CNM365 Chào ngày mới 7 tháng 9. Wihipedia Ngày này năm xưa. Bắt đầu Bạch lộ (17:01 UTC, 2014); ngày Độc lập tại Brasil (1822). Năm 1812 – Chiến tranh Pháp-Nga: Trận chiến đẫm máu nhất trong các cuộc chiến tranh của Napoléon diễn ra gần Moskva. Năm 1893 – Genoa C.F.C. được thành lập bởi những người Anh với tên gọi "Genoa Cricket & Athletic Club", là câu lạc bộ bóng đá lâu đời nhất của Ý. Năm 1945 – Chiến tranh thế giới II: Không quân Đức thay đổi chiến thuật trong trận Không chiến tại Anh Quốc, bắt đầu oanh kích London và các thành thị của Anh trong hơn 50 đêm liên tiếp. Năm 1986 – Desmond Tutu (hình) trở thành người da đen đầu tiên lãnh đạo Giáo hội Anh giáo Nam Phi.
Brasil
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Cộng hoà Liên bang Brasil | |||||
---|---|---|---|---|---|
República Federativa do Brasil (tiếng Bồ Đào Nha) | |||||
|
|||||
Khẩu hiệu | |||||
Ordem e Progresso (Tiếng Bồ Đào Nha: "Trật tự và Tiến bộ") |
|||||
Quốc ca | |||||
Hino Nacional Brasileiro | |||||
Hành chính | |||||
Chính phủ | Cộng hòa liên bang | ||||
Tổng thống | Dilma Rousseff | ||||
Phó tổng thống | Michel Temer | ||||
Ngôn ngữ chính thức | Tiếng Bồ Đào Nha | ||||
Thủ đô | Brasília |
||||
Thành phố lớn nhất | São Paulo | ||||
Địa lý | |||||
Diện tích | 8.514.877 km² 3.287.597 mi² (hạng 5) |
||||
Diện tích nước | 0,65 % | ||||
Múi giờ | UTC−2 đến −5; −3 chính thức; mùa hè: Tùy tiểu bang (UTC−2 đến −5) | ||||
Lịch sử | |||||
Độc lập
|
|||||
7 tháng 9 năm 1822 | Tuyên bố | ||||
29 tháng 8 năm 1825 | Công nhận | ||||
15 tháng 11 năm 1889 | Cộng hòa | ||||
5 tháng 10 năm 1988 | Hiến pháp hiện tại | ||||
Dân cư | |||||
Dân số ước lượng (2012) | 199.321.413[1][2] người (hạng 5) | ||||
Dân số (2007) | 189.987.291 người | ||||
Mật độ | 22 người/km² (hạng 182)57 người/mi² | ||||
Kinh tế | |||||
GDP (PPP) (2010) | Tổng số: 2.090 tỷ USD (hạng 9) | ||||
GDP (danh nghĩa) (2008) | Tổng số: 1.572 tỷ USD (hạng 10) | ||||
HDI (2006) | 0,807 cao (hạng 70) | ||||
Hệ số Gini (2009) | 49,3 (cao) | ||||
Đơn vị tiền tệ | Real Brasil (R$) (BRL ) |
||||
Thông tin khác | |||||
Tên miền Internet | .br | ||||
Mã điện thoại | 55 |
Nước này tiếp giáp với 11 quốc gia và vùng lãnh thổ Nam Mỹ: giáp với Venezuela, Guyana, Suriname và Guyane thuộc Pháp về phía bắc, Colombia về phía tây bắc, Bolivia và Peru về phía tây, Argentina và Paraguay về phía tây nam và Uruguay về phía nam. phía đông Brasil là một đường bờ biển dài 7.491 km tiếp giáp với Đại Tây Dương. Lãnh thổ Brasil bao gồm nhiều quần đảo như Fernando de Noronha, Rocas Atoll, Saint Peter và Paul Rocks, và Trindade và Martim Vaz.[4] Brasil tiếp giáp với tất cả các nước ở Nam Mỹ khác trừ Ecuador và Chile.[4]
Brasil là thuộc địa của Bồ Đào Nha từ khi Pedro Álvares Cabral đặt chân đến năm 1500 cho đến năm 1815 khi nước này được nâng lên cho Vương quốc Anh với Bồ Đào Nha và Algarves. Liên kết thuộc địa tan vỡ năm 1808 khi thủ đô của Vương quốc Bồ Đào Nha được chuyển từ Lisbon đến Rio de Janeiro sau khi Napoleon xâm lược Bồ Đào Nha.[5] Brasil giành được độc lập từ Bồ Đào Nha vào năm 1822. Đầu tiên là Đế quốc Brasil, sau đó trở thành một nước cộng hòa vào năm 1889 mặc dù nền lập pháp lưỡng viện, bây giờ là Quốc hội, có từ năm 1824, khi hiến pháp đầu tiên được thông qua.[5] Hiến pháp hiện nay xác lập Brazil là một nước cộng hòa liên bang.[6] Liên bang được hình thành bởi liên hiệp của Quận liên bang, 26 bang và 5.564 khu tự quản.[6][7]
Kinh tế Brasil là nền kinh tế lớn thứ tám trên thế giới dựa trên GDP danh nghĩa[8] và thứ bảy dựa trên GDP sức mua tương đương.[9] Đây là một trong những nền kinh tế phát triển nhanh nhất thế giới. Cải cách kinh tế đã đem lại cho đất nước sự công nhận mới của quốc tế.[10] Brasil là thành viên sáng lập của Liên Hiệp Quốc, G20, CPLP, Liên minh Latin, Tổ chức các bang Ibero-Mỹ, Mercosul và Liên minh các quốc gia Nam Mỹ và là một trong bốn nước BRIC. Brasil cũng là quê hương của môi trường tự nhiên và hoang dã phong phú và nhiều tài nguyên tự nhiên ở các khu được bảo tồn.[4]
Mục lục
Lịch sử
Thời kỳ Tiền Colombo
Những hóa thạch được tìm thấy tại Brasil là bằng chứng về việc con người đã đến định cư tại vùng đất này ít nhất 8000 năm về trước. Tuy nhiên câu hỏi về việc ai là người đầu tiên đến Brasil vẫn còn là một vấn đề gây tranh cãi. Nhìn chung các nhà khảo cổ học cho rằng đó là những thợ săn người châu Á di cư qua eo biển Bering qua Alaska, xuống châu Mỹ rồi đến Brasil. Tuy nhiên một số nhà khảo cổ khác lại cho rằng những cư dân cổ hơn tại Brasil có nguồn gốc gần với người châu Úc và châu Phi bản địa.[11]Trong khi người da đỏ phía tây dãy núi Andes phát triển những quốc gia thành thị có nền văn hóa cao, tiêu biểu như Đế chế Inca ở Peru thì người da đỏ ở Brasil lại sống theo hình thức bán du mục gồm săn bắn, đánh bắt cá và trồng trọt. Họ không có chữ viết hay xây dựng những công trình kiến trúc quy mô cho nên việc tìm hiểu về họ rất khó khăn, chủ yếu là qua đồ gốm. Khi người châu Âu tìm ra Brasil, mật độ thổ dân ở Brasil rất thấp, dân số chỉ khoảng 1 triệu người. Ngày nay, thổ dân da đỏ ở Brasil một phần bị lai với các chủng tộc khác hoặc sống nguyên thủy trong những rừng Amazon.
Thuộc địa Brasil
Thời gian đầu, người Bồ Đào Nha không mấy mặn mà với Brasil mà tập trung nhiều hơn vào các hoạt động thương mại với Trung Quốc, Ấn Độ và Indonesia. Với nguồn tài nguyên và đất đai chưa khai phá hết sức lớn, nhiều nước châu Âu khác như Pháp và Hà Lan cũng muốn lập thuộc địa tại Brasil song cuối cùng đều thất bại trước người Bồ Đào Nha.
Tên gọi Brasil bắt nguồn từ tên một mặt hàng xuất khẩu chủ lực của vùng đất này: cây vang (trong tiếng Bồ Đào Nha là Pau-Brasil), một loại cây cung cấp nhựa để làm phẩm nhuộm màu đỏ. Sang thế kỉ 17, mía đường dần thay thế cây vang để trở thành mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Brasil. Các quý tộc và chủ đất người Bồ Đào Nha đã lập ra các đồn điền trồng mía rộng lớn và bắt hàng triệu người da đen từ châu Phi sang làm nô lệ làm việc trên các đồn điền này. Người da đen bị đối xử rất khắc nghiệt nên họ đã nhiều lần nổi dậy đấu tranh, mà tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa năm 1835 tại Salvador, Bahia [12] song thường không thành công.
Đế chế Brasil
Vào năm 1808, để chạy trốn khỏi quân đội Napoléon, hoàng gia Bồ Đào Nha cùng chính phủ đã di cư đến thủ đô lúc bấy giờ của Brasil là Rio de Janeiro. Đây là sự di cư xuyên lục địa của một hoàng tộc duy nhất trong lịch sử. Năm 1815, vua João VI (John IV) của Bồ Đào Nha tuyên bố Brasil là một vương quốc hợp nhất với Bồ Đào Nha và Algarve (nay là miền nam Bồ Đào Nha). Từ đó, về mặt danh nghĩa thì Brasil không còn là một thuộc địa nữa nhưng quyền nhiếp chính thì vẫn nằm trong tay của Bồ Đào Nha. Khi João VI trở về Bồ Đào Nha vào năm 1821, con trai ông là Pedro lên nối ngôi vua Brasil. Ngày 7 tháng 9 năm 1822, trước phong trào đấu tranh của người dân, Pedro đã tuyên bố Brasil ly khai khỏi Bồ Đào Nha ("Độc lập hay là Chết") và thành lập Đế chế Brasil độc lập. Vua Pedro tự phong danh hiệu Hoàng đế Pedro I của Brasil và thường được biết đến với tên gọi Dom Predo.Hoàng đế Pedro I trở về Bồ Đào Nha vào năm 1831 do những bất đồng với các chính trị gia Brasil. Con trai ông là vua Pedro II lên ngôi năm 1840 khi mới 14 tuổi sau 9 năm chế độ nhiếp chính. Pedro II đã xây dựng một chế độ quân chủ gần giống nghị viện kéo dài đến năm 1889 khi ông bị phế truất trong một cuộc đảo chính để thành lập nước cộng hòa. Trước khi kết thúc thời gian cai trị của mình, vua Pedro II đã xóa bỏ chế độ chiếm hữu nô lệ tại Brasil vào năm 1888. Đây cũng chính là nguyên nhân khiến ông bị giới chủ nô căm ghét và loại bỏ khỏi ngai vàng.
Nền Cộng hòa cũ (1889-1930)
Pedro II bị phế truất vào ngày 15 tháng 11 năm 1889 trong một cuộc đảo chính quân sự của những người cộng hòa. Tướng Deodero de Fonseca, người lãnh đạo cuộc đảo chính đã trở thành tổng thống trên thực tế đầu tiên của Brasil. Tên của đất nước được đổi thành Cộng hòa Hợp chúng quốc Brasil (đến năm 1967 thì đổi lại thành Cộng hòa Liên bang Brasil như ngày nay). Trong khoảng thời gian từ năm 1889 đến năm 1930, Brasil là một quốc gia với chính phủ theo thể chế dân chủ lập hiến, với chức tổng thống luân phiên giữa hai bang lớn là Sao Paulo và Minas Gerais.Đến cuối thế kỉ 19, cà phê đã trở thành mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Brasil thay cho đường mía. Việc buôn bán cà phê với nước ngoài đã làm nên sự thịnh vượng của Brasil về mặt kinh tế, đồng thời cũng thu hút một số lượng đáng kể người nhập cư đến từ các quốc gia châu Âu, chủ yếu là Italia và Đức. Dân số tăng lên cùng với nguồn nhân công dồi dào đã cho phép đất nước Brasil phát triển các ngành công nghiệp và mở rộng lãnh thổ vào sâu hơn trong lục địa.
Thời kỳ này, với tên gọi là "Nền Cộng hòa cũ" kết thúc vào năm 1930 do một cuộc đảo chính quân sự mà sau đó Getulio Vargas lên chức tổng thống.
Chủ nghĩa dân túy và sự phát triển (1930-1964)
Getulio Vargas lên nắm quyền sau cuộc đảo chính của giới quân sự năm 1930. Ông đã cai trị Brasil như một nhà độc tài với những thời kỳ dân chủ xen kẽ. Sau năm 1930, chính phủ Brasil vẫn tiếp tục thành công trong các dự án phát triển nông nghiệp, công nghiệp và mở mang vùng lãnh thổ nội địa rộng lớn của Brasil.Tổng thống Getulio Vargas đã cai trị như một nhà độc tài trong hai nhiệm kỳ 1930-1934 và 1937-1945. Ông tiếp tục được bầu làm tổng thống Brasil trong khoảng thời gian 1951-1954. Getulio Vargas đã có những ý tưởng mới về nền chính trị của Brasil để thúc đầy hơn nữa sự phát triển đất nước. Ông hiểu rằng trong bối cảnh nền công nghiệp đang phát triển mạnh tại Brasil lúc bấy giờ, những người công nhân sẽ trở thành một thế lực chính trị đông đảo tại đây, kèm theo một hình thức quyền lực chính trị mới - chủ nghĩa dân túy. Nắm bắt được điều đó, tổng thống Vargas đã kiểm soát nền chính trị của Brasil một cách tương đối ổn định trong vòng 15 năm đến khi ông tự tử vào năm 1954.
Sau hai giai đoạn độc tài dưới thời tổng thống Getulio Vargas, nhìn chung chế độ dân chủ đã chiếm ưu thế tại Brasil trong khoảng thời gian 1945-1964. Một trong những sự kiện quan trọng diễn ra trong thời kỳ này là thủ đô của Brasil được chuyển từ thành phố Rio de Janeiro sang thành phố Brasilia.
Chế độ độc tài quân sự (1964-1985)
Những khủng hoảng về mặt kinh tế, xã hội đã dẫn tới cuộc đảo chính của giới quân sự vào năm 1964. Cuộc đảo chính đã nhận được sự giúp đỡ một số chính trị gia quan trọng, ví dụ như José de Magalhães Pinto, thống đốc bang Minas Gerais và nhận được sự hậu thuẫn của chính phủ Mỹ. Sau cuộc đảo chính, một giai đoạn độc tài quân sự được thiết lập tại Brasil trong vòng 21 năm với việc quân đội kiểm soát toàn bộ nền chính trị của đất nước. Trong những năm đầu tiên sau đảo chính, kinh tế Brasil vẫn tiếp tục tăng trưởng nhanh do các chính sách cải cách kinh tế được ban hành. Nhưng sau đó, những cải cách này đã không phát huy được tác dụng và khiến nền kinh tế Brasil lâm vào tình trạng khó khăn. Nợ nước ngoài tăng lên nhanh chóng trong khi hàng ngàn người Brasil bị chính phủ độc tài quân sự trục xuất, bắt giữ, tra tấn và thậm chí bị giết hại.Brasil từ năm 1985 đến nay
Năm 1985, Brasil bắt đầu quay trở lại tiến trình dân chủ. Tancredo Neves được bầu làm tổng thống nhưng ông đã qua đời trước khi tuyên thệ nhậm chức, phó tổng thống Jose Sarney được cử lên thay thế. Vào tháng 12 năm 1989, Fernando Collor de Mello được bầu làm tổng thống và ông đã dành những năm đầu tiên của nhiệm kỳ để khắc phục tình trạng siêu lạm phát của Brasil, lúc bấy giờ đã đạt mức 25% mỗi tháng. Những tổng thống kế nhiệm ông đã tiếp tục duy trì các chính sách kinh tế mở như tự do thương mại và tiến hành tư nhân hóa các xí nghiệp của nhà nước[13].Tháng 1 năm 1995, Fernando Henrique Cardoso nhậm chức tổng thống Brasil sau khi đánh bại ứng cử viên cánh tả Lula da Silva. Ông đã có những kế hoạch cải cách kinh tế hiệu quả và đưa Brasil vượt qua cuộc khủng hoảng tài chính năm 1998. Năm 2000, tổng thống Condor đã yêu cầu phải công khai những tài liệu về mạng lưới các chế độ độc tài quân sự tại Nam Mỹ.
Ngày nay, một trong những vấn đề khó khăn nhất của đất nước Brasil là sự bất bình đẳng trong thu nhập cũng như nhiều vấn đề xã hội nhức nhối khác. Vào thập niên 1990, vẫn còn khoảng một phần tư dân số Brasil sống dưới mức 1 đô la Mỹ một ngày. Những căng thẳng về xã hội và kinh tế này đã giúp ứng cử viên cánh tả Lula de Silva thắng cử tổng thống vào năm 2002. Sau khi nhậm chức, các chính sách kinh tế dưới thời tổng thống Cardoso vẫn được duy trì[14]. Mặc dù có một vài tai tiếng trong chính phủ song nhiều chính sách xóa đói giảm nghèo của tổng thống Silva đã thu được thành công nhất định. Ông đã nâng mức lương tối thiểu từ 200 real lên 350 real trong vòng 4 năm, xây dựng chương trình Fome Zero (Không có người đói) để giải quyết nạn đói trong tầng lớp người nghèo tại Brasil. Những chính sách nhằm giảm tỉ lệ thất nghiệp và sự phụ thuộc vào dầu lửa cũng đã mang lại hiệu quả tích cực.
Chính trị
Chính phủ
Theo hiến pháp, Brasil là một quốc gia theo thể chế cộng hòa liên bang, được tạo lập dựa trên 4 thực thể chính trị là Liên bang, bang, các chính quyền thành phố tự trị và quận liên bang[15]. Không có sự phân cấp cụ thể nào về quyền lực giữa các thực thể chính trị này. Chính quyền Brasil được chia thành các nhánh: lập pháp, hành pháp và tư pháp. Hoạt động của các nhánh này diễn ra độc lập với nhau và đồng thời được kiểm tra và điều chỉnh cân bằng sao cho thích hợp. Nhánh hành pháp và lập pháp được tổ chức ở cả 4 thực thể chính trị, trong khi nhánh tư pháp chỉ được tổ chức ở cấp Liên bang và bang.Nhánh hành pháp được thực thi bởi chính phủ, trong khi nhánh lập pháp được thực thi bởi cả chính phủ và hai viện của quốc hội Brasil. Nhánh tư pháp hoạt động riêng rẽ với hai nhánh trên. Về nhánh hành pháp, người đứng đầu nhà nước là tổng thống Brasil có nhiệm kỳ 4 năm và được phép nắm tối đa 2 nhiệm kỳ. Đương kim tổng thống hiện nay của nước này là bà Dilma Rousseff, đắc cử tháng 10 năm 2010. Tổng thống có quyền chỉ định thủ tướng liên bang, có vai trò hỗ trợ cho tổng thống trong việc điều hành đất nước. Về nhánh lập pháp, Quốc hội của Brasil được chia làm 2 viện: thượng viện và hạ viện. Thượng viện Liên bang Brasil gồm có 81 ghế, phân bố đều mỗi 3 ghế cho 26 bang và quận liên bang (thủ đô) và có nhiệm kỳ 8 năm. Hạ viện có tổng cộng 513 ghế, được bầu cử theo nhiệm kỳ 4 năm và phân bố theo tỉ lệ bang.
Một trong những nguyên tắc chính trị của nền cộng hòa là hệ thống đa đảng, như một sự đảm bảo về tự do chính trị. Hiện nay có tổng cộng 15 đảng chính trị lớn nhỏ có ghế trong Quốc hội Brasil. Bốn đảng lớn nhất hiện nay là Đảng Công nhân Brasil (PT), Đảng Dân chủ Xã hội Brasil (PSDB), Đảng Vận động Dân chủ Brasil (PMDB) và Đảng Dân chủ (tiền thân là Đảng Mặt trận Tự do - PFL).
Luật pháp
Luật pháp của Brasil dựa trên luật La Mã - Germania truyền thống[16]. Hiến pháp Liên bang, được thông qua vào ngày 5 tháng 10 năm 1988 là bộ luật cơ bản nhất của Brasil. Tất cả những quyết định của nhánh lập pháp và tòa án đều phải dựa trên Hiến pháp Brasil. Các bang của Brasil đều có hiến pháp riêng của bang mình, nhưng không được trái với Hiến pháp Liên bang. Các chính quyền thành phố và quận liên bang không có hiến pháp riêng mà có bộ luật của riêng mình, gọi là luật cơ bản (leis orgânicas).Quyền lực pháp lý được thực thi bởi nhánh tư pháp, mặc dù trong một số trường hợp đặc biệt Hiến pháp Brasil cũng cho phép Thượng viện Liên bang thông qua những quyết định về mặt luật pháp. Cơ quan quyền lực cao nhất trong ngành tư pháp của Brasil là Tòa án Liên bang Tối cao. Tuy nhiên hệ thống tư pháp của Brasil bị chỉ trích làm việc kém hiệu quả trong vài thập kỉ qua trong việc thực hiện nốt các bước cuối của việc xét xử. Các vụ kiện cáo thường mất tới vài năm để giải quyết và đi đến phán quyết cuối cùng[17].
Quan hệ ngoại giao và quân đội
Brasil là quốc gia dẫn đầu khu vực Mỹ Latinh về chính trị và kinh tế[18]. Tuy nhiên, những bất ổn về kinh tế và xã hội trong lòng Brasil đã ngăn cản nước này tiến lên và trở thành một cường quốc có ảnh hưởng lớn trên thế giới. Trong suốt giai đoạn từ sau Thế chiến thứ hai đến thập niên 1990, các chính phủ Brasil đều tìm cách mở rộng ảnh hưởng của nước này ra tầm quốc tế bằng cách tập trung phát triển kinh tế và có một chính sách ngoại giao độc lập. Những năm gần đây, Brasil ngày càng tăng cường quan hệ với các nước Mỹ Latinh láng giềng, đồng thời đóng vai trò quan trọng trong các sứ mệnh của Liên Hiệp Quốc. Chính sách ngoại giao của Brasil là có quan điểm hòa bình trong các vấn đề tranh chấp quốc tế và không can thiệp vào tình hình nước khác.Brasil là thành viên của nhiều tổ chức quốc tế như Liên Hiệp Quốc, Tổ chức Thương mại Thế giới và Khối Thị trường chung Nam Mỹ (Mercosur)...
Brasil thiết lập quan hệ ngoại giao với Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày 8 tháng 5 năm 1989[19].
Quân đội Brasil bao gồm 3 bộ phận chính là lục quân, hải quân và không quân. Lực lượng cảnh sát được coi là một nhánh của quân đội trong hiến pháp nhưng nằm dưới sự chỉ huy của mỗi bang. Brasil là quốc gia có lực lượng quân đội lớn nhất Mỹ Latinh, với tổng quân số là 287.000 quân nhân vào năm 2006. Tổng thống Brasil cũng là tổng chỉ huy quân đội của nước này. Chi phí cho quân sự của Brasil năm 2006 ước tính đạt khoảng 2,6% GDP. Brasil có chế độ nghĩa vụ quân sự dành cho nam giới tuổi từ 21-45, kéo dài trong khoảng 9 đến 12 tháng, còn tự nguyện thì tuổi từ 17-45. Tuy nhiên, với một nước có dân số lớn như Brasil thì đa phần nam giới nước này không phải gọi nhập ngũ. Brasil là nước đầu tiên tại Nam Mỹ chấp nhận phụ nữ phục vụ trong quân ngũ vào thập niên 1980[20]. Vai trò chủ yếu của quân đội Brasil là bảo vệ chủ quyền quốc gia và tham gia vào các chiến dịch gìn giữ hòa bình của Liên Hiệp Quốc tại nước ngoài.
Phân chia hành chính
Các vùng
Lãnh thổ Brasil được chia thành năm vùng riêng biệt: Bắc, Đông Bắc, Trung Tây, Đông Nam và Nam.- Vùng Bắc chiếm 45,27% lãnh thổ Brasil nhưng lại là vùng có số lượng dân cư thấp nhất. Vùng Bắc có mức độ công nghiệp hóa và phát triển thấp (ngoại trừ Manaus, là nơi có một khu công nghiệp miễn thuế). Đây là nơi có nhiều rừng mưa nhiệt đới xanh tốt và nơi cư trú của một số lượng lớn người da đỏ.
- Vùng Đông Bắc chiếm một phần ba dân số Brasil. Vùng này có nền văn hóa đa dạng, bao gồm những ảnh hưởng văn hóa thời thuộc địa Bồ Đào Nha, văn hóa châu Phi và văn hóa thổ dân da đỏ. Đây cũng là vùng nghèo nhất Brasil. Vùng Đông Bắc có mùa khô kéo dài và nhiều bãi biển đẹp nổi tiếng.
- Vùng Trung Tây là vùng có diện tích lớn thứ hai tại Brasil, nhưng mật độ dân số lại thấp. Thủ đô của Brasil - thành phố Brasília, thuộc vùng này. Đây là nơi có đầm lầy Pantanal lớn nhất thế giới và một phần của rừng mưa Amazon nằm ở phía tây bắc. Về khí hậu, vùng này có hai mùa riêng biệt: mùa mưa (từ tháng 10 tới tháng 4) và mùa khô (từ tháng 5 tới tháng 9). Đây cũng là vùng nông nghiệp quan trọng nhất đất nước. Các thành phố lớn nhất là: Brasilia, Goiania, Campo Grande và Cuiaba.
- Vùng Đông Nam là vùng giàu có tài nguyên và đông dân nhất nước. Riêng dân số vùng này đã lớn hơn dân số của bất kỳ một nước Nam Mỹ nào khác. Đây là nơi có hai thành phố lớn nhất của Brasil: Rio de Janeiro và Sao Paulo. Cảnh quan vùng này khá đa dạng, với trung tâm thương mại chủ yếu của đất nước là São Paulo, thành phố lịch sử Minas Gerais và bãi biển Rio de Janeiro nổi tiếng.
- Vùng Nam là vùng giàu có nhất tại Brasil (tính theo GDP bình quân đầu người), với tiêu chuẩn sống tốt nhất cả nước. Đây cũng là vùng lạnh nhất Brasil, thỉnh thoảng có thể xuất hiện băng giá và tuyết ở một số vùng cao. Vùng này có nhiều người nhập cư Châu Âu sinh sống, chủ yếu là con cháu người Đức, người Ý và người Slav, mang theo những ảnh hưởng rõ rệt về văn hóa quê hương cũ của họ. Các thành phố lớn nhất là Curitiba và Porto Alegre.
Các bang
Brasil được tổ chức theo hình thức liên bang. Các bang của Brasil (estado) có quyền tự tổ chức chính phủ, pháp luật, duy trì an ninh công cộng và thu thuế. Chính phủ bang do một thống đốc bang (governador) đứng đầu, được bầu theo hình thức phổ thông đầu phiếu. Ngoài ra còn có một cơ quan lập pháp riêng của bang (assembléia legislativa).Brasil gồm 26 bang và 1 quận liên bang (distrito federal), tổng cộng là 27 đơn vị liên bang. Quận liên bang của Brasil bao gồm thủ đô của nước này, Brasilia.
Mỗi bang lại được chia thành nhiều hạt (municípios) với hội đồng lập pháp (câmara de vereadores) và một thị trưởng (prefeito) riêng. Các hạt này có quyền tự trị và về mặt hệ thống là độc lập với cả liên bang và chính phủ bang. Một hạt có thể gồm các thị trấn (distritos) khác bên cạnh khu vực, tuy nhiên các khu đô thị tự trị này không có chính phủ riêng biệt.
Tòa án được tổ chức ở mức liên bang và bang bên trong các quận được gọi là comarca. Một comarca có thể gồm nhiều khu đô thị tự trị.
Thứ tự | Bang | Thủ phủ |
---|---|---|
Vùng Bắc | ||
1 | Roraima | Boa Vista |
2 | Amapá | Macapá |
3 | Amazonas | Manaus |
4 | Pará | Belém |
5 | Tocantins | Palmas |
6 | Acre | Rio Branco |
7 | Rondônia | Porto Velho |
Vùng Trung Tây | ||
8 | Mato Grosso | Cuiabá |
9 | Goiás | Goiânia |
10 | Distrito Federal* | Brasilia** |
11 | Mato Grosso do Sul | Campo Grande |
Vùng Nam | ||
12 | Paraná | Curitiba |
13 | Santa Catarina | Florianópolis |
14 | Rio Grande do Sul | Porto Alegre |
Thứ tự | Bang | Thủ phủ |
---|---|---|
Vùng Đông Bắc | ||
15 | Maranhão | São Luís |
16 | Piauí | Teresina |
17 | Ceará | Fortaleza |
18 | Rio Grande do Norte | Natal |
19 | Paraíba | João Pessoa |
20 | Pernambuco | Recife |
21 | Alagoas | Maceió |
22 | Sergipe | Aracaju |
23 | Bahia | Salvador |
Vùng Đông Nam | ||
24 | Minas Gerais | Belo Horizonte |
25 | Espírito Santo | Vitória |
26 | Rio de Janeiro | Rio de Janeiro |
27 | São Paulo | São Paulo |
*Distrito Federal là quận trực thuộc liên bang Brasil | ||
**Brasilia là thủ đô hành chính của Liên bang Brasil |
Địa lý
Lãnh thổ và địa hình
Brasil là một quốc gia rộng lớn. Tổng diện tích của nước này là 8.514.876,599 km²,[21] chiếm tới một nửa diện tích lục địa Nam Mỹ. Lãnh thổ Brasil tiếp giáp với các quốc gia và vùng lãnh thổ là Argentina, Bolivia, Colombia, Guiana thuộc Pháp, Guyana, Paraguay, Peru, Suriname, Uruguay và Venezuela. Brasil có quốc gia có diện tích lớn thứ năm trên thế giới, chỉ đứng sau Nga, Canada, Mỹ và Trung Quốc. Lãnh thổ nước này trải dài trên 4 múi giờ khác nhau. Brasil còn có một đường bờ biển dài 7367 km tiếp giáp với Đại Tây Dương.Về địa hình, Brasil là một trong những nước có nhiều hệ thống sông lớn nhất trên thế giới. Nước này có tổng cộng 8 bồn địa lớn, nước của các con sông đi qua các bồn địa này để thoát ra Đại Tây Dương. Sông Amazon là con sông lớn nhất thế giới tính theo dung lượng nước và đồng thời là con sông dài thứ hai trên thế giới. Lưu vực sông Amazon rộng lớn và màu mỡ đã tạo điều kiện cho những cánh rừng mưa nhiệt đới hùng vĩ phát triển cùng với một hệ thống sinh vật phong phú. Ngoài ra còn phải kể đến hệ thống sông Parana và phụ lưu của nó, sông Iguacu, nơi có thác nước Iguacu nổi tiếng. Bên cạnh đó còn có các sông Negro, Sao Francisco, Xingu, Madeira và Tapajos. Một số hòn đảo và đảo san hô trên Đại Tây Dương cũng thuộc chủ quyền của Brasil.
Địa hình của Brasil phân bố rất đa dạng và phức tạp. Tuy nhiên nhìn chung ta có thể chia địa hình của Brasil ra làm hai vùng chính. Phần lớn lãnh thổ ở phía bắc của Brasil là những vùng đất thấp được che phủ bởi rừng Amazon. Trong khi đó, phía nam của nước này có địa hình chủ yếu lại là đồi và những vùng núi thấp. Vùng bờ biển giáp Đại Tây Dương có nhiều dãy núi cao, có độ cao so với mặt nước biển là 2900 m. Đỉnh núi cao nhất Brasil là đỉnh Pico da Neblina, cao 3.014 m thuộc cao nguyên Guiana.
Khí hậu
Phần lớn diện tích Brasil nằm trong khoảng từ xích đạo cho đến đường chí tuyến nam. Mặc dù 90% lãnh thổ Brasil nằm trong vùng nhiệt đới nhưng giữa vùng này với vùng khác trên đất nước vẫn có những sự khác biệt khá lớn về khí hậu. Từ bắc xuống nam, khí hậu Brasil chuyển dần từ khí hậu nhiệt đới (giữa chí tuyến nam và xích đạo) cho đến khí hậu cận nhiệt tương đối ôn hòa (nằm dưới chí tuyến nam). Brasil có tổng cộng năm dạng khí hậu khác nhau: xích đạo, nhiệt đới, nhiệt đới khô, núi cao và cận nhiệt đới.Nhiệt độ trung bình năm quanh đường xích đạo khá cao, trung bình đạt khoảng 25 °C[22]. Tuy nhiên trong những ngày nóng bức nhất của mùa hạ, nhiệt độ tại một số vùng của Brasil có thể lên tới 40 °C[23]. Miền nam Brasil có khí hậu tương đối cận nhiệt đới và có thể có sương giá về mùa đông. Tuyết rơi có thể xảy ra ở những vùng núi cao như Rio Grande do Sul hay Santa Catarina. Lượng mưa tại Brasil nhìn chung tương đối cao, khoảng 1000 đến 1500 mm mỗi năm. Mưa tập trung nhiều hơn tại vùng lòng chảo Amazon nóng ẩm ở phía bắc, nơi lượng mưa có thể lên đến 2000 mm mỗi năm hoặc thậm chí cao hơn. Tuy có một lượng mưa hàng năm lớn như vậy song khu vực này cũng có mùa khô, kéo dài từ 3 tháng đến 5 tháng tùy theo vĩ độ.
Do nằm tại Nam bán cầu nên thời gian các mùa trong năm tại Brasil ngược lại so với các nước Bắc bán cầu. Mùa hạ ở đây kéo dài từ tháng 12 đến tháng 4, còn mùa đông lại nằm trong khoảng từ tháng 5 đến tháng 11. Trên thực tế, ở những vùng nằm gần xích đạo, sự chênh lệch về mùa gần như không đáng kể với khí hậu nóng ẩm quanh năm, trong khi những vùng có khí hậu nhiệt đới thường chỉ có mùa mưa và mùa khô. Tại vùng có khí hậu cận nhiệt ở phía nam, thời tiết chia ra đủ 4 mùa xuân, hạ, thu, đông. Brasil cũng thường phải hứng chịu những trận bão lớn từ Đại Tây Dương đổ vào.
Môi trường
Về thực vật, ở Brasil người ta đã phát hiện được hơn 55.000 loài, xếp thứ nhất trên thế giới và 30% trong số đó là những loài thực vật đặc hữu của Brasil. Khu vực Rừng Đại Tây Dương là nơi tập trung rất nhiều các loài thực vật khác nhau, bao gồm các loài nhiệt đới, cận nhiệt đới và rừng ngập mặn. Vùng Pantanal là một vùng đất ẩm và là nhà của khoảng 3500 loài thực vật trong khi Cerrado là một trong những vùng savan đa dạng nhất trên thế giới. Về động vật, Brasil nổi tiếng với các loài báo jaguar, báo sư tử, thú ăn kiến, cá piranha, loài trăn khổng lồ anaconda... và rất nhiều các loài linh trưởng, chim và côn trùng khác chỉ có tại đất nước này.
