chứ không phải là một người khác. Niềm tin về Wojtyla của họ có thể thấy trong một báo cáo mật năm 1967 của cảnh sát Ba Lan: "Có thể yên tâm nói rằng ông ta (Wojtyla) là một trong số ít những trí thức trong đoàn Giám mục Ba Lan. Không giống như Wyszynski, ông ta đã khéo léo dung hòa lòng mộ đạo truyền thống của dân chúng với Công giáo trí thức, mà cả hai đều được ông ta đánh giá cao...Cho đến nay, ông ta chưa tham gia vào các hoạt động chính trị chống nhà nước một cách công khai. Có vẻ như là các vấn đề chính trị không phù hợp với ông ta; ông ta bị trí thức hóa quá mức". [47]
Vào mùa Giáng sinh năm 1970, khi tình hình Ba Lan căng thẳng, giá thực phẩm leo thang, trong bài thuyết giảng nhân lễ Giáng sinh tại Kraków năm ấy, ông nói: "Khi người dân bị thương tích và khổ đau, Giáo hội phải lên tiếng bênh đỡ không vì bất cứ khuynh hướng chính trị nào mà chỉ vì tình yêu và tình liên đới của người con Thiên Chúa"[45].
Thời gian này ông cũng làm việc với nhóm tín hữu trí thức dấn thân có tên là Odrodzenie (Tái Sinh), tổ chức Công Giáo đấu tranh duy nhất đặt dưới sự bảo trợ của Hồng y Wyszynski. Ông cũng có những cuộc gặp gỡ giới trí thức để cùng nhau trao đổi quan điểm. Tại tư dinh, ông không chỉ gặp gỡ các chủ biên của tờ Tygodnik Powszechny mà còn tiếp xúc với các sử gia, các nhà toán học, các khoa học gia, triết gia, các văn gia, nhạc sĩ, kể cả các nghệ sĩ trình diễn. Ông bàn hỏi họ về những vấn đề của Ba Lan, của nhân loại và cả những vấn đề thuộc thế giới bên kia –thế giới siêu hình"[45].
Vào năm 1972, Hồng y Karol Wojyla cũng bắt đầu một mối quan hệ với Anna-Teresa Tymieniecka, một phụ nữ Ba Lan đang làm việc tại Đại học Havard [48]. Bà đã giúp ông trở nên nổi bật, giới thiệu ông với cộng đồng triết học Châu Âu, với các học giả Mỹ. Bà đã giúp vạch kế hoạch cho chuyến thăm kéo dài đầu tiên của ông tới Mỹ, và thu xếp để ông có bài giảng đầu tiên tại Đại học Harvard [49]. Sau khi lên làm giáo hoàng, ông đã có một rắc rối với Tymieniecka về vấn đề bản quyền với cuốn Osoba i Czyn. Bà đã đánh giá sự im lặng của Giáo hoàng trước công luận trong cuộc tranh chấp này là một "sự phản bội" cá nhân, mặc dù bà và Giáo hoàng sau đó đã hòa giải[50].
Trong khoảng thời gian từ 1973 đến 1975, Tổng Giám mục Wojtyla đã vào phòng đọc của Giáo hoàng để nói chuyện riêng 11 lần. Vào năm 1976, Phaolô VI đã mời Wojtyla cử hành Lễ Chay (lễ Lent) tại Vatican cho các thành viên của Tòa thánh và gia đình Giáo hoàng. Cũng trong năm này, tờ "Thời báo New York" đã đặt ông vào danh sách 10 người được nhắc tới nhiều nhất như là các ứng cử viên để kế tục Phaolô VI[51].
Vào tháng 8 năm 1978, sau khi Giáo hoàng Phaolô VI mất, ông đã tham gia Hồng y đoàn chọn Albino Luciani, Hồng y Tổng Giám mục của Venezia làm Giáo hoàng Gioan Phaolô I. Khi được chọn làm giáo hoàng, Luciani chỉ 65 tuổi, trẻ so với nhiều giáo hoàng khác. Vào ngày 28 tháng 9 năm 1978, chỉ 33 ngày sau khi nhậm chức, Giáo hoàng Gioan Phaolô I qua đời. Vào tháng 10 năm 1978 Hồng y Wojtyła trở về lại Tòa Thánh để bầu giáo hoàng mới.
Sáng thứ hai 16 tháng 10/1978, với hai lần bỏ phiếu, các Hồng y vẫn chưa chọn được Vị Giáo Hoàng mới. Tên của Tông Giám mục Cracovia đã nhận được nhiều phiếu hơn cả vào lúc 17:30, trong cuộc bỏ phiếu lần thứ sáu, vào chiều ngày 16 tháng 10 năm 1978. Sau khi kiểm xong các lá phiếu, Vị Hồng Y nhiếp chính (trong thời kỳ trống ngôi) lại gần Vị được chọn, chào kính, đặt câu hỏi theo lễ nghi: "Ngài có chấp nhận việc lựa chọn Ngài hay không?". Trong cầu nguyện và yên lặng suy tư, Karol Wojtyla chưa trả lời ngay. Mọi người chờ đợi và thấy ông cảm động, nước mắt chảy trên gò má. Sau cùng, với giọng rõ ràng và nghiêm nghị, ông trả lời: "Vì Chúa Kitô của tôi, vì Ðức Trinh Nữ, Mẹ của tôi, vì tôn trọng Tông Hiến của Ðức Phaolô VI mời gọi, tôi xin chấp nhận."
6 giờ 18 phút, hồng y phó tế Tisserant tuyên bố: "Dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, Hồng y đoàn đã tín nhiệm Hồng y Karol Wojtyla, Tổng Giám mục Kraków, Ba Lan, vào ngôi vị giáo hoàng của thế giới Công giáo". Ông đã được bầu để kế vị Gioan Phaolô I, trở thành Giáo hoàng từ ngoài nước Ý đầu tiên trong gần 500 năm và là vị giáo hoàng gốc người Slav đầu tiên trong lịch sử Công giáo.
Vị tân giáo hoàng giơ tay chào dân chúng. Trước khi ban phép lành Urbi et Orbi, ông mở đầu: "Sia lodato Gesù Cristo" Ngợi khen Chúa Giêsu Kitô: lời chào người dân công giáo Ý rất ưa chuộng. Ông nói tiếp:
Như giáo hoàng trước ông, Gioan Phaolô II đã đơn giản hóa chức vụ này
và làm nó bớt huy hoàng. Ông không tự xưng là "chúng tôi" như các giáo
hoàng trước; thay vào đó ông dùng "tôi". Ông chọn làm một lễ tấn phong
đơn giản chứ không rườm rà, và ông chưa đội mũ giáo hoàng trong khi đảm
nhiệm. Ông làm thế để nhấn mạnh tên chức vụ hầu hạ của mình là tôi tớ
của những người tôi tớ của Chúa (Servus Servorum Dei).
Sáng ngày 17 tháng 10, ông đã trình bày chiến lược của ông: trung thành với công đồng và các hội đoàn. Gioan Phaolô II đã kiên quyết khẳng định việc phải tuân thủ lời răn dạy của giáo hoàng, tôn trọng các luật lệ về nghi lễ cũng như về kỷ luật. Sau cùng, ông nhấn mạnh đến nhu cầu tiến hành cuộc đối thoại trên phạm vi toàn thế giời và cam kết của Giáo hội với hòa bình và công lý trên thế giới[53].
Năm 1984, ông đã thành lập Học viện Sahel để đặc trách việc trợ giúp phát triển cho các quốc gia vùng sa mạc Sahara. Tháng 2 năm 1992, Gioan Phaolô đã thành lập Quỹ phát triển Populorum Progressio để trợ giúp cho các nhóm thổ dân Mỹ Latinh. Ông cũng đã thành lập Hàn lâm viện Giáo hoàng về sự sống và các khoa học xã hội, lập Ngày Quốc tế Bệnh nhân, Ngày Quốc tế Ðời tận hiến và Ngày Giới trẻ Thế giới[58].
Trong suốt thời gian làm giáo hoàng, ông đã gặp 17,6 triệu khách hành hương trong 1160 lần tại Quảng trường Thánh Phêrô vào mỗi ngày Thứ tư. Khoảng 8 triệu khách hành hương trong Năm Thánh 2000. Ông đã 737 lần tiếp các nhà lãnh đạo quốc gia và 245 lần các thủ tướng quốc gia.
Ông đã được cả hai chính phủ Chilê và Áchentina nhờ can thiệp về vấn đề kênh Beagle "với mục đích hướng dẫn và giúp họ trong việc giải quyết hòa bình cuộc tranh chấp". Đây là một vấn đề quan trọng đối với Vatican và lần thứ hai sau một thế kỷ, Giáo hoàng lại một lần nữa được yêu cầu đóng một vai trò trong các cuộc thương lượng quốc tế.
Trong suốt nhiệm kỳ của mình, Gioan Phaolô II đã tổ chức 9 mật nghị để phong tước cho 232 hồng y, trong đó có một vị "còn giữ kín"; đã bổ nhiệm trên 3,5 ngàn trong số gần 4,2 ngàn Giám mục trên thế giới. Ông đã gặp từng người trong các Giám mục một số lần qua nhiều năm, nhất là khi họ viếng thăm Tòa thánh 5 năm một lần[59].
Ông đã chủ sự 15 thượng hội Giám mục: 6 thường lệ (1980 về gia đình, 1983 về thống hối và hòa giải, 1987 về giáo dân, 1990 về linh mục, 1994 về tu sĩ, 2001 về Giám mục), 1 ngoại lệ (1985 Công đồng Vatican II 20 năm sau) và 8 đặc biệt (1980 cho Hà Lan, 1991 cho Châu Âu lần nhất, 1994 cho Châu Phi, 1995 cho Liban, 1997 cho Châu Mỹ, 1998 [2] cho Châu Á và Châu Đại Dương, 1999 cho Châu Âu lần hai)[59].
Vào ngày 14 tháng 3 năm 2004, ông trở thành vị Giáo hoàng thứ ba trong số những vụ Giáo hoàng có thời gian ở ngôi lâu dài nhất, sau Thánh Phêrô (từ 34 đến 37 năm) và Piô IX (31 năm, 7 tháng, 23 ngày).
Với vai trò Giáo hoàng, ông đã viết 14 thông điệp, 14 tông huấn, 11 tông hiến, 42 tông thư và 22 tự sắc chưa kể đến hằng trăm sứ điệp và thư tín khác nữa. Để sửa soạn cho Năm Thánh 2000, Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã viết tông thư "Tiến đến Thiên niên kỷ thứ Ba" (Tertio Millennio Adveniente) đề ngày 10 tháng 11 năm 1994.
Ông cũng thực hiện 143 cuộc viếng thăm trong nước Ý. Với tư cách là Giám mục Rôma, ông đã đi thăm mục vụ 301 trong tổng số 334 giáo xứ trong Giáo phận Rôma.
Với 247 chuyến viếng thăm mục vụ trong và ngoài nước Ý, Gioan Phaolô II đã đi 1.167.295 km (hay 700.380 dặm), trên 28 lần chu vi của Trái Đất (hay 3 lần khoảng cách giữa Trái Đất và Mặt Trăng), nhiều hơn tất cả những Giáo hoàng trước cộng lại. Những chuyến đi này là dấu hiệu của nỗ lực bắc cầu nối lại những quốc gia và tôn giáo trong nhiệm kỳ của ông[61].
Ngay từ đầu, những chuyến đi của Giáo hoàng đã là một bài thuyết giáo không ngừng về tiếng tăm của con người và sức mạnh của lòng trung thành. Tại Triều Tiên, ông đã nói đến sự nghiệp giải phóng con người trước những người công nhân phải lao động cực nhọc. Ông đã đích thân phát biểu trước những người theo Thiên Chúa và những người không theo Thiên Chúa. Ông đã đến thăm nhiều nơi trên thế giới, dù ở thế giới thứ nhất hay thế giới thứ ba, ông đều hướng tới những con người, những thân phận nghèo khổ.
Tại Nigiêria, ông tuyên bố rằng: "việc khai thác bất chấp đạo lý đối với người nghèo và kém hiểu biết là một tội ác chống lại Chúa"; tại Côlômbia ông cảnh cáo: "những người sống dư thừa và xa hoa vô độ thể hiện sự mù quáng về tinh thần". Người nghèo sẽ phán xử các quốc gia đã lấy mất của cải của họ, khẳng định sự độc quyền đế quốc chủ nghĩa đối với hàng hóa của họ và quyền tối cao về mặt chính trị bằng sự trả giá của người khác". Tại Bồ Đào Nha, ông chỉ rõ: "Công lý đòi hỏi những người nông dân có thể canh tác trên mảnh đất của chính họ". Tại Tây Ban Nha, ông yêu cầu nhà nước phải bảo vệ những người lao động: "Chúng ta không thể bỏ mặc người lao động và số phận của họ được". Ông cũng bảo vệ việc thành lập những tổ chức công đoàn ở Braxin và tại Nam Phi, ông kết tội chủ nghĩa Apácthai[62].
Gioan Phaolô II đã biến những chuyến chuyến tông du trở thành một cuộc hành trình truyền giáo mang tính chất sứ đồ. Ông sẵn sàng đón nhận mọi phong tục và nghi thức văn hóa ở những vùng miền khác nhau. Ông không chỉ nói bằng hàng chục thứ tiếng mà còn đội bất cứ một trong số các mũ lạ thường nào mà nhân dân địa phương tặng: Mũ nồi dành cho sinh viên, mũ phớt rộng vành của những người Mêhicô, mũ làm bằng lông của những người da đỏ, mũ đen. Tại châu Phi, ông mặc bộ quần áo bằng da dê và đứng trong lúc nắm chặt cái giáo của vị trưởng bộ lạc. Tại miền tây nước Mỹ, ông xuất hiện từ một túp lều vải trong bộ quần áo lễ có tua; tại Phoenix một nhóm thổ dân Mỹ đặt ông lên bục diễn thuyết tròn rồi đi vòng quanh ông[63]...
Bất cứ ở nơi nào ông đến, ông đều tới viếng thăm những nơi tôn kính đức Maria. Nơi Đức Mẹ hiện hình ở Braxin, Ngôi nhà Đức Mẹ tại Thổ Nhĩ Kỳ, Hang đá Đức Mẹ Lộ Đức, thánh địa Fatima ở Bồ Đào Nha...ông hiến dâng tất cả các lục địa cho trái tim Đức Mẹ "xin Người hãy thấu hiểu tất cả nỗi khổ đau và niềm hy vọng của tất cả chúng con"[64].
Tuy nhiên chuyến thăm Đức vào năm 1996 đã trở thành thảm họa. Ngày 24 tháng 6 năm 1996, khi xe của Giáo hoàng đi về phía cổng Bradenburg tại Berlin, hàng trăm người vô chính phủ và những người hoạt động xã hội ủng hộ người đồng tính thuộc một "Liên minh chống Giáo hoàng" đã xông về phía Gioan Phaolô II, gào to lên "Hãy xuống địa ngục đi !", "Thiêu sống Giáo hoàng !" "Bao cao su thay thế cho Tòa thánh !" ("Kondome statt Dome!") và ném sơn, cà chua, trứng thối vào chiếc xe của Giáo hoàng. Hai bịch sơn đã văng trúng chiếc xe chở Gioan Phaolô II.[65][66][67][68][69][70] Danh sách các bài báo nói về vụ Giáo hoàng bị biểu tình ở Berlin năm 1996
Trong tác phẩm "Crossing The Threshold Of Hope" (Bước Qua Ngưỡng Cửa hy Vọng), của mình, Gioan Phaolô II đã viết:
Ông đã truyền cho họ sự dũng cảm, lòng nhiệt thành khi phải đối đầu với nền văn hóa sự chết như chiến tranh, bạo lực, nạn phá thai,… để duy trì sự sống cho con người.
Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã công khai xin lỗi thế giới và các tôn giáo khác về những lỗi lầm của Giáo hội Công giáo Rôma trong quá khứ, tổng cộng 94 lần.
Năm 1981, Một "Phúc Trình chung" đã được công bố, đúc kết lập trường của hai giáo hội Anh giáo và Công giáo về quyền bính. Năm 1982, Gioan Phaolô II qua Canterbury (Anh quốc) thăm vị giáo chủ Anh giáo[74].
Ngày 12 tháng 5 năm 1999, Ủy ban Quốc tế hỗn hợp Anh giáo và Công giáo đã công bố chung một văn kiện nói về "Quyền bính của đức Giáo hoàng" trong giáo hội. Văn Kiện định nghĩa "quyền đứng đầu" của vị Giám mục Roma như là "quyền để phân định sự thật" và quyền nầy cần được thi hành một cách "tập đoàn" trong khung cảnh của "hội đồng tính" của các Giám mục. Việc công bố Văn Kiện Chung Anh Giáo và Công Giáo nói về quyền bính, là một bước tiến thêm nữa trên con đường đại kết.[75]
Tháng 7/2002, Nhân việc bổ nhiệm tân Tổng Giám mục Canterbury - Rowan Williamatican, Gioan Phaolô II đã chúc mừng tân Tổng Giám mục Canterbury và nói thêm như sau: "Tôi đã có dịp biết và làm việc gần gũi với các vị tiền nhiệm của ngài, Ðức tổng Giám mục Runcie và Ðức tổng Giám mục Carey, trong công tác chung là thăng tiến sự thông cảm giữa cộng đoàn Anh Giáo và giáo hội Công giáo. Tôi tin rằng với ơn phù trợ của Thiên Chúa, chúng ta có thể đạt được tiến bộ trên con đường tiến tới hiệp nhất"[76].
Ngày 13. 04. 1986, ông trở thành vị giáo hoàng đầu tiên bước vào đại hội đường Do Thái tại Roma,, ông tuyên bố:
Ông cũng thừa nhận những tổn thương mà những người Do Thái phải cam chịu hàng trăm năm khi sống ở các nước Thiên Chúa "các
hành động phân biệt đối xử, những hạn chế bất cong về tự do tín ngưỡng
cũng như sự ngặt nghèo về tự do... Vâng, một lần nữa đã làm cho tôi cảm
thấy hối tiếc và ngay cả những từ ngữ trong cuốn Nostra Aetete, sự bất
công, sự ngược đãi và tất cả những biểu hiện chống lại phong trào Xemit,
trực tiếp chống lại người Do Thái bất kỳ lúc nào và bởi bất cứ ai[80]".
Năm 2000, trong dịp viếng thăm Giêrusalem, ông đã để lại lời cầu nguyện vắn tắt trong Bức Tường Than khóc - nơi các người Do thái vẫn đến cầu nguyện với nội dung như sau[81][82]:
Trong thư, Giáo hoàng nói về nguồn cội chung của Công giáo và Chính Thống giáo nên ông nói đó là lẽ khẩn thiết bắt buộc Công giáo và Chính Thống giáo "tái thành lập lại sự hợp nhất toàn vẹn trong đức tin và trong đời sống sớm hết sức có thể, bởi vì sự chia rẽ giữa các Kitô giáo đi ngược lại tinh thần của Phúc Âm và việc chứng nhân giữa thế giới (....)vì một trái tim tinh tuyền và trong sáng, và vì vâng lệnh ý muốn của cùng một Thiên Chúa, chúng ta phải tiếp tục cuộc tìm kiếm sự hiệp thông toàn vẹn trong chân thành, huynh đệ và yêu thương".
Ông cũng đã cử một phái đoàn sang Istanbul, Thổ Nhĩ Kỳ dẫn đầu bởi hồng y Edward Idris Cassidy, chủ tịch Hội đồng giáo hoàng cổ võ Hợp Nhất Kitô hữu tham dự thánh lễ kính thánh Anrê - quan thầy của giáo hội phương Đông. Việc thăm viếng nhau nhân ngày lễ này đã trở thành truyền thống và được thực hiện liên tiếp từ năm sáu năm nay. Ngược lại mỗi năm vào ngày 29.6 nhân lễ kính thánh Phêrô và Phaolô Tông Ðồ, quan thày của Giáo Hội Công Giáo Roma thì Thượng Phụ giáo chủ Bartholomew I, cũng gửi phái đoàn sang Roma kính thăm Giáo hoàng.
Ngày 22 tháng 8 năm 2004, Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã thông báo việc ông trao trả Bức ảnh Ðức Mẹ Kazan cho Giáo chủ Alexis II của Giáo hội Chính Thống giáo Matxcơva, và qua Alexis cho toàn thể dân tộc Nga. Bức Ảnh Ðức Mẹ Kazan, đã được họa trên gỗ vào thế kỷ thứ 13. Bức Ảnh Ðức Mẹ Kazan đã được lưu giữ tại Fatima, sau đó được đưa về Vatican vào năm 1991 và được giữ nơi nhà nguyện riêng của giáo hoàng[84].
Trong sứ điệp gửi cho Giáo chủ Alexis II nhân dịp này, ông viết:
Vào tháng 5 năm 1984 tại Băng Cốc, Giáo hoàng đã tới gặp giáo trưởng
tối cao của Phật giáo Thái Lan tại tu viện của ông. Gioan Phaolô II bỏ
giày ra và bước nhẹ nhàng đến bục nơi Vasana Jara, 86 tuổi đang an tọa
trong tư thế thiền.
Tuy nhiên, một số phát biểu về Phật giáo của Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã gây ra nhiều tranh cãi và chỉ trích. Ví dụ, trong tác phẩm Bước qua ngưỡng cửa hi vọng, Giáo hoàng đã chỉ trịch đạo Phật là "thờ ơ với cuộc sống", "tiêu cực", "vô thần". Nhận định này đã vấp phải sự phản đối dữ dội từ cộng đồng Phật giáo. Tanaka Ken, giáo sư tại Học viện Phật học đã cho rằng Giáo hoàng "chưa chịu làm bài tập", còn Lạt Ma Ole Nydahl thì nhận xét Giáo hoàng "sẽ không thể tận hưởng cuộc sống ở kiếp sau". Linh mục Thomas Hand, một chức sắc Công giáo nghiên cứu thiền tại Medical Retreat Center cho rằng ý kiến của Gioan Phaolô II về sự "vô thần" và "tiêu cực" trong đạo Phật là hoàn toàn sai lầm và Giáo hoàng không thể nhận xét bừa bãi về một tôn giáo thâm thúy như đạo Phật mà không hiểu gì về nó. Một số nhân sĩ Phật giáo bình luận rằng, nguyên nhân của phát biểu trên bắt nguồn từ những lo ngại của Gioan Phaolô II về các nỗ lực truyền bá ảnh hưởng của đạo Phật ra ngoài châu Á.[88] Trong một buổi họp mặt, các nhà sư tại Tích Lan đã quyết định yêu cầu Giáo hoàng phải xin lỗi[89]. Trước các phản ứng này, Gioan Phaolô II đã thanh minh rằng ông luôn bày tỏ sự kính trọng sâu sắc đến các tín đồ Phật giáo và không có ý xúc phạm Phật giáo.
Vào năm 1985 ông đã phát động cái họi là "cuộc tấn công đối thoại" nhằm vào các tín đồ Hồi Giáo. Ông đánh giá cao một vài mặt của đạo Hồi: Thuyết độc thần, quy phục một vị Chúa nhân từ và những quy định về việc ăn chay và sám hối. Nhưng ông cũng tỏ ra hoài nghi về Hồi Giáo đang co mình trong nỗi sợ hãi. Vào năm 1982, trong một chuyến thăm tới Nigieria ông đã dự định dừng chân ở thị trấn Kaduna, khu vực đạo Hồi chiếm ưu thế. Tuy nhiên, kế hoạch này đã thất bại[90].
Kể từ sau năm 1989, Gioan Phaolô đã thấy trước rằng thách đố của thế giới sẽ là cuộc đối đầu với Hồi Giáo. Trong nhiều cuộc gặp gỡ với những người Hồi giáo, Giáo hoàng luôn muốn đối thoại. Kể từ khi chiến tranh lạnh kết thúc, ông xác tín rằng Hồi giáo sẽ là vấn đề lớn của thế giới.[91]
Gioan Phaolô II kêu gọi mọi người, Kitô hữu cũng như Hồi giáo, hãy vượt qua thái độ đối đầu. Với các bạn trẻ được quốc vương Hassan II của Maroc tập trung tại Casablanca hồi năm 1985, ông đã nói như sau:
Gioan Phaolô II đã không ngừng bày tỏ thiện cảm với các Dân tộc Hồi
giáo tại Bosnia Herzegovina và kêu gọi thế giới can thiệp nhân đạo để
chấm dứt cuộc diệt chủng nhắm vào họ. Ông cũng đã lên án cuộc chiến
chống Iraq do Liên Minh Anh Mỹ chủ trương. Sau cuộc khủng bố 11/09/2001,
giáo hoàng còn cố gắng kéo thế giới ra khỏi một cuộc đối đầu về văn
minh và tôn giáo. Ngày 14/12/2001, vào chính ngày kết thúc tháng chay
tịnh Ramadan của người Hồi giáo, ông kêu gọi tất cả các tín hữu kitô
trên toàn thế giới hãy ăn chay để cầu nguyện cho hòa bình.[91]
Giáo hoàng đã đến thăm Ba Lan lần thứ hai vào năm 1983, khi phong trào Công Đoàn Đoàn Kết của Lech Walesa đang dấy lên khắp nơi. Trong bối cảnh đó, chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Ba Lan và Tòa Thánh Vatican đã đạt được một thỏa thuận để Giáo hoàng có thể đến thăm Ba Lan với mục đích thuần túy tôn giáo.
Ngày 16 tháng 6 năm 1983. Sau khi quỳ xuống hôn đất quê hương, ông đã lên kêu gọi những người đang bị bắt bớ ở Ba Lan: "Cha kêu gọi những người bị đày đọa hãy đến đây với cha. Cha kêu gọi lời này thay lời Chúa Giê-xu: Cha đã bị ốm và các con hãy đến thăm cha. Cha bị giam cầm, các con hãy đến với cha. Bản thân cha không thể tới thăm các con chiên đang bị giam cầm, đến thăm tất cả các con chiên đang bị đày đọa. Nhưng cha kêu gọi họ hãy đến với cha trong tinh thần giúp đỡ cha, như họ vẫn luôn làm."... Buổi tối, hàng chục ngàn người đã diễn hành... Khi đi ngang qua tòa nhà của Trung ương Đảng Cộng sản Ba Lan, đoàn thanh niên đã hô to: "Solidarity! Solidarity! Walesa! Dân Chủ!." [92]
Ông lập tức quỵ xuống vì đau đớn rồi từ từ ngã trong vòng tay các cận vệ. Ngay sau đó, hung thủ thực hiện vụ mưu sát bị cảnh sát tóm gọn. Nhưng kẻ tòng phạm đứng cách đó một đoạn xa thì nhanh chóng chạy thoát.
Viên đạn chỉ đi xuyên qua ổ ruột, cách động mạch vài ly, rồi rớt ngay trong xe, khiến ông dù bị mất đến 2/3 số máu trong cơ thể, nhưng vẫn được cứu sống kịp thời. Các bác sĩ cho rằng nếu viên đạn cắt ngang động mạch, ông sẽ chết tại chỗ hoặc trên đường cấp cứu. Về phần mình, ông lại xem đó như một sự can thiệp lạ lùng của Ðức Mẹ Maria[94].
Sau khi hồi phục, ông đã tuyên bố với mọi người rằng: "Tôi luôn cầu nguyện cho người anh em đã bắn vào tôi, người tôi đã chân thành tha thứ". Giáo hoàng đã viết thư định gửi cho Ağca: "Tại sao anh lại bắn tôi khi mà cả hai chúng ta đều chung đức tin vào Chúa?" Nhưng thay vì gửi bức thư đó, đã quyết định đến gặp Ağca. Năm 1983, ông đến thăm Ağca và tha thứ cho việc ám sát ông. Ông còn cầu khẩn nhà cầm quyền Ý ân xá cho Ağca. Ông đã giữ liên lạc với gia đình của Ağca nhiều năm sau đó và đã thăm mẹ Ağca năm 1987.
Cho đến nay, mưu đồ sát hại Giáo hoàng vẫn còn là một trong những bí mật lớn nhất của thế kỷ XX. Một số người (trong đó có William Casey - người lãnh đạo của CIA) đã tin rằng: những người Xô Viết đứng sau âm mưu sát hại giáo hoàng. Họ đã chỉ ra cái gọi là những vấn đề có liên quan đến những người Bungari, một tổ chức hay nhúng vào chuyện của người khác nhưng một chứng cứ trái ngược rằng Agca được bảo vệ và bao che bởi cơ quan tình báo Bungari, một tổ chức lệ thuộc vào cơ quan KGB. Về phần mình, quan điểm của giáo hoàng là: "tôi luôn luôn tin rằng ngay từ đầu, những người Bungari hoàn toàn vô tội, họ không việc gì phải làm điều đó". Cho đến nay người ta vẫn chưa tìm được một tài liệu rõ ràng liên quan đến âm mưu sát hạt giáo hoàng ở Nga hoặc ở Bungari kể từ khi chủ nghĩa Cộng sản sụp đổ.[95]
Trước việc những người công giáo ở Mỹ La Tinh chọn chủ nghĩa xã hội, quan điểm của ông là: "chúng ta phải bắt đầu xem xét chủ nghĩa xã hội là gì và ở đó có những dị biệt gì đã. Ví dụ, một chủ nghĩa xã hội vô thần, không thể nào phù hợp với các nguyên tác Thiên chúa giáo, với quan điểm Thiên chúa giáo về thế giới, về các quyền của con người, với đạo lý, sẽ là một giải pháp không chấp nhận được".
Về thần học giải phóng, quan điểm của ông khá gay gắt: "Đó không phải là thần học thật sự. Nó bóp méo cảm giác thật về kinh Phúc âm. Nó dẫn dắt những người đã dâng mình cho Chúa khỏi vai trò thật sự mà Giáo hội đã giao phó cho họ. Khi họ bắt đầu sử dụng các biện pháp chính trị, họ không còn là các nhà thần học nữa. Nếu đó là một chương trình xã hội, thì đó là một vấn đề của xã hội học. Nếu nó đề cập đến việc cứu vớt con người, thì nó là thần học của muôn đời, đã có từ hai nghìn năm náy"[96].
Trước những cuộc xung đột đẫm máu của hai cộng đồng Công Giáo và Tin
Lành ở Ái Nhĩ Lan, vào năm 1979, Gioan Phaolô II đã gửi đến những con
chiên của ông nơi đây với nội dung như sau[59].
Trong cuộc viếng thăm thành phố Coventry, Anh ngày 28-6-1982 khi nước
này đang xảy ra chiến tranh với nước láng giềng, Giáo Hoàng Gioan
Phaolô II đã có những lời lẽ quyết liệt lên án sự tàn khốc của chiến
tranh, dù dưới bất cứ hình thức nào[59]:
Gioan Phaolô II đã tích cực can thiệp nhằm ngăn chặn hai cuộc chiến
tranh tại Vùng Vịnh. Hơn một lần ông cho rằng người ta không thề nhân
danh bất cứ điều gì để gây thương vong, chết chóc cho con người. Trong
khoảng thời gian từ 26-8-1990 đến tháng 3-1991, qua những văn thư, diễn
tư, trên dưới 50 lần, Gioan Phaolô II đã nói tới hậu quả tai hại của
cuộc chiến Vùng Vịnh. Trong diễn từ vào đúng ngày Giáng Sinh 25-12-1990,
Giáo Hoàng Gioan Phaolô II nói:
Cho đến khi cuộc chiến Vùng Vịnh tái bùng nổ vào đầu thế kỷ 21 thì
Gioan Phaolô II cũng lên tiếng phản đối. Đối với những xung đột giữa Do
thái và Palestine, Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã vận dụng nhiều cách để
mưu tìm hòa bình tại vùng đất này. Những cuộc thăm viếng, những buổi
tiếp xúc cá nhân giữa vị Giáo Chủ và các lãnh tụ của cả hai phía Do thái
và Palestine đã diễn ra rất nhiều lần, tại Vatican, trong những cuộc
gặp gỡ nhân những cuộc du hành mục vụ hải ngoại[59].
Ngay từ khi vừa được chọn làm người kế vị thánh Phêrô, Gioan Phaolô II đã nhiệt thành cổ võ cho điều mà trong những bài giảng thuyết cũng như những tông thư, thông điệp mà ông mệnh danh là nền ‘Văn Minh Sự Sống’. Gioan Phaolô II không ngớt đề cao giá trị sự sống của con người, từ khi còn là một bào thai trong lòng mẹ cho đến lúc chết. Bằng những lời lẽ cứng rắn, ông lên án những hành vi phá thai, trợ tử cũng như phong trào đồng tính luyến ái. Theo ông, những hài nhi mang sẵn một giá trị nhân bản tiên thiên, tự hữu mà không một ai, kể cả cha mẹ chúng, có thể tước đoạt hoặc coi như sở hữu của mình, rồi muốn làm gì thì làm trên sinh mạng của chúng, điều chỉ một mình Thượng Đế (Thiên Chúa) mới có quyền quyết định..[97]
Chủ Nhật đầu tháng 8-1994, Giáo Hoàng Gioan Phaolô II nhấn mạnh tới
những khía cạnh của tệ nạn phá thai ngày càng gia tăng trong xã hội loài
người. Giáo hoàng tuyên bố: nền móng công lý công cộng đã bị xói mòn
bởi vì nhà nước không nhìn nhận sự sống của những đứa trẻ khi chúng còn
trong lòng mẹ để bảo vệ chúng [97].
Gioan Phaolô II cũng lên án việc sử dụng các biện pháp tránh thai. Trong cuốn sách của ông mang tên Tình yêu và Trách nhiệm, ông đã nêu lên rằng: việc sử dụng các biện pháp tranh thai làm giảm giá trị của hành vi vợ chồng và của người phụ nữ (bằng việc coi rằng người đàn bá chỉ đơn thuần là đối tượng cho khoái lạc của người đàn ông)[98].
Lập trường này đã gặp phải những luận điệu chỉ trích lập trường của Giáo Hội về vấn đề chống phá thai và ngừa thai bằng mọi giá. Những chỉ trích này trong nhiều trường hợp còn đụng chạm tới chủ trương đề cao và quyết tâm bảo vệ hệ thống gia đình của Giáo Hội.
Trong cuộc gặp gỡ ngày 19-3-1982 tại Livorno, Ý, Giáo hoàng nói với các công nhân là nền dân chủ của giới thợ thuyền trên thế giới lâu đời hơn nền dân chủ của Giáo Hội ít nữa là ở cấp độ giáo xứ. Từ nhận định ấy, ông cho rằng ông phải cảm ơn họ vì chính giới cần lao đã đóng góp, đã cống hiến cho Giáo Hội những suy tư quý giá giúp cho đời sống Giáo Hội ngày một thêm phong phú. Khi các công nhân mạnh dạn lên tiếng phê phán là trong quá khứ Giáo Hội Công Giáo thường đứng về phía những người giàu có thế lực, ông nói: "Tôi xin cảm ơn về những lời bình phẩm của anh em, cho dù sự thật hàm súc trong những lời này làm đau lòng"[99].
Tại Prato, Ý, ngày 19-3-1986, Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã lên tiếng khuyến cáo các nghiệp đoàn công nhân làm áp lực với giới chủ nhân, kể cả giới cầm quyền, để đạt mục tiêu. Tám năm sau, nhân lễ thánh Giuse ngày 19-3-1994 tại Rôma, giáo hoàng công khai thúc đẩy giới lãnh đạo nghiệp đoàn phải hành động. Ông nói: "Nếu con người im lặng, chính Thiên Chúa sẽ cất tiếng!"
Trong sứ điệp Mùa Chay đề ngày 20-02-1985 gửi các tín hữu trên toàn thế giới, Giáo Hoàng viết:
Trong hơn 26 năm ở ngôi Giáo hoàng, Gioan Phaolô II đã công bố ba
Thông Điệp quan trọng mà nội dung bàn sâu vào những vấn đề xã hội. Đó là
Thông Điệp "Người Lao Động", (Laborem Exercens - 1981), "Mối bận Tâm Xã Hội" (Sollicitudo Rei Socialis - 1987), và "Một Trăm năm Thông Điệp Tân Sự" (Centesimus Annus
- 1991). Những Thông Điệp này phê bình những bất toàn của chế độ Tư bản
cũng như chủ nghĩa Cộng sản đồng thời tỏ bày tình liên đới của Giáo Hội
đối với giới thợ thuyền[99].
Mặc dù vậy, ông vẫn giữ lập trường dứt khoát với việc thụ phong chức linh mục cho phụ nữ: Ngày 15 tháng 8 năm 1988 trong Tông thư Mulieris Dignitatem, Gioan Phaolô II đã viết:" Khi kêu gọi chỉ những người nam để trở nên các Tông Đồ, Đức Kitô đã hành động cách hoàn toàn tự do và độc lập. Ngài đã làm điều đó cũng với sự tự do như khi Ngài đề cao phẩm giá ơn gọi phụ nữ trong tất cả; cách cư xử của Ngài không theo những xu thế tập tục hay những truyền thống mà luật pháp thời ấy chuẩn nhận" (Mulieris Dignitatem,26). Sau hết, ông tuyên bố:
Quan điểm này của ông đã vấp phải sự phản đối của nhiều phụ nữ. Năm
1979, tại Mỹ, xơ Theresa Kane, Chủ tịch hội nghị các nhà lãnh đạo về tín
ngưỡng phụ nữ và dõng dạc tuyên bố trước giáo hoàng: "Thưa giáo hoàng,
Giáo hội phải đáp ứng những chịu đựng của phụ nữ bằng cách xem xét khả
năng của họ trong cả các chức vụ thiêng liêng". Khi đến Thụy Sĩ lại có
một phụ nữ chỉ trích ông về điều này, đó là Margrit Stucky Scheller. Cô
đã nói: "Chúng tôi rất lấy làm tiếc vì việc làm của chúng tôi ít có ảnh
hưởng tới Đức tin và Giáo hội. Những người phụ nữ chúng tôi có ấn tượng
là chúng tôi đã bị xem như công dân loại 2"[103].
