Bulgaria
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Република България Republika Balgariya |
|||||
---|---|---|---|---|---|
|
|||||
Khẩu hiệu | |||||
Съединението прави силата (tiếng Bulgaria: "Đoàn kết gây sức mạnh") |
|||||
Quốc ca | |||||
Mila Rodino | |||||
Hành chính | |||||
Chính phủ | Cộng hòa nghị viện | ||||
Chủ tịch nước Thủ tướng |
Georgi Parvanov Boyko Borisov |
||||
Ngôn ngữ chính thức | tiếng Bulgaria | ||||
Thủ đô | Sofia |
||||
Thành phố lớn nhất | Sofia | ||||
Địa lý | |||||
Diện tích | 111.001,9 km² (hạng 102) | ||||
Diện tích nước | 0,3% % | ||||
Múi giờ | EET (UTC+2); mùa hè: EEST (UTC+3) | ||||
Lịch sử | |||||
Ngày thành lập | Từ Đế Quốc Ottoman 3 tháng 3 năm 1878 22 tháng 9 năm 1908 |
||||
Dân cư | |||||
Dân số ước lượng (2005) | 7.761.000 người (hạng 92) | ||||
Dân số (2001) | 7.932.984 [2] người | ||||
Mật độ | 67 người/km² (hạng 100) | ||||
Kinh tế | |||||
GDP (PPP) (2005) | Tổng số: 62,292 tỷ đô la Mỹ | ||||
HDI (2009) | 0,840 cao (hạng 61) | ||||
Đơn vị tiền tệ | Lev (BGN ) |
||||
Thông tin khác | |||||
Tên miền Internet | .bg |
Tuyết trắng tại Shipka Pass
Dãy núi Balkan chạy từ đông sang tây phía bắc Bulgaria. Người Bulgaria gọi dãy núi này là "Núi Cũ" (Stara Planina). Sông Donau tạo thành phần lớn biên giới phía bắc Bulgaria.
Giữa Sofia ở phía tây và Biển Đen là một vùng đồng bằng thấp gọi là thung lũng hoa hồng, trong 3 thế kỷ đã trồng ở khu vực này. Hoa hồng Kazanluk được ưa chuộng và được xuất khẩu do mùi hương riêng biệt của nó, dùng để sản xuất nước hoa. Về phía đông là bờ biển Hắc Hải với những mỏm đá phía bắc và các bãi cát phía nam thu hút du khách khắp thế giới.
Vị trí của Bulgaria ở giao lộ quan trọng của hai châu lục khiến đây là nơi tranh giành quyền lực trong nhiều thế kỷ. Là một vương quốc độc lập trong nhiều thế kỷ, Bulgaria đã là một cường quốc lớn trong thời gian dài thời Trung cổ.
Bulgaria là một nước có truyền thống lịch sử và văn hóa lâu đời tại châu Âu. Đế quốc Bulgaria thứ nhất hùng mạnh đã từng mở rộng lãnh thổ ra khắp vùng Balkan và có những ảnh hưởng văn hóa của họ ra khắp các cộng đồng người Slav tại khu vực này. Vài thế kỉ sau đó, với sự sụp đổ của Đế quốc Bulgaria thứ hai, đất nước này bị Đế quốc Ottoman đô hộ trong gần 5 thế kỉ sau đó. Năm 1878, Bulgaria trở thành một nước quân chủ lập hiến tự trị nằm trong Đế quốc Ottoman. Sau Thế chiến thứ hai (1939-1945), một chính phủ được Liên Xô ủng hộ đã được lập ở Bulgaria. Bulgaria đã thực hiện chương trình công nghiệp hóa trong thời kỳ những người cộng sản cầm quyền. Chính quyền Bulgaria đã cải cách dân chủ năm 1989. Năm 1990, Bulgaria đã tổ chức tổng tuyển cử nhiều đảng phái và đã đổi tên từ Cộng hòa Nhân dân Bulgaria thành Cộng hòa Bulgaria.
Tiến trình chuyển đổi dân chủ và thể chế kinh tế của Bulgaria không dễ dàng do việc mất thị trường truyền thống Liên Xô. Điều này dẫn tới tình trạng đình đốn kinh tế, lạm phát và thất nghiệp gia tăng. Nhiều người Bulgaria đã rời bỏ đất nước. Quá trình cải cách vẫn tiếp tục và năm 2000, Bulgaria đã bắt đầu đàm phán xin gia nhập EU.
Nước này là thành viên của NATO từ năm 2004 và thành viên Liên minh Châu Âu từ năm 2007. Dân số Bulgaria là 7,7 triệu người với thủ đô là Sofia.
Mục lục
Địa lý
Về tổng thể Bulgaria có khí hậu ôn hoà, với mùa đông lạnh và mùa hè nóng. Hiệu ứng ngăn chặn của dãy núi Balkan có một số ảnh hưởng trên khí hậu ở khắp nước: bắc Bulgaria có nhiệt độ thấp hơn và có lượng mưa cao hơn các vùng đất thấp phía nam.

Đỉnh Malyovitsa, núi Rila
Bulgaria có trữ lượng quặng mangan lớn ở phía đông bắc và uranium ở phía tây nam, cũng như một trữ lượng lớn than và các loại quặng đồng, chì, kẽm và vàng. Các loại quặng khác có trữ lượng nhỏ hơn gồm sắt, bạc, chromite, nickel, bismuth và các loại khác. Bulgaria có nhiều khoáng sản phi kim loại như đá muối, thạch cao, kaolin và marble.
Nước này có mạng lưới sông dày đặc với khoảng 540 con sông, đa số chúng -ngoại trừ con sông Danube nổi tiếng— ngắn và có mực nước thấp.[2] Đa số các con sông chảy qua các vùng núi non. Con sông lớn nhất nằm hoàn toàn bên trong lãnh thổ Bulgaria, sông Iskar, có chiều dài 368 km. Các con sông lớn khác gồm sông Struma và sông Maritsa ở phía nam.
Các dãy núi Rila và Pirin có khoảng 260 hồ băng; nước này cũng có nhiều hồ nằm trên bò Biển Đen và hơn 2.200 hồ đập. Có nhiều suối nước khoáng, chủ yếu nằm ở phía tây nam và trung tâm đất nước dọc theo các đứt gãy giữa các dãy núi.
Lượng mưa ở Bulgaria trong khoảng 630mm mỗi năm. Tại các vùng đất thấp lượng mưa trong khoảng từ 500mm và 800mm, và tại các vùng núi trong khoảng từ 1000mm và 1400mm mỗi năm. Các vùng khô hơn gồm Dobrudja và dải bờ biển phía bắc, trong khi các vùng cao hơn thuộc Rila, Pirin, Núi Rhodope, Stara Planina, Núi Osogovska và Vitosha có lượng mưa trung bình lớn hơn.
Lịch sử
Tiền sử và cổ đại
- Xem thêm thông tin: Châu Âu thời Đồ đá mới, Châu Âu thời Đồ đồng, Chế độ nô lệ, Vương quốc Odrysian, và Người Slavơ
Mộ Thracian Sveshtari, một ngôi mộ từ thế kỷ thứ 3 trước Công Nguyên được liệt kê là một địa điểm di sản thế giới của UNESCO
Người Thracian, một trong ba tổ tiên chính của người Bulgaria hiện đại, đã để lại các dấu vết vẫn còn lại ở vùng Balkan dù đã trải qua nhiều thiên niên kỷ. Người Thracian sống trong những bộ tộc riêng rẽ cho tới khi Vua Teres thống nhất hầu hết các bộ lạc vào khoảng năm 500 trước Công Nguyên bên trong Vương quốc Odrysian, sau này phát triển lên tới đỉnh điểm dưới thời Vua Sitalces (cầm quyền 431-424 trước Công Nguyên) và Vua Cotys I (383–359 trước Công Nguyên). Sau đó Đế quốc Macedonia đã sáp nhập vương quốc Odrysian và Thracians trở thành một thành phần không thể chuyển nhượng trong các chuyến viễn chinh của cả Philip II và Alexander III (Đại đế). Năm 188 trước Công Nguyên người La Mã xâm lược Thrace, và chiến tranh tiếp tục tới năm 45 khi cuối cùng La Mã chinh phục cả vùng. Các nền văn hóa Thracian và La Mã đã hòa nhập ở một số mức độ, dù những truyền thống nền tảng của Thracian vẫn không thay đổi. Vì thế tới thế kỷ thứ 4 người Thracian có một bản sắc bản xứ hỗn hợp, như người Công giáo Rôma và vẫn duy trì được một số tín ngưỡng ngoại giáo cổ xưa của họ.
Người Slavơ xuất hiện từ quê hương của họ ở đầu thế kỷ thứ 6 và tràn ra hầu hết Đông Trung Âu, Đông Âu và Balkans, trong quá trình này họ phân chia thành ba nhóm chính; Tây Slavơ, Đông Slavơ và Nam Slavơ. Một thành phần người Nam Slav ở phía đông đã bị người Thracian đồng hóa trước khi tầng lớp quý tộc Bulgaria tự sáp nhập mình vào Đế quốc Bulgaria đầu tiên.[3]
Đế quốc Bulgaria đầu tiên
Trong cuộc bao vây Constantinople năm 717–718 vị Khan cai trị Bulgaria Tervel đã thực hiện hiệp ước của mình với những người Byzantine bằng cách gửi binh lính tới giúp dân chúng thành phố thủ đô đế chế này. Theo nhà viết sử Byzantine Theophanes, trong trận đánh quyết định người Bulgaria đã giết 22.000 quân Ả Rập, nhờ vậy loại bỏ được mối đe dọa về một cuộc tấn công tổng lực của Ả Rập vào Đông và Trung Âu.[8]
Ảnh hưởng và sự mở rộng lãnh thổ của Bulgaria gia tăng thêm nữa trong thời cầm quyền của Khan Krum,[9] người vào năm 811 đã có một thắng lợi quyết định trước quân đội Byzantine dưới sự chỉ huy của Nicephorus I trong Trận Pliska.[10] Thế kỷ thứ 8 và thứ 9 là thời gian số người Slavơ đông đảo dần đồng hoá những người Bulgar nói tiếng Turkic (hay Proto-Bulgarians).[11]
Năm 864, Bulgaria ở thời vua Boris I Người rửa tội chấp nhận Chính Thống giáo Đông phương.[12]
Bulgaria trở thành một cường quốc châu Âu lớn ở thế kỷ thứ 9 và thứ 10, trong khi vẫn đấu tranh với Đế quốc Byzantine để giành quyền kiểm soát Balkans. Việc này diễn ra dưới sự cai trị (852–889) của Boris I. Trong thời trị vì của ông, ký tự Cyrill đã phát triển tại Preslav và Ohrid,[13] được sửa đổi từ ký tự Glagolitic do các giáo sĩ Saints Cyril và Methodius phát minh.[14]
Ký tự Cyrill trở thành căn bản cho sự phát triển thêm nữa của văn hoá. Những thế kỷ sau này, bảng chữ cái này, cùng với ngôn ngữ Bulgaria cổ, đã trở thành ngôn ngữ viết trí thức (lingua franca) cho Đông Âu, được gọi là chữ Slavơ Nhà thờ. Thời kỳ đỉnh cao mở rộng lãnh thổ của Đế quốc Bulgaria -bao phủ hầu hết Balkan— diễn ra dưới thời Hoàng đế Simeon I Vĩ đại, Sa hoàng (Hoàng đế) đầu tiên của Bulgaria, cầm quyền từ năm 893 tới năm 927.[15] Trận Anchialos (917), một trong những trận đánh đẫm máu nhất thời Trung Cổ.[16] đã đánh dấu một trong những thắng lợi quyết định nhất của Bulgaria trước Đế quốc Byzantine.
Tuy nhiên, thành tựu lớn nhất của Simeon là việc phát triển Bulgaria trở thành một nền văn hoá Kitô giáo Slavơ duy nhất và giàu mạnh, trở thành một hình mẫu cho các dân tộc Slavơ khác ở Châu Âu và cũng đảm bảo sự tiếp tục tồn tại của nhà nước Bulgaria dù có những lực lượng đe doạ chia rẽ nó thành nhiều mảnh trong suốt lịch sử dài và đầy các cuộc chiến tranh.
Giữa thế kỷ thứ 10 Bulgaria rơi vào giai đoạn suy tàn, bị kiệt quệ bởi các cuộc chiến tranh với Croatia, những cuộc nổi dậy thường xuyên của người Serbia được Byzantine hậu thuẫn, và những cuộc xâm lược của người Magyar và Pecheneg.[17] Vì những nguyên nhân này, Bulgaria sụp đổ trước cuộc tấn công trực diện của Rus' năm 969–971.[18]
Bulgaria Byzantine
Không có bằng chứng còn lại về bất kỳ một cuộc kháng cự hay nổi dậy lớn nào của người dân hay giới quý tộc Bulgaria trong thập kỷ đầu tiên sau sự thành lập quyền cai trị của Byzantine. Với sự tồn tại của các đối thủ không thể dung hoà với Byzantium như Krakra, Nikulitsa, Dragash và những người khác, sự im ắng này dường như rất khó giải thích. Một số nhà sử học[22] đã giải thích đó là kết quả của một sự nhân nhượng mà Basil II đã trao cho giới quý tộc Bulgaria để giành được lòng trung thành của họ. Ở ngôi vị cao nhất, Basil II đảm bảo tính không thể chia cắt của Bulgaria trong các biên giới địa lý cũ của nó và không chính thức xoá bỏ quyền cai trị địa phương của giới quý tộc Bulgaria, những người đã trở thành một phần của tầng lớp quý tộc Byzantine như là các quan chấp chính hay chỉ huy quân sự. Thứ hai, các tuyên bố đặc biệt (nghị định hoàng gia) của Basil II công nhận tính độc lập của Địa phận Tổng giám mục Bulgaria Ohrid và đặt ra các biên giới của nó, đảm bảo sự tiếp nối của các giáo khu đã tồn tại dưới thời Samuel, tài sản và các quyền ưu tiên của họ.[23]Người dân Bulgaria đã đứng lên chống lại sự cai trị của Byzantine nhiều lần trong thế kỷ 11 và một lần nữa ở đầu thế kỷ 12. Cuộc khởi nghĩa lớn nhất diễn ra dưới sự lãnh đạo của Peter II Delyan (tuyên bố là Hoàng đế tại Belgrade năm 1040 - 1041) và Contantine Bodin (tức Peter III, 1072). Từ giữa thế kỷ XI tới những năm 1150, cả người Norman và người Hungary đều tìm cách xâm lược Bulgaria Byzantine, nhưng không thành công. Giới quý tộc Bulgaria cai trị các tỉnh dưới danh nghĩa Hoàng đế Byzantine cho tới khi Ivan Asen I và Peter IV của Bulgaria bắt đầu một cuộc nổi dậy năm 1185 dẫn tới việc thành lập Đế quốc Bulgaria thứ hai.
Đế quốc Bulgaria thứ hai