Tuy nhiên trong mấy thập kỉ trở lại đây, sự phát triển kinh tế và gia tăng dân số quá mức[cần dẫn nguồn] đang có nguy cơ gây ảnh hưởng đến môi trường tự nhiên của Brasil. Sự phá rừng lấy gỗ và đất canh tác, bao gồm cả hợp pháp và bất hợp pháp đang tàn phá những khu rừng lớn tại nước này, đe dọa gây ra những thảm họa nghiêm trọng về môi trường. Từ năm 2002 đến năm 2006, rừng Amazon đã bị mất đi một phần diện tích xấp xỉ nước Áo[25]. Dự kiến đến năm 2020, ít nhất 50% các loài sinh vật tại Brasil sẽ đứng trước bờ vực tuyệt chủng[25]. Trước tình hình này, chính phủ Brasil đã ban hành nhiều chính sách nhằm bảo về môi trường. Một mạng lưới các khu vực bảo vệ đã được thiết lập trên diện tích hơn 2 triệu km² (khoảng một phần tư diện tích Brasil) để bảo vệ những vùng rừng và các hệ sinh thái tại nước này. Tuy nhiên công tác bảo vệ môi trường tại Brasil cũng gặp rất nhiều khó khăn.[cần dẫn nguồn]
Kinh tế
Theo Quỹ tiền tệ Quốc tế và Ngân hàng Thế giới, Brasil là nền kinh tế lớn thứ chín thế giới theo sức mua tương đương. Brasil có nền kinh tế đa dạng ở mức thu nhập trung bình với mức độ phát triển rất khác nhau. Đa số các ngành công nghiệp lớn nằm ở phía nam và phía đông nam. Đông Bắc là vùng nghèo nhất Brasil, nhưng hiện đang thu hút được nhiều đầu tư nước ngoài.
Brasil có lĩnh vực công nghiệp phát triển nhất Mỹ Latinh. Chiếm một phần ba GDP, các ngành công nghiệp đa dạng của Brasil từ sản xuất ô tô, thép, hóa dầu tới máy tính, máy bay và các sản phẩm tiêu dùng. Với nền kinh tế phát triển ổn định nhờ Kế hoạch Real, các công ty Brasil và các công ty đa quốc gia đầu tư mạnh vào công nghệ và thiết bị mới, một phần lớn trong số đó được nhập khẩu từ các công ty Bắc Mỹ.
Brasil cũng sở hữu một nền công nghiệp dịch vụ đa dạng và có chất lượng cao. Những năm đầu thập niên 1990, lĩnh vực ngân hàng chiếm tới 16% GDP. Dù trải qua một quá trình tái cơ cấu rộng lớn, công nghiệp dịch vụ tài chính nước này đã cung cấp tiền vốn cho nhiều công ty trong nước sản xuất ra các loại hàng hóa phong phú, lôi cuốn nhiều nhà đầu tư nước ngoài mới, kể cả các công ty tài chính lớn của Mỹ. Thị trường chứng khoán Sao Paulo và Rio de Janeiro đang trải qua quá trình hợp nhất.
Theo bản báo cáo mới [26] của Ngân hàng Thế giới, mức độ thuận lợi trong kinh doanh tại các thành phố nước này rất khác nhau. Thời gian và chi phí để đăng ký tài sản tại các thành phố ở Brasil ở mức tốt. Nhưng dù có những quy định như nhau trên toàn lãnh thổ, thời gian cần thiết để chuyển đổi tài sản vẫn khác biệt nhiều tại từng thành phố.
Dù nền kinh tế Brasil có kích thước và tầm quan trọng lớn trong khu vực, những vấn đề đang ngày càng phát triển như tham nhũng, nghèo đói và mù chữ vẫn là những cản trở lớn cho sự phát triển.
Các sự kiện hiện tại
Tốc độ tăng GDP của Brasil (Thập niên 2000) |
||
---|---|---|
2000 | 4,3% | |
2001 | 1,3% | |
2002 | 2,7% | |
2003 | 1,1% | |
2004 | 5,7% | |
2005 | 3,2% | |
2006 | 3,7% | |
2007 | 4,5% | |
2008 | 4,5% (ước tính) | |
Nguồn:[27] |
Trong thời cầm quyền của tổng thống Fernando Henrique Cardoso (1995-2002), chính phủ Brasil đã có nỗ lực nhằm thay thế nền kinh tế chỉ huy nhà nước bằng một nền kinh tế theo định hướng thị trường. Nghị viện đã thông qua nhiều sửa đổi mở đường cho sự tham gia lớn hơn của khu vực tư nhân, và khuyến khích lĩnh vực có đầu tư nước ngoài. Tới cuối năm 2003, chương trình tư nhân hóa của Brasil, gồm cả việc tư nhân hóa các công ty thép, điện lực, viễn thông đã đạt giá trị hơn 90 tỷ dollar.
Tháng 1 năm 1999, Ngân hàng Trung ương Brasil thông báo rằng nước này sẽ không giữ ổn định tỷ giá đồng real với dollar Mỹ nữa, việc này khiến cho đồng tiền tệ nước này bị mất giá mạnh. Nền kinh tế Brasil tăng trưởng 4,4% năm 2000, giảm xuống còn 1,3% năm 2001.
Năm 2002, những dự đoán rằng ứng cử viên tổng thống nhiều triển vọng Luis Inácio Lula da Silva, sẽ từ chối thanh toán nợ, gây ra một cuộc khủng hoảng niềm tin sâu sắc khiến nền kinh tế giảm sút tăng trưởng. Tuy nhiên, khi đã trúng cử Lula tiếp tục theo đuổi các chính sách kinh tế của người tiền nhiệm. Năm 2003, Tổng thống Lula đưa ra một chương trình kinh tế kham khổ bằng cách kiểm soát lạm phát và tìm kiếm thặng dư nhằm đưa tình trạng nợ nần của Brasil về mức ổn định.
Năm 2007, kinh tế Brasil tăng trưởng ở mức 4,5%[28].
Các vấn đề lớn
Nền kinh tế của Brasil vẫn đang phải đối đầu với những vấn đề lớn và cần những cải cách quan trọng được đưa ra. So với những nước đang phát triển khác, những vấn đề nghiêm trọng là cơ sở hạ tầng yếu kém, thu nhập phân bố không đều, chất lượng dịch vụ công thấp, tham nhũng, những xung đột xã hội và tình trạng quan liêu của chính phủ vẫn tồn tại và đe dọa sự tăng trưởng kinh tế.Nợ công trong nước đã đạt tới kỷ lục từ trước tới nay và chi tiêu công cũng tăng thêm. Các loại thuế đã chiếm một phần lớn thu nhập quốc gia và là một gánh nặng với mọi tầng lớp xã hội, làm giảm các cơ hội đầu tư. Hơn nữa, việc thành lập doanh nghiệp cũng phải gánh chịu chi phí giấy tờ cao và các thủ tục hành chính phức tạp.
Mức tăng trưởng kinh tế hiện nay của Brasil thấp hơn các nước Mỹ Latinh khác và hai cường quốc mới nổi Ấn Độ, Trung Quốc. Brasil đã tụt 11 bậc trong bảng Chỉ số Tăng trưởng Cạnh tranh của Diễn đàn Kinh tế Thế giới trong giai đoạn 2003 - 2005[29]
Năng lượng
Brasil là quốc gia đứng thứ mười thế giới về tiêu dùng năng lượng và thứ nhất tại khu vực Mỹ Latinh. Tuy nhiên, Brasil cũng lại là nước khai thác dầu mỏ và khí đốt nhiều nhất trong khu vực và là nhà sản xuất năng lượng ethanol lớn nhất trên thế giới. Với sự đi tiên phong trong lĩnh vực sản xuất ethanol, Brasil được mệnh danh là một cường quốc về năng lượng sinh học của thế giới. Năng lượng ethanol ở Brasil được sản xuất từ cây mía, loại cây được trồng rất phổ biến tại Brasil.Sau cuộc Khủng hoảng Dầu mỏ 1973, chỉnh phủ Brasil đã thiết lập chương trình Programa Nacional do Álcool được chính phủ cấp kinh phí nhằm thay thế các nguồn nhiên liệu hóa thạch như dầu mỏ bằng năng lượng ethanol thân thiện hơn với môi trường. Chương trình đã thành công khi giảm số ô tô chạy bằng dầu hỏa tại Brasil xuống chỉ còn 10 triệu, từ đó giảm sự phụ thuộc của nước này vào các nguồn dầu nhập khẩu[30]. Dầu diesel sinh học được kỳ vọng sẽ chiếm 2% tổng lượng dầu diesel trong năm 2008, rồi nâng lên 5% vào năm 2013.
Brasil đứng thứ ba thế giới về sản lượng thủy điện, chỉ sau Trung Quốc và Canada. Năm 2004, thủy điện chiếm tới 83% tổng năng lượng sản xuất ra tại nước này. Brasil cùng với Paraguay sở hữu đập nước Itaipu, nhà máy thủy điện lớn nhất thế giới hiện nay.
Khoa học kỹ thuật
Từ khi người Bồ Đào Nha xâm chiếm Brasil làm thuộc địa, nền khoa học kĩ thuật tại vùng đất này hầu như không được chú trọng phát triển. Tuy là một thuộc địa rộng lớn và có vai trò quan trọng đối với chính quốc Bồ Đào Nha nhưng Brasil lại là một vùng đất nghèo nàn và thất học. Mãi cho đến tận đầu thế kỉ 19, tại Brasil vẫn không có bất kỳ một trường đại học nào trong khi các thuộc địa láng giềng của Tây Ban Nha đã có những trường đại học đầu tiên ngay từ thế kỉ 16. Năm 1807, hoàng gia Bồ Đào Nha đến Rio de Janeiro để tránh cuộc tấn công của Napoleon I và đã khởi đầu cho thời kỳ phát triển khoa học và văn hóa tại vùng đất này.Việc nghiên cứu khoa học tại Brasil ngày nay được thực hiện rộng rãi trong khắp các trường đại học và học viện, với 73% nguồn quỹ được lấy từ những nguồn của chính phủ. Một số học viện khoa học nổi tiếng của Brasil là Học viện Oswaldo Cruz, Học viện Butantan, Trung tâm Công nghệ Vũ trụ của không quân, Tổ chức Nghiên cứu Nông nghiệp Brasil và INPE. Brasil là quốc gia có cơ sở tốt nhất Mỹ Latinh trong lĩnh vực hàng không vũ trụ[31]. Vào ngày 14 tháng 10 năm 1997, Cơ quan Hàng không vũ trụ Brasil đã ký với NASA về việc cung cấp các phần thiết bị cho ISS[32]. Uranium cũng được làm giàu tại Nhà máy Năng lượng Nguyên tử Resende để giải quyết phần nào nhu cầu năng lượng của quốc gia. Brasil cũng là một trong hai nước ở khu vực Mỹ Latinh có phòng thí nghiệm máy gia tốc Synchrotron, một hệ thống thiết bị nhằm nghiên cứu nhiều ngành khoa học khác nhau như vật lí, hóa học, khoa học vật liệu và khoa học đời sống[33].
Nhân khẩu
Các nước Châu Âu khác cũng có một số sự hiện diện tại Brasil trong giai đoạn thuộc địa. Người Hà Lan và người Pháp đã tìm cách thực dân hóa Brasil trong thế kỷ 17, nhưng thời gian họ có mặt chỉ kéo dài vài thập kỷ.
Người da đỏ bản xứ Brasil (khoảng 3-5 triệu người) phần lớn đã bị tiêu diệt hay đồng hóa bởi người Bồ Đào Nha. Từ đầu thời kỳ thực dân hoá Brasil, những cuộc hôn nhân lai chủng giữa người Bồ Đào Nha và những người Brasil bản xứ đã trở nên phổ biến. Ngày nay, Brasil có khoảng 700.000 dân bản xứ, chiếm chưa tới 1% dân số nước này.
Brasil cũng có một số lượng lớn người da đen, là con cháu của những người nô lệ Châu Phi bị bắt tới đây từ thế kỷ 16 tới thế kỷ 19. Hơn 3 triệu người Châu Phi đã bị bán và đem qua Brasil cho tới khi chế độ buôn bán nô lệ chấm dứt vào năm 1850. Chủ yếu họ bị bắt đi từ Angola, Nigeria, Benin, Togo, Ghana, Côte d'Ivoire và São Tomé e Príncipe. Những người Châu Phi này sau đó đã lai tạp với người Bồ Đào Nha, trở thành một bộ phận dân cư lai khá lớn tại Brasil.
Bắt đầu thế kỷ 19, chính phủ Brasil đã khuyến khích những người Châu Âu nhập cư tới đây để thay thế nguồn nhân công của các nô lệ cũ. Những người nhập cư không phải là người Bồ Đào Nha đầu tiên tới định cư ở Brasil là người Đức vào năm 1824. Năm 1869 những người Ba Lan đầu tiên đặt chân tới Brasil. Tuy nhiên đợt di cư mạnh nhất của người Châu Âu tới nước này chỉ bắt đầu sau năm 1875, khi những người nhập cư từ Ý, Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha tới đây tăng mạnh. Trong giai đoạn 1870 - 1953, Brasil đã thu hút hơn 5,5 triệu người nhập cư[35], bao gồm gần 1.550.000 người Ý, 1.470.000 người Bồ Đào Nha, 650.000 người Tây Ban Nha, 210.000 người Đức, 190.000 người Nhật, 120.000 người Ba Lan và 650.000 từ nhiều quốc gia khác. Những con số này có thể còn kém xa thực tế, bởi những người vợ đi cùng không được tính vào, một số lượng lớn những người nhập cư bất hợp pháp, thay đổi tên họ để giấu quốc tịch, và những văn bản lưu trữ của Brasil cũng đã mất mát nhiều. Brasil là nước có số lượng người Ý ở nước ngoài lớn nhất thế giới, với tổng số 25 triệu người. Brasil cũng là nước có cộng đồng người Liban đông nhất thế giới, với khoảng 8 triệu người.[cần dẫn nguồn]
Bắt đầu từ thế kỷ 20, Brasil cũng đã tiếp nhận một số lượng lớn người Châu Á: người Hàn Quốc, người Trung Quốc, người Đài Loan và người Nhật. Người Nhật là cộng đồng thiểu số Châu Á lớn nhất tại Brasil, và những người Nhật Bản-Brasil là cộng đồng người Nhật bên ngoài nước Nhật lớn nhất với 1,6 triệu người.
Dân số Brasil chủ yếu tập trung dọc bờ biển, trong nội địa mật độ dân số khá thấp. Dân chúng các bang miền nam chủ yếu là con cháu người Âu da trắng, trong khi đa số dân chúng miền bắc và đông bắc là người lai giữa các chủng tộc (người da đỏ Châu Mỹ, người Phi, người Âu).
Các thành phố lớn nhất Brasil
Thành phố | Bang | Dân số | Thành phố | Bang | Dân số | |||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
1 | São Paulo | São Paulo | 11.016.703 | 11 | Belém | Pará | 1.428.368 | |||
2 | Rio de Janeiro | Rio de Janeiro | 6,136,652 | 12 | Guarulhos | São Paulo | 1.283.253 | |||
3 | Salvador | Bahia | 2.714.119 | 13 | Goiânia | Goiás | 1.220.412 | |||
4 | Fortaleza | Ceará | 2.416.920 | 14 | Campinas | São Paulo | 1.059.420 | São Paulo | ||
5 | Belo Horizonte | Minas Gerais | 2.399.920 | 15 | São Luís | Maranhão | 922.458 | |||
6 | Brasília | Distrito Federal | 2.383.784 | 16 | São Gonçalo | Rio de Janeiro | 973.372 | |||
7 | Curitiba | Paraná | 1.788.559 | 17 | Maceió | Alagoas | 922.458 | |||
8 | Manaus | Amazonas | 1.644.690 | 18 | D. de Caxias | Rio de Janeiro | 855.010 | |||
9 | Recife | Pernambuco | 1.515.052 | 19 | Nova Iguaçu | Rio de Janeiro | 844.583 | |||
10 | Porto Alegre | Rio Grande do Sul | 1.440.939 | 20 | Teresina | Piauí | 813.992 | Rio de Janeiro | ||
Nguồn: [36] Guarulhos là một phần của vùng đô thị Grande São Paulo. Duque de Caxias, Nova Iguaçu và São Gonçalo là một phần của vùng đô thị Grande Rio. |
Chủng tộc và nòi giống
Phân bố chủng tộc ở Brasil (2006)[37] | |
---|---|
Người da trắng | 49,7% |
Người lai* | 42,6% |
Người da đen | 6,9% |
Người da vàng | 0,5% |
Thổ dân Brasil | 0,3% |
Người lai (pardo) là người có bố và mẹ thuộc hai chủng tộc khác nhau |
Miền nam Brasil với đa số dân là con cháu người Âu còn ở phía đông nam và trung tây Brasil số lượng người da trắng tương đương người Phi và những người Brasil đa chủng khác. Đông bắc Brasil có đa số dân là con cháu người Bồ Đào Nha và Châu Phi, trong khi miền bắc Brasil có số lượng hậu duệ người da đỏ Châu Mỹ lớn nhất nước.
Theo hiến pháp năm 1988 của Brasil, phân biệt chủng tộc là một tội không được bảo lãnh và buộc phải ngồi tù. Đạo luật này được thi hành rất chặt chẽ.[38]
Hơn 90 triệu người Brasil có nguồn gốc từ các làn sóng di cư từ nước ngoài vào. Những nhóm người đông đảo nhất là người thuộc bán đảo Iberia, Ý và người Đức ở Trung Âu. Các nhóm thiểu số gồm người Slave (đa số là người Ba Lan, Ukraina và Nga). Những nhóm nhỏ hơn gồm người Armenia, người Phần Lan, người Pháp, người Hy Lạp, người Hungary, người Romania, người Anh và người Ireland. Trong số các nhóm thiểu số còn có 200.000 người Do Thái, chủ yếu là Ashkenazi.
Dân nhập cư Brasil có cơ cấu như sau:
- 79 triệu người Châu Phi và người đa chủng
- 13 triệu người Ả Rập, chủ yếu từ Syrie và Liban ở Đông Địa Trung Hải
- 1,6 triệu người Châu Á, chủ yếu từ Nhật Bản
Ngôn ngữ
Tiếng Bồ Đào Nha là ngôn ngữ chính thức duy nhất tại Brasil. Toàn bộ dân chúng sử dụng thứ tiếng này và rõ ràng nó là ngôn ngữ duy nhất được sử dụng trong các trường học, trên các phương tiện truyền thông, trong kinh doanh và mọi mục đích hành chính. Hơn nữa, Brasil là nước nói tiếng Bồ Đào Nha duy nhất tại Châu Mỹ nên nó đã biến ngôn ngữ này trở thành một trong những đặc trưng riêng của quốc gia. Tiếng Bồ Đào Nha ở Brasil đã phát triển độc lập với tiếng mẹ đẻ Châu Âu, và đã trải qua ít sự thay đổi ngữ âm hơn so với tiếng Bồ Đào Nha gốc, vì thế nó thường được gọi là ngôn ngữ "Camões", vốn đã tồn tại ở thế kỷ 16, tương tự như thứ ngôn ngữ Bồ Đào Nha ở phía nam Brasil ngày nay, chứ không phải là thứ ngôn ngữ được dùng ở Bồ Đào Nha ngày nay. Tiếng Bồ Đào Nha Brasil có ảnh hưởng lớn tới các ngôn ngữ da đỏ Châu Mỹ và ngôn ngữ Châu Phi. Nói chung, những người nói bất kỳ một biến thể nào đều có thể hiểu được biến thể kia, nhưng họ, những phương ngữ Bồ Đào Nha có nhiều khác biệt lớn với nhau về âm điệu, từ vựng và chính tả.Nhiều ngôn ngữ bản xứ được sử dụng hàng ngày trong các cộng đồng thổ dân, chủ yếu ở phía bắc Brasil. Dù nhiều trong số các cộng đồng đó tiếp xúc thường xuyên với người Bồ Đào Nha, hiện nay việc dạy các ngôn ngữ bản xứ đang được khuyến khích. Một số ngôn ngữ khác được con cháu những người nhập cư sử dụng, họ thường có khả năng nói cả hai thứ tiếng, tại các cộng đồng nông nghiệp ở phía nam Brasil. Những ngôn ngữ khác được dùng nhiều nhất là tiếng Đức và tiếng Ý. Ở thành phố São Paulo, có thể gặp những cộng đồng sử dụng tiếng Nhật như tại Liberdade.
Tiếng Anh là một phần trong chương trình giảng dạy của các trường cao học, nhưng ít người Brasil thực sự thông thạo ngôn ngữ này. Đa số những người sử dụng tiếng Bồ Đào Nha đều có thể hiểu tiếng Tây Ban Nha ở mức độ này hay mức độ khác vì sự tương đồng giữa hai ngôn ngữ cùng hệ Latinh.
Giáo dục và y tế
Hiến pháp Brasil và Luật Giáo dục Brasil ban hành năm 1996 xác định chính quyền liên bang, tiểu bang, quận liên bang và các đô thị tự trị tự quản lý và điều hành hệ thống giáo dục của mình. Mỗi hệ thống giáo dục tự chịu trách nhiệm về việc duy trì hoạt động, quản lý cơ cấu và các nguồn tài chính của mình. Hiến pháp mới của Brasil cũng quy định dành 25% tiền thuế tiểu bang và đô thị tự trị cũng như 18% tiền thuế của liên bang cho giáo dục[39]. Hệ thống trường tư được thành lập tại Brasil để hoàn thiện những thiết sót của hệ thống trường công. Vào năm 2003, tỉ lệ người biết chữ ở Brasil đạt 88%, và đạt 93,2% đối với độ tuổi từ 15 đến 19 tuổi. Tuy nhiên theo UNESCO, nền giáo dục Brasil vẫn còn nhiều bất cập và chất lượng thấp, đặc biệt trong hệ thống trường công. Giáo dục bậc cao tại Brasil bao gồm các trường đại học và các trường hướng nghiệp.Hệ thống chăm sóc sức khỏe được điều hành và cung cấp bởi các cấp chính quyền, trong khi hệ thống y tế tư nhân cũng được thành lập thêm để hoàn chỉnh. Hệ thống chăm sóc sức khỏe ở Brasil chưa phát triển hoàn thiện, đặc biệt ở những bang nghèo và vẫn còn nhiều bất cập. Những vấn đề chủ yếu của nền y tế Brasil là tỉ lệ tử vong của trẻ sơ sinh, trẻ em và người mẹ còn khá cao. Ví dụ như năm 2008, tỉ lệ tử vong của trẻ sơ sinh tại Brasil là 26,67/1000 trẻ[40]. Ngoài ra các nguyên nhân tử vong chủ yếu khác ở Brasil còn có các bệnh dịch truyền nhiễm và không truyền nhiễm, tai nạn giao thông, bạo lực và tự tử. Nạn HIV/AIDS cũng là một trong những bệnh dịch hàng đầu đe dọa sức khỏe của người dân Brasil.
Các vấn đề xã hội
Chênh lệch giàu nghèo
Dù là một nước lớn với những nguồn tài nguyên phong phú và một nền kinh tế khá mạnh, Brasil hiện vẫn có hơn 22 triệu người sống dưới mức nghèo khổ. Gộp cả những người sống trong tình trạng khá nghèo (có thu nhập không đủ cho những nhu cầu cơ bản), con số này có thể lên tới hơn 53 triệu người (khoảng 30% dân số). Đây là vấn đề đáng báo động, và nó góp phần vào sự bất bình đẳng kinh tế của đất nước, nước này được coi là đứng hàng đầu thế giới theo hệ số Gini.Sự nghèo khổ tại Brasil được thể hiện bởi số lượng lớn các khu ổ chuột (favela), đa số chúng đều tồn tại ở những khu vực thành thị và ở những vùng xa xôi nơi ít có những phát triển kinh tế và xã hội. Vùng Đông Bắc gặp phải những vấn đề kinh niên vì khí hậu nửa khô cằn ở những vùng nội địa, những đợt hạn hán thường kỳ ảnh hưởng tới cuộc sống của hàng triệu người[41].
Nỗ lực gần đây nhất nhằm giảm nhẹ tình trạng này đang được tổng thống đương nhiệm Luiz Inacio Lula da Silva thử nghiệm. Ông đã đề xuất một chương trình loại trừ nạn đói (Fome Zero) và tăng ngân sách dành cho các chương trình phân phối công bằng từng được đưa ra trước đó, nhưng có nhiều tranh cãi về hiệu quả thực sự của những chương trình này.
Trong vòng 12 năm qua, thuế suất của Brasil đã tăng đều hàng năm từ 28% GDP quốc gia lên tới 37% [42]. Dù vậy, dưới con mắt của người dân những cải thiện trong các lĩnh vực công cộng do chính phủ liên bang và các bang hay các chính phủ địa phương là chưa đủ (trong một số trường hợp, chưa có một cải thiện nào cả) [43]. Mọi người tin rằng hai nguyên nhân chính của tình trạng này là:
- Lãi suất cao của những khoản nợ của chính phủ [44].
- Tham nhũng tràn lan [45]: Từ cuối thời kỳ nắm quyền của quân đội và tái lập tự do báo chí trong nước, những vụ scandal liên tục với sự dính líu của cả nhánh hành pháp, lập pháp và tư pháp. Nạn hối lộ, tham ô, rửa tiền và ngân hàng nặc danh đã trở thành hệ thống.
Tội phạm
Trong những thập kỷ qua, tình trạng tội phạm trên khắp Brasil đã trở thành một vấn nạn. Tỷ lệ giết người ở Brasil cao hơn bốn lần so với Mỹ, và đa số các vụ tội phạm không được khám phá. Những vụ tội phạm đường phố là một vấn đề đau đầu cho các quan chức địa phương, đặc biệt vào buổi tối, trong khi ở những vùng nông thôn, những vụ cướp bóc dọc đường xảy ra thường xuyên.Rio de Janeiro được coi là có tình trạng tội phạm tồi tệ nhất nước. Những vụ bắn nhau trong các khu nhà ổ chuột giữa cảnh sát và tội phạm hay giữa các băng nhóm tội phạm với nhau trở nên quá quen thuộc, tương tự như một cuộc chiến tranh du kích trong đô thị. Các quan chức thành phố hầu như không thể kiểm soát được khu vực bên trong các khu ổ chuột, khiến chúng trở thành hang ổ của những kẻ buôn bán ma tuý, thậm chí một số tên đã bị bỏ tù nhưng vẫn điều hành đường dây của chúng. Thậm chí có điều luật cho phép từ 10 giờ chiều tới 6 giờ sáng, các lái xe được phép không dừng khi có hiệu đèn bởi nguy cơ cao bị tấn công hay bắt cóc vào ban đêm[46].
Văn hoá
Những ảnh hưởng khác nhau
Văn hóa của Brasil chủ yếu dựa trên nền văn hóa của Bồ Đào Nha. Nước này đã từng là thuộc địa của Bồ Đào Nha trong vòng ba thế kỉ và những người dân di cư Bồ Đào Nha đã mang đến cho Brasil những nền tảng quan trọng của nền văn hóa nước này là tiếng Bồ Đào Nha, đạo Công giáo và kiến trúc. Bên cạnh đó còn có những phong tục tập quán và lối sống đặc trưng của người dân Bồ Đào Nha.Là một đất nước đa chủng tộc với nhiều màu sắc văn hóa, Brasil còn chịu ảnh hưởng của nhiều dân tộc khác nữa. Những người thổ dân châu Mỹ có ảnh hưởng đến vốn từ vựng và ẩm thực của Brasil, trong khi người da đen gốc châu Phi, vốn được mang đến Brasil để làm nô lệ trước kia, lại có ảnh hưởng quan trọng trong âm nhạc và các điệu nhảy của nước này. Vào thế kỉ 19 và thế kỉ 20, những dòng người nhập cư đến từ Ý, Đức, Tây Ban Nha, Nhật Bản, Trung Đông đã đến Brasil và thiết lập nên những cộng đồng lớn sinh sống với nhau tại các thành phố, tạo nền những dấu ấn độc đáo khác nhau và tập trung chủ yếu tại miền nam Brasil.
Văn học
Một trong những văn bản đầu tiên viết về đất nước Brasil là lá thư của Pêro Vaz de Caminha gửi cho vua Manuel I của Bồ Đào Nha, người ghi chép trên tàu của Pedro Álvares Cabral, nhà thám hiểm đã khám phá ra đất nước Brasil. Tiếng Bồ Đào Nha có ảnh hưởng quan trọng nhất đối với nền văn học của Brasil. Trong thời kỳ thuộc địa, những nhà văn tại Brasil đã cho ra đời nhiều tác phẩm văn học về sử thi, thơ và kịch phản ánh về cuộc sống và những sự kiện diễn ra trên đất nước này. Một trong những nhà văn nổi tiếng nhất thời kỳ này là cha António Vieira, một linh mục dòng Tên với những tác phẩm mang phong cách văn học Baroque. Năm 1822, Brasil giành được độc lập và sau đó là những chuyển biến mới trong nền văn học của nước này. Chủ nghĩa lãng mạn xuất hiện cùng với những tác phẩm văn học về những người thổ dân và người da đen, cũng như phản ánh và quan tâm hơn đến các vấn đề xã hội. Tiêu biểu là nhà văn Gonçalves Dias và José de Alencar đã viết nhiều tác phẩm về những người dân bản xứ Brasil, hay nhà văn Antônio Castro Alves đã viết về những nỗi khốn khổ của người nô lệ da đen.Đến giữa thế kỉ 19, chủ nghĩa lãng mạn dần thoái trào và nhường chỗ cho những tác phẩm thuộc chủ nghĩa hiện thực. Văn xuôi được sử dụng nhiều hơn. Với ảnh hưởng của chủ nghĩa tự nhiên, các tác phẩm văn học thời kỳ này phản ánh nhiều phương diện và tầng lớp xã hội. Hai nhà văn lớn nhất thời kỳ này là Machado de Assis và Euclides da Cunha. Thế kỉ 20 chứng kiến sự phát triển của chủ nghĩa hiện đại và hậu hiện đại trong văn học Brasil với những tên tuổi như Mário de Andrade, Jorge Amado...
Kiến trúc
Nền kiến trúc của Brasil bắt đầu từ thời kỳ thuộc địa Bồ Đào Nha, khi những pháo đài trung cổ đầu tiên được người Bồ Đào Nha thiết lập tại đây từ khoảng năm 1530. Trong thời kỳ thuộc địa, những công trình lớn chủ yếu được xây dựng là các nhà thờ và thánh đường mang đậm ảnh hưởng của phong cách kiến trúc Baroque Bồ Đào Nha. Nhiều thị trấn và thành phố cổ ở Brasil được xây dựng với nhiều nét giống với các thành phố của châu Âu. Đầu thế kỉ 19, tại Brasil bắt đầu xuất hiện trường phái kiến trúc tân cổ điển. Rồi đến giai đoạn cuối thể kỉ 19 - đầu thế kỉ 20, các tòa nhà ở Brasil lại chịu ảnh hưởng của phong cách kiến trúc Pháp. Bên cạnh đó, những dòng người nhập cư khác cũng mang đến cho kiến trúc Brasil nhiều sắc thái khác nhau, ví dụ như kiến trúc kiểu Đức tại các bang miền nam Brasil.Sang thế kỉ 20, kiến trúc hiện đại Brasil đã có nhiều bước phát triển vượt bậc. Oscar Niemeyer là một trong những kiến trúc sư nổi tiếng nhất ở Brasil. Ông đã phụ trách rất nhiều công trình lớn tại thủ đô Brasilia và thành phố này đã được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa thế giới.
Tôn giáo
Tôn giáo chủ yếu tại Brasil là Công giáo Rôma. Nước này cũng là nước có cộng đồng người theo đạo Công giáo lớn nhất trên thế giới. Bên cạnh đó, số lượng tín đồ theo đạo Tin lành cũng đang ngày càng tăng lên. Mặc dù Hồi giáo đầu tiên được những nô lệ da đen theo nhưng hiện nay cộng đồng người Hồi giáo đông nhất tại Brasil lại là những người Brasil gốc Arab. Brasil cũng là nước có cộng đồng Phật giáo lớn nhất Mỹ Latinh do nước này tập trung một lượng lớn cộng đồng người Nhật Bản tại nước ngoài. Bên cạnh đó ở Brasil còn có những tôn giáo truyền thống của người da đen gốc châu Phi.Cơ cấu tôn giáo của người dân Brasil như sau (theo cuộc điều tra của IBGE)[47][48]:
- 64,6% dân số theo Công giáo.
- 22,2% dân số theo Đạo Tin lành.
- 8,0% dân số tự cho mình là người theo Thuyết bất khả tri hay Thuyết vô thần.
- 2,0% dân số theo Thuyết thông linh.
- 2,7% dân số là thành viên của các tôn giáo khác. Một số tôn giáo đó là Mormon (227.000 tín đồ), Nhân chứng Jehovah (1.393.000 tín đồ), Phật giáo (244.000 tín đồ), Do Thái giáo (107.000 tín đồ), và Hồi giáo (35.000 tín đồ)
- 0,3% dân số theo các tôn giáo truyền thống Châu Phi như Candomblé, Macumba và Umbanda.
- 0,1% không biết
- Một số người theo tôn giáo pha trộn giữa các tôn giáo khác nhau, như Công giáo, Candomblé, và tổng hợp các tôn giáo truyền thống Châu Phi.
Thể thao
Bên cạnh đó, đội tuyển bóng đá nữ Brasil cũng thu được khá nhiều thành tích. Tại Giải vô địch bóng đá nữ thế giới 2007, họ đã giành vị trí thứ hai. Nữ cầu thủ bóng đá nổi tiếng nhất Brasil là Marta, người đoạt hai danh hiệu Quả bóng Vàng và Chiếc giày Vàng tại World Cup 2007 cũng như được FIFA bình chọn là nữ cầu thủ xuất sắc nhất năm 2006.
Brasil dự kiến sẽ tổ chức World Cup 2014.
Không chỉ có bóng đá, Brasil cũng là nước có thế mạnh tại nhiều môn thể thao khác như bóng rổ, bóng chuyền, tennis, bơi lội. Capoeira, một môn võ thuật có nguồn gốc châu Phi cũng được đông đảo người dân Brasil ưa chuộng. Nhu thuật Brasil (Brazilian Jiu-Jitsu, viết tắt BJJ) được coi là một môn võ thuật có tính chiến đấu cao, thường xuyên xuất hiện trên các võ đài võ tự do. Ngoài ra, đất nước này còn sản sinh ra nhiều môn thể thao khác nữa. Có thể kể ra như môn bóng đá bãi biển, bắt nguồn trên những bãi biển của Rio de Janeiro hay biribol, một biến thể chơi dưới nước của bóng chuyền.