Theo Stephen Hawking, vào năm 1981, trong một cuộc tiếp kiến với các nhà khoa học được mời để làm cố vấn khoa học cho Giáo hội Công giáo, Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã nói rằng các nhà khoa học có thể tùy nghi nghiên cứu sự tiến hóa của vũ trụ sau khi sự kiện Big Bang xảy ra, tuy nhiên những sự kiện trước đó thì không nên vì đó là giai đoạn sáng tạo thế giới của Thiên Chúa.[104]
Năm 1996, trong một thông báo chính thức gửi đến Học viện Hồng y về Khoa học, Gioan Phaolô II đã lên tiếng thừa nhận về xai trò và sự xác tín của Thuyết tiến hóa, rằng con người sinh ra có thể là do một quá trình tiến hóa dần dần chứ không phải là do sự sáng tạo tức thời của Thượng đế:
Tháng 7 năm 1999, Gioan Phaolô II đã ra tuyên bố phủ nhận sự hiện
diện của một thiên đường vật chất trên các tầng mây và một hỏa ngục nơi
con người bị thiêu đốt bởi ngọn lửa vĩnh hằng:
Gioan Phaolô II đã xin lỗi những người Do Thái, Galileo, phụ nữ, những nạn nhân của Tòa án dị giáo, những người Hồi giáo bị những Thập Tự Quân tàn sát, và tất cả những người đã chịu đau khổ dưới bàn tay của Giáo hội Công giáo trong những năm tháng qua[10][109]. Ngay khi chưa làm Giáo hoàng, ông đã biên soạn và ủng hộ các sáng kiến như Lá thư Hòa giải của Giám mục Ba Lan gửi Giám mục Đức vào năm 1965. Đến khi trở thành Giáo hoàng, ông đã chính thức công khai xin lỗi cho hơn 100 điều sai trái, bao gồm:
Ngày 11 tháng 11 năm 1993, trong một buổi tiếp phái đoàn của Tổ chức nông lương thế giời (FAO) ở Vatican, ông đã khụy ra sau, ngã xuống sàn nhà và bị trật khớp vai. Theo nguồn tin chính thức của Vatican, Giáo hoàng đã vấp ở bậc thềm nơi đặt ngai của ông trong phòng đọc kinh tạ ơn. Nhiều tuần sau, Gioan Phaolô II rất khó nhọc khi giữ vao trì người chủ lễ Mixa và vào tháng 4 năm 1994, ông bị ngã trong vùng trượt tuyết ở Aburzzi. Ngày 28 tháng 4, ông ngã gãy xương đùi trong buồng tắm. Người ta thông báo rằng ông đã trượt chân ngã khi ra khỏi bồn tắm sau khi xả nước. Kể từ đó, ông phải dùng gậy chống khi đi[112]. Và mổ ruột thừa năm 1996.
Năm 2001, một bác sĩ phẫu thuật chỉnh hình đã xác nhận điều từ lâu nghi vấn rằng giáo hoàng đang mắc bệnh Parkinson (bệnh mãn tính về hệ thần kinh làm cho các cơ rụng và yếu)[113].
Ngày 9 tháng 5 năm 2005, Hồng y Jose Saraiva Martins và Tổng Giám mục Edward Nowak, tổng thư ký của Bộ Tuyên Thánh, đã viết thư gởi cho Hồng y Camillo Ruini, đại diện của giáo hoàng, để chính thức loan báo tin này. Trong ngày lễ kính Ðức mẹ Fatima 13 tháng 5 năm 2005, và cũng là ngày kỷ niệm 24 năm giáo hoàng Gioan Phaolô II bị mưu sát, giáo hoàng Benedictô XVI đích thân đọc bức thư này, trong cuộc tiếp kiến hàng giáo sĩ Roma, tại Vương cung Thánh đường Thánh Gioan Laterano - nhà thờ chính tòa của Giáo phận Roma.
Ngày 29 tháng 5 năm 2005, nhật báo Quan sát viên Roma và nhật báo Tương Lai đã cho đăng chỉ dụ của Hồng y Camillo Ruini. Bắt đầu thu thập tài liệu về cố giáo hoàng Gioan Phaolô II để làm án phong chân phước và tuyên thánh[116].
Toà án Giáo hội tại Ba Lan đã bắt đầu công việc lập hồ sơ tuyên thánh vào tháng 11 năm 2005 tại Kraków, nơi Gioan Phaolô II đã trải qua phần lớn cuộc đời trước khi được chọn lên kế vị Phêrô. Công việc chính của toà án này là lắng nghe các nhân chứng tại Ba Lan về cuộc đời của Gioan Phaolô II[117].
Ngày 2 tháng 4 năm 2007, Giáo phận Roma đã chính thức hoàn tất việc điều tra ở cấp giáo phận về cuộc đời, các nhân đức và danh tiếng của Gioan Phaolô II[118].
Aisha Taylor đã nhận xét về vấn đề này như sau
Frank Zindler, một tư tưởng gia nổi tiếng theo chủ nghĩa vô thần
đã đưa ra những chỉ trích gay gắt về Giáo hoàng Gioan Phaolô II và giáo
hội Công giáo Rôma về các chính sách kiệm soát sinh sản và so sánh Giáo
hoàng với Hitler:
Trong chuyến tông du tại Hoa Kỳ năm 1987, Giáo hoàng Gioan Phaolô II
trở thành tâm điểm chỉ trích dữ dội của các tổ chức nữ quyền. Trong một
cuộc biểu tình xảy ra tại California, một phụ nữ đã giả dạng làm một bà mẹ mang thai, tay cầm ba con búp bê và dải băng ghi dòng chữ "Tử cung của tôi, tài sản của Vatican."[130]
Trong một nhận xét đăng trên tờ The Advocate vào năm 2000 về một bài diễn thuyết của Gioan Phaolô II, Michelangeo Signorile đã bình phẩm:
Khi Giáo hoàng cầu nguyện với các tín đồ Thiên chúa Giáo[141] trong Ngày Thế giới Cầu nguyện cho Hòa bình[142] tổ chức tại Assisi, Ý vào năm 1986, sự kiện này bị chỉ trích là gây nên ấn tượng rằng thuyết hổ lốn và chủ nghĩa trung lập tôn giáo được công khai thừa nhận bởi Tòa thánh. Khi Ngày Thế giới Cầu nguyện cho Hòa binh tiếp tục được tổ chức vào năm 2002[143], sự kiện này lại bị chỉ trích là lẫn lộn với các yếu tố thế tục và thỏa hiệp với các "tôn giáo giả tạo". Việc Giáo hoàng hôn cuốn kinh Koran[144] tại Damascus, Syria trong một chuyến tông du ngày 6 tháng 5 năm 2001 cũng bị chỉ trích. Chủ trương tự do tôn giáo của Gioan Phaolô II cũng bị một số ý kiến chỉ trích, tỉ như trong khi các Giám mục như Antônio de Castro Mayer ủng hộ hòa hợp tôn giáo nhưng mặt khác cũng phủ nhận các nguyên tắc của Công đồng Vaticanô II về tự do tôn giáo mà Giáo hoàng Piô IX đã chỉ trích trong tác phẩm Syllabus errorum’ năm 1864 và trong Công đồng Vaticanô I.[145]
Vì các lý do trên, một số giới chức Công giáo bảo thủ đã phản đối việc Gioan Phaolô II được phong chân phước.[146]
Video yêu thích
http://www.youtube.com/user/hoangkimvietnam
Trở về trang chính
hoangkim vietnam, hoangkim, hoangkimvietnam, Hoàng Kim, Ngọc Phương Nam, Chào ngày mới Thung dung, Dạy và học, Cây Lương thực, Tin Nông nghiệp Việt Nam, Food Crops, Cassava in Vietnam, VietnamAfricaCassavaRice, Khát khao xanh, Dayvahoc, Học mỗi ngày, Danh nhân Việt , Food Crops News, Điểm chính, CNM365, Kim LinkedIn, KimTwitter, KimFaceBook Đọc lại và suy ngẫm, Việt Nam tổ quốc tôi, Tình yêu cuộc sống, Thơ cho con
Norman Borlaug
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Norman Borlaug | |
---|---|
Norman Borlaug phát biểu tại hội nghị khoa học và kỹ thuật tháng 6 năm 2003
|
|
Sinh | 25 tháng 3, 1914 Cresco, Iowa, U.S. |
Mất | 12 tháng 9, 2009 (95 tuổi) Dallas, Texas |
Quốc tịch | Hoa Kỳ |
Mục lục
Tiểu sử
Norman Borlaug là tiến sĩ di truyền và bệnh cây của Trường Đại học Minnesota (University of Minnesota) năm 1942. Ông chuyên nghiên cứu chọn giống lúa mì tại Mexico và đã giới thiệu phát triển những giống lúa mì thấp cây, năng suất cao, kháng sâu bệnh nổi tiếng khắp thế giới.Borlaug đã cống hiến suốt đời để cải thiện đời sống và thu nhập cho hàng trăm triệu nông dân nghèo trên toàn cầu. Ông dành nhiều thời gian cho giảng dạy, nghiên cứu, làm việc tại CIMMYT, CIANO ở Mexico, Trường đại học Texas A&M University và Trung tâm chọn tạo giống cây trồng Center for Southern Crop Improvement ở Mỹ. Ông đã thực hiện nhiều dự án giúp đẩy mạnh sản xuất lương thực của nhiều nước ở châu Phi tại Benin, Burkina Faso, Ethiopia, Ghana, Guinea, Mali, Malawi, Mozambique, Nigeria, Tanzania và Uganda, ở châu Á tại Ấn Độ, Pakistan,...; Ông là một trong những người sáng lập Giải thưởng Lương thực Thế giới (World Food Prize) và tổ chức nhiều hoạt động thiết thực khác. Đây là Cuộc cách mạng thứ hai của ông thắp sáng niềm tin yêu cuộc sống.
Sách và bài giảng
- Một số công trình tiêu biểu
- Wheat in the Third World. 1982. Authors: Haldore Hanson, Norman E. Borlaug, and R. Glenn Anderson. Boulder, Colorado: Westview Press. ISBN 0-86531-357-1
- Land use, food, energy and recreation. 1983. Aspen Institute for Humanistic Studies. ISBN 0-940222-07-8
- Feeding a human population that increasingly crowds a fragile planet. 1994. Mexico City. ISBN 968-6201-34-3
- Norman Borlaug on World Hunger. 1997. Edited by Anwar Dil. San Diego/Islamabad/Lahore: Bookservice International. 499 pages. ISBN 0-9640492-3-6
- The Green Revolution Revisited and the Road Ahead. 2000. Anniversary Nobel Lecture, Norwegian Nobel Institute in Oslo, Norway. 8 September 2000.
- "Ending World Hunger. The Promise of Biotechnology and the Threat of Antiscience Zealotry". 2000. Plant Physiology, October 2000, Vol. 124, pp. 487–490. (duplicate)
- Feeding a World of 10 Billion People: The Tva/Ifdc Legacy. 2003. ISBN 0-88090-144-6
- Prospects for world agriculture in the twenty-first century. 2004. Norman E. Borlaug, Christopher R. Dowswell. Published in: Sustainable agriculture and the international rice-wheat system. ISBN 0-8247-5491-3
- Foreword to The Frankenfood Myth: How Protest and Politics Threaten the Biotech Revolution. 2004. Henry I. Miller, Gregory Conko. ISBN 0-275-97879-6
- Norman E. Borlaug (2007) Sixty-two years of fighting hunger: personal recollections. Euphytica 157:287–297 ([1])
Tài liệu tham khảo
- Bickel, Lennard (1974). Facing starvation; Norman Borlaug and the fight against hunger. Pleasantville, N.Y.: Reader's Digest Press; distributed by Dutton, New York. ISBN 0-88349-015-3.
- Hesser, Leon (2006). The Man Who Fed the World: Nobel Peace Prize Laureate Norman Borlaug and His Battle to End World Hunger. Durban House. ISBN 1-930754-90-6.
Liên kết ngoài
Wikiquote có sưu tập danh ngôn về:
|
Videos, truyền hình, phát thanh
- Borlaug's York Lecture at American Society of Agronomy Annual Meetings. Challenges for the Crop Scientist in the 21st Century. 2007. Windows Media and Quicktime.
- 30th Anniversary Nobel Lecture. The Green Revolution Revisited and the Road Ahead. 2000. Transcript. Adobe Acrobat PDF.
- Legacy interviews. Dr. Borlaug, Advisory Board member of Legacy, five hours of audio-visual interviews featuring his life story.
- Borlaug on Need for Increasing Food Supply. 2000. Transcript.
- Dedication lecture, Delaware Biotechnology Institute. Feeding the World in the 21st century—The Role of New Science and Technology. 2001 April 26. RealMedia. 00:47:42.
- Lecture, Nobel Centennial Symposia. 2001 December 6. RealMedia. 00:11:34.
- Lecture, The Famous Purdue Ag Fish Fry. 2003 February 8. MS Media. 02:21:02.
- The Story of Norman Borlaug: 60 Years Fighting Hunger. 2003 July 10. RealMedia. 01:29:02.
- Discussion, Beahrs Environmental Leadership Program. 2004 January 5–9. University of California, Berkeley. Text.
- ECON100A Lecture, University of California, Berkeley. 2004 Spring. RealMedia. 01:29:02.
- Commencement address, University of Minnesota. 2004 May. CD track.
- CEI Prometheus award acceptance speech. 2004 May 19. MS Media. 00:10:57.
- Inaugural address, 1st World Congress of Agroforestry. 2004 June 27. Orlando, Florida, USA. RealMedia. 01:06:34.
- Keynote speech, USDA Agricultural Outlook Forum. 2005 February 24. Arlington, Virginia, USA. MS Media. 35 minutes.
- Radio interview by Penn Jillette. 2006 August 9. MP3 format. 00:43:27.
Những tổ chức và chương trình
- Norman Borlaug Institute for International Agriculture - Texas A&M University System
- The Borlaug Center for Southern Crop Improvement - Texas A&M University System
- CIMMYT - International Maize and Wheat Improvement Center
- Sasakawa-Global 2000
- The World Food Prize
- Legacy
- Norman E. Borlaug International Agricultural Science and Technology Fellows Program
- National Wrestling Hall of Fame's Hall of Outstanding Americans
- "The Green Revolution in the Punjab", by Vandana Shiva
- The Life and Work of Norman Borlaug, Nobel Laureate
- "Biotechnology and the Green Revolution", interview from November 2002
- Norman Borlaug: The Legend (agbioworld.com)
- Journal articles by Borlaug on PubMed
- List of Norman Borlaug articles and interviews
- Ears of plenty: The story of wheat, The Economist, December 20th, 2005
- "Billions Served", an interview in Reason by Ronald Bailey.
Wikimedia Commons có thêm thể loại hình ảnh và phương tiện truyền tải về Norman Borlaug |
Võ Tắc Thiên
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Võ Tắc Thiên 武則天 |
|
---|---|
Nữ hoàng đế duy nhất của lịch sử Trung Quốc (chi tiết...) | |
Hoàng đế nhà Võ Chu | |
Tại vị | 19 tháng 10, 690 - 22 tháng 2, 705 |
Tiền nhiệm | Đường Duệ Tông |
Kế nhiệm | Đường Trung Tông |
Hoàng hậu nhà Đường | |
Tại vị | 655 – 683 |
Tiền nhiệm | Vương hoàng hậu |
Kế nhiệm | Vi hoàng hậu |
Hoàng thái hậu nhà Đường | |
Tại vị | 683 - 690 |
Tiền nhiệm | Không có |
Kế nhiệm | Vi thái hậu |
Thông tin chung | |
Phối ngẫu | Đường Thái Tông Đường Cao Tông |
Tên đầy đủ | Mị; (媚;), sau này Chiếu | (曌)
Thụy hiệu | Tắc Thiên Thuận Thánh Hoàng Hậu 則天順聖皇后 |
Miếu hiệu | không có |
Hoàng tộc | Chu (周) Đường (唐) |
Thân phụ | Võ Sĩ Hoạch |
Thân mẫu | Dương Thị |
Sinh | 624 |
Mất | 16 tháng 12, 705 |
An táng | Càn Lăng |
Bà là nữ hoàng duy nhất trong lịch sử Trung Quốc, và để lại nhiều tranh luận về công tội giữa các nhà sử học. Bà đã trải qua các vị trí Tài nhân, Chiêu nghi, Hoàng hậu, Hoàng thái hậu, Hoàng đế, Thái thượng hoàng, nhưng cuối cùng trước khi qua đời đã quay lại với vị trí Hoàng hậu của nhà Đường. Việc bà nổi lên nắm quyền cai trị bị các nhà sử học Khổng giáo chỉ trích mạnh mẽ nhưng các nhà sử học từ sau thập kỷ 1950 đã có cái nhìn khác về bà.
Khi lên ngôi Hoàng đế bà đổi tên thành Võ Chiếu (武曌), chữ "Chiếu" trong tên bà vốn là chữ "chiếu" (照) nhưng để may mắn bà đã tự tạo chữ mới (日月当空, nhật nguyệt đương không) và là một trong những chữ trong Võ Hậu Tân tự. Bà là nữ hoàng duy nhất trong lịch sử Trung Quốc đã lập ra triều đại của riêng mình, nhà Võ Chu (周), và cai trị dưới danh hiệu Thánh Thần Hoàng Đế (聖神皇帝) từ 690 đến 705.
Mục lục
Xuất thân
Gia đình bà có nguồn gốc ở huyện Văn Thuỷ (文水), thuộc quận Tinh Châu (幷州; hiện nay là thành phố Thái Nguyên tỉnh Sơn Tây). Cha bà là Võ Sĩ Hoạch (武士彠) (577-635), một thành viên thuộc một gia đình quý tộc danh tiếng ở Sơn Tây. Mẹ bà họ Dương (楊氏) (579-670), xuất thân từ gia đình quý tộc hoàng gia nhà Tuỳ.Võ Tắc Thiên không phải sinh ở Văn Thuỷ, bởi cha bà đảm nhận nhiều chức trách ở nhiều nơi trong suốt cuộc đời. Bà được cho là sinh ở Lợi Châu (利州) (hiện là thành phố Quảng Nguyên (廣元市), phía bắc tỉnh Tứ Xuyên, cách Văn Thủy khoảng 800 km về phía tây nam) vì có bài thơ "Lợi Châu Giang Đàm Tác" của Lý Thương Ẩn đời nhà Đường, trong đó có câu "Cảm dục kim luân sở", "Kim Luân Thánh Vương" được nhà thơ chú thích ở phía dưới là Lợi Châu, "Kim Luân Thánh Vương" tức Võ Tắc Thiên., nhưng một số nơi khác cũng được cho là nơi sinh của bà gồm cả thủ đô Trường An. Một số người khác cho rằng quê bà ở Tinh Châu (nay là Văn Thủy, tỉnh Sơn Tây).
Nhập cung
Bà được đưa vào hậu cung Đường Thái Tông nhà Đường vào khoảng năm 635 và là một Tài Nhân (才人), tức là một trong chín người thiếp cấp thứ năm. Thấy tên Võ Chiếu không đẹp, Đường Thái Tông đặt tên cho bà là Mị (媚), có nghĩa là "duyên dáng, xinh đẹp", và vì vậy còn được người Trung Quốc gọi là Võ Mị Nương (武媚娘). Có thể thời gian này bà đã gặp thái tử Lý Trị và có tình cảm lén lút với vị vua tương lai này.Năm 649, Đường Thái Tông băng hà, theo luật lệ, Võ Mị Nương phải rời cung để vào chùa Cảm Nghiệp xuống tóc. Thái tử Lý Trị lên ngôi, tức là Đường Cao Tông.
Quay lại hậu cung
Năm 651, Đường Cao Tông đưa bà trở lại hoàng cung sau khi đi cúng tế cho cha tại chùa Cảm Nghiệp. Vương hoàng hậu (王皇后), Hoàng hậu của Đường Cao Tông đã chủ động hỗ trợ đưa bà về vì khi đó Cao Tông đang sủng ái Tiêu thục phi (蕭淑妃), và muốn dùng Võ Mị trong việc tranh giành quyền lực. Có thuyết lại cho rằng bà chưa từng rời hoàng cung. Tiêu thục phi bị thất sủngTháng 5, năm 651, Võ Mị được phong Chiêu Nghi (昭儀), việc phong Chiêu nghi được các đại thần thanh liêm đồng ý hết mình.
Năm 654, Võ Chiêu nghi sinh một con gái, nhưng đứa trẻ bị chết sau khi sinh 1 tháng. Trước khi đứa trẻ chết, Vương hoàng hậu có đến thăm nên bị nghi ngờ là nhân cơ hội hạ độc thủ tiểu công chúa (An Bình, tên thật Lý Lệnh Ngọc).
Năm 655, Vương hoàng hậu và Tiêu thục phi mời đồng cốt yếm bùa mong gian hại Võ Chiêu nghi nhưng bại lộ. Đường Cao Tông sau khi phát hiện đã phế bỏ hai người họ.
Hoàng hậu - Thiên hậu
Tháng 10 năm 655, Đường Cao Tông phong Võ chiêu nghi làm hoàng hậu.Năm 660, Đường Cao Tông bị trúng gió đột quỵ, Võ hậu liền tham gia chính sự từ phía sau rèm cùng vua, nên gọi là Nhị thánh lâm triều. Cao Tông nhất nhất đều nghe theo lời Võ hậu, tuy nhiên nhận thấy sự nguy hiểm của bà, nên đã ngầm ra lệnh cho Thượng Quan Nghi tìm cách phế truất. Việc bại lộ, Thượng Quan Nghi bị Võ hậu xử tội chết, Cao Tông cũng mất hết quyền lực, hoàn toàn phụ thuộc vào Võ hậu. Tuy nhiên Võ hậu về sau lại rất trọng dụng Thượng Quan Uyển Nhi, là cháu nội của Thượng Quan Nghi.
Thái tử Lý Trung (con của Cao Tông và một người thiếp thấp kém, Vương hoàng hậu nhận làm con) bị giáng và bị giết. Con cả của Võ hậu là Lý Hoằng (Lý Cường) được phong thái tử.
Năm 667, Cao Tông quá yếu, giao cho thái tử Lý Cường giám quốc, thực ra vẫn do Võ hậu làm chủ. Năm 674, triều đình tôn Cao Tông là Thiên hoàng, Võ hậu là Thiên hậu. Võ Tắc Thiên thích dùng tôn xưng Thiên hậu cho đến tận khi làm hoàng đế. Vì vậy, sử sách nhà Đường chép rằng: "Các quần thần tấu sự, mọi việc hoàng hậu đều thay vua quyết đinh". Vì vậy, dân chúng có câu: "Cao Tông là Thiên Hoàng, Tắc Thiên là Thiên Hậu" và gọi là "Nhị thánh" trong cung. Hai chữ "Tắc Thiên" có nghĩa: "Tắc" là phép tắc, tức pháp luật. "Thiên" là trời, tức Võ Tắc Thiên là người "thay trời hành đạo".
Lý Hoằng có thái độ bất mãn với việc mẹ mình can dự quá nhiều vào triều chính. Trong chuyến thăm hành cung ở Hà Bắc cùng cha mẹ, Lý Hoằng đột ngột qua đời. Hầu hết các sử gia thời phong kiến cho rằng ông đã bị mẹ đầu độc.
Võ hậu đưa con thứ hai là Lý Hiền lên làm thái tử. Thái tử Lý Hiền vốn có khoảng cách với Võ hậu, lại hay tỏ vẻ bất kính nên bị giáng làm thứ dân năm 684. Sau đưa con thứ ba là Lý Hiển lên thay. Lý Hiền được trở lại vị trí hoàng tử vài năm sau. Ông cố gắng hiếu thảo với mẫu thân Võ Mị Nương và Cao Tông Hoàng Đế.
Trong giai đoạn này, Võ hậu đã có nhiều chính sách chính trị đổi mới, được đánh giá cao.
Hoàng thái hậu
Năm 683, Đường Cao Tông băng hà, thái tử Lý Hiển lên ngôi, tức là Đường Trung Tông, Võ Tắc Thiên làm Hoàng thái hậu, nắm toàn bộ chính sự. Một tháng sau, với lý do Đường Trung Tông để vợ là Vi hoàng hậu lộng quyền, Võ hậu phế vua xuống làm Lư Lăng Vương, lập con trai thứ tư (Lý Đán) lên làm vua, tức Đường Duệ Tông. Trong các năm tiếp theo, Võ hậu lần lượt ra tay với các vương gia là con của Đường Thái Tông như Việt vương Lý Trinh, Lang Nha vương Lý Trọng.Đồng thời Võ hậu cho xây dựng nhiều cung điện, lớn nhất là tòa Minh Đường cao gần ba trăm trượng, sau đổi là Vạn Tượng Thần cung. Minh Đường hoàn thành, có kẻ dâng viên đá trên có chữ "Thánh mẫu lâm nhân, Vĩnh xương đế nghiệp" nên Võ hậu đổi tôn hiệu của mình là Thánh mẫu thần hoàng.
Xưng hoàng đế
Năm 690, sư Pháp Minh dâng bốn quyển Đại Vân kinh ca ngợi Võ hậu là Phật Di Lặc xuống trần, là chủ của thiên hạ. Võ hậu sai in rồi phát ra khắp nơi, đề cao Phật giáo trên Đạo giáo.Tháng 9 năm 690, Võ hậu lên ngôi Hoàng đế cùng với sự nhường ngôi hoàng đế của Đường Duệ Tông, đổi quốc hiệu là Chu với ý kế tục sự nghiệp nhà Chu xưa kia, quốc tính là họ Võ, tôn Chu Văn Vương làm Thủy tổ Văn hoàng đế. Giáng Đường Duệ Tông xuống làm Hoàng tử, rồi sau đó phế bỏ, lại phong cháu là Võ Thừa Tự làm Ngụy vương, Võ Tam Tư làm Lương vương.
Trước đó, Võ hậu đổi cách viết chữ Chiếu trong tên của mình thành (曌), với hình Mặt trời, Mặt Trăng trên không, để tỏ quyền tối thượng. Cùng với đó là 11 chữ khác gọi là Võ hậu tân tự
Lý thuyết chính trị Trung Quốc truyền thống không cho phép một phụ nữ được lên ngôi, Võ hậu quyết định dẹp yên chống đối và đưa các quan lại trung thành vào triều. Từ Kính Nghiệp, một viên tư mã cử binh đánh bà bị thua rồi chết. Một vài thân vương cũng đem quân chống bà, cũng bị giết.
Thời cai trị của bà để dấu ấn về sự xảo quyệt tài tình và chuyên quyền hung bạo. Dưới thời cai trị, bà lập ra tuần tra mật để đối phó với bất kỳ chống đối nào có thể nổi lên, với cái tên khét tiếng Lai Tuấn Thần, Chu Hưng, nhưng đồng thời cũng có những hiền tài như Địch Nhân Kiệt.
Khi về già, Võ hậu sủng ái hai anh em Trương Dịch Chi và Trương Xương Tông là hai kẻ bất tài nhưng đẹp trai, khiến triều đình rất bất bình. Tháng 10 năm 695, sau nhiều lần thêm chữ, tên của bà được đổi thành Thiên Sách Kim Luân Thánh Thần Hoàng Đế, làm lễ phong thiền ở Tung sơn.
Võ hậu phân vân khi chọn người truyền ngôi, giữa con ruột họ Lý và cháu ruột họ Võ. Cuối cùng với sự khuyên giải của Địch Nhân Kiệt, bà quyết định lập Lý Hiển làm thái tử. Tuy nhiên bà bắt các con thề độc rằng không được làm hại họ Võ (dù vậy cuối cùng họ Võ vẫn bị tiêu diệt bởi người cháu nội của bà là Lý Long Cơ).
Cuối đời
Đến năm 705, Võ hậu ngoài 80 tuổi đã rất ốm yếu. Tháng 2, tể tướng Trương Giản Chi lãnh đạo cuộc đảo chính giết hai anh em họ Trương, xông vào cung buộc Võ hậu truyền ngôi cho thái tử Lý Hiển. Đường Trung Tông Lý Hiển lại lên làm vua lần nữa, Võ hậu trở thành Thái thượng hoàng, rồi qua đời vào tháng 11 năm 705. Khi lâm chung bà yêu cầu dùng thụy hiệu là Hoàng hậu chứ không phải Hoàng đế, do đó không có miếu hiệu.Bà được chôn tại Càn Lăng, cùng chỗ với Đường Cao Tông. Bia mộ của bà là một tấm bia để trống hoàn toàn (Vô tự bi), với ý là để đời sau phán xét.
Càn Lăng đã ít nhất 17 lần bị âm mưu đục phá, trong đó có 3 lần nghiêm trọng nhất. Lần đầu trong loạn Hoàng Sào, có tới 40 vạn binh sĩ đào bới mé tây đồi Lương Sơn, vạt hẳn một nửa quả đồi. Lần thứ 2 do Ôn Thao, tiết độ sứ tại Diệu Châu thời Ngũ Đại Thập Quốc, kẻ trước đó đã đào trộm 17 ngôi hoàng lăng nhà Đường. Lần thứ 3 do quân Quốc Dân đảng của Tôn Liên Trọng thời Trung Hoa Dân quốc, đã dùng cả thuốc nổ để phá. Nhưng cả 3 lần đều không thành, và Càn Lăng vẫn nguyên vẹn cho tới ngày nay, trở thành di tích khảo cổ và tham quan quý báu. Về điểm này, Võ hậu và chồng đã may mắn hơn những vị hoàng đế nổi tiếng khác, khi mà Mậu Lăng của Hán Vũ Đế, Chiêu Lăng của Đường Thái Tông... đã bị phá sạch trong thời chiến loạn.
Đầu tháng 5/2008, khi các nhà khảo cổ Trung Quốc khai quật mộ Võ Tắc Thiên tại Huyện Càn cách 80 km về phía Tây Bắc thành phố Tây An, tỉnh Thiểm Tây, Trung Quốc, họ đã tìm được hơn 500 tấn văn vật trong mộ. Việc tìm ra mộ phần và các cổ vật trong mộ Võ Tắc Thiên đã giúp các nhà sử học xác định được nhiều thông tin xung quanh thân thế, sự nghiệp của vị nữ hoàng này. Các nhà khảo cổ phát hiện thấy Đường Cao Tông Lý Trị và Võ Tắc Thiên cùng hợp táng ở tầng ngầm sâu cuối cùng của lăng mộ. Khu lăng tẩm này có ba cửa Đông, Bắc, Tây. Ba cửa này có kết cấu giống nhau, đều có các đài tế lễ trước cửa cung điện, có hành lang đặt vũ khí gươm giáo và cửa cung điện. Tại cửa phía Bắc, các nhà khảo cổ phát hiện thấy rất nhiều ngựa đá, hổ đá, tảng đá trạm trổ điêu khắc, trong đó hổ đá đặc trưng của đời Đường vẫn còn nguyên vẹn. Khu lăng tẩm có quy mô rất lớn với những bức tường bao quanh được xây theo hình vuông rất vững chắc, mỗi cạnh có chiều dài tới 380 mét vuông.
Viện trưởng danh dự Viện nghiên cứu khảo cổ tỉnh Thiểm Tây - ông Thạch Hưng Bang cho biết, qua những văn vật khai quật được trong mộ cho thấy, thời kỳ Đường Cao Tông và Võ Tắc Thiên trị vì là thời kỳ hưng thịnh nhất của triều đại nhà Đường. Khi Đường Cao Tông chết, giá trị của vật tùy táng quí báu chôn theo vua chiếm tới 1/3 quốc khố. Hơn 20 năm sau, khi Võ Tắc Thiên qua đời, triều đình cũng chôn theo số báu vật trị giá tới 1/3 quốc khố trong mộ bà.[1]
Nhận định của đời sau
Mặc dù chỉ tồn tại một thời gian ngắn, theo một số nhà sử học, nhà Võ Chu đã có được một hệ thống bình đẳng giới tốt hơn so với nhà Đường giai đoạn tiếp sau nó.Nhiều người đời sau coi Võ hậu là điển hình của sự độc ác, khi mà vì quyền lực, Võ hậu sẵn sàng hạ thủ người thân, thậm chí ngay cả với con ruột mình. Nhìn vào các sự kiện trong cuộc đời bà theo ám chỉ trong văn chương có thể mang lại nhiều ý nghĩa: một phụ nữ đã vượt qua những giới hạn của mình một cách không thích hợp, thái độ đạo đức giả khi thuyết giáo về lòng trắc ẩn, trong khi cùng lúc ấy lại tiến hành mô hình tham nhũng và hành xử một cách xấu xa, tàn nhẫn ngay cả với người thân và cai trị bằng cách điều khiển từ phía sau hậu trường.
Tuy nhiên, trong triều cũng có nhiều người ủng hộ bà, vì phục bà minh sát, quyết đoán đúng, có tài trị nước. Trong số đó có cả những đại thần hiền năng, được trọng vọng như Lâu Sử Đức, Địch Nhân Kiệt, Tống Cảnh; và bà biết tin dùng những người đó, nên việc chính không rối loạn, dân chúng vẫn yên ổn làm ăn, coi những vụ lộn xộn ở triều chỉ là việc riêng của họ Lí. Khi đọc bài Hịch dẹp Võ Chiếu, trong đó Lạc Tân Vương mạt sát bà thậm tệ, bà đã không giận, còn khen Lạc là có tài và trách viên tể tướng đã không biết thu phục. Về sau, bà bị truất ngôi nhưng không bị giết mà chỉ bị giam trong cung rồi chết vì già yếu, như vậy đủ biết triều thần không quá oán hận bà.[2]
Nhà Chu (690 - 705)
Quy ước: Sử dụng tên riêng | |||
Miếu hiệu | Họ và Tên | Giai đoạn cai trị | Niên hiệu và khoảng thời gian sử dụng |
---|---|---|---|
Không có | Võ Chiếu(武曌) | 690-705 | Thiên Thụ (天授): 16, tháng 11, 690 - 21 tháng 4, 692 (18 tháng) Như Ý (如意): 22 tháng 4- 22 tháng 10, 692 (6 tháng) Trường Thọ (長壽): 23 tháng 10, 692 - 8 tháng 6, 694 (19 ½ tháng) Duyên Tái (延載): 9 tháng 6, 694 - 21 tháng 1, 695 (7 ½ tháng) Chứng Thánh (證聖): 22 tháng 1 - 21 tháng 10, 695 (9 tháng) Thiên Sách Vạn Tuế (天冊萬歲): 22 tháng 10, 695 - 19 tháng 1, 696 (3 tháng) Vạn Tuế Đăng Phong (萬歲登封): 20 tháng 1 - 21 tháng 4, 696 (3 tháng) Vạn Tuế Thông Thiên (萬歲通天): 22 tháng 4, 696 - 28 tháng 9, 697 (17 tháng) Thần Công (神功): 29 tháng 9 - 19 tháng 12, 697 (2 ½ tháng) Thánh Lịch (聖曆): 20 tháng 12, 697 - 26 tháng 5, 700 (29 tháng) Cửu Thị (久視): 27 tháng 5, 700 - 14 tháng 2, 701 (8 ½ tháng) Đại Túc (大足): 15 tháng 2 - 25 tháng 11, 701 (9½ tháng) Trường An (長安): 26 tháng 11, 701 - 29 tháng 1, 705 (38 tháng) Thần Long (神龍): 30 tháng 1 - 3 tháng 3, 705 (Nhà Chu bị bãi bỏ vào ngày 3 tháng 3 năm 705 và nhà Đường được tái lập ngay ngày hôm đó, nhưng giai đoạn Thần Long kéo dài tới tận năm 707) |
Các tôn hiệu
Võ Tắc Thiên rất thích các tôn hiệu mĩ miều, do đó đã nhiều lần thay đổi, thêm bớt chữ vào tôn hiệu, bao gồm:- Thánh Thần hoàng đế (圣神皇帝)
- Tắc Thiên Đại Thánh hoàng đế (则天大圣皇帝)
- Thánh Mẫu Thần Hoàng (圣母神皇)
- Kim Luân Thánh Thần hoàng đế (金轮圣神皇帝)
- Việt Cổ Kim Luân Thánh Thần hoàng đế (越古金轮圣神皇帝)
- Từ Thị Việt Cổ Kim Luân Thánh Thần hoàng đế (慈氏越古金轮圣神皇帝)
- Thiên Sách Kim Luân Thánh Thần hoàng đế (天册金轮圣神皇帝)
- Thiên hậu, Đại Thánh Thiên hậu (năm 710 đời Đường Huyền Tông)
- Thiên hậu Thánh đế, Thánh Hậu (năm 712 đời Đường Huyền Tông)
- Tắc Thiên hoàng hậu (716)
- Tắc Thiên Thuận Thánh hoàng hậu (749)
Con
- Công chúa An Định: đứa trẻ chết yểu do bị bà bóp cho ngạt thở
- Lý Hoằng (652-675): làm Thái tử, được cha là Đường Cao Tông phong là Hiếu Kính hoàng đế, miếu hiệu Đường Nghĩa Tông
- Lý Hiền: bị giết trong cuộc chiến tranh giành quyền lực
- Lý Hiển: Đường Trung Tông, còn có tên là Lý Triết
- Lý Đán: Đường Duệ Tông, còn có tên là Lý Húc Luân, Lý Luân
- Công chúa Thái Bình
Truyền thuyết
Võ Tắc Thiên được nhắc đến trong nhiều câu chuyện dân gian, chủ yếu mang tính phê phán sự chuyên quyền và tàn nhẫn của bà. Một số câu chuyện như:Trị ngựa dữ
Đường Thái Tông được Tây Vực tặng một con ngựa rất dữ tên là Hổ Tử Thông, không ai trị được. Võ Mị xin ra trị ngựa, với ba thứ là một cây roi sắt, một cái búa sắt, một ngọn dao nhọn. Đường Thái Tông hỏi dùng những thứ đó để làm gì thì Võ Mị trả lời rằng: "Trước hết dùng roi sắt mà đánh nó bắt khuất phục; nếu không chịu thì dùng búa sắt đánh vào đầu nó; còn nếu dùng búa sắt đánh vẫn không được thì dùng dao đâm chết nó đi, vì thứ không trị được thì để làm gì?" Bà dùng roi sắt đánh ngựa, nhưng ngựa vẫn không phục, tiếp đó bà dùng gậy sắt đập vào đầu ngựa, ngựa vẫn không phục. Bà liền rút dao găm đâm vào cuống hầu ngựa. Vua thấy vậy sợ quá, liền lệnh thôi không thuần ngựa nữa[1]Giết con
Dân gian và các nhà chép sử cho rằng Võ hậu là thủ phạm trong cái chết của 3 người con ruột của bà.Truyền thuyết cho rằng khi sinh đứa con đầu lòng là con gái, Võ Chiêu nghi rất không vui, dù Đường Cao Tông thì rất yêu quý. Một ngày khi Vương hoàng hậu (không có con) vì muốn làm lành và cũng yêu trẻ nhỏ đến thăm đứa bé. Khi hoàng hậu ra về, Võ Chiêu nghi đã bóp mũi chết đứa con của mình. Khi Đường Cao Tông vào thăm công chúa nhỏ, thấy nó đã chết, vô cùng giận dữ tra hỏi cung nữ, thì thấy bảo chỉ có mỗi hoàng hậu là người vào thăm. Do đó Cao Tông cho rằng hoàng hậu giết con mình vì ganh ghét.