Đế quốc Bulgaria dưới thời Sa hoàng Ivan Asen II
Ivan Asen II (1218–1241) mở rộng sự thống trị tới Albania, Epirus, Macedonia và Thrace.[24] Trong thời cầm quyền của ông, nhà nước đã có sự phát triển văn hoá, với những thành tựu nghệ thuật quan trọng của trường phái nghệ thuật Tarnovo.[3] Triều đại Asen chấm dứt năm 1257, và vì những cuộc xâm lược của Tatar (bắt đầu từ cuối thế kỷ 13), các cuộc xung đột bên trong và những cuộc tấn công thường xuyên của người Byzantine và Hungary, sức mạnh quốc gia dần suy giảm. Hoàng đế Theodore Svetoslav (cầm quyền 1300–1322) tái lập sức mạnh của Bulgaria từ năm 1300 trở về sau, nhưng chỉ mang tính tạm thời. Sự bất ổn chính trị tiếp tục gia tăng, và Bulgaria dần mất lãnh thổ. Điều này dẫn tới một cuộc khởi nghĩa nông dân do người chăn lợn, Ivaylo lãnh đạo, cuối cùng ông đã đánh bại được các lực lượng của Hoàng đế và lên ngôi vua.
Tới cuối thế kỷ 14, những sự chia rẽ phe phái giữa các lãnh chúa phong kiến Bulgaria (boyars) đã làm suy yếu đáng kể tính thống nhất của Đế quốc Bulgaria thứ hai. Nó tan rã thành ba nhà nước sa hoàng nhỏ và nhiều công quốc bán độc lập đánh lẫn nhau, và cả với người Byzantine, Hungary, Serb, Venetia, và Genoese. Trong những trận đánh này, người Bulgaria thường liên kết với người Thổ Ottoman. Tình hình tranh cãi và chiến đấu gây thiệt cho cả hai bên tương tự cũng diễn ra ở Byzantine và Seriba. Trong giai đoạn 1365–1370, người Ottoman chinh phục hầu hết các thị trấn và pháo đài của Bulgaria ở phía nam dãy Balkan.[25]
Cai trị của Ottoman

Trận Nicopolis, 1396
Ottoman đã tàn sát người Bulgaria, và họ đã mất hầu hết các di vật văn hoá của mình. Chính quyền Thổ phá huỷ hầu hết các pháo đài trung cổ của Bulgaria để ngăn chặn những cuộc nổi dậy. Các thị trấn và khu vực lớn nơi quyền lực của Ottoman chiếm ưu thế có dân cư rất thưa thớt cho tới tận thế kỷ 19.[16][cần số trang] Giới quý tộc Bulgaria bị tiêu diệt và tầng lớp nông dân trở thành nông nô cho những lãnh chúa Thổ Nhĩ Kỳ.[11] Người Bulgaria phải trả thuế cao hơn rất nhiều so với dân cư Hồi giáo, và hoàn toàn không có sự bình đẳng về pháp lý với họ.[29] Một sự đối phó từ phía người Bulgaria là việc tăng cường hajduk ('ngoài vòng pháp luật') truyền thống.[11] Những người Bulgaria đã cải theo Hồi giáo, người Pomaks, vẫn giữ lại ngôn ngữ, y phục và một số phong tục thích hợp với Đạo Hồi.[27][28][cần số trang]. Các nguồn gốc của người Pomaks là chủ đề của một cuộc tranh luận.[30][31]
Trong hai thập niên cuối cùng của thế kỷ 18 và những thập niên đầu tiên của thế kỷ 19 Bán đào Bankan tan rã vào tình trạng vô chính phủ. Người Bulgaria gọi giai đoạn này là kurdjaliistvo: các băng nhóm người Thổ có vũ trang được gọi là kurdjalii cướp bóc trong vùng. Tại nhiều khu vực, hàng nghìn nông dân bỏ chạy khỏi vùng nông thôn hoặc tới các thị trấn hoặc (thường xuyên hơn) tới các khu vực đồi núi và rừng rú; một số người thậm chí còn vượt qua Danube tới Moldova, Wallachia hay miền nam nước Nga.[27][32]

Đài tưởng niệm Shipka (nằm gần Gabrovo) — được xây dựng để tưởng nhớ Trận Đèo Shipka; một trong những biểu tượng quan trọng của sự giải phóng Bulgaria.
Năm 1876 cuộc khởi nghĩa tháng 4 nổ ra: một trong những cuộc nổi dậy chống Đế quốc Ottoman lớn nhất và được tổ chức tốt nhất của người Bulgaria. Dù bị chính quyền Ottoman đàn áp, người Thổ đã tàn sát khoảng 15.000 người Bulgaria[11] — cuộc nổi dậy (cùng với cuộc nổi dậy tại Bosnia năm 1875) khiến các Cường quốc phải can thiệp trong Hội nghị Constantinople năm 1876, phân định các biên giới của sắc tộc Bulgaria như ở cuối thế kỷ 19, và tạo lập các thoả thuận pháp lý và chính trị cho việc thành lập hai tỉnh Bulgaria tự trị. Chính phủ Ottoman bác bỏ các quyết định của các Cường quốc. Điều này cho phép Nga tìm kiếm một giải pháp bằng vũ lực mà không có nguy cơ đối đầu quân sự với các Cường quốc khác trong cuộc Chiến tranh Crimea từ năm 1854 tới năm 1856.
Công quốc và Vương quốc
Trong cuộc Chiến tranh Nga-Thổ, 1877-1878, quân đội Nga cùng với một Binh đoàn România và quân tình nguyện Bulgaria đã đánh bại quân Thổ Ottoman. Hiệp ước San Stefano (3 tháng 3 năm 1878), tạo lập một công quốc Bulgaria tự trị. Nhưng các Cường quốc phương Tây nhanh chóng phản đối hiệp ước, lo ngại rằng một quốc gia Slavơ rộng lớn ở Balkan có thể phục vụ cho các lợi ích của Nga. Điều này dẫn tới Hiệp ước Berlin (1878), về một công quốc Bulgaria tự trị, gồm cả Moesia và vùng Sofia. Alexander, Vương công Battenberg, trở thành Vương công đầu tiên của Bulgaria. Hầu hết Thrace trở thành một phần của vùng tự trị Đông Rumelia, theo đó phần còn lại của Thrace và toàn bộ Macedonia quay trở về dưới chủ quyền của người Thổ Ottoman. Sau cuộc chiến tranh Serbia-Bulgaria và sự thống nhất với Đông Rumelia năm 1885, công quốc Bulgaria tuyên bố mình là một vương quốc hoàn toàn độc lập ngày 5 tháng 10 (22 tháng 9 theo Lịch cũ), 1908, dưới quyền cai trị của Ferdinand I của Bulgaria.Ferdinand, thuộc gia đình công tước Saxe-Coburg-Gotha, trở thành Vương công Bulgaria sau khi Alexander von Battenberg thoái vị năm 1886 sau một cuộc đảo chính do các sĩ quan ủng hộ Nga âm mưu. (Dù nỗ lực phản đảo chính của Stefan Stambolov thành công, Hoàng tử Alexander quyết định không giữ chức vị cai trị Bulgaria mà không có sự đồng thuận của Hoàng đế Aleksandr III của Nga.) Cuộc đấu tranh giải phóng người dân Bulgaria tại Adrianople Vilayet và tại Macedonia tiếp tục trong suốt thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, lên tới đỉnh cao là cuộc Khởi nghĩa Ilinden-Preobrazhenie do Tổ chức Cách mạng Trong nước Macedonia tổ chức năm 1903.