Carnaval là một lễ hội nổi tiếng của đất nước Brasil. Lễ hội diễn ra 40 ngày trước Lễ Phục sinh và là thời điểm để bắt đầu mùa ăn chay. Lễ hội Carnaval ở Brasil rất nổi tiếng, đặc biệt là tại Rio de Janeiro. Trong lễ hội, những đoàn diễu hành đầy màu sắc đi qua những con phố lớn với những chiếc xe được trang trí rực rỡ, những vũ công mặc trang phục nhiều màu sắc và âm nhạc rộn rã. Tại Rio de Janeiro có hẳn những trường lớp đào tạo vũ công samba cho dịp lễ hội này. Bên cạnh đó, lễ hội Carnaval còn được tổ chức tại nhiều nơi khác trên đất nước Brasil như tại các bang Bahia, Pernambuco hay Minas Gerais với một số điểm khác biệt riêng nhưng lễ hội Carnaval tại Rio de Janeiro là nổi tiếng nhất. Lễ hội này cũng là một trong những yếu tố thu hút khách du lịch nước ngoài tới Brasil.
Du lịch
Du lịch hiện là một lĩnh vực hiện đang tăng trưởng mạnh tại Brasil. Đất nước Brasil có khá nhiều ưu thế về du lịch và mỗi vùng miền trên đất nước Brasil có những phong cảnh và nét độc đáo riêng biệt. Vùng Bắc của Brasil nổi tiếng với khung cảnh thiên nhiên hoang sơ của núi rừng Amazon và có ưu thế trong lĩnh vực du lịch sinh thái. Vùng Đông Bắc của Brasil có nhiều bãi biển đẹp. Địa điểm du lịch nổi tiếng nhất tại vùng Đông Bắc là thành phố Salvador, Bahia. Thành phố này hội tụ nhiều vẻ đẹp khác nhau của đất nước Brasil, từ những bãi biển đẹp bên bờ Đại Tây Dương đến Trung tâm Lịch sử Salvador, Bahia với nhiều tòa nhà và thánh đường cổ kính đã được UNESCO xếp hạng Di sản Văn hóa Thế giới. Bên cạnh đó cũng phải kể đến hai thành phố Recife và Fortaleza. Vùng Trung Tây, bao gồm cả thủ đô Brasilia của Brasil nằm ở trung tâm đất nước lại có nhiều công viên quốc gia đẹp và hùng vĩ. Vùng Đông Nam là nơi tập trung đông dân nhất tại Brasil với hai thành phố lớn: Rio de Janeiro có những bãi biển đẹp, bức tượng Chúa Cứu Thế khổng lồ và lễ hội Carnaval tưng bừng náo nhiệt trong khi Sao Paulo là một khu đô thị sầm uất và giàu có. Những bang miền Nam Brasil với khí hậu mát mẻ thì mang đậm bản sắc châu Âu cổ kính với các kiến trúc Đức, Italia... của những dòng người nhập cư gốc Âu.Trong năm 2005, Brasil thu hút 5.358.000 khách du lịch, tăng 4% so với năm 2004. Brasil là địa điểm du lịch hấp dẫn thứ tư tại châu Mỹ với những du khách chủ yếu đến từ Argentina, Mỹ và Bồ Đào Nha. Doanh thu từ du lịch của Brasil mỗi năm ước tính đạt 4 tỉ real và góp phần tạo thêm khoảng 678.000 nghề nghiệp mới của người dân.
Xếp hạng quốc tế
- Xếp thứ 5 trên thế giới về dân số (Xem Danh sách các nước theo số dân).
- Xếp thứ 5 trến thế giới về diện tích (Xem Danh sách các nước theo diện tích).
- Xếp thứ 70/177 quốc gia về chỉ số phát triển con người (Xem Danh sách các quốc gia theo thứ tự về Chỉ số phát triển con người).
- Xếp thứ 10 thế giới về GDP (theo Quỹ Tiền tệ Quốc tế IMF).
- Xếp thứ 111/157 quốc gia về mức độ tự do kinh tế[49].
- Xếp thứ 70/163 quốc gia về Chỉ số nhận thức tham nhũng.
Ngày lễ quốc gia
Ngày lễ cố định | ||
Thời điểm | Tên | Mục đích |
---|---|---|
1 tháng 1 | Năm mới | Ngày bắt đầu năm mới theo lịch phổ biến |
21 tháng 4 | Ngày Tiradentes | Kỉ niệm phong trào giành độc lập (Inconfidência Mineira) |
1 tháng 5 | Ngày Quốc tế Lao động | Vinh danh giai cấp công nhân |
7 tháng 9 | Ngày độc lập (Independência) | Kỉ niệm tuyên bố độc lập của Brasil từ Bồ Đào Nha |
12 tháng 10 | Lễ Đức Mẹ Aparecida (Nossa Senhora Aparecida) | Kỉ niệm vị quan thầy của Brasil |
2 tháng 11 | Lễ Các Đẳng (Finados) | Tưởng niệm những người đã khuất |
15 tháng 11 | Ngày thành lập nước Cộng hòa (Proclamação da República) | Kỉ niệm sự chuyển đổi từ nền quân chủ sang chế độ cộng hòa |
25 tháng 12 | Giáng sinh (Natale) | Kỉ niệm ngày Chúa Giêsu ra đời |
Ngày lễ thay đổi theo năm | ||
Thời điểm | Tên | Mục đích |
Khoảng tháng 2 hoặc tháng 3 | Lễ hội Carnaval | Diễn ra ngay trước Mùa chay, mặc dù không phải ngày lễ quốc gia nhưng do Carnaval được đánh dấu bằng ngày thứ Ba trước thứ Tư của Mùa chay, nên thông thường người Brasil không làm việc từ thứ Hai và vì vậy đợt lễ sẽ kéo dài 4 ngày (từ Chủ nhật đến hết thứ Tư)[50][51] |
Khoảng tháng 3 hoặc tháng 4 | Thứ sáu Tuần Thánh (Sexta-Feira Santa) | Kỉ niệm sự đóng đinh vào thập giá và sự chết của Chúa Giêsu |
Khoảng tháng 5 hoặc tháng 6 | Lễ Mình Máu Chúa Kitô (Corpus Christi) | Kỉ niệm Chúa Giêsu thiết lập Bí tích Thánh Thể |
Ngày bầu cử | ||
Thời điểm | Tên | Mục đích |
Chủ nhật đầu tiên của tháng 10 | Ngày bầu cử Tổng thống Brasil (Eleição) | Theo luật số 9.504/97, cứ 4 năm một lần ngày bầu cử Tổng thống Brasil được tổ chức vào Chủ nhật đầu tiên của tháng 10. Nếu phải bầu cử vòng hai thì ngày bầu sẽ là Chủ nhật cuối cùng của tháng. |
Hình ảnh về Brasil
Thiên nhiên
Văn hóa - xã hội
Tham khảo
- ^ CIA World Factbook ước tính, CIA World Factbook ước tính
- ^ IBGE (31/8/2011). “IBGE divulga as estimativas populacionais dos municípios em 2011” (bằng Tiếng Bồ Đào Nha). Viện Địa lý và Thống kê Brazil IBGE. Truy cập 22/11/2011. ‘"Estima-se que o Brasil tenha 192.376.496 habitantes, 1.620.697 a mais que em 2010, quando a população chegou a 190.755.799" (Ước tính dân số năm 2011 là 192.376.496 người, nhiều hơn 1.620.697 người so với năm 2010)’
- ^ “People of Brazil”. The World Factbook. Central Intelligence Agency. 2008. Truy cập ngày 3 tháng 6 năm 2008.
- ^ a ă â “Geography of Brazil”. The World Factbook. Central Intelligence Agency. 2008. Truy cập ngày 3 tháng 6 năm 2008.
- ^ a ă “Introduction of Brazil”. The World Factbook. Central Intelligence Agency. 2008. Truy cập ngày 3 tháng 6 năm 2008.
- ^ a ă “Brazilian Federal Constitution” (bằng tiếng Bồ Đào Nha). Presidency of the Republic. 1988. Truy cập ngày 3 tháng 6 năm 2008. “Brazilian Federal Constitution”. v-brazil.com. 2007. Truy cập ngày 3 tháng 6 năm 2008. “Unofficial translate”
- ^ “Territorial units of the municipality level” (bằng tiếng Bồ Đào Nha). Brazilian Institute of Geography and Statistics. 2008. Truy cập ngày 3 tháng 6 năm 2008.
- ^ "World Development Indicators database" (PDF file), World Bank, 7 October 2009.
- ^ “CIA – The World Factbook – Country Comparisons – GDP (purchasing power parity)”. Cia.gov. Truy cập ngày 25 tháng 1 năm 2011.
- ^ Clendenning, Alan (17 tháng 4 năm 2008). “Booming Brazil could be world power soon”. USA Today – The Associated Press. tr. 2. Truy cập ngày 12 tháng 12 năm 2008.
- ^ Lucas Nácul (NIEE - UFRGS) & Ana Paula (FACCAT). “Os Primeiros Habitantes do Brasil (origem, distribuição, população, etc.)” (html) (bằng Tiếng Bồ Đào Nha). Núcleo de Informática na Educação Especial. Truy cập 22/11/2011. “Em terras brasileiras, pelo menos até a década de 1970, os estudos arqueológicos, paleontológicos e geológicos apontavam os vestígios humanos encontrados na região de Lagoa Santa, Minas Gerais, como os mais antigos, datando de 8.000 anos atrás”
- ^ Những cuộc nổi dậy của nô lệ tại Brasil
- ^ Chương trình tư hữu hóa ở Brasil (tiếng Bồ Đào Nha)
- ^ Chính sách kinh tế của tổng thống Lula de Silva Theo BBCBrasil (tiếng Bồ Đào Nha)
- ^ Hiến pháp Liên bang Brasil (tiếng Bồ Dào Nha)
- ^ Hệ thống luật pháp Brasil - Tổ chức các quốc gia châu Mỹ
- ^ Nossos direitos nas suas mãos - Đại học São Paulo
- ^ Brazil as an intermediate state and regional power: action, choice and responsibilities - Theo Blackwell Synergy
- ^ Thông tin cơ bản về Liên bang Brasil và quan hệ với Việt Nam trên trang của Bộ Ngoại giao Việt Nam
- ^ The World Factbook, quân đội Brasil - trang của CIA
- ^ IBGE (10 tháng 11 năm 2002). “Área Territorial Oficial” (bằng Tiếng Bồ Đào Nha). Viện Địa lý và Thống kê Brazil IBGE. Truy cập 22/11/2011. ‘"Nestas circunstâncias, obteve-se para a área do Brasil o valor de 8.514.876,599 km2"’
- ^ “Average Conditions - Rio de Janeiro (Nhiệt độ trung bình tại Rio de Janeiro])” (bằng Tiếng Anh). BBC. 11 tháng 7 năm 2003. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 7 năm 2003.
- ^ Khí hậu Brasil
- ^ Báo cáo môi trường Brasil - The University of Chicago Press
- ^ a ă Tình trạng môi trường tại Brasil - The National Academies Press
- ^ Báo cáo kinh doanh tại Brasil - trang Doing Business
- ^ PIB revisado
- ^ The World Factbook - Kinh tế Brasil - CIA
- ^ Chỉ số tăng trưởng cạnh tranh giữa các nền kinh tế - Diễn đàn Kinh tế Thế giới
- ^ Báo cáo Năng lượng Thế giới
- ^ Thông tin số liệu về Brasil
- ^ BISSP. “Brazilian International Space Station Program” (bằng Tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ 19/12/2000. Truy cập 22/11/2011. ‘"On October 14, 1997, the Brazilian and US governments (represented by the Brazilian Space Agency - AEB and by NASA) signed an agreement where Brazil agreed to provide parts for the ISS to NASA and will have utilization rights"’ Chương trình ISS - Instituto Nacional de Pesquisas Espaciais
- ^ Danh sách các máy gia tốc Synchrotron trên thế giới - Rheinischen Friedrich-Wilhelms-Universität Bonn
- ^ Data FAOSTAT, year 2005
- ^ Memorial do Imigrante Số liệu về dân nhập cư của chính phủ Brasil
- ^ “Cidades@”. IBGE. Truy cập ngày 23 tháng 6 năm 2007.
- ^ “PNAD” (bằng tiếng Bồ Đào Nha). 2006. Truy cập ngày 20 tháng 6 năm 2007.
- ^ Thirteenth periodic report of States parties due in 1994 - Văn bản luật 1994 của Brasil - UN Human Rights
- ^ [1] Báo cáo về giáo dục Brasil
- ^ Nhân khẩu Brasil - CIA The World Factbook
- ^ SECA NO NORDESTE BRASILEIRO - Theo Chính phủ Brasil
- ^ Thuế quan Brasil
- ^ Por que o Brasil não cresce? - Theo Fzort.org
- ^ Lãi suất nợ chính phủ - Theo Febraban.org.br
- ^ Tham nhũng tại Brasil - Theo Monitor das Fraudes
- ^ Thông tin du lịch của chính phủ
- ^ Censo Demográfico 2010: Características gerais da população, religião e pessoas com deficiência (In Portuguese). IBGE: Instituto Brasileiro de Geografia e Estatística. Retrieved at 2012-07-03.
- ^ IBGE: catolicismo cai 22,4% e vê nova ascensão de evangélicos(In Portuguese). Terra Notícias. Retrieved at 2012-07-03.
- ^ Bảng xếp hạng mức độ tự do kinh tế giữa các quốc gia - The Heritage Foudation
- ^ O que é carnaval?
- ^ Carnaval
Liên kết ngoài
Tìm thêm về Brasil tại những đồng dự án của Wikipedia: | |
Từ điển ở Wiktionary | |
Sách ở Wikibooks | |
Cẩm nang du lịch ở Wikivoyage | |
Hồ sơ ở Wikiquote | |
Văn kiện ở Wikisource | |
Hình ảnh và phương tiện ở Commons | |
Tin tức ở Wikinews | |
Tài liệu giáo dục ở Wikiversity |
- Chính phủ và Hành chính
- Brasil.gov.br — Trang web chính thức của chính phủ (tiếng Bồ Đào Nha)
- Câmara dos Deputados — Official Chamber of Deputies site (tiếng Bồ Đào Nha)
- Presidência da República — Trang web chính thức của tổng thống (tiếng Bồ Đào Nha)
- Senado Federal — Trang web chính thức của Nghị viện (tiếng Bồ Đào Nha)
- Thông tin và Thống kê
- Congressional Research Service (CRS) Reports regarding Brazil[[]][liên kết hỏng]
- Library of Congress — A Country Study: Brazil
- Encyclopaedia Britannica Brazil Country Page
- National Library (available in both English and Portuguese)
- Brazilian Maps Global & Regional & City Maps - Bản đồ các thành phố chính của Brazil
- Satellite images of Brazil's main cities
- CIA - The World Factbook
- Deforestation in the Brazilian Amazon — year by year data
- Brazil, a biodiversity hotspot
- Kinh tế và Kinh doanh
- Doing Business in Brazil — Hướng dẫn của Ngân hàng Thế giới về việc kinh doanh ở Brazil
- "Brazil’s Presidential Election: Background on Economic Issues" from the Center for Economic and Policy Research, Mark Weisbrot & Luis Sandoval, 9/2006
- Tin tức và Quan điểm
- The Council on Hemispheric Affairs
- Infolatam Thông tin và tin tức về Brasil (tiếng Tây Ban Nha)
- Du lịch
- Accommodation in Brazil — Guide courtesy of the Brazilian embassy in London, UK Bản sao chép trên brazil.com.au
- Wikitravel Guide to Brazil
- Travel Guide to Brazil — Visit Rio de Janeiro, the Amazon, and the Pantanal and read about their history and culture, along with trip planning advice.
- Brazil Travel Guide Online - Hướng dẫn du lịch Brazil trực tuyến
- Du lịch Brazil
- Du lịch Sao Paulo Brazil
|
|
Bạch lộ
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
|
Bài viết hoặc đoạn này cần thêm chú thích nguồn gốc để có thể kiểm chứng thông tin. Những nội dung không có nguồn có thể bị đặt vấn đề và xóa bỏ. Mời bạn bổ sung chú thích từ các nguồn đáng tin cậy để giúp cải thiện bài viết. |
Hai mươi tư tiết khí Kỷ nguyên J2000 |
||
Kinh độ | Tiết khí | Dương lịch (thông thường) |
---|---|---|
Xuân | ||
315° | Lập xuân | 4 - 5/2 |
330° | Vũ thủy | 18 - 19/2 |
345° | Kinh trập | 5 - 6/3 |
0° | Xuân phân | 20 - 21/3 |
15° | Thanh minh | 4 - 5/4 |
30° | Cốc vũ | 20 - 21/4 |
Hạ | ||
45° | Lập hạ | 5 - 6/5 |
60° | Tiểu mãn | 21 - 22/5 |
75° | Mang chủng | 5 - 6/6 |
90° | Hạ chí | 21 - 22/6 |
105° | Tiểu thử | 7 - 8/7 |
120° | Đại thử | 22 - 23/7 |
Thu | ||
135° | Lập thu | 7 - 8/8 |
150° | Xử thử | 23 - 24/8 |
165° | Bạch lộ | 7 - 8/9 |
180° | Thu phân | 23 - 24/9 |
195° | Hàn lộ | 8 - 9/10 |
210° | Sương giáng | 23 - 24/10 |
Đông | ||
225° | Lập đông | 7 - 8/11 |
240° | Tiểu tuyết | 22 - 23/11 |
255° | Đại tuyết | 7 - 8/12 |
270° | Đông chí | 21 - 22/12 |
285° | Tiểu hàn | 5 - 6/1 |
300° | Đại hàn | 20 - 21/1 |
Theo quy ước, tiết bạch lộ là khoảng thời gian bắt đầu từ khoảng ngày 7 hay 8 tháng 9 khi kết thúc tiết xử thử và kết thúc vào khoảng ngày 23 hay 24 tháng 9 trong lịch Gregory theo các múi giờ Đông Á khi tiết thu phân bắt đầu.
Lịch Trung Quốc, cũng như lịch ở các nước Đông Á cổ đại bao gồm Việt Nam, bị nhiều người lầm là âm lịch thuần túy, dẫn đến ngộ nhận về việc tiết khí nói chung và Bạch lộ nói riêng được tính theo chu kỳ của Mặt Trăng quay xung quanh Trái Đất. Trên thực tế lịch Trung Quốc cổ đại là một loại âm dương lịch, trong đó tiết khí, từ thời Hán Vũ Đế, đã được tính theo vị trí của Trái Đất trong chu kỳ chuyển động trên quỹ đạo xung quanh Mặt Trời. Theo cách tính hiện đại, với điểm xuân phân là gốc có kinh độ Mặt Trời bằng 0°, thì điểm diễn ra hay bắt đầu tiết Bạch lộ ứng với kinh độ Mặt Trời bằng 165°. Ngày bắt đầu tiết Bạch lộ do vậy được tính theo cách tính của dương lịch hiện đại và nó thông thường rơi vào ngày 7 hay 8 tháng 9 dương lịch tùy theo từng năm. Tiết khí đứng ngay trước Bạch lộ là Xử thử và tiết khí kế tiếp sau là Thu phân.
Xem thêm
Thể loại:
Trận Borodino (tiếng Nga: Бородинское сражение, Borodinskoe srazhenie; tiếng Pháp: Bataille de la Moskova) giữa quân đội Pháp do Napoléon I chỉ huy và quân đội Nga dưới sự chỉ huy của tướng M. I. Kutuzov diễn ra tại vùng Borodino - ngoại ô Moskva vào ngày 7 tháng 9 năm 1812 (hay 26 tháng 8 năm 1812 theo lịch Nga cổ). Đây được coi là trận chiến lớn thứ 3 và đẫm máu nhất trong các cuộc chiến tranh xâm lược của Napoléon Bonaparte, với sự tham gia của trên 25 vạn quân từ cả hai phía và số thương vong ít nhất trên 7 vạn người.
Để bảo vệ đất nước, những chiến binh Nga đã chiến đấu ngoan cường.[11] Trận đánh lịch sử kéo dài chỉ vỏn vẹn trong một ngày trời với thiệt hại nặng nề cho cả đôi bên, nhưng vì những lý do chiến thuật quân đội Nga - sau khi tuyên bố thắng trận [1] - đã tự động rút lui để nhường đường cho quân Pháp tiến vào thành phố Moskva. Tuy vậy, Napoléon đã thất bại trong mục đích tiêu diệt Quân đội Nga trong trận đánh lớn một ngày.[12] Do đó, Kutuzov và ba quân vẫn đứng vững[11] và trận kịch chiến tại Borodino trở thành một chiến thắng tinh thần của nước Nga.[13]
Và, sau trận đánh này quân xâm lược tinh nhuệ của Pháp đã bị tiêu hao sinh lực đáng kể, không đủ khả năng để tiếp tục đánh chiếm các vùng đất khác của Đế quốc Nga. Trong khi đó các nguồn tiếp tế lương thực thuốc men từ hậu phương đều bị quân Nga đánh phá. Kết cục mùa đông năm 1812 quân Pháp đã phải tháo chạy khỏi nước Nga và chiến dịch quân sự đánh chiếm nước Nga của Napoleon I hoàn toàn phá sản, mà nguyên nhân chủ chốt là nhờ sự sống còn của lực lượng Quân đội Nga sau trận đánh Borodino này.[14]
Cuộc đại chiến Borodino có tầm quan trọng đặc biệt lớn trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc Nga, là cuộc kháng chiến chống ngoại xâm của họ, đưa nước Nga cận đại trở nên vinh quang trên võ đài quốc tế.[12] Trận đánh ác liệt này luôn lôi cuốn giới sử học.[14] Nhờ tài nghệ chỉ huy nhân dân Nga đấu tranh chống những kẻ xâm lăng, Nguyên soái Mikhail Illarionovich Kutuzov - vị Tổng tư lệnh Quân đội Nga trong cuộc đại chiến này - được tôn vinh làm anh hùng thiên cổ.[15] Hàng triệu người biết đến trận đánh lớn này thông qua cuốn tiểu thuyết "Chiến tranh và Hòa bình của đại văn hào nước Nga Lev Nikolayevich Tolstoy.[16]
Đội quân La Grande Armée dưới sự chỉ huy của Napoléon bắt đầu hành quân vào nước Nga vào ngày 16 tháng 6 năm 1812. Sa hòang Aleksandr I đã phát động một cuộc chiến tranh Vệ quốc nhằm chống lại kẻ xâm lược. Theo kế hoạch của viên tướng người Đức, Karl Ludwig von Phull, đại quân dưới quyền chỉ huy của Hầu tước Mikhail Barklay-de-Tolli sẽ chặn quân Pháp ở vùng Vilnius, còn đạo quân phía Nam do Bagration chỉ huy sẽ phát động đánh thọc sườn quân Pháp. Tuy nhiên, mọi người sớm nhận ra rằng kế hoạch của von Phull là một sai lầm chết người, với 60 vạn quân, La Grande Armée thừa sức nghiền nát hai đạo quân Nga. Hơn nữa, sự có mặt của Sa hoàng Nga trong lúc này càng khiến nội bộ người Nga lục đục hơn. Quân Nga đang đóng ở dọc biên Ba Lan buộc phải rút lui trược sự tiến công của người Pháp.[20]
Vì vậy, trong những ngày đầu của cuộc chiến quân đội Pháp đã tiến rất nhanh vào sâu lãnh thổ nước Nga mà không gặp phải bất cứ sự kháng cự đáng kể nào. Sau khi đến Vitebsk, Napoléon hy vọng sẽ chạm trán và tiêu diệt quân Nga đâu đó gần đây, nhưng trên thực tế, quân Pháp đang ở cách nơi đóng quân gần nhất của quân Nga tại Kaunas tới 925 km (575 mi) [21] Du mục Cozak, Khinh Kỵ binh, lính du kích và cả lính Pháp đào ngũ đều được điều động đánh phá vào đường vận lương của quân Pháp khiến họ gặp nhiều khó khăn và suy giảm lực lượng.[22] Đại quân dưới quyền chỉ huy trực tiếp của Napoléon vượt sông Neman gồm có 286.000 người nhưng vào lúc mà trận đánh diễn ra chỉ còn có 161.475, phần lớn đều chết do đói hoặc do bệnh tật.[23] Tuy nhiên, với tham vọng đả bại quân Nga, Napoléon bỏ qua mọi trở ngại mà hành quân tiến sâu vào đất Nga và kéo dài con đường vận lương thực.
Trong khi đó, cuộc đấu đá nội bộ quân Nga giữa phe Barclay và những người còn lại nổ ra khi ông chủ trương rút tiếp để bảo toàn lực lượng và chờ đợi quân Pháp suy yếu vì thiếu đói và giá lạnh để phản công.[24] Ông nhận thức rõ chạm trán với quân Pháp lúc này là chuốc lấy thất bại. Tuy nhiên các binh sĩ Nga đều khao khát chiến đấu chống lại quân xâm lược. Đã có nhiều tin đồn ác ý về Barclay, vì thế ông bị thất sủng và được thay thế bởi Nguyên Soái Mikhail Illarionovich Kutuzov sau khi ông này được một Ủy ban đặc biệt bầu chọn vào ngày 5 tháng 8.[25] Vị tướng 67 tuổi không nhận được đánh giá cao từ người đương thời với ông là Napoléon.[26] Ông thực sự cũng không ưa Barklay vì ông này là người gốc Scotland và nhiều người không chấp nhận Barklay phục tùng Kutosov.[27] Ngày 18 tháng 8, Kutosov đến Sarevo để ra mắt quân đội.[20]
Sau khi nắm tình hình quân đội, Kutosov tổ chức một đội hậu quân mạnh do tướng Konovnytsyn chỉ huy, rồi hạ lệnh vừa rút lui vừa chuẩn bị một trận đánh lớn. Ông hiểu rõ quyết định rút lui của tướng Barklay là chính xác nhưng cứ tiếp tục rút lui như thế này thì sĩ khí của quân Nga sẽ tiêu tan hết.[20] Vì vậy, một trận đánh để giữ sĩ khí ba quân lúc này là rất cần thiết. Tuy nhiên, vị chỉ huy mới vẫn chưa quyết định lập đồn phòng thủ khi Moskva chỉ còn cách 125 kilômét (78 mi). Ông ra lệnh quân đội cho những người khác rút khỏi Gzhatsk (Gagarin) khi mà tỷ lệ chênh lệch giữa quân Pháp và quân Nga giảm từ 3:1 chỉ còn 5:4.[28] Thời cơ đã đến.[20]
Một hàng phòng ngự được thiết lập tại Borodino, vị trí đẹp nhất nằm ngay trước Moskva.[29] Chiến trường Borodino quá mở và quá ít chướng ngại để bảo vệ quân Nga khi bị đánh thọc sườn vào bên trái. Tuy nhiên, nó được bao quanh bởi sông Kolocha và nó nằm ngay trên con đường nối liền Smolensk và Moskva, và thực tế là không có vị trí nào tốt hơn như vậy.[20] Ngày 3 tháng 9, Kutosov bắt đầu cho đào quân lính đào hào đắp đất, bao gồm cả trận địa pháo của Raevski ở chính giữa bên cánh phải và trận địa pháo của Bagration, được người Pháp gọi là "Bagration flèches" ở bên trái.
Cuộc giao tranh nổ ra vào ngày 5 tháng 9 khi đạo quân của thống chế Joachim Murat chạm trán Konovnitzyn trong một cuộc đụng độ lớn giữa kỵ binh hai bên. Tuy nhiên, quân Nga rút lui về tu viện Kolorzkoi không bao lâu sau đó, khi mà phía bên sườn của họ đang bị đe dọa trầm trọng.[34] Chiến trận tiếp tục diễn ra ngày hôm sau, khi gặp quân đoàn IV của Pháp do Phó vương Ý Eugène de Beauharnais dẫn đầu, tuy nhiên Konovnitzyn lại tiếp tục rút lui. Người Nga rút về gác tại đồn Shevardino, nơi mà một cuộc đụng độ lớn sắp xẩy ra.[35] Giao tranh lại nổ ra khi thông chế Murar dẫn đầu hai quân đoàn kỵ binh là Nansouty và Montbrun, được yểm trợ bởi Sư đoàn bộ binh Compan thuộc Quân đoàn I dưới quyền của thống chế Louis Nicolas Davout. Ngoài ra, quân Nga còn bị đạo quân do thống chế Józef Poniatowski tấn công từ phía nam. Sau một hồi giao tranh, con số thương vong của cả hai bên khá lớn, tuy nhiên những người lính Nga kiên quyết chiến đấu tới cùng và không chịu rút lui trước khi Kutosov phải lên tiếng.[20] Quân Nga được yểm trở bởi 1 sư đoàn Thiết kỵ binh và 1 tiểu đoàn bộ binh đơn độc, họ khua chiêng trống ầm ĩ đễ làm người Pháp nhầm tưởng về quân số mà không giám đuổi theo. Sau đó, quân Pháp chiếm được đồn Shevardino, có ít nhất 4.000-5.000 người ở phía Pháp và 6.000 người Nga bị thương hoặc đã bỏ mạng.[36] Công sự bị phá hủy, và được bao phủ bởi một lớp xác lính của hai phe.[37]
Việc quân Pháp bất ngờ đánh vào từ phía tây và sự sụp đổ của đồn Shevardino khiến nội tình quân Nga rơi vào tình trạng lộn xộn. Cánh trái của phòng tuyến của họ đã vỡ, quân Nga buộc phải rút lui về phía đông, xây dựng một vị trí phòng thủ tạm bợ tại làng Utitza. Và như vậy, một cuộc tấn công của người Pháp vào cánh trái của quân Nga là điều dễ hiểu.[38]
Vị trí của quân Nga tại Borodino được bao bọc bởi một loạt công sự bằng đất chạy dài theo một vòng cung từ phía sông Moskva bên phải, và chạy dọc theo nhánh của nó là sông Kolocha (bờ sông có dốc thẳng đứng, góp phần vào phòng thủ), và hướng tới làng Utitza ở bên trái.[39]
Rừng dày rải rác dọc theo bên cánh trái người Nga và ở trung quân Pháp
(phía Kolocha), khiến việc triển khai và kiểm soát của người Pháp trở
nên khó khăn, và đi song song nó lại giúp những người đang cố phòng thủ.
Trung quân Nga được bao quanh bởi trận địa pháo Raevsky, được lắp hàng
chục khẩu pháo từ 12 đến 19 pao.
Kutuzov là rất quan tâm tới việc người Pháp có thể đánh chiếm xa lộ Smolensk mới xung quanh vị trí của mình và hướng đến Moskva, do vậy, ông sai tướng Barclay cùng Tập đoàn quân thứ 1 đóng ở phía bên phải bên phải, vị trí này vốn được phòng thủ chắc chắn và hầu như không thể bị tấn công bởi người Pháp. Tập đoàn quân thứ 2 dưới quyền tướng Bagration vốn được dự kiến đóng ở phía bên trái, và phòng tuyến Shevardino đã vỡ khiến tình thế trở nên nghiêm trọng nhưng Kutozov không làm gì để thay đổi các khuynh hướng ban đầu mặc dù các tướng luôn xin triển khai lại quân đội.
Quân Nga được lệnh của Kutosov nhanh chóng đáp trả bằng một cuộc tấn công vào flèches phía nam vốn bị Pháp chiếm trước đó. Thống chế Jean Rapp ra lệnh cho sư đoàn của tướng Compans, được yểm trở bởi tướng Desaix và Junot, sư đoàn Ledrus thuộc quân đoàn của Ney đánh chiếm công sự tiếp theo.[43] Cả hai công sự đều bị người Pháp chiếm sau đó không lâu, nhưng họ lại gặp khó khăn ngay sau đó. Các flèches được thiết kế hình chữ V nên quân Pháp bị đe dọa cả hai phía. Trong 3 giờ đồng hồ tiếp theo, công sự này bị công ít nhất 7 lần. Ngay từ lúc 7 giờ, Kutosov điều ba trung đoàn Cận vệ, 3 trung đoàn Thiết kỵ binh, và 8 trung đoàn lính nem lựu cùng 24 khẩu đại pháo 24 pao vào đội dự bị.[44] Trong 2 giờ đồng hồ tiếp theo, Kutosov liên tiếp đưa ra các lệnh rút quân.[45] Lúc mười giờ quân Pháp đánh bật được Bagration và chiếm được tất cả 3 flèches. Bagration ngay sau đó thu thập tàn quâ và chiếm được lại công sự của mình, nhưng ông lại bị trúng đạn vào chân và chết ngay sau đó ít lâu.[46]
Do Napoléon chẳng biết gì về lòng kiên cường đấu tranh của người Nga
nên ông nghĩ rằng chỉ một trận đánh Borodino cùng với cuộc xâm lược
thành Moskva sẽ buộc người Nga phải thần phục ông.[48] 5 giờ sáng ngay 7-9-1812, quân Pháp bắt đầu tiến công. Thế là mở ra trận Borodino - trận đánh khốc liệt nhất ở châu Âu trước cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ nhất.[49]
Các đợt tấn công đầu tiên của quân Pháp nhằm vào cánh phải quân Nga,
nhưng ít lâu sau đó, ý đồ của Napoleon đã lộ rõ: mục tiêu thật sự là các
lực lượng cánh trái và trung tâm, cụ thể là trận địa pháo Raievsky. Sau
khi chiếm lĩnh được nó rồi, quân Pháp sẽ ép quân Nga về dòng sông
Co-lô-tra để tiêu diệt
Lúc đầu do có lực lượng ưu thế nên quân Pháp đã chiếm được thôn Bôrôđinô nhưng không phát triển tiếp theo được do quân Nga đánh trả dữ dội. Nhìn chung các cuộc đột kích đầu tiên của quân Pháp nhằm lôi kéo Quân đội Nga di chuyển đội hình về hai cạnh sườn đều không đạt kết quả.
Đến 6 giờ, quân Pháp chuyển sang tiến công trận địa phòng ngự quân Nga ở thôn Semenovski nhưng cũng bị đẩy lùi. Ngay sau đó, Napoléon tập trung 8 sư đoàn bộ binh, 3 quân đoàn kị binh và 120 pháo mở cuộc đột kích lần thứ hai. Quân Pháp lúc đầu chiếm được phía Nam khu vực phòng ngự do tướng Bagratiôn chỉ huy, nhưng sau đó quân Nga phản kích chiếm lại. 8 giờ, quân Pháp mở cuộc công kích lần thứ 3, nhưng lại bị thất bại. Trong khi đó 2 sư đoàn kỵ binh Pháp tiến công trận địa pháo do Raévski chỉ huy cũng không đạt kết quả. Như vậy, cả 3 cuộc công kích của quân Pháp vào khu vực chủ yếu trận địa của quân Nga đã thất bại.