Võ hậu cũng bị kết tội đã đầu độc chết con trai cả là thái tử Lý Cường vào năm 675 vì thái tử tỏ ý chống lại việc mình can dự vào triều chính (dù có giả thuyết khác là thái tử đã qua đời tự nhiên vì lao phổi). Dù sao, Võ hậu chắc chắn có liên quan đến vụ việc thứ ba: ra lệnh ép người con thứ hai là thái tử Lý Hiền phải tự tử vào năm 684.
Vì lý do này mà người đời sau coi Võ hậu là điển hình của sự độc ác, khi mà đến cả "Hổ dữ cũng không ăn thịt con", trong khi Võ hậu thì sẵn sàng hạ thủ ngay cả với con ruột mình.
Sợ mèo
Khi lên được ngôi hoàng hậu rồi, Võ hậu trả thù Vương hoàng hậu và Tiêu thục phi bằng cách sai chặt hết chân tay họ rồi bỏ vào chum rượu ngâm để họ không chết ngay. Tại đây Võ hậu đã tiết lộ với Vương hoàng hậu là chính mình đã giết con gái để đổ tội. Vương hoàng hậu đã kêu rằng: "Tại sao kẻ ác như ngươi mà sinh được con, còn ta thì không thể?", còn Tiêu thục phi thì nguyền rằng sẽ biến thành mèo để đêm vào xé xác Võ hậu.Võ Hậu sợ mèo vì đã giết chết con mèo mà bà từng yêu quý nhất. Nhưng nó đã phản bội bà đi theo Vương Hoàng Hậu khi bà bị bắt vào lãnh cung. Do đó, bà thẳng tay giết nó và luôn luôn bị ám ảnh bởi tiếng mèo kêu, đêm đêm thấy hình ảnh con mèo hiện về trong giấc ngủ.[3]
Đày hoa mẫu đơn
Võ hậu khi lên ngôi Hoàng đế, quyền uy cao tột đỉnh, một ngày cuối đông ra vườn ngự uyển thấy cây cối héo úa không hoa, đã lớn tiếng ra lệnh cho tất cả các loài hoa trong vườn phải nở vào đúng ngày Tết Nguyên đán. Sáng Nguyên đán, Võ hậu ra vườn thấy tất cả các hoa đều nở tung, chỉ có hoa mẫu đơn vẫn không nở. Võ hậu tức giận sai nhổ toàn bộ mẫu đơn đi, đày đến phương nam. Do đó chỉ có Giang Nam là có mẫu đơn đẹp.Tượng Phật Long Môn
Võ hậu tôn sùng Phật giáo, đã ra lệnh đục các tượng Phật tại khu vực hang đá Long Môn. Tại đây pho tượng chính giữa lớn nhất là tượng Phật Đại Nhật (Tỳ lô giá na - Vairocana) được điêu khắc theo khuôn mặt của Võ hậu.Vết sẹo của Thượng Quan Uyển Nhi
Thượng Quan Uyển Nhi là cháu của Thượng Quan Nghi, Võ Tắc Thiên dùng làm nữ quan lo tất cả các việc văn thư trong hoàng cung và ngoài triều đình. Trương Xương Tôn tuy hầu hạ Võ Tắc Thiên nhưng lại có tư tình với Uyển Nhi, một lần hai người lén lút gặp nhau thì Võ Tắc Thiên bắt gặp. Tức giận, Võ Tắc Thiên đã ném cái bát vào giữa trán Uyển Nhi (một thuyết khác là Võ Tắc Thiên sai người dùng dao rạch), tạo thành một cái sẹo lớn chính giữa trán. Tuy nhiên vết sẹo lại làm cho Thượng Quan Uyển Nhi trông xinh đẹp hơn. Thế là từ đó lan truyền ra, các tiểu thư, mệnh phụ đều bắt chước vẽ chấm đỏ hoặc hình hoa mai vào giữa trán, trở thành một kiểu trang điểm rất được ưa chuộng dưới triều nhà Đường.[4]Các câu chuyện về dâm loạn
Có nhiều câu chuyện về sự dâm loạn của Võ hậu, một phần do đời sau thêu dệt, một phần là sự thật[5]:- Hai mẹ con chung một người đàn ông: Võ hậu được con gái là Thái Bình Công chúa tiến cử một kẻ lực lưỡng là Phùng Tiểu Bảo, giả bắt hắn tu làm sư để thường xuyên gọi vào cung thông dâm. Võ hậu vô cùng sủng ái, gọi hắn là chú để có cớ cho vào cung, ban cho tên mới là Hoài Nghĩa vào năm 685. Sư Hoài Nghĩa ra vào cung tự do, lên điện không chào, chính là người dựng Minh Đường, tạo tác tượng Phật Di Lặc khổng lồ và một ngôi chùa rất vĩ đại để vui lòng Võ hậu. Tuy nhiên sau đó Võ hậu có Trầm thái y thì lạnh nhạt với Hoài Nghĩa, khiến gã tức giận nổi lửa đốt cháy toàn bộ tượng và chùa. Võ hậu không tiện trị tội, sai Thái Bình công chúa ra tay. Ngày 25-12 năm 694, Thái Bình gọi Hoài Nghĩa vào vườn rồi huy động các cung nữ lực lưỡng đánh đến chết. Xác Hoài Nghĩa được đem đến đền Bạch Mã và hỏa táng, sau đó trộn lẫn vào trong đống đất bùn được sử dụng để xây một ngôi chùa.
- Võ hậu ốm, mời Thái y họ Trầm vào bốc thuốc, nhân đó hỏi về thuốc kích dục. Trầm thái y dâng phương thuốc có công hiệu, Võ hậu bắt ông phục vụ mình. Dù bồi bổ thế nào, Trầm thái y cũng không đáp ứng nổi, cuối cùng lao lực mà chết.
- Sau khi Trầm thái y chết, năm 702, Thái Bình công chúa tiến cử Trương Xương Tông có tài thổi sáo, rất đẹp trai lại có tài trong phòng the khiến Võ hậu rất vui. Trương Xương Tông lại tiến cử anh mình là Trương Diệc Chi vào hầu hạ, được phong chức tước bổng lộc cực hậu. Không những thế, Trương còn liều lĩnh cặp ngay với một nha đầu thân cận của Võ Tắc Thiên. Vào một ngày Võ Tắc Thiên bắt gặp, đã rút gươm và chém sượt qua đầu. Tuy nhiên sau đó chuyện này đã được giải quyết êm vì Thái Bình công chúa có ý kiến rằng: "Không nên làm to chuyện, làm trò cười cho thiên hạ"'. Sau này cả 2 anh em đều bị giết khi thái tử Lý Hiển làm binh biến khôi phục nhà Đường năm 705.
- Các quan thấy Võ hậu đa dâm lụy tình cũng tiến cử con em, thậm chí chính mình vào để hầu Nữ hoàng hòng kiếm lợi lộc. Võ hậu bèn lập ra Phụng Thần viện, với danh nghĩa là nuôi chim hạc, là nơi tập hợp các thanh niên tuấn tú khỏe mạnh nhằm thỏa mãn mình. Phụng Thần viện trở thành nơi dâm loạn nhất của triều đại nhà Đường. Những thanh niên bị thất sủng sẽ bị giết để diệt khẩu và ném xuống hồ. Sau này Huyền tông Lý Long Cơ cho khai quật đã phát hiện hàng đống xương người dưới hồ.
Ghi chú
Ghi chú chung: ngày tháng ở đây được lấy theo lịch Julius, không theo lịch Gregory đón trước.- ^ Năm được suy ra từ tuổi khi chết được ghi trong Tân Đường thư (新唐書), biên soạn vào năm 1045-1060, là năm được các nhà sử học hiện đại lựa chọn. Năm sinh được tính từ Cựu Đường thư (舊唐書), soạn vào năm 941-945, là 623. Năm sinh được tính ra từ Tư trị thông giám được soạn vào năm 1065-1084, là 624. Được Đường Thái Tông đặt tên vào cuối những năm 630 sau khi bà đã vào hoàng cung (xem trong bài).
- ^ Đã phát minh ra ký tự Trung Quốc này vào tháng 12, 689 và lấy đó làm tên. Trở thành tên húy của bà khi bà lên ngôi vào năm sau. Một số nguồn xác nhận rằng từ này được viết trên thực tế Chiếu 瞾 . Một số nguồn cũng cho rằng tên gốc bà được đặt là Chiếu (照) , và rằng năm 689 bà chỉ đổi những phần cấu thành tên bà, nhưng điều này không được xác nhận trong Cựu Đường thư và trong Tân Đường thư, cả hai đều ghi tên gốc của bà, nếu bà có.
- ^ Bà đã nắm một phần quyền lực vào năm 660, và nắm hoàn toàn quyền lực từ tháng 1, 665 (xem bài bên trong). Nhà Chu được tuyên bố thành lập vào 16 tháng 10, 690, và bà tự tuyên bố mình làm Hoàng đế vào 19 tháng 10, giáng con bà Đường Duệ Tông làm người thừa tự.
- ^ Mất quyền lực sau cuộc đảo chính trong hoàng cung 10 tháng 2, 705. Sau đó vào 22 tháng 2 bị bắt buộc phải trao lại chức vị cho con trai lớn, được lập làm Đường Trung Tông vào 23 tháng 2
- ^ Nhà Chu bị bãi bỏ trước khi bà chết, và bà bị giáng xuống cấp hoàng hậu vợ vua khi chết, vì thế bà không có miếu hiệu. Ở Trung Quốc, hoàng hậu vợ vua, không giống như các hoàng đế cai trị, không được trao miếu hiệu.
- ^ Tắc Thiên là người đầu tiên được trao huy hiệu (徽號) vào tháng 2, 705 bởi người con trai được tái lập làm vua là Trung Tông. Huy hiệu đã được sử dụng làm thụy hiệu của bà tên khi bà chết mười tháng sau đó.
- ^ Tên thụy cuối cùng của bà được đặt vào tháng 7, 749.
Xem thêm
Tham khảo
- ^ a ă http://kienthuc.net.vn/tham-cung/tinh-tiet-bat-ngo-ve-than-the-vo-tac-thien-264406.html
- ^ Nguyễn Hiến Lê, sđd.
- ^ http://www.baodatviet.vn/doi-song/201108/Vo-Tac-Thien-kieu-ngao-tac-tuong-Phat-mang-guong-mat-minh-2252565/
- ^ http://www.nguoiduatin.vn/chuyen-tra-thu-kinh-hai-cua-nu-hoang-dam-tac-a62951.html
- ^ http://vtc.vn/phong-su-kham-pha/giai-ma-kha-nang-tinh-duc-vo-bien-cua-vo-tac-thien-3815.html
- Nguyễn Hiến Lê, Sử Trung Quốc.
- Lâm Hán Đạt, Tào Dư Chương, Lịch sử Trung Quốc 5000 năm.
Liên kết ngoài
- Nghe truyện Tình sử Võ Tắc Thiên trực tuyến trên trang web kkvn.net
- Vì sao bia mộ Võ Tắc Thiên không có chữ? Lịch sử Việt Nam
Tiền nhiệm: Đường Duệ Tông |
Hoàng đế Trung Quốc 690–705 |
Kế nhiệm: Đường Trung Tông |
Wikimedia Commons có thêm thể loại hình ảnh và phương tiện truyền tải về Võ Tắc Thiên |
Trận Leipzig
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
|
Diễn ra trong vòng ba ngày, trận đấu đước mở đầu bằng các cuộc giao tranh vào ngày 16 tháng 10 khi Napoléon đã không thể giáng một đòn quyết định vào đối phương.[10][11] Và, ngày 17 tháng 10 thì yên tĩnh hơn. Tuy nhiên, trong ngày hôm ấy liên quân có thêm được viện binh của Bá tước Bennigsen và Thái tử Karl Johan - góp phần dẫn đến thắng lợi quyết định của họ.[2] Sang hôm sau (ngày 18 tháng 10 năm 1813), các tướng lĩnh quân đồng minh là Schwarzenberg, Karl Johan và Blücher đã vây được đại quân của Napoléon, và những cuộc giao chiến hết sức đẫm máu đã khiến cho cả hai phe đều hứng chịu thiệt hại nặng nề, cuối cùng quân Pháp đại bại và bị đánh lui vào thành phố. Quân Phổ tiên phong chọc thủng hàng ngũ quân Pháp.[12][13] Napoléon không những thất thế mà lại còn phải hứng chịu thiệt hại nặng nề. Thua tan tác, Napoléon phải rút quân vào ngày 19 tháng 10 năm 1813. Quân Phổ thừa thắng đột phá vào Leipzig trong khi quân Thụy Điển cũng đánh bật quân Pháp. Chiến thắng quyết định của phe Liên minh đã bẻ gãy chiến dịch cuối cùng của ông tại Đức.[1][14][15] Do bị áp đảo về quân số, Napoléon dù đã dựa vào nội tuyến để chống lại quân đồng minh vốn thiếu hợp tác và đố kỵ nhau, vẫn bị đại bại.[16] Trên đường rút quân, ông còn gặp tai ương khi một viên Hạ sĩ được lệnh đánh sập cầu để chặn đứng Liên quân lại hành động lúc quân Pháp còn kẹt lại, làm cho quân Pháp chịu thêm nhiều thiệt hại thê thảm nữa.[13][17] Trận Leipzig đẫm máu được xem là thất bại nặng nề nhất của Napoléon[18] và là một quả đắng tiếp tục thể hiện hạn chế của tài nghệ của ông kể từ sau trận Borodino diễn ra năm 1812.[16] Tuy rút được quân ra khỏi sông Rhein, quân đội Pháp đã bị rệu rã và chiến thắng bước ngoặt này của các nước phong kiến châu Âu đã định đoạt cho tương lai của cả châu lục.[3][13]
Chiến thắng vẻ vang của quân Liên minh tại Leipzig được xem là đại họa của nước Pháp dưới thời Napoléon, báo hiệu sự mất ngai vàng của ông lần đầu.[4][10][19] Để giành thắng lợi trong trận đánh này, quân đội Liên minh thứ sáu đã phải chịu nhiều hy sinh, tuy nhiên tổn thất bên phía quân Pháp nhiều hơn cả đối phương. Với sức chiến đấu hiệu quả của mình, lực lượng Quân đội Phổ, sau một quá trình cải cách lâu dài, đã giành lại được vinh quang nức tiếng kể từ sau thảm bại trong trận Jena hồi năm 1806.[20][21] Trong trận ác chiến này thì xứ Sachsen chuyển từ phe Đế chế Pháp sang Liên minh - một sự kiện khiến quân Pháp choáng ngập[10], góp phần đem lại thảm họa cho Napoléon. Chiến thắng quyết định tại trận Leipzig là sự tiếp nối cho chiến thắng của nước Nga trong cuộc cuộc Chiến tranh Vệ quốc chống quân xâm lược Napoléon hồi năm 1812,[22] và diễn ra đúng lúc quân Anh cũng đang dần tiến vào nước Pháp. Với thắng lợi quyết định này, phe Liên minh đã phá vỡ đế quốc của ông tại Đức và Ba Lan.[13] Quân Liên minh thừa thắng đã tiến công thẳng vào chính quốc Pháp và cuối cùng dẫn đến sự thất bại hoàn toàn của Napoléon buộc ông phải thoái vị vô điều kiện vào mùa xuân năm 1814.[17][23]
Mục lục
Bối cảnh lịch sử
Tuy Napoléon đánh bại Đế quốc Nga vào năm 1807 và Đế quốc Áo vào năm 1809, ông vẫn không thể củng cố các thắng lợi này.[16] Sau khi Napoléon thất bại trong cuộc xâm lược nước Nga và cuộc chiến tranh tại bán đảo Iberia, hệ thống liên minh của ông bị lung lay,[24] và các lực lượng chống Pháp từ từ thận trọng tập hợp lại thành Liên minh thứ sáu, bao gồm Nga, Áo, Phổ, Thụy Điển, Anh, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha và một số quốc gia tại Đức.[25] Tổng cộng, Liên minh có thể đưa vào chiến trường hơn một triệu quân. Thực sự thì ở thời điểm diễn ra trận đánh Leipzig, tổng số lực lượng của liên quân ở phía đông sông Rhine đã lên tới hơn một triệu người. Ngược lại, lực lượng của Napoléon đã giảm xuống chỉ còn vài trăm ngàn. Người Phổ chiến đấu trong cuộc chiến tranh này để giải phóng đất nước khỏi quân Pháp xâm lược (vốn trước đó họ luôn mong mỏi chờ cơ hội "ngàn năm có một" để tiến hành cuộc kháng chiến của mình[26]), trong khi người Nga coi cuộc chiến này là sự tiếp nối của chiến thắng của họ trong cuộc Chiến tranh Vệ quốc 1812. Do đó, cả hai nước Phổ và Nga đều quyết tâm lật nhào chế độ Napoléon. Trong khi đó, người Áo không có được niềm nhiệt huyết của người Phổ và sự quyết tâm của người Nga: họ chỉ làm tới cùng vì mục đích chính trị, nhằm đánh cho nền thống trị của Napoléon đuối đi và phá vỡ sự nhũng nhiễu của Pháp vào Triều đình Áo, cho nên họ vẫn không hề tham chiến.[27]Bấy giờ Napoléon cũng tái xây dựng quân đội của mình.[13] Vị Hoàng đế cố gắng khôi phục lại quyền kiểm soát của mình ở Đức và ông giành được hai chiến thắng khó nhọc trước liên quân Nga - Phổ tại Lützen ngày 2 tháng 5 và Bautzen vào ngày 20-21 tháng 5. Hai chiến thắng này đưa tới một sự đình chiến tạm thời. Vào ngày 26 tháng 6, Bộ trưởng Ngoại giao của Áo là Franz Georg Karl von Metternich (cũng là một trong những nhân vật quan trọng trong việc thành lập Liên minh thứ sáu) tới gặp Napoléon ở Dresden để thương lượng cho một hòa ước lâu dài hơn. Metternich đòi hỏi Napoléon phải buông bỏ hầu hết các lãnh thổ ở bên ngoài biên giới tự nhiên của Pháp, và cuộc đàm phán không đi đến kết quả.[28]
Vị Tham mưu trưởng 46 tuổi của quân đội Áo là Radetzky đã lập sẵn kế hoạch dự bị, đồng thời tổng động viên được tới 37.000 quân tinh nhuệ.[29] Sau khi hòa ước ngắn ngủi kết thúc, Napoléon giành được thắng lợi lớn trong trận Dresden vào ngày 27 tháng 8. Từ sau thời điểm này, quân Liên minh, dưới quyền chỉ huy tối cao của Đại tướng Nga là Mikhail Bogdanovich Barklay-de-Tolli và những sự chỉ huy riêng rẽ của Gebhard Leberecht von Blücher, Thái tử Karl Johan của Thụy Điển, Karl Philipp zu Schwarzenberg, và Bá tước Bennigsen của Nga, đã làm theo chiến lược được vạch ra trong Kế hoạch Trachenberg của Radetzky[30] là tránh đụng độ trực tiếp với Napoléon mà tấn công các thống chế của ông. Chiến lược này giúp họ chiến thắng trong các trận đánh ở Großbeeren, Kulm, Katzbach và Dennewitz.
Những chiến thắng của quân Liên minh đã lật ngược ý nghĩa của những thắng lợi ban đầu của Napoléon, đưa ông vào tình thế nguy kịch.[10][31] Trong khi ấy, Napoléon cho rằng quân Pháp phải đóng cứ thật đông tại kinh thành Dresden để hộ vệ cho vua chư hầu xứ Sachsen.[13] Thống chế Pháp Nicolas Oudinot với 6 vạn quân sĩ đã thất bại ở Großbeeren và không thể đánh chiếm được kinh thành Berlin. Napoléon vì vậy phải rút về phía tây, do sự uy hiếp từ phía bắc. Sau khi Napoléon cử Ney thế chức Oudinot ở phía bắc, từ bên kia sông Elbe quân Ney không chặn nổi quân Thụy Điển do Thái tử Bernadotte chỉ huy và thua trận Dennewitz.[17][31] Napoléon vượt sông Elbe vào cuối tháng 9, vốn đã có ý định từ bỏ nước Đức,[31] nhưng ông không thể triệt thoái khỏi chiến trường mà để cho quân ông bị các lực lượng không chính quy và quân Cozak đánh phá, chưa kể là mọi quân đội của đối phương vốn đều nguyên vẹn và sẵn sàng chiến đấu.[32] Sau đó, ông tập hợp lực lượng ở Leipzig để bảo vệ con đường tiếp vận và chạm trán với quân Liên minh. Ông triển khai quân đội xung quanh thành phố, nhưng lấy trong tâm từ Taucha đến Stötteritz, nơi ông trực tiếp chỉ huy. Lúc này thì quân Phổ tiến đánh từ Wartenburg, quân Áo và quân Nga tiến đánh từ Dresden, còn quân Thụy Điển từ phía bắc kéo tới. Đối đầu với một khối Liên minh quá ư là hùng mạnh,[4] Napoléon không thể xuất binh đánh bại từng đối phương một của ông.[10] Trong khi đó, Nga hoàng Aleksandr I đã giành lại được một số quyền chủ động về ngoại giao từ tay người Áo, trong khi vua Friedrich Wilhelm III nước Phổ vẫn là "đồng minh trung thành" của Nga. Nhà vua nước Phổ cho rằng chính ông cứ thân cận với Đế quốc Nga như thế thì ắt hẳn là thanh danh của nước Phổ sẽ gia tăng tại Đức, bất chấp Đế quốc Áo.[31] Ngoài ra, những thắng lợi tại Großbeeren, Katzbach, Dennewitz,… nêu trên đã khiến cho nước Phổ bình đẳng với Áo trong khối Liên minh.[32]
Vào ngày 6 tháng 10 năm 1813, theo thỏa thuận với Bộ trưởng Ngoại giao Metternich của Áo,[30] xứ Bayern chuyển qua khối Liên minh để bảo vệ nền độc lập của mình. Đến đây, Liên minh sông Rhine chư hầu của Napoléon bắt đầu tan rã.[10] Trong lúc ấy, Napoléon hãy còn phân vân trước tình thế và cho đến ngày 14 tháng 10 năm 1813 thì ông mới hay tin từ vua xứ Württemberg là xứ Bayern rời bỏ ông.[30]
Lực lượng hai bên
Phía quân Pháp gồm có khoảng 150.000 quân với 700 đại bác, cộng với 15.000 quân người Ba Lan, 10.000 người Ý cùng 20.000 quân phía Sachsen, tổng cộng phía Pháp có khoảng 190.000 nghìn quân. Bên phía Liên minh gồm có khoảng 430.000 quân và 1.500 đại bác gồm có 200.000 quân Nga, 130.000 quân Áo, 80.000 quân Phổ và 20.000 quân Thụy Điển. Với số lượng quân tham gia đông đảo như vây, đây trở thành trận đánh lớn nhất kể từ Borodino, Wagram, Jena và Auerstadt và Ulm.Quân đội Pháp La Grande Armée dưới sự chỉ huy của Napoléon phần lớn đều chủ quan, hầu hết binh lính đều mới tuyển,[13] còn trẻ và còn thiếu kinh nghiệm cộng với sự thiếu hụt về lực lượng kỵ binh do bị thiệt hại nặng nề trong chiến dịch xâm lược Nga năm 1812.[28] Không có nhiều kỵ binh, vấn đề trinh sát đối phương trở nên khó khăn với quân Pháp.[28] Trước đó, Napoleon đã tuyển thêm tân binh để chuẩn bị cho chiến dịch tiếp chống lại phe Liên minh thứ sáu vừa mới được thành lập và đội quân này đóng tại Đức. Tuy giành thắng lợi tại Lützen và Bautzen, quân đội Grande Armee đã tiếp tục suy yếu sau khi gặp thất bại trong một số trận đánh do các thống chế của Napoleon dẫn đầu trong khi các chỉ huy phe liên minh lại thực hiện theo sát kế hoạch Trachenberg được đề ra.
Ngay từ khi đại bại trong trận Austerlitz, Vương công Karl đã canh tân quân đội Áo. Năm 1808, Áo thành lập lượng dân quân gồm 240.000 người, họ cũng bắt chước Napoléon tổ chức quân đội theo kiểu quân đoàn. Nhờ thế nên quân Áo đã giáng cho quân Pháp một trận thua nhục nhã ở Aspern-Essling năm 1809. Còn Phổ, sau một loạt những thất bại vào năm 1806, một loạt những cải cách có hiệu quả đã thay đổi toàn diện quân đội Phổ. Gerhard von Scharnhorst, người lãnh đạo cuộc cách tân đã viết: "Tựa những đảng viên Jacobins, chúng ta sẽ chiến thắng khi biết khơi dậy tinh thần nhân dân".[33] Sau đó nhà cầm quyền Phổ ra sắc lệnh giải phóng, hủy bỏ chế độ nông nô. Họ cũng đào tạo được một lớp sĩ quan trẻ, có học thức, thuộc mọi tầng lớp chứ không chỉ mỗi lớp quý tộc. Schanhorst cũng đã đặt nền tảng cho một ban tham mưu mà sau này đã giúp cho Phổ đạt được nhiều chiến thắng. Giới hạn 42,000 quân do Napoléon ấn định cho nước Phổ đã được các sĩ quan Phổ tránh né bằng cách huấn luyện và tổ chức các đoàn tân binh nhờ đó vào năm 1813, nước Phổ đã có hơn 150,000 binh lính sẵn sàng chiến đấu.
Quân Liên minh, dưới sự chỉ huy tối cao của Sa hoàng Aleksandr I nhà Romanov, Thống chế Nga Barklay-de-Tolli là chỉ huy trưởng của quân đội, quân đội Nga-Áo dưới sự chỉ huy của Công tước Schawarzenberg, quân đội Nga-Phổ dược sự chỉ huy của Gebhard von Blücher, quân Ba Lan của Nga dưới sự chỉ huy của Levin August von Benningsen và quân đội Thụy Điển-Nga-Phổ dưới sự chỉ huy của Jean-Baptiste Bernadotte.
Quân đội Pháp
Đội quân gồm hơn 600.000 của La Grande Armée đã hoàn toàn bị phá hủy sau cuộc hành quân trên đất Nga vào năm 1812. Phó Vương Ý, đóng vai trò là người đại diện cho Napoleon ở Đức nắm giữ một đội quân 15.000 người, 1.600 ngựa và 26 đại bác trong khi Napoléon quay trở về Paris để lên kế hoạch tái xây dựng lại quân đội. Napoléon vẫn gặp may mắn khi vẫn còn 20.000 người từng vào sinh ra tử cùng mình, và đây chính là xương sống cho một đội quân non kinh nghiệm mới của mình. Tại lò luyện quân, Napoléon đã cho ra lò 10.000 người với khả năng chiến đấu khá chắc chắn. Sau đó, 98 đại đội bảo vệ tàu chiến Pháp ở cảng cũng gồm khoảng 7.000 người. Trung đoàn pháo binh Hải quân, cùng khoảng 12 tiểu đoàn với 12.000 tinh binh và 4.000 lính mới vừa được tuyển năm 1812. Vệ binh thành phố Paris (hai tiểu đoàn) và khoảng 4.050 người từ hơn 116 Đại đội khác, và 3.000 quân trong đội hiến binh và khoảng 40.000 tinh binh từng chiến đấu trong cuộc chiến tranh Bán đảo. Không tính những người đã được triển khai ở Đức, Napoléon cũng đã có tới trên 10 vạn quận được đào tạo bài bản để có thể tạo thành đội quân mới. Điều này chính là mục tiêu chính mà Napoléon đã đề ra để thực hiện trong tuần kế tiếp. Ngay lập tức ông liền nắm trong tay 78.000 người thuộc đội Vệ binh quốc gia, một lực lượng bán quân sự. Binh lính đều là thanh niên từ khoảng 20 cho đến 27 tuổi, nhưng chưa từng tham gia bất cứ trận đánh nào. Mặc dù mới nhập ngũ từ tháng 3 năm 1812 nhưng họ đã được vận quân phục và trang bị đây đủ như bộ binh chính quy. Mùa xuân năm 1813, sau khi tại ngũ một năm, đội quân này chính thức được gọi vào quân đội chính quy và tạo thành 22 trung đoàn cùng ba trung đoàn pháo binh. Và số tân binh này đã hình thành nên đội quân mới gồm khoảng 567.000 người.Thêm vào đó, binh lính còn đến từ các nước đồng minh của Pháp. Binh lính phần nhiều đến từ Ý và Napoli, và họ trở thành một trong những phần quan trọng trong quân đội đế chế Pháp. Tuy vậy không phải chiến dịch nào họ cũng tham gia vì còn phải bảo vệ đất Ý trước những kẻ thù như Áo. Và nguồn nhân lực có sẵn đáng tin cậy xuất phát từ Liên bang sông Rhein, một liên bang tập hợp rất nhiều chư hầu Đức dưới sự bảo hộ của Hoàng đế Napoléon. Vào đầu năm 1813, đã có khoảng 25.000 người Đức tham gia vào quân đội Pháp và con số này tăng lên đến 75.000 trong thời gian mùa hè. Con số này bao gồm 25.000 người Bayern chiến đấu cho quân Pháp, nhưng khác với các đội quân khác trong liên bang, dưới sự chỉ huy của riêng mình. Họ đổi phe ngay trước khi trận Leipzig diễn ra. Hơn nữa còn có khoảng 16.000 người Ba Lan chiến đấu dưới sự chỉ huy của Pháp, và Đan Mạch cũng góp thêm 10.500 người để trợ chiến cho Pháp. Phần lớn những đội quân này trở thành có sẵn trong suốt thời gian diễn ra các thỏa thuận ngừng bắn sau đó.