Quân Bulgaria dùng lưỡi lê tấn công cứ điểm của quân Thổ trong cuộc Chiến tranh Balkan lần thứ nhất 1912–1913, Tranh của Jaroslav Věšín.
Những cuộc Chiến tranh Balkan và Thế chiến thứ nhất
Trong Thế chiến I, Bulgaria tham chiến với tư cách đồng minh của Liên minh Trung tâm. Mặc dù bước vào cuộc chiến với 1.200.000 quân hùng mạnh (chiếm hơn 1/4 dân số đất nước)[34][35] và giành thắng lợi quyết định tại Doiran và Dobrich, Bulgaria đầu hàng vào năm 1918. Quân đội Bulgaria phải chịu 300.000 thương vong, gồm 100.000 người chết.[11] Thất bại năm 1918 khiến nước này thêm một lần mất thêm lãnh thổ (Western Outlands cho Serbia, Tây Thrace cho Hy Lạp và vùng Nam Dobrudzha mới tái chinh phục được cho România). Các cuộc chiến tranh Balkan và Thế chiến I dẫn tới một làn sóng tị nạn của hơn 250.000 người Bulgaria từ Macedonia, Đông và Tây Thrace và Nam Dobrudzha.
Thế chiến II

Một lính gác người Bulgaria tại vị trí, Sofia, 1942
Mùa hè năm 1943, Boris III bất ngờ qua đời, và nước này rơi vào tình trạng hỗn loạn chính trị khi cuộc chiến đổi chiều với Phát xít Đức và phong trào Cộng sản giành được nhiều quyền lực.[37] Đầu tháng 9 năm 1944, Liên xô tuyên chiến với Bulgaria và xâm lược nước này, không gặp phải sự kháng cự nào. Điều này cho phép những người Cộng sản (Đảng Công nhân Bulgaria) lên nắm quyền lực và thành lập một nhà nước Cộng sản. Chế độ mới đưa Bulgaria quay sang chống lại Phát xít.
Cộng hoà Nhân dân Bulgaria
Nước Cộng hoà Nhân dân chấm dứt tồn tại năm 1989 như nhiều chế độ Cộng sản khác tại Đông Âu, cũng như chính Liên bang Xô viết, bắt đầu sụp đổ. Phe đối lập buộc Zhivkov và cánh tay phải của ông Milko Balev rời bỏ quyền lực ngày 10 tháng 11 năm 1989.
Cộng hoà Bulgaria
Tháng 2 năm 1990 Đảng Cộng sản tự nguyện dừng độc quyền quyền lực, và vào tháng 6 năm 1990 cuộc bầu cử tự do diễn ra, với chiến thắng thuộc phái ôn hoà của Đảng Cộng sản (đã đổi tên thành Đảng Xã hội Bulgaria — BSP). Tháng 7 năm 1991, nước này thông qua một hiến pháp mới quy định về một Tổng thống khá ít quyền lực và một Thủ tướng có trách nhiệm về lập pháp. Thập niên 1990 là giai đoạn nước này có tỷ lệ thất nghiệp cao, lạm phát cao và không ổn định cũng như sự bất bình của dân chúng.Từ năm 1989, Bulgaria đã tổ chức các cuộc bầu cử đa đảng và tư nhân hoá nền kinh tế của mình, nhưng những khó khăn kinh tế và một làn sóng tham nhũng khiến hơn 800.000 người Bulgaria, hầu hết là các nhà chuyên môn có trình độ, di cư trong một cuộc "chảy máu chất xám". Gói cải cách được đưa ra năm 1997 đã khôi phục sự tăng trưởng kinh tế, nhưng dẫn tới sự gia tăng bất bình đẳng xã hội. Bulgaria trở thành một thành viên của NATO năm 2004 và của Liên minh châu Âu năm 2007, và US Library of Congress Federal Research Division đã thông báo trong năm 2006 rằng nước này nói chung có các thành tích tự do ngôn luận và nhân quyền tốt.[43] Năm 2007 A.T. Kearney/Tạp chí Foreign Policy xuất bản Chỉ số Toàn cầu hoá xếp Bulgaria đứng hàng 36 (giữa Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa và Iceland) trong số 122 quốc gia.[44]
Chính trị
Nước này đã trở thành một thành viên của Liên hiệp quốc năm 1955, và là một thành viên sáng lập của OSCE năm 1995. Với tư cách một Đối tác Tham vấn của Hiệp ước Bắc Cực, Bulgaria đã tham gia vào ban quản lý các lãnh thổ nằm ở phía nam vĩ độ 60° nam.[45][46] Quốc hội hay Narodno Sabranie (Народно събрание) gồm 240 đại biểu, với nhiệm kỳ 4 năm và được bầu lên bởi nhân dân. Một đảng hay liên minh phải giành tối thiểu 4% phiếu bầu để có đại diện trong nghị viện. Quốc hội có quyền ban hành pháp luật, thông qua ngân sách, lập kế hoạch bầu cử tổng thống, lựa chọn và bãi chức Thủ tướng và các bộ trưởng khác, tuyên chiến, triển khai quân đội ở nước ngoài và thông qua các hiệp ước và thoả thuận quốc tế. Một chính phủ thiểu số do đảng Các công dân vì sự phát triển châu Âu của Bulgaria cầm quyền từ sau cuộc bầu cử tháng 7 năm 2009.
Hệ thống tư pháp gồm các toà án vùng, quận và phúc thẩm, cũng như một Toà Phá án Tối cao. Ngoài ra, Bulgaria có một Toà án Hành chính Tối cao và một hệ thống toà án quân sự.
Tổng thống Bulgaria là nguyên thủ quốc gia và tổng tư lệnh các lực lượng vũ trang. Ông cũng là chủ tịch Hội đồng Tư vấn An ninh Quốc gia. Tuy không thể đưa ra bất kỳ điều luật nào ngoài việc đề xuất sửa đổi Hiến pháp, Tổng thống có thể từ chối một điều luật buộc nó phải quay lại trải qua quá trình tiếp tục tranh luận, dù nghị viện có thể bác bỏ sự phủ quyết của tổng thống bằng một đa số đại biểu.
Nước này gia nhập NATO ngày 29 tháng 3 năm 2004 và đã ký kết Hiệ ước gia nhập Liên minh châu Âu ngày 25 tháng 4 năm 2005.[47][48] Nước này trở thành một thành viên đầy đủ của Liên minh châu Âu ngày 1 tháng 1 năm 2007,[49] và được bầu 17 thành viên vào trong Nghị viện châu Âu.[50]
Quân đội
Sau một loạt các cuộc cắt giảm năm 1989, quân đội thường trực nước này chưa tới 45.000 người (hiện tại), giảm từ gần 200.000 năm 1988. Các lực lượng dự trữ gồm 303.000 binh lính và sĩ quan. Một số nhánh bán quân sự, như biên phòng và quân đội xây dựng đường sắt có tồn tại và có khoảng 34.000 người. Các lực lượng vũ trang có các thiết bị khá hiện đại của Liên xô, như máy bay chiến đấu MiG-29, tên lửa đất đối không SA-6 Gainful và SA-10 Grumble và tên lửa đạn đạo tầm ngắn SS-21 Scarab.
Quân đội Bulgaria đã tham gia vào nhiều nhiệm vụ quốc tế tại Campuchia, Bosna và Herzegovina, Kosovo, Afghanistan và Iraq. Bản mẫu:Ở thời điểm Bulgaria có hơn 700 nhân viên quân sự được triển khai ở nước ngoài, chủ yếu tại Afghanistan (610 người), tại Bosna và Herzegovina (khoảng 100 người) và tại Kosovo (khoảng 50 người).
Năm 2008 Bulgaria đã bãi bỏ nghĩa vụ quân sự với các công dân của họ. Hải quân và không quân Bulgaria đã hoàn toàn chuyên nghiệp hoá năm 2006, và các lực lượng lục quân tiếp nối vào cuối năm 2008. Các lực lượng đặc biệt đã tiến hành các phi vụ với SAS, Delta Force, KSK, và Spetsnaz của Nga.
Tháng 4 năm 2006 Bulgaria và Hoa Kỳ đã ký một thoả thuận hợp tác quốc phong theo đó đưa các căn cứ không quân tại Bezmer (gần Yambol) và Graf Ignatievo (gần Plovdiv), trại huấn luyện Novo Selo (gần Sliven), và một trung tâm hậu cần tại Aytos trở thành cơ sở quân sự chung. Tạp chí Foreign Policy magazine coi Căn cứ Không quân Bezmer là một trong sáu địa điểm hải ngoại quan trọng nhất do USAF sử dụng.[51]
Bản mẫu:Ở thời điểm chi tiêu quân sự chiếm khoảng 1.98% GDP[cần dẫn nguồn].
Các tỉnh và khu đô thị
|
Kinh tế

Quang cảnh Khu thương mại Sofia. Thủ đô tạo ra phần lớn GDP của Bulgaria.
Một cánh đồng hoa hướng dương tại Dobrudja, một trong những vùng màu mỡ nhất của Bulgaria
Vì có tai tiếng về nạn tham nhũng cao, và rõ ràng thiếu sự kiên quyết đấu tranh với tình trạng tham nhũng ở các cấp độ cao, Liên minh châu Âu đã cho đóng băng một phần các khoản vốn khoảng €450 triệu và có thể đóng băng thêm nữa nếu chính quyền Bulgaria không thể hiện quyết tâm trong việc đấu tranh chống tham nhũng.[56]
Bulgaria đã chế ngự được tình trạng lạm phát từ cuộc khủng hoảng kinh tế sâu năm 1996–1997, nhưng những con số (mới nhất) cho thấy tỷ lệ lạm phát đã gia tăng lên tới 12.5% trong năm 2007. Nạn thất nghiệp đã giảm từ hơn 17% hồi giữa thập niên 1990 xuống còn gần 7% năm 2007, nhưng ở một số vùng nông nghiệp tỷ lệ thất nghiệp vẫn ở mức cao. Tình trạng lạm phát ở Bulgaria đồng nghĩa với việc nước này được chấp nhận vào eurozone sẽ không thể diễn ra cho tới năm 2013–2014.[57]
Trong cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008-2009, tỷ lệ thất nghiệp vẫn ở mức khá thấp khoảng 6.3% năm 2008, nhưng đã tăng lên tới 8% năm 2009. Tăng trưởng GDP năm 2008 vẫn ở mức cao (6%), nhưng đã hầu như xuống mức âm năm 2009. Cuộc khủng hoảng có dấu ấn tiêu cực chủ yếu trên ngành công nghiệp, giảm 10% trên chỉ số sản xuất công nghiệp quốc gia, 31% trong công nghiệp mỏ, và 60% trong ngành sản xuất thép và kim loại.[58] Chính phủ dự đoán mức sụt giảm 2.2% của GDP trong năm 2010, với con số thâm hụt ngân sách 0.7%.[59]

Các turbine gió gần mũi Kaliakra
Nông nghiệp
Bulgaria là một trong những nhà sản xuất sản phẩm nông nghiệp hàng đầu thế giới như hồi (thứ 6 thế giới), hạt hướng dương (11), mâm xôi (13), thuốc lá (15), hạt tiêu (18) và sợi lanh (19).[60]
Năng lượng
Bản mẫu:Vào nước này có mức độ gia tăng sản xuất điện từ các nguồn có thể tái tạo như điện gió, điện mặt trời khá vững chắc, dù vẫn phải dựa chủ yếu vào các nhà máy nhiệt điện và điện hạt nhân.[61] Vì sở hữu rất nhiều rừng và đất đai nông nghiệp, biomass có thể là một nguồn cung cấp điện lớn. Điện gió cũng có tiềm năng cao, với công suất tiềm năng lên tới 3.400 MW.[62] Bản mẫu:Vào Bulgaria có hơn 70 turbine gió với tổng công suất 112.6 MW, và có những kế hoạch tăng gấp ba lần công suất lên 300 MW vào năm 2010.[63]
Công nghiệp và mỏ
Bulgaria là nhà sản xuất dầu mỏ hạng thấp (thứ 97 trên thế giới) với tổng sản lượng 3.520 bbl/ngày.[65] Các nhà thăm dò phát hiện ra giếng dầu đầu tiên của Bulgaria gần Tyulenovo năm 1951. Trữ lượng được chứng minh khoảng 15.000.000 bbl. Sản xuất khí tự nhiên đã sụt giảm mạnh hồi cuối thập niên 1990. Trữ lượng khí tự nhiên được chứng minh khoảng 5.663 bln. cu m.[66]
Khai mỏ là một nguồn thu xuất khẩu chủ yếu, và đã trở thành yếu tố chủ chốt của nền kinh tế Bulgaria. Nước này là nhà sản xuất than đứng hạng 19 thế giới,[67] đứng thứ 9 về sản xuất bismuth,[68] đứng thứ 19 về sản xuất đồng,[69] và 26 về kẽm.[70] Luyện kim sắt cũng có tầm quan trọng lớn. Hầu hết sản lượng thép và gang có từ Kremikovtsi và Pernik, với một cơ sở luyện kim thứ ba tại Debelt. Về sản xuất thép và sản lượng thép trên đầu người nước này đứng đầu vùng Balkan. Các nhà máy tinh luyện chì và kẽm lớn nhất nằm tại Plovdiv (nhà máy tinh luyện lớn nhất giữa Ý và dãy núi Ural), Kardzhali và Novi Iskar; đồng tại Pirdop và Eliseina (defunct Bản mẫu:Vào); nhôm tại Shumen. Về sản lượng nhiều loại kim loại trên đầu người, như kẽm và sắt, Bulgaria đứng hạng nhất ở Đông Âu.
Khoảng 14% tổng sản lượng công nghiệp liên quan tới chế tạo máy và 20% nhân lực trong lĩnh vực này.[71] Tầm quan trọng của nó đã giảm bớt kể từ năm 1989.
Du lịch