Ở cánh trái trận địa Quân đội Nga, một quân đoàn Pháp sau 3 giờ công kích liên tục đã chiếm được thôn Utisa. Thắng lợi ở Utisa đã củng cố quyết tâm xâm lược của Napoléon. Ông tiếp tục mở 8 cuộc công kích vào trận địa pháo của Raévski và khu vực phòng ngự ở Semenovski. Cuộc chiến tại đây diễn ra rất quyết liệt. Quân Pháp và quân Nga giành giật nhau các khu vực trận địa. Quân đội Nga đã liên tiếp đánh lui các đợt tấn công ác liệt của quân Pháp. Trong đợt công kích lần thứ 6, Napoléon tập trung trên một đoạn hẹp rộng 1.5 km tới 100 khẩu pháo, và 4.5 vạn quân. Quân Nga có khoảng 1.5 vạn quân và 200 khẩu pháo đã kháng cự lại một cách rất quyết liệt. Trong lần công kích này của quân Pháp, hơn một nửa số pháo Nga bị phá hủy, công sự bị san bằng nhưng quân Pháp không thể chiếm được trận địa. Vị Nguyên soái anh dũng Bagratiôn bị thương nặng, được đưa ra khỏi chiến trường và không lâu sau qua đời do vết thương không thể chữa được,[50] nhưng tinh thần dũng cảm và ý chí của ông đã thôi thúc những người lính Nga tiếp tục chiến đấu. Mệnh lệnh của Kutuzốv "giữ vững trận địa đến người cuối cùng" đã được thông báo cho toàn bộ các đơn vị Quân đội Nga. Tuy nhiên, do lực lượng quân Pháp chiếm ưu thế nên Kutuzốv quyết định cho ba quân rút lui theo khe núi ở thôn Semenovski để củng cố lực lượng.
Sau khi chiếm được một số khu vực phòng ngự, quân Pháp tập trung lực lượng mở đợt tiến công và chiếm được khu vực phía Tây thôn Semenovski. Tại đây, trận địa pháo của Raevski đã ở trước mặt quân Pháp. Napoléon tung hầu hết lực lượng dự bị và đang cân nhắc liệu có tung đội cận vệ của mình vào chiến đấu hay không. Trước tình thế nguy hiểm đó, Kutuzốv đã có một quyết định kịp thời: lệnh cho kỵ binh Nga của tướng Platov tiến công đánh vào cánh trái quân Pháp, đồng thời sử dụng đội kỵ binh Kazak tiến công đoàn xe vận tải của đối phương. Kỵ binh Nga đã chọc thủng được đội hình quân Pháp và gây ra sự hoảng loạn ở hậu phương, buộc Napoléon phải điều lực lượng về cánh trái để duy trì cuộc tiến công vào trận địa pháo của Raevski và không tung đội cận vệ vào trận chiến. Trận tấn công bị hoãn lại. Chớp thời cơ, Kutuzốv tăng cường lực lượng ở trung tâm và cánh trái bằng cách điều lực lượng dự bị và lực lượng từ cánh phải dồn lại. Trong suốt trận đánh kịch liệt, Bá tước Caulaincourt tháp tùng Napoléon. Ông ngồi trong trại quân, cảm thấy thật nhớ thương người vợ mới cưới của mình, cưới chưa được bao ngày thì phải xa cách.[51]
Đến 14 giờ, Napoléon tiếp tục cho lực lượng tiến công trận địa pháo quân Nga và đưa đội dự bị cuối cùng vào chiến đấu. Đội giáp binh của Bá tước Cô-lanh-cua được tung vào trận, sau khi Quân đội Nga tiêu diệt được tướng Pháp Montbrunn.[51] Về phía Nga, sư đoàn 24 của tướng Likhatrov được điều đến bảo vệ. Trận chiến lại diễn ra quyết liệt. Quân Nga chiến đấu dũng cảm theo lời kêu gọi của tướng Likhatrov: "Anh em ơi, phía sau là Mát-xcơ-va." Tuy nhiên quân Pháp càng lúc càng áp đảo. Các khẩu pháo Nga lúc này không thể khai hỏa vì quân Pháp quá gần. Các pháo thủ phải dùng cả cây thông nòng để chiến đấu. Mặc dù bị thiệt hại nặng nề, nhưng đến 15 giờ 30 phút, quân Pháp đã chiếm được trận địa. Toàn bộ sư đoàn 24 Nga nằm lại trận địa. Likhatrov cũng phanh ngực xông thẳng vào lưỡi lê của quân địch. Trận địa pháo thất thủ. Bên cạnh xác các binh sĩ Nga là 1000 xác chết thuộc đội giáp binh của quân Pháp, trong đó có cả Cô-lanh-cua. Khi giao chiến với Likhatrov, Caulaincourt đã bị trúng một viên đạn của súng hỏa mai Quân đội Nga và ngã xuống trước toàn thể đội giáp binh của ông ta, và đây là một tổn thất lớn lao đối với Napoléon nói riêng và toàn thể quân địch nói chung.[51][52]
Song việc chiếm trận địa pháo của Raevski không còn ý nghĩa. Lúc đó, quân Nga đã bỏ khu vực phòng ngự ở cánh trái và trung tâm lên chiếm lĩnh trận địa mới cách đó từ 1 đến 1.5 km. Như vậy, quân Nga mặc dù bị mất một số khu vực nhưng vẫn giữ được vững đội hình chiến đấu. Trong khi đó quân Pháp sau nhiều lần công kích, lực lượng bị tiêu hao quá lớn buộc Napoléon phải ngừng công kích, ra lệnh cho quân Pháp rút về vị trí xuất phát tiến công. Đó cũng là biểu hiện sự bế tắc của Napoléon trong trận này. Ngay sau đó quân Nga đã chiếm lại các vị trí tiền tiêu. Đại vă n hào Lev Nikolayevich Tolstoy có viết:[6]
Đến 18 giờ, sau khi tổ chức củng cố lại trận địa, Kutuzốv tuyên bố
quân Nga chiến thắng và ông vẫn động viên quân Nga sẵn sàng đánh bại các
cuộc tiến công của quân Pháp đồng thời chuẩn bị cho cuộc tiến công quân
địch vào sáng hôm sau. Với cuộc đấu tranh anh dũng của Quân đội Nga,
giờ đây quân cướp nước đã suy yếu, và trận đánh Borodino đã trở thành
một chiến thắng thực sự của nước Nga.[53]
Song, về phía quân Nga cũng bị tổn thất lớn qua các đợt công kích liên
tục của quân Pháp khiến Kutuzốv phải suy nghĩ. Ông cho rằng dù đã đánh
bại các cuộc công kích của quân Pháp, song cho đến thời điểm này, lực
lượng chủ yếu của Quân đội Nga vẫn cần phải được bảo toàn, chờ thời cơ
giành chiến thắng quyết định. Bằng sự cân nhắc trận trọng đó, Kutuzốv
quyết định cho Quân đội Nga rút khỏi Borodino.
Tuy nhiên, khi chiều tối, Kutuzov đã quyết định rút khỏi trận chiến và lệnh cho tướng Gortrakov bí mật rút quân ra sau thung lũng Semenovski.
Do việc tuyên bố chiến thắng của ông trước đó đã làm cho hào khí của
Quân đội Nga lên đến tột độ, nhiều chiến binh không đồng ý với việc lui
quân. Tuy nhiên, họ vẫn tuyên lệnh vị chủ tướng. Trận chiến Borodino đã
kết thúc giữa chừng. Trên đường rút, các chiến binh Nga chôn cất các
liệt sỹ, và quân thù phải lác mắt trước cuộc lui binh này. Có người Pháp
tên Fantin des Odoards phải viết trong nhật ký của ông ta: "Nói
trắng ra, những con người đó - mà chúng ta hay gọi là man di mọi rợ đã
chăm sóc kỹ lưỡng các thương binh và chôn cất tử tế các binh sĩ trận
vong của họ..." Tuy nhiên, vẫn còn hàng trăm thương binh Nga tập hợp
ở Mozhaisk, và họ bị kẹt lại ở đó vì không có ai đưa khỏi. Theo như lời
giải thích của Mikhailovsky- Danilevsky:[56]
Những lời yêu cầu khẩn thiết của Kutuzov đến quan Tổng đốc Rostopchin
về việc cung cấp ngựa và phương tiện vận tải đều bị phớt lờ, và cuối
cùng những thương binh Nga tại Mozhaisk bị bỏ qua.[56] Sáng hôm sau trận đánh khốc liệt, Napoléon ra quan sát chiến trường, và một bộ tướng của ông ta là Armand Augustin Louis de Caulaincourt phải nhận định, Borodino "chất đầy thây người".[56]
Trận chiến Borodino được coi là trận đánh một ngày đẫm máu nhất trong
lịch sử hiện đại. Theo thống kê của nhà sử học Adam Zamoyski, quân đội
Pháp đã có 28.085 binh sĩ thiệt mạng và bị thương[57],
còn theo ông Lê Vinh Quốc thì thiệt hại là 58 ngàn, trong đó có 53
tướng. Theo "USSR information bulletin" trong quân Pháp thì Kỵ binh bị
thiệt hại thê thảm hơn cả.[4]
Quân đội Nga mất 45.000 quân, trong đó có 48 tướng. Tổng cộng thiệt hại
cho cả hai bên là 73.000 quân, tức gần 1/4 tổng số quân được hai bên
huy động cho trận đánh. Nếu tính trung bình mỗi giờ có 8.500 binh sĩ của
cả hai bên phải bỏ mạng tại chiến trường, một trung đội trong một phút.
Có những đơn vị mất gần 80% quân số. Song, Nguyên soái Kutuzov hãy còn
nhiều quân dự bị để có thể huy động thêm, và ông có thể không cần phải
lo âu nếu địch quân tuyên bố chiến thắng. Ông đã giữ vững được lực lượng
Quân đội Nga và đánh cho quân đội địch bị suy nhược.[58] Như đại văn hào Lev N. Tolstoy đã tưởng tượng trong tiểu thuyết "Chiến tranh và Hòa bình":[6]
Theo truyện "chiến tranh và Hòa bình" của Lev Tolstoy thì "Không
những Napoléon mà toàn quân Pháp - dù có đích thân tham chiến hoặc là
không đích thân tham chiến, và dù đã có được nhiều trải nghiệm vì chuyên
đi cướp nước trong vòng nhiều năm, đều cảm thấy hoảng sợ vì Quân đội
Nga vẫn sống còn dù nhiều binh sĩ Nga đã hy sinh.[6] Vào ngày 11 tháng 9 năm 1812, tại kinh thành Sankt-Peterburg,
Nga hoàng Aleksandr I đã nghe được những tin tức đầu tiên về trận đánh
kịch liệt tại Borodino, và về chiến thắng vang dội của Kutuzov nữa.
Không những thế, sau đó diễn ra lễ mừng thọ Nga hoàng, do đó người Nga
vui sướng làm lễ tại chốn kinh kỳ trong suốt hai ngày liền. 9 ngày sau
đó Kutuzov cũng trình bày chiến lược của ông cho nhà vua".[59] Trong khi đó cũng theo tiểu thuyết "chiến tranh và Hòa bình" của Nga thì "đối với người Pháp, thất bại này góp phần làm cho sự sụp đổ và thất bại của bọn họ là khó tránh khỏi".[6]
Thật vậy, quân Nga đã trụ vững trước các đợt tấn công của quân Pháp.
Napoleon không đạt được một mục tiêu chiến lược rõ rệt mặc dù quân Pháp
đã tổn thất rất nhiều binh tướng. Không những về nhân lực mà trận
Borodino còn là một đòn giáng nặng nề về tinh thần của Quân đội xâm lược
Pháp, chứng tỏ việc lui binh của Napoléon giờ đây chỉ còn là vấn đề
thời gian.[13] Một nhà sử học Liên Xô (cũ) cho rằng: "Trận chiến ở Borodino là đòn giáng nặng nề đầu tiên vào Napoléon khi ông ta làm nhà độc tài cuả toàn châu Âu."[12]
Nhiều nhà sử học đã cho rằng Kutuzov đánh giá quân Nga không đủ sức
chống trả lại quân Pháp nếu tiếp tục cuộc chiến vì thế đã quyết định rút
lui bảo toàn lực lượng. Ông khẳng định: "Mất Moskva nhưng nước Nga
vẫn còn. Nhiệm vụ đầu tiên là bảo toàn quân đội. Bằng cách rút khỏi
Moskva, chúng ta chuẩn bị mồ chôn quân thù. Tôi biết rằng trách nhiệm đổ
lên vai tôi, nhưng tôi hiến thân mình vì lợi ích của Tổ Quốc. Tôi ra
lệnh rút quân"[47].
Sau trận đánh Borodino, quân Nga theo lệnh của Sa hoàng đã đốt trụi
Moskva ra tro - một điều mà Napoléon không thể ngờ được khi ông ta tiến
vào được thành phố Moskva không một bóng người.[47] Trong khi có người xem trận đánh kịch liệt tại Borodino là chiến thắng của người Nga[65], có người xem đây là một chiến thắng kiểu Pyrros của người Pháp, quân Pháp trong trận này phản ánh rõ câu nói của vua Pyrros khi ông đánh thắng quân La Mã, rằng một thắng lợi như thế nữa sẽ tiêu diệt được ông.[66]
Trận đánh Borodino được coi là cuộc chiến đấu xuất sắc của quân dân Nga
đã bảo vệ đất nước, với tầm quan trọng quốc tế vô cùng lớn lao vì một
kẻ độc tài khét tiếng châu Âu là Napoléon đã phải nếm mùi thất bại.
Trong bài thơ kể về trận chiến tại Borodino, thi hào nước Nga là Mikhail Yuryevich Lermontov ca ngợi: "Không có lý gì mà toàn thể nước Nga không nhớ đến trận Borodino".[67]
Tuy nhiên đây là một sách lược tuyệt vời, mang tính bước ngoặt đối với toàn cuộc chiến tranh. Đúng như Kutuzov dự đoán, Moskva mở đầu sự sụp đổ của chế độ độc tài Napoléon.[4] Do bị tiêu hao binh lực sau trận Borodino quân Pháp không thể tiếp tục tiến sâu vào Nga hơn nữa, Napoleon quyết định dừng lại ở Moskva để chờ viện binh và lương thực, đồng thời củng cố lực lượng để tiếp tục chiến dịch quân sự vào mùa xuân năm sau. Nhưng dự định đó đã bị phá sản khi mọi nguồn lương thực và viện binh của Pháp đều bị các cánh quân du kích của Nga chặn đánh, tiêu diệt không tới được với đại quân của Napoleon I. Như vậy, tuy cả hai đoàn quân đều tuyên bố thắng trận tại Borodino nhưng sau chiến thắng khốc liệt này chỉ có Quân đội Nga là có thể tồn tại được.[1] Tới mùa đông quân Pháp rơi vào tình trạng bệnh tật và tử vong cao do thời tiết lạnh khắc nghiệt của Nga và sự thiếu lương thực trầm trọng. Napoleon buộc phải rút tàn quân khỏi Moskva, tháo chạy khỏi nước Nga theo con đường cũ Smolensk. Chiến dịch xâm lược nước Nga coi như đã thất bại. Tất cả những thiệt thòi ấy đều là hậu quả trực tiếp mà ông ta phải hứng chịu tại Borodino.[6] Và, hai năm sau trận đánh ác liệt tại Borodino, Quân đội Nga trong niềm vui chiến thắng đã tiến vào sào huyệt Paris của địch, chấm dứt triều đại của Napoléon - nhà độc tài ghê tởm nhất châu Âu thời đó.[47]
Sau khi Quân đội Đức Quốc Xã tấn công Liên bang Xô viết vào năm 1941, nhà sử học E. V. Tarle và nhiều đồng nghiệp của ông đã cho ra mắt nhiều tư liệu về cuộc xâm lược của Napoléon vào năm 1812 với mục đích "cho toàn dân biét về một trong những trang sử chói lọi nhất trong lịch sử quân sự nước Nga, nhờ đó kêu gọi nhân dân cùng đấu tranh chóng bọn phát xít Đức". Cuối thời Stalin, một bộ tư liệu tiểu sử "Russkie Polkovodtsy" được xuất bản, trong đó có kể về những dũng tướng của cuộc đại chiến Borodino là Kutuzov và Bagration.[68] Và trong các thập niên 1950 - 1960, giới sử học Liên Xô đã vinh danh vị Nguyên soái xuất sắc Kutuzov:[69][70]
Desmond Mpilo Tutu (s. ngày 7.10.1931) là nhà hoạt động người Nam Phi và tổng Giám mục Anh giáo nghỉ hưu, người đã nổi tiếng khắp thế giới trong thập niên 1980 như là một đối thủ của chính sách apartheid ở Nam Phi. Ông là người da đen Nam Phi đầu tiên làm Tổng Giám mục Cape Town, Nam Phi và giáo chủ giáo hội Anh giáo Tỉnh Nam Phi (nay là Giáo hội Anh giáo Nam Phi).
Tutu đã hoạt động tích cực trong việc bảo vệ nhân quyền và dùng uy tín cá nhân của mình để vận động đấu tranh cho những người bị áp bức. Ông đã vận động đấu tranh chống bệnh AIDS, bệnh lao, tật ghê sợ đồng tính luyến ái, ghê sợ chuyển đổi giới tính (transphobia), nạn nghèo và chủ nghĩa phân biệt chủng tộc. Tutu đã được trao Giải Nobel Hòa bình năm 1984, Giải Albert Schweitzer cho chủ nghĩa nhân đạo năm 1986, Giải Pacem in Terris năm 1987, Giải Hòa bình Sydney năm 1999, Giải Hòa bình Gandhi năm 2005,[1] và Huân chương Tự do Tổng thống năm 2009.
Mặc dù Tutu muốn trở thành một thầy thuốc, nhưng gia đình không thể chu cấp tiền cho việc học, nên ông đành theo nghề dạy học của người cha. Tutu học ở "Pretoria Bantu Normal College" từ năm 1951 tới năm 1953, rồi dạy học ở Trường trung học Bantu Johannesburg và trường trung học Munsienville tại thành phố Mogale. Tuy nhiên, ông đã từ chức sau khi Đạo luật giáo dục Bantu được thông qua, để phản đối viễn cảnh giáo dục nghèo nàn dành cho những người da đen Nam Phi. Sau đó ông học môn Thần học ở St Peter's Theology College tại Rosettenville, Johannesburg. Năm 1960 ông được phong chức mục sư Anh giáo nối gót Trevor Huddleston, nhà hoạt động và là cố vấn tin cậy của ông.
Từ năm 1962 tới 1966 Tutu sang học ở King's College London, đậu bằng cử nhân và thạc sĩ thần học. Trong thời gian này ông làm việc bán thời gian như mục sư phó xứ, lúc đầu ở nhà thờ St. Alban, Golders Green, sau đó ở nhà thờ St. Mary tại Bletchingley, Surrey.[4] Sau đó ông trở về Nam Phi và từ năm 1967 đến năm 1972 đã dùng các bài nói chuyện của mình để làm nổi bật hoàn cảnh của dân châu Phi. Ông đã viết một bức thư gửi cho thủ tướng B.J. Vorster, trong đó ông mô tả tình hình ở Nam Phi là một "thùng thuốc súng, có thể nổ tung bất cứ lúc nào"; bức thư đó không được trả lời. Ông trở thành mục sư tuyên úy tại Đại học Fort Hare vào năm 1967, nơi đầy những người bất đồng chính kiến và là một trong vài trường đại học có chất lượng cho sinh viên châu Phi ở miền Nam châu Phi. Từ năm 1970 đến 1972, Tutu giảng dạy tại Đại học Quốc gia Lesotho.
Năm 1972, Tutu trở lại Vương quốc Anh, được bổ nhiệm làm phó giám đốc "Quỹ giáo dục Thần học" của World Council of Churches (Hội đồng các giáo hội thế giới) tại Bromley, Kent. Năm 1975, ông trở lại Nam Phi, được bổ nhiệm chức trưởng đoàn mục sư Anh giáo của Nhà thờ chính tòa thánh Maria ở Johannesburg -— người da đen đầu tiên giữ chức này.
Tutu làm Giám mục Lesotho từ năm 1976 tới 1978, nơi ông trở thành tổng thư ký của South African Council of Churches (Hội đồng các giáo hội Nam Phi). Ở cương vị này, ông có thể tiếp tục việc chống lại chủ nghĩa apartheid với sự tán thành của hầu hết các giáo hội. Qua bài viết và bài nói chuyện của ông ở trong nước và ở nước ngoài, Tutu luôn ủng hộ việc hòa giải giữa tất cả các bên liên quan đến phân biệt chủng tộc. Việc chống đối chủ trương phân biệt chủng tộc của Tutu rất mạnh mẽ và rõ ràng, và ông đã nói thẳng tại Nam Phi và ở nước ngoài. Ông thường so sánh chủ trương apartheid với chủ nghĩa quốc xã và chủ nghĩa Cộng sản; kết quả là chính phủ đã thu hồi hộ chiếu của ông 2 lần, và ông đã bị bắt giam một thời gian ngắn vào năm 1980 sau một cuộc biểu tình tuần hành phản đối. Nhiều người cho rằng sự gia tăng danh tiếng của Tutu trên thế giới và việc ủng hộ mạnh mẽ việc bất bạo động của ông đã che chở ông khỏi bị hình phạt nặng hơn. Tutu cũng nghiêm khắc chỉ trích các chiến thuật sử dụng bạo lực của một số nhóm chống apartheid như Đại hội Dân tộc Phi và lên án chủ trương khủng bố và chủ nghĩa cộng sản.
Năm 1983, khi một hiến pháp mới cho Nam Phi được đề xuất nhằm chống lại phong trào chống-apartheid, Tutu đã giúp lập ra "Ủy ban diễn đàn quốc gia" để đấu tranh chống lại việc thay đổi hiến pháp nói trên.[7] Mặc dù sự chống đối chế độ apartheid của ông, Tutu đã bị chỉ trích là "phẫn nộ có chọn lựa" bởi thái độ thụ động của mình đối với chế độ đảo chính ở Lesotho (1970-1986), nơi ông đã giảng dạy từ 1970-1972 và phục vụ với cương vị Giám mục từ năm 1976-1978, chỉ rời khỏi đó khi cuộc nội chiến nổ ra. Điều này tương phản tồi tệ với thái độ canđảm của nhân viên Giáo Hội Tin Lành Lesotho bị giết hại.
Năm 1986, ông nhận được chức công dân danh dự của thành phố Reggio nell'Emilia (Ý), thành phố đầu tiên trên thế giới trao phần thưởng quan trọng này cho Desmond Tutu.
Năm 1990, Tutu và cựu Hiệu trưởng danh dự của Đại học Western Cape – giáo sư Jakes Gerwel – thành lập "Hội giáo dục Desmond Tutu" nhằm tài trợ cho các chương trình phát triển trong giáo dục cấp ba. Việc làm trung gian hòa giải của Tutu để ngăn chặn chiến tranh chủng tộc có thể xảy ra tại tang lễ của Chris Hani, nhà lãnh đạo Đảng cộng sản Nam Phi trong năm 1993. Tutu đã khích lệ đám đông 120.000 người lặp lại hoài hoài sau khi ông hát: "Chúng ta sẽ được tự do !", "Tất cả chúng ta !", "Người đen và người trắng cùng với nhau !"[8]
Năm 1994, Tutu được bổ nhiệm làm người bảo trợ "Chiến dịch thế giới chống sự hợp tác quân sự và hạt nhân với Nam Phi" và Hành động từ Ireland. Năm 1995, ông được Nữ hoàng Elizabeth II bổ nhiệm làm mục sư tuyên uý kiêm Sub-Prelate (tương đương phó Giám mục) của Venerable Order of Saint John (dòng thánh Gioan đáng kính)[9].
Tutu thường được coi là người đặt ra thuật ngữ Rainbow Nation (Dân tộc Cầu vồng) như là một ẩn dụ cho Nam Phi sau thời kỳ apartheid sau năm 1994 dưới sự cai trị của Đại hội Dân tộc Phi. Thuật ngữ này từ đó đã đi vào ý thức của đại đa số dân để mô tả sự đa dạng dân tộc của Nam Phi.
Từ khi nghỉ hưu, Tutu đã làm việc như một nhà hoạt động toàn cầu về những vấn đề liên quan tới dân chủ, tự do và nhân quyền. Năm 2006, Tutu đã phát động một chiến dịch toàn cầu, do tổ chức Plan tổ chức, nhằm bảo đảm cho mọi trẻ em được ghi vào sổ khai sinh khi sinh ra, vì một đứa trẻ không có tên trong sổ khai sinh thì không chính thức hiện hữu và dễ bị làm mồi cho bọn buôn lậu và dễ bị tổn thương trong thiên tai.[12]
Tutu đã loan báo rút lui khỏi sinh hoạt công cộng khi tròn 79 tuổi vào tháng 10 năm 2010
Sau một thập kỷ tự do cho Nam Phi, Tutu vinh dự được mời tới nói chuyện tại "Quỹ Nelson Mandela" hàng năm. Ngày 23.11.2004, Tutu đã thuyết trình bài mang tên "Look to the Rock from Which You Were Hewn". Bài nói chuyện này, chỉ trích chính phủ do Đại hội Dân tộc Phi kiểm soát, gây ra sự tranh cãi giữa Tutu và Thabo Mbeki, đặt thành vấn đề "quyền phê bình chỉ trích".[15]
Tutu đã cảnh báo tình trạng tham nhũng ngay sau khi chính phủ của Đại hội Dân tộc Phi được bầu lại, nói rằng họ "chỉ ngừng việc kiếm tiền mà không tốn công sức bao lâu mà họ thấy là đã đủ cho chính họ".[17] Tháng 8 năm 2006 Tutu đã công khai kêu gọi Jacob Zuma - chính trị gia Nam Phi (nay là Tổng thống) - người đã bị cáo buộc phạm tội tình dục và tham nhũng, hãy từ bỏ cuộc đua để kế nhiệm chức tổng thống của "Đại hội Dân tộc Phi". Ông nói trong một bài nói truyện công khai rằng ông sẽ không có thể ngẩng "cao đầu" mình nếu Zuma trở thành nhà lãnh đạo sau khi bị cáo buộc tội hiếp dâm và tham nhũng. Tháng 9 năm 2006, Tutu lặp đi lặp lại sự chống đối việc Zuma ứng cử làm nhà lãnh đạo "Đại hội Dân tộc Phi" vì Zuma "thiếu đạo đức"."[18]
"Nhóm này có thể nói cách tự do và mạnh dạn, làm việc vừa công khai, vừa ở đằng sau hậu trường về bất cứ hành động nào cần được thực hiện", Mandela nhận xét như vậy. "Chúng ta sẽ cùng nhau làm việc để hỗ trợ cho lòng can đảm ở nơi có sự sợ hãi, thúc đẩy sự thỏa thuận ở nơi có xung đột, và tạo hy vọng cho nơi có tuyệt vọng".[23] Nhóm The Elders được tài trợ cách độc lập bởi nhóm thành viên sáng lập, trong đó có Sir Richard Branson, Peter Gabriel, Ray Chambers, Michael Chambers, Quỹ Bridgeway, Pam Omidyar, Humanity United, Amy Robbins, Shashi Ruia, Dick Tarlow và Quỹ Liên Hiệp Quốc.
"Hy vọng của chúng tôi là có thể giữ cho Darfur ở cương vị nổi bật và thúc đẩy các chính phủ giúp gìn giữ hòa bình trong khu vực".[24]
Tutu thường nói rằng mọi nhà lãnh đạo ở châu Phi phải lên án Zimbabwe: "Thật là một vết nhơ khủng khiếp trên quyển vở của chúng ta. Chúng ta có thực sự quan tâm về nhân quyền, chúng ta có để ý là những người bằng xương bằng thịt, các dân châu Phi bạn bè, đang được đối xử như rác rưởi, hầu như tồi tệ hơn những gì họ đã từng bị đối xử bởi bọn phân biệt chủng tộc điên cuồng?"[14] Sau cuộc bầu cử tổng thống Zimbabwe tháng 4 năm 2008, Tutu tỏ ý hy vọng là Mugabe sẽ từ chức sau khi có tin ban đầu là Mugabe đã thất cử. Tutu khẳng định lại sự ủng hộ quá trình dân chủ và hy vọng rằng Mugabe sẽ tuân theo tiếng nói của người dân.[28]
Tutu nói ông lo sợ rằng cuộc bạo loạn sẽ nổ ra ở Zimbabwe nếu các kết quả bầu cử bị lờ đi. Ông đề nghị gửi lực lượng gìn giữ hòa bình tới khu vực này để bảo đảm sự ổn định.[28]
Năm 1988, Ủy ban người Do Thái Hoa Kỳ ghi nhận là Tutu chỉ trích kịch liệt quan hệ quân sự và quan hệ khác của Israel với Nam Phi trong thời apartheid, và dẫn lời ông nói rằng chủ nghĩa Zionism (chủ nghĩa phục quốc Do Thái) có "rất nhiều điểm tương đồng với chủ nghĩa phân biệt chủng tộc", vì nó "loại trừ những người dựa trên cơ sở dân tộc hay nguyên nhân khác mà họ không thể kiểm soát". Trong khi Ủy ban người Do Thái Hoa Kỳ chỉ trích một số quan điểm của Tutu, nhưng bác bỏ "tin đồn ngấm ngầm" là ông đã có lời lẽ chống-Semit.[36] (Lời văn chính xác của tuyên bố của Tutu đã được tường thuật khác nhau trong các nguồn khác nhau. Một bài trên tờ "Toronto Star" từ thời kỳ này cho thấy rằng ông mô tả chủ nghĩa Zionism "như là một chính sách dường như có nhiều điểm tương đồng với chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, tác dụng là như nhau")[37]
Tutu đưa ra một thông điệp về sự tha thứ trong chuyến viếng thăm Viện bảo tàng Yad Vashem của Israel năm 1989, nói rằng: "Chúa chúng ta sẽ nói là cuối cùng thì điều tích cực có thể đến là tinh thần tha thứ, chứ không phải lãng quên, nhưng tinh thần nói: Chúa ơi, điều này đã xẩy ra cho chúng tôi. Chúng tôi cầu nguyện cho những ai đã mang lại điều đó, xin hãy giúp chúng tôi tha thứ cho họ và hãy giúp chúng tôi, để tới lượt chúng tôi sẽ không làm cho những người khác đau khổ".[38] Một số người thấy lời nói này xúc phạm, như rabbi Marvin Hier của Trung tâm Simon Wiesenthal gọi đó là "một sự xúc phạm miễn phí cho người Do Thái và các nạn nhân của chủ nghĩa Quốc xã ở khắp mọi nơi".[39] Tutu đã là đối tượng của sự dèm pha chủng tộc trong chuyến viếng thăm Israel này, với chữ viết của kẻ bôi nhọ "Con heo quốc xã đen" (Black Nazi pig) trên các bức tường của nhà thờ chính tòa thánh George ở Đông Jerusalem, nơi ông cư ngụ.[38]
Năm 2002, khi đưa ra bài nói truyện trước công chúng, ủng hộ việc thôi đầu tư vào Israel, Tutu đã nói "Tôi thật đau lòng. Tôi nói tại sao ký ức của chúng ta quá ngắn. Có anh chị em Do Thái nào của chúng tôi đã quên sự sỉ nhục của họ. Họ đã quên sự trừng phạt tập thể, các vụ phá hủy nhà, trong chính lịch sử của họ sớm như vậy? Họ đã quay lưng lại với truyền thống tôn giáo sâu xa và cao thượng của họ sao? Họ đã quên rằng Thiên Chúa quan tâm sâu xa về người bị áp bức?"[32] Ông lập luận rằng, Israel không bao giờ có thể sống trong an ninh bằng cách đàn áp một dân tộc khác, và nói, "Mọi người đang sợ hãi ở đất nước này (Hoa Kỳ), nói sai là sai bởi vì việc vận động hành lang của người Do Thái là mạnh mẽ - rất mạnh mẽ. Vậy thì sao ? Vì Chúa, đây là thế giới của Chúa ! Chúng ta sống trong một vũ trụ đạo đức. Chính phủ apartheid đã rất mạnh mẽ, nhưng ngày nay nó không còn tồn tại nữa".[32] Lời phát biểu sau đó đã bị một số nhóm người Do Thái chỉ trích, trong đó có Anti-Defamation League (Liên đoàn chống phỉ báng).[40][41] Khi biên tập và in lại từng phần bài nói chuyện đó trong năm 2005, Tutu đã thay các từ "Jewish lobby" (vận động hành lang của người Do Thái) bằng các từ "pro-Israel lobby" (vận động hành lang thân Israel).[42]
Trong Hội nghị Durban II gây tranh cãi trong tháng 4 năm 2009, luật sư người Mỹ Alan Dershowitz cho Tutu là một "người phân biệt chủng tộc và người tin mù quáng".[43]
Trong nhiệm vụ tìm hiểu thực tế đó, Tutu đã gọi việc phong tỏa Dải Gaza là hành động ghê tởm[48] và so sánh lối ứng xử của Israel với lối ứng xử của nhóm sĩ quan quân sự cai trị Myanma.
Năm 2007, chủ tịch Đại học St. Thomas ở Minnesota đã hủy bỏ cuộc nói chuyện của Tutu đã được dự kiến trước, với lý do là sự hiện diện của ông có thể khiến một số thành viên trong cộng đồng người Do Thái địa phương bất mãn.[52] Nhiều thành viên trong Ban giảng huấn của trường đã phản đối quyết định này, và một số người mô tả Tutu là nạn nhân của một chiến dịch bôi nhọ. Nhóm Jewish Voice for Peace đã dẫn đầu một chiến dịch gửi thư điện tử kêu gọi Đại học St. Thomas xem xét lại quyết định của mình,[53] khiến ông chủ tịch đã xét lại và mời Tutu tới trường.[54] Tutu khước từ lời mời lại này, thay vào đó ông tới nói chuyện ở "Trung tâm hội nghị Minneapolis" nhân một sự kiện do "Metro State University" tổ chức.[55] Tuy nhiên, 2 ngày sau Tutu đã tới nói chuyện ở đại học St. Thomas, sau khi chấm dứt cuộc viếng thăm "Metro State University". "Có những người đã thử nói "Tutu không nên tới (Đại học St.Thomas) để nói chuyện." Tôi ở cách xa đây 10.000 dặm và tôi tự nghĩ: "À, không", bởi vì ở đây có nhiều người đã nói "Không, hãy đến và nói chuyện",Tutu nói. "Mọi người đã đến và đứng lên và đã có các phát biểu rằng "Hãy để cho Tutu nói". [Metropolitan State University] nói:" Dù thế nào, ông ta có thể đến và nói chuyện ở đây. "Giáo sư Toffolo và những người khác nói: "Chúng tôi ủng hộ ông.' Vì vậy, chúng ta hãy ủng hộ họ".[56]
Tuy nhiên, Tutu cũng chỉ trích Liên Hiệp Quốc, đặc biệt về vấn đề Tây Papua. Tutu bày tỏ sự ủng hộ phong trào độc lập Tây Papua, chỉ trích vai trò của Liên Hiệp Quốc trong việc để cho Indonesia tiếp quản Tây Papua. Tutu nói: "Trong nhiều năm người dân Nam Phi đã phải chịu dưới ách áp bức và phân biệt chủng tộc. Nhiều người tiếp tục bị đàn áp tàn bạo, phẩm cách cơ bản như là con người của họ bị từ chối. Một dân tộc giống như vậy là dân tộc Tây Papua."[63]
Tutu được bổ nhiệm đứng đầu phái bộ Liên Hiệp Quốc tìm hiểu thực tế vụ việc ở thị trấn Beit Hanoun thuộc Dải Gaza, nơi mà trong vụ Vụ rắc rối tại Beit Hanoun 2006 Lực lượng Phòng vệ Israel đã giết 19 thường dân sau khi đội quân tiến hành xong cuộc đột nhập kéo dài một tuần lễ nhằm mục đích kiềm chế "vụ người Palestine bắn hỏa tiễn vào Israel năm 2006" từ thị trấn này.[64] Theo chủ tịch Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc,Luis Alfonso De Alba thì Tutu dự định đi tới lãnh thổ Palestine để "đánh giá tình trạng của các nạn nhân, xem xét giải quyết các nhu cầu của những người sống sót và đưa ra các khuyến nghị về cách thức và phương tiện để bảo vệ thường dân Palestine chống lại các cuộc tấn công tiếp tục của Israel".[65] Các quan chức Israel bày tỏ lo ngại rằng bản báo cáo sẽ thiên vị chống lại Israel. Tutu hủy bỏ chuyến đi vào giữa tháng Mười Hai, nói rằng Israel đã từ chối cấp cho ông giấy phép du hành cần thiết sau hơn một tuần lễ thảo luận.[66] Tuy nhiên, Tutu và giáo viên đại học người Anh Christine Chinkin nay được sắp đặt tới thăm Dải Gaza qua lối Ai Cập và sẽ nộp một báo cáo cho Hội đồng Nhân quyền tại kỳ họp tháng 9 năm 2008.[67]
Sau hội nghị thượng đỉnh này, các nhà lãnh đạo G8 đã cam kết tăng cường viện trợ cho các nước đang phát triển 48 tỷ dollar Mỹ một năm vào năm 2010. Hơn nữa, họ đã hứa danh dự rằng họ sẽ làm hết sức mình để hoàn tất quyền tiếp cận phổ cập trong phòng chống và điều trị cho hàng triệu, triệu người trên toàn cầu bị đe dọa bởi HIV/AIDS.