Lực lượng thứ nhất (Tập đoàn quân) | Quân đồn trú Pháp dọc sông Elbe | |||
---|---|---|---|---|
Quân đoàn | Binh lính | Thành phố | Binh lính | |
Cận vệ | 58.191 | Hamburg | 12.000 | |
I | 33.298 | Bremen | 1.500 | |
II | 25.158 | Magdeburg | 3.250 | |
III | 40.006 | Wittenberg | 2.318 | |
IV | 23.663 | Torgau | 2.000 | |
V | 27.905 | Dresden | 5.600 | |
VI | 27.754 | Sư đoàn Lemoine tại Minen | 5.400 | |
VII | 21.283 | Quân đoàn Augereau | 10.000 | |
VIII | 7.573 | Quân đoàn kỵ binh Milhaud | 2.500 | |
XI | 24.418 | Quân đoàn Wrede | 25.000 | |
XII | 19.324 | Danzig | 25.000 | |
XIII | 37.514 | Zamość | 4.000 | |
XIV | 26.149 | Modlin | 3.000 | |
I | 16.537 | Stettin | 8.500 | |
II | 10.304 | Kustrin | 4.000 | |
III | 6.000 | Glogau | 5.500 | |
IV | 3.923 | Erfurt | 1.874 | |
V | 3.000 | Würzburg | 2.500 | |
Sư đoàn Dombrowski | 4.000 | |||
Sư đoàn Lanusse | 11.000 | |||
Pháo binh và kỹ sư dự bị | 8.010 | |||
Quân đoàn cai quản Leipzig | 7.800 | |||
Tổng cộng | 442.810 | 55.374 | ||
Chú thích:
Kỵ binh
Quân đoàn Girard
Đội hình ở phòng tuyến thứ hai
Quận đồn trú tại các pháo đài ở Ba Lan và Đức
|
Trận chiến ngày 16 tháng 10
Trận chiến nổ ra vào ngày 16 tháng 10 khi 78.000 quân liên minh tấn công từ phía nam và 54.000 quân liên minh tấn công từ phía bắc, còn phần lớn quân đội của Napoléon trấn thủ ở phía nam. Những đợt tấn công của liên quân đã không thu được nhiều kết quả, nhưng với lực lượng quân đội ít ỏi hơn thì Napoléon cũng không thể phá vỡ được thế trận của liên quân, đưa đến một tình thế cầm chân nhau.Mặt trận phía nam
Giao tranh ở Dölitz và Markkleeberg
Quân đoàn II của Áo do von Merveldt chỉ huy đã tiến về Connewitz qua Gautzsch và định tấn công vị trí này, nhưng đường tiến quân tới đây không có chỗ để quân Áo triển khai pháo binh. Vì vậy mà họ xoay sang tiến đánh Dölitz ở gần đó do quân Ba Lan phòng thủ, và chiếm lấy vị trí này. Một cuộc phản công đã đánh bật quân Áo, nhưng rồi quân Áo pháo kích mạnh mẽ vào nơi đây và đẩy lui quân Ba Lan.Tướng Friedrich Graf Kleist von Nollendorf của Phổ tiến quân dọc sông Pleisse và tấn công các thống chế bên Pháp là Poniatowski và Augereau ở làng Markkleeberg. Họ sửa lại một cây cầu và chiếm một trường học cùng một thái ấp. Quân Pháp phản công đẩy lui quân Áo ra khỏi trường trở lại sông. Đợt tấn công của Pháp vào thái ấp thì lại khiến họ gặp nhiều tổn thất. Sư đoàn 14 của Nga bắt đầu thọc sườn để đẩy lui quân Ba Lan khỏi Markkleeberg. Tướng Poniatowski tới ngăn cuộc rút lui này và chặn đứng quân Nga. Sau đó ông tấn công một bộ phận quân Phổ đang ở vị trí trống trải trước khi lực lượng Khinh Kỵ binh Nga giải cứu họ. Poniatowski chiếm lại được Markkleeberg, nhưng rồi lại bị quân đội Phổ đẩy lui. Lính ném lựu đạn Áo tập hợp ở Markkleeberg và tấn công thọc sườn để đánh bật quân Pháp và Ba Lan khỏi vùng này.[34]
Giao tranh ở Wachau và Liebertwolkwitz
Wachau là nơi diễn ra những trận đụng độ ác liệt nhất trong ngày thứ nhất.[35] Vào bấy giờ thời tiết khá lạnh, ẩm ướt và nhiều sương mù. Wittgenstein đã chia lực lượng của ông thành bốn hàng dọc. Hàng thứ nhất dưới quyền Klenau bao gồm Quân đoàn IV của Áo và Lữ đoàn Ziethen của Phổ đã triển khai giữa Fuchshain và Universitatsholz và tấn công Liebertwolkwitz.[36] Hàng thứ 2 dưới quyền của Vương công Gortschakow, gồm có Sư đoàn Mesenzow Nga và Lữ đoàn Pirch của Phổ sẽ tiến đánh khu vực giữa Stormthal và Universitatsholz để hỗ trợ Klenau ở phía nam và phía tây. Đội hình thứ ba theo công tước Eugene của Württemberg, gồm 2 Quân đoàn của Nga và Lữ đoàn Klux của Phổ, được lệnh tấn công Wachau từ phía đông, từ Güldengossa.[36] Đội hình thứ 4 dưới quyền Kleist, gồm sư đoàn Helffreich của Nga, Lữ đoàn Hoàng tử August của Phổ, Lữ đoàn Thiết kỵ Lewaschow của Nga và trung đoàn khinh kỵ binh Lubny là di chuyển từ Crobern để đến giữa Markkleeberg và Wachau nhằm chiếm giữ ngọn đồi giữa hai ngôi làng.[36] Quân đoàn kỵ binh Pahlen cùng với Lực lượng kỵ binh Dự bị của Phổ được ra lệnh hỗ trợ cột 2 và cột 3. Quân đoàn Rajewski và Lữ đoàn Thiết kỵ binh Gudowitsch đóng tại phía nam con đường chính của Gruhna.[36]Lúc 8 sáng, cuộc tấn công bắt đầu với việc Công tước Eugene tiến quân đến Wachau nhưng lại bị nhiều khóm quân nhỏ lẻ đánh chặn. Nỗ lực để thoát ra khỏi ngôi làng bị dừng lại do gặp phải hỏa lực của pháo binh Pháp. Wachau rơi vào tay Pháp một lần nữa vào lúc 9 giờ 30. Cuộc đấu pháo giữa hai bên được mở vào lúc 8 giờ sáng, khi mà 31 khẩu pháo của quân đồng minh khai hỏa và lúc 11 giờ trưa chỉ còn có 9 đại pháo bên quân đồng minh còn hoạt động.[37] Vào lúc này quân Đồng minh tổ chức một cuộc tấn công về phía ngôi làng, dồn quân Pháp vào đúng tầm bắn của họ. Tuy nhiên, trong đợt tấn công này, liên quân thiệt hại quá nhiều. Quân Pháp cố gắng phản công và tràn qua Wachau nhưng không thể tiến thêm nữa vì quân Phổ và Nga đã tham gia và chặn đánh phía trước mặt.[38] Không những thế, Józef Poniatowski còn bị tướng Kleist của Áo nhử ra giao chiến ngay giữa con đường cái. Tuy nhiên Kleist bị buộc phải rút lui để đảm bảo lực lượng vì vị trí của ông lúc 11 giờ rất quan trọng. Vào lúc này, Klenau vẫn chưa tham gia vào hàng của mình, nên Gortschakow phải dùng pháo binh của mình để chống lại quân của Jacques Lauriston. Bộ binh Nga được đặt ở phía sau pháo binh, tuy nhiên nhiên họ phải chịu đựng nhiều cuộc pháo kích từ khẩu đội pháo của Pháp được đặt trên đồi Gallows.[39] Klenau bắt đầu tấn công lúc 10 giờ. Kolmberg, một điểm lý tưởng, đối diện với người Pháp để Klenau có thể phân chia quân lực. Liebertwolkwitz bị chiếm đóng bởi một nhóm quân nhỏ của Pháp, họ di chuyển ra khắp làng ngoại trừ nhà thờ để phòng thủ trước quân Áo. Sau một hồi giao chiến, đợt phản công của quân Áo bị đẩy lui.[40]
Tình hình vào lúc 11 giờ càng trở nên gay cấn. Những lợi ích ban đầu đã được đẩy lùi và rõ ràng rằng đội Pháp đang tiến gần, Wittgenstein không thể mong chờ nhiều sự giúp đỡ ngày hôm đó.[41] Napoleon đã đến thăm doanh trại chính của Joachim Murat tại Galgenberg lúc 9 giờ và được thông báo về tình hình chiến sự. Tiếp đó, Napoléon hạ lệnh cho thống chế ông dẫn 10.000 kỵ binh xông lên, đánh vào ngay lỗ hổng trong hàng ngũ đối phương vừa được tạo ra giữa Wachau và đồi Gallows. Murat cho tiến quân theo các đội hình dọc và đẩy lui được những lực lượng đầu tiên mà ông giáp mặt. Sa hoàng Alexander phản ứng với tình hình này bằng cách cam kết đưa quân đoàn Rajewski cũng như cận vệ Nga-Phổ tham chiến. Hơn nữa Schwarzenberg đã được lệnh di chuyển quân của mình từ bờ trái sang bờ phải sông Pleisse. Tuy nhiên, đội quân dưới quyền của tướng Merveldt không gặp may như Schwarzenberg vì cây cầu Connewitz đã bị chặn và được bảo vệ rất tốt.[42] Thành công duy nhất của ông là chiếm đóng một Thái ấp tại Dölitz.[43]
Các mệnh lệnh của Napoléon
Napoléon nhận thấy liên quân đã chiếm thế thượng phong, nhưng lực lượng của họ khá phân tán và đó có thể là điều kiện thuận lợi để quân Pháp phản công. Ông hạ lệnh cho tướng Drouot đưa 100 khẩu đại pháo lên đồi Gallows, hy vọng dùng uy lực của chúng để đánh tan địch thủ. Quân đoàn II Nga của tướng Eugene đứng ở vị trí trống trải và là nạn nhân chủ yếu của đợt pháo kích này. Mặc dù Eugene chỉ huy quân lính rất dũng cảm nhưng lực lượng của ông vẫn bị tổn thất nặng nề và phải rút lui.[44] Vào lúc 9 giờ 30 sáng, Napoléon đã ra lệnh cho Pierre Augereau dẫn quân hỗ trợ Poniatowski. Bộ binh Cận vệ trẻ và sư đoàn Curial của Cựu cận vệ được gửi đến Liebertwolkwitz. Sư đoàn Cựu Cận vệ Friant được ra lệnh tiến đến trang trại cừu ở Meusdorf. Khi cuộc chiến tại Wachau tái diễn, đã có hai bộ phận hai Lữ đoàn Cận vệ trẻ dưới quyền Oudinot và một lượng lớn kỵ binh di chuyển đến phía sau. Tuy vậy thiệt hại của quân Pháp rất nặng và Napoléon kiên nhẫn chờ sự xuất hiện của quân tiếp viện.[45] Sương mù buổi sáng sớm đã nâng lợi thế cho quân Pháp. Napoléon lên kế hoạch rằng, nếu Macdonald đánh chiếm được Kolmberg và tiếp cận được Seifertshain nằm phía bên cánh phải của liên quân. Một khi đã làm điều này, Napoléon sẽ đem đại quân chọc thẳng trung tâm của liên quân với ý định phá vỡ hoàn toàn thế trận của đối phương. Cuộc tấn công của Macdonald diễn ra tốt đẹp. Ông đã đạt được mục tiêu chính của mình và ngăn chặn được các Đội kỵ binh Phổ. Quân Áo của Klenau bị quân Pháp đẩy lui hoàn toàn.[46] Tuy nhiên, kết quả chung từ các phương án tác chiến của Napoléon là chúng đã giúp quân Pháp chiếm được một vài vị trí chiến thuật, nhưng không phá vỡ được thế trận của liên quân như ông mong đợi.[47]Mặt trận phía bắc
Giao tranh ở Wiederitzsch
Ở phía bắc, quân đoàn Nga của tướng Louis Alexandre Andrault de Langéron đánh vào hai làng Groß-Wiederitzsch và Klein-Wiederitzsch, vốn nằm ở vị trí trung tâm trong thế trận của quân Pháp. Nơi đây do sư đoàn Ba Lan của tướng Dabrowski trấn giữ, gồm bốn tiểu đoàn bộ binh và hai tiểu đoàn kỵ binh. Quân Ba Lan chiến đấu dũng mãnh đến nỗi Langéron phải e ngại và lúc đầu còn tưởng nhầm là chính Napoléon đang tấn công ông ta.[48] Trận chiến diễn ra ác liệt với nhiều đợt tấn công và phản công, nhưng cuối cùng quân Nga cũng chiếm được làng, dù với tổn thất nặng nề.Giao tranh ở Möckern
Möckern là nơi diễn ra trận đánh chủ đạo của mặt trận phía bắc. Thống chế August de Marmont trấn thủ Mockern chống lại quân Phổ của Đại tướng Kỵ binh Gebhard Leberecht von Blücher trong một trận đánh khốc liệt. Quân Phổ và quân Pháp không hề tỏ ra khoan dung với đối thủ và thường kết liễu luôn đối phương chứ không bắt làm tù binh. Hai bên đánh giáp lá cà trong từng căn nhà, và Marmont giữ vững cứ điểm gần như cả ngày, nhưng rồi một đợt tấn công bằng Kỵ binh của quân Phổ đã gây thương vong nặng nề cho quân Pháp, còn bản thân Marmont cũng bị thương trong một đợt pháo kích.[11][47] Quân Pháp rút lui khỏi các cứ điểm với tổn thất 7.000 (mất thêm 2.000 tù binh), còn quân Phổ tổn thất 9.000 quân.[32][49]Liên quân chống Pháp đã đánh cho đối phương thiệt hại nặng. Poniatowski phải mất đến 1/3 quân sĩ của ông ta, Augereau thì tới một nửa. Ở hàng ngũ của Martmont, Dombrowski, Bertrand và Macdonald bắt đầu rạn nứt. Tiếp tế thì quá chậm.[50] Quân đội Phổ đã giành thắng lợi, và Napoléon không chỉ bị đánh bật về phía tây bắc[32] mà còn thất bại trong việc đánh một trận quyết định vào ngày hôm ấy, dù ban đầu quân của ông đánh thắng quân đội Áo song lại bị quân đội Phổ đánh bật[31]. Mặc dù tình hình vẫn còn chưa phân thắng bại[32], đêm ngày 16 tháng 10 năm 1813, ông phải gửi thư xin hòa cho Hoàng đế Franz I nước Áo. Điều này cho thấy ông đã bắt đầu nhận thấy chiến bại của mình. Cùng thời điểm ấy, sự kiểm soát của Napoléon đối với các chư hầu Đức bắt đầu buông lỏng: ông hay tin 3 vạn lính Bayern dưới quyền ông đã đào ngũ, và dự định sẽ phá rối đường tiếp tế của ông với chính quốc.[17][32]
Theo nhà sử học người Úc là Christopher M. Clark, hai bên đều tổn thất nặng nề trong ngày đầu tiên: phía Pháp mất gần 25.000 quân còn phe Liên minh mất 3 vạn quân.[32]
Trận chiến ngày 17 tháng 10
Vào ngày 17 tháng 10 phần lớn yên tĩnh, chỉ có hai cuộc giao tranh. Vốn quân Pháp đã kiệt quệ trong cuộc giao chiến vào ngày hôm trước.[50] Tướng Nga là Fabian Gottlieb von Osten-Sacken tấn công sư đoàn Ba Lan của Dabrowski ở làng Gohlis và đẩy lui họ về Pfaffendorf. Tướng Blücher, vừa được phong lên hàm Thống chế ngày hôm trước, xuống lệnh cho Sư đoàn Khinh Kỵ Binh của tướng Lanskoi tấn công quân đoàn kỵ binh III của tướng Arrighi. Như ngày hôm trước, lực lượng Kỵ binh của phe Liên minh chiếm ưu thế và buộc địch thủ phải rút lui với tổn thất nặng nề.Phía Pháp chỉ nhận thêm 14 nghìn viện binh, một con số ít ỏi nếu so với 145.000 viện binh của liên quân, bao gồm cả những lực lượng được chỉ huy bởi tướng Nga von Bennigsen và Thái tử Thụy Điển Karl Johan (trước kia từng phục vụ cho Napoléon với danh hiệu Thống chế Bernadotte). Nếu như Karl Johan đến sớm hơn thì rất có thể là mặt trận phía bắc của quân Pháp với binh lực ít ỏi đã bị đánh tan nát trong ngày hôm qua.[47]
Đêm ngày 17 tháng 10 năm 1813, Hoàng đế Napoléon phải rút ngắn mặt trận của ông ta bằng việc cho rút quân về vị trí gần Leipzig. Ông ta cho bố trí như sau: Trong quân cánh phải do Murat chỉ huy, Quân đoàn Poniatowski, Augereau và Victor được triển khai từ Connewitz về Probstheida, được lực lượng Cận vệ và quân chủ lực Kỵ binh hỗ trợ. Trung quân dưới quyền Macdonald - Quân đoàn số XI được triển khai từ Zuckelhausen thông qua Holzhausen tới Steinberg và được yểm trợ bởi Lauriston và Sebastiani. Quân cánh trái dưới quyền Ney - ở trong và xung quanh Paunsdorf gồm có Sư đoàn Sachsen, Sư đoàn Durutte và Quân đoàn Marmont được yểm trợ bởi Souham và vài binh sĩ của Quân đoàn Kỵ binh Arrighi. Tại Leipzig - có Sư đoàn Dombrowski, lực lượng đồn trú Leipzig, Sư đoàn Kỵ binh Lorge. Tại Lindenau - hai Sư đoàn Tân Cận vệ do Mortier cầm đầu. Do những tổn thất ê chề của quân Pháp trong suốt hai ngày, Napoléon còn có 16 vạn quân sĩ và 630 khẩu đại bác.[50]
Trận chiến ngày 18 và 19 tháng 10
Vào ngày 18 tháng 10 năm 1813, sau hai ngày bất lợi cho người Pháp,[15] Công tước Schwarzenberg tổ chức cuộc công kích cuối cùng của quân ông. Đội hình số 1 của Hessen-Homburg, bao gồm Quân đoàn Colloredo và Merveldt, Sư đoàn Bianchi và Weissenwolf và Sư đoàn Kỵ binh Nostiz. Trách nhiệm của họ là giữ lấy Connewitz và hành quân xuyên qua Markleeberg tại Leipzig. Đội hình 2 của Đại tướng Barklay bao gồm Quân đoàn Kleist và Wittgenstein, lực lượng Vệ binh Nga - Phổ và Quân đoàn Dự bị. Đội hình này được lệnh tiến quân thông qua Wachau và Liebertwolkwitz tại Probstheida. Đội hình 3 của Bá tước Von Bennigsen bao gồm Quân đoàn Dự bị Ba Lan, Sư đoàn Budna, Quân đoàn Klenau, Lữ đoàn Ziethen của Phổ và lực lượng Cozak của Platow. Họ được lệnh di chuyển quanh sườn của địch thủ và từ Fuchshain và Siefertshain thẳng tiến về Zuckelhausen và Holzhausen. Đội hình 4 của Thái tử Thụy Điển bao gồm "Đội quân phương Bắc" cùng với Langeron và St. Priest. Họ sẽ phải vượt qua sông Parthe tại Tauche và liên kết với Quân đoàn Bohemia. Đội hình 5, phần còn lại của Binh đoàn Silesia, sẽ phải hành quân về hướng tây bắc Leipzig. Đội hình 6 dưới quyền Gyulai, bao gồm có Sư đoàn Moritz Liechstenstein cùng với các Đại đội Mensdorff và Thielmann, phải tiến binh từ Lindenau từ Klein Zschocher. Tổng cộng, liên quân có khoảng 295 nghìn binh sĩ cùng với 1360 khẩu đại pháo[50]. Trong ngày này, Quân đoàn Phổ dưới quyền Tướng Bülow nội thuộc binh đoàn của Bernadotte giữ vai trò quan trọng trong liên quân: họ sẽ dẫn đầu cuộc tiến quân qua sông Parthe ở mạn Đông và trở thành lực lượng nòng cốt trong cuộc chiến đấu ở phía đông.[32]Mặt trời bắt đầu mọc lên. Lúc 9 giờ sáng, các đội hình cũng nhau hành binh. Napoléon yêu cầu thương thuyết nhưng họ quyết không khoan nhượng với kẻ thù. Song, quân Pháp vẫn ngoan cố kháng cự khi phải đối đầu với lực lượng hùng hậu của Liên minh thứ sáu.[50] Trong hơn chín giờ giao tranh, cả hai bên đều bị thiệt hại nặng nề, quân Pháp ngăn chặn được những cuộc đột phá xuyên thủng hàng ngũ họ, nhưng cũng dần dần bị đẩy lui về phía Leipzig. Điều đó khẳng định với Napoléon rằng ông ta đã không thể đánh bại đối phương trong một cuộc chiến tranh tiêu hao.[51] Liên minh thứ sáu có Thống chế Phổ Blücher và Thái tử Thụy Điển ở phía bắc, các tướng Nga là Barcklay-de-Tolli và Bennigsen cùng Vương công Áo von Hessen-Homburg ở phía nam, và tướng Áo Ignaz Gyulai ở phía tây. Đây sẽ là cái ngày quyết định đến chiến thắng lớn lao của Liên minh thứ sáu.[50]
Lữ đoàn 9 của Phổ chiếm đóng ngôi làng Wachau bỏ hoang, trong lúc quân Áo, cùng một đội quân người Hungary của tướng Bianchi, đánh bật quân Pháo khỏi Lößnig. Người Áo tiếp tục triển khai chiến thuật theo kiểu kết hợp các đơn vị: kỵ binh Áo tấn công bộ binh Pháp để bộ binh Áo có thời gian tới và triển khai tấn công Dölitz. Sư đoàn Tân Cận vệ của Pháp đã đẩy lui họ. Vào lúc này thì ba tiểu đoàn lính ném lựu đạn của Áo bắt đầu giành giật làng với pháo binh yểm trợ.
Trong cùng lúc này, theo yêu cầu của các sĩ quan Thụy Điển, vốn cảm thấy xấu hổ về việc đã không đến kịp để chiến đấu trong ngày hôm qua, Thái tử ra lệnh cho bộ binh nhẹ của họ tham gia vào cuộc tấn công cuối cùng trong ngày, vào chính Leipzig. Những người lính Thụy Điển chiến đấu rất tốt và chỉ mất có 121 hoặc là 200[52] người trong trận đánh này. Thực sự, Bernadotte luôn rất lo lắng sợ Napoléon sẽ tiến chiếm kinh kỳ Berlin cùng với đường rút quân của chính ông, cho dù nhiều nhà phê bình chỉ trích rằng ông đến chậm và sẽ không đến nếu không có lời đe dọa là nước Anh sẽ cắt viện trợ cho ông. Đánh giá sử học về vai trò của Bernadotte vẫn còn là điều gây tranh cãi.[30]
Trong cuộc chiến, 5.400 người lính Sachsen thuộc quân đoàn VII của Pháp bỏ qua phe liên quân. Quân Pháp choáng váng. Quân Sachsen nổ súng nhằm thẳng vào quân Pháp, và mặc dù quân Pháp đánh bật được họ, điều này chẳng còn có ý nghĩa gì nữa.[10] Một trong những người chứng kiến cảnh này là Thống chế MacDonald qua ống nhòm của ông và ông mô tả họ đã bắn gục những đồng đội tận trung trước kia của họ với thái độ "kinh tởm và máu lạnh".[32] Các binh sĩ Baden của Napoléon thừa thế cũng đào ngũ và chạy qua phe Liên minh.[30] Những nỗ lực tuyệt vọng của Ney nhằm củng cố trận tuyến và phản công bị Tiểu đoàn hỏa tiễn Anh đập tan, và hỏa tiễn Congreve của họ đã gây thảm họa cho các đội hình quân Pháp đang tiến bước.[32] Sau khi thất bại nặng nề trong cuộc tàn sát đẫm máu tại Leipzig, Napoléon biết rằng thất bại là điều không thể tránh khỏi và cho rút quân qua sông Elster vào đêm 18-19 tháng 10. Nguồn tiếp tế của ông đã bị suy sụp và quân sĩ ông cũng uể oải và vô cùng hỗn loạn đến mức bản thân ông cũng bị kéo đi giữa một mớ tàn binh.[9][10][13][53] Tuy thất bại của quân Pháp đã được quyết định nhưng trận đánh vẫn chưa kết thúc.[32] Liên quân không hay biết về cuộc rút lui của quân Pháp cho đến 7 giờ sáng, và sau đó họ bị cầm chân bởi đạo quân chặn hậu dũng mãnh của tướng Oudinot. Một Tiểu đoàn Dân binh Đông Phổ do Friccius chỉ huy đã lập nên chiến công đột phá vào Leipzig. Một đợt phản kích của quân Pháp đã gần như là giành thắng lợi, nhưng quân Thụy Điển đã đập tan cuộc phản kích này.[54] Cuộc rút lui diễn ra êm thắm cho đến khi xảy ra sự cố ở cây cầu bắc qua sông Elster. Viên hạ sĩ có nhiệm vụ đánh sập cầu để chặn đường truy đuổi của liên quân đã tính toán sai thời gian. Nhìn thấy quân Cozak kéo đến, ông ta đánh sập cầu vào lúc 1 giờ chiều, khi trên cầu vẫn còn nhiều quân Pháp và quân chặn hậu của Oudinot vẫn còn kẹt lại ở Leipzig. Hàng ngàn lính Pháp đã chết đuối và hàng ngàn bị bắt sống. Theo Clark thì trong số quân Pháp mắc kẹt này có những người bị dồn lại và giết chết, và theo Sked thì tổng số quân Pháp bị kẹt là 5 vạn người Do sự cố này, tướng Ba Lan là Poniatowski đã bị chết đuối dưới sông. Vụ nổ làm chấn động cả thành phố.[30][32][55]
Trong suốt những ngày quyết chiến, những thây tử sĩ chất đầy thành phố Leipzig, gây cho cả thành phố một cảm giác thật là rùng rợn.[56] Sau trận huyết chiến này, người ta đối xử rất phi nhân tính với thi hài các tử sĩ. Ghê rợn nhất, họ bị tước bỏ sạch y phục và vũ khí, và bị chôn trong một ngôi mộ tập thể.[57] Các xe goòng trong chiến trận cũng bị cướp bóc.[58] Một thầy thuốc có tên tuổi ở kinh đô Berlin là Johann Christian Reil đã viết thư cho Bá tước Vom Stein, trong đó ông ghi nhận:[59]
“ | Ở khoảng đất trống của ngôi trường ngữ pháp, tôi thấy một ngọn đồi chồng chất thân tàn và thi thể của những người đồng hương tôi. Họ đều trần truồng. Chó và quạ ăn thịt họ, chẳng khác gì nếu họ là phạm nhân và đạo chích. Điều đó cho thấy những người anh hùng hy sinh vì Tổ quốc bị thiếu ân sủng đến cỡ nào. | ” |
—Johann Christian Reil
|
“ | Hàng đống thây người nằm xung quanh, phần lớn họ thì phần nào còn quần áo hoặc là hoàn toàn trần truồng, thường nằm chồng lên nhau. Phần lớn họ nằm xuống, với hai bàn tay dài qua mặt họ, do đó người ta có thể cảm nhận lần đầu tiên về những vầng thơ của Hómēros, dùng răng mà cắt mặt đất. Một con chó đi tuần ở đây và nó không thể nào mà lại quay đi... có lẽ nó đã nhận ra thây chủ của nó. | ” |
—Wilhelm von Humboldt
|
“ | Hoan nghênh, hỡi vị Thống chế. | ” |
—Friedrich Wilhelm III
|
Kết quả
“ | Nhờ vào tài ngoại giao của Metternich, bộ não của Radetzky và tài cầm binh của Schwarzenberg - đương nhiên là, không thể quên lòng quả cảm tuyệt vời của những người lính Nga, Phổ và Áo - Napoléon giờ đây đã bị đánh bại tại Leipzig, phải tháo chạy khỏi nước Đức và bị buộc phải thoái ngôi sau khi quân đồng minh chiếm lấy thành Paris. | ” |
—Alan Sked, trong cuốn Radetzky: Imperial Victor and Military Genius[62]
|
Trận Leipzig được xem là một cơn bão đạn thật sự: Pháo binh Pháp đã nã đến 20 vạn phát pháo và quân Đồng minh cũng đáp trả họ từng phát đạn một.[63] Quân Đồng minh đã áp dụng chiến thuật của Napoléon: họ tập trung hỏa lực vào một khu vực trọng yếu để ngăn ngừa cuộc tàn sát của đối phương.[65] Sau thắng lợi lớn tại Leipzig, do có công về mặt ngoại giao nên Metternich được Triều đình Áo phong làm Vương tước, và ban tặng Đại Thập tự của Huy chương Maria Theresia. Nhờ ông, xứ Bayern đã rời bỏ Napoléon.[30] Quân sĩ Áo cũng đóng vai trò hệ trọng cho chiến thắng nổi bật của khối Liên minh trong trận đánh Leipzig này.[19][29] Trong toàn thể lực lượng đồng minh, quân Kỵ binh đã góp phần không nhỏ với chiến thắng oanh liệt tại Leipzig, làm tiêu tan ước vọng chiến thắng cuối cùng của Đế chế Pháp.[68]
Với thắng lợi này, khối Liên minh đã xua tan cái vết chiến bại tại trận Dresden vừa qua.[29] Trận đánh này có số lượng tổn thất lớn hơn tất cả những trận chiến trước đó.[69] Phe Liên quân mất mát khoảng 54.000 binh lính trên tổng số 362.000 quân. Binh đoàn của Schwarzenberg tổn thất 34.000 binh lính, Binh đoàn của Blücher tổn thất 12.000 binh lính, còn Binh đoàn của Thái tử Thụy Điển và Bennigsen đều mất 4.000 quân sĩ. Trong số các liệt sĩ này có cả một cảnh sát chuyên cần là Friedrich Wagner, anh đã hy sinh để lại người vợ góa và một đứa con mới sáu tháng tuổi tên là Richard.[56] Bản thân Tham mưu trưởng Radetzky của Áo (khi ấy đã 46 tuổi[70]) cũng bị thương.[30] Trên cương vị là Tham mưu trưởng của Schwarzenberg, ông được xem là có đóng góp xuất sắc[71], tham gia lập kế hoạch góp phần không nhỏ đến đại thắng của quân Đồng minh trong trận Leipzig.[72] Đây được xem là chiến tích đỉnh cao của ông và nâng cao tiếng tăm của vị tướng này.[73][74] Kế hoạch Trachenberg trước đó của ông cũng được xem là thúc đẩy sự giải phóng nước Đức khỏi tay Napoléon sau trận Leipzig.[70] Sau trận chiến này, Franz I đã dự đoán rằng một ngày nào đó Radetzky sẽ được ban tặng Đại Thập tự của Huy chương Maria Theresia, và quả nhiên, vào ngày 30 tháng 7 năm 1848, do thắng lợi của ông trong cuộc Chiến tranh giành độc lập Ý lần thứ nhất, tiên đoán ấy đã thành hiện thực.[75] Đến cả Tướng August Neidhardt von Gneisenau của Phổ - Tham mưu trưởng của Blücher trong trận đánh này[76] - là người nổi tiếng lạnh lùng, mà cũng phải rơi nước mắt khi ông cùng Đại úy Stosch dạo trên bãi chiến trường Möckern (nơi Yorck chiếm lĩnh vào ngày 16 tháng 10) vào ngày 19 tháng 10 năm 1813 - gần như là dạo trên những thi thể liệt sỹ của Binh đoàn Silesia. Khuôn mặt ông trở nên trịnh trọng, và nói: "Chiến thắng được mua với máu của người Đức trở thành cái giá rất đắt, cái giá hết sức là đắt". Do có công trong chiến dịch Leipzig, Gneisenau được phong làm Bá tước.[77] Con số thiệt hại của liên quân cũng không phải là nhỏ, chưa kể 5.000 quân Liên minh còn đào ngũ sang phe Pháp trong trận chiến, nhưng chiến thắng của họ thực sự là có ý nghĩa quan trọng.[56] Vả lại, việc bù đắp lại không khó khăn mấy cho họ, xét tới khả năng kinh tế và nhân lực của Liên minh ở thời điểm đó. Về thất bại thê lương[78] của Napoléon ở Leipzig, chính ông cho rằng nếu phía Pháp có thêm 3 vạn pháo binh thì họ sẽ giành chiến thắng.[79] George Nafziger trong cuốn Napoleon at Leipzig cho rằng cả hai phía đều không tác chiến một cách hoàn hảo, nhưng Napoléon thất bại vì đã không có phương án để chủ động tấn công từng đạo quân riêng rẽ trong liên quân, mà co cụm lại phòng thủ ở Leipzig.[80] Với thất bại hoàn toàn của ông trong việc tấn công từng đối phương một, cuộc bại trận ở Leipzig đã ghi dấu sự sa ngã của ông với tư cách là một chủ tướng.[24] Theo Hofschröer, đây là một thất bại chiến thuật có thể được coi là "vô đối", là thất bại mang tính hủy diệt hơn cả[18] trong sự nghiệp của Napoléon. Thua tan nát, nỗi nhục thất bại được thể hiện ngay trên mặt của Napoléon trên đường rút quân, báo hiệu cho sự sụp đổ hoàn toàn của nền Đế chế thứ nhất Pháp.[17][66] Hình ảnh một Napoléon bất khả chiến bại đã hoàn toàn tan biến.[9]
Đây được xem là trận đánh lớn nhất trong suốt các cuộc chiến tranh của Napoléon[66] và cả thế kỷ 19, với số lượng dân tộc tham gia đông đảo. Quy mô của nó còn to lớn hơn cả những trận đánh đẫm máu trong cuộc Nội chiến Hoa Kỳ.[1] Thậm chí, đây có thể được xem là cuộc giao tranh đẫm máu nhất trong lịch sử châu Âu nói riêng và lịch sử nhân loại nói chung cho đến thời điểm đó. Dù chưa thể chấm dứt các cuộc chiến tranh của ông,[32] trận Leipzig được xem như chiến thắng có ý nghĩa quyết định trong việc buộc Napoléon rời bỏ ngai vàng. Nhà lý luận quân sự người Anh John Frederick Charles Fuller cho rằng tên gọi "Trận Liên Quốc Gia" là hợp lý vì sau trận chiến Leipzig, một châu Âu mới đã được hình thành.[81] Dù vậy, theo tác giả A. J. P. Taylor trong cuốn The Course of German History thì trận đánh giải phóng nước Đức không phải là của các quốc gia mà là của các lực lượng quân đội nhà nghề và lính nghĩa vụ.[82] Chiến thắng lừng lẫy này đã đi vào huyền thoại trong cuộc Chiến tranh Giải phóng Đức.[56] Bất chấp những khó khăn của họ,[21] các Binh đoàn Phổ được xem là có công lao to lớn cho thắng lợi lớn và đã thể hiện rõ rệt sự thiện chiến của mình, cùng với lòng yêu nước dân trào của dân tộc Đức[17]. Đại thắng Leipzig còn được xem là thành quả của quá trình canh tân quân lực Phổ trong suốt thời gian từ sau năm 1806 cho tới năm 1813, trong khi thắng lợi quan trọng này cũng tạo điều kiện cho Phổ chiếm được một lãnh thổ rộng lớn của Sachsen, khiến cho Leipzig bỗng dưng trở thành nơi biên cương.[20][83] Chính quân đội dưới quyền Thống chế Blücher đã tiên phong chọc thủng hàng ngũ đối phương trong cái ngày quyết định của chiến thắng vang dội.[12] Đối với ông, trận thắng ở Leipzig là một trong những niềm vinh hạnh to tát hơn cả của ông.[61] Đại thắng này, kết hợp với chiến thắng sông Katzbach trước đó, đã lấy lại vinh dự cho lực lượng Quân đội Phổ, kể từ khi họ bị quân xâm lăng Pháp đánh bại trong trận Jena và trận Auerstädt vào năm 1806, đồng thời đã đi vào ký ức về những thắng lợi quân sự vốn gắn liền với nước Phổ[20][84]. Bản thân vị tướng thắng trận Blücher cũng được xem là một bậc công thần hàng đầu của cuộc cải cách quân đội Phổ.[85] Sự kiên cường mạnh mẽ của ông không những đã đem lại cho ông chiến thắng ở trận Leipzig, mà còn ở trận La Rothière và trận Laon[86]. Đồng thời, các quân đội thắng trận Leipzig khác là Nga và Áo cũng đã từng được canh tân ở một mức độ thấp hơn.[23] Theo ghi nhận của Charles Esdaile, "Tại Jena và Auerstadt quân đội Phổ đã chiến đấu khá tốt, nhưng hầu như không thể hiện sự hào hùng. Tại Leipzig và Waterloo, ngược lại, người ta nói rằng một cảnh tượng khác hoàn toàn đã hiện lên."[21] Giờ đây, các nhà yêu nước Đức đã trở nên mãnh liệt hơn, mừng rỡ hân hoan chiến thắng đã đánh đuổi kẻ thù xâm lược ra khỏi quê cha đất tổ, và thậm chí còn khát khao mãnh liệt, ao ước ngày nước Đức được thống nhất.[69][87] Nước Đức đã được giải phóng toàn vẹn, chủ nghĩa yêu nước truyền thống của dân tộc Đức hòa quyện với chủ nghĩa dân tộc mới mẻ. Tại kinh thành Berlin, nhiều nhà ái quốc Phổ đã chuyển mình thành nhà dân tộc chủ nghĩa.[88] Quân đội Phổ, vốn đã đóng vai trò quyết định cho chiến thắng to lớn tại trận Leipzig này cùng với số phận của Napoléon, sẽ tiếp tục giữ vai trò tương tự cho chiến thắng của khối Liên minh thứ bảy vào năm 1815 trong trận Waterloo[89][90]. Nhờ có hai thắng lợi này, tại Đức, nước Phổ sáp nhập vùng ven sông Rhine, Westfalen và Posen, qua đó thanh toán ba nước chư hầu của Napoléon và trở thành "tên sen đầm của miền Bắc Đức".[63] Trận Leipzig đẫm máu được xem là thắng lợi quyết định nhất của cuộc chiến, cũng như là một trong những trận đánh quan trọng nhất trong lịch sử thế giới[51].[3]. Ngoài ra, theo nhà sử học quân sự Hoa Kỳ là Robert Michael Citino, chiến thắng Leipzig là "trận hợp vây" (Kesselschlacht) đầu tiên trong lịch sử quân sự Đức.[91]
Không những chiến thắng bước ngoặt của quân đồng minh trong trận đánh Leipzig đã đánh đổ đế chế của Napoléon tại Đức mà còn tại Ba Lan[13]. Liên quân ở thời điểm đó tuy đông đảo, nhưng vẫn có những sự bất đồng trong nội bộ giữa các nước với nhau. Nếu Napoléon Bonaparte có thể đại thắng họ như ở trận Austerlitz thì cũng không loại trừ khả năng Liên minh sẽ tan rã.[28] Trước kia, Napoléon đã thắng nhiều cuộc chiến trước các nước có binh lực đông đảo hơn, nhưng giờ đây, ông đã bại trận.[16] Vì vậy tuy trận đánh này không có tính chất quyết định bằng trận Waterloo vào năm 1815, nhưng có thể xem là nó còn trọng đại hơn cả chiến thắng của liên quân Anh - Phổ - Hà Lan tại Waterloo.[51] Theo tác giả Peter Hofschroer, thảm họa Leipzig của ông thực sự đã quyết định cho tình hình châu Âu lục địa trong vòng một thế kỷ sau đó, mà thảm bại ở trận Waterloo chỉ là sự củng cố.[92] Thực chất chính Napoléon trong giai đoạn đầu của trận Leipzig đã dựa vào lợi thế nội tuyến để chiến đấu, trong khi các đường ngoại tuyến khiến cho quân đồng minh vốn hay đố kỵ nhau, khó thể liên hợp với nhau mà tác chiến. Thế nhưng, quân số đông đảo của họ đã đè bẹp quân Pháp tại trận Leipzig, tạo nên quả đắng rất lớn giành cho Napoléon.[16][87] Ngoài ra, có thể thấy dù là một tướng giỏi nhưng khi tập trung 18 vạn người tại Leipzig, Hoàng đế Pháp đã không thể kiểm soát một quân số đông đảo như thế.[93] Khi Napoléon lần đầu tiên bước chân vào nghị viện sau khi trở về, ông đã thốt lên rằng: "Một năm trước cả châu Âu đều hành quân cùng chúng ta, giờ thì cả châu Âu đều hành quân chống lại chúng ta."[94] Dù cho Napoléon đã tổ chức thành công cuộc triệt thoái khỏi nước Đức, thất bại này đã chấm dứt sự hiện diện của nền Đế chế thứ nhất Pháp ở bờ đông sông Rhine, đặt dấu chấm hết cho sự bá quyền của tại châu Âu.[13][56] Và, chiến thắng vẻ vang này còn khiến các quốc gia tại Đức gia nhập vào Liên minh. Không những Napoléon vừa mới đại bại tại Leipzig mà quân đội Anh vừa mới giành thắng lợi trong cuộc chiến tranh tại bán đảo Iberia cũng bắt đầu tiến công miền Nam nước Pháp.[4][82] Jérôme Bonaparte - vua xứ Westfalen do Napoléon lập nên, cũng phải theo chân đoàn quân tàn tạ của ông mà bỏ chạy.[14] Không lâu sau khi liên quân Nga - Áo - Phổ đại thắng tại trận đánh Leipzig, xứ Holland cũng thừa cơ mà giành lại độc lập khỏi Pháp vào tháng 11 năm 1813.[26] Trong khi ba ngày chiến đấu tại Leipzig đã quyết định thất bại của Napoléon tại Đức, các đồn bót của quân Pháp tại Đức cũng sẽ nhanh chóng ra đầu hàng trong thời gian sau đó.[30] Dưới quyền Schwarzenberg, khối Liên minh tận dụng cơ hội này và tấn công mãnh liệt vào chính quốc Pháp trong năm 1814. Kể từ sau đại bại năm 1813, Nhà nước Pháp suy sụp, trong khi chí khí của người Pháp thì bị sụt giảm trầm trọng.[24][95] Napoléon giờ đây đã hoàn toàn lui về thế thủ và số phận của ông đã được quyết định[14][96]. Sau khi quân Pháp bị đánh bại trong trận Paris,[51] Napoléon buộc phải thoái vị và bị lưu đày tới đảo Elba.