Quang cảnh núi Rila
Các địa điểm du lịch chính gồm thủ đô Sofia, các khu resort ven biển như Albena, Sozopol, Bãi cát Vàng và Bãi biển Nắng; và các khu resort mùa đông như Pamporovo, Chepelare, Borovetz và Bansko. Các địa điểm du lịch vùng thôn quê như Arbanasi và Bozhentsi là nơi có các truyền thống sắc tộc được bảo tồn tốt. Các địa điểm thu hút du khách khác gồm Tu viện Rila từ thế kỷ thứ 10 và lâu đài Euxinograd thế kỷ 19.
Khoa học, công nghệ và viễn thông

Tháp chứa kính thiên văn 200cm tại Đài thiên văn Rozhen, đài thiên văn lớn nhất ở Đông Nam Âu.
Công nghệ thông tin là một trong số các nhánh khoa học phát triển nhất của Bulgaria[cần dẫn nguồn], và vào những năm 1980 nước này đã được gọi là Thung lũng Silicon của Khối Đông Âu.[76] Theo báo cáo của Brainbench Global IT, Bulgaria xếp thứ nhất ở châu Âu về số chuyên gia IT trên đầu người[77] và đứng thứ 8 thế giới về tổng số chuyên gia ICT, vượt xa một số nước có quy mô dân số lớn hơn nhiều.[78] Ngoài ra, Bulgaria cũng là nước có siêu máy tính mạnh nhất ở Đông Âu (một trong top 100 trên thế giới Bản mẫu:Vào), một IBM Blue Gene/P, đi vào hoạt động tháng 9 năm 2008 tại Cơ quan Công nghệ Thông tin Nhà nước.[79] Những năm sau 2000 đã chứng kiến một sự gia tăng mạnh số lượng người sử dụng internet: năm 2000, có 430.000 người, năm 2004 – 1.545.100, và năm 2006 – 2.2 triệu người.[80]
Giáo dục

Khoa hoá của trường Đại học Sofia
Năm 2003, tỷ lệ biết chữ ước tính ở mức 98.6%, xấp xỉ tương đương ở cả hai giới tính. Các tiêu chuẩn giáo dục truyền thống của Bulgaria rất cao.[81]
Vận tải

Một chiếc Boeing 737-300 của Bulgaria Air
Giao thông đường không đá phát triển khá toàn diện. Bulgaria có sáu sân bay quốc tế chính — tại Sofia, Burgas, Varna, Plovdiv, Rousse và Gorna Oryahovitsa. Sau khi chủ nghĩa cộng sản sụp đổ năm 1989, hầu hết các sân bay nội địa nhỏ đều bị bỏ hoang không sử dụng khi các chuyến bay nội địa giảm sút. Nước này duy trì nhiều sân bay quân sự và nông nghiệp. 128 trong tổng số 213 sân bay ở Bulgaria có đường băng cứng.
Các cảng quan trọng nhất và có lượng vận tải hàng hoá lớn nhất là Varna và Burgas. Burgas, Sozopol, Nesebar và Pomorie là những cảng hỗ trợ cho các đội tàu đánh cá. Các cảng lớn trên sông Donau gồm Rousse và Lom (phục vụ cho thủ đô).
Nhân khẩu
Cuộc điều tra năm 2001 định nghĩa một nhóm sắc tộc là một "cộng đồng người, liên quan tới nhau bởi nguồn gốc và ngôn ngữ, và giống nhau về cách thức sống và văn hoá"; và tiếng mẹ đẻ của một người là "tiếng một người nói tốt nhất và thường được sử dụng để trao đổi trong gia đình (hộ)".[85]
Tiếng mẹ đẻ | Theo nhóm sắc tộc | Phần trăm | Theo ngôn ngữ đầu tiên | Phần trăm |
---|---|---|---|---|
Tiếng Bulgaria | 6.655.000 | 83,93% | 6.697.000 | 84,46% |
Tiếng Thổ Nhĩ Kỳ | 747.000 | 9,42% | 763.000 | 9,62% |
Gypsies (roma) | 371.000 | 4,67% | 328.000 | 4,13% |
Khác | 69.000 | 0,87% | 71.000 | 0,89% |
Tổng cộng | 7.929.000 | 100% | 7.929.000 | 100% [85] |

Bên trong một nhà thờ tại Bratsigovo
Hồi giáo tới nước này vào cuối thế kỷ 14 sau cuộc chinh phục của người Ottoman. Ở thế kỷ 16 và 17, các nhà truyền giáo từ Rôma đã truyền đạo tại Paulicians thuộc các quận Plovdiv và Svishtov khiến nơi này có thêm nhiều tín hữu Giáo hội Công giáo Rôma. Năm 2009, cộng đồng Do Thái tại Bulgaria, từng là một trong những cộng đồng lớn nhất châu Âu, có chưa tới 2.000 người.
Văn hoá

Bảo tàng Nghệ thuật Nước ngoài Quốc gia, nơi lưu giữa nhiều tác phẩm nghệ thuật châu Âu, châu Á và châu Phi, gồm cả các tcs phẩm của Rembrandt, Albrecht Dürer, Salvador Dali và nhiều người khác.
Ngày nay Bulgaria có chín Địa điểm di sản thế giới của UNESCO – bức chạm nổi đá đầu thời kỳ Trung Cổ Madara Rider, hai lăng mộ Thrace (tại Sveshtari và Kazanlak), Nhà thờ Boyana, Tu viện Rila và Các Nhà thờ Đá Ivanovo, Vườn Quốc gia Pirin và Khu Dự trữ Thiên nhiên Srebarna, cũng như thành phố cổ Nesebar. Một đồ tạo tác lịch sử quan trọng khác là kho tàng vàng chế tác cổ nhất thế giới, có niên đại từ thiên niên kỷ thứ 5 trước Công Nguyên, từ Nghĩa trang Varna.[89]
Nước này có một truyền thống âm nhạc lâu dài, bắt nguồn từ đầu thời kỳ Trung Cổ. Một trong những nhà soạn nhạc nổi tiếng sớm nhất được biết ở Châu Âu Trung Cổ là Yoan Kukuzel (khoảng 1280–1360). Âm nhạc dân gian quốc gia có đặc trưng riêng biệt và sử dụng nhiều nhạc cụ truyền thống, như gudulka (гъдулка), gaida (гайда) – kèn túi, kaval (кавал) và tupan (тъпан). Bulgaria cũng có một di sản nghệ thuật thị giác giàu có, đặc biệt trong tranh tường, mural và các biểu tượng, nhiều tác phẩm trong số này là tác phẩm của Trường phái nghệ thuật Tarnovo.[90]
Rượu Bulgaria được xuất khẩu đi khắp thế giới, và tới năm 1990 nước này vẫn đứng thứ hai thế giới về tổng lượng xuất khẩu rượu đóng chai. Ở thời điểm năm 2007, nước này sản xuất 200.000 tấn rượu hàng năm,[91] xếp hạng 20 thế giới.[92] Bulgaria cũng sản xuất một lượng lớn bia và rakia (chủ yếu sản xuất tại nhà). Lukanka, banitsa, shopska salad, lyutenitsa, sirene và kozunak và những món đặc trưng của ẩm thực Bulgaria.
Thể thao