Trước khi Hội nghị Thượng đỉnh G8 lần thứ 32 tại Heiligendamm, Đức trong năm 2007, Tutu kêu gọi các nước G8 tập chú vào tình trạng nghèo khổ ở Thế giới thứ ba. Sau khi Hội nghị Thượng đỉnh Thiên niên kỷ vào năm 2000, có vẻ như các nhà lãnh đạo thế giới đã quả quyết như chưa hề có trước đây, là đặt ra và đáp ứng các mục tiêu cụ thể liên quan đến nghèo đói cùng cực.[69]
Tháng 10 năm 2004, Tutu xuất hiện trong vở kịch ở Off Broadway, New York, gọi là Guantanamo – Honor-bound to Defend Freedom. Vở kịch này chỉ trích mạnh mẽ việc Hoa Kỳ đối xử với các tù nhân bị giam ở Vịnh Guantánamo. Tutu đóng vai Lord Justice Steyn, một thẩm phán đã yêu cầu chứng minh sự hợp pháp của chế độ giam giữ.[71]
Tháng Giêng năm 2005, Tutu thêm tiếng nói của mình vào sự bất đồng ngày càng tăng về những kẻ bị tình nghi là quân khủng bố bị giữ tại Camp X-Ray ở Vịnh Guantánamo, Cuba, đề cập tới những vụ giam giữ mà không đưa ra xét xử là "hoàn toàn không thể chấp nhận được". Tutu so sánh các vụ giam gìữ này với các vụ giam giữ dưới chế độ Apartheid. Tutu cũng nhấn mạnh là khi Nam Phi sử dụng các phương pháp đó thì đã bị lên án, nhưng khi các cường quốc như Anh và Hoa Kỳ cũng dùng tới cường lực như vậy thì thế giới lại lặng im và trong sự lặng im này họ đã chấp nhận những phương pháp đó dù chúng vi phạm các quyền chủ yếu của con người.[72]
Tháng 2 năm 2006, Tutu nhắc lại những tuyên bố này sau khi một báo cáo của Liên Hiệp Quốc được công bố, trong đó kêu gọi đóng cửa trại giam này. Tutu nói rằng trại Guantanamo là một vết nhơ trên danh tiếng của Hoa Kỳ, trong khi pháp luật ở Anh đưa ra một thời hạn tạm giam 28 ngày đối với các nghi phạm khủng bố là "quá đáng" và "không thể biện hộ được". Tutu đã chỉ ra rằng các lập luận tương tự đã được đưa ra ở Anh và Hoa Kỳ mà chế độ phân biệt chủng tộc Nam Phi đã sử dụng. Tutu nói:"Thật là hổ thẹn và người ta không thể tìm thấy từ đủ mạnh mẽ để lên án những gì mà Anh và Hoa Kỳ cùng một số đồng minh của họ đã chấp nhận". Tutu cũng công kích mưu toan đã thất bại của Tony Blair nhằm giữ các nghi phạm khủng bố ở Anh lên đến 90 ngày mà không kết tội. "90 ngày đối với một người Nam Phi là một cảm giác khủng khiếp đã trải qua, bởi vì chúng tôi đã có luật giam giữ 90 ngày ở Nam Phi trong thời kỳ tồi tệ xưa ", ông nói. Dưới thời apartheid, cũng như tại Guantanamo, người ta đã bị giữ trong các "thời gian dài quá đáng" rồi sau đó được thả, ông nói.[73]
Năm 2007, Tutu nói rằng "cuộc chiến chống khủng bố" toàn cầu sẽ không thể thắng nếu dân chúng sống trong những hoàn cảnh tuyệt vọng. Tutu nói rằng sự chênh lệch toàn cầu giữa người giàu và người nghèo tạo ra sự bất ổn định.[74]
Ngày 20.4.2005, sau khi Hồng y Joseph Ratzinger được bầu làm Giáo hoàng Biển Đức XVI, Tutu nói ông buồn là Giáo hội Công giáo Rôma không nghĩ đến thay đổi thái độ chống đối việc dùng bao cao su trong đấu tranh chống HIV/AIDS ở châu Phi: "Chúng tôi đã hy vọng có một người cởi mở hơn đối với những phát triển gần đây trên thế giới, toàn bộ vấn đề chức giáo sĩ của phụ nữ và một quan điểm hợp lý hơn đối với việc dùng bao cao su cùng HIV/AIDS."[77]
Năm 2007, Các thống kê được công bố chỉ ra số lượng người nhiễm HIV và AIDS ở Nam Phi thấp hơn so với suy nghĩ trước đây. Tuy nhiên, Tutu gọi những thống kê này là "sự an ủi nhạt nhẽo" vì không thể chấp nhận là mỗi ngày ở Nam Phi có tới 600 người chết vì bệnh AIDS. Tutu cũng khiển trách chính phủ vì đã lãng phí thời gian thảo luận về cái gì gây ra HIV/AIDS, mà đặc biệt là các công kích Mbeki và Bộ trưởng Y tế Manto Tshabalala-Msimang [ về lập trường chối bỏ bệnh AIDS của họ.[78]
Năm 1994, Tutu nói rằng ông tán thành phương pháp ngừa thai nhân tạo và nói rằng việc phá thai phải được chấp nhận trong nhiều trường hợp, chẳng hạn như trường hợp loạn luân và hiếp dâm. Ông đặc biệt hoan nghệnh các mục tiêu của Hội nghị quốc tế về Dân số và Phát triển ở Cairo.[79]
Cũng năm 2009, cùng với các ông sếp trứ danh và những người nổi tiếng khác như Daniel Boulud và Jean Rochefort, Desmond Tutu đã ủng hộ Chiến dịch "Không đói" của tổ chức Action Against Hunger (Hành động chống Đói), kêu gọi cựu phó tổng thống Hoa Kỳ Al Gore hãy làm một phim tài liệu về nạn đói trên thế giới.[83]
Năm 2000, ông thành lập "Quỹ Hòa bình Desmond Tutu" để tài trợ cho "Trung tâm Hòa bình Desmond Tutu" ở Cape Town. Năm sau ông phát động "Quỹ Hòa bình Desmond Tutu Hoa Kỳ", để làm việc với các trường đại học trong phạm vi cả nước nhằm tạo ra chức lãnh đạo các học viện nhấn mạnh về hòa bình, công bằng xã hội và hòa giải.
Năm 2001, "Hội giáo dục Desmond Tutu", với sự tài trợ của Quỹ W.K. Kellogg, đưa ra "Giải thưởng các nhân vật huyền thoại theo dấu chân Desmond Tutu" để nhìn nhận vai trò lãnh đạo trong cuộc chiến cho nhân quyền, nghiên cứu, chống định kiến, và xóa đói giảm nghèo. Từ năm 2004, ông là giáo sư thỉnh giảng tại King’s College London. Năm 2007 và năm 2010, ông cùng 600 sinh viên đại học đi biển quanh thế giới với chương trình "Học kỳ trên biển" (Semester at Sea).[84]
Tutu là đồng chủ tịch "Nhóm ủng hộ" chiến dịch 1GOAL Giáo dục cho mọi người được Hoàng hậu Rania của Jordan phát động trong tháng 8 năm 2009 nhằm mục đích bảo đảm việc học cho khoảng 72 triệu trẻ em trên khắp thế giới không được học hành, phù hợp với Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ về Giáo dục cho mọi người tới năm 2015, cho họ cơ hội được giáo dục thông qua đợt vận động 1Goal của FIFA.[85][86]
Người con trai của ông, Trevor Tutu, gây ra vụ đe dọa đánh bom tại sân bay East London vào năm 1989 và đã bị bắt. Năm 1991, anh bị kết án vi phạm Luật Hàng không dân dụng vì tuyên bố dối trá là có một quả bom trên máy bay của hãng hàng không South African Airways ở sân bay East London.[89] Vụ đe dọa đánh bom này làm cho chuyến bay tới Johannesburg phải hoãn lại hơn 3 giờ, khiến cho hãng South African Airways tốn mất số tiền 28.000 rand Nam Phi. Vào thời điểm đó, Trevor Tutu công bố ý định kháng cáo bản án của mình, nhưng đã không có mặt ở phiên tòa phúc thẩm. Anh đã bị tịch thu số tiền thế chấp 15.000 rand Nam Phi.[89] Anh tới hạn bắt đầu chấp hành hình phạt của mình vào năm 1993, nhưng không đến trình diện với giới chức nhà tù, cuối cùng anh đã bị bắt ở Johannesburg trong tháng 8 năm 1997. Anh đã nộp đơn xin ân xá tại Truth and Reconciliation Commission (Ủy ban Sự thật và Hòa giải) và được chấp thuận năm 1997, sau đó được phóng thích khỏi nhà tù Goodwood ở Cape Town, nơi anh bắt đầu thụ án phạt giam 3 năm rưỡi sau khi một tòa án ở thành phố East London, Eastern Cape (đông nam Nam Phi) từ chối không cho anh nộp tiền thế chấp tại ngoại.[90]
Naomi Tutu học ở "Trường Ngoại giao và Thương mại quốc tế Patterson" thuộc Đại học Kentucky và theo chân cha làm nhà hoạt động nhân quyền. Naomi đã lập ra "Quỹ Phát triển và Trợ cấp Tutu" ở Nam Phi, có trụ sở ở Hartford, Connecticut. Hiện nay Naomi là người điều phối chương trình cho "Viện quan hệ chủng tộc" (Race Relations Institute) ở Đại học Fisk, tại Nashville, Tennessee.[91]
Mpho Tutu, cũng nối gót theo cha và năm 2004 đã được cha mình phong chức giáo sĩ giáo phái Episcopal.[92] Cô cũng là người sáng lập và làm giám đốc điều hành "Viện cầu nguyên và hành hương Tutu" (Tutu Institute for Prayer and Pilgrimage) đồng thời làm trưởng Ban "Liên minh AIDS toàn cầu" (Global AIDS Alliance).[93]
Năm 1997, Tutu bị chẩn đoán mắc bệnh Ung thư tuyến Tiền liệt và được chữa trị thành công ở Hoa Kỳ. Sau đó ông trở thành người đỡ đầu "Quỹ Ung thư tuyến Tiền liệt Nam Phi" (South African Prostate Cancer Foundation) được thành lập năm 2007.[94]
Từ sinh nhật thứ 79, Tutu thực hiện việc rút lui khỏi sinh hoạt xã hội công cộng từng giai đoạn, đầu tiên là chỉ có mặt mỗi tuần một ngày tại văn phòng của ông cho đến cuối tháng 2 năm 2011. Ngày 23 tháng 5 ở Shrewsbury Massachusetts, Tutu đã làm điều được cho là sự kiện công cộng lớn cuối cùng của ông ở bên ngoài Nam Phi. Tutu sẽ thi hành các cam kết của mình cho tới hết tháng 5 năm 2011 và sẽ không đưa ra thêm cam kết nào nữa.[95]
Tutu là tác giả của 7 bộ tập hợp các bài thuyết giáo và những bài viết khác:
Video yêu thích
http://www.youtube.com/user/hoangkimvietnam
Trở về trang chính
hoangkim vietnam, hoangkim, hoangkimvietnam, Hoàng Kim, Ngọc Phương Nam, Chào ngày mới Thung dung, Dạy và học, Cây Lương thực, Tin Nông nghiệp Việt Nam, Food Crops, Cassava in Vietnam, VietnamAfricaCassavaRice, Khát khao xanh, Dayvahoc, Học mỗi ngày, Danh nhân Việt , Food Crops News, Điểm chính, CNM365, Kim LinkedIn, KimTwitter, KimFaceBook Đọc lại và suy ngẫm, Việt Nam tổ quốc tôi, Tình yêu cuộc sống, Thơ cho con
Trận Borodino
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
- Về các trận chiến khác đã diễn ra tại Moskva, xem bài định hướng Trận Moskva
|
|
Để bảo vệ đất nước, những chiến binh Nga đã chiến đấu ngoan cường.[11] Trận đánh lịch sử kéo dài chỉ vỏn vẹn trong một ngày trời với thiệt hại nặng nề cho cả đôi bên, nhưng vì những lý do chiến thuật quân đội Nga - sau khi tuyên bố thắng trận [1] - đã tự động rút lui để nhường đường cho quân Pháp tiến vào thành phố Moskva. Tuy vậy, Napoléon đã thất bại trong mục đích tiêu diệt Quân đội Nga trong trận đánh lớn một ngày.[12] Do đó, Kutuzov và ba quân vẫn đứng vững[11] và trận kịch chiến tại Borodino trở thành một chiến thắng tinh thần của nước Nga.[13]
Và, sau trận đánh này quân xâm lược tinh nhuệ của Pháp đã bị tiêu hao sinh lực đáng kể, không đủ khả năng để tiếp tục đánh chiếm các vùng đất khác của Đế quốc Nga. Trong khi đó các nguồn tiếp tế lương thực thuốc men từ hậu phương đều bị quân Nga đánh phá. Kết cục mùa đông năm 1812 quân Pháp đã phải tháo chạy khỏi nước Nga và chiến dịch quân sự đánh chiếm nước Nga của Napoleon I hoàn toàn phá sản, mà nguyên nhân chủ chốt là nhờ sự sống còn của lực lượng Quân đội Nga sau trận đánh Borodino này.[14]
Cuộc đại chiến Borodino có tầm quan trọng đặc biệt lớn trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc Nga, là cuộc kháng chiến chống ngoại xâm của họ, đưa nước Nga cận đại trở nên vinh quang trên võ đài quốc tế.[12] Trận đánh ác liệt này luôn lôi cuốn giới sử học.[14] Nhờ tài nghệ chỉ huy nhân dân Nga đấu tranh chống những kẻ xâm lăng, Nguyên soái Mikhail Illarionovich Kutuzov - vị Tổng tư lệnh Quân đội Nga trong cuộc đại chiến này - được tôn vinh làm anh hùng thiên cổ.[15] Hàng triệu người biết đến trận đánh lớn này thông qua cuốn tiểu thuyết "Chiến tranh và Hòa bình của đại văn hào nước Nga Lev Nikolayevich Tolstoy.[16]
Mục lục
Bối cảnh lịch sử
Sau khi Quân đội Nga bị quân Pháp đánh bại trong các năm 1805 và 1807, nên Nga hoàng Aleksandr I ký kết Hiệp định Tilsit với Napoléon, theo đó người Pháp áp đặt Hệ thống Phong tỏa Lục địa lên người Nga. Trước tình cảnh đó, quý tộc Nga cảm thấy căm phẫn trước cái mà họ cho là Nga thần phục Pháp. Như Công tước Sergei Volkonsky mô tả, các thất bại tại Austerlitz và Friedland cùng với sự bất lực của Nga hoàng trước các chính sách của Napoléon là "những vết thương sâu nặng trong con tim của mọi người Nga". Người Nga quyết tâm phải trả thù. Dù Napoléon có gặp gỡ Nga hoàng vào năm 1808, nước Nga càng trở nên căng thẳng với Pháp.[17][18] Thế rồi, đầu năm 1812, Triều đình Nga bí mật ký kết thoả ước thương mại với Anh Quốc, vi phạm Hệ thống Phong toả Lục địa. Nhờ đó, Nga hoàng Aleksandr I cảm thấy ông được tự do thoát khỏi sự cường quyền của ngoại bang. Tuy nhiên, Napoléon không thể chấp nhận được điều này và ông quyết định xâm lược nước Nga, để buộc Nga phải phục tùng.[19]Đội quân La Grande Armée dưới sự chỉ huy của Napoléon bắt đầu hành quân vào nước Nga vào ngày 16 tháng 6 năm 1812. Sa hòang Aleksandr I đã phát động một cuộc chiến tranh Vệ quốc nhằm chống lại kẻ xâm lược. Theo kế hoạch của viên tướng người Đức, Karl Ludwig von Phull, đại quân dưới quyền chỉ huy của Hầu tước Mikhail Barklay-de-Tolli sẽ chặn quân Pháp ở vùng Vilnius, còn đạo quân phía Nam do Bagration chỉ huy sẽ phát động đánh thọc sườn quân Pháp. Tuy nhiên, mọi người sớm nhận ra rằng kế hoạch của von Phull là một sai lầm chết người, với 60 vạn quân, La Grande Armée thừa sức nghiền nát hai đạo quân Nga. Hơn nữa, sự có mặt của Sa hoàng Nga trong lúc này càng khiến nội bộ người Nga lục đục hơn. Quân Nga đang đóng ở dọc biên Ba Lan buộc phải rút lui trược sự tiến công của người Pháp.[20]
Vì vậy, trong những ngày đầu của cuộc chiến quân đội Pháp đã tiến rất nhanh vào sâu lãnh thổ nước Nga mà không gặp phải bất cứ sự kháng cự đáng kể nào. Sau khi đến Vitebsk, Napoléon hy vọng sẽ chạm trán và tiêu diệt quân Nga đâu đó gần đây, nhưng trên thực tế, quân Pháp đang ở cách nơi đóng quân gần nhất của quân Nga tại Kaunas tới 925 km (575 mi) [21] Du mục Cozak, Khinh Kỵ binh, lính du kích và cả lính Pháp đào ngũ đều được điều động đánh phá vào đường vận lương của quân Pháp khiến họ gặp nhiều khó khăn và suy giảm lực lượng.[22] Đại quân dưới quyền chỉ huy trực tiếp của Napoléon vượt sông Neman gồm có 286.000 người nhưng vào lúc mà trận đánh diễn ra chỉ còn có 161.475, phần lớn đều chết do đói hoặc do bệnh tật.[23] Tuy nhiên, với tham vọng đả bại quân Nga, Napoléon bỏ qua mọi trở ngại mà hành quân tiến sâu vào đất Nga và kéo dài con đường vận lương thực.
Trong khi đó, cuộc đấu đá nội bộ quân Nga giữa phe Barclay và những người còn lại nổ ra khi ông chủ trương rút tiếp để bảo toàn lực lượng và chờ đợi quân Pháp suy yếu vì thiếu đói và giá lạnh để phản công.[24] Ông nhận thức rõ chạm trán với quân Pháp lúc này là chuốc lấy thất bại. Tuy nhiên các binh sĩ Nga đều khao khát chiến đấu chống lại quân xâm lược. Đã có nhiều tin đồn ác ý về Barclay, vì thế ông bị thất sủng và được thay thế bởi Nguyên Soái Mikhail Illarionovich Kutuzov sau khi ông này được một Ủy ban đặc biệt bầu chọn vào ngày 5 tháng 8.[25] Vị tướng 67 tuổi không nhận được đánh giá cao từ người đương thời với ông là Napoléon.[26] Ông thực sự cũng không ưa Barklay vì ông này là người gốc Scotland và nhiều người không chấp nhận Barklay phục tùng Kutosov.[27] Ngày 18 tháng 8, Kutosov đến Sarevo để ra mắt quân đội.[20]
Sau khi nắm tình hình quân đội, Kutosov tổ chức một đội hậu quân mạnh do tướng Konovnytsyn chỉ huy, rồi hạ lệnh vừa rút lui vừa chuẩn bị một trận đánh lớn. Ông hiểu rõ quyết định rút lui của tướng Barklay là chính xác nhưng cứ tiếp tục rút lui như thế này thì sĩ khí của quân Nga sẽ tiêu tan hết.[20] Vì vậy, một trận đánh để giữ sĩ khí ba quân lúc này là rất cần thiết. Tuy nhiên, vị chỉ huy mới vẫn chưa quyết định lập đồn phòng thủ khi Moskva chỉ còn cách 125 kilômét (78 mi). Ông ra lệnh quân đội cho những người khác rút khỏi Gzhatsk (Gagarin) khi mà tỷ lệ chênh lệch giữa quân Pháp và quân Nga giảm từ 3:1 chỉ còn 5:4.[28] Thời cơ đã đến.[20]
Một hàng phòng ngự được thiết lập tại Borodino, vị trí đẹp nhất nằm ngay trước Moskva.[29] Chiến trường Borodino quá mở và quá ít chướng ngại để bảo vệ quân Nga khi bị đánh thọc sườn vào bên trái. Tuy nhiên, nó được bao quanh bởi sông Kolocha và nó nằm ngay trên con đường nối liền Smolensk và Moskva, và thực tế là không có vị trí nào tốt hơn như vậy.[20] Ngày 3 tháng 9, Kutosov bắt đầu cho đào quân lính đào hào đắp đất, bao gồm cả trận địa pháo của Raevski ở chính giữa bên cánh phải và trận địa pháo của Bagration, được người Pháp gọi là "Bagration flèches" ở bên trái.
Trận đánh tại đồn Shevardino
Các phòng tuyến ban đầu của quân Nga, vốn kéo dài từ xa lộ Smolensk (còn đường hành quân mà Napoléon dự kiến), được che chở bằng một công sự hình ngũ giác được xây dựng trên một gò đất tại làng Shevardino.[30] Tuy nhiên, các tướng Nga sớm nhận ra rằng, đây là tử địa vì cánh trái quá trống trải và dễ bị tấn công đột xuất.[20] Vì vậy, quân Nga được lệnh rút khỏi cứ điểm này, nhưng vẫn còn có người ở lại công sự, Kutosov nói rằng việc làm này chỉ là cố cầm chân quân Pháp trong một thời gian mà thôi. Theo ý kiến của sử gia Dmitry Buturlin, cứ điểm này được sử dụng như là nơi quan sát tiến trình của quân Pháp. Các nhà sử học Winter, Ratch cùng vài người khác thì cho rằng, nó được dụng để đe dọa cánh phải quân Pháp, mặc dù khoảng giữa cách hai bên nằm qua tầm bắn của súng thời kỳ này.[31] Tham mưu trưởng Tập đoàn quân I của Nga, Aleksey Petrovich Yermolov, từng ghi lại trong hồi ký của mình rằng cánh trái quân Nga đã được dịch chuyển khi quân Pháp bất ngờ xuất hiện sớm hơn dự kiến, do đó, Shevardino trở thành một tấm lá chắn tạm thời để che chắn cái công sự đang được sửa ở phía đó.[32] Tuy nhiên, việc này vẫn là tâm điểm cho những cuộc tranh cãi của các sử gia cho đến tận ngày nay[33]Cuộc giao tranh nổ ra vào ngày 5 tháng 9 khi đạo quân của thống chế Joachim Murat chạm trán Konovnitzyn trong một cuộc đụng độ lớn giữa kỵ binh hai bên. Tuy nhiên, quân Nga rút lui về tu viện Kolorzkoi không bao lâu sau đó, khi mà phía bên sườn của họ đang bị đe dọa trầm trọng.[34] Chiến trận tiếp tục diễn ra ngày hôm sau, khi gặp quân đoàn IV của Pháp do Phó vương Ý Eugène de Beauharnais dẫn đầu, tuy nhiên Konovnitzyn lại tiếp tục rút lui. Người Nga rút về gác tại đồn Shevardino, nơi mà một cuộc đụng độ lớn sắp xẩy ra.[35] Giao tranh lại nổ ra khi thông chế Murar dẫn đầu hai quân đoàn kỵ binh là Nansouty và Montbrun, được yểm trợ bởi Sư đoàn bộ binh Compan thuộc Quân đoàn I dưới quyền của thống chế Louis Nicolas Davout. Ngoài ra, quân Nga còn bị đạo quân do thống chế Józef Poniatowski tấn công từ phía nam. Sau một hồi giao tranh, con số thương vong của cả hai bên khá lớn, tuy nhiên những người lính Nga kiên quyết chiến đấu tới cùng và không chịu rút lui trước khi Kutosov phải lên tiếng.[20] Quân Nga được yểm trở bởi 1 sư đoàn Thiết kỵ binh và 1 tiểu đoàn bộ binh đơn độc, họ khua chiêng trống ầm ĩ đễ làm người Pháp nhầm tưởng về quân số mà không giám đuổi theo. Sau đó, quân Pháp chiếm được đồn Shevardino, có ít nhất 4.000-5.000 người ở phía Pháp và 6.000 người Nga bị thương hoặc đã bỏ mạng.[36] Công sự bị phá hủy, và được bao phủ bởi một lớp xác lính của hai phe.[37]
Việc quân Pháp bất ngờ đánh vào từ phía tây và sự sụp đổ của đồn Shevardino khiến nội tình quân Nga rơi vào tình trạng lộn xộn. Cánh trái của phòng tuyến của họ đã vỡ, quân Nga buộc phải rút lui về phía đông, xây dựng một vị trí phòng thủ tạm bợ tại làng Utitza. Và như vậy, một cuộc tấn công của người Pháp vào cánh trái của quân Nga là điều dễ hiểu.[38]
Lực lượng của hai bên
Diễn biến trận chiến
Bố trí đội hình
“ | Tiền đồn ở cánh trái không thể hiện được lợi thế gì đặc biệt. Một số gò có có giốc thoải, và có lẽ chỉ cao có hai mươi thước, cùng với thanh gỗ có nhiều cây bao quanh, hình thành một nơi rậm rạp, và rằng rất khó để nói rằng bên nào sẽ có lợi thế hơn. Như vậy, mặt tốt nhất là phía bên cánh phải, mặc dù có thể là nó không thể che hết khuyết điểm ở bên trái. | ” |
— Carl von Clausewitz, The Battle of Borodono, Mikaberidze, Alexander tr. 26
|
Kutuzov là rất quan tâm tới việc người Pháp có thể đánh chiếm xa lộ Smolensk mới xung quanh vị trí của mình và hướng đến Moskva, do vậy, ông sai tướng Barclay cùng Tập đoàn quân thứ 1 đóng ở phía bên phải bên phải, vị trí này vốn được phòng thủ chắc chắn và hầu như không thể bị tấn công bởi người Pháp. Tập đoàn quân thứ 2 dưới quyền tướng Bagration vốn được dự kiến đóng ở phía bên trái, và phòng tuyến Shevardino đã vỡ khiến tình thế trở nên nghiêm trọng nhưng Kutozov không làm gì để thay đổi các khuynh hướng ban đầu mặc dù các tướng luôn xin triển khai lại quân đội.
Bagration flèches
Khu vực đầu tiên xảy ra đụng độ là Bagration flèches, như đã được dự báo bởi hai tướng Barclay de Tolly và Bagration. Napoleon, thống lĩnh quân đội Pháp, đưa ra nhiều mệnh lệnh thiếu mạch lạc tương tự như đối thủ Nga của mình, việc triển khai quân đội của ông không tỏ ra hiệu quả và không khai thác những điểm yếu của quân Nga. Pháo binh Pháp khai hỏa lúc sáu giờ sáng và cùng lúc đó là liên tiếp những cú đáp trả của người Nga. Quân đội hai bên đều đứng trong tầm bắn của pháo binh đối phương nên thiệt hại về quân số khá lớn.[40] Hai phía sử dụng ba loại đạn khác nhau: đạn thượng, lựu đạn và đạn bi.[41] Những người lính Nga dày dặn kinh nghiệm đừng nhìn đạn pháo địch bay vút qua và nhắc nhở những anh dân quân chớ dại mà dùng chân phan đạn pháo. Sư đoàn Delzon, thuộc quân đoàn của tướng Eugène de Beauharnais, được lệnh chiếm làng Borodino và thành công sau khi bị mất nữa quân số. Hai sư đoàn khác được lệnh vượt sông Kolocha nhằm đáp trả lại bộ binh Nga. Cùng lúc đó Davout tung hai sư đoàn của mình đánh thẳng vào flèches phía nam và san bằng nó sau hai giờ đồng hồ.[42] Mặc dù thành công nhưng Compans lại bị dính chấn thương nặng. Ở phía nam, sư đoàn Tutschkows theo lệnh tướng Poniatowski chiếm được làng Utiza.Quân Nga được lệnh của Kutosov nhanh chóng đáp trả bằng một cuộc tấn công vào flèches phía nam vốn bị Pháp chiếm trước đó. Thống chế Jean Rapp ra lệnh cho sư đoàn của tướng Compans, được yểm trở bởi tướng Desaix và Junot, sư đoàn Ledrus thuộc quân đoàn của Ney đánh chiếm công sự tiếp theo.[43] Cả hai công sự đều bị người Pháp chiếm sau đó không lâu, nhưng họ lại gặp khó khăn ngay sau đó. Các flèches được thiết kế hình chữ V nên quân Pháp bị đe dọa cả hai phía. Trong 3 giờ đồng hồ tiếp theo, công sự này bị công ít nhất 7 lần. Ngay từ lúc 7 giờ, Kutosov điều ba trung đoàn Cận vệ, 3 trung đoàn Thiết kỵ binh, và 8 trung đoàn lính nem lựu cùng 24 khẩu đại pháo 24 pao vào đội dự bị.[44] Trong 2 giờ đồng hồ tiếp theo, Kutosov liên tiếp đưa ra các lệnh rút quân.[45] Lúc mười giờ quân Pháp đánh bật được Bagration và chiếm được tất cả 3 flèches. Bagration ngay sau đó thu thập tàn quâ và chiếm được lại công sự của mình, nhưng ông lại bị trúng đạn vào chân và chết ngay sau đó ít lâu.[46]
Cuộc tấn công đầu tiên vào đồn Raevsky
“ | Hỡi ba quân, phải Moskva đang ở phía sau chúng ta đó không? Chúng ta hãy hy sinh trước Moskva như cha ông ta ngày trước vậy. Và chúng ta thề quyết tử và chúng ta phải giữ lời tuyên thệ trung thành của chúng ta trong trận đánh Borodino. | ” |
—Lời một binh sĩ Nga già, giàu lòng yêu nước[47]
|
Lúc đầu do có lực lượng ưu thế nên quân Pháp đã chiếm được thôn Bôrôđinô nhưng không phát triển tiếp theo được do quân Nga đánh trả dữ dội. Nhìn chung các cuộc đột kích đầu tiên của quân Pháp nhằm lôi kéo Quân đội Nga di chuyển đội hình về hai cạnh sườn đều không đạt kết quả.
Đến 6 giờ, quân Pháp chuyển sang tiến công trận địa phòng ngự quân Nga ở thôn Semenovski nhưng cũng bị đẩy lùi. Ngay sau đó, Napoléon tập trung 8 sư đoàn bộ binh, 3 quân đoàn kị binh và 120 pháo mở cuộc đột kích lần thứ hai. Quân Pháp lúc đầu chiếm được phía Nam khu vực phòng ngự do tướng Bagratiôn chỉ huy, nhưng sau đó quân Nga phản kích chiếm lại. 8 giờ, quân Pháp mở cuộc công kích lần thứ 3, nhưng lại bị thất bại. Trong khi đó 2 sư đoàn kỵ binh Pháp tiến công trận địa pháo do Raévski chỉ huy cũng không đạt kết quả. Như vậy, cả 3 cuộc công kích của quân Pháp vào khu vực chủ yếu trận địa của quân Nga đã thất bại.
Ở cánh trái trận địa Quân đội Nga, một quân đoàn Pháp sau 3 giờ công kích liên tục đã chiếm được thôn Utisa. Thắng lợi ở Utisa đã củng cố quyết tâm xâm lược của Napoléon. Ông tiếp tục mở 8 cuộc công kích vào trận địa pháo của Raévski và khu vực phòng ngự ở Semenovski. Cuộc chiến tại đây diễn ra rất quyết liệt. Quân Pháp và quân Nga giành giật nhau các khu vực trận địa. Quân đội Nga đã liên tiếp đánh lui các đợt tấn công ác liệt của quân Pháp. Trong đợt công kích lần thứ 6, Napoléon tập trung trên một đoạn hẹp rộng 1.5 km tới 100 khẩu pháo, và 4.5 vạn quân. Quân Nga có khoảng 1.5 vạn quân và 200 khẩu pháo đã kháng cự lại một cách rất quyết liệt. Trong lần công kích này của quân Pháp, hơn một nửa số pháo Nga bị phá hủy, công sự bị san bằng nhưng quân Pháp không thể chiếm được trận địa. Vị Nguyên soái anh dũng Bagratiôn bị thương nặng, được đưa ra khỏi chiến trường và không lâu sau qua đời do vết thương không thể chữa được,[50] nhưng tinh thần dũng cảm và ý chí của ông đã thôi thúc những người lính Nga tiếp tục chiến đấu. Mệnh lệnh của Kutuzốv "giữ vững trận địa đến người cuối cùng" đã được thông báo cho toàn bộ các đơn vị Quân đội Nga. Tuy nhiên, do lực lượng quân Pháp chiếm ưu thế nên Kutuzốv quyết định cho ba quân rút lui theo khe núi ở thôn Semenovski để củng cố lực lượng.