Trong văn hóa
Do đây là chiến thắng rực rỡ đã góp phần đến thắng lợi của cuộc Chiến tranh Giải phóng Đức thoát khỏi ách đô hộ của người Pháp, ít lâu sau khi trận chiến kết thúc, người ta đã được nghe những tiếng nói đầu tiên kêu gọi dựng xây đại kỷ niệm đại thắng. Nhà văn Ernst Moritz Arndt, ngay từ năm 1814, đã kêu gọi xây dựng một đài tưởng niệm thật nguy nga những người đã hy sinh vì nước Đức trong trận quyết chiến:[69]“ | Đài tưởng niệm phải đồ sộ và hoành tráng, như một tòa nhà khổng lồ, như một Kim Tự Tháp, hoặc là Đại Giáo đường xứ Köln. | ” |
—Ernst Moritz Arndt, trong tiểu luận Ein Wort über die Feier der Leipziger Schlacht
|
Xem Thêm
Chú thích
- ^ a ă â b Stanley Sandler, Ground warfare: an international encyclopedia, Tập 1, trang 496
- ^ a ă â b c Spencer Tucker, Battles That Changed History: An Encyclopedia of World Conflict, trang 304
- ^ a ă â b Duncan Wu, William Hazlitt: The First Modern Man.
- ^ a ă â b c Martin Polley, A-Z of modern Europe since 1789, trang 82
- ^ a ă Chuyển qua phe Liên minh từ 18 tháng 10 năm 1813
- ^ a ă â Chandler 1966, tr. 1020
- ^ a ă “Leipzig: Battle of Leipzig: Napoleonic Wars: Bonaparte: Bernadotte: Charles: Blucher”. Napoleonguide.com. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 9 năm 2010. Truy cập ngày 16 tháng 10 năm 2010.
- ^ Peter, Hofschröer (1993), Leipzig 1813: The Battle of the Nations, trang 64
- ^ a ă â Battle of Leipzig ('The Battle of Nations'), 16-18 October 1813
- ^ a ă â b c d đ e ê g J. David Markham, Napoleon For Dummies
- ^ a ă J. Christopher Herold, The Age of Napoleon, trang 383
- ^ a ă â Roger Parkinson, The encyclopedia of modern war, các trang 192-193.
- ^ a ă â b c d đ e ê g Joseph A. Biesinger, Germany: a reference guide from the Renaissance to the present, trang 527
- ^ Lỗi chú thích: Thẻ
<ref>
sai; không có nội dung trong thẻ ref có têntheoaraonson134
- ^ a ă Peter Hofschr?er, Leipzig 1813: The Battle of the Nations, các trang 77-81.
- ^ a ă â b c d đ Jeremy Black, Introduction to global military history: 1775 to the present day, các trang 40-41.
- ^ a ă â b c d Albert Sidney Britt, Thomas E. Griess, The wars of Napoleon, các trang 142-145.
- ^ a ă Peter Hofschröer, Leipzig 1813: The Battle of the Nations, trang 6
- ^ Lỗi chú thích: Thẻ
<ref>
sai; không có nội dung trong thẻ ref có tênhanshoeferhein51
- ^ a ă â Peter Young, Blücher's army, 1813-1815, trang 3
- ^ a ă â Prussian Army of the Napoleonic Wars 1805-1815
- ^ a ă Roger Parkinson, The encyclopedia of modern war, trang 116
- ^ a ă Larry H. Addington, The Patterns of War Through the Eighteenth Century, trang 142
- ^ a ă â b Jeremy Black, War in the nineteenth century: 1800-1914, trang 24
- ^ Peter, Hofschröer (1993), Leipzig 1813: The Battle of the Nations, trang 265
- ^ a ă William Simpson, Martin Desmond Jones, Europe, 1783-1914, trang 83
- ^ Peter Hofschröer, Leipzig 1813: The Battle of the Nations, trang 22
- ^ a ă â b 100 Decisive Battles from Ancient Times to the Present, Paul K. Davis, p. 295
- ^ a ă â David Hollins, Austrian Commanders of the Napoleonic Wars 1792-1815, trang 51
- ^ Lỗi chú thích: Thẻ
<ref>
sai; không có nội dung trong thẻ ref có tênalansked48
- ^ a ă â b c Michael V. Leggiere, The Fall of Napoleon: The allied invasion of France, 1813-1814, các trang 11-12.
- ^ a ă â b c d đ e ê g h i k Christopher M. Clark, Iron Kingdom: The Rise And Downfall of Prussia, 1600-1947, các trang 367-371.
- ^ “Thất bại & sự sụp đổ của Napoléon”. 03 tháng 8 năm 2008. Truy cập ngày 6 tháng 12 năm 2012.
- ^ Fighting along the Pleisse River.
- ^ Allies' attacks on Wachau
- ^ a ă â b Georg Wilhelm von Hofmann, Die Schlacht bei Leipzig, tr.43
- ^ Gerd Fesser, 1813: Die Völkerschlacht bei Leipzig, trang 32
- ^ Georg Wilhelm von Hofmann, Die Schlacht bei Leipzig, trang 51
- ^ Georg Wilhelm von Hofmann, Die Schlacht bei Leipzig, trang 53
- ^ Gerd Fesser, 1813: Die Völkerschlacht bei Leipzig, trang 33
- ^ Gerd Fesser, 1813: Die Völkerschlacht bei Leipzig, trang 34
- ^ Gerd Fesser, 1813: Die Völkerschlacht bei Leipzig, trang 35
- ^ Gerd Fesser, 1813: Die Völkerschlacht bei Leipzig, trang 36
- ^ General Drouot "The Monk" and his 100 guns on Gallows Hill.
- ^ Gerd Fesser, 1813: Die Völkerschlacht bei Leipzig, trang 38
- ^ Gerd Fesser, 1813: Die Völkerschlacht bei Leipzig, trang 39
- ^ a ă â b 100 Decisive Battles from Ancient Times to the Present, Paul K. Davis, trang 296
- ^ Langeron "believed Napoleon himself was attacking him"
- ^ The French retreat.
- ^ a ă â b c d Peter Hofschröer, Leipzig 1813: The Battle of the Nations, trang 81
- ^ a ă â b Michael Lee Lanning, The Battle 100: The Stories Behind History's Most Influential Battles, trang 14
- ^ Gregory Fremont-Barnes, The encyclopedia of the French revolutionary and Napoleonic Wars: a political, social, and military history, Tập 1, trang 964
- ^ The Camridge Modern History, trang 540
- ^ a ă Peter Hofschr?er, Leipzig 1813: The Battle of the Nations, trang 88
- ^ Chandler, 1966,p 936
- ^ a ă â b c d đ e James J. Sheehan, German history, 1770-1866, trang 319
- ^ Terry Crowdy, Christa Hook, French Napoleonic Infantryman 1803-15, trang 51
- ^ Peter Hofschröer, Leipzig 1813: The Battle of the Nations, trang 89
- ^ Heikki Lempa, Beyond the gymnasium: educating the middle-class bodies in classical Germany, trang 81
- ^ Marilène Patten Henry, Monumental accusations: the Monuments aux morts as expressions of popular resentment, trang 88. P. Lang, 1996. ISBN 0-8204-2807-8.
- ^ a ă Adalbert Müller, Donaustauf and Walhalla, trang 69
- ^ Alan Sked, Radetzky: Imperial Victor and Military Genius, trang 210
- ^ a ă â Geoffrey Wawro, Warfare and Society in Europe, 1792-1914, các trang 21-25.
- ^ Claus Telp, The Evolution of Operational Art, 1740-1813: From Frederick the Great to Napoleon, các trang 137-140.
- ^ a ă Jyoti Bhusan Das Gupta, Science, Technology, Imperialism, and War, các trang 667-675.
- ^ a ă â Jean-Denis G. G. Lepage, French Fortifications, 1715-1815: An Illustrated History, trang 40
- ^ a ă Marshall Dill, Germany: A Modern History, trang 85
- ^ Roman Johann Jarymowycz, Tank tactics: from Normandy to Lorraine, trang 18
- ^ a ă â b c Hans A. Pohlsander, National monuments and nationalism in 19th century Germany, các trang 167-168.
- ^ a ă Gregory Fremont-Barnes, The encyclopedia of the French revolutionary and Napoleonic Wars: a political, social, and military history, Tập 1, trang 806
- ^ Paula S. Fichtner, Historical dictionary of Austria, trang 246
- ^ Spencer Tucker, A global chronology of conflict: from the ancient world to the modern Middle East, Tập 2, trang 1296
- ^ Charles Knight (biên tập), Biography: or, Third division of "The English encyclopedia", Tập 5, trang 8
- ^ Baron John Emerich Edward Dalberg Acton Acton, The Cambridge modern history, trang 683
- ^ Alan Sked, Radetzky: Imperial Victor and Military Genius, trang 147
- ^ Robert Michael Citino, The German way of war: from the Thirty Years' War to the Third Reich, trang 138
- ^ Peter Young, Blücher's army, 1813-1815, trang 17
- ^ Ronald Findlay, Kevin H. O'RouRke, Power and Plenty: Trade, War, and the World Economy in the Second Millennium, trang 368
- ^ http://www.napolun.com/mirror/napoleonistyka.atspace.com/Leipzig_battle.htm#leipzigbattle24, Aftermath. "Had I possessed 30,000 artillery rounds at Leipzig..., today I would be master of the world." - Napoleon
- ^ http://www.napolun.com/mirror/napoleonistyka.atspace.com/Leipzig_battle.htm#leipzigbattle24
- ^ John Frederick Charles Fuller, The decisive battles of the Western World, and their influence upon history, Tập 2, trang 450
- ^ a ă Tim Chapman, The Congress of Vienna: Origins, Processes and Results, các trang 12-15.
- ^ Marco Arjan Bontje, Sako Musterd, Peter Pelzer, Inventive City-Regions: Path Dependence and Creative Knowledge Strategies, trang 211
- ^ Christopher M. Clark, Iron Kingdom: The Rise And Downfall of Prussia, 1600-1947, trang XVIII
- ^ Lỗi chú thích: Thẻ
<ref>
sai; không có nội dung trong thẻ ref có tênrogerparkinsonlz
- ^ Andrew Uffindell, The Eagle's Last Triumph: Napoleon's Victory at Ligny, June 1815, trang 30
- ^ a ă Samuel W. Mitcham, The Panzer Legions: A Guide to the German Army Tank Divisions of World War II and Their Commanders, trang 26
- ^ Eric Dorn Brose, German history, 1789-1871: from the Holy Roman Empire to the Bismarckian Reich, trang 74
- ^ Richard Grunberger, Germany, 1918-1945, trang 18
- ^ John Powell, Magill's Guide to Military History: A-Cor, trang 194
- ^ Robert Michael Citino, The German way of war: from the Thirty Years' War to the Third Reich, trang 139
- ^ Peter Hofschr?er, Leipzig 1813: The Battle of the Nations, trang 6
- ^ Martin Van Creveld, 'The Transformation of War, trang 108
- ^ J.T. Headley, "The Imperial Guard of Napoleon"
- ^ Gregory Fremont-Barnes, The encyclopedia of the French revolutionary and Napoleonic Wars: a political, social, and military history, Tập 1, trang 886
- ^ Mark Hichens, Queens and empresses: from Cleopatra to Queen Victoria, trang 188
- ^ Bob Whitfield, Robert Whitfield, Germany, 1848-1914, trang 128
- ^ Hans A. Pohlsander, National monuments and nationalism in 19th century Germany, trang 173
Tài liệu tham khảo
}
- Jeremy Black, War in the nineteenth century: 1800-1914, Polity, 10-08-2009. ISBN 0-7456-4449-X.
- Andrew Uffindell, The Eagle's Last Triumph: Napoleon's Victory at Ligny, June 1815, MBI Publishing Company, 26-11-2006. ISBN 1-85367-688-8.
- Claus Telp, The Evolution of Operational Art, 1740-1813: From Frederick the Great to Napoleon, Routledge, 23-06-2005. ISBN 0-7146-5722-0.
- John Frederick Charles Fuller, The decisive battles of the Western World, and their influence upon history, Tập 2, Eyre & Spottiswoode, 1954.
- Theo Aronson, The golden bees: the story of the Bonapartes, New York Graphic Society, 1964.
- Samuel W. Mitcham, The Panzer Legions: A Guide to the German Army Tank Divisions of World War II and Their Commanders, Stackpole Books, 30-12-2006. ISBN 0-8117-3353-X.
- William Simpson, Martin Desmond Jones, Europe, 1783-1914, Routledge, 2000. ISBN 0-415-22660-0.
- Joseph A. Biesinger, Germany: a reference guide from the Renaissance to the present, Infobase Publishing, 2006. ISBN 0-8160-4521-6.
- Hans Hoefer, Heinz Vestner, Germany, APA Productions, 01-01-1988. ISBN 0-13-354127-4.
- Tim Chapman, The Congress of Vienna: Origins, Processes and Results, Routledge, 26-06-1998. ISBN 0-415-17993-9.
- Martin Van Creveld, The Transformation of War, Simon and Schuster, 31-03-1991. ISBN 0-02-933155-2.
- Martin Polley, A-Z of modern Europe since 1789, Routledge, 12-10-2000. ISBN 0-415-18597-1.
- David Hollins, Austrian Commanders of the Napoleonic Wars 1792-1815, Osprey Publishing, 25-05-2004. ISBN 1-84176-664-X.
- Richard Grunberger, Germany, 1918-1945, Harper & Row, 1966.
- Christopher M. Clark, Iron Kingdom: The Rise And Downfall of Prussia, 1600-1947, Harvard University Press, 2006. ISBN 0-674-02385-4.
- Chandler, David G. (1966), The Campaigns of Napoleon, The MacMillan Company;
- Marshall Dill, Germany: A Modern History, University of Michigan Press, 01-06-1961. ISBN 0-472-07101-7.
- Bob Whitfield, Robert Whitfield, Germany, 1848-1914, Heinemann, 01-09-2000. ISBN 0-435-32711-9.
- Spencer Tucker, A global chronology of conflict: from the ancient world to the modern Middle East, Tập 2, ABC-CLIO, 23-12-2009. ISBN 1-85109-667-1.
- Alan Sked, Radetzky: Imperial Victor and Military Genius, I.B.Tauris, 18-01-2011. ISBN 1-84885-677-6.
- Geoffrey Wawro, Warfare and Society in Europe, 1792-1914, Routledge, 08-02-2000. ISBN 0-415-21445-9.
- J. David Markham, Napoleon For Dummies, John Wiley & Sons, 04-05-2011. ISBN 1-118-07014-3.
- Jeremy Black, Introduction to global military history: 1775 to the present day, Routledge, 2005. ISBN 0-415-35395-5.
- Robert Michael Citino, The German way of war: from the Thirty Years' War to the Third Reich, University Press of Kansas, 2005. ISBN 0-7006-1410-9.
- Roger Parkinson, The encyclopedia of modern war, Taylor & Francis, 07-06-1979. ISBN 0-586-08321-9.
- Eric Dorn Brose, German history, 1789-1871: from the Holy Roman Empire to the Bismarckian Reich, Berghahn Books, 1997. ISBN 1-57181-055-2.
- Smith, Digby (1998), The Napoleonic Wars Data Book, Greenhill
- Thomas, E. Griess (2003), The wars of Napoleon, Square One Publishers, ISBN 0757001548
- Peter, Hofschröer (1993), Leipzig 1813: The Battle of the Nations, ISBN 1855323540
- Editors, of Kingfisher (2004), The Kingfisher History Encyclopedia, Oxford University Press, ISBN 0753457849 Đã bỏ qua tham số không rõ
|site=
(trợ giúp) - Ronald Findlay, Kevin H. O'RouRke, Power and Plenty: Trade, War, and the World Economy in the Second Millennium, Princeton University Press, 12-11-2007. ISBN 0-691-11854-X.
- Jyoti Bhusan Das Gupta, Science, Technology, Imperialism, and War, Pearson Education India, 01-09-2007. ISBN 81-317-0851-9.
- Theodor Apel: Führer auf die Schlachtfelder Leipzigs im October 1813 und zu deren Marksteinen. Hoffmann, Leipzig 1863. (Als pdf-Datei).
- Roman Johann Jarymowycz, Tank tactics: from Normandy to Lorraine, Lynne Rienner Publishers, 2001. ISBN 1-55587-950-0.
- Adalbert Müller, Donaustauf and Walhalla, 1846.
- Larry H. Addington, The Patterns of War Through the Eighteenth Century, Indiana University Press, 1990. ISBN 0-253-20551-4.
- Duncan Wu, William Hazlitt: The First Modern Man, Oxford University Press, 2008. ISBN 0-19-161536-6.
- Peter Hofschr?er, Leipzig 1813: The Battle of the Nations, Osprey Publishing, 20-03-2012. ISBN 1-78096-529-X.
- Jubel-Kalender zur Erinnerung an die Völkerschlacht bei Leipzig vom 16. – 19. AD Oktober 1813. mit Illustrationen nach Originalzeichnungen von August Beck, C. und E. Kirchhoff und Caspar Scheuren. Weber, Leipzig 1863. Digitalisat.
- Charles Knight (biên tập), Biography: or, Third division of "The English encyclopedia", Tập 5, Bradbury, Evans & Co., 1867.
- Willy Andreas: Das Zeitalter Napoleons und die Erhebung der Völker. Heidelberg 1955.
- Carl Heinrich Aster: Die Gefechte und Schlachten bei Leipzig im Oktober 1813. 2 Bände, Dresden 1852/53.
- Baron John Emerich Edward Dalberg Acton Acton, The Cambridge modern history, The Macmillan company, 1934.
- John Powell, Magill's Guide to Military History: A-Cor, Salem Press, 2001. ISBN 0-89356-015-4.
- Gregory Fremont-Barnes, The encyclopedia of the French revolutionary and Napoleonic Wars: a political, social, and military history, Tập 1, ABC-CLIO, 2006. ISBN 1-85109-646-9.
- Frank Bauer: Die Völkerschlacht bei Leipzig. Oktober 1813. Reihe Militärgeschichtliche Skizzen, Militärverlag der DDR, Berlin 1988, ISBN 3-327-00510-9.
- Jean-Denis G. G. Lepage, French Fortifications, 1715-1815: An Illustrated History, McFarland, 30-11-2009. ISBN 0-7864-4477-0.
- Karl-Heinz Börner: Völkerschlacht bei Leipzig 1813. 2. Auflage. Berlin 1988.
- Gordon A. Craig: Probleme des Koalitionskrieges: Die Militärallianz gegen Napoleon 1813–1814. In: Ders.: Krieg, Politik und Diplomatie. Wien 1968, S. 37–65.
- Dieter Düding: Das deutsche Nationalfest von 1814. Matrix der deutschen Nationalfeste im 19. Jahrhundert. In: Düding, Friedemann und Münch (Hrsg.): Öffentliche Festkultur.
- Mark Hichens, Queens and empresses: from Cleopatra to Queen Victoria, Book Guild Publishing, 24-11-2010. ISBN 1-84624-533-8.
- Erckmann-Chatrian, Histoire d'un conscrit de 1813, 1864. Deutsche Übersetzung: Der Rekrut von 1813.
- Jürgen Knaack: Wie die Völkerschlacht bei Leipzig 1813 zu ihrem Namen kam. In: Achim von Arnim und sein Kreis. Hrsg. von Steffen Dietzsch und Ariane Ludwig. De Gruyter, Berlin 2010, ISBN 3-11-023308-8.
- Hansjoachim W. Koch: Die Befreiungskriege 1807–1815. Napoleon gegen Deutschland und Europa. Berg am Starnberger See 1987.
- Jan N. Lorenzen: 1813 - Die Völkerschlacht bei Leipzig. In: Ders: Die großen Schlachten. Mythen, Menschen, Schicksale. Campus Verlag, Frankfurt 2006, ISBN 3-593-38122-2, S. 101–140.
- Friedrich Meinecke: Das Zeitalter der deutschen Erhebung 1795–1815. Bielefeld 1906.
- Friedrich Rochlitz: Tage der Gefahr. Ein Tagebuch der Leipziger Schlacht. 4. Auflage. Insel, Leipzig 1988.
- Kirstin A. Schäfer: Die Völkerschlacht. In: Etienne François und Hagen Schulze (Hrsg.): Deutsche Erinnerungsorte. Band 2. München 2001, S. 187–201.
- Marco Arjan Bontje, Sako Musterd, Peter Pelzer, Inventive City-Regions: Path Dependence and Creative Knowledge Strategies, Ashgate Publishing, Ltd., 01-03-2011. ISBN 1-4094-1772-7.
- Dieter Walz: Sachsenland war abgebrannt. Leipziger Völkerschlacht 1813. Leipzig 1993.
- Johannes Wilms: Napoleon. Eine Biographie. München 2005.
- Jan Dobraczynski: Vor den Toren Leipzigs: Leben und Tod des Józef Poniatowski. Union Verlag, Berlin 1985.
- Georges Lefebvre: Napoleon. J. G. Cotta´sche Buchhandlung Nachfolger GmbH, Stuttgart 2003, ISBN 3-608-94341-2, S. 535.
Liên kết ngoài
Wikimedia Commons có thêm thể loại hình ảnh và phương tiện truyền tải về Trận Leipzig |
- "Easily ranking as one of the largest battles in History"
- Allied Order-of-Battle at Leipzig: 16-18 October 1813
- French order of battle: II–XI Army Corps
- French order of battle: Cavalry Reserve and the Imperial Guard
- (tiếng Đức) Völkerschlacht 1813
- (tiếng Đức) Völkerschlacht bei Leipzig
- (tiếng Đức) Leipzig 1813
Giáo hoàng Gioan Phaolô II
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
(đổi hướng từ Gioan Phaolô II)
Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II |
|
---|---|
Giáo hoàng Gioan Phaolô II trong một buổi thuyết giảng năm 2004 |
|
Tên khai sinh | Karol Józef Wojtyła |
Sinh | 18 tháng 5, 1920 Wadowice, Ba Lan |
Mất | 2 tháng 4, 2005 (84 tuổi) Điện Tông tòa, Thành Vatican |
Thứ tự | |
Tựu nhiệm | 16 tháng 10 năm 1978 |
Bãi nhiệm | 2 tháng 4 năm 2005 |
Tiền nhiệm | Gioan Phaolô I |
Kế nhiệm | Biển Đức XVI |
Huy hiệu | |
Các giáo hoàng khác lấy tông hiệu Gioan Phaolô |
Gioan Phaolô II (hay Gioan Phaolô Đệ Nhị, Latinh: Ioannes Paulus II; tên sinh ; 18 tháng 5 năm 1920 – 2 tháng 4 năm 2005) là vị giáo hoàng thứ 264 của Giáo hội Công giáo Rôma và là người lãnh đạo tối cao của Vatican kể từ ngày 16 tháng 10 năm 1978. Cho đến khi qua đời, triều đại của ông đã kéo dài hơn 26 năm và trở thành triều đại Giáo hoàng dài thứ hai trong lịch sử hiện đại, sau triều đại dài 32 năm của Giáo hoàng Piô IX. Cho đến hiện tại, ông là vị Giáo hoàng duy nhất người Ba Lan và là Giáo hoàng đầu tiên không phải người Ý trong gần 500 năm, kể từ Giáo hoàng Ađrianô VI năm 1520.[1] Ông được tạp chí TIME bình chọn là một trong bốn người có ảnh hưởng lớn nhất thế kỷ 20.[2] và cả những năm đầu thế kỷ 21.
Trong triều đại của mình, Giáo hoàng Gioan Phaolô II không ngừng mở rộng ảnh hưởng của Giáo hội Công giáo trong Thế giới thứ ba. Ông đã thực hiện rất nhiều chuyến tông du hơn 129 quốc gia,[3] ông có thể nói được hơn 10 ngôn ngữ (ngoài tiếng Ba Lan còn có tiếng Ý, tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Tây Ban Nha, tiếng Nga và một chút tiếng Việt[4][5].
Trong suốt triều đại của mình, ông đã lên tiếng phản đối chiến tranh và kêu gọi hòa bình, phản đối chủ nghĩa phát xít, chủ nghĩa cộng sản, chế độ độc tài, chủ nghĩa duy vật, các phương pháp phá thai, thuyết tương đối, chủ nghĩa tư bản và cách thức chết êm dịu. Ông cũng được coi là một trong những nguồn lực dẫn đến sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản ở Ba Lan và Đông Âu[1][2][3][6][7][8][9][10].
Ông là vị Giáo hoàng đầu tiên công khai xin lỗi về những lỗi lầm của Giáo hội trong quá khứ; tổng cộng hơn 100 lần về những hành động sai trái của Giáo hội Công giáo[11][12][13][14] trong đó có sự kiện xưng thú 7 tội của Giáo hội trước đám đông tại quảng trường thánh Phêrô vào ngày 12 tháng 3 năm 2000[15]. Ông cũng là vị Giáo hoàng đầu tiên đứng ra hòa giải với Chính thống giáo Đông phương[1] và Do Thái giáo,[1][10][16]; Anh giáo.[1][17]; là vị Giáo hoàng đầu tiên đứng ra tổ chức cuộc gặp gỡ với các lãnh đạo của các tôn giáo khác như Phật giáo, Khổng giáo, Chính thống giáo Đông phương, Do Thái giáo, Cao Đài và Hồi giáo; là vị Giáo hoàng đầu tiên đến thăm một ngôi đền Hồi giáo ở Syria; là vị Giáo hoàng đầu tiên tổ chức ra Ngày Giới trẻ Thế giới hằng năm; và cũng là vị Giáo hoàng đầu tiên đến thăm vùng Thánh Địa Jerusalem[18]. Gioan Phaolô II cũng đã lên tiếng thừa nhận vai trò của thuyết Tiến hóa[19], thuyết Nhật tâm[20], nguồn gốc thế giới theo quan điểm khoa học ngày nay[21], phủ nhận sự hiện hữu của một thiên đường vật chất trên các tầng mây và một địa ngục vật chất nơi con người bị thiêu đốt như trong Thánh kinh miêu tả[22]
Gioan Phaolô II đã được Giáo hoàng Biển Đức XVI phong là Đấng đáng kính ngày 19 tháng 12 năm 2009[23] và phong chân phước ngày 1 tháng 5 năm 2011.[24] Ông được Giáo hoàng Phanxicô tuyên thánh vào ngày 27 tháng 4 năm 2014. Vì ông là người sáng lập ra Đại hội Giới trẻ Thế giới nên ông được chọn là một trong những vị quan thầy bảo trợ cho ba kỳ Đại hội Giới trẻ Thế giới liên tiếp là Sydney 2008[25], Madrid 2011 và Rio de Janeiro 2013.
Mục lục
- 1 Tiểu sử
- 2 Nhiệm kỳ giáo hoàng
- 2.1 Cai quản Giáo hội Công giáo
- 2.2 Giáo huấn
- 2.3 Các chuyến tông du
- 2.4 Giới trẻ
- 2.5 Quan hệ với các tôn giáo và giáo phái
- 2.6 Vai trò trong sự sụp đổ của chế độ cộng sản ở Ba Lan
- 2.7 Mục tiêu của những âm mưu ám sát
- 2.8 Quan điểm về xã hội và chính trị
- 2.9 Thái độ đối với khoa học và nguồn gốc vũ trụ
- 2.10 Xin lỗi
- 3 Sức khỏe
- 4 Qua đời và tang lễ
- 5 Ghi nhận sau khi qua đời
- 6 Một số ý kiến chỉ trích giáo hoàng Gioan Phaolô II
- 6.1 Bê bối tình dục trong hàng ngũ giáo sĩ
- 6.2 Chỉ trích về lập trường ủng hộ Opus Dei
- 6.3 Chỉ trích về việc tiếp cựu thủ tướng Ý Giulio Andreotti
- 6.4 Kế hoạch hóa gia đình, phá thai và binh đẳng giới
- 6.5 Quan điểm bảo thủ về đồng tính luyến ái
- 6.6 Tôn giáo và AIDS
- 6.7 Chuyên quyền độc đoán
- 6.8 Các chương trình xã hội
- 6.9 Bị cáo buộc là người mê tín dị đoan
- 6.10 Chỉ trích từ giới Kitô giáo bảo thủ
- 7 Chú thích
- 8 Liên kết ngoài
Tiểu sử
Thời thơ ấu
Karol Józef Wojtyła sinh vào ngày 18 tháng 5 năm 1920 tại Wadowice, miền nam Ba Lan, cách Kraków 50 cây số. Là con út trong một gia đình có ba người con, cô chị chết từ khi còn nhỏ. Cha ông là Karol Wojtyla một cựu sĩ quan trong quân đội Habsburg và mẹ là Emilia Kaczorowka. Bà là con của một viên chức chính phủ và chính bà là người đã truyền lại lòng đạo đức sâu sắc cho ông[26].Theo lời kể của Giáo hoàng thì chính mẹ ông "là người đã tạo ra món quà tôn giáo kỳ diệu cho gia đình Wojtyla". Ngay từ đầu, bà đã muốn Karol trở thành một tu sĩ. Bà thường nói với những người hàng xóm: "Lolek (một cách gọi Karol) của tôi sẽ trở thành một người vĩ đại"[27]Trong trường tiều học dành cho trẻ em trai ở Wadowice, ông tỏ ra là một học sinh xuất sắc. Trong phiếu báo điểm đầu tiên, cậu được các điểm "rất tốt" về tôn giáo, hành vẽ, vẽ, hát, trò chơi, thể dục và "tốt" trong tất cả các môn còn lại. Ông rất thích thể thao, là thủ môn cho đội tuyển nhà trường. Ông được rước lễ lần đầu lúc 9 tuổi, được lãnh bí tích thêm sức lúc 17 tuổi. Mẹ ông qua đời ngày 13 tháng 4 năm 1929, lúc ông mới 9 tuổi. Giấy chứng tử của bà ghi bà bị sung huyết tim và thận.[28].
Ở tuổi 11, Karol vào học trường trung học dành cho nam sinh của Wadowice. Cũng trong năm đó, ông trở thành một chú bé phụ lễ và có mối quan hệ gần gũi với linh mục Kazimiers Figlewicz. Ngày 5 tháng 12 năm 1932 anh ông là Edmund qua đời khi đang chăm sóc những người bị bệnh dịch. Sau này, trong một giây phút giãi bày tâm sự hiếm hoi, Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã kể lại với tác giả người Pháp André Frossard: "cái chết của anh tôi có thể đã tác động tới tôi sâu sắc hơn cái chết của mẹ, do những hoàn cảnh riêng biệt, tất nhiên là đau thương và do tôi đã lớn hơn"[29].
Trong thời gian này ông cũng đã đến với sân khấu. Nhiều trong số các vở kịch được diễn trên sân khấu của trường trung học là do Karol Wojtyla đạo diễn. Những vở kịch này thường đề cập tới những chủ đề yêu nước[30]. Karol cũng thích khiêu vũ, ông có thể khiêu vũ thoải mái với các điệu pôlône, maduka, van, tănggô. Vào cuối những năm trung học, ông đã quen biết với Mieczyslaw Kotlarczyk - một nhà trí thức, người đã sáng lập Nhà hát Đại học nghiệp dư ở Wadowice. Ngày 6 tháng 5 năm 1938, tổng Giám mục địa phận Kraków, Adam Sapieha đến Wadowice để chủ tọa buổi lễ xác nhận trước khi tốt nghiệp. Ấn tượng trước cậu học sinh Karol, Giám mục đã hỏi cậu sẽ vào trường dòng chứ? Những Karol đã trả lời rằng: "con sẽ nghiên cứu văn học Ba Lan và triết học"[31].
Sau khi học xong trung học tại Wadowice, Cha ông đưa ông đến Kraków vào tháng 8 năm 1938 khi ông 18 tuổi. Ở đó ông ghi danh vào Đại học Kraków giống như ông anh Edmund. Karol Wojtyła nhanh chóng thích ứng với 1 chương trình rất nặng tại trường đại học bao gồm các môn: từ vựng và ngữ âm Ba Lan, Văn học trung cổ Ba Lan, Kịch Ba Lan thế kỷ XVIII và thi ca đương đại. Ông đã trở thành một sinh viên triết lý và văn chương rất xuất săc, vừa đồng thời theo học thêm ngành kịch nghệ. Wojtyła nhanh chóng kết bạn với một loạt các thi sĩ và kịch gia. Ông thường lui tới ngôi nhà của gia đình Szkoci - một nhà âm nhạc cừ khôi[32].
Ông được huấn luyện quân sự ở Hermanice năm 1935. Vào tháng Bảy 1939, các sinh viên Ba Lan và Ukraine phải vào trung tâm huấn luyện quân sự ở Ozomla, gần Sadowa Wiszna[33]. Vào ngày 1/9/1939 khi Đức tấn công Ba Lan mở màn cho Chiến tranh thế giới lần thứ hai, hai cha con Wojtyła quyết định rời khỏi Kraków. Hai người cuốc bộ đi về phía đông tới vùng núi Tarmobrzeg, cách Kraków 120 dặm thì nhận được tin Nga chuẩn bị xâm nhập phía đông Ba Lan. Hai cha con quyết định quay trở lại Kraków [34].
Vào mùa Đông năm 1939, Tyranowski đã mời ông tham gia tổ chức Living Rosary - một tổ chức hoạt động tôn giáo rất bí mật. Wojtyła gặp Tyranowski một tuần một lần. Dưới sự chỉ đạo của Tyranowski, ông lao vào những thực hành huyền bí [35]. Wojtyła đã học cách điều chỉnh cuộc sống hàng ngày một cách chính xác cho công việc cũng như cho các hoạt động tôn giáo của mình. Chính cách làm việc này đã ảnh hưởng rất nhiều tới ông sau này. Trong thời gian này, ông cũng viết cùng một lúc ba vở kịch: David, Job và Jeremiah bảy tỏ những suy nghĩ, tính huyền bí của sự hi sinh và sự khát khao về một sự giải phóng dân tộc mới [36].
Bất kỳ ai không có một việc làm thường xuyên được nhà chức trách Đức xác nhận đều có nguy cơ bị đưa sang Đức. Chính vì lý do đó, tháng 10/1940 ông đã làm việc lao động chân tay trong một nhà máy hóa học ở Solvay ở ngoại ô Kraków. Đây là những kinh nghiệm cho những quan điểm và thái độ với phong trào công nhân và nhân dân lao động sau này. Ông chỉ phải lao động nặng trong vài tháng còn sau đó đã chuyển sang lao động nhẹ hơn. Thậm chí có thể kiếm được một chân văn phòng thế nhưng để đảm bảo an toàn và không gây chú ý ông đã từ chối [37].
Ngày 18/2/1941, cha ông Wojtyla sau một trận ốm nặng đã qua đời. Sau khi những nghi thức cuối cùng dành cho người qua đời đã được cử hành, ông đã thức suốt đêm để canh thi hài cho cha và suy nghĩ về tương lai và nghề nghiệp của mình. Ông đã nói với tác giả André Frossard: "ở tuổi 20, tôi đã mất tất cả những người mà tôi yêu quý, và thậm chí cả những người mà có thể tôi đã yêu quý". Đầu năm 1941, theo lời giới thiệu của vị giáo sư tiếng Pháp cũ của ông, các quản đốc ở Solvay trao cho ông công việc kế toán ở mỏ đá và theo dõi số chất nổ được dùng để phá đá.
Lúc nhỏ tuổi ông có tiếp xúc nhiều lần với nhóm người Do Thái tại Kraków. Trong thời Đức quốc xã chiếm Ba Lan trong Chiến tranh thế giới thứ hai, rất nhiều bạn bè Do thái của Karol Józef Wojtyła đã bị giết hay bị trục xuất. Tuy nhiên thái độ của Wojtyla với những hành động này là "cầu nguyện". Ông nói rằng: "Hãy nhớ rằng, chúng ta có bổn phận cầu chúa ban cho họ đủ sức mạnh chịu đựng tất cả những thứ này" [38]. Ông không bao giờ tham gia vào bất kỳ một sự kháng cự nào chống lại Đức quốc xã hay vào những hoạt động nhằm giải cứu người Do Thái.[39].
Trong những lúc rảnh rỗi, ông đã dành thời gian say mê điện ảnh. Cùng với những người bạn trong đó có Mieczyslaw Katlarczyk, ông đã sáng lập nên nhà hát Rhapsodic, tiền thân của đoàn kịch nghệ quốc gia Ba Lan. Nhưng họ phải hoạt động một cách bí mật vì nếu bị lính Đức quốc xã phát hiện họ sẽ có thể bị giết hay trục xuất. Mặc dù vậy trong khoảng thời gian từ 1941 - 1945, nhà hát đã trình diễn được 22 buổi và Wojtyła đã tỏ ra là một diễn viên xuất sắc[40].
Tu sĩ
Năm 1941, sau khi cha ông qua đời, Karol đã dấn sâu hơn vào việc tái hiện sự huyền bí và triết học. Tại nhà Kydrynskis-một người bạn, nơi ông đã dọn đến và ở trong sáu tháng, người ta thường thấy ông nằm xoài ra sàn nhà cầu nguyện, tay dang ngang như hình thánh giá.[41].Vào mùa thu năm 1942, sau một cuộc thảo luận dài với cha giải tội Figlewicz, Wojtyla đến nhà riêng tổng Giám mục Sapieha và trình bày ước nguyện trở thành tu sĩ với vị Giám mục. Trước đó, ông đã tới tu viện khổ hạnh dòng Carmeline ở Czerna với hy vọng được vào đây nhưng tu viện này đã bị quốc xã đóng cửa[42]. Mặc dù những người bạn đã cố gắng thuyết phục ông đừng rời bỏ sự nghiệp sân khấu, nhưng ông vẫn quyết định theo con đường mình đã chọn.