Vận động viên Sumo Kotoōshū (Kaloyan Mahlyanov), người châu Âu đầu tiên được nhận Cúp Hoàng Đế (tháng 5 năm 2008).
Bóng đá là môn thể thao được ưa chuộng nhất trong nước. Dimitar Berbatov (Димитър Бербатов) là một trong những cầu thủ bóng đá Bulgaria nổi tiếng nhất thế kỷ 21. Các câu lạc bộ nổi tiếng trong nước gồm PFC CSKA Sofia (được coi là câu lạc bộ hàng đầu đất nước)[94][95] và PFC Levski Sofia, là câu lạc bộ bóng đá Bulgaria đầu tiên tham gia UEFA Champions League hiện đại năm 2006/2007. Đội tuyển quốc gia thành công nhất tại kỳ World Cup là tại World Cup 94' khi họ vào tới bán kết và chỉ bị loại bởi đội tuyển Ý với một cú đúp của Roberto Baggio. Bulgaria thua trận với tỷ số 2-1 và cuối cùng giành vị trí thứ 4 sau trận thua 4-0 khi tranh giải 3, 4 trước Thuỵ Điển.
Bulgaria tham gia vào cả Olympic mùa hè và mùa đông, và lần đầu tiên họ xuất hiện trong một kỳ Olympic hiện đại là vào năm 1896, khi vận động viên thể dục người Thuỵ Sĩ Charles Champaud đại diện cho nước này. Từ đó Bulgaria đã tham gia vào hầu hết các kỳ Olympic mùa hè, và tới năm 2008 họ đã giành được tổng cộng 212 huy chương: 51 vàng và 84 bạc cùng 77 đồng.
Xem thêm
- Danh sách các thị trấn và thành phố kết nghĩa ở Bulgaria
- Danh sách vương triều Bulgaria
- Lịch sử Bulgaria Cộng sản
- Phong trào kháng chiến Bulgaria trong Thế chiến II
Ghi chú
- ^ http://www.mofahcm.gov.vn/vi/mofa/cn_vakv/
- ^ Donchev, D. (2004). Geography of Bulgaria (bằng Bulgarian). Sofia: ciela. tr. 68. ISBN 954-649-717-7.
- ^ a ă â s:1911 Encyclopædia Britannica/Bulgaria/History
- ^ "Bulgar (people)". Encyclopædia Britannica.
- ^ Zlatarski, pp. 146–153
- ^ Runciman, p. 26
- ^ Иван Микулчиќ, "Средновековни градови и тврдини во Македониjа", Скопjе, "Македонска цивилизациjа", 1996, стр. 29–33.
- ^ C. de Boor (ed), Theophanis chronographia, vol. 1. Leipzig: Teubner, 1883 (repr. Hildesheim: Olms, 1963), 397, 25–30 (AM 6209)"φασί δε τινές ότι και ανθρώπους τεθνεώτας και την εαυτών κόπρον εις τα κλίβανα βάλλοντες και ζυμούντες ήσθιον. ενέσκηψε δε εις αυτούς και λοιμική νόσος και αναρίθμητα πλήθη εξ αυτών ώλεσεν. συνήψε δε προς αυτούς πόλεμον και τον των Βουλγάρων έθνος, και, ως φασίν οι ακριβώς επιστάμενοι, [ότι] κβ χιλάδας Αράβων κατέσφαξαν."
- ^ Runciman, p. 52
- ^ s:Chronographia/Chapter 61
- ^ a ă â b c "Bulgaria". Encyclopædia Britannica.
- ^ Georgius Monachus Continuatus, loc. cit. [work not previously referenced], Logomete
- ^ Vita S. démentis
- ^ Barford, P. M. (2001). The Early Slavs. Ithaca, New York: Cornell University Press
- ^ Fine, The Early Medieval Balkans, pp. 144–148.
- ^ a ă Bojidar Dimitrov: Bulgaria Illustrated History. BORIANA Publishing House 2002, ISBN 954-500-044-9
- ^ Theophanes Continuatus, pp. 462—3, 480
- ^ Cedrenus: II, p. 383
- ^ Leo Diaconus, pp. 158–9
- ^ Шишић [Šišić], p. 331
- ^ Skylitzes, p. 457
- ^ Zlatarski, vol. II, pp. 1–41
- ^ Averil Cameron, The Byzantines, Blackwell Publishing (2006), p. 170
- ^ Jiriček, p.295
- ^ Jiriček, p. 382
- ^ Lord Kinross, The Ottoman Centuries, Morrow QuillPaperback Edition, 1979
- ^ a ă â R.J. Crampton, A Concise History of Bulgaria, 1997, Cambridge University Press, ISBN 0-521-56719-X
- ^ a ă D. Hupchick, The Balkans, 2002
- ^ Crampton, R.J. Bulgaria 1878-1918, p.2. East European Monographs, 1983. ISBN 0-88033-029-5.Bản mẫu:Request quotation
- ^ Hunter, Shireen: "Islam, Europe's second religion: the new social, cultural, and political landscape" 2002, pp.177
- ^ Poulton, Hugh: "Muslim identity and the Balkan State" 1997, pp.33
- ^ Dennis P. Hupchick: The Balkans: from Constantinople to Communism, 2002
- ^ Dillon, Emile Joseph (February năm 1920) [1920]. “XV”. The Inside Story of the Peace Conference. New York: Harper. Truy cập ngày 15 tháng 6 năm 2009. “The territorial changes the Prussia of the Balkans was condemned to undergo are neither very considerable nor unjust.” Đã bỏ qua văn bản “trans_chapter ” (trợ giúp)
- ^ Tucker, Spencer C; Wood, Laura (1996). The European Powers in the First World War: An Encyclopedia. Taylor & Francis. tr. 173. ISBN 0-8153-0399-8.
- ^ Broadberry, Stephen; Klein, Alexander (8 tháng 2 năm 2008). “Aggregate and Per Capita GDP in Europe, 1870–2000: Continental, Regional and National Data with Changing Boundaries”. Department of Economics at the University of Warwick, Coventry. tr. 18. Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2012.
- ^ Bulgaria in World War II: The Passive Alliance, Library of Congress
- ^ Bulgaria: Wartime Crisis, Library of Congress
- ^ William Marsteller. "The Economy". Bulgaria country study (Glenn E. Curtis, editor). Library of Congress Federal Research Division (tháng 6 năm 1992)
- ^ Domestic policy and its results, Library of Congress
- ^ The Political Atmosphere in the 1970s, Library of Congress
- ^ Bohlen, Celestine (17 tháng 10 năm 1991). Bulgaria “Vote Gives Key Role to Ethnic Turks”. The New York Times. Truy cập ngày 15 tháng 7 năm 2009. “... trong thập niên 1980 [...] lãnh đạo Cộng sản, Todor Zhivkov, bắt đầu một chiến dịch đồng hoá văn hoá buộc sắc tộc Thổ Nhĩ Kỳ phải chấp nhận những cái tên Slavơ, đóng cửa các thánh đường Hồi giáo và nhà nguyện của họ và đàn áp bất kỳ nỗ lực phản kháng nào. Một kết quả là cuộc di cư hàng loạt của hơn 300,000 người sắc tộc Thổ tới nước Thổ Nhĩ Kỳ láng giềng năm 1989...”
- ^ Cracks show in Bulgaria's Muslim ethnic model. Reuters. 31 tháng 5 năm 2009.
- ^ Library of Congress – Federal Research Division (October năm 2006). “Country Profile: Bulgaria” (PDF). Library of Congress. tr. 18, 23. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 7 năm 2005. Truy cập ngày 4 tháng 9 năm 2009. “Truyền thông: Năm 2006 báo in và truyền thông tại Bulgaria nói chung được coi là không có trở ngại, dù chính phủ thống trị truyền thông qua kênh Truyền hình Quốc gia Bulgaria (BNT) nhà nước và Đài phát thanh Bulgaria (BNR) thuộc sở hữu và các ấn bản báo chí thông qua cơ quan báo chí lớn nhất, Cơ quan Điện báo Bulgaria. [...]Nhân quyền: Những năm đầu thập niên 2000, Bulgaria nói chung được xếp hạng cao về nhân quyền. Tuy nhiên, một số ngoại lệ vẫn tồn tại. Dù truyền thông được tự do đưa tin, việc thiếu một cơ cấu pháp lý chuyên biệt để bảo vệ truyền thông khỏi sự can thiệp của nhà nước tại Bulgaria vẫn là một sự yếu kém về lý thuyết.”
- ^ See Globalization Index
- ^ The Antarctic Treaty system: An introduction. Scientific Committee on Antarctic Research (SCAR).
- ^ Signatories to the Antarctic Treaty. Scientific Committee on Antarctic Research (SCAR).
- ^ “NATO Update: Seven new members join NATO”. 29 tháng 3 năm 2004. Truy cập ngày 2 tháng 11 năm 2008.
- ^ “European Commission Enlargement Archives: Treaty of Accession of Bulgaria and Romania”. 25 tháng 4 năm 2005. Truy cập ngày 2 tháng 11 năm 2008.
- ^ Bos, Stefan (01 tháng 1 năm 2007). “Bulgaria, Romania Join European Union”. VOA News (Voice of America). Truy cập 2 tháng 1 năm 2009.
- ^ “Results of the 2009 European elections > Bulgaria”. Truy cập ngày 21 tháng 6 năm 2009.]
- ^ The List: The Six Most Important U.S. Military Bases, FP, tháng 5 năm 2006
- ^ “World Bank: Data and Statistics: Country Groups”. The World Bank Group. 2008. Truy cập ngày 27 tháng 7 năm 2008.
- ^ “GDP per capita in PPS”. Eurostat. Truy cập ngày 25 tháng 6 năm 2009.
- ^ CIA, Bulgaria entry
- ^ CIA, Belgium entry
- ^ AFP News Briefs (28 tháng 3 năm 2008). “Barroso slams Bulgaria's rampant corruption”. France 24. AFP. Truy cập ngày 15 tháng 10 năm 2008. ‘"Tham nhũng ở cấp độ cao và tội ác có tổ chức không có chỗ ở Liên minh châu Âu và không thể được khoan dung," Barroso đã nói sau những cuộc đàm phán với Thủ tướng Sergey Stanishev... Barroso đã tới trong chuyến thăm một ngày tới Sofia vào thứ 6 giữa một scandal tham nhũng ở cấp độ cao làm rung chuyển chính phủ trung tả của Stanishev... Bulgaria đã gia nhập Liên minh châu Âu năm 2007 nhưng tiếp tục phải đối mặt với những chỉ trích mạnh mẽ của Brussels về việc không thể tiêu diệt tham nhũng ở cấp độ cao và đưa những ông trùm kinh doanh tội phạm nổi tiếng vào sau song sắt. Những lo ngại về tham nhũng cũng khiến Brussels gần đây cho đóng băng một phần các khoản trợ cấp có giá trị ít nhất 450 triệu euro dành cho những nước mới gia nhập châu Âu.’
- ^ Koinova, Elena (12 tháng 5 năm 2008). “Bulgaria to adopt the euro in 2013-2014, UniCredit says”. Sofia Echo (Sofia Echo Media Ltd). Truy cập ngày 1 tháng 9 năm 2008. “Bulgaria và Romania dường như sẽ gia nhập eurozone năm 2013-2014, phòng phân tích của UniCredit Group nói trong báo cáo gần nhất của họ có tựa đề Đồng Euro đi về phía đông.”
- ^ Economist: financial crisis brewed by U.S. market fundamentalism , Xinhua, 12 tháng 3 năm 2009
- ^ Бюджет 2010 влиза на първо четене в НС, news.expert.bg
- ^ FAO - Bulgaria country rank
- ^ EU Energy factsheet about Bulgaria
- ^ Bulgaria Renewable Energy Fact Sheet (EU)
- ^ 2010 г.: 300 мегавата мощности от вятърни централи, profit.bg, 28 tháng 6 năm 2009
- ^ Елаците-Мед АД, Geotechmin group
- ^ Oil producing countries rank table, CIA
- ^ Natural gas producing countries rank table, CIA
- ^ Xem Danh sách quốc gia theo sản lượng than.
- ^ Xem Danh sách quốc gia theo sản lượng bismuth
- ^ Xem Danh sách quốc gia theo sản lượng đồng
- ^ Xem Danh sách quốc gia theo sản lượng kẽm
- ^ Geography of machine building in Bulgaria Factsheet
- ^ Xem Xếp hạng du lịch thế giới
- ^ Statistics from the Bulgarian Tourism Agency
- ^ Кабинетът одобри бюджета за 2008 г., Вести.бг
- ^ Xem Biểu thời gian đi vào vũ trụ theo quốc tịch
- ^ IT Services: Rila Establishes Bulgarian Beachhead in UK, findarticles.com, 24 tháng 6 năm 1999
- ^ http://www.sharedxpertise.org/file/2251/forget-india-lets-go-to-bulgaria.html
- ^ http://www.outsourcingmonitor.eu/articles/outsourcing-to-bulgaria.html
- ^ Вече си имаме и суперкомпютър, Dir.bg, 9 tháng 9 năm 2008
- ^ Bulgaria Internet Usage Stats and Market Report