Sau khi chiếm được một số khu vực phòng ngự, quân Pháp tập trung lực lượng mở đợt tiến công và chiếm được khu vực phía Tây thôn Semenovski. Tại đây, trận địa pháo của Raevski đã ở trước mặt quân Pháp. Napoléon tung hầu hết lực lượng dự bị và đang cân nhắc liệu có tung đội cận vệ của mình vào chiến đấu hay không. Trước tình thế nguy hiểm đó, Kutuzốv đã có một quyết định kịp thời: lệnh cho kỵ binh Nga của tướng Platov tiến công đánh vào cánh trái quân Pháp, đồng thời sử dụng đội kỵ binh Kazak tiến công đoàn xe vận tải của đối phương. Kỵ binh Nga đã chọc thủng được đội hình quân Pháp và gây ra sự hoảng loạn ở hậu phương, buộc Napoléon phải điều lực lượng về cánh trái để duy trì cuộc tiến công vào trận địa pháo của Raevski và không tung đội cận vệ vào trận chiến. Trận tấn công bị hoãn lại. Chớp thời cơ, Kutuzốv tăng cường lực lượng ở trung tâm và cánh trái bằng cách điều lực lượng dự bị và lực lượng từ cánh phải dồn lại. Trong suốt trận đánh kịch liệt, Bá tước Caulaincourt tháp tùng Napoléon. Ông ngồi trong trại quân, cảm thấy thật nhớ thương người vợ mới cưới của mình, cưới chưa được bao ngày thì phải xa cách.[51]
Đến 14 giờ, Napoléon tiếp tục cho lực lượng tiến công trận địa pháo quân Nga và đưa đội dự bị cuối cùng vào chiến đấu. Đội giáp binh của Bá tước Cô-lanh-cua được tung vào trận, sau khi Quân đội Nga tiêu diệt được tướng Pháp Montbrunn.[51] Về phía Nga, sư đoàn 24 của tướng Likhatrov được điều đến bảo vệ. Trận chiến lại diễn ra quyết liệt. Quân Nga chiến đấu dũng cảm theo lời kêu gọi của tướng Likhatrov: "Anh em ơi, phía sau là Mát-xcơ-va." Tuy nhiên quân Pháp càng lúc càng áp đảo. Các khẩu pháo Nga lúc này không thể khai hỏa vì quân Pháp quá gần. Các pháo thủ phải dùng cả cây thông nòng để chiến đấu. Mặc dù bị thiệt hại nặng nề, nhưng đến 15 giờ 30 phút, quân Pháp đã chiếm được trận địa. Toàn bộ sư đoàn 24 Nga nằm lại trận địa. Likhatrov cũng phanh ngực xông thẳng vào lưỡi lê của quân địch. Trận địa pháo thất thủ. Bên cạnh xác các binh sĩ Nga là 1000 xác chết thuộc đội giáp binh của quân Pháp, trong đó có cả Cô-lanh-cua. Khi giao chiến với Likhatrov, Caulaincourt đã bị trúng một viên đạn của súng hỏa mai Quân đội Nga và ngã xuống trước toàn thể đội giáp binh của ông ta, và đây là một tổn thất lớn lao đối với Napoléon nói riêng và toàn thể quân địch nói chung.[51][52]
Song việc chiếm trận địa pháo của Raevski không còn ý nghĩa. Lúc đó, quân Nga đã bỏ khu vực phòng ngự ở cánh trái và trung tâm lên chiếm lĩnh trận địa mới cách đó từ 1 đến 1.5 km. Như vậy, quân Nga mặc dù bị mất một số khu vực nhưng vẫn giữ được vững đội hình chiến đấu. Trong khi đó quân Pháp sau nhiều lần công kích, lực lượng bị tiêu hao quá lớn buộc Napoléon phải ngừng công kích, ra lệnh cho quân Pháp rút về vị trí xuất phát tiến công. Đó cũng là biểu hiện sự bế tắc của Napoléon trong trận này. Ngay sau đó quân Nga đã chiếm lại các vị trí tiền tiêu. Đại vă n hào Lev Nikolayevich Tolstoy có viết:[6]
“ | Quân Pháp tấn công quân Nga với mục đích đánh bật quân Nga ra khỏi vị trí của nó, đáng lý phải thực hiện sự cố gắng ấy vì hễ quân Nga còn chặn con đường vào Moskva thì quân Pháp vẫn còn chưa đạt được mục đích, và tất cả những cố gắng cũng như những tổn thất của họ đều thành ra vô ích. Nhưng quân Pháp đã không thực hiện sự cố gắng ấy. | ” |
—Lev Nikolayevich Tolstoy
|
Napoléon không tung đội Cận vệ tham chiến
Cuộc chiến đã rằng co tới mức Napoleon đã không dám sử dụng 37.000 quân thuộc lực lượng Cận vệ Đế chế vì sợ rằng cuộc chiến sẽ còn tiếp diễn vào ngày tiếp theo. Napoléon từng nói rằng một trận thắng vang dội thể hiện qua số lượng tù binh đối phương bị bắt, trong khi trong trận đánh này quân Pháp xâm lược chỉ có thể bắt sống được 800 tù binh Nga, do đó hào khí của Quân đội Nga hoàn toàn không bị lung lay.[54] Theo thấu hiểu của Nguyên soái Kutuzov, chừng nào lực lượng Quân đội Nga vẫn còn tồn tại thì quân xâm lược không thể nào thắng cuộc được.[55] Trong kiệt tác Chiến tranh và Hòa bình, đại văn hào Lev Nikolayevich Tolstoy có viết:[6]“ | Một vài sử gia nói rằng Napoléon cho đội Cận Vệ nguyên vẹn của ông ra chiến trường là có thể thắng trận. Nhưng nói về những việc sẽ diễn ra nếu Napoléon cho đội Cận Vệ của mình nhập trận thì cũng chẳng khác gì nói về những việc sẽ xảy ra nếu mùa thu bỗng chốc biến thành mùa xuân. Điều đó không thể có được. Sở dĩ Napoléon không tung đội cận vệ của mình ra không phải vì ông ta không muốn, mà là vì ông ta không thể làm như thế được. Tất cả các tướng tá và quân sĩ đều biết rằng không thể làm như vậy, bởi vì tinh thần quân đối đã suy sụp không cho phép làm như vậy. | ” |
—Lev Tolstoy
|
“ | Chính quyền dân sự của tỉnh Moskva giải thích về việc thiếu thốn phương tiện vận chuyển là do những quận gần với chiến trường nhất được Bộ trưởng Bộ Chiến tranh theo dõi, trong khi chính quyền quân sự tìm thấy rất ít người còn lại ở làng, do phần lớn người phải rút đi để tránh bị rơi vào tay địch. | ” |
—Mikhailovsky-Danileysky
|
“ | Nhìn cảnh tượng khủng khiếp của bãi chiến trường ngổn ngang những chiếc xác chết, những người bị thương, trong khi đầu óc còn choáng váng vì được tin hai mươi viên tướng quen thuộc của mình đã bị thương và tử trận, và nhận thức rõ rệt rằng cánh tay bấy lâu vô địch của mình đã trở thành bất lực, Napoléon thể nghiệm một ấn tượng không ngờ, mặc dầu thường ngày ông vẫn thích nhìn những người tử trận và bị thương, để thử thách sức mạnh tinh thần của mình (như ông ta vẫn tưởng). Nhưng hôm nay cảnh tượng ghê rợn của chiến trường đã thắng cái sức mạnh tinh thần mà ông ta cho là đã làm và nên làm những công đức và vì sự vĩ đại của mình. Ông vội vã rời khỏi chiến trường và trở về đồi Sevadino. Mặt vàng võ sưng húp, người nặng nề, mắt đục ngầu, mũi đỏ gay và tiếng nói khản đặc, ông ta ngồi trên chiếc ghế xếp, bất giác lắng nghe tiếng súng, mắt ngước lên. Ông ta bồn chồn lo lắng chờ giờ kết thúc trận chiến đấu mà ông tưởng mình đã nhúng tay vào, nhưng thực ra thì ông không thể nào bắt nó dừng lại được. | ” |
—Lev Nikolayevich Tolstoy
|
Đánh giá về trận chiến Borodino
Cuộc đại chiến Borodino được chính Nguyên soái Mikhail Illarionovich Kutuzov xem là "trận đánh đẫm máu nhất thời nay". Nhưng trận chiến này lại không có kết quả quyết định,[12] bất cháp một sự thật là cả hai đều tuyên bố chiến thắng.[60] Dù Napoléon có gửi thư về cho vợ của ông ta: "Nàng ơi Ta viết cho nàng từ trận địa Borodino. Hôm qua Ta đã đập tan bọn Nga và toàn thể quân đội của chúng... Trận đánh thật khốc liệt... Nhiều chiến binh của Ta bị thương vong và thiệt mạng", bãi chiến trường khốc liệt Borodino đã trở thành mồ chôn của Kỵ binh Pháp.[4] Vả lại, Nguyên soái Kutuzov cũng viết cho vợ của ông: "Ta vẫn tốt, em ạ, và ta không thua trận; Ta đã đánh thắng được Bonaparte".[61] Theo nhà sử học quân sự Christopher Duffy, Trận đánh ác liệt này có thể được xem là một cuộc đại chiến Torgau của thế kỷ XIX, là một trận đánh hết sức đẫm máu và quy mô lớn, nhưng làm cho cả hai đoàn quân tham chiến đều không thật sự đạt được mục tiêu quyết định của mình.[62] Giống như cuộc đại chiến tại Zorndorf (1758) chống vua Friedrich II Đại Đế nước Phổ, các chiến binh Nga đã thể hiện lòng quyết tâm đấu tranh tới cùng.[63] Và, đại văn hào nước Nga Lev Nikolayevich Tolstoy - người đã tái hiện rất thành công về trận đánh Borodino trong tác phẩm "Chiến tranh và Hòa bình"[64] - đã viết:[6]“ |
Sức mạnh tinh thần của quân đội Pháp, là quân đội tấn công, đã
tiêu ma hết rồi. Đây không phải là một chiến thắng được tính bằng những
mảnh vải buộc vào các cây gậy mà ta gọi là quân kỳ, hay là bằng những
khoảng đất chiếm được. Đây là một thắng lợi về tinh thần, nó chứng minh
sức mạnh của quân ta và sự bất lực của quân thù. |
” |
—Lev Tolstoy[20]
|
Tuy nhiên đây là một sách lược tuyệt vời, mang tính bước ngoặt đối với toàn cuộc chiến tranh. Đúng như Kutuzov dự đoán, Moskva mở đầu sự sụp đổ của chế độ độc tài Napoléon.[4] Do bị tiêu hao binh lực sau trận Borodino quân Pháp không thể tiếp tục tiến sâu vào Nga hơn nữa, Napoleon quyết định dừng lại ở Moskva để chờ viện binh và lương thực, đồng thời củng cố lực lượng để tiếp tục chiến dịch quân sự vào mùa xuân năm sau. Nhưng dự định đó đã bị phá sản khi mọi nguồn lương thực và viện binh của Pháp đều bị các cánh quân du kích của Nga chặn đánh, tiêu diệt không tới được với đại quân của Napoleon I. Như vậy, tuy cả hai đoàn quân đều tuyên bố thắng trận tại Borodino nhưng sau chiến thắng khốc liệt này chỉ có Quân đội Nga là có thể tồn tại được.[1] Tới mùa đông quân Pháp rơi vào tình trạng bệnh tật và tử vong cao do thời tiết lạnh khắc nghiệt của Nga và sự thiếu lương thực trầm trọng. Napoleon buộc phải rút tàn quân khỏi Moskva, tháo chạy khỏi nước Nga theo con đường cũ Smolensk. Chiến dịch xâm lược nước Nga coi như đã thất bại. Tất cả những thiệt thòi ấy đều là hậu quả trực tiếp mà ông ta phải hứng chịu tại Borodino.[6] Và, hai năm sau trận đánh ác liệt tại Borodino, Quân đội Nga trong niềm vui chiến thắng đã tiến vào sào huyệt Paris của địch, chấm dứt triều đại của Napoléon - nhà độc tài ghê tởm nhất châu Âu thời đó.[47]
Sau khi Quân đội Đức Quốc Xã tấn công Liên bang Xô viết vào năm 1941, nhà sử học E. V. Tarle và nhiều đồng nghiệp của ông đã cho ra mắt nhiều tư liệu về cuộc xâm lược của Napoléon vào năm 1812 với mục đích "cho toàn dân biét về một trong những trang sử chói lọi nhất trong lịch sử quân sự nước Nga, nhờ đó kêu gọi nhân dân cùng đấu tranh chóng bọn phát xít Đức". Cuối thời Stalin, một bộ tư liệu tiểu sử "Russkie Polkovodtsy" được xuất bản, trong đó có kể về những dũng tướng của cuộc đại chiến Borodino là Kutuzov và Bagration.[68] Và trong các thập niên 1950 - 1960, giới sử học Liên Xô đã vinh danh vị Nguyên soái xuất sắc Kutuzov:[69][70]
“ | Chiến thắng của chiến lược và các chiến thuật của Kutuzov trong cuộc tranh đấu với Napoleon thể hiện thắng lợi của truyền thống quân sự nước Nga... | ” |
Ghi chú
- ^ a ă â John Powell, Magill's Guide to Military History: A-Cor, trang 203
- ^ Owen Connelly. Blundering to glory: Napoleon's military campaigns. Rowman & Littlefield, 2006, ISBN 0-7425-5318-3, 9780742553187, p. 178.
- ^ Riehn, Richard K. Napoleon's Russian Campaign, John Wiley & Sons, 2005. ISBN 978-0-471-54302-2 p.285-288
- ^ a ă â b Soviet Union. Posolʹstvo (U.S.), USSR information bulletin, Tập 5, Số phát hành 66-131, Embassy of the Union of the Soviet Socialist Republics, 1945.
- ^ Lỗi chú thích: Thẻ
<ref>
sai; không có nội dung trong thẻ ref có tênJointCommittee
- ^ a ă â b c d đ e Leo Tolstoy (graf), War and peace, các trang 764-765.
- ^ Richard K. Riehn, Napoleon's Russian Campaign, John Wiley & Sons, 2005, trang 479.
- ^ Sách 'Napoleon' của Herman Lindqvist. Trang 368, chương 20, 'The battle of Borodino, the bloodiest of them all'
- ^ Smith D., The Greenhill Napoleonic Wars Data Book. London: Greenhill Books, 1998, trang 392
- ^ Riehn Richard K. Napoleon's Russian Campaign, John Wiley & Sons, 2005, trang 255
- ^ a ă Vladimir Terentʹevich Pashuto, An Illustrated history of the USSR, trang 44
- ^ a ă â b Christopher Duffy, Borodino and the War of 1812, trang 11. Seeley, Service, 1972, trang 11. ISBN 0-85422-077-1.
- ^ a ă John Gooding, The catkin and the icicle: aspects of Russia, trang 27
- ^ a ă Alexander Mikaberidze, "Borodino" The battle of Borodino: Napoleon against Kutuzov, Pen & Sword Military, 2007. ISBN 1-84415-603-6.
- ^ Alexander Mikaberidze, The Russian Officer Corps of the Revolutionary and Napoleonic Wars: 1792-1815, trang 215
- ^ Christopher Duffy, Borodino and the war of 1812, Cassell, 1999. ISBN 0-304-35278-0.
- ^ Christopher Duffy, Borodino and the War of 1812, trang 17
- ^ Mikaberidze, tr. 1
- ^ Duffy, tr. 18
- ^ Lỗi chú thích: Thẻ
<ref>
sai; không có nội dung trong thẻ ref có tênlvq
- ^ Riehn, tr. 229.
- ^ Riehn, tr. 230.
- ^ Riehn, tr. 231.
- ^ Riehn, tr. 234.
- ^ Riehn, tr. 237.
- ^ Mikaberidze, các trang 21–22.
- ^ Riehn, tr. 236.
- ^ Riehn, các trang 237–8.
- ^ Riehn, tr. 238.
- ^ Mikaberidze, tr. 33.
- ^ Mikaberidze, tr.33.
- ^ Mikaberidze, tr. 34.
- ^ Mikaberidze, các trang 33–34.
- ^ Zamoyski, tr. 231
- ^ Zamoyski, tr. 232
- ^ Mikaberidze, tr. 47.
- ^ Mikaberidze, tr. 45.
- ^ Zamoyski, tr. 233
- ^ Riehn, tr. 244.
- ^ Zamoyski, tr. 303
- ^ Zamoyski, tr. 306
- ^ Zamoyski, tr. 304
- ^ Zamoyski, tr. 305
- ^ Riehn, các trang 246–8.
- ^ Mikaberidze, tr. 107.
- ^ Zamoyski, tr. 307
- ^ Lỗi chú thích: Thẻ
<ref>
sai; không có nội dung trong thẻ ref có tênruvrnapokutu
- ^ George Peabody Gooch, Historical surveys and portraits, trang 120
- ^ Mara Vorhees, Moscow, trang 326
- ^ Christopher Duffy, Borodino and the War of 1812, trang 148
- ^ a ă â John Stevens Cabot Abbott, The history of Napoleon Bonaparte, Tập 2, trang 529
- ^ Alexander Mikaberidze, The battle of Borodino: Napoleon against Kutuzov, trang 189
- ^ Mikhail Bragin, Field Marshal Kutuzov: a short biography, trang 88
- ^ William C. Fuller, Strategy and Power in Russia 1600-1914, trang 191
- ^ Robert Cowley, Geoffrey Parker, The Reader's Companion to Military History, trang 252
- ^ a ă â Alexander Mikaberidze, The battle of Borodino: Napoleon against Kutuzov', trang 204
- ^ Fox's Regimental Losses, Chapter V, CASUALTIES COMPARED WITH THOSE OF EUROPEAN WARS--LOSS IN EACH ARM OF THE SERVICE--DEATHS FROM DISEASE--CLASSIFICATION OF DEATHS BY CAUSES.
- ^ David Nicholls, Napoleon: a biographical companion, trang 39
- ^ Evgeniĭ Viktorovich Tarle, Napoleon's invasion of Russia, 1812, trang 244
- ^ Gregory Fremont-Barnes, The encyclopedia of the French revolutionary and Napoleonic Wars: a political, social, and military history, Tập 1, trang 174
- ^ Henri Troyat, Alexander of Russia: Napoleon's Conqueror, trang 152
- ^ Christopher Duffy, Frederick the Great: A Military Life, trang 217
- ^ Christopher Duffy, Russia's military way to the West: origins and nature of Russian military power, 1700-1800, trang 240
- ^ George Peabody Gooch, Studies in modern history, trang 377
- ^ Russian studies in history, Tập 32, trang 62
- ^ The Spectator, Tập 115, trang 100
- ^ Lỗi chú thích: Thẻ
<ref>
sai; không có nội dung trong thẻ ref có tênHocvien106
- ^ Christopher Duffy, Borodino and the War of 1812, trang 164
- ^ Christopher Duffy, Borodino and the War of 1812, trang 217
- ^ Christopher Duffy, Borodino and the War of 1812, trang 165
Tài liệu tham khảo
- Chandler, David G. (1995). The Campaigns of Napoleon. New York: Simon & Schuster. ISBN 978-0025236608.
- ——— (1999) [First published 1993]. Dictionary of the Napoleonic Wars. Ware, UK: Wordsworth Editions. ISBN 978-1840222036.
- Chandler, David; Nafziger, George F. (1988). Napoleon's Invasion of Russia. Novato CA: Presidio Press. ISBN 978-0891416616.
- Duffy, Christopher (1972). Borodino and the War of 1812. London: Cassell & Company. ISBN 978-0304352784.
- Dyer, Gwynne (1988). War. Crown Pub. ISBN 978-0517556153.
- Hourtoulle, F.G. (2000). Borodino: The Moskova. The Battle for the Redoubts. Paris: Histoire & Collections. ISBN 978-2908182965.
- Mikaberidze, Alexander (2007). The Battle of Borodino: Napoleon Against Kutuzov. London: Pen & Sword. ISBN 978-1848844049.
- Markham, David (2005). Napoleon for Dummies. New York: John Wiley & Sons. ISBN 978-0764597985.
- (tiếng Pháp) Pigeard, Alain (2004). Dictionnaire des batailles de Napoléon. Tallandier, Bibliothèque Napoléonienne. ISBN 2847340734.
- (tiếng Nga) Razin, Eugene A. (1966). История военного искусства (History of Military Art). Moscow: Воениздат.
- Riehn, Richard K. (2001). 1812: Napoleon's Russian Campaign. New York: John Wiley & Sons. ISBN 978-0471543022.
- Smith, Digby (1998). The Greenhill Napoleonic Wars Data Book. London: Greenhill Books. ISBN 978-1853672767.
- ——— (2003). Charge! Great Cavalry Charges of the Napoleonic Wars. London: Greenhill Books. ISBN 978-1853675416.
- (tiếng Pháp) Sokolov, Oleg (2005). L'armée de Napoléon. Éditions Commios. ISBN 978-2951836419.
- (tiếng Nga) Troitsky, Nikolai (2003). Фельдмаршал Кутузов: Мифы и Факты (Field Marshal Kutuzov: Myths and Facts). Moscow: Центрполиграф.
- (tiếng Việt) Các nhân vật Lịch sử Cận đại, Tập II: Nga. Thành phố Hồ Chí Minh: NXB Giáo dục. 1997.
Liên kết ngoài
Wikimedia Commons có thêm thể loại hình ảnh và phương tiện truyền tải về Trận Borodino |
- First-hand account of the battle by Louis-François, Baron Lejeune a French aide-de-camp
- A very detailed description of the battle
- Borodino: maps, diagrams, illustrations
- The Virtual Battle of Borodino
- The Battle of Borodino, situation at 12.30 p.m. Visual tour of Borodino Panorama by Franz A. Roubaud
- The battle of Borodino reconstruction. 195 Anniversary Photos
Desmond Tutu
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Desmond Tutu | |
---|---|
Tutu trong tháng 12 năm 2010 |
|
Sinh | 7 tháng 10, 1931 Klerksdorp, Western Transvaal, Nam Phi |
Tiền nhiệm | P.W.R. Russell |
Kế nhiệm | Njongonkulu Ndungane |
Tutu đã hoạt động tích cực trong việc bảo vệ nhân quyền và dùng uy tín cá nhân của mình để vận động đấu tranh cho những người bị áp bức. Ông đã vận động đấu tranh chống bệnh AIDS, bệnh lao, tật ghê sợ đồng tính luyến ái, ghê sợ chuyển đổi giới tính (transphobia), nạn nghèo và chủ nghĩa phân biệt chủng tộc. Tutu đã được trao Giải Nobel Hòa bình năm 1984, Giải Albert Schweitzer cho chủ nghĩa nhân đạo năm 1986, Giải Pacem in Terris năm 1987, Giải Hòa bình Sydney năm 1999, Giải Hòa bình Gandhi năm 2005,[1] và Huân chương Tự do Tổng thống năm 2009.
Mục lục
- 1 Thời niên thiếu
- 2 Vai trò trong thời kỳ apartheid
- 3 Vai trò sau chế độ apartheid
- 4 Chính kiến
- 5 Đời tư
- 6 Vinh dự
- 7 Xuất hiện trên phim và phương tiện truyền thông
- 8 Các bài viết
- 9 Tham khảo và Chú thích
- 10 Đọc thêm
- 11 Liên kết ngoài
Thời niên thiếu
Desmond Mpilo Tutu sinh tại Klerksdorp, Transvaal, là con thứ hai và con trai duy nhất trong 3 người con của Zacheriah Zililo Tutu và bà Aletta.[2] Khi ông lên 12 tuổi thì gia đình chuyển tới cư ngụ ở Johannesburg. Cha ông làm giáo viên, còn mẹ ông làm việc quét dọn và nấu ăn ở một trường học dành cho người khiếm thị.[3] Tại đây, ông đã gặp Trevor Huddleston một mục sư coi xứ đạo Sophiatown, trong khu nhà ổ chuột của các người da đen. Tutu kể: "Một hôm, tôi đứng ở ngoài phố với mẹ tôi thì một người da trắng mặc y phục tu sĩ đi ngang qua. Khi đi ngang qua chỗ chúng tôi, ông đã bỏ mũ chào mẹ tôi. Tôi không thể tin ở mắt mình – một người da trắng đã chào một phụ nữ da đen thuộc giai cấp lao động!"[3]Mặc dù Tutu muốn trở thành một thầy thuốc, nhưng gia đình không thể chu cấp tiền cho việc học, nên ông đành theo nghề dạy học của người cha. Tutu học ở "Pretoria Bantu Normal College" từ năm 1951 tới năm 1953, rồi dạy học ở Trường trung học Bantu Johannesburg và trường trung học Munsienville tại thành phố Mogale. Tuy nhiên, ông đã từ chức sau khi Đạo luật giáo dục Bantu được thông qua, để phản đối viễn cảnh giáo dục nghèo nàn dành cho những người da đen Nam Phi. Sau đó ông học môn Thần học ở St Peter's Theology College tại Rosettenville, Johannesburg. Năm 1960 ông được phong chức mục sư Anh giáo nối gót Trevor Huddleston, nhà hoạt động và là cố vấn tin cậy của ông.
Từ năm 1962 tới 1966 Tutu sang học ở King's College London, đậu bằng cử nhân và thạc sĩ thần học. Trong thời gian này ông làm việc bán thời gian như mục sư phó xứ, lúc đầu ở nhà thờ St. Alban, Golders Green, sau đó ở nhà thờ St. Mary tại Bletchingley, Surrey.[4] Sau đó ông trở về Nam Phi và từ năm 1967 đến năm 1972 đã dùng các bài nói chuyện của mình để làm nổi bật hoàn cảnh của dân châu Phi. Ông đã viết một bức thư gửi cho thủ tướng B.J. Vorster, trong đó ông mô tả tình hình ở Nam Phi là một "thùng thuốc súng, có thể nổ tung bất cứ lúc nào"; bức thư đó không được trả lời. Ông trở thành mục sư tuyên úy tại Đại học Fort Hare vào năm 1967, nơi đầy những người bất đồng chính kiến và là một trong vài trường đại học có chất lượng cho sinh viên châu Phi ở miền Nam châu Phi. Từ năm 1970 đến 1972, Tutu giảng dạy tại Đại học Quốc gia Lesotho.
Năm 1972, Tutu trở lại Vương quốc Anh, được bổ nhiệm làm phó giám đốc "Quỹ giáo dục Thần học" của World Council of Churches (Hội đồng các giáo hội thế giới) tại Bromley, Kent. Năm 1975, ông trở lại Nam Phi, được bổ nhiệm chức trưởng đoàn mục sư Anh giáo của Nhà thờ chính tòa thánh Maria ở Johannesburg -— người da đen đầu tiên giữ chức này.
Vai trò trong thời kỳ apartheid
Năm 1976, các cuộc phản đối ở Soweto, cũng gọi là Soweto Riots, chống lại việc chính phủ dùng tiếng Afrikaans[5] như một phương tiện giảng dạy bắt buộc trong các trường của người da đen, đã trở thành một cuộc nổi dậy lớn chống lại chủ nghĩa phân biệt chủng tộc. Từ đó Tutu ủng hộ việc tẩy chay kinh tế đối với nước mình. Ông mạnh mẽ phản đối chính sách "constructive engagement" (tham gia có tính xây dựng) của chính phủ Hoa Kỳ Ronald Reagan nhằm ủng hộ "friendly persuasion" ("thuyết phục cách thân thiện"). Tutu rất ủng hộ việc ngưng đầu tư (từ nước ngoài vào Nam Phi), mặc dù việc này ảnh hưởng mạnh nhất tới các người nghèo, vì nếu ngưng đầu tư thì sẽ khiến các người da đen thất nghiệp; tuy nhiên Tutu biện luận rằng, dù sao họ cũng phải chịu thiệt thòi "cho một mục đích". Năm 1985, Hoa Kỳ và Vương quốc Anh (hai nước chính đầu tư vào Nam Phi) đã ngừng mọi khoản đầu tư vào Nam Phi. Kết quả là việc ngưng đầu tư đã thành công, khiến cho giá trị của đồng Rand sụt giảm hơn 35%, gây sức ép khiến chính phủ phải quay sang cải cách.Tutu tăng cường lợi thế và tổ chức các cuộc tuần hành hòa bình đưa khoảng 30.000 người xuống đường ở Cape Town.[6]Tutu làm Giám mục Lesotho từ năm 1976 tới 1978, nơi ông trở thành tổng thư ký của South African Council of Churches (Hội đồng các giáo hội Nam Phi). Ở cương vị này, ông có thể tiếp tục việc chống lại chủ nghĩa apartheid với sự tán thành của hầu hết các giáo hội. Qua bài viết và bài nói chuyện của ông ở trong nước và ở nước ngoài, Tutu luôn ủng hộ việc hòa giải giữa tất cả các bên liên quan đến phân biệt chủng tộc. Việc chống đối chủ trương phân biệt chủng tộc của Tutu rất mạnh mẽ và rõ ràng, và ông đã nói thẳng tại Nam Phi và ở nước ngoài. Ông thường so sánh chủ trương apartheid với chủ nghĩa quốc xã và chủ nghĩa Cộng sản; kết quả là chính phủ đã thu hồi hộ chiếu của ông 2 lần, và ông đã bị bắt giam một thời gian ngắn vào năm 1980 sau một cuộc biểu tình tuần hành phản đối. Nhiều người cho rằng sự gia tăng danh tiếng của Tutu trên thế giới và việc ủng hộ mạnh mẽ việc bất bạo động của ông đã che chở ông khỏi bị hình phạt nặng hơn. Tutu cũng nghiêm khắc chỉ trích các chiến thuật sử dụng bạo lực của một số nhóm chống apartheid như Đại hội Dân tộc Phi và lên án chủ trương khủng bố và chủ nghĩa cộng sản.
Năm 1983, khi một hiến pháp mới cho Nam Phi được đề xuất nhằm chống lại phong trào chống-apartheid, Tutu đã giúp lập ra "Ủy ban diễn đàn quốc gia" để đấu tranh chống lại việc thay đổi hiến pháp nói trên.[7] Mặc dù sự chống đối chế độ apartheid của ông, Tutu đã bị chỉ trích là "phẫn nộ có chọn lựa" bởi thái độ thụ động của mình đối với chế độ đảo chính ở Lesotho (1970-1986), nơi ông đã giảng dạy từ 1970-1972 và phục vụ với cương vị Giám mục từ năm 1976-1978, chỉ rời khỏi đó khi cuộc nội chiến nổ ra. Điều này tương phản tồi tệ với thái độ canđảm của nhân viên Giáo Hội Tin Lành Lesotho bị giết hại.
Năm 1986, ông nhận được chức công dân danh dự của thành phố Reggio nell'Emilia (Ý), thành phố đầu tiên trên thế giới trao phần thưởng quan trọng này cho Desmond Tutu.
Năm 1990, Tutu và cựu Hiệu trưởng danh dự của Đại học Western Cape – giáo sư Jakes Gerwel – thành lập "Hội giáo dục Desmond Tutu" nhằm tài trợ cho các chương trình phát triển trong giáo dục cấp ba. Việc làm trung gian hòa giải của Tutu để ngăn chặn chiến tranh chủng tộc có thể xảy ra tại tang lễ của Chris Hani, nhà lãnh đạo Đảng cộng sản Nam Phi trong năm 1993. Tutu đã khích lệ đám đông 120.000 người lặp lại hoài hoài sau khi ông hát: "Chúng ta sẽ được tự do !", "Tất cả chúng ta !", "Người đen và người trắng cùng với nhau !"[8]
Năm 1994, Tutu được bổ nhiệm làm người bảo trợ "Chiến dịch thế giới chống sự hợp tác quân sự và hạt nhân với Nam Phi" và Hành động từ Ireland. Năm 1995, ông được Nữ hoàng Elizabeth II bổ nhiệm làm mục sư tuyên uý kiêm Sub-Prelate (tương đương phó Giám mục) của Venerable Order of Saint John (dòng thánh Gioan đáng kính)[9].
Vai trò sau chế độ apartheid
Sau khi chế độ apartheid sụp đổ, Tutu đứng đầu Ủy ban Hòa giải và Sự thật. Ông từ chức Tổng Giám mục Cape Town năm 1996 và được phong Tổng Giám mục danh dự (emeritus) Cape Town, một tước hiệu danh dự ít sử dụng trong giáo hội Anh giáo[10] Ông được Njongonkulu Ndungane kế vị. Tại buổi lễ tạ ơn nhân dịp Tutu từ chức Tổng Giám mục năm 1996, Nelson Mandela đã nói rằng "ông đã đóng góp quá nhiều cho dân tộc chúng ta".[11]Tutu thường được coi là người đặt ra thuật ngữ Rainbow Nation (Dân tộc Cầu vồng) như là một ẩn dụ cho Nam Phi sau thời kỳ apartheid sau năm 1994 dưới sự cai trị của Đại hội Dân tộc Phi. Thuật ngữ này từ đó đã đi vào ý thức của đại đa số dân để mô tả sự đa dạng dân tộc của Nam Phi.