Ông bắt đầu lén lút học những môn của Chủng viện Kraków, do Hồng y Adam Stefan Sapieha, lúc đó là Tổng Giám mục Kraków, điều khiển[43]. Mỗi người được trao cho một vị giáo sư. Các lớp học được tổ chức ở nhà tu, nhà thờ và ở nhà riêng. Những chủng sinh này được yêu cầu không để những người quen biết về việc học tập của họ và bản thân những người này vẫn duy trì một nếp sống bên ngoài như bình thường. Trong thời gian này, ông đã đọc cuốn: Luận về sự hiến dâng hoàn toàn cho Đức mẹ đồng trinh của St Louis Grignion de Montfort, Lý thuyết tự nhiên của Kazimierz Wars. Ngày 6 tháng 8 năm 1944, "Ngày Chủ Nhật đen" hơn 8000 người đàn ông và các cậu bé đã bị quân đội phát xít bắt giam, rất may mắn Wojtyla đã không nằm trong số đó. Sau sự kiện này, ông vào ẩn trú trong dinh tổng Giám mục và không tiếp tục làm việc tại Solvay nữa. Ngày 13 tháng 11, ông chịu lễ xuống tóc - một nghi lễ từ thời trung cổ để biểu tượng hóa sự khuất phục trước Chúa.
Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Karol Wojtyla trở về phân khoa Thần học của Ðại học Jagiellonia vừa được mở cửa lại. Tại đây, ông đã được bầu làm phó chủ tịch hội sinh viên. Trong thời gian này, ông đã tập trung vào việc hoàn tất các chương trình nghiên cứu của năm 3 và năm 4. Từ tháng 4 năm 1945 cho tới tháng 8 năm 1946, ông cũng làm việc ở cương vị phụ giáo.
Karol Wojtyla cũng đệ đơn xin gia nhập tu viện Czera của dòng Carmelite đã được mở của trở lại. Tuy nhiên, tổng Giám mục Sapieha đã kiên quyết từ chối việc cho phép Wojtyla gia nhập dòng tu. Sau này, ông còn cố thử gia nhập dòng này một lần nữa vào năm 1948 nhưng vẫn bị vị tổng Giám mục từ chối[44].
Linh mục
Karol Wojtyła được thụ phong linh mục vào dịp Lễ Các Thánh ngày 1 tháng 11 năm 1946 sớm hơn sáu tháng so với các chủng sinh đồng khóa. Ngày hôm sau, tại nhà lớn Wawel, Karol đã cử hành thánh lễ đầu tiên. Sau đó không lâu, hồng y Sapieha gửi linh mục Karol Wojtyla đi du học Roma, tại Ðại học của các linh mục Dòng Ða Minh Angelicum. Dưới sự hướng dẫn của linh mục dòng Ða Minh nổi tiếng là Garrigou - Lagrange, Karol hoàn thành luận án tiến sĩ thần học về đề tài Ðức tin trong các tác phẩm của Thánh Gioan Thánh giá vào năm 1948. Trong các kỳ nghỉ hè trong thời gian du học tại Roma, Karol thi hành mục vụ nơi các người Ba Lan di dân sống bên Pháp, Hà Lan và Bỉ[43].Sau khi hoàn tất học trình tiến sĩ trong thời gian du học ở Roma, tháng 7 năm 1948, Karol Wojtyla được hồng y Sapieha bổ nhiệm làm linh mục phụ tá Niegowic, một giáo xứ hẻo lánh thuộc vùng quê Galicia, cách Kraków 30 dặm[45].Mỗi buổi sáng, Wojtyla thức giấc lúc 5 giờ, dâng Thánh Lễ, điểm tâm rồi dùng xe ngựa di chuyển một vòng qua các khu trong giáo xứ, hướng dẫn giáo lý cho thiếu nhi và cử hành Thánh Lễ tại một khu xóm. Sau đó, ông trở về nhà xứ ăn trưa, tiếp khách hoặc đi thăm viếng giáo dân. Những buổi chiều hoặc những cuối tuần rảnh rỗi ông còn tự mình phụ giúp giáo dân địa phương những công việc lao động trong nhà [45].
Cũng trong thời gian làm phó xứ Niegowic, linh mục Wojtyla đã cống hiến nhiều thì giờ cho giới trẻ tại đây. Ông hướng dẫn họ trình diễn trên sân khấu, giúp họ học thêm để bồi bổ kiến thức, tổ chức những buổi cắm trại trong rừng hoặc những chuyến du ngoạn trong các khu lân cận thuộc giáo phận Krakow, thành lập các đội bóng chuyền và túc cầu cho thanh thiếu niên trong vùng[45].
Tháng 3 năm 1949, hồng y Sapieha thuyên chuyển ông về làm việc tại một trường của Ðại học Kraków thuộc giáo xứ Saint Florian. Ông tiếp tục trau dồi triết và thần học tại Ðại học Công giáo Lublin. Tại đây, ông có cơ hội tìm hiểu thêm về giới trẻ, đồng thời khai triển những phương pháp mục vụ trong khi tiếp xúc với đời sống văn hóa cùng các thức giả tại tổng giáo phận Kraków. Cũng tại nơi đây, Linh mục Wojtyla còn có dịp tiếp tục triển khai những kiến thức về văn chương và triết học của mình.
Ông thường đưa những sinh viên đi cắm trại và du ngoại ngoài trời để hòa mình vào thiên nhiên[45]. Chính nhờ những sinh hoạt với giới sinh viên trong thời gian ở Saint Florian, mà sau này khi được cử làm Giám mục Phụ Tá Giáo phận Krakow, linh mục Wojtyla đã hoàn tất những tác phẩm nói lên mối liên hệ phái tính theo tinh thần Kitô giáo mà tiêu biểu là: The Jeweler’s Shop (Tiệm Nữ Trang), Love And Responsibility (Tình Yêu Và Trách Nhiệm).
Năm 1953, ông trình bày một luận án với đề tài "Thẩm định khả thể xây dựng nền luân lý Công giáo trên hệ thống luân lý của Max Scheler" tại Ðại học Lublin. Sau đó, ông trở thành giáo sư thần học luân lý và luân lý xã hội tại Ðại chủng viện Kraków và tại phân khoa thần học của Ðại học Công giáo Lublin[43].
Tháng 10 năm 1954, phân khoa Thần học tại Đại học Jagiellonian, nơi ông đang giảng dạy môn luân lý Kitô giáo, bị đóng cửa. Lúc ấy Linh mục Karol Wojtyla thường cùng một nhóm giáo sư bí mật gặp gỡ để trao đổi quan điểm về mối liên hệ giữa nhà nước và Giáo hội[45].
Giám mục
Vào ngày 4 tháng 7 năm 1958 ông được Giáo hoàng Piô XII bổ nhiệm làm Giám mục phụ tá giáo phận Kraków. Nửa giờ sau cuộc gặp với Hồng Y Wyszynski và nhận sự đề cử làm Giám mục phụ tá, vị linh mục trẻ tìm tới tu viện của các nữ tu áo xám Ursuline bên bờ sông Vistula. Ông đã cầu nguyện liên tục suốt trong 8 tiếng đồng hồ liên tiếp trước khi rời tu viện Ursuline.[46]Ngày 28 tháng 9 năm 1958, ông được tấn phong Giám mục tại Nhà thờ lớn Wawel ở Kraków, 11 ngày trước khi Giáo hoàng Piô XII qua đời. Một tháng sau, Giáo hoàng Gioan XXIII lên kế vị, mở ra một kỷ nguyên mới cho Giáo hội Công giáo qua quyết định triệu tập Công đồng Vatican II. Vị tân Giám mục 38 tuổi nhận được giấy mời tham dự công đồng[45].
Tại đây, ông đã có sự đóng góp tích cực và hữu hiệu vào chương trình của công đồng với bảy diễn từ đọc trước các nghị phụ tham dự Công đồng và với 13 tuyên ngôn, Giám mục Karol Wojtyla đã gây được một ấn tượng sâu sắc đối với hầu hết các thành phần tham dự Công đồng. Đặc biệt là của Giáo hoàng Gioan XXIII, và nhất là Giáo hoàng Phaolô VI sau đó[45].
Vào ngày 30 tháng 12 năm 1963, Giáo hoàng Phaolô VI đề bạt ông làm Tổng Giám mục Kraków. Trong cương vị tổng Giám mục, ông tham dự Công đồng Vatican II, góp công soạn thảo các tài liệu Tuyên ngôn về tự do tôn giáo (Dignitatis Humanae) và Hiến chế Mục Vụ Giáo hội trong thế giới ngày nay (Gaudium et Spes, Vui mừng và Hy vọng), hai văn bản có tính cách lịch sử và quan trọng nhất của Công đồng này.
Tháng 5 năm 1964, Wojtyla đã đệ trình đoàn chủ tịch công đồng 1 văn bản được soạn thảo nhân danh các Giám mục Ba Lan tuyên bố rằng: mối quan hệ của Giáo hội với thế giới hiện đại phải được dựa trên khái niệm coi Giáo hội là một xã hội hoàn thiện do Chúa sáng lập và ở bên trên lịch sử. Ngày 30 tháng 11 năm 1964, ông đã có cuộc nói chuyện riêng đầu tiên với Giáo hoàng Phaolô VI, người đã theo dõi chặt chẽ các phát biểu của người Giám mục mới này.
Trong thời gian này, nhà cầm quyền Ba Lan đã cho rằng Wojtyla là một người dễ có những thỏa hiệp với nhà nước hơn là Hồng y Wyszynski. Chính quyền đã gợi ý để Wyszynski lựa chọn Wojtyla vào ghế tổng Giám mục chứ không phải là một người khác. Niềm tin về Wojtyla của họ có thể thấy trong một báo cáo mật năm 1967 của cảnh sát Ba Lan: "Có thể yên tâm nói rằng ông ta (Wojtyla) là một trong số ít những trí thức trong đoàn Giám mục Ba Lan. Không giống như Wyszynski, ông ta đã khéo léo dung hòa lòng mộ đạo truyền thống của dân chúng với Công giáo trí thức, mà cả hai đều được ông ta đánh giá cao...Cho đến nay, ông ta chưa tham gia vào các hoạt động chính trị chống nhà nước một cách công khai. Có vẻ như là các vấn đề chính trị không phù hợp với ông ta; ông ta bị trí thức hóa quá mức". [47]
Hồng y
Trong năm 1967 Giáo hoàng Phaolô VI phong ông làm hồng y. Ông cũng đồng thời được bổ nhiệm vào bốn thánh bộ của Vatican: bộ giáo sĩ, thánh bộ Giáo dục công giáo, thánh bộ nghi lễ, bộ các giáo hội Đông Phương và làm cố vấn cho hội đồng về thế tục.Vào mùa Giáng sinh năm 1970, khi tình hình Ba Lan căng thẳng, giá thực phẩm leo thang, trong bài thuyết giảng nhân lễ Giáng sinh tại Kraków năm ấy, ông nói: "Khi người dân bị thương tích và khổ đau, Giáo hội phải lên tiếng bênh đỡ không vì bất cứ khuynh hướng chính trị nào mà chỉ vì tình yêu và tình liên đới của người con Thiên Chúa"[45].
Thời gian này ông cũng làm việc với nhóm tín hữu trí thức dấn thân có tên là Odrodzenie (Tái Sinh), tổ chức Công Giáo đấu tranh duy nhất đặt dưới sự bảo trợ của Hồng y Wyszynski. Ông cũng có những cuộc gặp gỡ giới trí thức để cùng nhau trao đổi quan điểm. Tại tư dinh, ông không chỉ gặp gỡ các chủ biên của tờ Tygodnik Powszechny mà còn tiếp xúc với các sử gia, các nhà toán học, các khoa học gia, triết gia, các văn gia, nhạc sĩ, kể cả các nghệ sĩ trình diễn. Ông bàn hỏi họ về những vấn đề của Ba Lan, của nhân loại và cả những vấn đề thuộc thế giới bên kia –thế giới siêu hình"[45].
Vào năm 1972, Hồng y Karol Wojyla cũng bắt đầu một mối quan hệ với Anna-Teresa Tymieniecka, một phụ nữ Ba Lan đang làm việc tại Đại học Havard [48]. Bà đã giúp ông trở nên nổi bật, giới thiệu ông với cộng đồng triết học Châu Âu, với các học giả Mỹ. Bà đã giúp vạch kế hoạch cho chuyến thăm kéo dài đầu tiên của ông tới Mỹ, và thu xếp để ông có bài giảng đầu tiên tại Đại học Harvard [49]. Sau khi lên làm giáo hoàng, ông đã có một rắc rối với Tymieniecka về vấn đề bản quyền với cuốn Osoba i Czyn. Bà đã đánh giá sự im lặng của Giáo hoàng trước công luận trong cuộc tranh chấp này là một "sự phản bội" cá nhân, mặc dù bà và Giáo hoàng sau đó đã hòa giải[50].
Trong khoảng thời gian từ 1973 đến 1975, Tổng Giám mục Wojtyla đã vào phòng đọc của Giáo hoàng để nói chuyện riêng 11 lần. Vào năm 1976, Phaolô VI đã mời Wojtyla cử hành Lễ Chay (lễ Lent) tại Vatican cho các thành viên của Tòa thánh và gia đình Giáo hoàng. Cũng trong năm này, tờ "Thời báo New York" đã đặt ông vào danh sách 10 người được nhắc tới nhiều nhất như là các ứng cử viên để kế tục Phaolô VI[51].
Vào tháng 8 năm 1978, sau khi Giáo hoàng Phaolô VI mất, ông đã tham gia Hồng y đoàn chọn Albino Luciani, Hồng y Tổng Giám mục của Venezia làm Giáo hoàng Gioan Phaolô I. Khi được chọn làm giáo hoàng, Luciani chỉ 65 tuổi, trẻ so với nhiều giáo hoàng khác. Vào ngày 28 tháng 9 năm 1978, chỉ 33 ngày sau khi nhậm chức, Giáo hoàng Gioan Phaolô I qua đời. Vào tháng 10 năm 1978 Hồng y Wojtyła trở về lại Tòa Thánh để bầu giáo hoàng mới.
Trở thành Giáo hoàng
Lúc 16:30 ngày thứ bảy 14 tháng 10 năm 1978, sau khi cử hành Lễ kính Chúa Thánh Thần tại Ðền thờ Thánh Phêrô vào ban sáng, 111 vị Hồng Y từ khắp thế giới bước vào Mật Viện, để bầu Giáo Hoàng mới. Hôm sau các Hồng Y bắt đầu bỏ phiếu: ban sáng hai lần, ban chiều hai lần. Bốn lần bỏ phiếu ngày 15 tháng 10/1978, không có kết quả nào cụ thể. Các Hồng Y người Ý chiếm đa số, nhưng các ông không đồng ý với nhau về một "ứng cử viên duy nhất", lúc đó là Hồng y Giuseppe Siri, Tổng Giám mục Genova, người đã được báo chí nói đến từ lâu và được coi như "ứng cử viên" chắc chắn hơn cả. Vị khác là Hồng y Giovanni Benelli, Tổng Giám mục Firenze, đã nhiều năm phục vụ tại Phủ quốc Vụ Khanh, có nhiều kinh nghiệm trong Ngành Ngoại giao và công việc của Giáo Triều Roma[52].Sáng thứ hai 16 tháng 10/1978, với hai lần bỏ phiếu, các Hồng y vẫn chưa chọn được Vị Giáo Hoàng mới. Tên của Tông Giám mục Cracovia đã nhận được nhiều phiếu hơn cả vào lúc 17:30, trong cuộc bỏ phiếu lần thứ sáu, vào chiều ngày 16 tháng 10 năm 1978. Sau khi kiểm xong các lá phiếu, Vị Hồng Y nhiếp chính (trong thời kỳ trống ngôi) lại gần Vị được chọn, chào kính, đặt câu hỏi theo lễ nghi: "Ngài có chấp nhận việc lựa chọn Ngài hay không?". Trong cầu nguyện và yên lặng suy tư, Karol Wojtyla chưa trả lời ngay. Mọi người chờ đợi và thấy ông cảm động, nước mắt chảy trên gò má. Sau cùng, với giọng rõ ràng và nghiêm nghị, ông trả lời: "Vì Chúa Kitô của tôi, vì Ðức Trinh Nữ, Mẹ của tôi, vì tôn trọng Tông Hiến của Ðức Phaolô VI mời gọi, tôi xin chấp nhận."
6 giờ 18 phút, hồng y phó tế Tisserant tuyên bố: "Dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, Hồng y đoàn đã tín nhiệm Hồng y Karol Wojtyla, Tổng Giám mục Kraków, Ba Lan, vào ngôi vị giáo hoàng của thế giới Công giáo". Ông đã được bầu để kế vị Gioan Phaolô I, trở thành Giáo hoàng từ ngoài nước Ý đầu tiên trong gần 500 năm và là vị giáo hoàng gốc người Slav đầu tiên trong lịch sử Công giáo.
Vị tân giáo hoàng giơ tay chào dân chúng. Trước khi ban phép lành Urbi et Orbi, ông mở đầu: "Sia lodato Gesù Cristo" Ngợi khen Chúa Giêsu Kitô: lời chào người dân công giáo Ý rất ưa chuộng. Ông nói tiếp:
“ | Chúng ta còn đang đau buồn về cái chết của Ðức Thánh Cha Gioan
Phaolô đệ nhất (dân chúng vỗ tay). Và lúc này đây các Vị Hồng Y đáng
kính đã chọn một Vị Giám mục mới của Roma. Các ngài đã chọn một vị đến
từ một xứ sở xa xôi, xa xôi, nhưng luôn luôn gần gũi bởi sự hiệp thông
đức tin và trong truyền thống Kitô. Tôi run sợ trong khi lãnh nhận việc
lựa chọn này, nhưng tôi đã chấp nhận trong tinh thần phục tùng Chúa
chúng ta Ðức Giêsu Kitô và trong tinh thần phú thác hoàn toàn cho Mẹ
Người, Ðức Trinh Nữ Maria. Tôi không biết tôi có thể biểu lộ rõ ràng bằng tiếng nói của anh chị em không... bằng tiếng Ý của chúng ta không" (lại một tràng pháo tay dài nữa của dân chúng). Mối thiện cảm giữa Vị Giáo Hoàng mới và dân chúng gia tăng thêm mãi. "Nếu tôi nói sai, anh chị em sửa lại cho tôi. Và giờ đây hiện diện trước mọi người để tuyên xưng đức tin chung của chúng ta, đức cậy và lòng tín nhiệm của chúng ta nơi Mẹ Chúa Kitô và Mẹ Giáo hội và cũng để bắt đầu lại trên con đường của lịch sử và của Giáo hội với sự giúp đỡ của Thiên Chúa và của Giáo hội. |
” |
—Giáo hoàng Gioan Phao-lô II
|
Sáng ngày 17 tháng 10, ông đã trình bày chiến lược của ông: trung thành với công đồng và các hội đoàn. Gioan Phaolô II đã kiên quyết khẳng định việc phải tuân thủ lời răn dạy của giáo hoàng, tôn trọng các luật lệ về nghi lễ cũng như về kỷ luật. Sau cùng, ông nhấn mạnh đến nhu cầu tiến hành cuộc đối thoại trên phạm vi toàn thế giời và cam kết của Giáo hội với hòa bình và công lý trên thế giới[53].
Nhiệm kỳ giáo hoàng
“ | Ông ta là người mà có thể được gọi là nhà cách mạng bảo thủ. Trong một số lĩnh vực, tỉ như sự sẵn sàng trong việc đối thoại với các tôn giáo khác, ông ta có một tư tưởng tiến bộ. Trong các lĩnh vực khác, ông ta lại tỏ ra là một giáo hoàng thủ cựu và cực kì phản động. Ông ta duy trì mọi luồng ý kiến trái ngược nhau trong Giáo hội và kết quả là người kế vị của ông ta sẽ gặp phải sự khủng hoảng trong việc điều hành. | ” |
—Giovanni Ferro, [54]
|
Cai quản Giáo hội Công giáo
Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã chủ sự 51 nghi lễ tuyên thánh cho 482 người và 147 nghi lễ phong chân phước cho tất cả 1338 người. Nhiều người hơn tất cả những giáo hoàng trước. Việc ông có tuyên thánh cho nhiều người hơn số người được những giáo hoàng trước tuyên thánh cộng lại khó xác minh được vì hồ sơ việc tuyên thánh lúc ban đầu còn thiếu sót[55]. Trong số những người được tuyên thánh có Anuarite Negapeta, một nữ tu người Phi bị một tên lính Simba ở Daia sát hại trong lúc bảo vệ sự trinh tiết của mình; Peter Toror, một nhà truyền giáo ở Papua Niughinê đã bị sát hại trong một trại tù binh chiến tranh của Nhật bản trong thế chiến thứ hai; Người được tấn phong gây nhiều tranh cãi nhất là Josemaria Escriva de Balague, người sáng lập tổ chức Thiên chúa giáo thần bí Opus Dei. Giáo hoàng Gioan Phaolô cũng được cho là người đã có những mối quan hệ với tổ chức này.[56]. Đặc biệt trong số những người được tuyên thánh có 117 vị thánh tử đạo Việt Nam được ông tuyên phong tại thành Rôma ngày 19 tháng 6 năm 1988[57].Năm 1984, ông đã thành lập Học viện Sahel để đặc trách việc trợ giúp phát triển cho các quốc gia vùng sa mạc Sahara. Tháng 2 năm 1992, Gioan Phaolô đã thành lập Quỹ phát triển Populorum Progressio để trợ giúp cho các nhóm thổ dân Mỹ Latinh. Ông cũng đã thành lập Hàn lâm viện Giáo hoàng về sự sống và các khoa học xã hội, lập Ngày Quốc tế Bệnh nhân, Ngày Quốc tế Ðời tận hiến và Ngày Giới trẻ Thế giới[58].
Trong suốt thời gian làm giáo hoàng, ông đã gặp 17,6 triệu khách hành hương trong 1160 lần tại Quảng trường Thánh Phêrô vào mỗi ngày Thứ tư. Khoảng 8 triệu khách hành hương trong Năm Thánh 2000. Ông đã 737 lần tiếp các nhà lãnh đạo quốc gia và 245 lần các thủ tướng quốc gia.
Ông đã được cả hai chính phủ Chilê và Áchentina nhờ can thiệp về vấn đề kênh Beagle "với mục đích hướng dẫn và giúp họ trong việc giải quyết hòa bình cuộc tranh chấp". Đây là một vấn đề quan trọng đối với Vatican và lần thứ hai sau một thế kỷ, Giáo hoàng lại một lần nữa được yêu cầu đóng một vai trò trong các cuộc thương lượng quốc tế.
Trong suốt nhiệm kỳ của mình, Gioan Phaolô II đã tổ chức 9 mật nghị để phong tước cho 232 hồng y, trong đó có một vị "còn giữ kín"; đã bổ nhiệm trên 3,5 ngàn trong số gần 4,2 ngàn Giám mục trên thế giới. Ông đã gặp từng người trong các Giám mục một số lần qua nhiều năm, nhất là khi họ viếng thăm Tòa thánh 5 năm một lần[59].
Ông đã chủ sự 15 thượng hội Giám mục: 6 thường lệ (1980 về gia đình, 1983 về thống hối và hòa giải, 1987 về giáo dân, 1990 về linh mục, 1994 về tu sĩ, 2001 về Giám mục), 1 ngoại lệ (1985 Công đồng Vatican II 20 năm sau) và 8 đặc biệt (1980 cho Hà Lan, 1991 cho Châu Âu lần nhất, 1994 cho Châu Phi, 1995 cho Liban, 1997 cho Châu Mỹ, 1998 [2] cho Châu Á và Châu Đại Dương, 1999 cho Châu Âu lần hai)[59].
Vào ngày 14 tháng 3 năm 2004, ông trở thành vị Giáo hoàng thứ ba trong số những vụ Giáo hoàng có thời gian ở ngôi lâu dài nhất, sau Thánh Phêrô (từ 34 đến 37 năm) và Piô IX (31 năm, 7 tháng, 23 ngày).
Với vai trò Giáo hoàng, ông đã viết 14 thông điệp, 14 tông huấn, 11 tông hiến, 42 tông thư và 22 tự sắc chưa kể đến hằng trăm sứ điệp và thư tín khác nữa. Để sửa soạn cho Năm Thánh 2000, Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã viết tông thư "Tiến đến Thiên niên kỷ thứ Ba" (Tertio Millennio Adveniente) đề ngày 10 tháng 11 năm 1994.
Giáo huấn
“ | Tương lai bắt đầu từ hôm nay, chứ chẳng phải ngày mai. | ” |
—Gáo hoàng Gioan Phaolô II[60]
|
Các chuyến tông du
Trong suốt triều đại của mình ông đã thực hiện 104 cuộc viếng thăm ngoài nước Ý, chuyến đi cuối cùng là Lộ Đức vào tháng 8 năm 2004.Ông cũng thực hiện 143 cuộc viếng thăm trong nước Ý. Với tư cách là Giám mục Rôma, ông đã đi thăm mục vụ 301 trong tổng số 334 giáo xứ trong Giáo phận Rôma.
Với 247 chuyến viếng thăm mục vụ trong và ngoài nước Ý, Gioan Phaolô II đã đi 1.167.295 km (hay 700.380 dặm), trên 28 lần chu vi của Trái Đất (hay 3 lần khoảng cách giữa Trái Đất và Mặt Trăng), nhiều hơn tất cả những Giáo hoàng trước cộng lại. Những chuyến đi này là dấu hiệu của nỗ lực bắc cầu nối lại những quốc gia và tôn giáo trong nhiệm kỳ của ông[61].
Ngay từ đầu, những chuyến đi của Giáo hoàng đã là một bài thuyết giáo không ngừng về tiếng tăm của con người và sức mạnh của lòng trung thành. Tại Triều Tiên, ông đã nói đến sự nghiệp giải phóng con người trước những người công nhân phải lao động cực nhọc. Ông đã đích thân phát biểu trước những người theo Thiên Chúa và những người không theo Thiên Chúa. Ông đã đến thăm nhiều nơi trên thế giới, dù ở thế giới thứ nhất hay thế giới thứ ba, ông đều hướng tới những con người, những thân phận nghèo khổ.
Tại Nigiêria, ông tuyên bố rằng: "việc khai thác bất chấp đạo lý đối với người nghèo và kém hiểu biết là một tội ác chống lại Chúa"; tại Côlômbia ông cảnh cáo: "những người sống dư thừa và xa hoa vô độ thể hiện sự mù quáng về tinh thần". Người nghèo sẽ phán xử các quốc gia đã lấy mất của cải của họ, khẳng định sự độc quyền đế quốc chủ nghĩa đối với hàng hóa của họ và quyền tối cao về mặt chính trị bằng sự trả giá của người khác". Tại Bồ Đào Nha, ông chỉ rõ: "Công lý đòi hỏi những người nông dân có thể canh tác trên mảnh đất của chính họ". Tại Tây Ban Nha, ông yêu cầu nhà nước phải bảo vệ những người lao động: "Chúng ta không thể bỏ mặc người lao động và số phận của họ được". Ông cũng bảo vệ việc thành lập những tổ chức công đoàn ở Braxin và tại Nam Phi, ông kết tội chủ nghĩa Apácthai[62].
Gioan Phaolô II đã biến những chuyến chuyến tông du trở thành một cuộc hành trình truyền giáo mang tính chất sứ đồ. Ông sẵn sàng đón nhận mọi phong tục và nghi thức văn hóa ở những vùng miền khác nhau. Ông không chỉ nói bằng hàng chục thứ tiếng mà còn đội bất cứ một trong số các mũ lạ thường nào mà nhân dân địa phương tặng: Mũ nồi dành cho sinh viên, mũ phớt rộng vành của những người Mêhicô, mũ làm bằng lông của những người da đỏ, mũ đen. Tại châu Phi, ông mặc bộ quần áo bằng da dê và đứng trong lúc nắm chặt cái giáo của vị trưởng bộ lạc. Tại miền tây nước Mỹ, ông xuất hiện từ một túp lều vải trong bộ quần áo lễ có tua; tại Phoenix một nhóm thổ dân Mỹ đặt ông lên bục diễn thuyết tròn rồi đi vòng quanh ông[63]...
Bất cứ ở nơi nào ông đến, ông đều tới viếng thăm những nơi tôn kính đức Maria. Nơi Đức Mẹ hiện hình ở Braxin, Ngôi nhà Đức Mẹ tại Thổ Nhĩ Kỳ, Hang đá Đức Mẹ Lộ Đức, thánh địa Fatima ở Bồ Đào Nha...ông hiến dâng tất cả các lục địa cho trái tim Đức Mẹ "xin Người hãy thấu hiểu tất cả nỗi khổ đau và niềm hy vọng của tất cả chúng con"[64].
Tuy nhiên chuyến thăm Đức vào năm 1996 đã trở thành thảm họa. Ngày 24 tháng 6 năm 1996, khi xe của Giáo hoàng đi về phía cổng Bradenburg tại Berlin, hàng trăm người vô chính phủ và những người hoạt động xã hội ủng hộ người đồng tính thuộc một "Liên minh chống Giáo hoàng" đã xông về phía Gioan Phaolô II, gào to lên "Hãy xuống địa ngục đi !", "Thiêu sống Giáo hoàng !" "Bao cao su thay thế cho Tòa thánh !" ("Kondome statt Dome!") và ném sơn, cà chua, trứng thối vào chiếc xe của Giáo hoàng. Hai bịch sơn đã văng trúng chiếc xe chở Gioan Phaolô II.[65][66][67][68][69][70] Danh sách các bài báo nói về vụ Giáo hoàng bị biểu tình ở Berlin năm 1996
Giới trẻ
Trong suốt nhiệm kỳ của mình, Gioan Phaolô II đã dành một sự quan tâm đặc biệt tới giới trẻ như là một sự tiếp nối những công việc ông đã làm kể từ khi còn là linh mục và Giám mục. Ngoài những cuộc gặp gỡ, trao đổi trực tiếp với các học sinh, sinh viên nam nữ trong giáo xứ, nơi học đường, trong các cuộc bơi thuyền, leo núi, chơi thể thao, cắm trại với mục tiêu tìm hiểu hầu đáp ứng những khao khát kiếm tìm của giới trẻ về mọi vấn đề liên quan tới đời sống – kể cả vấn đề yêu đương, tính dục-,ông còn đưa ý niệm này vào lãnh vực văn chương, kịch nghệ qua những tác phẩm do ông thực hiện lúc bấy giờ.[71]Trong tác phẩm "Crossing The Threshold Of Hope" (Bước Qua Ngưỡng Cửa hy Vọng), của mình, Gioan Phaolô II đã viết:
Giống như người thanh niên trong Phúc Âm, để trả lời cho những vấn nạn nền tảng, điều người trẻ tìm kiếm không chỉ là ý nghĩa đời sống, mà còn là phương thế cụ thể và hiệu nghiệm để sống đời sống ấy. (...). Người trẻ muốn là chính họ......Họ phải yêu mến chính tuổi trẻ của họ. Và điều này, mỗi một người linh mục cần phải biết và hiểu rõ.(…).Năm 1985, ông công bố lập ngày giới trẻ thế giới (JMJ) 2 năm 1 lần. Đầu tiên là Rôma (1985), Buenos Aires (Argentine 1987), Santiago de Compostella (Tây ban Nha 1989)…và nhiều nơi sau đó trên thế giới, để những người trẻ có thể gặp gỡ nhau, cùng ông tôn vinh Thiên Chúa, cùng nói lên niềm hi vọng của nhân loại, rồi sẽ trở về nhà như "những chứng nhân không chút sợ hãi của Tin Mừng ".[72]
Ông đã truyền cho họ sự dũng cảm, lòng nhiệt thành khi phải đối đầu với nền văn hóa sự chết như chiến tranh, bạo lực, nạn phá thai,… để duy trì sự sống cho con người.
“ | Hỡi những người trẻ. Chúa Kitô cần tới các con để thắp sáng địa cầu, để chỉ cho nhân loại ‘nẻo đường đi tìm sự sống (Ps. 16:11. Thách thức mới là các con cần phải thể hiện sự có mặt của Giáo Hội Chúa bằng chính cuộc đời và lối sống cụ thể của các con. Các con hãy sắp sẵn trí khôn, tài năng, lòng nhiệt thành và tình thương của các con để đối diện với đời sống và phục vụ đời sống. Các con đừng sợ xuống đường để đi tới những nơi công cộng như các thánh Tông Đồ xưa. Giờ không còn là thời điểm để các con xấu hổ vì Phúc Âm (cf. Rom. 1:16) Giờ là thời điểm để các con rao giảng từ trên mái nhà (cf. Mt. 10:27). Các con đừng sợ phá vỡ nếp sống tiện nghi và thói quen để chấp nhận thách đố: làm thế nào để khuôn mặt Chúa Giêsu được thế gian biết đến?…. |
” |
—Diễn từ tại Denver, Colorado, nơi tổ chức Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới năm 1993
|
Quan hệ với các tôn giáo và giáo phái
Ông cũng góp sức cho sự thông hiểu giữa các tôn giáo, gặp gỡ và tổ chức những buổi hội thảo và cầu nguyện với nhiều cấp lãnh đạo các tôn giáo khác. Năm 2002, trong bối cảnh Hoa Kỳ chuẩn bị tấn công Iraq, ông đã mời gọi các nhà lãnh đạo các tôn giáo trên thế giới gặp nhau tại Assisi (Quê hương của thánh Phanxicô) để cầu nguyện cho hòa bình. Tham dự có tổng Giám mục Piritim - đại diện Giáo hội Chính Thống giáo Nga, Thượng phụ Giáo chủ Bartholomew I của Giáo hội Chính Thống giáo Constantinopole, Giám mục Vasilios - Chính Thống giáo Cypriot, đạo Sikh (Ấn Độ), Thần đạo (Nhật Bản), giáo phái Hồn vật (Phi châu) và nhiều đại diện tôn giáo khác[73].Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã công khai xin lỗi thế giới và các tôn giáo khác về những lỗi lầm của Giáo hội Công giáo Rôma trong quá khứ, tổng cộng 94 lần.
Anh giáo
Năm 1995, với thông điệp về Hiệp Nhất (Ut Sint Unum), Giáo hoàng Gioan Phaolô II kêu gọi hãy thực hiện một cuộc đối thoại và suy tư về "thừa tác vụ hiệp nhất của vị Giám mục Roma", trong các giáo hội Kitô khác nhau trên thế giới.Năm 1981, Một "Phúc Trình chung" đã được công bố, đúc kết lập trường của hai giáo hội Anh giáo và Công giáo về quyền bính. Năm 1982, Gioan Phaolô II qua Canterbury (Anh quốc) thăm vị giáo chủ Anh giáo[74].
Ngày 12 tháng 5 năm 1999, Ủy ban Quốc tế hỗn hợp Anh giáo và Công giáo đã công bố chung một văn kiện nói về "Quyền bính của đức Giáo hoàng" trong giáo hội. Văn Kiện định nghĩa "quyền đứng đầu" của vị Giám mục Roma như là "quyền để phân định sự thật" và quyền nầy cần được thi hành một cách "tập đoàn" trong khung cảnh của "hội đồng tính" của các Giám mục. Việc công bố Văn Kiện Chung Anh Giáo và Công Giáo nói về quyền bính, là một bước tiến thêm nữa trên con đường đại kết.[75]
Tháng 7/2002, Nhân việc bổ nhiệm tân Tổng Giám mục Canterbury - Rowan Williamatican, Gioan Phaolô II đã chúc mừng tân Tổng Giám mục Canterbury và nói thêm như sau: "Tôi đã có dịp biết và làm việc gần gũi với các vị tiền nhiệm của ngài, Ðức tổng Giám mục Runcie và Ðức tổng Giám mục Carey, trong công tác chung là thăng tiến sự thông cảm giữa cộng đoàn Anh Giáo và giáo hội Công giáo. Tôi tin rằng với ơn phù trợ của Thiên Chúa, chúng ta có thể đạt được tiến bộ trên con đường tiến tới hiệp nhất"[76].