- ^ "Country Profile: Bulgaria." Library of Congress Country Studies Program. tháng 10 năm 2006. p6. http://web.archive.org/web/20050717162833/http://lcweb2.loc.gov/frd/cs/profiles/Bulgaria.pdf
- ^ Влак-стрела ще минава през Ботевград до 2017 г.
- ^ National Statistical Institute of Bulgaria. Truy cập 31 tháng 7 năm 2006
- ^ Bộ Nội vụ ước tính một số lượng lớn (từ 600.000 tới 750.000) người Roma tại Bulgaria; gần một nửa người Roma truyền thống tự xác định mình về sắc tộc là người Thổ hay Bulgaria.
- ^ a ă Cultrual Policies and Trends in Europe. “Population by ethnic group and mother tongue, 2001”. Truy cập ngày 2 tháng 12 năm 2008.
- ^ “Will EU Entry Shrink Bulgaria's Population Even More? | Europe | Deutsche Welle | 26.12.2006”. Dw-world.de. Truy cập ngày 2 tháng 1 năm 2009.
- ^ information source - NSI population table vào 31.12.2008
- ^ “Bulgaria”.
- ^ New perspectives on the Varna cemetery (Bulgaria), By: Higham, Tom; Chapman, John; Slavchev, Vladimir; Gaydarska, Bisserka; Honch, Noah; Yordanov, Yordan; Dimitrova, Branimira; 1 tháng 9 năm 2007
- ^ Graba, A. La peinture religiouse en Bulgarie, Paris, 1928, p. 95
- ^ [1]
- ^ See Danh sách quốc gia sản xuất rượu
- ^ FIVB official rankings as per 15 tháng 1 năm 2009
- ^ Rankings of A Group
- ^ Best club of 20th century ranking at the official site of the International Federation of Football History and Statistics
Đọc thêm
- Jiriček, Constantin Josef (2008). History of the Bulgarians (Geschichte der Bulgaren) (bằng tiếng Đức). Frankfurt: Textor Verlag GmbH, digital facsimile of the book published in Prague, 1878. tr. 587 pages. ISBN 3-938402-11-3.
- Crampton, R. J. A Concise History of Bulgaria (2005) Cambridge, UK; New York: Cambridge University Press ISBN 978-0-521-61637-9
- Detrez, Raymond Historical Dictionary of Bulgaria (2006) Second Edition lxiv + 638 pp. Maps, bibliography, appendix, chronology ISBN 978-0-8108-4901-3
- Lampe, John R., and Marvin R. Jackson Balkan Economic History, 1550-1950: From Imperial Borderlands to Developing Nations (1982)
- Lampe, John R. The Bulgarian Economy in the Twentieth Century (1986) London: Croom Helm ISBN 0-7099-1644-2
Trước năm 1939
- Monroe, W. S. "Bulgaria and her people, with an account of the Balkan wars, Macedonia, and the Macedonian Bulgars (1914)"
- Fox, Frank, Sir Bulgaria (1915) London: A. and C. Black, Ltd., book scanned by Project Gutenberg
- Hall, Richard C. Bulgaria's Road to the First World War (1996) New York: Columbia University Press ISBN 0-88033-357-X
- MacDermott, Mercia (1962). A History of Bulgaria, 1393-1885. London: Allen & Unwin.
- Perry, Duncan M. Stefan Stambolov and the Emergence of Modern Bulgaria, 1870-1895 (1993) Durham: Duke University Press ISBN 0-8223-1313-8
- Runciman, Steven (1930). A History of the First Bulgarian Empire. G. Bell & Sons, London.
- Zlatarski, Vasil N. (1934). “Prof. Dr.”. Medieval History of the Bulgarian State (bằng Bulgarian). Royal Printing House, Sofia. Truy cập ngày 5 tháng 8 năm 2007. (Васил Н. Златарски, История на българската държава през средните векове, Част II, II изд., Наука и изкуство, София 1970)
Thế chiến II
- Bar-Zohar, Michael Beyond Hitler's Grasp: The Heroic Rescue of Bulgaria's Jews
- Groueff, Stephane Crown of Thorns: The Reign of King Boris III of Bulgaria, 1918–1943
- Todorov, Tzvetan The fragility of goodness: why Bulgaria’s Jews survived the Holocaust: a collection of texts with commentary (2001) Princeton: Princeton University Press ISBN 0-691-08832-2
Thời kỳ cộng sản
- Todorov, Tzvetan Voices from the Gulag: Life and Death in Communist Bulgaria
- Dimitrova, Alexenia The Iron Fist — Inside the Bulgarian secret archives
(Hiện tại)
- Bell, John D., ed. (1998). Bulgaria in Transition: Politics, Economics, Society, and Culture after Communism. Westview. ISBN 978-0-8133-9010-9
- Ghodsee, Kristen. The Red Riviera: Gender, Tourism and Postsocialism on the Black Sea. Durham: Duke University Press. ISBN 978-0-8223-3662-4.
- Ghodsee, Kristen. Muslim Lives in Eastern Europe: Gender, Ethnicity and the Transformation of Islam in Postsocialist Bulgaria. Princeton: Princeton University Press. ISBN 978-0-691-13955-5.
Sách hướng dẫn
- Annie Kay Bradt Guide: Bulgaria
- Paul Greenway Lonely Planet World Guide: Bulgaria
- Pettifer, James Blue Guide: Bulgaria
- Timothy Rice Music of Bulgaria
- Jonathan Bousfield The Rough Guide To Bulgaria
Liên kết ngoài
![]() |
Wikimedia Commons có thêm thể loại hình ảnh và phương tiện truyền tải về Bulgaria |
Tìm thêm về Bulgaria tại những đồng dự án của Wikipedia: | |
![]() |
Từ điển ở Wiktionary |
![]() |
Sách ở Wikibooks |
![]() |
Cẩm nang du lịch ở Wikivoyage |
![]() |
Hồ sơ ở Wikiquote |
![]() |
Văn kiện ở Wikisource |
![]() |
Hình ảnh và phương tiện ở Commons |
![]() |
Tin tức ở Wikinews |
![]() |
Tài liệu giáo dục ở Wikiversity |
- Chính phủ
- Official governmental site
- President of The Republic of Bulgaria
- National Assembly of the Republic of Bulgaria
- Chief of State and Cabinet Members
- Thông tin chung
- Mục “Bulgaria” trên trang của CIA World Factbook.
- Bulgaria information from the United States Department of State
- Portals to the World from the United States Library of Congress
- Article Eco Friendly Bulgaria
- Bulgaria at UCB Libraries GovPubs
- Bulgaria tại DMOZ (trang đề nghị)
Wikimedia Atlas của Bulgaria, có một số bản đồ liên quan đến Bulgaria.
- Bulgaria Gazette
- Du lịch
![]() |
Wikivoyage có chỉ dẫn du lịch về Bulgaria |
- Bulgaria - video presentations from Bulgaria Tourism Authority
- All cities and villages
- The mountains of Bulgaria
- Image Gallery of Bulgaria
- Large Image Gallery of Bulgaria
- Nghệ thuật
- General sources
|
|
Swaziland
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Vương quốc Swaziland | |||||
---|---|---|---|---|---|
Umbuso we Swatini (tiếng Swahili) Kingdom of Swaziland (tiếng Anh) |
|||||
|
|||||
Khẩu hiệu | |||||
Siyinqaba "We are a fortress" "We are a mystery/riddle" "We hide ourselves away" (tiếng Swati: "") |
|||||
Quốc ca | |||||
Nkulunkulu Mnikati wetibusiso temaSwati | |||||
Hành chính | |||||
Chính phủ | Quân chủ tuyệt đối | ||||
Vua Thái hậu Thủ tướng |
Mswati III Ntombi Themba Dlamini |
||||
Ngôn ngữ chính thức | tiếng Anh, tiếng Swati | ||||
Thủ đô | Mbabane và Lobamba |
||||
Thành phố lớn nhất | Mbabane | ||||
Địa lý | |||||
Diện tích | 17.363 km² (hạng 153) | ||||
Diện tích nước | 0,9% % | ||||
Múi giờ | UTC+ 2 | ||||
Lịch sử | |||||
Ngày thành lập | 6 tháng 9 năm 1968 | ||||
Dân cư | |||||
Dân số ước lượng (2006) | 1.136.334 người (hạng 156) | ||||
Dân số (2001) | 1.173.900 người | ||||
Mật độ | 65,4 người/km² (hạng 99) | ||||
Kinh tế | |||||
GDP (PPP) (2005) | Tổng số: 6,222 tỷ đô la Mỹ | ||||
HDI (2003) | 0,498 thấp (hạng 147) | ||||
Đơn vị tiền tệ | Lilangeni (SZL ) |
||||
Thông tin khác | |||||
Tên miền Internet | .sz |
Swaziland giành được độc lập từ Anh vào ngày 6 tháng 9 năm 1968. Hiện nay nước này là một quốc gia theo chế độ quân chủ chuyên chế. Kinh tế Swaziland phát triển không ổn định và nước này đang phải đối mặt với nhiều vấn đề xã hội nghiêm trọng, đặc biệt là đói nghèo và đại dịch HIV/AIDS.
Mục lục
Lịch sử
Con người đã xuất hiện ở vùng đất ngày nay là Swaziland từ lâu đời. Những công cụ từ thời kỳ đồ đá có niên đại 200.000 năm trước đã được phát hiện tại đây. Bên cạnh đó, người ta còn phát hiện được rất nhiều những bức tranh vẽ trên đá có niên đại cổ nhất từ 25.000 năm trước tại vùng đất này.Cư dân đầu tiên xuất hiện tại Swaziland là những bộ tộc Khoisan sống bằng nghề săn bắn. Sau đó, một dòng người Bantu rất lớn đã tràn vào vùng đất này. Bằng chứng về sự phát triển của ngành trồng trọt cũng như sử dụng công cụ bằng sắt đã được phát hiện và xác định vào khoảng thế kỉ 4. Bên cạnh đó, những tổ tiên của người Sotho và Nguni cũng đến đây trong khoảng thời gian trước thế kỉ 11.
Vương triều Dlamini bắt đầu cai trị Swaziland từ thế kỉ 18 và được mở rộng vào đầu thế kỉ 19 dưới triều vua Sobhuza I. Thời gian này, người da trắng cũng bắt đầu đến Swziland sinh sống. Vào những năm 1980, nước Cộng hòa Transvaal tuyên bố chủ quyền đối với Swaziland nhưng chưa kịp thiết lập chế độ cai trị tại đây thì cuộc Chiến tranh Boer thứ hai (1988-1902) giữa hai nước cộng hòa của người Boer và người Anh nổ ra. Kết quả người Boer thất bại và Swaziland được đặt dưới chế độ bảo hộ của Liên Hiệp Anh. Nước này giành được độc lập và trở thành một thành viên của Khối thịnh vượng chung Anh vào ngày 6 tháng 9 năm 1968. Từ đó đến nay, Swaziland là một nước theo chế độ quân chủ chuyên chế.
Chính trị
Theo thể chế Quân chủ Nghị viện, chế độ lưỡng viện, (từ năm 1973).Hiến pháp được ban hành năm 1968, năm 1973 không có hiệu lực; sau đó là các bản Hiến pháp năm 1978, 1992; năm 1996 ban hành Hiến pháp mới.
Vua bổ nhiệm Thủ tướng và các thành viên Nội các. Giúp việc cho Vua có Thượng nghị viện gồm 30 thành viên và Hạ nghị viện gồm 65 thành viên. Trong Thượng nghị viện cũng như trong Hạ Nghị viện đều có 10 thành viên do vua bổ nhiệm. Mỗi cộng đồng, trong số 40 cộng đồng bộ lạc lâu đời, bầu 2 thành viên vào cử tri đoàn. 10 thành viên của cử tri đoàn trở thành thượng nghị sỹ. 40 thành viên của cử tri đoàn trở thành hạ nghị sỹ. Không có các đảng chính trị từ năm 1973.
Địa lý
Swaziland là một quốc gia có diện tích tương đối nhỏ tại châu Phi. Tổng diện tích của nước này là 17.363 km², đứng hàng 153 thế giới (Xem Danh sách quốc gia theo diện tích).Cảnh quan của Swaziland nhìn chung khá đa dạng. Núi cao tập trung chủ yếu ở khu vực giữa biên giới nước này với Mozambique. Đồng cỏ khô nhiệt đới (savanna) tập trung chủ yếu ở phía đông và phía tây bắc nước này có những cánh rừng mưa nhiệt đới. Có một vài con sông nhỏ chảy qua lãnh thổ Swaziland.
Kinh tế