Từ khi nghỉ hưu, Tutu đã làm việc như một nhà hoạt động toàn cầu về những vấn đề liên quan tới dân chủ, tự do và nhân quyền. Năm 2006, Tutu đã phát động một chiến dịch toàn cầu, do tổ chức Plan tổ chức, nhằm bảo đảm cho mọi trẻ em được ghi vào sổ khai sinh khi sinh ra, vì một đứa trẻ không có tên trong sổ khai sinh thì không chính thức hiện hữu và dễ bị làm mồi cho bọn buôn lậu và dễ bị tổn thương trong thiên tai.[12]
Tutu đã loan báo rút lui khỏi sinh hoạt công cộng khi tròn 79 tuổi vào tháng 10 năm 2010
- " Để được già đi một cách thoải mái, trong tổ ấm với gia đình – đọc và viết, cầu nguyện và suy tư – thay vì mất quá nhiều thời gian ở các sân bay và trong khách sạn".[13]
Vai trò ở Nam Phi
Tutu được đa số người coi là "lương tâm luân lý của Nam Phi"[14] và đã được cựu tổng thống Nam Phi Nelson Mandela mô tả là: "đôi khi gay gắt, thường dịu dàng, không hề sợ hãi và ít khi không hài hước, tiếng nói của Desmond Tutu sẽ luôn luôn là tiếng nói của người không nói được".[11] Từ khi nghỉ hưu, Tutu đã chỉ trích chính phủ Nam Phi mới. Tutu đã lón tiếng lên án tình trạng tham nhũng, sự vô tích sự của chính phủ do Đại hội Dân tộc Phi lãnh đạo trong việc giải quyết tình trạng nghèo khổ, và các vụ bạo động bài ngoại nổ ra gần đây trong một số khu người da đen ở Nam Phi.Sau một thập kỷ tự do cho Nam Phi, Tutu vinh dự được mời tới nói chuyện tại "Quỹ Nelson Mandela" hàng năm. Ngày 23.11.2004, Tutu đã thuyết trình bài mang tên "Look to the Rock from Which You Were Hewn". Bài nói chuyện này, chỉ trích chính phủ do Đại hội Dân tộc Phi kiểm soát, gây ra sự tranh cãi giữa Tutu và Thabo Mbeki, đặt thành vấn đề "quyền phê bình chỉ trích".[15]
Chống chính sách kinh tế và tình trạng tham nhũng trong chính phủ
Tutu đã công kích gay gắt giới chóp bu chính trị của Nam Phi, nói rằng đất nước đang"ngồi trên một thùng thuốc súng"[16] vì đã thất bại trong việc làm giảm nghèo, một thập kỷ sau khi chủ nghĩa phân biệt chủng tộc đã chấm dứt. Tutu cũng nói rằng các nỗ lực để thúc đẩy quyền sở hữu kinh tế đen chỉ mang lại lợi ích cho một thiểu số người chóp bu, trong khi sự khuất phục chinh trị bên trong "Đại hội Dân tộc Phi" cầm quyền đã cản trở nền dân chủ. Tutu hỏi, "Việc trao quyền đen là gì khi nó dường như không có lợi cho đại đa số, mà chỉ có lợi cho một tầng lớp thượng lưu có xu hướng sẽ được trở lại cầm quyền?"[16]Tutu đã cảnh báo tình trạng tham nhũng ngay sau khi chính phủ của Đại hội Dân tộc Phi được bầu lại, nói rằng họ "chỉ ngừng việc kiếm tiền mà không tốn công sức bao lâu mà họ thấy là đã đủ cho chính họ".[17] Tháng 8 năm 2006 Tutu đã công khai kêu gọi Jacob Zuma - chính trị gia Nam Phi (nay là Tổng thống) - người đã bị cáo buộc phạm tội tình dục và tham nhũng, hãy từ bỏ cuộc đua để kế nhiệm chức tổng thống của "Đại hội Dân tộc Phi". Ông nói trong một bài nói truyện công khai rằng ông sẽ không có thể ngẩng "cao đầu" mình nếu Zuma trở thành nhà lãnh đạo sau khi bị cáo buộc tội hiếp dâm và tham nhũng. Tháng 9 năm 2006, Tutu lặp đi lặp lại sự chống đối việc Zuma ứng cử làm nhà lãnh đạo "Đại hội Dân tộc Phi" vì Zuma "thiếu đạo đức"."[18]
Bạo động bài ngoại năm 2008
Tutu đã lên án cuộc bạo động bài ngoại xẩy ra ở một số nơi ở Nam Phi trong tháng 5 năm 2008. Tutu, người đã từng can thiệp trong những năm chủ nghĩa phân biệt chủng tộc để ngăn chặn một đám đông "necklacing"[19] một người đàn ông,[20][21] nói rằng khi Nam Phi đấu tranh chống lại chủ nghĩa apartheid, họ đã được những người trên khắp thế giới ủng hộ và đặc biệt là những người ở châu Phi. Mặc dù họ nghèo, nhưng những người châu Phi khác đã chào đón người dân Nam Phi như là người tị nạn, và cho phép các phong trào giải phóng Nam Phi đặt căn cứ trong lãnh thổ của họ, ngay cả khi nước họ có thể bị Lực lượng quốc phòng Nam Phi tấn công.. Tutu kêu gọi người dân Nam Phi chấm dứt bạo lực, khiến hàng ngàn người tị nạn đã tìm chỗ nương náu trong các nơi trú ẩn.[22]Chủ tịch nhóm The Elders
Ngày 18.7.2007 Nelson Mandela, Graça Machel, và Tutu triệu tập The Elders - một nhóm các nhà lãnh đạo thế giới - tới họp ở Johannesburg, để đóng góp trí tuệ, lòng tốt, tài lãnh đạo và sự liêm chính của họ để giải quyết một số vấn đề khó khăn nhất của thế giới. Mandela đã công bố việc hình thành nhóm trong một bài phát biểu vào ngày sinh nhật thứ 89 của mình. Tutu làm Chủ tịch nhóm này. Các thành viên sáng lập khác có Kofi Annan, Ela Bhatt, Gro Harlem Brundtland, Jimmy Carter, Li Zhaoxing, Mary Robinson, Jonathan Park, Muhammad Yunus và Aung San Suu Kyi, người mà ghế được để trống tượng trưng, vì bà bị giam giữ như một tù nhân chính trị ở Myanmar (không thể tới họp)."Nhóm này có thể nói cách tự do và mạnh dạn, làm việc vừa công khai, vừa ở đằng sau hậu trường về bất cứ hành động nào cần được thực hiện", Mandela nhận xét như vậy. "Chúng ta sẽ cùng nhau làm việc để hỗ trợ cho lòng can đảm ở nơi có sự sợ hãi, thúc đẩy sự thỏa thuận ở nơi có xung đột, và tạo hy vọng cho nơi có tuyệt vọng".[23] Nhóm The Elders được tài trợ cách độc lập bởi nhóm thành viên sáng lập, trong đó có Sir Richard Branson, Peter Gabriel, Ray Chambers, Michael Chambers, Quỹ Bridgeway, Pam Omidyar, Humanity United, Amy Robbins, Shashi Ruia, Dick Tarlow và Quỹ Liên Hiệp Quốc.
Vai trò trong thế giới đang phát triển
Tutu đã tập trung lôi kéo sự chú ý tới các vấn đề như nghèo đói, bệnh AIDS và các chính phủ không dân chủ trong Thế giới thứ ba. Đặc biệt, ông đã tập chú tới các vấn đề ở Zimbabwe và Palestine. Tutu cũng dẫn phái đoàn nhóm The Elders đầu tiên tới Sudan vào tháng 9, tháng 10 năm 2007 để thúc đẩy hòa bình trong cuộc xung đột Darfur. Tutu nói:"Hy vọng của chúng tôi là có thể giữ cho Darfur ở cương vị nổi bật và thúc đẩy các chính phủ giúp gìn giữ hòa bình trong khu vực".[24]
Zimbabwe
Tutu đã lên tiếng chỉ trích các vi phạm nhân quyền ở Zimbabwe cũng như chính sách ngoại giao thầm lặng của chính phủ Nam Phi đối với Zimbabwe. Năm 2007, ông nói việc "ngoại giao thầm lặng" mà Cộng đồng Phát triển Nam Phi (Southern Africa Development Community, vt. là SADC) theo đuổi đã "chẳng làm gì" và ông kêu gọi Anh và phương Tây làm áp lực với SADC, trong đó có Nam Phi, chủ trì các cuộc đàm phán giữa đảng Zanu-PF của Tổng thống Mugabe và phe đối lập Phong trào vì thay đổi Dân chủ (Movement for Democratic Change – Tsvangirai), để định thời hạn chắc chắn cho hành động, với hậu quả sẽ có nếu họ không gặp nhau.[25] Trong quá khứ Tutu thường chỉ trích Robert Mugabe và đã có lần ông mô tả nhà lãnh đạo chuyên quyền Mugabe là "một nhân vật biếm họa của một nguyên mẫu nhà độc tài châu Phi".[14] Năm 2008, ông kêu gọi Cộng đồng quốc tế hãy can thiệp vào Zimbabwe – bằng vũ lực nếu cần.[26] Về phần Mugabe, ông đã gọi Tutu là "một tiểu Giám mục cáu kỉnh, xấu xa và cay đắng".[27]Tutu thường nói rằng mọi nhà lãnh đạo ở châu Phi phải lên án Zimbabwe: "Thật là một vết nhơ khủng khiếp trên quyển vở của chúng ta. Chúng ta có thực sự quan tâm về nhân quyền, chúng ta có để ý là những người bằng xương bằng thịt, các dân châu Phi bạn bè, đang được đối xử như rác rưởi, hầu như tồi tệ hơn những gì họ đã từng bị đối xử bởi bọn phân biệt chủng tộc điên cuồng?"[14] Sau cuộc bầu cử tổng thống Zimbabwe tháng 4 năm 2008, Tutu tỏ ý hy vọng là Mugabe sẽ từ chức sau khi có tin ban đầu là Mugabe đã thất cử. Tutu khẳng định lại sự ủng hộ quá trình dân chủ và hy vọng rằng Mugabe sẽ tuân theo tiếng nói của người dân.[28]
Tutu nói ông lo sợ rằng cuộc bạo loạn sẽ nổ ra ở Zimbabwe nếu các kết quả bầu cử bị lờ đi. Ông đề nghị gửi lực lượng gìn giữ hòa bình tới khu vực này để bảo đảm sự ổn định.[28]
Quần đảo Solomon
Năm 2009, Tutu tham gia việc thiết lập Ủy ban Hòa giải và Sự thật của quần đảo Solomon, theo mô hình ủy ban của Nam Phi cùng tên.[29][30] Ông phát biểu tại buổi lễ ra mắt chính thức của ủy ban này ở Honiara, ngày 29 tháng 4 năm 2009, nhấn mạnh yêu cầu cần thiết của sự tha thứ để xây dựng hòa bình lâu dài.[31]Israel
Tutu đã thừa nhận vai trò quan trọng của người Do Thái trong cuộc đấu tranh chống phân biệt chủng tộc ở Nam Phi và đã lên tiếng ủng hộ mối quan tâm về an ninh của Israel, chống lại cuộc đánh bom tự sát.[32] Ông cũng là người đề xướng và hoạt động tích cực cho đợt vận động đưa đầu tư ra khỏi Israel,[33] vì việc Israel đối xử với những người Palestine cũng tương tự như việc đối xử của chính quyền da trắng với dân da đen Nam Phi trong thời apartheid.[32] Tutu đưa ra sự so sánh này nhân chuyến viếng thăm Jerusalem dịp lễ Giáng sinh năm 1989, khi ông nói rằng ông là một người "da đen Nam Phi, và nếu tôi có thể thay đổi tên gọi, thì một sự mô tả những gì xẩy ra ở Dải Gaza và ở Bờ Tây có thể mô tả những sự việc xẩy ra ở Nam Phi".[34] Ông cũng đưa ra những bình luận tương tự trong năm 2002, nói về "sự sỉ nhục của những người Palestine phải chịu tại các trạm kiểm soát và các rào chắn đường cũng giống như của chúng tôi khi các viên sĩ quan cảnh sát trẻ người da trắng ngăn không cho chúng tôi đi qua".[35]Năm 1988, Ủy ban người Do Thái Hoa Kỳ ghi nhận là Tutu chỉ trích kịch liệt quan hệ quân sự và quan hệ khác của Israel với Nam Phi trong thời apartheid, và dẫn lời ông nói rằng chủ nghĩa Zionism (chủ nghĩa phục quốc Do Thái) có "rất nhiều điểm tương đồng với chủ nghĩa phân biệt chủng tộc", vì nó "loại trừ những người dựa trên cơ sở dân tộc hay nguyên nhân khác mà họ không thể kiểm soát". Trong khi Ủy ban người Do Thái Hoa Kỳ chỉ trích một số quan điểm của Tutu, nhưng bác bỏ "tin đồn ngấm ngầm" là ông đã có lời lẽ chống-Semit.[36] (Lời văn chính xác của tuyên bố của Tutu đã được tường thuật khác nhau trong các nguồn khác nhau. Một bài trên tờ "Toronto Star" từ thời kỳ này cho thấy rằng ông mô tả chủ nghĩa Zionism "như là một chính sách dường như có nhiều điểm tương đồng với chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, tác dụng là như nhau")[37]
Tutu đưa ra một thông điệp về sự tha thứ trong chuyến viếng thăm Viện bảo tàng Yad Vashem của Israel năm 1989, nói rằng: "Chúa chúng ta sẽ nói là cuối cùng thì điều tích cực có thể đến là tinh thần tha thứ, chứ không phải lãng quên, nhưng tinh thần nói: Chúa ơi, điều này đã xẩy ra cho chúng tôi. Chúng tôi cầu nguyện cho những ai đã mang lại điều đó, xin hãy giúp chúng tôi tha thứ cho họ và hãy giúp chúng tôi, để tới lượt chúng tôi sẽ không làm cho những người khác đau khổ".[38] Một số người thấy lời nói này xúc phạm, như rabbi Marvin Hier của Trung tâm Simon Wiesenthal gọi đó là "một sự xúc phạm miễn phí cho người Do Thái và các nạn nhân của chủ nghĩa Quốc xã ở khắp mọi nơi".[39] Tutu đã là đối tượng của sự dèm pha chủng tộc trong chuyến viếng thăm Israel này, với chữ viết của kẻ bôi nhọ "Con heo quốc xã đen" (Black Nazi pig) trên các bức tường của nhà thờ chính tòa thánh George ở Đông Jerusalem, nơi ông cư ngụ.[38]
Năm 2002, khi đưa ra bài nói truyện trước công chúng, ủng hộ việc thôi đầu tư vào Israel, Tutu đã nói "Tôi thật đau lòng. Tôi nói tại sao ký ức của chúng ta quá ngắn. Có anh chị em Do Thái nào của chúng tôi đã quên sự sỉ nhục của họ. Họ đã quên sự trừng phạt tập thể, các vụ phá hủy nhà, trong chính lịch sử của họ sớm như vậy? Họ đã quay lưng lại với truyền thống tôn giáo sâu xa và cao thượng của họ sao? Họ đã quên rằng Thiên Chúa quan tâm sâu xa về người bị áp bức?"[32] Ông lập luận rằng, Israel không bao giờ có thể sống trong an ninh bằng cách đàn áp một dân tộc khác, và nói, "Mọi người đang sợ hãi ở đất nước này (Hoa Kỳ), nói sai là sai bởi vì việc vận động hành lang của người Do Thái là mạnh mẽ - rất mạnh mẽ. Vậy thì sao ? Vì Chúa, đây là thế giới của Chúa ! Chúng ta sống trong một vũ trụ đạo đức. Chính phủ apartheid đã rất mạnh mẽ, nhưng ngày nay nó không còn tồn tại nữa".[32] Lời phát biểu sau đó đã bị một số nhóm người Do Thái chỉ trích, trong đó có Anti-Defamation League (Liên đoàn chống phỉ báng).[40][41] Khi biên tập và in lại từng phần bài nói chuyện đó trong năm 2005, Tutu đã thay các từ "Jewish lobby" (vận động hành lang của người Do Thái) bằng các từ "pro-Israel lobby" (vận động hành lang thân Israel).[42]
Trong Hội nghị Durban II gây tranh cãi trong tháng 4 năm 2009, luật sư người Mỹ Alan Dershowitz cho Tutu là một "người phân biệt chủng tộc và người tin mù quáng".[43]
Các Kitô hữu Palestine
Năm 2003, Tutu nhận vai trò bảo trợ Quốc tế Sabeel,[44] một tổ chức thần học giải phóng Kitô giáo ủng hộ lợi ích của cộng đồng Kitô giáo Palestine và tích cực vận động hành lang bên cạnh Cộng đồng Kitô hữu quốc tế cho việc "đưa đầu tư ra khỏi Israel".[45] Cùng năm, Tutu nhận làm người ủng hộ quốc tế cho Giải thưởng Hòa bình từ Trường Luật Cardozo, một chi nhánh của Đại học Yeshiva, gây ra các vụ phản đối lưa thưa của sinh viên và những sự lên án từ những người đại diện "Trung tâm Simon Wiesenthal" và "Liên đoàn chống Phỉ báng".[46] Một mục ý kiến trên báo Jerusalem Post năm 2006 mô tả ông như "một người bạn của Israel và người Do Thái, mặc dù bị hướng dẫn sai".[47]Dải Gaza
Tutu được Liên Hiệp Quốc bổ nhiệm dẫn đầu phái đoàn điều tra việc Israel ném bom trong vụ Vụ rắc rối tại Beit Hanoun 2006. Israel đã từ chối không cho phái đoàn của Tutu nhập cảnh nên tới năm 2008 việc điều tra không thành.Trong nhiệm vụ tìm hiểu thực tế đó, Tutu đã gọi việc phong tỏa Dải Gaza là hành động ghê tởm[48] và so sánh lối ứng xử của Israel với lối ứng xử của nhóm sĩ quan quân sự cai trị Myanma.
Phản đối Tutu ở Hoa Kỳ
Năm 2011 một số thành viên của "Hiệp hội bệnh tâm thần Hoa Kỳ" đã từ chối tham dự cuộc họp hàng năm của nhóm ở Honolulu để phản đối việc chọn Tutu làm phát ngôn viên vì ông được cho là có những lời phát biểu "bài Do Thái". Dr. Thomas G. Gutheil còn đi xa hơn là rút lui khỏi tổ chức này.[49][50][51]Năm 2007, chủ tịch Đại học St. Thomas ở Minnesota đã hủy bỏ cuộc nói chuyện của Tutu đã được dự kiến trước, với lý do là sự hiện diện của ông có thể khiến một số thành viên trong cộng đồng người Do Thái địa phương bất mãn.[52] Nhiều thành viên trong Ban giảng huấn của trường đã phản đối quyết định này, và một số người mô tả Tutu là nạn nhân của một chiến dịch bôi nhọ. Nhóm Jewish Voice for Peace đã dẫn đầu một chiến dịch gửi thư điện tử kêu gọi Đại học St. Thomas xem xét lại quyết định của mình,[53] khiến ông chủ tịch đã xét lại và mời Tutu tới trường.[54] Tutu khước từ lời mời lại này, thay vào đó ông tới nói chuyện ở "Trung tâm hội nghị Minneapolis" nhân một sự kiện do "Metro State University" tổ chức.[55] Tuy nhiên, 2 ngày sau Tutu đã tới nói chuyện ở đại học St. Thomas, sau khi chấm dứt cuộc viếng thăm "Metro State University". "Có những người đã thử nói "Tutu không nên tới (Đại học St.Thomas) để nói chuyện." Tôi ở cách xa đây 10.000 dặm và tôi tự nghĩ: "À, không", bởi vì ở đây có nhiều người đã nói "Không, hãy đến và nói chuyện",Tutu nói. "Mọi người đã đến và đứng lên và đã có các phát biểu rằng "Hãy để cho Tutu nói". [Metropolitan State University] nói:" Dù thế nào, ông ta có thể đến và nói chuyện ở đây. "Giáo sư Toffolo và những người khác nói: "Chúng tôi ủng hộ ông.' Vì vậy, chúng ta hãy ủng hộ họ".[56]
Trung quốc
Năm 2007 Tutu viết thư cho chính phủ Trung Quốc yêu cầu thả nhà bất đồng chính kiến Dương Kiến Lợi.[57] Ông chỉ trích Trung Quốc là đã không làm gì nhiều chống lại cuộc xung đột Darfur.[58] Trong cuộc Bạo động năm 2008 tại Tây Tạng, Tutu ca tụng Đạt-lại Lạt-ma thứ 14 và nói rằng chính phủ Trung quốc phải "nghe theo những lời yêu cầu [của ông ta] để... không bạo hành thêm nữa".[59] Sau đó ông nói tại một cuộc mít tinh kêu gọi các nhà lãnh đạo quốc gia khắp thế giới không tới dự Lễ khai mạc Thế vận hội Mùa hè 2008 "vì dân tộc Tây Tạng".[60]Vai trò ở Liên Hiệp Quốc
Năm 2003, ông được bầu vào Ban Giám đốc "Quỹ Ủy thác cho các nạn nhân" của Tòa án Hình sự Quốc tế.[61] Năm 2006 ông được bổ nhiệm làm thành viên của ban cố vấn của Liên Hiệp Quốc về phòng, chống tội diệt chủng.[62]Tuy nhiên, Tutu cũng chỉ trích Liên Hiệp Quốc, đặc biệt về vấn đề Tây Papua. Tutu bày tỏ sự ủng hộ phong trào độc lập Tây Papua, chỉ trích vai trò của Liên Hiệp Quốc trong việc để cho Indonesia tiếp quản Tây Papua. Tutu nói: "Trong nhiều năm người dân Nam Phi đã phải chịu dưới ách áp bức và phân biệt chủng tộc. Nhiều người tiếp tục bị đàn áp tàn bạo, phẩm cách cơ bản như là con người của họ bị từ chối. Một dân tộc giống như vậy là dân tộc Tây Papua."[63]
Tutu được bổ nhiệm đứng đầu phái bộ Liên Hiệp Quốc tìm hiểu thực tế vụ việc ở thị trấn Beit Hanoun thuộc Dải Gaza, nơi mà trong vụ Vụ rắc rối tại Beit Hanoun 2006 Lực lượng Phòng vệ Israel đã giết 19 thường dân sau khi đội quân tiến hành xong cuộc đột nhập kéo dài một tuần lễ nhằm mục đích kiềm chế "vụ người Palestine bắn hỏa tiễn vào Israel năm 2006" từ thị trấn này.[64] Theo chủ tịch Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc,Luis Alfonso De Alba thì Tutu dự định đi tới lãnh thổ Palestine để "đánh giá tình trạng của các nạn nhân, xem xét giải quyết các nhu cầu của những người sống sót và đưa ra các khuyến nghị về cách thức và phương tiện để bảo vệ thường dân Palestine chống lại các cuộc tấn công tiếp tục của Israel".[65] Các quan chức Israel bày tỏ lo ngại rằng bản báo cáo sẽ thiên vị chống lại Israel. Tutu hủy bỏ chuyến đi vào giữa tháng Mười Hai, nói rằng Israel đã từ chối cấp cho ông giấy phép du hành cần thiết sau hơn một tuần lễ thảo luận.[66] Tuy nhiên, Tutu và giáo viên đại học người Anh Christine Chinkin nay được sắp đặt tới thăm Dải Gaza qua lối Ai Cập và sẽ nộp một báo cáo cho Hội đồng Nhân quyền tại kỳ họp tháng 9 năm 2008.[67]
Chính kiến
Chống nghèo khổ
Trước Hội nghị thượng đỉnh G8 lần thứ 31 ở Gleneagles, Scotland, năm 2005, Tutu kêu gọi các nhà lãnh đạo thế giới thúc đẩy mậu dịch tự do với các nước nghèo hơn. Tutu cũng kêu gọi chấm dứt việc đánh thuế cao các thuốc chống bệnh AIDS.[68]Sau hội nghị thượng đỉnh này, các nhà lãnh đạo G8 đã cam kết tăng cường viện trợ cho các nước đang phát triển 48 tỷ dollar Mỹ một năm vào năm 2010. Hơn nữa, họ đã hứa danh dự rằng họ sẽ làm hết sức mình để hoàn tất quyền tiếp cận phổ cập trong phòng chống và điều trị cho hàng triệu, triệu người trên toàn cầu bị đe dọa bởi HIV/AIDS.
Trước khi Hội nghị Thượng đỉnh G8 lần thứ 32 tại Heiligendamm, Đức trong năm 2007, Tutu kêu gọi các nước G8 tập chú vào tình trạng nghèo khổ ở Thế giới thứ ba. Sau khi Hội nghị Thượng đỉnh Thiên niên kỷ vào năm 2000, có vẻ như các nhà lãnh đạo thế giới đã quả quyết như chưa hề có trước đây, là đặt ra và đáp ứng các mục tiêu cụ thể liên quan đến nghèo đói cùng cực.[69]
Chống chủ trương hành động đơn phương
Tháng Giêng năm 2003, Tutu công kích thái độ của thủ tướng Anh Tony Blair trong việc ủng hộ tổng thống Hoa Kỳ George W. Bush về vấn đề Iraq. Liên minh giữa Hoa Kỳ và Anh đã dẫn đến cuộc chiến tranh Iraq nổ ra vào cuối năm đó. Tutu hỏi tại sao Iraq bị chọn (để tấn công), trong khi châu Âu, Ấn Độ và Pakistan cũng có nhiều vũ khí hủy diệt hàng loạt.[70]Tháng 10 năm 2004, Tutu xuất hiện trong vở kịch ở Off Broadway, New York, gọi là Guantanamo – Honor-bound to Defend Freedom. Vở kịch này chỉ trích mạnh mẽ việc Hoa Kỳ đối xử với các tù nhân bị giam ở Vịnh Guantánamo. Tutu đóng vai Lord Justice Steyn, một thẩm phán đã yêu cầu chứng minh sự hợp pháp của chế độ giam giữ.[71]
Tháng Giêng năm 2005, Tutu thêm tiếng nói của mình vào sự bất đồng ngày càng tăng về những kẻ bị tình nghi là quân khủng bố bị giữ tại Camp X-Ray ở Vịnh Guantánamo, Cuba, đề cập tới những vụ giam giữ mà không đưa ra xét xử là "hoàn toàn không thể chấp nhận được". Tutu so sánh các vụ giam gìữ này với các vụ giam giữ dưới chế độ Apartheid. Tutu cũng nhấn mạnh là khi Nam Phi sử dụng các phương pháp đó thì đã bị lên án, nhưng khi các cường quốc như Anh và Hoa Kỳ cũng dùng tới cường lực như vậy thì thế giới lại lặng im và trong sự lặng im này họ đã chấp nhận những phương pháp đó dù chúng vi phạm các quyền chủ yếu của con người.[72]
Tháng 2 năm 2006, Tutu nhắc lại những tuyên bố này sau khi một báo cáo của Liên Hiệp Quốc được công bố, trong đó kêu gọi đóng cửa trại giam này. Tutu nói rằng trại Guantanamo là một vết nhơ trên danh tiếng của Hoa Kỳ, trong khi pháp luật ở Anh đưa ra một thời hạn tạm giam 28 ngày đối với các nghi phạm khủng bố là "quá đáng" và "không thể biện hộ được". Tutu đã chỉ ra rằng các lập luận tương tự đã được đưa ra ở Anh và Hoa Kỳ mà chế độ phân biệt chủng tộc Nam Phi đã sử dụng. Tutu nói:"Thật là hổ thẹn và người ta không thể tìm thấy từ đủ mạnh mẽ để lên án những gì mà Anh và Hoa Kỳ cùng một số đồng minh của họ đã chấp nhận". Tutu cũng công kích mưu toan đã thất bại của Tony Blair nhằm giữ các nghi phạm khủng bố ở Anh lên đến 90 ngày mà không kết tội. "90 ngày đối với một người Nam Phi là một cảm giác khủng khiếp đã trải qua, bởi vì chúng tôi đã có luật giam giữ 90 ngày ở Nam Phi trong thời kỳ tồi tệ xưa ", ông nói. Dưới thời apartheid, cũng như tại Guantanamo, người ta đã bị giữ trong các "thời gian dài quá đáng" rồi sau đó được thả, ông nói.[73]
Năm 2007, Tutu nói rằng "cuộc chiến chống khủng bố" toàn cầu sẽ không thể thắng nếu dân chúng sống trong những hoàn cảnh tuyệt vọng. Tutu nói rằng sự chênh lệch toàn cầu giữa người giàu và người nghèo tạo ra sự bất ổn định.[74]
HIV, AIDS và Lao
Tutu là người đấu tranh không mệt mỏi cho y tế và nhân quyền, và đặc biệt đã lớn tiếng ủng hộ việc kiểm soát bệnh lao và HIV.[75] Ông là người bảo trợ "Quỹ HIV Desmond Tutu", một tổ chức bất vụ lợi, và làm chủ tịch danh dự của "Global AIDS Alliance" cùng người bảo trợ TB Alert, một tổ chức từ thiện có tính quốc tế của Anh.[76] Năm 2003 "Trung tâm HIV Desmond Tutu" được thiết lập ở Cape Town, trong khi "Trung tâm TB Desmond Tutu" được thành lập ở Đại học Stellenbosch năm 2003. Tutu bị lao từ thời trẻ và đã tích cực giúp đỡ những người bị bệnh, đặc biệt là trường hợp tử vong vì bệnh lao và HIV/AIDS đã trở thành cố kết ở Nam Phi. Tutu nói: "Những người các anh làm việc chăm sóc cho những người bị AIDS và bệnh lao là lau giọt nước mắt khỏi mắt của Chúa.[75]Ngày 20.4.2005, sau khi Hồng y Joseph Ratzinger được bầu làm Giáo hoàng Biển Đức XVI, Tutu nói ông buồn là Giáo hội Công giáo Rôma không nghĩ đến thay đổi thái độ chống đối việc dùng bao cao su trong đấu tranh chống HIV/AIDS ở châu Phi: "Chúng tôi đã hy vọng có một người cởi mở hơn đối với những phát triển gần đây trên thế giới, toàn bộ vấn đề chức giáo sĩ của phụ nữ và một quan điểm hợp lý hơn đối với việc dùng bao cao su cùng HIV/AIDS."[77]
Năm 2007, Các thống kê được công bố chỉ ra số lượng người nhiễm HIV và AIDS ở Nam Phi thấp hơn so với suy nghĩ trước đây. Tuy nhiên, Tutu gọi những thống kê này là "sự an ủi nhạt nhẽo" vì không thể chấp nhận là mỗi ngày ở Nam Phi có tới 600 người chết vì bệnh AIDS. Tutu cũng khiển trách chính phủ vì đã lãng phí thời gian thảo luận về cái gì gây ra HIV/AIDS, mà đặc biệt là các công kích Mbeki và Bộ trưởng Y tế Manto Tshabalala-Msimang [ về lập trường chối bỏ bệnh AIDS của họ.[78]
Cải cách Giáo hội
Năm 2002, Tutu kêu gọi cải cách giáo hội Anh giáo về vấn đề chọn vị lãnh đạo của giáo hội, Đức Tổng Giám mục Canterbury, như thế nào. Việc bổ nhiệm cuối cùng là do Thủ tướng Chính phủ Anh và do đó Tutu cho rằng quá trình lựa chọn sẽ chỉ thích hợp với dân chủ và tính đại diện, khi mối liên kết giữa giáo hội và nhà nước được phá vỡ. Tháng 2 năm 2006, Tutu đã tham gia cuộc họp lần thứ 9 của Hội đồng Giáo hội thế giới, tổ chức tại Porto Alegre, Brasil. Ở đó, ông thể hiện cam kết của mình vào chủ trương đại kết và biểu dương những nỗ lực của các giáo hội Kitô giáo nhằm thúc đẩy đối thoại để giảm bớt sự khác biệt giữa các giáo hội. Đối vớiTutu, "một giáo hội thống nhất là không có ngoại lệ tùy chọn".Nữ quyền
Ngày 8.3.2009, Desmond Tutu tham gia cuộc vận động "Châu Phi ủng hộ Nữ quyền" được "Liên đoàn quốc tế Nhân quyền", "Trung tâm Nghiên cứu Nhân quyền và Dân chủ châu Phi", "Phụ nữ châu Phi đoàn kết", Women's Aid Collective (WACOL), Women in Law and Development in Africa (WILDAF), Women and Law in South Africa (WLSA) cùng hàng trăm tổ chức nhân quyền và nữ quyền khác ở châu Phi phát động. Đợt vận động này nhằm lôi kéo sự chú ý tối đa tới vấn đề nữ quyền để gia tăng áp lực buộc các chính phủ châu Phi phải phê chuẩn những văn kiện bảo vệ nữ quyền của khu vực và quốc tế, và chấm dứt bạo lực cùng phân biệt đối xử với phụ nữ.Năm 1994, Tutu nói rằng ông tán thành phương pháp ngừa thai nhân tạo và nói rằng việc phá thai phải được chấp nhận trong nhiều trường hợp, chẳng hạn như trường hợp loạn luân và hiếp dâm. Ông đặc biệt hoan nghệnh các mục tiêu của Hội nghị quốc tế về Dân số và Phát triển ở Cairo.[79]
Biến đổi khí hậu
Tutu đã tham dự Hội nghị Liên Hiệp Quốc về Biến đổi khí hậu 2009 ở Copenhagen. Ông đã phát biểu trước cử tọa trong Hội nghị này. Tutu cũng là "Climate Ally" trong đợt vận động "tck tck tck Time for Climate Justice" của Diễn đàn Nhân đạo toàn cầu và sứ giả của 350.org.[80]Hoạt động nhân đạo khác
Năm 2009 Tutu tham gia dự án "Soldiers of Peace" (Các chiến binh Hòa bình), một phim chống mọi cuộc chiến tranh và cho hòa bình toàn cầu.[81][82]Cũng năm 2009, cùng với các ông sếp trứ danh và những người nổi tiếng khác như Daniel Boulud và Jean Rochefort, Desmond Tutu đã ủng hộ Chiến dịch "Không đói" của tổ chức Action Against Hunger (Hành động chống Đói), kêu gọi cựu phó tổng thống Hoa Kỳ Al Gore hãy làm một phim tài liệu về nạn đói trên thế giới.[83]
Vai trò giáo viên đại học
Năm 1998, ông được bổ nhiệm chức giáo sư thỉnh giảng Robert W. Woodruff tại Đại học Emory, Atlanta. Năm sau ông trở lại Đại học Emory với tư cách Giáo sư thỉnh giảng lỗi lạc (Visiting Distinguished Professor) William R Cannon.Năm 2000, ông thành lập "Quỹ Hòa bình Desmond Tutu" để tài trợ cho "Trung tâm Hòa bình Desmond Tutu" ở Cape Town. Năm sau ông phát động "Quỹ Hòa bình Desmond Tutu Hoa Kỳ", để làm việc với các trường đại học trong phạm vi cả nước nhằm tạo ra chức lãnh đạo các học viện nhấn mạnh về hòa bình, công bằng xã hội và hòa giải.