Tin lành
Vào năm 1983, Gioan Phaolô II là vị giáo hoàng đầu tiên lên tiếng giảng trong một nhà thờ Tin lành.[77]. Ngày 31 tháng 10 năm 1999, giữa tiếng reo vui của dân chúng và sự cảm động của giới hữu trách, Tuyên ngôn chung liên quan tới giáo lý về Công Chính Hóa đã được hai Giáo Hội Công Giáo và Tin Lành Luther ký kết tại thành phố Augsburg [78].Do Thái giáo
Ngay từ khi mới đăng quang, ngày 12/03/1979 ở Mayence, Gioan-Phaolô II đã tuyên bố:" hai cộng đoàn tôn giáo (Công giáo - Do Thái giáo) chúng ta được liên kết ở ngay mức độ lý lịch của chính chúng ".Ngày 13. 04. 1986, ông trở thành vị giáo hoàng đầu tiên bước vào đại hội đường Do Thái tại Roma,, ông tuyên bố:
“ | Đạo Do Thái không ‘ngoại lai’ với chúng tôi, nhưng trong một ý nghĩa nào đó nó ‘nằm bên trong đạo chúng tôi. Đối với đạo Do Thái, do vậy, chúng tôi có những tương quan mà chúng tôi không có với bất cứ tôn giáo nào khác. Các bạn là những người anh em rất yêu chuộng của chúng tôi và, trong một ý nghĩa nào đó, người ta có thể nói là những anh cả của chúng tôi. | ” |
—Giáo hoàng Gioan Phao-lô II[79]
|
Năm 2000, trong dịp viếng thăm Giêrusalem, ông đã để lại lời cầu nguyện vắn tắt trong Bức Tường Than khóc - nơi các người Do thái vẫn đến cầu nguyện với nội dung như sau[81][82]:
“ | Lạy Thiên Chúa của các Cha Ông chúng con, Chúa đã chọn Abraham và Dòng dõi của ngài, để thánh danh Chúa được rao giảng cho các dân tộc. Chúng con đau buồn sâu xa về thái độ của biết bao người trong dòng lịch sử đã làm cho con cái Chúa đau khổ, và trong lúc xin Chúa tha thứ về thái độ này, chúng con muốn cam đoan sống trong tình huynh đệ đích thực với Dân của Lời Giao Ước. Vì Chúa Kitô Chúa chúng con. | ” |
—Giêrusalem 26 tháng 3 năm 2000, Gioan Phaolô II.
|
Chính Thống giáo Đông phương
Ngày 30 tháng 11 năm 2000, Nhân ngày lễ kính thánh Anrê tông đồ tử đạo 30.112000, trong một lá thư viết cho Thượng Phụ Giáo Chủ thành Constantinopolis ở Thổ Nhĩ Kỳ, về việc tiếp tục cuộc đối thoại Liên Tôn, Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã tặng nhà thờ St. Theodore ở trên ngọn đồi Palatine thuộc thành Rôma cho Chính Thống giáo Đông phương[83].Trong thư, Giáo hoàng nói về nguồn cội chung của Công giáo và Chính Thống giáo nên ông nói đó là lẽ khẩn thiết bắt buộc Công giáo và Chính Thống giáo "tái thành lập lại sự hợp nhất toàn vẹn trong đức tin và trong đời sống sớm hết sức có thể, bởi vì sự chia rẽ giữa các Kitô giáo đi ngược lại tinh thần của Phúc Âm và việc chứng nhân giữa thế giới (....)vì một trái tim tinh tuyền và trong sáng, và vì vâng lệnh ý muốn của cùng một Thiên Chúa, chúng ta phải tiếp tục cuộc tìm kiếm sự hiệp thông toàn vẹn trong chân thành, huynh đệ và yêu thương".
Ông cũng đã cử một phái đoàn sang Istanbul, Thổ Nhĩ Kỳ dẫn đầu bởi hồng y Edward Idris Cassidy, chủ tịch Hội đồng giáo hoàng cổ võ Hợp Nhất Kitô hữu tham dự thánh lễ kính thánh Anrê - quan thầy của giáo hội phương Đông. Việc thăm viếng nhau nhân ngày lễ này đã trở thành truyền thống và được thực hiện liên tiếp từ năm sáu năm nay. Ngược lại mỗi năm vào ngày 29.6 nhân lễ kính thánh Phêrô và Phaolô Tông Ðồ, quan thày của Giáo Hội Công Giáo Roma thì Thượng Phụ giáo chủ Bartholomew I, cũng gửi phái đoàn sang Roma kính thăm Giáo hoàng.
Ngày 22 tháng 8 năm 2004, Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã thông báo việc ông trao trả Bức ảnh Ðức Mẹ Kazan cho Giáo chủ Alexis II của Giáo hội Chính Thống giáo Matxcơva, và qua Alexis cho toàn thể dân tộc Nga. Bức Ảnh Ðức Mẹ Kazan, đã được họa trên gỗ vào thế kỷ thứ 13. Bức Ảnh Ðức Mẹ Kazan đã được lưu giữ tại Fatima, sau đó được đưa về Vatican vào năm 1991 và được giữ nơi nhà nguyện riêng của giáo hoàng[84].
Trong sứ điệp gửi cho Giáo chủ Alexis II nhân dịp này, ông viết:
Vị Giám mục Roma đã cầu nguyện trước Bức Ảnh Thánh nầy vừa khẩn cầu sao cho mau đến ngày mà tất cả chúng ta sẽ hiệp nhất với nhau, và là ngày mà chúng ta có thể công bố cho thế giới, trong cùng một tiếng nói và trong sự hiệp thông hữu hình, (công bố cho thế giới) biết ơn cứu rỗi của Chúa Duy Nhất của chúng ta và sự chiến thắng của Chúa trên tất cả mọi quyền lực xấu xa và vô đạo đang gây hại cho đức tin cũngnhư gây hại cho chứng tá hiệp nhất của chúng ta.[85]
Phật giáo
Trong thời gian đương nhiệm, giáo hoàng Gioan Phaolô II đã gặp gỡ người lãnh đạo Phật giáo Tây Tạng là Đại Lai Lạt Ma nhiều lần[86]. Đại Lai Lạt Ma đã đánh giá về Giáo hoàng Gioan Phaolô II:“ | Quả thật Ngài có một ý chí và một quyết tâm giúp đỡ nhân loại về mặt tâm linh. Đó là điều tuyệt với, là điều thiện hảo. | ” |
—Đại Lai Lạt Ma[87]
|
Tuy nhiên, một số phát biểu về Phật giáo của Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã gây ra nhiều tranh cãi và chỉ trích. Ví dụ, trong tác phẩm Bước qua ngưỡng cửa hi vọng, Giáo hoàng đã chỉ trịch đạo Phật là "thờ ơ với cuộc sống", "tiêu cực", "vô thần". Nhận định này đã vấp phải sự phản đối dữ dội từ cộng đồng Phật giáo. Tanaka Ken, giáo sư tại Học viện Phật học đã cho rằng Giáo hoàng "chưa chịu làm bài tập", còn Lạt Ma Ole Nydahl thì nhận xét Giáo hoàng "sẽ không thể tận hưởng cuộc sống ở kiếp sau". Linh mục Thomas Hand, một chức sắc Công giáo nghiên cứu thiền tại Medical Retreat Center cho rằng ý kiến của Gioan Phaolô II về sự "vô thần" và "tiêu cực" trong đạo Phật là hoàn toàn sai lầm và Giáo hoàng không thể nhận xét bừa bãi về một tôn giáo thâm thúy như đạo Phật mà không hiểu gì về nó. Một số nhân sĩ Phật giáo bình luận rằng, nguyên nhân của phát biểu trên bắt nguồn từ những lo ngại của Gioan Phaolô II về các nỗ lực truyền bá ảnh hưởng của đạo Phật ra ngoài châu Á.[88] Trong một buổi họp mặt, các nhà sư tại Tích Lan đã quyết định yêu cầu Giáo hoàng phải xin lỗi[89]. Trước các phản ứng này, Gioan Phaolô II đã thanh minh rằng ông luôn bày tỏ sự kính trọng sâu sắc đến các tín đồ Phật giáo và không có ý xúc phạm Phật giáo.
Hồi giáo
Sau khi được bầu làm giáo hoàng, Giáo hoàng Gioan Phaolô II cho biết rằng qua Hồng y Pignedoli, cộng tác viên thân cận của cố Giáo hoàng Phaolô VI và đức ông Rossano, người sáng lập Phong Trào Giải Phóng và Hoà Giải, ông đã thực sự đi vào con đường đối thoại với hồi giáo. Ngay từ những năm 1979, 1980 Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã có những cuộc đối thoại với giáo chủ Hồi giáo Ayatollah Khomeini.Vào năm 1985 ông đã phát động cái họi là "cuộc tấn công đối thoại" nhằm vào các tín đồ Hồi Giáo. Ông đánh giá cao một vài mặt của đạo Hồi: Thuyết độc thần, quy phục một vị Chúa nhân từ và những quy định về việc ăn chay và sám hối. Nhưng ông cũng tỏ ra hoài nghi về Hồi Giáo đang co mình trong nỗi sợ hãi. Vào năm 1982, trong một chuyến thăm tới Nigieria ông đã dự định dừng chân ở thị trấn Kaduna, khu vực đạo Hồi chiếm ưu thế. Tuy nhiên, kế hoạch này đã thất bại[90].
Kể từ sau năm 1989, Gioan Phaolô đã thấy trước rằng thách đố của thế giới sẽ là cuộc đối đầu với Hồi Giáo. Trong nhiều cuộc gặp gỡ với những người Hồi giáo, Giáo hoàng luôn muốn đối thoại. Kể từ khi chiến tranh lạnh kết thúc, ông xác tín rằng Hồi giáo sẽ là vấn đề lớn của thế giới.[91]
Gioan Phaolô II kêu gọi mọi người, Kitô hữu cũng như Hồi giáo, hãy vượt qua thái độ đối đầu. Với các bạn trẻ được quốc vương Hassan II của Maroc tập trung tại Casablanca hồi năm 1985, ông đã nói như sau:
“ | Chúng ta đã từng đứng ở hai vị thế đối nghịch nhau. Chúng ta đã từng tiêu hao bao nhiêu năng lực cho những cuộc bút chiến và chiến tranh. Cha tin rằng hôm nay Chúa mời gọi chúng ta hãy thay đổi những thói quen cũ của chúng ta. Chúng ta phải tôn trọng nhau. Chúng ta phải khuyến khích nhau làm điều thiện. | ” |
—Giáo hoàng Gioan Phaolô II[91].
|
Vai trò trong sự sụp đổ của chế độ cộng sản ở Ba Lan
Ảnh hưởng của Giáo Hoàng đối với sự sụp đổ của chế độ cộng sản Ba Lan đã được diễn tả trong cuốn "His Holiness John Paul II and The Hidden History of Our Time" (Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II và Lịch Sử bị che đậy trong Thời Đại Chúng Ta) của Carl Bernstein và Marco Politi...Giáo hoàng đã đến thăm Ba Lan lần thứ hai vào năm 1983, khi phong trào Công Đoàn Đoàn Kết của Lech Walesa đang dấy lên khắp nơi. Trong bối cảnh đó, chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Ba Lan và Tòa Thánh Vatican đã đạt được một thỏa thuận để Giáo hoàng có thể đến thăm Ba Lan với mục đích thuần túy tôn giáo.
Ngày 16 tháng 6 năm 1983. Sau khi quỳ xuống hôn đất quê hương, ông đã lên kêu gọi những người đang bị bắt bớ ở Ba Lan: "Cha kêu gọi những người bị đày đọa hãy đến đây với cha. Cha kêu gọi lời này thay lời Chúa Giê-xu: Cha đã bị ốm và các con hãy đến thăm cha. Cha bị giam cầm, các con hãy đến với cha. Bản thân cha không thể tới thăm các con chiên đang bị giam cầm, đến thăm tất cả các con chiên đang bị đày đọa. Nhưng cha kêu gọi họ hãy đến với cha trong tinh thần giúp đỡ cha, như họ vẫn luôn làm."... Buổi tối, hàng chục ngàn người đã diễn hành... Khi đi ngang qua tòa nhà của Trung ương Đảng Cộng sản Ba Lan, đoàn thanh niên đã hô to: "Solidarity! Solidarity! Walesa! Dân Chủ!." [92]
Mục tiêu của những âm mưu ám sát
Vào ngày 13 tháng 5 năm 1981, ông đã bị một người đàn ông Hồi giáo gốc Thổ Nhĩ Kỳ tên là Mehmet Ali Ağca bắn trọng thương khi ông đang đứng trên xe chạy vòng quanh Quảng trường Thánh Phêrô như thường lệ[93].Ông lập tức quỵ xuống vì đau đớn rồi từ từ ngã trong vòng tay các cận vệ. Ngay sau đó, hung thủ thực hiện vụ mưu sát bị cảnh sát tóm gọn. Nhưng kẻ tòng phạm đứng cách đó một đoạn xa thì nhanh chóng chạy thoát.
Viên đạn chỉ đi xuyên qua ổ ruột, cách động mạch vài ly, rồi rớt ngay trong xe, khiến ông dù bị mất đến 2/3 số máu trong cơ thể, nhưng vẫn được cứu sống kịp thời. Các bác sĩ cho rằng nếu viên đạn cắt ngang động mạch, ông sẽ chết tại chỗ hoặc trên đường cấp cứu. Về phần mình, ông lại xem đó như một sự can thiệp lạ lùng của Ðức Mẹ Maria[94].
Sau khi hồi phục, ông đã tuyên bố với mọi người rằng: "Tôi luôn cầu nguyện cho người anh em đã bắn vào tôi, người tôi đã chân thành tha thứ". Giáo hoàng đã viết thư định gửi cho Ağca: "Tại sao anh lại bắn tôi khi mà cả hai chúng ta đều chung đức tin vào Chúa?" Nhưng thay vì gửi bức thư đó, đã quyết định đến gặp Ağca. Năm 1983, ông đến thăm Ağca và tha thứ cho việc ám sát ông. Ông còn cầu khẩn nhà cầm quyền Ý ân xá cho Ağca. Ông đã giữ liên lạc với gia đình của Ağca nhiều năm sau đó và đã thăm mẹ Ağca năm 1987.
Cho đến nay, mưu đồ sát hại Giáo hoàng vẫn còn là một trong những bí mật lớn nhất của thế kỷ XX. Một số người (trong đó có William Casey - người lãnh đạo của CIA) đã tin rằng: những người Xô Viết đứng sau âm mưu sát hại giáo hoàng. Họ đã chỉ ra cái gọi là những vấn đề có liên quan đến những người Bungari, một tổ chức hay nhúng vào chuyện của người khác nhưng một chứng cứ trái ngược rằng Agca được bảo vệ và bao che bởi cơ quan tình báo Bungari, một tổ chức lệ thuộc vào cơ quan KGB. Về phần mình, quan điểm của giáo hoàng là: "tôi luôn luôn tin rằng ngay từ đầu, những người Bungari hoàn toàn vô tội, họ không việc gì phải làm điều đó". Cho đến nay người ta vẫn chưa tìm được một tài liệu rõ ràng liên quan đến âm mưu sát hạt giáo hoàng ở Nga hoặc ở Bungari kể từ khi chủ nghĩa Cộng sản sụp đổ.[95]
Quan điểm về xã hội và chính trị
Trong những năm làm giáo hoàng, Gioan Phaolô II đã vận động công khai chống chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa cộng sản kiềm chế nhân quyền và việc đàn áp chính trị. Ông cũng cương quyết chống việc phá thai, giữ vững lập trường về sự độc thân của chức linh mục, không phong chức linh mục cho phụ nữ và đặc biệt đã triệu tập các hồng y và Giám mục Hoa Kỳ về Vatican để đối phó với việc lạm dụng tình dục do một số các linh mục gây nên.Thần học giải phóng
Đối với phong trào Thần học giải phóng nổi lên ở các quốc gia Mỹ La Tinh, Gioan Phaolô II đã ủng hộ hành động nhân đạo của các vị Hồng y. Ông cũng đề cao tấm gương của tổng Giám mục Santiago, Hồng y Raul Silve Henriquez, một đối thủ của nhà cầm quyền độc tài Pinochet ở Chilê. Mặc dù vậy, ông không ủng hộ những phương thức tiến hành của thần học giải phóng.Trước việc những người công giáo ở Mỹ La Tinh chọn chủ nghĩa xã hội, quan điểm của ông là: "chúng ta phải bắt đầu xem xét chủ nghĩa xã hội là gì và ở đó có những dị biệt gì đã. Ví dụ, một chủ nghĩa xã hội vô thần, không thể nào phù hợp với các nguyên tác Thiên chúa giáo, với quan điểm Thiên chúa giáo về thế giới, về các quyền của con người, với đạo lý, sẽ là một giải pháp không chấp nhận được".
Về thần học giải phóng, quan điểm của ông khá gay gắt: "Đó không phải là thần học thật sự. Nó bóp méo cảm giác thật về kinh Phúc âm. Nó dẫn dắt những người đã dâng mình cho Chúa khỏi vai trò thật sự mà Giáo hội đã giao phó cho họ. Khi họ bắt đầu sử dụng các biện pháp chính trị, họ không còn là các nhà thần học nữa. Nếu đó là một chương trình xã hội, thì đó là một vấn đề của xã hội học. Nếu nó đề cập đến việc cứu vớt con người, thì nó là thần học của muôn đời, đã có từ hai nghìn năm náy"[96].
Chống chiến tranh, kêu gọi hòa bình
Tại Agrigento, Italia, Gioan Phaolô II đã lên tiếng thách đố bọn Sicilian Mafia bằng những lời lẽ sau [59].:“ | "Thiên Chúa phán: Ngươi chớ giết người! Không một ai, không một tập thể nào, kể cả Mafia có thể thay đổi hay chà đạp lên luật lệ tối linh của Thượng Đế. Những người dân Sicilian là những con người yêu sự sống, hy sinh cho sự sống. Họ không thể sống thường xuyên trong một nền văn hóa trái nghịch, một nền văn hóa chết chóc. Họ mong đợi một nền văn hóa sự sống Nhân danh Đấng Cứu Thế, bị đóng đinh trên Thập Giá và đã chỗi dậy từ cõi chết, và nhân danh Đấng là Đường là Sự Thật và là Sự Sông, tôi yêu cầu những người có trách nhiệm hãy thay đối thái độ. Một ngày nào đó các bạn sẽ ra trước tòa phán xét công thẳng của Thiên Chúa!" | ” |
“ | "Với tất cả sự xác tín và niềm tin đặt để nơi Chúa Kitô và với vai trò người cầm đầu Giáo Hội Công Giáo, Cha khẳng quyết: bạo lực là một tội ác. Vì lẽ ấy, chúng ta không thể chấp nhận chủ trương dùng sắt màu, dùng bạo lực như một phương thế để giải quyết vấn đề… Bạo lực là một sự dối trá, nó chống lại chân lý và niềm tin -chân lý và niềm tin của nhân loại…Giờ đây, Cha muốn nói với những thanh niên, phụ nữ đã nhúng tay vào bạo lực. Cha kêu gọi các con với ngôn ngữ nài xin. Cha quỳ gối van xin các con hãy rời bỏ con đường bạo lực để trở về con đường hòa bình và lẽ phải". | ” |
“ | "Ngày nay, với mức độ kinh hoàng của chiến tranh hiện đại –bất kể là với vũ khí hạt nhân hay vũ khí quy ước- khiến chúng ta hoàn toàn không thể chấp nhận để coi như cách thế giải quyết những dị đồng quan điểm giữa các quốc gia. Chiến tranh, bạo lực là những thảm cảnh thuộc về quá khứ, thuộc về lịch sử. Nó không còn có chỗ cho con người hôm nay và ngày mai". | ” |
“ | "Ánh sáng của Đấng Cứu Thế soi chiếu trên những quốc gia đau khổ trong vùng Trung Đông. Riêng tại Vùng Vịnh, chúng ta hồi hộp và âu lo sao cho mọi xung khắc sớm được tiêu tan. Xin những nhà lãnh đạo trên thế giới hiểu rằng mọi cuộc phiêu lưu chiến tranh sẽ không có gì có thể đền bù được". | ” |
Nạo phá thai
Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nỗ lực nhằm ngăn chặn những áp đặt của chính quyền Clinton về các biện pháp phá thai trên nghị trình hội nghị về dân số ở thủ đô Ai Cập. Ông không từ bỏ bất cứ cơ hội nào để lên tiếng về vấn đề bảo vệ quyền sống của thai nhi. Một mặt ông chỉ trích những âm mưu của các cường quốc giàu có nhằm áp đặt những biện pháp vô nhân đạo trên các quốc gia nghèo, kém phát triển qua chiêu bài kiểm soát dân số với những hứa hẹn viện trợ. Mặt khác, ông không ngớt lưu ý quần chúng, cách riêng các bậc phụ huynh, quan tâm tới những giá trị đạo đức trong mối liên hệ từ trong gia đình, giữa người vợ, người chồng, người cha, người mẹ, cho tới ngoài xã hội.Ngay từ khi vừa được chọn làm người kế vị thánh Phêrô, Gioan Phaolô II đã nhiệt thành cổ võ cho điều mà trong những bài giảng thuyết cũng như những tông thư, thông điệp mà ông mệnh danh là nền ‘Văn Minh Sự Sống’. Gioan Phaolô II không ngớt đề cao giá trị sự sống của con người, từ khi còn là một bào thai trong lòng mẹ cho đến lúc chết. Bằng những lời lẽ cứng rắn, ông lên án những hành vi phá thai, trợ tử cũng như phong trào đồng tính luyến ái. Theo ông, những hài nhi mang sẵn một giá trị nhân bản tiên thiên, tự hữu mà không một ai, kể cả cha mẹ chúng, có thể tước đoạt hoặc coi như sở hữu của mình, rồi muốn làm gì thì làm trên sinh mạng của chúng, điều chỉ một mình Thượng Đế (Thiên Chúa) mới có quyền quyết định..[97]
“ | "Hôn nhân là sự kết hợp vững chắc giữa hai người nam nữ, những người đã cam kết đón nhận quà tặng chung để mở đường cho những mầm sống mới được sinh ta". Theo Ngài, đó không phải là một khái niệm phe phái mà là "giá trị khởi thủy của nguyên lý tạo dựng". | ” |
—Giờ kinh truyền tin tại Quảng trường thánh Phêrô trưa Chúa Nhật 19-6-1994
|
Gioan Phaolô II cũng lên án việc sử dụng các biện pháp tránh thai. Trong cuốn sách của ông mang tên Tình yêu và Trách nhiệm, ông đã nêu lên rằng: việc sử dụng các biện pháp tranh thai làm giảm giá trị của hành vi vợ chồng và của người phụ nữ (bằng việc coi rằng người đàn bá chỉ đơn thuần là đối tượng cho khoái lạc của người đàn ông)[98].
Lập trường này đã gặp phải những luận điệu chỉ trích lập trường của Giáo Hội về vấn đề chống phá thai và ngừa thai bằng mọi giá. Những chỉ trích này trong nhiều trường hợp còn đụng chạm tới chủ trương đề cao và quyết tâm bảo vệ hệ thống gia đình của Giáo Hội.
Công nhân và người lao động
Lên tiếng trước đám đông những công nhân người Da Đỏ ngày 21-02-1979 sau cuộc viếng thăm Mêxicô lần thứ nhất, ông công khai nói với họ một cách bộc trực rằng: "Chúng ta cần gọi đích danh những hành vi phản công lý". Khi tiếp xúc với giới lao động, ông đến với họ như một người bạn cùng chung cảnh ngộ, chia sẻ với họ bằng những kinh nghiệm được làm nên bằng mồ hôi, nước mắt của chính mình. Có lần ông đã tâm sự với một số công nhân ở Rôma rằng: "Tôi đã làm việc tay chân trong suốt bốn năm trời. Đối với tôi, bốn năm ấy có giá trị hơn hai mảnh bằng tiến sĩ"[99].Trong cuộc gặp gỡ ngày 19-3-1982 tại Livorno, Ý, Giáo hoàng nói với các công nhân là nền dân chủ của giới thợ thuyền trên thế giới lâu đời hơn nền dân chủ của Giáo Hội ít nữa là ở cấp độ giáo xứ. Từ nhận định ấy, ông cho rằng ông phải cảm ơn họ vì chính giới cần lao đã đóng góp, đã cống hiến cho Giáo Hội những suy tư quý giá giúp cho đời sống Giáo Hội ngày một thêm phong phú. Khi các công nhân mạnh dạn lên tiếng phê phán là trong quá khứ Giáo Hội Công Giáo thường đứng về phía những người giàu có thế lực, ông nói: "Tôi xin cảm ơn về những lời bình phẩm của anh em, cho dù sự thật hàm súc trong những lời này làm đau lòng"[99].
Tại Prato, Ý, ngày 19-3-1986, Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã lên tiếng khuyến cáo các nghiệp đoàn công nhân làm áp lực với giới chủ nhân, kể cả giới cầm quyền, để đạt mục tiêu. Tám năm sau, nhân lễ thánh Giuse ngày 19-3-1994 tại Rôma, giáo hoàng công khai thúc đẩy giới lãnh đạo nghiệp đoàn phải hành động. Ông nói: "Nếu con người im lặng, chính Thiên Chúa sẽ cất tiếng!"
Trong sứ điệp Mùa Chay đề ngày 20-02-1985 gửi các tín hữu trên toàn thế giới, Giáo Hoàng viết:
“ | Khi hàng triệu, hàng triệu con người không có đủ lương thực hàng ngày, khi hàng triệu, hàng triệu trẻ em phải gánh chịu những chứng bệnh hiểm nghèo suốt đời chúng, và trong khi hằng triệu, hàng triệu em khác bị uổng tử thì tôi không thể im lặng. Chúng ta không thể im lặng mà không làm gì trước những thảm kịch như thế trong xã hội ngày nay. | ” |
Phụ nữ
Gioan Phaolô II đã đề cao vai trò và thiên chức của người phụ nữ. Trong thư gửi phụ nữ toàn thế giời ngày 29/06/1995 nhân dịp Năm Quốc Tế Người Nữ, ông viết: Giáo Hội có nhiều lý do để ước muốn rằng, trong kỳ Hội Nghị sắp tới do Liên Hiệp Quốc tổ chức tại Bắc Kinh, người ta đưa ra ánh sáng chân lý trọn vẹn về người nữ. Ước gì người ta tán dương thật sự "thiên tài người nữ", lưu ý không những tới các người nữ quan trọng và danh tiếng, đã sống thời quá khứ hay còn đồng thời với chúng ta, nhưng cũng lưu tâm tới các người nữ bình thường, những người phát triển tài năng phụ nữ của mình để phục vụ những kẻ khác trong cái tầm thường hằng ngày[100].Mặc dù vậy, ông vẫn giữ lập trường dứt khoát với việc thụ phong chức linh mục cho phụ nữ: Ngày 15 tháng 8 năm 1988 trong Tông thư Mulieris Dignitatem, Gioan Phaolô II đã viết:" Khi kêu gọi chỉ những người nam để trở nên các Tông Đồ, Đức Kitô đã hành động cách hoàn toàn tự do và độc lập. Ngài đã làm điều đó cũng với sự tự do như khi Ngài đề cao phẩm giá ơn gọi phụ nữ trong tất cả; cách cư xử của Ngài không theo những xu thế tập tục hay những truyền thống mà luật pháp thời ấy chuẩn nhận" (Mulieris Dignitatem,26). Sau hết, ông tuyên bố:
“ | Vì thế, để không còn hồ nghi nào về một vấn đề quan trọng liên quan tới cơ cấu Giáo hội do Chúa thiết lập, tôi nhân danh sứ mạng củng cố các anh em tôi (cf Lc 22,32) mà tuyên bố rằng Giáo Hội không hề có quyền truyền chức tư tế cho phụ nữ và lập trường này phải được tất cả các tín hữu của Giáo hội tuân giữ. | ” |
Thái độ đối với khoa học và nguồn gốc vũ trụ
Trong nhiệm kỳ của mình, Giáo hoàng Gioan Phaolô II cũng có những bước đi thể hiện thái độ thừa nhận của bản thân và của Giáo hội trước vai trò và sự đúng đắn của Thuyết Nhật tâm, Thuyết Tiến hóa và nguồn gốc vũ trụ theo khoa học hiện đại.Theo Stephen Hawking, vào năm 1981, trong một cuộc tiếp kiến với các nhà khoa học được mời để làm cố vấn khoa học cho Giáo hội Công giáo, Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã nói rằng các nhà khoa học có thể tùy nghi nghiên cứu sự tiến hóa của vũ trụ sau khi sự kiện Big Bang xảy ra, tuy nhiên những sự kiện trước đó thì không nên vì đó là giai đoạn sáng tạo thế giới của Thiên Chúa.[104]
Năm 1996, trong một thông báo chính thức gửi đến Học viện Hồng y về Khoa học, Gioan Phaolô II đã lên tiếng thừa nhận về xai trò và sự xác tín của Thuyết tiến hóa, rằng con người sinh ra có thể là do một quá trình tiến hóa dần dần chứ không phải là do sự sáng tạo tức thời của Thượng đế:
“ | Những kiến thức mới nhất đã dẫn đến sự thừa nhận về thuyết tiến hóa hơn là một giả thuyết. | ” |
—Gioan Phaolô II, [105]
|
“ | Thiên đường không phải là một nơi trừu tượng hay vật chất trên các tầng mây, nhưng mà là mối quan hệ sống động, cá nhân với Chúa Ba Ngôi. Đó là cuộc gặp gỡ của chúng ta với Người Cha diễn ra trong sự thăng thiên của Chúa Kitô thông qua sự thông hiệp của Chúa Thánh Linh. | ” |
—Gioan Phaolô II, [106]
|
“ | Hỏa ngục không phải là một hình phạt được áp đặt từ bên ngoài bởi Thượng đế, mà là một điều kiện nảy sinh từ thái độ và hành động của con người trong cuộc sống. Vì vậy sự nguyền rủa vĩnh viễn không phải là việc làm của Thượng đế mà thật ra là kết quả của hành động của chính chúng ta. Hơn là một địa điểm vật lý, hỏa ngục là trạng thái của một người đã hoàn toàn và tự nguyện xa rời khỏi Chúa, là sự đau khổ, thất vọng của một cuộc sống không có Chúa. | ” |
—Gioan Phaolô II, [107]
|
Xin lỗi
“ | Một lời bao biện còn tệ hơn cả một lời dối trá, vì lời bao biện là một lời dối trá được bảo vệ. | ” |
—Giáo hoàng Gioan Phaolô II, [108]
|
- Vụ xử án nhà bác học và triết gia Galileo Galilei, một người mộ đạo, vào khoảng năm 1633 (vào ngày 31 tháng 10 năm 1992).[110]
- Những dính líu của Công giáo trong những cuộc buôn bán nô lệ châu Phi (vào ngày 9 tháng 8 năm 1993).
- Vai trò của Giới tăng lữ Giáo hội trong những vụ hỏa thiêu và chiến tranh tôn giáo sau cuộc Cải cách Kháng cách (vào tháng 5 năm 1995, tại Cộng hòa Séc).
- Các đối xử bất công đối với phụ nữ, vi phạm quyền phụ nữ và sự phỉ báng trước đây đối với phụ nữ (vào ngày 10 tháng 7 năm 1995, trong thư gửi "mọi phụ nữ").
- Sự im lặng và làm ngơ của nhiều người Công giáo trong cuộc Diệt chủng người Do Thái (ngày 16 tháng 3 năm 1998)
- Tội chung.
- Tội gây ra nhân danh "chân lý".
- Tội về việc gây ra chia rẽ giữa các tín đồ đạo Thiên Chúa.
- Tội trong việc bách hại người Do Thái.
- Tội trong những hành động với ý muốn thống trị kẻ khác, với thái độ thù nghịch đối với các tôn giáo khác, không tôn trọng truyền thống văn hóa và tôn giáo của các dân tộc nhỏ, kém phát triển.
- Tội về việc kì thị phụ nữ.
- Tội về việc vi phạm nhân quyền.
“ | Sau khi đọc bản tin trong tờ báo số ngày Thứ hai về bài diễn văn của Giáo hoàng, tôi cảm thấy tâm trang tốn hơn một chút, nhưng không tốt hơn nhiều mấy. Việc các trại tập trung Holocaust không được nhắc tới thật ra không khiến tôi buồn phiền lắm. Điều khiến tôi buồn phiền là Giáo hoàng không xin sự tha thứ từ những người đã phải hứng chịu các cuộc bạo hành. Con người là phần quan trọng nhất của sự sống trên Trái Đất. Mỗi người phải giao tiếp với nhau ít nhất ở mức độ ngang bằng với việc hiệp thông với Thượng đế. Tại sao Giáo hoàng không nhận ra điều này ? Tôi, ví dụ, không chấp nhận lời xin lỗi của ông ta gửi tới Thương đế. Có lẽ đó là một bước đi đúng hướng. Nhưng tôi cho rằng đó là sự trốn tránh trách nhiệm... Ở lì trong Vatican và chỉ nói chuyện với Thượng đế, tránh né con người, và ông sẽ gặt hái được rất ít thành quả, không cần biết các chính trị gia nói gì. | ” |
—R. J. Weissman, R. J. Weissman. Not Accepted. Chicago Tribune. 16 tháng 3 năm 2000
|
Sức khỏe
Tháng 7 năm 1992, ông đã phải cắt một khối u ở ruột kết. Theo một thông báo chính thức thì đó là "một khối hạch thường" ở ruột già. Một thông báo của Vatican đã nhấn mạnh rằng ca mổ kéo dài gần bốn tiếng cơ bản đã chữa được bệnh. Tuy nhiên, kể từ ca mổ đó, sức khỏe của giáo hoàng ngày càng suy giảm và ông đã phải thường xuyên đến bệnh viện đa khoa Gemelli[111].Ngày 11 tháng 11 năm 1993, trong một buổi tiếp phái đoàn của Tổ chức nông lương thế giời (FAO) ở Vatican, ông đã khụy ra sau, ngã xuống sàn nhà và bị trật khớp vai. Theo nguồn tin chính thức của Vatican, Giáo hoàng đã vấp ở bậc thềm nơi đặt ngai của ông trong phòng đọc kinh tạ ơn. Nhiều tuần sau, Gioan Phaolô II rất khó nhọc khi giữ vao trì người chủ lễ Mixa và vào tháng 4 năm 1994, ông bị ngã trong vùng trượt tuyết ở Aburzzi. Ngày 28 tháng 4, ông ngã gãy xương đùi trong buồng tắm. Người ta thông báo rằng ông đã trượt chân ngã khi ra khỏi bồn tắm sau khi xả nước. Kể từ đó, ông phải dùng gậy chống khi đi[112]. Và mổ ruột thừa năm 1996.
Năm 2001, một bác sĩ phẫu thuật chỉnh hình đã xác nhận điều từ lâu nghi vấn rằng giáo hoàng đang mắc bệnh Parkinson (bệnh mãn tính về hệ thần kinh làm cho các cơ rụng và yếu)[113].
Qua đời và tang lễ
Ghi nhận sau khi qua đời
Được tuyên chân phước
Ngày 28 tháng 4 năm 2005, Giáo hoàng Biển Đức XVI trong buổi tiếp kiến hồng y Jose Saraiva Martins, Bộ trưởng Bộ Tuyên Thánh, đã chấp thuận miễn chuẩn quy định chờ 5 năm sau khi qua đời, để có thể mở liền ngay án phong chân phước và tuyên thánh cho cố giáo hoàng Gioan Phaolô II[115].Ngày 9 tháng 5 năm 2005, Hồng y Jose Saraiva Martins và Tổng Giám mục Edward Nowak, tổng thư ký của Bộ Tuyên Thánh, đã viết thư gởi cho Hồng y Camillo Ruini, đại diện của giáo hoàng, để chính thức loan báo tin này. Trong ngày lễ kính Ðức mẹ Fatima 13 tháng 5 năm 2005, và cũng là ngày kỷ niệm 24 năm giáo hoàng Gioan Phaolô II bị mưu sát, giáo hoàng Benedictô XVI đích thân đọc bức thư này, trong cuộc tiếp kiến hàng giáo sĩ Roma, tại Vương cung Thánh đường Thánh Gioan Laterano - nhà thờ chính tòa của Giáo phận Roma.
Ngày 29 tháng 5 năm 2005, nhật báo Quan sát viên Roma và nhật báo Tương Lai đã cho đăng chỉ dụ của Hồng y Camillo Ruini. Bắt đầu thu thập tài liệu về cố giáo hoàng Gioan Phaolô II để làm án phong chân phước và tuyên thánh[116].
Toà án Giáo hội tại Ba Lan đã bắt đầu công việc lập hồ sơ tuyên thánh vào tháng 11 năm 2005 tại Kraków, nơi Gioan Phaolô II đã trải qua phần lớn cuộc đời trước khi được chọn lên kế vị Phêrô. Công việc chính của toà án này là lắng nghe các nhân chứng tại Ba Lan về cuộc đời của Gioan Phaolô II[117].
Ngày 2 tháng 4 năm 2007, Giáo phận Roma đã chính thức hoàn tất việc điều tra ở cấp giáo phận về cuộc đời, các nhân đức và danh tiếng của Gioan Phaolô II[118].