Swaziland là một nền kinh tế nhỏ và nhìn chung còn khá lạc hậu. Hơn 70% dân số của Swaziland sống ở nông thôn và sống bằng nghề trồng trọt. Hạn hán khi xảy ra thường gây ra nạn đói và đe dọa đến cuộc sống của rất nhiều người. Tỉ lệ thất nghiệp của nước này cũng khá cao, lên tới 40% và có tới 70% dân số nước này sống dưới mức 1 dollar Mỹ một ngày. Số lượng việc làm mới không đáp ứng đủ nhu cầu việc làm của người dân. Gia tăng dân số tại nước này càng làm gia tăng áp lực lên những nguồn tài nguyên và các dịch vụ xã hội như giáo dục và y tế. Những năm qua, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Swaziland không ổn định và khá bấp bênh. Năm 2006, tốc độ tăng trưởng kinh tế của nước này là 1,2%.Nền kinh tế Swaziland dựa một phần khá lớn vào ngành sản xuất nước ngọt, xuất khẩu đường, vải sợi, hoa quả đóng hộp. Các mặt hàng nhập khẩu chính của nước này là máy móc, thiết bị, hóa chất và nhiên liệu. Đối tác thương mại chủ yếu của nước này là Nam Phi, bên cạnh đó còn có Liên minh Châu Âu và Mỹ.
Nhân khẩu
Dân tộc chủ yếu sinh sống tại Swaziland là người Swazi. Bên cạnh đó còn có một số người Zulu và người da trắng thiểu số có gốc Anh và Hà Lan. Tiếng Swazi và tiếng Anh là hai ngôn ngữ chính thức ở Swaziland. Tiếng Zulu và tiếng Tsonga được nói bởi những người dân thuộc các bộ tộc thiểu số này.Theo số liệu tháng 7 năm 2007[1], dân số của Swaziland là 1.113.066 người. Swaziland là một trong số rất ít nước tại châu Phi có tỉ lệ gia tăng dân số tự nhiên âm. Năm 2007, tốc độ gia tăng dân số của nước này là -0,337%. Nguyên nhân là do tỉ lệ tử tại Swaziland quá cao, chủ yếu là do sự lan tràn của đại dịch HIV/AIDS. Tính đến năm 2003, nước này đã có tới 38,8% người trưởng thành bị nhiễm AIDS[2], một con số cao đến mức khó tin. Đại dịch AIDS đang trở thành một thảm họa sống còn tại đất nước Swaziland nhỏ bé.
82,70% dân số theo Kitô giáo, làm cho nó là tôn giáo phổ biến nhất ở Swaziland. Anh giáo, Tin Lành, chiếm đa số trong các Kitô hữu (40%), tiếp theo là Công giáo La Mã 20% dân số. Cũng có một số lượng nhỏ hơn các tôn giáo ngoài Kitô giáo trong cả nước như Hồi giáo (0,95%), Đức tin Bahá'í (0,5%), và Ấn Độ giáo (0,15%) [27].[3]
Hình ảnh về Swaziland
Tham khảo
- ^ https://www.cia.gov/library/publications/the-world-factbook/geos/wz.html#People CIA - The World Factbook: Thông tin Nhân khẩu Swaziland
- ^ Danh sách các quốc gia theo tỉ lệ nhiễm HIV/AIDS
- ^ http://www.haaretz.com/news/features/a-black-swazi-jew-defends-his-people-in-hungary.premium-1.519577
Liên kết ngoài
![]() |
Wikimedia Commons có thêm thể loại hình ảnh và phương tiện truyền tải về Swaziland |
|
|
Thể loại:
Sankt-Peterburg (tiếng Nga: Санкт-Петербург; đọc là Xanh Pê-téc-bua, tức là "Thành phố Thánh Phêrô") là một thành phố liên bang của Nga. Nó thành phố lớn thứ hai và cố đô của nước Nga, nằm trên châu thổ sông Neva và trên một hòn đảo cận kề; thông với Vịnh Phần Lan. Từ năm 1924 đến 1991 thành phố mang tên là Leningrad (tiếng Nga: Ленинград).
Dân số theo thống kê của năm 2005 là 4,7 triệu người, còn diện tích là trên 670 kilômét vuông (diện tích tổng thể còn lớn hơn nhiều và là 1.439 kilômét vuông, với gần 5 triệu 550 ngàn dân).
Trải qua nhiều thế kỉ tên của thành phố cũng bị thay đổi nhiều lần, thí dụ Sankt-Peterburg và Sankt Peterburh. Sau khi nổ ra Đệ nhất thế chiến, vào năm 1914 người ta đã đổi tên thành phố thành Petrograd để tránh tên gốc Đức (vì Nga đang giao chiến với Đức). Mười năm sau Petrograd lại đổi thành Leningrad, để tưởng niệm Vladimir Ilyich Lenin – vị lãnh tụ đã mất của nước Nga Xô Viết. Sau khi Liên Xô sụp đổ, thành phố được trả lại tên ban đầu sau một cuộc trưng cầu dân ý.
Đối với người Việt vào đầu thế kỷ 20 thì Sankt-Peterburg được phiên âm là Thành Bỉ Đắc như trong bài "Á Tế Á ca" của Phan Bội Châu.
Giấc mơ lớn nhất của Sa hoàng là xây dựng một thành phố thật qui củ để qua đó chứng tỏ sự hùng hậu của nước Nga. Dự án của công trình này được bắt đầu ngay từ năm 1703 trên Hòn đảo con thỏ giành được từ tay người Thụy Điển (người Viking). Công trình được xây dựng đầu tiên trên đảo là pháo đài SanktPiterburh, ngày nay gọi là Pháo đài Petro-Pavlov, thực hiện theo lệnh của Sa hoàng ngày 16 tháng 5, năm 1703 (là ngày 27 tháng 5 tính theo lịch Gregory). Ngày này được công nhận là "ngày khai sinh" của thành phố. Trên phiến đá kỉ niệm dịp này người ta đã khắc dòng chữ như sau: "Ngày 16 tháng 5, năm 1703, thành phố Sankt-Peterburg đã được Sa hoàng và Hoàng tử Aleksei Petrovich xếp đặt".
Vào năm 1917, thành phố được đổi tên thành Petrograd. Lúc này, triều đại Sa hoàng cuối cùng, Nikolai II, là triều đại rối ren. Chiến tranh với Nhật Bản không được ủng hộ. Chính sự thất bại đã châm ngòi cho những cuộc biểu tình phản đối trên đất nước. Ngày chủ nhật 22/1/1905, quân đội đã nã súng vào đoàn người biểu tình trước Cung điện Mùa đông ở Sankt Peterburg. Khoảng 1000 người biểu tình đã thiệt mạng. Trong đó có cả phụ nữ và trẻ em đã chết. Sự kiện Ngày Chủ nhật đẫm máu đã bị nhân dân toàn thế giới lên án. Các cuộc nổi dậy của nông dân, bãi công, biểu tình, ám sát và binh biến diễn ra liên tiếp, cho đến khi Sa hoàng Nikolai miễn cưỡng chấp nhận yêu sách của những người phản đối. Tháng 10 năm 1905, Sa hoàng Nikolai đã ký một văn kiện hứa đảm bảo quyền tự do ngôn luận và thành lập một hạ viện thông qua bầu cử - viện Duma.
Tình hình vẫn không giảm sau năm 1916, giá thức ăn tăng gấp 4 lần. Đoàn người chờ bánh mì trước Cung điện Mùa đông bắt đầu gây náo loạn. Trong khi đó, quân lính không theo lệnh vua, đứng ra lãnh đạo đoàn người biểu tình. Dân chúng luôn yêu cầu Sa hoàng phải thoái vị. Sau sự kiện Ngày Chủ nhật đẫm máu, không một quốc gia châu Âu nào đồng ý tiếp nhận vị Sa hoàng bị trục xuất này.
Cách mạng tháng Hai đã lật đổ Sa hoàng và chế độ phong kiến, lập nên thể chế dân chủ (tư sản), Chính phủ lâm thời thành lập do Kerensky đứng đầu. Nhưng những người Bolshevik đứng đầu là Vladimir Ilyich Lenin và Lev Trotsky tiếp tục đấu tranh, tổ chức những cuộc nổi dậy lan rộng trên đất nước. Đến ngày 7/11/1917 (theo lịch Julius là tháng 10), cuộc Cách mạng tháng Mười Nga đã thành công, lật đổ Chính phủ Lâm thời và lập ra nhà nước công nông đầu tiên.
Tháng 9 năm 1941, quân Đức bao vây Leningrad (Sankt Peterburg ngày nay). Cuộc chiến kéo dài 872 ngày. Gần một triệu người đã chết vì bom đạn, đói khát và bệnh tật. Khi quân Đức tiến vào thành phố, nhiều người đã trốn thoát. Tuy nhiên gần ba triệu người đã bị bắt.
Không có chất đốt để sưởi ấm và nước để uống, thức ăn không đủ. Trong tình trạng thiếu thốn đó, thịt của động vật nuôi, chuột và chim được sử dụng để nuôi con người. Chỉ tính riêng trong tháng Giêng và tháng Hai, đã có tới 200 nghìn người phải bỏ mạng. Cuối cùng, cuộc phong toả chấm dứt vào ngày 27/1/1944.
Trải qua các thời kỳ Lenin, Stalin, cuối cùng, Liên Xô tan rã thành 15 nước khác nhau. Tên thành phố từ Leningrad đổi thành cái tên ban đầu, là Sankt Peterburg. Nền kinh tế bắt đầu khôi phục lại. Tự do ngôn luận đã tạo một môi trường sôi động cho đời sống xã hội. Các hoạt động tôn giáo và nghệ thuật được phát triển. Du lịch trở thành nền kinh tế chính của thành phố. Các điểm đến du lịch hấp dẫn, như Cung điện mùa đông, Cung điện mùa hè...đẹp tuyệt vời sáng chói giữa phương Bắc lạnh giá của Nga khiến cho thành phố này như một Venice của phương Bắc.
Petersburg nằm trên vùng đất thấp taiga dọc theo bờ biển của vịnh Neva thuộc Vịnh Phần Lan, và các đảo của đồng bằng châu thổ. Đảo Vasilyevsky là đảo lớn nhất (bên cạnh các đảo nhân tạo giữa kênh đào Obvodny và Fontanka, và Kotlin trong vịnh Neva), Petrogradsky, Dekabristov và Krestovsky. Krestovsky cùng với Yelagin và đảo Kamenny hầu hết được chuyển thành các công viên. Karelian Isthmus, ở phía bắc thành phố, là khu nghỉ dưỡng đông đúc. Ở phóa nam Saint Petersburg băng qua Baltic-Ladoga Klint và đến cao nguyên Izhora.
Cao độ của Saint Petersburg từ mực nước biển đến điểm cao nhất là 175,9 mét (577 ft) trên đồi Orekhovaya thuộc Duderhof Heights ở phía nam. Phần đất ở phía tây của Liteyny Prospekt không cao hơn 4 mét (13 ft) so với mực nước biển, và thường xuyên bị ngập. Ngập lụt ở Saint Petersburg chủ yếu từ sóng dài của biển Baltic, do chịu sự ảnh hưởng của các điều kiện khí tượng, gió và độ nông của vịnh Neva. Bốn trận lụt lịch sử diễn ra vào năm 1824 (cao 421 xentimét hoặc 166 inch, trong đợt lụt này hơn 300 nhà bị phá hủy[9]), 1924 380 xentimét hoặc 150 inch, 1777 321 xentimét hoặc 126 inch, 1955 293 xentimét hoặc 115 inch, và 1975 281 xentimét hoặc 111 inch. Người ta xây đập Saint Petersburg để ngăn lụt.[10]
Từ thế kỷ 18 địa hình của thành phố được nâng lên do các yếu tố nhân tạo, ở những nơi có độ cao trên 4 mét (13 ft), làm sáp nhập một số đảo, và thay đổi chế độ thủy văn của thành phố. Bên cạnh sông Neva và các phụ lưu của nó, các sông quan trọng khác gồm Sestra, Okhta và Izhora. Hồ lớn nhất là Sestroretsky Razliv nằm ở phía bắc, theo sau là Lakhtinsky Razliv, Suzdal và các hồ nhỏ khác.
Do nằm ở vĩ độ khoảng 60°Bắc, nên độ dài ban ngày ở Petersburg thay đổi theo mùa, từ 5:53 đến 18:50. Trong khoảng thời gian từ giữa tháng 5 đến giữa tháng 7, hoàng hôn có thể kéo dài cả đêm nên được gọi là "đêm trắng".
NHiệt độ trung bình lớn nhất vào tháng 7 là 23 °C (73 °F); nhiệt độ cực điểm là 37,1 °C (98,8 °F) xuất hiện vào mùa hè năm 2010. Nhiệt độ thấp nhất vào mùa đông là −35,9 °C (−32,6 °F) được ghi nhận vào năm 1883. Nhiệt độ trung bình năm là 5,8 °C (42,4 °F). Sông Neva chảy qua thành phố thường bị đóng băng vào tháng 11-12 và tan băng vào tháng 4. Từ tháng 12 đến tháng 3, trung bình có 118 ngày bị phủ tuyết, với bề dày trung bình đạt 19 cm (7,5 in) vào tháng 2.[11] Thời gian không đóng băng trong thành phố kéo dài trung bình 135 ngày. Trung tâm thành phố hơi ấm hơn vùng ngoại ô. Các điều kiện khí hậu khá thay đổi trong cả năm.[12][13]
Video yêu thích
http://www.youtube.com/user/hoangkimvietnam
Trở về trang chính