Năm 2001, "Hội giáo dục Desmond Tutu", với sự tài trợ của Quỹ W.K. Kellogg, đưa ra "Giải thưởng các nhân vật huyền thoại theo dấu chân Desmond Tutu" để nhìn nhận vai trò lãnh đạo trong cuộc chiến cho nhân quyền, nghiên cứu, chống định kiến, và xóa đói giảm nghèo. Từ năm 2004, ông là giáo sư thỉnh giảng tại King’s College London. Năm 2007 và năm 2010, ông cùng 600 sinh viên đại học đi biển quanh thế giới với chương trình "Học kỳ trên biển" (Semester at Sea).[84]
Tutu là đồng chủ tịch "Nhóm ủng hộ" chiến dịch 1GOAL Giáo dục cho mọi người được Hoàng hậu Rania của Jordan phát động trong tháng 8 năm 2009 nhằm mục đích bảo đảm việc học cho khoảng 72 triệu trẻ em trên khắp thế giới không được học hành, phù hợp với Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ về Giáo dục cho mọi người tới năm 2015, cho họ cơ hội được giáo dục thông qua đợt vận động 1Goal của FIFA.[85][86]
Bộ gien đơn bội
Trong nỗ lực liên tục để nghiên cứu sự đa dạng của các bộ gien đơn bội (genome) của con người, Tutu đã tặng một số tế bào riêng của mình cho dự án trên. Các tế bào này đã được sắp xếp theo trình tự chuỗi như một bản mẫu cho một cá thể người Bantu đại diện cho những người nói tiếng Sotho-Tswana và tiếng Nguni (xuất bản: tháng 2 năm 2010).[87]Một thế giới trẻ
Desmond Tutu đã ghi tên làm một trong các cố vấn của tổ chức One Young World (Một thế giới trẻ) – một tổ chức phi lợi nhuận hy vọng mang 1.500 nhà lãnh đạo trẻ toàn cầu của ngày mai từ mọi nước trên thế giới lại với nhau.Đời tư
Ngày 2.7.1955, Tutu kết hôn với Nomalizo Leah Shenxane, một giáo viên mà ông đã quen từ thời còn là sinh viên. Họ có 4 người con: Trevor Thamsanqa Tutu, Theresa Thandeka Tutu, Naomi Nontombi Tutu và Mpho Andrea Tutu, cả 4 đều học trường Waterford Kamhlaba ở Swaziland.[88]Người con trai của ông, Trevor Tutu, gây ra vụ đe dọa đánh bom tại sân bay East London vào năm 1989 và đã bị bắt. Năm 1991, anh bị kết án vi phạm Luật Hàng không dân dụng vì tuyên bố dối trá là có một quả bom trên máy bay của hãng hàng không South African Airways ở sân bay East London.[89] Vụ đe dọa đánh bom này làm cho chuyến bay tới Johannesburg phải hoãn lại hơn 3 giờ, khiến cho hãng South African Airways tốn mất số tiền 28.000 rand Nam Phi. Vào thời điểm đó, Trevor Tutu công bố ý định kháng cáo bản án của mình, nhưng đã không có mặt ở phiên tòa phúc thẩm. Anh đã bị tịch thu số tiền thế chấp 15.000 rand Nam Phi.[89] Anh tới hạn bắt đầu chấp hành hình phạt của mình vào năm 1993, nhưng không đến trình diện với giới chức nhà tù, cuối cùng anh đã bị bắt ở Johannesburg trong tháng 8 năm 1997. Anh đã nộp đơn xin ân xá tại Truth and Reconciliation Commission (Ủy ban Sự thật và Hòa giải) và được chấp thuận năm 1997, sau đó được phóng thích khỏi nhà tù Goodwood ở Cape Town, nơi anh bắt đầu thụ án phạt giam 3 năm rưỡi sau khi một tòa án ở thành phố East London, Eastern Cape (đông nam Nam Phi) từ chối không cho anh nộp tiền thế chấp tại ngoại.[90]
Naomi Tutu học ở "Trường Ngoại giao và Thương mại quốc tế Patterson" thuộc Đại học Kentucky và theo chân cha làm nhà hoạt động nhân quyền. Naomi đã lập ra "Quỹ Phát triển và Trợ cấp Tutu" ở Nam Phi, có trụ sở ở Hartford, Connecticut. Hiện nay Naomi là người điều phối chương trình cho "Viện quan hệ chủng tộc" (Race Relations Institute) ở Đại học Fisk, tại Nashville, Tennessee.[91]
Mpho Tutu, cũng nối gót theo cha và năm 2004 đã được cha mình phong chức giáo sĩ giáo phái Episcopal.[92] Cô cũng là người sáng lập và làm giám đốc điều hành "Viện cầu nguyên và hành hương Tutu" (Tutu Institute for Prayer and Pilgrimage) đồng thời làm trưởng Ban "Liên minh AIDS toàn cầu" (Global AIDS Alliance).[93]
Năm 1997, Tutu bị chẩn đoán mắc bệnh Ung thư tuyến Tiền liệt và được chữa trị thành công ở Hoa Kỳ. Sau đó ông trở thành người đỡ đầu "Quỹ Ung thư tuyến Tiền liệt Nam Phi" (South African Prostate Cancer Foundation) được thành lập năm 2007.[94]
Từ sinh nhật thứ 79, Tutu thực hiện việc rút lui khỏi sinh hoạt xã hội công cộng từng giai đoạn, đầu tiên là chỉ có mặt mỗi tuần một ngày tại văn phòng của ông cho đến cuối tháng 2 năm 2011. Ngày 23 tháng 5 ở Shrewsbury Massachusetts, Tutu đã làm điều được cho là sự kiện công cộng lớn cuối cùng của ông ở bên ngoài Nam Phi. Tutu sẽ thi hành các cam kết của mình cho tới hết tháng 5 năm 2011 và sẽ không đưa ra thêm cam kết nào nữa.[95]
Vinh dự
Dưới đây là một số giải thưởng và Vinh dự của Desmond Tutu:- 1978: Tutu được trao chức thành viên Ban quản trị King's College London, nơi ông từng là cựu sinh viên. Ông trở lại King's College năm 2004 làm giáo sư thỉnh giảng môn "Nghiên cứu sau Xung đột" (Post-Conflict Studies). Câu lạc bộ hộp đêm của sinh viên được đặt theo tên ông.[96]
- 16.10.1984: Giám mục Desmond Tutu được trao Giải Nobel Hòa bình. Ủy ban giải Nobel đã nêu "vai trò của ông như nhân vật lãnh đạo thống nhất trong chiến dịch giải quyết vấn đề phân biệt chủng tộc ở Nam Phi".[97]
- 1986: Giải Albert Schweitzer cho chủ nghĩa nhân đạo
- Năm 1987 Tutu được trao Giải Pacem in Terris.[98] Giải này được gọi theo tông thư cùng tên năm 1963 của Giáo hoàng Gioan XXIII kêu gọi mọi người có thiện chí bảo đảm hòa bình giữa các dân tộc.[99]
- Năm 1992, ông được trao Bishop John T. Walker Distinguished Humanitarian Service Award.
- 1998: Bắc Đẩu Bội tinh hạng Grand Officier (Pháp)
- 1998: Giải Ý thức toàn cầu (Planetary Consciousness Award)
- 1999: Huân chương Công trạng của Cộng hòa Liên bang Đức (Verdienstorden der Bundesrepublik Deutschland) hạng Đại Thập Tự
- 1999: Huy chương Wilberforce (Anh)
- Tháng 6 năm 1999, Tutu được bầu làm thành viên danh dự trong Ban quản trị của trường Sidney Sussex College thuộc Đại học Cambridge, nơi đây ông đã được trao bằng Doctor of Divinity danh dự.
- 1999: Giải Hòa bình Sydney (Úc)
- 2001: Tutu được "Đại học Stellenbosch"trao chức Hội viên danh dự của "Golden Key International Honour Society".[100]
- 2004: Giải Hòa bình Gandhi (Ấn Độ)
- 2006: Tutu được bổ nhiệm làm người bảo trợ danh dự của University Philosophical Society, Trinity College, Dublin.
- 2008, Thống đốc Rod Blagojevich tiểu bang Illinois công bố lấy ngày 13 tháng 5 là 'Ngày Desmond Tutu'. Trong dịp tới thăm Illinois, Tutu được trao "Giải chức lãnh đạo Lincoln" (Lincoln Leadership Prize) và mở tấm che khai mạc bức hình chân dung của ông trưng bày trong Thư viện Tổng thống Abraham Lincoln ở Springfield.[101]
- Tháng 10 năm 2008, Tutu được trao Huy chương Wallenberg của Đại học Michigan nhìn nhận công việc bảo vệ nhân quyền và nhân phẩm suốt đời ông.
- Tháng 11 năm 2008, Tutu được trao giải J. William Fulbright Prize for International Understanding.
- 2009: Huân chương Tự do Tổng thống (Hoa Kỳ)[102]
- Ngày 8.5.2009, Tutu được trao bằng tiến sĩ danh dự của Michigan State University. Hai ngày sau, ông nhận bằng tiến sĩ danh dự của University of North Carolina at Chapel Hill.[103][104]
- Ngày 10.6.2009: Tiến sĩ danh dự của Đại học Bangor, xứ Wales
- Ngày 12.6.2009: Tiến sĩ Thần học danh dự của Đại học Vienne "Doctor Theologiae honoris causa".
- 2009: Nhà thờ chính tòa Southwark đặt tên 2 loại hoa hồng mới theo tên ông và bà vợ Leah Tutu để vinh danh nhân "Cuộc triển lãm Hoa RHS 2009" ở Hampton Court Palace. Dịp này ca đoàn Southwark Cathedral Merbecke Choir đã trình diễn buổi hòa nhạc ở Nhà thờ chính tòa Southwark ngày 11.7.2009 trước sự hiện diện của ông và bà vợ.[105][106]
- 2009: Ông nhận "Giải lãnh đạo tinh thần" của Phong trào Humanity's Team quốc tế[107][108]
Xuất hiện trên phim và phương tiện truyền thông
- The Late Late Show with Craig Ferguson (mà Ferguson đoạt Giải Peabody) (2009)
- Iconoclasts Desmond Tutu và Richard Branson (2008)
- I Am Because We Are (2008)
- For the Bible Tells Me So (2007)
- Virgin Radio (2007) – Tutu tiếp xúc với Virgin Radio ngày 15.10.2007 trong chương trình điện đàm "Who's Calling Christian" trong đó cá người nổi tiếng gọi tới để tăng lên số tiền đáng kể cho việc từ thiện.
- The Foolishness of God: Desmond Tutu and Forgiveness (2007) (hậu sản xuất)
- Our Story Our Voice (2007)
- 2006 Trumpet Awards (2006) (TV)
- Nobelity DVD (2006)
- De skrev historie (1 tập, 2005)
- The Shot That Shook the World (2005) (TV)
- The Peace! DVD (2005) (V)
- The Charlie Rose Show (1 tập, 2005)
- Out of Africa: Heroes and Icons (2005) (TV)
- Big Ideas That Changed the World (2005) (mini) TV Series
- Breakfast with Frost (3 tập, 2004–2005)
- Tavis Smiley (1 tập, 2005)
- The South Bank Show (1 tập, 2005)
- Wall Street: A Wondering Trip (2004) (TV)
- The Daily Show (1 tập, 2004)
- Bonhoeffer (2003)
- Long Night's Journey Into Day (2000)
- Epidemic Africa (1999)
- Cape Divided (1999)
- A Force More Powerful (1999)
- Gimme Hope Jo'anna đĩa đơn nổi tiếng 1988 của Eddy Grant coi Tutu như "The Archbishop who's a peaceful man" (Vị Tổng Giám mục là một người hòa bình), đã bị chính phủ Nam Phi cấm
- Tutu album 1986 của Miles Davis hiến tặng Tutu. Phần tiêu đề do Marcus Miller viết, đã trở thành một tiêu chuẩn phối hợp nhạc jazz.
Các bài viết
Tutu đã đóng góp vào lãnh vực tâm lý xã hội. Các bài viết của ông đăng trên tạp chí "Greater Good" do Greater Good Science Center của Đại học California tại Berkeley xuất bản. Các đóng góp của ông trong đó có việc giải thích nghiên cứu khoa học tận gốc rễ của lòng từ bi, lòng vị tha, và các mối quan hệ hòa bình của con người. Bài viết gần đây nhất của ông trên tạp chí Greater Greater có tên là: Why to Forgive", trong đó xem xét vì sao sự tha thứ không chỉ bổ ích cá nhân, mà còn là sự cần thiết chính trị để cho phép Nam Phi có một sự bắt đầu mới. Tuy nhiên, Tutu c ũng nói rằng sự tha thứ không phải là nhắm mắt làm ngơ đối với những sai trái; việc hòa giải đích thực phải phơi bày cho thấy sự khủng khiếp, lạm dụng, nỗi đau thể xác và tinh thần, sự thật. Nó thậm chí đôi khi có thể làm cho các việc trở nên tồi tệ hơn. Nó là một công việc nguy hiểm nhưng cuối cùng nó cũng đáng giá, bởi vì rốt cuộc chỉ có một cuộc đối đầu trung thực với thực tế mới có thể chữa lành bệnh.Tutu là tác giả của 7 bộ tập hợp các bài thuyết giáo và những bài viết khác:
- Crying in the Wilderness, Eerdmans, 1982. ISBN 978-0-8028-0270-5
- Hope and Suffering: Sermons and Speeches, Skotaville, 1983. ISBN 978-0-620-06776-8
- The Words of Desmond Tutu, Newmarket, 1989. ISBN 978-1-55704-719-9
- Worshipping Church in Africa, Duke University Press, 1995. ASIN B000K5WB02
- The Essential Desmond Tutu, David Phillips Publishers, 1997. ISBN 978-0-86486-346-1
- No Future without Forgiveness, Doubleday, 1999. ISBN 978-0-385-49689-6
- An African Prayerbook, Doubleday, 2000. ISBN 978-0-385-47730-7
- God Has a Dream: A Vision of Hope for Our Time, Doubleday, 2004. ISBN 978-0-385-47784-0
- The Rainbow People of God: The Making of a Peaceful Revolution, Doubleday, 1994. ISBN 978-0-385-47546-4
- "Bounty in Bondage: Anglican Church in Southern Africa – Essays in Honour of Edward King, Dean of Cape Town" with Frank England, Torguil Paterson, and Torquil Paterson (1989)
- "Resistance Art in South Africa" with Sue Williamson (1990)
- The Rainbow People of God with John Allen (1994)
- "Freedom from Fear: And Other Writings" with Václav Havel and Aung San Suu Kyi (1995)
- "Reconciliation: The Ubuntu Theology of Desmond Tutu" with Michael J. Battle (1997)
- "Exploring Forgiveness" with Robert D. Enright and Joanna North (1998)
- "Love in Chaos: Spiritual Growth and the Search for Peace in Northern Ireland" with Mary McAleese (1999)
- "Race and Reconciliation in South Africa (Global Encounters: Studies in Comparative Political Theory)" with William Vugt and G. Daan Cloete (2000)
- "South Africa: A Modern History" with T.R.H. Davenport and Christopher Saunders (2000)
- "At the Side of Torture Survivors: Treating a Terrible Assault on Human Dignity" with Bahman Nirumand, Sepp Graessner and Norbert Gurris (2001)
- "Place of Compassion" with Kenneth E. Luckman (2001)
- "Passion for Peace: Exercising Power Creatively" with Stuart Rees (2002)
- "Out of Bounds (New Windmills)" with Beverley Naidoo (2003)
- "Fly, Eagle, Fly!" with Christopher Gregorowski and Niki Daly (2003)
- "Sex, Love and Homophobia: Lesbian, Gay, Bisexual and Transgender Lives" with Amnesty International, Vanessa Baird and Grayson Perry (2004)
- "Toward a Jewish Theology of Liberation" with Gustavo Gutierrez and Marc H. Ellis (2004)
- "Radical Compassion: The Life and Times of Archbishop Ted Scott" with Hugh McCullum (2004)
- "Third World Health: Hostage to First World Wealth" with Theodore MacDonald (2005)
- "Where God Happens: Discovering Christ in One Another and Other Lessons from the Desert Fathers" with Rowan Williams (2005)
- "Health, Trade and Human Rights" with Mogobe Ramose and Theodore H. MacDonald (2006)
- "The Soul of a New Cuisine: A Discovery of the Foods and Flavors of Africa" with Marcus Samuelsson, Heidi Sacko Walters and Gediyon Kifle (2006)
- "The Gospel According to Judas WMA: By Benjamin Iscariot" with Jeffrey Archer, Frank Moloney (2007)
- "Made for Goodness: And Why This Makes All The Difference" with Mpho Tutu (2010)
- "God Is Not A Christian: And Other Provocations" with John Allen (2010)
Tham khảo và Chú thích
- ^ “Tutu to be honoured with Gandhi Peace Award”. Truy cập ngày 11 tháng 11 năm 2008.
- ^ Miller, Lindsay. “Desmond Tutu – A Man with a Mission”. Truy cập ngày 1 tháng 6 năm 2008. [[]][liên kết hỏng]
- ^ a ă Aarvik, Egil (1984). “Presentation Speech of 1984 Nobel Prize for Peace”. The Nobel Foundation. Truy cập ngày 1 tháng 6 năm 2008.
- ^ Gish, Steven (2004). Desmond Tutu. A Biography. Greenwood Press. doi:10.1336/0313328609. ISBN 978-0-313-32860-2.
- ^ ngôn ngữ của người da trắng ở Nam Phi, phái sinh từ tiếng Hà Lan
- ^ Wood, Lawrence (17 tháng 10 năm 2006). “Tutu's story”. The Christian Century. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2008.
- ^ Tutu, Desmond (1994). The Rainbow People of God: The Making of a Peaceful Revolution. New York: Doubleday. ISBN 0385475462.
- ^ Carlin, John (12 tháng 11 năm 2006). “Former aide John Allen’s authorised biography offers an intimate view of Desmond Tutu”. The Observer (UK). Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2008.
- ^ London Gazette: số 54002, tr. 5286, 7 April 1995. Truy cập 5 June 2008.
- ^ (1 June 2009): Tutu in Hay appeal for Zimbabwe. BBC News (28 May 2009). Retrieved on 8 September 2011.
- ^ a ă “Fact Sheet: Archbishop Desmond Mpilo Tutu”. Racism. No Way. 19 tháng 1 năm 2006. Truy cập ngày 1 tháng 6 năm 2008.
- ^ “Tutu calls for child registration”. BBC. 22 tháng 2 năm 2005. Truy cập ngày 23 tháng 1 năm 2008.
- ^ "South Africa's Tutu Announces Retirement.". CNN. Retrieved on 8 September 2011.
- ^ a ă â “Archbishop Desmond Tutu lambasts African silence on Zimbabwe”. USA Today. 16 tháng 3 năm 2007. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2008.
- ^ Tutu, Mbeki & others (2005). “Controversy: Tutu, Mbeki & the freedom to criticise”. Centre for Civil Society.
- ^ a ă “Tutu warns of poverty 'powder keg'”. BBC. 23 tháng 11 năm 2004.
- ^ Carlin, John. “Interview with Tutu”. PBS Frontline. Truy cập ngày 7 tháng 9 năm 2006.
- ^ “S Africa is losing its way – Tutu”. BBC. 27 tháng 9 năm 2006.
- ^ xử tử bằng cách ấn vòng bánh xe lọt ngang ngực người đó rồi đốt vòng bánh xe đó
- ^ Edward, Rhiannon (22 tháng 5 năm 2008). “South Africa calls in army as street violence spreads”. The Scotsman (Edinburgh). Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 6 năm 2010.
- ^ “Archbishop Desmond Tutu on 'Made For Goodness'”. ABC Good Morning America, Books. ABC News. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 6 năm 2010.
- ^ “'Please, please stop'”. News24. 19 tháng 5 năm 2008. Truy cập ngày 31 tháng 5 năm 2008.
- ^ “Nelson Mandela and Desmond Tutu Announce The Elders” (Thông cáo báo chí). The Elders. 18 tháng 7 năm 2007. Truy cập ngày 6 tháng 6 năm 2008.
- ^ “Tutu denounces rights abuses”. News24. 10 tháng 12 năm 2007. Truy cập ngày 23 tháng 1 năm 2008.
- ^ Thornycroft, Peta; Berger, Sebastien (19 tháng 9 năm 2007). “Zimbabwe needs your help, Tutu tells Brown”. The Daily Telegraph (UK). Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2008.
- ^ “Tutu urges Zimbabwe intervention”. BBC. 29 tháng 6 năm 2008.
- ^ John Allen (10 tháng 10 năm 2007). “Working with a rabble-rouser”. The Times (UK). Truy cập ngày 22 tháng 1 năm 2008.
- ^ a ă “‘Mugabe must step down with dignity’”. The Times. UK. 2 tháng 4 năm 2008. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2008.
- ^ "Solomon Islands gets Desmond Tutu truth help", The Australian, 29 April 2009
- ^ "Archbishop Tutu to Visit Solomon Islands", Solomon Times, 4 February 2009
- ^ “Solomons Truth and Reconciliation Commission launched”. Radio New Zealand International. 29 tháng 4 năm 2009. Truy cập ngày 28 tháng 9 năm 2011.
- ^ a ă â b Tutu, Desmond (29 tháng 4 năm 2002). “Apartheid in the Holy Land”. The Guardian (UK). Truy cập ngày 28 tháng 11 năm 2006.MOS
- ^ “Israeli apartheid”. The Nation (275): 4–5. 27 tháng 6 năm 2002. Truy cập ngày 28 tháng 11 năm 2006.
- ^ Ruby, Walter (1 tháng 2 năm 1989). “Tutu says Israel's policy in territories remind him of SA”. Jerusalem Post.
- ^ “Tutu condemns Israeli apartheid”. BBC. 29 tháng 4 năm 2002. Truy cập ngày 28 tháng 11 năm 2006.
- ^ Shimoni, Gideon (1988). “South African Jews and the Apartheid Crisis” (PDF). American Jewish Year Book (American Jewish Committee) 88: 50.
- ^ Barthos, Gordon (20 tháng 12 năm 1989). “Israelis uneasy about Tutu's Yule visit”. Toronto Star.
- ^ a ă “Tutu Urges Jews to Forgive The Nazis”. San Francisco Chronicle. 27 tháng 12 năm 1989.
- ^ “Tutu assailed”. Chicago Sun-Times. 30 tháng 12 năm 1989. tr. 13.
- ^ “ADL Blasts Appointment Of Desmond Tutu As Head Of U.N. Fact Finding Mission To Gaza” (Thông cáo báo chí). Anti-Defamation League. 2006. Truy cập ngày 4 tháng 10 năm 2007.
- ^ Phillips, Melanie (6 tháng 5 năm 2002). “Bigotry and a corruption of the truth”. Daily Mail (UK).
- ^ Tutu, Desmond (forward) (2005). Trong Michael Prior. Speaking the Truth: Zionism, Israel, and Occupation. Olive Branch Press. tr. 12.
- ^ http://www.iol.co.za/index.php?set_id=1&click_id=24&art_id=nw20090420195412760C586681
- ^ “Desmond Tutu lends his name to Sabeel”. comeandsee.com. 18 tháng 6 năm 2003. Truy cập ngày 4 tháng 12 năm 2006.
- ^ “A call for morally responsible investment: A Nonviolent Response to the Occupation” (PDF). Sabeel. April năm 2005. Truy cập ngày 3 tháng 10 năm 2007.
- ^ “Tutu Honor Too Too Much?”. Jewish Week.
- ^ Derfner, Larry (15 tháng 10 năm 2006). “Anti-Semite and Jew”. Jerusalem Post. tr. 15.
- ^ “BBC NEWS | Middle East | Tutu: Gaza blockade abomination”. BBC News. 29 tháng 5 năm 2008. Truy cập ngày 31 tháng 10 năm 2010.
- ^ Boycotts and Protests To Meet APA Keynote Speaker, Desmond Tutu. Psychiatric Times. Retrieved on 8 September 2011.
- ^ Pittsburgh psychiatrist opposed to Desmond Tutu speech at national meeting. The Jewish Chronicle. Retrieved on 8 September 2011.
- ^ "Controversy surrounds Tutu's isle appearance". Honolulu Star Advertiser. (12 May 2011). Retrieved on 8 September 2011.
- ^ Furst, Randy (4 tháng 10 năm 2007). “St. Thomas won't host Tutu”. Minneapolis Star Tribune.
- ^ Furst, Randy (15 tháng 10 năm 2007). “St. Thomas urged to reconsider its decision not to invite Tutu”. Minneapolis Star Tribune. Truy cập ngày 7 tháng 10 năm 2007.
- ^ “UST president says he made wrong decision, invites Tutu to campus”. University of St. Thomas Bulletin. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 10 năm 2007. Truy cập ngày 7 tháng 10 năm 2007.
- ^ Mador, Jessica (12 tháng 4 năm 2008). “Desmond Tutu avoids politics while talking about peace”. Minnesota Public Radio. Truy cập ngày 6 tháng 5 năm 2008.
- ^ Minor, Nathaniel (17 tháng 7 năm 2009). “Tutu talks at Metro State” (PDF). The Aquin, St. Thomas' student newspaper. Truy cập ngày 17 tháng 7 năm 2009. [[]][liên kết hỏng]
- ^ Yang Jianli's Meeting with Archbishop Desmond Tutu in Boston.
- ^ Now Archbishop Desmond Tutu urges boycott of Beijing Olympics over China's failure to act in Darfur. Daily Mail. 14 February 2008
- ^ Tutu, Desmond. Statement on Tibet and China. Washington Post. 25 March 2008
- ^ “San Francisco set for torch relay”. BBC. 9 tháng 4 năm 2008. Truy cập ngày 9 tháng 4 năm 2008.
- ^ “Amnesty International welcomes the election of a Board of Directors”. Amnesty International. 12 tháng 9 năm 2003. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 1 năm 2004. Truy cập ngày 1 tháng 8 năm 2007.
- ^ “Desmond Tutu turns 75”. News24. 6 tháng 10 năm 2006. Truy cập ngày 22 tháng 1 năm 2008.
- ^ “Statement by Archbishop Desmond Tutu, South Africa”. West Papuan Action. 23 tháng 2 năm 2004. Truy cập ngày 6 tháng 6 năm 2008.
- ^ Slosberg, Jacob (29 tháng 11 năm 2006). “Tutu to head UN rights mission to Gaza”. Jerusalem Post.
- ^ Hoffman, Gil; Keinon, Herb (19 tháng 12 năm 2006). “Israel may give no-no to Tutu's trip to Beit Hanun”. Jerusalem Post.
- ^ “Desmond Tutu says Israel refused fact-finding mission to Gaza”. International Herald Tribune. 11 tháng 12 năm 2006. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 10 năm 2007.
- ^ “Tutu heads for Gaza Strip”. News24. 26 tháng 5 năm 2008. Truy cập ngày 31 tháng 5 năm 2008.
- ^ “Archbishop Tutu calls for G8 help”. BBC. 17 tháng 3 năm 2005. Truy cập ngày 23 tháng 1 năm 2008.
- ^ “Desmond Tutu: Keep your Promises” (Thông cáo báo chí). World Aids Campaign. 19 tháng 10 năm 2006. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2008.
- ^ “Tutu condemns Blair's Iraq stance”. BBC. 5 tháng 1 năm 2003. Truy cập ngày 23 tháng 1 năm 2008.
- ^ Cooke, Jeremy (2 tháng 10 năm 2004). “Tutu in anti-Guantanamo theatre”. BBC. Truy cập ngày 23 tháng 1 năm 2008.
- ^ “Tutu calls for Guantanamo release”. BBC. 12 tháng 1 năm 2005. Truy cập ngày 22 tháng 1 năm 2008.
- ^ “Tutu calls for Guantanamo closure”. BBC. 17 tháng 2 năm 2006. Truy cập ngày 22 tháng 1 năm 2008.
- ^ “Tutu: Poverty fuelling terror”. CNN. 16 tháng 9 năm 2007. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2008.
- ^ a ă “Archbischop Desmond Tutu urges TB/HIV workers to continue to relieve suffering from dual scourges”. Desmond Tutu HIV Centre. 28 tháng 9 năm 2005. Truy cập ngày 24 tháng 4 năm 2008. [[]][liên kết hỏng]
- ^ TB Alert website. Tbalert.org (23 January 2009). Retrieved on 8 September 2011.
- ^ “Africans hail conservative Pope”. BBC News. 20 tháng 4 năm 2005. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2006.
- ^ “Aids stats 'cold comfort'- Tutu”. News24. 30 tháng 11 năm 2007. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2008.
- ^ Tutu Challenges Vatican On Birth Control, Abortion. Population-security.org (16 June 1976). Retrieved on 8 September 2011.
- ^ “International day of demonstrations on climate change”. CNN. 26 tháng 10 năm 2009.
- ^ “Desmond Tutu — The Cast — Soldiers of Peace”. Soldiersofpeacemovie.com. Truy cập ngày 18 tháng 10 năm 2009.
- ^ “Soldati di Pace (Soldiers of Peace)”. Soldatidipace Blog. 18 tháng 10 năm 2009. Truy cập ngày 18 tháng 10 năm 2009.
- ^ Renowned Chefs Call for End to Hunger-Related Deaths. Action Against Hunger (15 October 2009). Retrieved on 8 September 2011.
- ^ “Nobel Peace Prize Winner Archbishop Desmond Tutu to Sail with Semester at Sea for Entire Spring Semester”. University of Virginia. 26 tháng 9 năm 2006. Truy cập ngày 5 tháng 1 năm 2008.
- ^ From the soccer pitch to the schoolroom – Another View; By Desmond Tutu; 4 July 2010; Times LIVE
- ^ 1Goal to educate millions; 4 July 2010; Johannesburg, Sport24, (News24). Retrieved 5 July 2010.
- ^ Complete Khoisan and Bantu genomes from southern Africa; Schuster, Stephan C. Nature 463, 943–947 (18 February 2010)
- ^ “Our Patron – Archbishop Desmond Tutu”. Cape Town Child Welfare. Truy cập ngày 6 tháng 6 năm 2008.
- ^ a ă “Trevor Tutu freed from prison after being granted amnesty”. SAPA. 28 tháng 11 năm 1997. Truy cập ngày 1 tháng 6 năm 2008.
- ^ “Tutu's son in amnesty bid”. Dispatch. 27 tháng 9 năm 1997. Truy cập ngày 1 tháng 6 năm 2008.
- ^ “Nontombi Naomi Tutu”. Kent State University. Truy cập ngày 1 tháng 6 năm 2008.
- ^ “Reverend Mpho Tutu”. 2004 Women of Distinction. 2004. Truy cập ngày 1 tháng 6 năm 2008.
- ^ “The Reverend Mpho A. Tutu”. Tutu Institute. Truy cập ngày 1 tháng 6 năm 2008. [[]][liên kết hỏng]
- ^ “Taking the fight against prostate cancer to South Africans” (Thông cáo báo chí). Prostate Cancer Foundation of South Africa. 3 tháng 3 năm 2007. Truy cập ngày 23 tháng 4 năm 2008.
- ^ St. John's High School – Desmond Tutu at Saint John's. Stjohnshigh.org (23 May 2011). Retrieved on 8 September 2011.
- ^ King's College London, "Famous People: Desmond Tutu".
- ^ “The Nobel Peace Prize for 1984” (Thông cáo báo chí). Norwegian Nobel Committee. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2006.
- ^ Gish, Steven (1963). Desmond Tutu: A Biography. Westport, Connecticut: Greenwood Press. tr. 126. ISBN 9780313328602. Truy cập ngày 6 tháng 6 năm 2008.
- ^ “Habitat for Humanity Lebanon Chairman to receive prestigious Pacem in Terris Peace and Freedom Award” (Thông cáo báo chí). Habitat for Humanity. 1 tháng 11 năm 2007. Truy cập ngày 6 tháng 6 năm 2008.
- ^ “What is Golden Key?”. Golden Key International Honour Society. Truy cập ngày 21 tháng 5 năm 2010.
- ^ “Gov. Blagojevich Proclaims Today "Desmond Tutu Day" in Illinois” (Thông cáo báo chí). Illinois Government News Network. 13 tháng 5 năm 2008. Truy cập ngày 6 tháng 6 năm 2008.
- ^ "President Obama Names Medal of Freedom Recipients", White House Office of the Press Secretary, July 30, 2009
- ^ “Tutu, five others to receive honorary degrees at Carolina's May Commencement” (Thông cáo báo chí). University of North Carolina at Chapel Hill. 24 tháng 4 năm 2009. Truy cập ngày 13 tháng 5 năm 2009.
- ^ “Archbishop Emeritus Tutu delivers 2009 commencement address”. Chapel Hill, NC: University of North Carolina at Chapel Hill. 10 tháng 5 năm 2009. Truy cập ngày 13 tháng 5 năm 2009. [[]][liên kết hỏng]
- ^ July 20091&id=4255 “The Merbecke Choir: I sing of a rose”. Southwark Cathedral. 11 tháng 7 năm 2009. Truy cập ngày 30 tháng 6 năm 2009.
- ^ “The Merbecke Choir: Hear Us”. Southwark Cathedral. 11 tháng 7 năm 2009. Truy cập ngày 30 tháng 6 năm 2009.
- ^ "Archbishop Tutu Receives Spiritual Leadership Award From Humanity's Team", Humanity's Team, award presentation, YouTube, 18 April 2009
- ^ "Desmond Tutu to Receive Spiritual Leadership Award", Humanity's Team through PR Newswire, carried by Reuters, 10 February 2009
Đọc thêm
- Shirley du Boulay, Tutu: Voice of the Voiceless (Eerdmans, 1988).
- Michael J. Battle, Reconciliation: The Ubuntu Theology of Desmond Tutu (Pilgrim Press, 1997).
- Steven D. Gish, Desmond Tutu: A Biography (Greenwood, 2004).
- David Hein, "Bishop Tutu's Christology." Cross Currents 34 (1984): 492–99.
- David Hein, "Religion and Politics in South Africa." Modern Age 31 (1987): 21–30.
- John Allen, Rabble-Rouser for Peace: The Authorised Biography of Desmond Tutu (Rider Books, 2007).
Liên kết ngoài
Wikisource có các tác phẩm gốc nói đến hoặc của: |
Wikimedia Commons có thêm thể loại hình ảnh và phương tiện truyền tải về Desmond Tutu |
- Desmond Tutu Diversity Trust
- The Desmond Tutu Peace Centre
- Tutu Foundation UK
- Archbishop Desmond Tutu Centre for War and Peace Studies at Liverpool Hope University
- Desmond Tutu – South Africa's moral conscience (Bio and Video)
- Column archive at Project Syndicate
- Nobel lecture, 11 December 1984
- Desmond Tutu trên Internet Movie Database
- Các công trình liên quan hoặc của Desmond Tutu trên các thư viện của thư mục (WorldCat)
- Desmond Tutu on The Hour
- "Why To Forgive"
- Dalai Lama, Bishop Tutu Join Seattle Interfaith Discussion
- Desmond Tutu lights a candle for Rwanda
- Spirit that Freed South Africa Must Now Rescue the Planet by Desmond Tutu
- Desmond Tutu on President Obama: "Become What You Are"
- Archbishop Desmond Tutu's Five Best Quotes for Full LGBT Equality
- Archbishop Desmond Tutu Retires from Public Life – video report by Democracy Now!
Tiền nhiệm: Philip Welsford Richmond Russell |
Anglican Archbishop of Cape Town 1986–1996 |
Kế nhiệm: Njongonkulu Ndungane |
|
http://www.youtube.com/user/hoangkimvietnam
Trở về trang chính
hoangkim vietnam, hoangkim, hoangkimvietnam, Hoàng Kim, Ngọc Phương Nam, Chào ngày mới Thung dung, Dạy và học, Cây Lương thực, Tin Nông nghiệp Việt Nam, Food Crops, Cassava in Vietnam, VietnamAfricaCassavaRice, Khát khao xanh, Dayvahoc, Học mỗi ngày, Danh nhân Việt , Food Crops News, Điểm chính, CNM365, Kim LinkedIn, KimTwitter, KimFaceBook Đọc lại và suy ngẫm, Việt Nam tổ quốc tôi, Tình yêu cuộc sống, Thơ cho con
Great with detailed information. It is really very helpful for us.
ReplyDeleteVillage Talkies a top-quality professional corporate video production company in Bangalore and also best explainer video company in Bangalore & animation video makers in Bangalore, Chennai, India & Maryland, Baltimore, USA provides Corporate & Brand films, Promotional, Marketing videos & Training videos, Product demo videos, Employee videos, Product video explainers, eLearning videos, 2d Animation, 3d Animation, Motion Graphics, Whiteboard Explainer videos Client Testimonial Videos, Video Presentation and more for all start-ups, industries, and corporate companies. From scripting to corporate video production services, explainer & 3d, 2d animation video production , our solutions are customized to your budget, timeline, and to meet the company goals and objectives.
As a best video production company in Bangalore, we produce quality and creative videos to our clients.