Phép lạ
Hai tháng sau khi giáo hoàng Gioan Phaolô II qua đời, một nữ tu sĩ người Pháp tên là Marie Simon Pierre không còn những triệu chứng của căn bệnh Parkinson. Bà cho rằng: "Tôi đã được chữa lành, đây là việc làm của Chúa, nhờ lời bầu cử của đức Gioan Phaolô II. Ðây là điều gây ấn tượng mạnh, và khó diễn tả ra bằng lời nói." (bản thân Gioan Phaolô II mất vì căn bệnh này)[119].Được tuyên thánh
Một số ý kiến chỉ trích giáo hoàng Gioan Phaolô II
Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã nhận phải nhiều sự chỉ trích[120] về quan điểm của ông về phụ nữ, về việc ngừa thai, kế hoạch hóa gia đình, về sự ủng hộ của ông dành cho Công đồng Vaticanô II và các cải cách của nó về thánh lễ, cũng như lập trường của ông về tính thiêng liêng của việc kết hôn.[121][122]Bê bối tình dục trong hàng ngũ giáo sĩ
Chỉ trích về lập trường ủng hộ Opus Dei
Chỉ trích về việc tiếp cựu thủ tướng Ý Giulio Andreotti
Ngày 14 tháng 12 năm 1995, ngay tại Vương cung thánh đường Thánh Phêrô, một sinh viên đã lớn tiếng mắng nhiếc Giáo hoàng Gioan Phaolô II về việc ông tiếp cựu thủ tưởng Giulio Andreotti, người bị Tòa án quy kết là dính líu sâu sắc đến giới Mafia Ý, và cho rằng anh ta không hiểu tại sao một người như Andreotti lại được cho phép xuất hiện trong Tòa thánh. Một số ý kiến đã nhận định rằng việc này chứng minh Giáo hội Công giáo La Mã đã dính líu đến giới chính trị gia. Về phía mình, Vatican không có bình luận gì về vụ việc trên.[127]Kế hoạch hóa gia đình, phá thai và binh đẳng giới
Như đã đề cập, Giáo hoàng Gioan Phaolô II có lập trường bảo vệ các quan diểm tiêu cực của giáo hội Công giáo Rôma về thể hiện giới tính, thiên hướng tình dục, cái chết êm dịu, kiểm soát sinh sản và phá thai. Nhiều người chỉ trích Giáo hoàng vẫn còn giữ quan điểm bảo thủ về việc không cho nữ giới tham gia các vị trí cao cấp trong giáo hội.Aisha Taylor đã nhận xét về vấn đề này như sau
“ | Di sản của giáo hoàng Gioan Phaolô II rất mạnh mẽ và phi thường, tuy nhiên nó lại thiếu nhất quán một cách đau đớn. Sự thiếu nhất quán này nằm trong những lời dạy và hành động của ông ta về nhân phẩm của phụ nữ. Gioan Phaolô II kêu gọi phụ nữ nên được tham gia vào vai trò là người ra quyết định trong các chính quyền thế tục; tuy nhiên khi đề cập đến vấn đề phụ nữ nên được tham gia vào vai trò người ra quyết định trong các cơ quan của Giáo hội, thì ông ta lại đóng sầm cánh cửa lai trước mặt chúng ta, không cho chúng ta được thụ phong và khóa chặt cánh cửa này khi nói rằng mọi thảo luận về việc thụ phong cho nữ giới đã kết thúc. | ” |
— Aisha Taylor (Women's Ordination Conference 2005)[128]
|
“ | Trong khi Hitler mang tội ác về việc diệt chủng một nhóm người, Gioan Phaolô II sẽ bị kết tội về mưu tính diệt chùng toàn bộ nhân loại. Trong 100 năm tiếp theo từ thời điểm này, ít nhất 1 triệu người sẽ chịu đau khổ và chết chóc kéo dài vì chính sách chống đối của Gioan Phaolô II trước việc kế hoạch hóa gia đình, triệt sản, và phá thai. Người ta sẽ nhớ rằng Giáo hoàng đi đến châu Phi và châu Mỹ để vận động người dân sinh đẻ thêm nhiều đứa trẻ vô tội mà trong tương lai chúng sẽ chết đói. Gioan Phaolô sẽ được ghi nhớ như là người đã làm tăng thêm sự đau khổ của con người hơn ai hết trong toàn bộ lịch sử của nhân loại văn minh. Giáo hội Công giáo La Mã đã giết hại hơn 11 triệu người trong các tòa án Dị giáo, nhưng Gioan Phaolô II sẽ giết nhiều người hơn thế trong toàn bộ cuộc đời của ông ta. Cái thế lực khủng khiếp của sự diệt chủng mà ông ta đã thiết lập sẽ tiếp tục giết hại và nghiền nát Trái Đất này thêm một thời gian lâu nữa trong tương lai. | ” |
—Frank Zindler, [129]
|
Quan điểm bảo thủ về đồng tính luyến ái
Trong một nhận xét đăng trên tờ The Advocate vào năm 2000 về một bài diễn thuyết của Gioan Phaolô II, Michelangeo Signorile đã bình phẩm:
“ | ...một bài nói chuyện mang thuần tính thù ghét - một tư tưởng kỳ thị đồng tính luyến ái hạng A và một niềm tin mù quáng che đậy trong cái vỏ bọc thần học tôn giáo... bằng cách sử dụng những từ ngữ đó một cách quá dữ dội và quá công khai, ông ta [Gioan Phaolô II] đã để lộ cho cả thế giới thấy rằng mình là một kẻ chứa đầy lòng thù ghét và có rất ít sự quan tâm đến thái độ phân biệt đối xử và những sự đau khổ mà ông ta gây ra cho con người... giáo hoàng là một kẻ mang lại sự thù ghét một cách độc địa. | ” |
—Michelangeo Signorile, [133]
|
Tôn giáo và AIDS
Chuyên quyền độc đoán
Gioan Phaolô II bị chỉ trích là đã cố gắng tập trung quyền lực lại về cơ quan trung ương ở Vatican, trái ngược với một số chính sách phân quyền do Giáo hoàng Gioan XXIII chủ xướng và cản trở tiến trình dân chủ hóa giáo hội[54]. Việc này một phần thể hiện trong sự thiên kiến của Gioan Phaolô II trong việc bổ nhiệm các Giám mục khi 232 Hồng y và hơn 3.300 Giám mục do Giáo hoàng bổ nhiệm phần nhiều có tư tưởng bảo thủ gần giống như ông; và phần lớn số Hồng Y trong 114 người thuộc Mật nghị bầu cử nên Biển Đức XVI là do chính Gioan Phaolô II bổ nhiệm[137][138]. Ngoài ra, dưới tư cách cá nhân hay trong các cuộc hội nghị, các chức sắc Giáo hội cũng ít có cơ hội được tranh biện hay chống đối các chính sách của Giáo hoàng và phe cánh của ông ta nếu không muốn đứng trước nguy cơ mất chức[137]. Vì vậy Gioan Phaolô II bị một số ý kiến chỉ trích là độc đoán, chuyên quyền.[138]“ |
|
” |
—Robert Willis, [137]
|
Các chương trình xã hội
Bị cáo buộc là người mê tín dị đoan
Học giả Joseph L. Daleiden đã chê trách Giáo hoàng còn tin vào những tín điều mê tín dị đoan mà ngày nay ít ai còn tin:“ | Giáo hoàng Gioan Phaolô II tin vào nhiều điều mê tín dị đoan mà nhiều người Công giáo hiện nay cảm thấy xấu hổ. Mới đây, trong ba bài thuyết giảng ông ta vẫn còn nói rằng mỗi người có trong mình ít nhất 3 thiên thần hộ mệnh và giải thích nhiều vai trò của các thiên thần trên thiên đường. Giáo hoàng đã hét vào mặt thính giả: "Hãy coi chừng lũ quỹ dữ !". Ông ta tin rằng quỷ Sa tăng xuất hiện trong hình hài của một con sư tử, một con rắn, một con rồng hay một con dê có sừng. | ” |
Chỉ trích từ giới Kitô giáo bảo thủ
Trong khi những người cấp tiến chỉ trích sự bảo thủ của Giáo hoàng, những tín đồ Công giáo bảo thủ lại chỉ trích những biện pháp cấp tiến của Gioan Phaolô II. Một trong những chỉ trích của nhóm bảo thủ có nội dung yêu cầu Giáo hoàng phục hồi Thánh lễ Công đồng Trent[140] và hủy bỏ các cải cách thực hiện sau Công đồng Vaticanô II tỉ như việc sử dụng các ngôn ngữ bản địa thay thế cho tiếng La Tinh trong các nghi lễ nhà thờ La Mã, phong trào Đại Kết, và các nguyên lý về tự do tôn giáo. Ông cũng bị phe bảo thủ chỉ trích vì đã bổ nhiệm các Giám mục có tư tưởng tự do và làm ngơ cho họ tuyên truyền các tư tưởng đổi mới, cấp tiến, những tư tưởng này từng bị giáo hoàng Piô X chỉ trích là "sự tổng hợp của mọi tư tưởng dị giáo". Năm 1988, Tổng Giám mục theo tư tưởng bảo thủ Marcel Lefebvre, người sáng lập Hội Thánh Piô X vào năm 1970, đã bị Gioan Phaolô II tuyệt thông vì đã phản đối việc Vatican thụ phong cho 4 Giám mục - hành động này bị tòa thánh cáo buộc là "ly giáo".Khi Giáo hoàng cầu nguyện với các tín đồ Thiên chúa Giáo[141] trong Ngày Thế giới Cầu nguyện cho Hòa bình[142] tổ chức tại Assisi, Ý vào năm 1986, sự kiện này bị chỉ trích là gây nên ấn tượng rằng thuyết hổ lốn và chủ nghĩa trung lập tôn giáo được công khai thừa nhận bởi Tòa thánh. Khi Ngày Thế giới Cầu nguyện cho Hòa binh tiếp tục được tổ chức vào năm 2002[143], sự kiện này lại bị chỉ trích là lẫn lộn với các yếu tố thế tục và thỏa hiệp với các "tôn giáo giả tạo". Việc Giáo hoàng hôn cuốn kinh Koran[144] tại Damascus, Syria trong một chuyến tông du ngày 6 tháng 5 năm 2001 cũng bị chỉ trích. Chủ trương tự do tôn giáo của Gioan Phaolô II cũng bị một số ý kiến chỉ trích, tỉ như trong khi các Giám mục như Antônio de Castro Mayer ủng hộ hòa hợp tôn giáo nhưng mặt khác cũng phủ nhận các nguyên tắc của Công đồng Vaticanô II về tự do tôn giáo mà Giáo hoàng Piô IX đã chỉ trích trong tác phẩm Syllabus errorum’ năm 1864 và trong Công đồng Vaticanô I.[145]
Vì các lý do trên, một số giới chức Công giáo bảo thủ đã phản đối việc Gioan Phaolô II được phong chân phước.[146]
Ian Paisley
Năm 1988, khi Giáo hoàng Gioan Phaolô II đang diễn thuyết trước nghị viện Châu Âu thì nhà lãnh đạo tương lai của Đảng Dân chủ Hợp nhất Bắc Ailen và là Chủ tịch Đại hội đồng Trưởng lão của Giáo hội Trưởng lão Tự do Ulster, Ian Paisley, bất thình lình hét lên: "Tôi tố cáo ông là kẻ phản kitô !"[147] và giơ cao biểu ngữ ghi dòng chữ "Giáo hoàng Gioan Phaolô II KẺ PHẢN KITÔ" ("Pope John Paul II ANTICHRIST"). Cựu thái tử Otto von Habsburg, người đứng đầu gia tộc Habsburg của đế quốc Áo-Hung cũ, vội vàng giật biểu ngữ này xuống và cùng với các nghi viên khác lật đật lôi cổ Paisley ra khỏi nơi diễn thuyết.[148][149][150][151] Sau khi Paisley được "tiễn" khỏi hội trường, Giáo hoàng tiếp tục bài diễn thuyết của mình.[148][152][153]Chú thích
- ^ a ă â b c Wilde, Robert. “Pope John Paul II 1920 - 2005”. About.com. Truy cập ngày 1 tháng 1 năm 2009.
- ^ a ă CBC News Online (tháng 4 năm 2005). “Pope stared down Communism in homeland - and won”. © 2005 Religion News Service. Truy cập ngày 1 tháng 1 năm 2009.
- ^ a ă Maxwell-Stuart, P.G. (2006). Chronicle of the Popes: Trying to Come Full Circle. Luân Đôn: © 1997, 2006 Thames & Hudson. tr. 234. ISBN 978-0-500-28608-6 Kiểm tra giá trị
|isbn=
(trợ giúp). - ^ “Pope John Paul II”. © 2008 The Robinson Library. 20 tháng 10 năm 2008. Truy cập ngày 1 tháng 1 năm 2009.
- ^ Rôma những ngày lịch sử (xem Video)
- ^ http://www.vietcatholic.net/News/Clients/ReadArticle.aspx?Id=33800
- ^ “Pope John Paul II and the Fall of the Berlin Wall”. 2008 Tejvan Pettinger, Oxford, UK. Truy cập ngày 1 tháng 1 năm 2009.
- ^ Bottum, Joseph (18 tháng 4 năm 2005). “John Paul the Great”. Weekly Standard. tr. 1–2. Truy cập ngày 1 tháng 1 năm 2009.
- ^ CNN (4 tháng 4 năm 2005). “Gorbachev: Pope was ‘example to all of us’”. Truy cập ngày 1 tháng 1 năm 2009.
- ^ a ă â “John Paul II: A strong moral vision”. CNN. 11 tháng 2 năm 2005. Truy cập ngày 1 tháng 1 năm 2009.
- ^ a ă Caroll, Rory (13-03-200). “Pope says sorry for sins of church”. The Guardian (The Guardian). Truy cập ngày 14 tháng 1 năm 2013.
- ^ a ă BBC News. “Pope issues apology”. BBC. Truy cập ngày 14 tháng 1 năm 2013.
- ^ a ă BBC News. “Pope apologises for Church sins”. BBC News. Truy cập ngày 14 tháng 1 năm 2013.
- ^ a ă Robinson, B A (7 tháng 3 năm 2000). “Apologies by Pope John Paul II”. Ontario Consultants. Truy cập ngày 14 tháng 1 năm 2013.
- ^ Pope says sorry for sins of church
- ^ “AIJAC expresses sorrow at Pope's passing”. © 2005, 2009 Australia, Israel & Jewish Affairs Council. 4 tháng 4 năm 2005. Truy cập ngày 1 tháng 1 năm 2009.
- ^ “Anglican tributes to Pope John Paul II”. Anglican Communion Office. © 2009 Anglican Consultative Council. Truy cập ngày 1 tháng 1 năm 2009.
- ^ Tóm tắt về cố giáo hoàng John Paul II
- ^ "Message to Pontifical Academy of Sciences 22 October 1996". 1997–2009 Catholic Information Network (CIN). 24 October 1997. Retrieved 1 January 2009.
- ^ John Paul II became the most technologically advanced Pope
- ^ God, Creation and Big Bang - Al-Bushra
- ^ Mohler addresses John Paul’s assertions on heaven & hell
- ^ Phụng Nghi (9 tháng 12 năm 2009). “ĐGH Piô XII và ĐGH Gioan Phaolô II được tuyên dương lên bậc 'Đáng Kính'”. VietCatholic News (Thông tấn xã Công giáo Việt Nam). Truy cập ngày 1 tháng 5 năm 2011.
- ^ Trần Phúc Nhạc; Linh Tiến Khải (1 tháng 5 năm 2011). “Tường thuật thánh lễ phong chân phước cho Đức Gioan Phaolo II”. Đài phát thanh Vatican (Thành Vatican). Truy cập ngày 1 tháng 5 năm 2011.
- ^ Tôi tớ thiên chúa, John Paul II
- ^ Sinh nhật lần thứ 78 của Giáo Hoàng
- ^ Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II và lịch sử bị che đậy trong thời đại chúng ta, Người dịch: Nguyễn Bá Long, Trần Quý Thắng; Sách tham khảo trong lực lượng công an nhân dân, NXB Công an Nhân dân, tháng 11/1997; trang 41
- ^ Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II và lịch sử bị che đậy trong thời đại chúng ta, Người dịch: Nguyễn Bá Long, Trần Quý Thắng; Sách tham khảo trong lực lượng công an nhân dân, NXB Công an Nhân dân, tháng 11/1997; trang 45
- ^ Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II và lịch sử bị che đậy trong thời đại chúng ta, Người dịch: Nguyễn Bá Long, Trần Quý Thắng; Sách tham khảo trong lực lượng công an nhân dân, NXB Công an Nhân dân, tháng 11/1997; trang 54
- ^ Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II và lịch sử bị che đậy trong thời đại chúng ta, Người dịch: Nguyễn Bá Long, Trần Quý Thắng; Sách tham khảo trong lực lượng công an nhân dân, NXB Công an Nhân dân, tháng 11/1997; trang 73
- ^ Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II và lịch sử bị che đậy trong thời đại chúng ta, Người dịch: Nguyễn Bá Long, Trần Quý Thắng; Sách tham khảo trong lực lượng công an nhân dân, NXB Công an Nhân dân, tháng 11/1997; trang 79
- ^ His holiness John Paul II and the hidden history of our time by Carl Berntein và Marco Politi ISBN 0-385-47237-4. Bản tiếng Việt: Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II và lịch sử bị che đậy trong thời đại chúng ta, Người dịch: Nguyễn Bá Long, Trần Quý Thắng; Sách tham khảo trong lực lượng công an nhân dân, NXB Công an Nhân dân, tháng 11/1997; trang 86
- ^ TIỂU SỬ TÓM LƯỢC ĐỨC GIOAN PHAOLÔ II
- ^ His holiness John Paul II and the hidden history of our time by Carl Berntein và Marco Politi ISBN 0-385-47237-4. Bản tiếng Việt: Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II và lịch sử bị che đậy trong thời đại chúng ta, Người dịch: Nguyễn Bá Long, Trần Quý Thắng; Sách tham khảo trong lực lượng công an nhân dân, NXB Công an Nhân dân, tháng 11/1997; trang 90
- ^ Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II và lịch sử bị che đậy trong thời đại chúng ta, Người dịch: Nguyễn Bá Long, Trần Quý Thắng; Sách tham khảo trong lực lượng công an nhân dân, NXB Công an Nhân dân, tháng 11/1997; trang 95
- ^ His holiness John Paul II and the hidden history of our time by Carl Berntein và Marco Politi ISBN 0-385-47237-4. Bản tiếng Việt: Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II và lịch sử bị che đậy trong thời đại chúng ta, Người dịch: Nguyễn Bá Long, Trần Quý Thắng; Sách tham khảo trong lực lượng công an nhân dân, NXB Công an Nhân dân, tháng 11/1997; trang 99
- ^ His holiness John Paul II and the hidden history of our time by Carl Berntein và Marco Politi ISBN 0-385-47237-4. Bản tiếng Việt: Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II và lịch sử bị che đậy trong thời đại chúng ta, Người dịch: Nguyễn Bá Long, Trần Quý Thắng; Sách tham khảo trong lực lượng công an nhân dân, NXB Công an Nhân dân, tháng 11/1997; trang 102
- ^ Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II và lịch sử bị che đậy trong thời đại chúng ta, Sđd trang 110
- ^ Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II và lịch sử bị che đậy trong thời đại chúng ta, Sđd trang 111
- ^ Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II và lịch sử bị che đậy trong thời đại chúng ta, Sđd trang 113
- ^ Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II và lịch sử bị che đậy trong thời đại chúng ta, Người dịch: Nguyễn Bá Long, Trần Quý Thắng; Sách tham khảo trong lực lượng công an nhân dân, NXB Công an Nhân dân, tháng 11/1997; trang 108
- ^ Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II và lịch sử bị che đậy trong thời đại chúng ta, Người dịch: Nguyễn Bá Long, Trần Quý Thắng; Sách tham khảo trong lực lượng công an nhân dân, NXB Công an Nhân dân, tháng 11/1997; trang 116
- ^ a ă â “Sinh nhật Giáo hoàng”.
- ^ Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II và lịch sử bị che đậy trong thời đại chúng ta, Người dịch: Nguyễn Bá Long, Trần Quý Thắng; Sách tham khảo trong lực lượng công an nhân dân, NXB Công an Nhân dân, tháng 11/1997; trang 128
- ^ a ă â b c d đ e ê “Bước Đường Mục Vụ Của Cố Giáo Chủ Gioan Phaolô II”.
- ^ "Pope John Paul II -The Biography" và "His Holiness – John Paul II, and the Hidden History of our Time" của hai tác giả Bernstein & Marco Politi dẫn theo Chương III trong tác phẩm "Giáo Hoàng Gioan Phaolô II: Vĩ Nhân Thời Đại"gồm XXIX chương của nhà văn Trần Phong Vũ sẽ do Tủ Sách Tiếng Quê Hương ấn hành
- ^ Giáo hoàng Gioan Phaolô II và lịch sử bị che đậy trong thời đại chúng ta, Sđd trang 192
- ^ Giáo hoàng Gioan Phaolô II và lịch sử bị che đậy trong thời đại chúng ta, sđd trang 244
- ^ Giáo hoàng Gioan Phaolô II và lịch sử bị che đậy trong thời đại chúng ta, sđd trang 240
- ^ Giáo hoàng Gioan Phaolô II và lịch sử bị che đậy trong thời đại chúng ta, sđd trang 236
- ^ Giáo hoàng Gioan Phaolô II và lịch sử bị che đậy trong thời đại chúng ta, sđd trang 199
- ^ http://www.catholic.org.tw/vntaiwan/01news/dtc138.htm Kỷ niệm 23 năm ngày Ðức Karol Wojtyla được chọn làm Giáo Hoàng(16/10/1978 - 16/10/2001)Prepared for internet by Msgr. Peter Nguyen Van Tai Radio Veritas Asia, Philippines
- ^ Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II và lịch sử bị che đậy trong thời đại chúng ta, Người dịch: Nguyễn Bá Long, Trần Quý Thắng; Sách tham khảo trong lực lượng công an nhân dân, NXB Công an Nhân dân, tháng 11/1997; trang 307.
- ^ a ă Pope John Paul II 1920~2005 An influential pontiff CNN.com
- ^ Một vài con số về triều giáo hoàng Gioan Phaolô II
- ^ Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II và lịch sử bị che đậy trong thời đại chúng ta, Người dịch: Nguyễn Bá Long, Trần Quý Thắng; Sách tham khảo trong lực lượng công an nhân dân, NXB Công an Nhân dân, tháng 11/1997; trang 670,671
- ^ Danh Sách 117 thánh tử đạo Việt Nam, http://www.catholic.org.tw/vntaiwan/ghvienam/tudaovn1.htm
- ^ 19 năm giáo hoàng của Giáo hoàng (1978 - 1997)
- ^ a ă â b c d “Giáo hoàng và 26 năm giáo hoàng”.
- ^ “BrainyQuote: Pope John Paul II Quotes”. © 2007,2009 BrainyMedia.com. Truy cập ngày 1 tháng 1 năm 2009.
- ^ Giáo hoàng với 26 năm dẫn dắt giáo hội
- ^ Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II và lịch sử bị che đậy trong thời đại chúng ta, Người dịch: Nguyễn Bá Long, Trần Quý Thắng; Sách tham khảo trong lực lượng công an nhân dân, NXB Công an Nhân dân, tháng 11/1997, trang 674 - 677
- ^ Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II và lịch sử bị che đậy trong thời đại chúng ta, Người dịch: Nguyễn Bá Long, Trần Quý Thắng; Sách tham khảo trong lực lượng công an nhân dân, NXB Công an Nhân dân, tháng 11/1997; (lưu hành nội bộ) trang 682.
- ^ Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II và lịch sử bị che đậy trong thời đại chúng ta, Người dịch: Nguyễn Bá Long, Trần Quý Thắng; Sách tham khảo trong lực lượng công an nhân dân, NXB Công an Nhân dân, tháng 11/1997, trang 683
- ^ Bài đăng trên các báo "The Orlando Sentinel" ngày 24 tháng 6 năm 1996, "Melbourne Star Observer" ngày 28 tháng 6 năm 1996, "The Buffalo News (Buffalo, NY)" ngày 24 tháng 6 năm 1996.
- ^ http://newspaperarchive.com/daily-herald/1996-06-24/page-99
- ^ Der Brückenbauer: Eine globale Gestalt unserer Zeit und ein konservativer Beweger: Zur Seligsprechung von Papst Johannes Paul II. (tiếng Đức)
- ^ Pleiten, Pech und Pontifex 14/17 (tiếng Đức)
- ^ Pleiten, Pech und Pontifex 15/17 (tiếng Đức)
- ^ Alan Cowells. L II Demonstrators And Devout Greet the Pope In Germany, New York Times, ngày 24 tháng 6 năm 1996
- ^ GIOAN PHAOLÔ II VÀ NỖ LỰC BẢO VỆ SỰ SỐNG CON NGƯỜI, Trích chương XII trong tác phẩm "Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Vĩ Nhân Thời Đại" gồm XXIX chương của nhà văn Trần Phong Vũ sẽ do Tủ Sách Tiếng Quê Hương ấn hành
- ^ ĐỨC GIOAN PHAOLÔ II VÀ GIỚI TRẺ, Simon HoaDalat
- ^ Gioan Phaolô II: Assisi - Kinh Hòa Bình
- ^ Một Triều Ðại Mới Với Ðức Gioan Phaolô II
- ^ Ủy Ban Quốc Tế Hổn Hợp Anh Giáo và Công Giáo vừa công bố Văn Kiện Chung nói về Quyền Giáo Hoàng trong Giáo Hộ, Prepared for internet by Msgr Peter Nguyen Van Tai Radio Veritas Asia, Philippines
- ^ ÐTC hoan nghênh việc Cộng Ðoàn Anh Giáo bổ nhiệm tân Tổng Giám mục Canterbury
- ^ Vài nhận định về Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II nhân dịp mừng sinh nhật thứ 80 của ngài hôm 18 tháng 5/2000, Prepared for internet by Msgr Peter Nguyen Van Tai, Radio Veritas Asia, Philippines
- ^ Bài Suy Niệm thứ mười một Làm Sao Phân Rẽ Ðược Thân Xác?Các Bài Giảng Tĩnh Tâm của Ðức Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận cho Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II và Giáo Triều Rôma
- ^ Ơn cứu độ đến từ dân Do Thái
- ^ Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô và lịch sử bị che đậy trong thời đại chúng ta, trang 754
- ^ Cử chỉ đặc biệt của ÐTC lúc kính viếng Bức Tường Than khóc ở Giêrusalem
- ^ Gioan Phaolô II: Viếng Thăm Thánh Địa
- ^ Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã tặng nhà thờ St. Theodore ở trên ngọn đồi Palatine thuộc thành Roma cho Chính Thống Giáo
- ^ trao tặng lại Bức Ảnh Ðức Mẹ KAZAN cho Giáo Hội Chính Thống Giáo Moscowa và cho dân tộc Nga
- ^ Sứ Ðiệp của ÐTC Gioan Phaolô I gởi cho Ðức Thượng Phụ Alexis II giáo chủ Giáo Hội Chính Thống Giáo Moscowa
- ^ Gioan Phaolô II tiếp kiến Ðạt Lai Lạt Ma thủ lãnh Phật Giáo Tây Tạng vào thứ Năm 27 tháng 11 năm 2003
- ^ Lễ giỗ giáp năm Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II: Hạt lúa gieo vào lòng đời
- ^ Don Lattin Buddhists Critical of Pope's Comments / Pontiff writes of `atheistic' faith San Francisco Chronicle, ngày 12 tháng 1 năm 1995.
- ^ World News Briefs; Buddhist Monks Demand Apology by the Pope
- ^ Đức giáo hoàng Gioan Phaolô II và lịch sử bị che đậy trong thời đại chúng ta, sđd trang 748 - 749.
- ^ a ă â “Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II và Hồi Giáo Prepared for Internet by Radio Veritas Asia, Philippines”.
- ^ GH John Paul II và Cộng-Sản Ba-Lan
- ^ Vì sao Gioan Phaolô II bị ám sát
- ^ Giáo hoàng của đức mẹ
- ^ Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II và lịch sử bị che đậy trong thời đại chúng ta, Người dịch: Nguyễn Bá Long, Trần Quý Thắng; Sách tham khảo trong lực lượng công an nhân dân, NXB Công an Nhân dân, tháng 11/1997, trang 504-508.
- ^ Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II và lịch sử bị che đậy trong thời đại chúng ta, Người dịch: Nguyễn Bá Long, Trần Quý Thắng; Sách tham khảo trong lực lượng công an nhân dân, NXB Công an Nhân dân, tháng 11/1997; trang 344, 345.
- ^ a ă “GIOAN PHAOLÔ II VÀ NỖ LỰC BẢO VỆ SỰ SỐNG CON NGƯỜI, Trích chương XII trong tác phẩm "Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Vĩ Nhân Thời Đại" gồm XXIX chương của nhà văn Trần Phong Vũ sẽ do Tủ Sách Tiếng Quê Hương ấn hành”.
- ^ Giáo hoàng Gioan Phaolô II và lịch sử bị che đậy trong thời đại chúng ta. sđd trang 197
- ^ a ă â “CỐ GIÁO HOÀNG GIOAN PHAOLÔ II, NGƯỜI BẠN THIẾT CỦA GIỚI CẦN LAO; Trích chương XVI trong tác phẩm "Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Vĩ Nhân Thời Đại" gồm XXIX chương của nhà văn Trần Phong Vũ sẽ do Tủ Sách Tiếng Quê Hương ấn hành”.
- ^ THƯ CỦA Giáo hoàng GIOAN PHAOLO II GỞI PHỤ NỮ TOÀN THẾ GIỚI, http://www.ubmvgiadinh.org/?open=contents&display=2&id=158
- ^ TRUYỀN CHỨC LINH MỤC CHO PHỤ NỮ, http://cuuthe.com/zoldsite1/giaidap/giaidap57.html
- ^ KHÔNG TRUYỀN CHỨC LINH MỤC CHO NỮ GIỚI, http://xuanbichvietnam.wordpress.com/2009/08/20/khong-truyen-chuc-linh-muc-cho-nu-gioi/
- ^ Giao hoàng Gioan Phaolô II và lịch sử bị che đậy trong thời đại chúng ta, trang 868 - 871.
- ^ Stephen Hawking. Lược sử thời gian. Chương 8: Nguồn gốc và số phận của vũ trụ.
- ^ John Tagliabue. Pope Bolsters Church's Support For Scientific View of Evolution New York Times, ngày 25 tháng 10 năm 1996.
- ^ Heaven is fullness of communion with God. Miracle of the Rosary Mission
- ^ Tom Fulks. Heresy?: The Five Lost Commandments. trang 73
- ^ “BrainyQuote: Pope John Paul II Quotes”. © 2007,2009 BrainyMedia.com. Truy cập ngày 11 tháng 1 năm 2009.
- ^ Stourton, Edward (2006). John Paul II: Man of History. Luân Đôn: © 2006 Hodder & Stoughton. tr. 1. ISBN 0340908165.
- ^ Weeke, Stephen (31 tháng 3 năm 2006). “Perhaps ‘Saint John Paul the Great?'”. © 2006-2009 msnbc World News. Truy cập 1 tháng 2 năm 2009.
- ^ Đức giáo hoàng Gioan Phaolô II và lịch sử bị che đậy trong thời đại chúng ta, trang 840 - 841.
- ^ Đức giáo hoàng Gioan Phaolô II và lịch sử bị che đậy trong thời đại chúng ta, trang 842 - 843.
- ^ Cuộc đời Giáo hoàng John Paul II
- ^ Giây phút qua đời của cố giáo hoàng John Paul II
- ^ Mở án phong chân phước và tuyên thánh cho Ðức Gioan Phaolô II
- ^ Thu thập tài liệu về cố giáo hoàng
- ^ Kết thúc việc lập án cho Ðức Thánh Cha Gioan ở Ba Lan
- ^ Kết thúc điều tra cấp giáo phận để phong Chân Phước cho Ðức Gioan Phaolô II
- ^ Nữ Tu Marie Simon Pierre nhận được Phép lạ do lời cầu khẩn của Gioan Phaolô II
- ^ "BBC – Religion & Ethics – John Paul II". 2006,2009 by BBC. Retrieved 6 February 2009.
- ^ http://www.biography.com/search/article.do?id=9355652 "John Paul II Biography (1920–2005)". A&E Television Networks. Retrieved 1 January 2009.
- ^ a ă ["Catholic Church to Ease Ban on Condom Use"]. 2006, 2009 Deutsche Welle. 24 April 2006. Retrieved 12 January 2009.
- ^ “Scandals in the church: The Bishops' Decisions; The Bishops' Charter for the Protection of Children and Young People”. The New York Times. 15 tháng 6 năm 2002. Truy cập ngày 6 tháng 5 năm 2014.
- ^ “Text of the accusation letter directed to John Paul II” (bằng tiếng Tây Ban Nha). Pepe-rodriguez.com. Truy cập ngày 17 tháng 2 năm 2013.
- ^ “Decoding secret world of Opus Dei”. BBC News. 16 tháng 9 năm 2005. Truy cập ngày 30 tháng 4 năm 2010.
- ^ Associated Press, "Opus Dei backs new pope", CNN, 19 April 2005
- ^ Student Upbraids Pope, Leaving Vatican Stunned
- ^ Taylor, Aisha (4 tháng 4 năm 2005). “Young Catholic Feminists Compare Legacy of MLK and John Paul II”. © 2008 Women's Ordination Conference. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2009.
- ^ Zindler, Frank R. (1991). Dial an Atheist: Greatest Hits from Ohio. American Atheist Press. ISBN 9781578849505., tr. 182
- ^ The New Anti-Catholicism: The Last Acceptable Prejudice. tr.76
- ^ Pope John Paul II (2005). Memory & Identity – Personal Reflections. London: 2006 Weidenfeld & Nicolson. ISBN 0-297-85075-X, tr. 12
- ^ Vatican (2003 [last update]). "Considerations Regarding Proposals To Give Legal Recognition To Unions Between Homosexual Persons". vatican.va. Retrieved 28 January 2012.
- ^ a ă Philip Jenkins. The New Anti-Catholicism: The Last Acceptable Prejudice. tr.98 [1]
- ^ Daniel Williams. Pope Rejects Condoms As a Counter to AIDS. Washington Post.
- ^ "Top Catholics Question Condom Ban". 2005, 2009 International Herald Tribune. 16 April 2005. Retrieved 12 January 2009.
- ^ Gideon Polya. John Paul II, HIV/AIDS And Global Mass Mortality 11 April, 2005. Countercurrents.org
- ^ a ă â Robert Willis. The Democracy of God: An American Catholicism, tr. 141,142 [2]
- ^ a ă John Paul II: His Life and Papacy
- ^ Joseph L. Daleiden|Joseph Daleiden. The Final Superstition: A Critical Evaluation of the Judeo-Christian Legacy. Prometheus Books. Tháng 8 năm 1994. ISBN 978-0879758967. Trang 82
- ^ Hewitt, Hugh (4 June 2005). "Criticizing John Paul II: Yet Another Thing The Mainstream Press Does Not Understand About The Catholic Church.". The Weekly Standard. Retrieved 10 January 2009.
- ^ Address to the Representatives of the Christian Churches and Ecclesial Communities and of the World Religions". Vatican archives. 1986,2009 Libreria Editrice Vaticana. 27 October 1986. Retrieved 12 January 2009.
- ^ "Address to the Representatives of the other Christian Churches and Ecclesial Communities". 1986,2009 Libreria Editrice Vaticana. 27 October 1986. Retrieved 12 January 2009.
- ^ "Day of Prayer for Peace in the World". Vatican archives. 1986,2009 Libreria Editrice Vaticana. 24 January 2002. Retrieved 12 January 2009.
- ^ "John Paul II kisses the Koran (Qu'ran) at the Vatican.". FIDES News Service. 2002, 2009 Tradition in Action, Inc. 14 May 1999. Retrieved 12 January 2009.
- ^ “Jan Paweł II Live at Vatican 1999”. Youtube.com. 28 tháng 8 năm 2011. Truy cập ngày 17 tháng 2 năm 2013.
- ^ Michael J. Matt (21 tháng 3 năm 2011). “A Statement of Reservations Concerning the Impending Beatification of Pope John Paul II”. The Remnant. Truy cập ngày 2 tháng 5 năm 2011.
- ^ “Ian Paisley and politics of peace”. Los Angeles Times. 24 tháng 3 năm 2010. Truy cập ngày 16 tháng 2 năm 2012.
- ^ a ă Davenport, Mark (19 January 2004). "BBC NEWS | Paisley's Exit from Europe". BBC News. Retrieved 28 January 2012.
- ^ Paisley, Dr R.K. (2012 [last update]). "EIPS – Historical Documents Reveal Former Pope's Plans". ianpaisley.org. Retrieved 28 January 2012.
- ^ "HEADLINERS; Papal Audience". New York Times. 16 October 1988. Retrieved 5 May 2010.
- ^ Cloud, David W. (2012 [last update]). "Free Presbyterian Church – Dr. Ian Paisley". freepres.org. Retrieved 28 January 2012.
- ^ MacDonald, Susan (2 October 1988). "Paisley Ejected for Insulting Pope". The Times.
- ^ Chrisafis, Angelique (16 September 2004). "The Return of Dr. No". The Guardian (London).
Liên kết ngoài
Wikimedia Commons có thêm thể loại hình ảnh và phương tiện truyền tải về Giáo hoàng Gioan Phaolô II |
- Đức Giáo hoàng John Paul II đã qua đời
- Tòa thánh Vatican
- Cuộc đời giáo hoàng John Paul II, từ VNN
- Cuộc đời giáo hoàng John Paul II, từ BBC Việt ngữ
- Thuật ngữ Công giáo
- Ảnh lễ tang Giáo Hoàng John Paul II
- Thương tiếc Giáo Hoàng Gioan Phaolo II
- Thế giới tưởng niệm giáo hoàng Hohn Paul II
- Thi hài Giáo hoàng đang được quàn tại phòng bích hoạ
Người tiền nhiệm Gioan Phaolô I |
Danh sách các giáo hoàng |
Người kế nhiệm Biển Đức XVI |
|
|
http://www.youtube.com/user/hoangkimvietnam
Trở về trang chính
hoangkim vietnam, hoangkim, hoangkimvietnam, Hoàng Kim, Ngọc Phương Nam, Chào ngày mới Thung dung, Dạy và học, Cây Lương thực, Tin Nông nghiệp Việt Nam, Food Crops, Cassava in Vietnam, VietnamAfricaCassavaRice, Khát khao xanh, Dayvahoc, Học mỗi ngày, Danh nhân Việt , Food Crops News, Điểm chính, CNM365, Kim LinkedIn, KimTwitter, KimFaceBook Đọc lại và suy ngẫm, Việt Nam tổ quốc tôi, Tình yêu cuộc sống, Thơ cho con
No comments:
Post a Comment