hoangkim vietnam, hoangkim, hoangkimvietnam, Hoàng Kim, Ngọc Phương Nam, Chào ngày mới Thung dung, Dạy và học, Cây Lương thực, Tin Nông nghiệp Việt Nam, Food Crops, Cassava in Vietnam, VietnamAfricaCassavaRice, Khát khao xanh, Dayvahoc, Học mỗi ngày, Danh nhân Việt , Food Crops News, Điểm chính, CNM365, Kim LinkedIn, KimTwitter, KimFaceBook Đọc lại và suy ngẫm, Việt Nam tổ quốc tôi, Tình yêu cuộc sống, Thơ cho con
- Swaziland
- Quân chủ lập hiến
- Quốc gia thành viên Khối Thịnh vượng chung Anh
- Quốc gia và vùng lãnh thổ nói tiếng Anh
Sankt-Peterburg
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Sankt-Peterburg | |||
---|---|---|---|
Санкт-Петербург (tiếng Nga) | |||
— Thành phố liên bang — | |||
Chiều kim đồng hồ từ phía trên bên trái: Nhà thờ Saint Isaac, Peter và Pháo đài Paul trên đảo Zayachy, Quảng trường Cung điện với cột trụ Alexander, Cung điện Mùa đông, Cung điện Petergof và Nevsky Prospekt. | |||
|
|||
Tọa độ: 59°57′B 30°18′ĐTọa độ: 59°57′B 30°18′Đ | |||
Địa vị chính trị | |||
Quốc gia | Liên bang Nga | ||
Vùng liên bang | Tây bắc[1] | ||
Vùng kinh tế | Tây Bắc[2] | ||
Thành lập | 27 tháng 5, 1703[3] | ||
Thành phố liên bang Ngày lễ | 27 tháng 5[4] | ||
Chính quyền (tại thời điểm tháng 3 năm 2010) | |||
- Thống đốc | Georgy Poltavchenko | ||
- Cơ quan lập pháp | Cơ quan lập pháp | ||
Thống kê | |||
Diện tích [5] | |||
- Tổng cộng | 1.439 km2 (555,6 sq mi) | ||
Thứ tự toàn Nga | 82nd | ||
Dân số (điều tra 2010) | |||
- Tổng cộng | 4.879.566 | ||
- Hạng | 4th | ||
- Mật độ[6] | 3.390,94 /km2 (8.782,5 /sq mi)[Chuyển đổi: Số không hợp lệ] | ||
- Đô thị | 100% | ||
- Nông thôn | 0% | ||
Dân số (2013 est.) | 5.028.000 người[7] | ||
Múi giờ | |||
ISO 3166-2 | RU-SPE | ||
Biển số xe | 78, 98, 178 | ||
Ngôn ngữ chính thức | tiếng Nga[8] |
Dân số theo thống kê của năm 2005 là 4,7 triệu người, còn diện tích là trên 670 kilômét vuông (diện tích tổng thể còn lớn hơn nhiều và là 1.439 kilômét vuông, với gần 5 triệu 550 ngàn dân).
Trải qua nhiều thế kỉ tên của thành phố cũng bị thay đổi nhiều lần, thí dụ Sankt-Peterburg và Sankt Peterburh. Sau khi nổ ra Đệ nhất thế chiến, vào năm 1914 người ta đã đổi tên thành phố thành Petrograd để tránh tên gốc Đức (vì Nga đang giao chiến với Đức). Mười năm sau Petrograd lại đổi thành Leningrad, để tưởng niệm Vladimir Ilyich Lenin – vị lãnh tụ đã mất của nước Nga Xô Viết. Sau khi Liên Xô sụp đổ, thành phố được trả lại tên ban đầu sau một cuộc trưng cầu dân ý.
Đối với người Việt vào đầu thế kỷ 20 thì Sankt-Peterburg được phiên âm là Thành Bỉ Đắc như trong bài "Á Tế Á ca" của Phan Bội Châu.
Mục lục
Lịch sử thành phố
Giấc mơ lớn nhất của Sa hoàng là xây dựng một thành phố thật qui củ để qua đó chứng tỏ sự hùng hậu của nước Nga. Dự án của công trình này được bắt đầu ngay từ năm 1703 trên Hòn đảo con thỏ giành được từ tay người Thụy Điển (người Viking). Công trình được xây dựng đầu tiên trên đảo là pháo đài SanktPiterburh, ngày nay gọi là Pháo đài Petro-Pavlov, thực hiện theo lệnh của Sa hoàng ngày 16 tháng 5, năm 1703 (là ngày 27 tháng 5 tính theo lịch Gregory). Ngày này được công nhận là "ngày khai sinh" của thành phố. Trên phiến đá kỉ niệm dịp này người ta đã khắc dòng chữ như sau: "Ngày 16 tháng 5, năm 1703, thành phố Sankt-Peterburg đã được Sa hoàng và Hoàng tử Aleksei Petrovich xếp đặt".
Vào năm 1917, thành phố được đổi tên thành Petrograd. Lúc này, triều đại Sa hoàng cuối cùng, Nikolai II, là triều đại rối ren. Chiến tranh với Nhật Bản không được ủng hộ. Chính sự thất bại đã châm ngòi cho những cuộc biểu tình phản đối trên đất nước. Ngày chủ nhật 22/1/1905, quân đội đã nã súng vào đoàn người biểu tình trước Cung điện Mùa đông ở Sankt Peterburg. Khoảng 1000 người biểu tình đã thiệt mạng. Trong đó có cả phụ nữ và trẻ em đã chết. Sự kiện Ngày Chủ nhật đẫm máu đã bị nhân dân toàn thế giới lên án. Các cuộc nổi dậy của nông dân, bãi công, biểu tình, ám sát và binh biến diễn ra liên tiếp, cho đến khi Sa hoàng Nikolai miễn cưỡng chấp nhận yêu sách của những người phản đối. Tháng 10 năm 1905, Sa hoàng Nikolai đã ký một văn kiện hứa đảm bảo quyền tự do ngôn luận và thành lập một hạ viện thông qua bầu cử - viện Duma.
Tình hình vẫn không giảm sau năm 1916, giá thức ăn tăng gấp 4 lần. Đoàn người chờ bánh mì trước Cung điện Mùa đông bắt đầu gây náo loạn. Trong khi đó, quân lính không theo lệnh vua, đứng ra lãnh đạo đoàn người biểu tình. Dân chúng luôn yêu cầu Sa hoàng phải thoái vị. Sau sự kiện Ngày Chủ nhật đẫm máu, không một quốc gia châu Âu nào đồng ý tiếp nhận vị Sa hoàng bị trục xuất này.
Cách mạng tháng Hai đã lật đổ Sa hoàng và chế độ phong kiến, lập nên thể chế dân chủ (tư sản), Chính phủ lâm thời thành lập do Kerensky đứng đầu. Nhưng những người Bolshevik đứng đầu là Vladimir Ilyich Lenin và Lev Trotsky tiếp tục đấu tranh, tổ chức những cuộc nổi dậy lan rộng trên đất nước. Đến ngày 7/11/1917 (theo lịch Julius là tháng 10), cuộc Cách mạng tháng Mười Nga đã thành công, lật đổ Chính phủ Lâm thời và lập ra nhà nước công nông đầu tiên.
Tháng 9 năm 1941, quân Đức bao vây Leningrad (Sankt Peterburg ngày nay). Cuộc chiến kéo dài 872 ngày. Gần một triệu người đã chết vì bom đạn, đói khát và bệnh tật. Khi quân Đức tiến vào thành phố, nhiều người đã trốn thoát. Tuy nhiên gần ba triệu người đã bị bắt.
Không có chất đốt để sưởi ấm và nước để uống, thức ăn không đủ. Trong tình trạng thiếu thốn đó, thịt của động vật nuôi, chuột và chim được sử dụng để nuôi con người. Chỉ tính riêng trong tháng Giêng và tháng Hai, đã có tới 200 nghìn người phải bỏ mạng. Cuối cùng, cuộc phong toả chấm dứt vào ngày 27/1/1944.
Trải qua các thời kỳ Lenin, Stalin, cuối cùng, Liên Xô tan rã thành 15 nước khác nhau. Tên thành phố từ Leningrad đổi thành cái tên ban đầu, là Sankt Peterburg. Nền kinh tế bắt đầu khôi phục lại. Tự do ngôn luận đã tạo một môi trường sôi động cho đời sống xã hội. Các hoạt động tôn giáo và nghệ thuật được phát triển. Du lịch trở thành nền kinh tế chính của thành phố. Các điểm đến du lịch hấp dẫn, như Cung điện mùa đông, Cung điện mùa hè...đẹp tuyệt vời sáng chói giữa phương Bắc lạnh giá của Nga khiến cho thành phố này như một Venice của phương Bắc.
Địa lý
Trung tâm thành phố Saint Petersburg có diện tích 605,8 kilômét vuông (233,9 sq mi). Nếu tính là chủ thể liêng bang thì diện tich của thành phố là 1.439 kilômét vuông (556 sq mi), bao gồm trung tâm Saint Petersburg, 9 thị trấn (Kolpino, Krasnoye Selo, Kronstadt, Lomonosov, Pavlovsk, Petergof, Pushkin, Sestroretsk, Zelenogorsk) – và 21 đô thị khác.Petersburg nằm trên vùng đất thấp taiga dọc theo bờ biển của vịnh Neva thuộc Vịnh Phần Lan, và các đảo của đồng bằng châu thổ. Đảo Vasilyevsky là đảo lớn nhất (bên cạnh các đảo nhân tạo giữa kênh đào Obvodny và Fontanka, và Kotlin trong vịnh Neva), Petrogradsky, Dekabristov và Krestovsky. Krestovsky cùng với Yelagin và đảo Kamenny hầu hết được chuyển thành các công viên. Karelian Isthmus, ở phía bắc thành phố, là khu nghỉ dưỡng đông đúc. Ở phóa nam Saint Petersburg băng qua Baltic-Ladoga Klint và đến cao nguyên Izhora.
Cao độ của Saint Petersburg từ mực nước biển đến điểm cao nhất là 175,9 mét (577 ft) trên đồi Orekhovaya thuộc Duderhof Heights ở phía nam. Phần đất ở phía tây của Liteyny Prospekt không cao hơn 4 mét (13 ft) so với mực nước biển, và thường xuyên bị ngập. Ngập lụt ở Saint Petersburg chủ yếu từ sóng dài của biển Baltic, do chịu sự ảnh hưởng của các điều kiện khí tượng, gió và độ nông của vịnh Neva. Bốn trận lụt lịch sử diễn ra vào năm 1824 (cao 421 xentimét hoặc 166 inch, trong đợt lụt này hơn 300 nhà bị phá hủy[9]), 1924 380 xentimét hoặc 150 inch, 1777 321 xentimét hoặc 126 inch, 1955 293 xentimét hoặc 115 inch, và 1975 281 xentimét hoặc 111 inch. Người ta xây đập Saint Petersburg để ngăn lụt.[10]
Từ thế kỷ 18 địa hình của thành phố được nâng lên do các yếu tố nhân tạo, ở những nơi có độ cao trên 4 mét (13 ft), làm sáp nhập một số đảo, và thay đổi chế độ thủy văn của thành phố. Bên cạnh sông Neva và các phụ lưu của nó, các sông quan trọng khác gồm Sestra, Okhta và Izhora. Hồ lớn nhất là Sestroretsky Razliv nằm ở phía bắc, theo sau là Lakhtinsky Razliv, Suzdal và các hồ nhỏ khác.
Do nằm ở vĩ độ khoảng 60°Bắc, nên độ dài ban ngày ở Petersburg thay đổi theo mùa, từ 5:53 đến 18:50. Trong khoảng thời gian từ giữa tháng 5 đến giữa tháng 7, hoàng hôn có thể kéo dài cả đêm nên được gọi là "đêm trắng".
Khí hậu
Theo phân loại khí hậu của Köppen, Saint Petersburg được xếp vào nhóm khí hậu lục địa ẩm. Chịu sự ảnh hưởng vừa phải của các xoáy từ biển Baltic nên thành phố có khí hậu ấm, ẩm và mùa hè ngắn, mùa đông ẩm ướt, kéo dài.NHiệt độ trung bình lớn nhất vào tháng 7 là 23 °C (73 °F); nhiệt độ cực điểm là 37,1 °C (98,8 °F) xuất hiện vào mùa hè năm 2010. Nhiệt độ thấp nhất vào mùa đông là −35,9 °C (−32,6 °F) được ghi nhận vào năm 1883. Nhiệt độ trung bình năm là 5,8 °C (42,4 °F). Sông Neva chảy qua thành phố thường bị đóng băng vào tháng 11-12 và tan băng vào tháng 4. Từ tháng 12 đến tháng 3, trung bình có 118 ngày bị phủ tuyết, với bề dày trung bình đạt 19 cm (7,5 in) vào tháng 2.[11] Thời gian không đóng băng trong thành phố kéo dài trung bình 135 ngày. Trung tâm thành phố hơi ấm hơn vùng ngoại ô. Các điều kiện khí hậu khá thay đổi trong cả năm.[12][13]
http://www.youtube.com/user/hoangkimvietnam
Trở về trang chính
hoangkim vietnam, hoangkim, hoangkimvietnam, Hoàng Kim, Ngọc Phương Nam, Chào ngày mới Thung dung, Dạy và học, Cây Lương thực, Tin Nông nghiệp Việt Nam, Food Crops, Cassava in Vietnam, VietnamAfricaCassavaRice, Khát khao xanh, Dayvahoc, Học mỗi ngày, Danh nhân Việt , Food Crops News, Điểm chính, CNM365, Kim LinkedIn, KimTwitter, KimFaceBook Đọc lại và suy ngẫm, Việt Nam tổ quốc tôi, Tình yêu cuộc sống, Thơ cho con
Best content & valuable as well. Thanks for sharing this content.
ReplyDeleteApproved Auditor in DAFZA
Approved Auditor in RAKEZ
Approved Auditor in JAFZA
i heard about this blog & get actually whatever i was finding. Nice post love to read this blog
Approved Auditor in DMCC
Good luck & keep writing such awesome content.
ReplyDeleteVirgin Linseed Oil BP
Pure Linseed Oil