CNM365. Chào ngày mới 19 tháng 9. Wikipedia Ngày này năm xưa. Quốc khánh Saint Kitts và Nevis (1983). Năm 1356 – Chiến tranh Trăm Năm: Quân Anh đánh bại quân Pháp và bắt giữ quốc vương của Pháp là Jean II trong trận Poitiers. Năm 1952 – Một ngày sau khi Charlie Chaplin (hình Charlie Chaplin_and Paulette Goddard ) lên tàu sang Anh Quốc, Hoa Kỳ quyết định không cho ông tái nhập cảnh vì những liên hệ của ông với chủ nghĩa cộng sản. Năm 1991 – Người băng Ötzi được phát hiện, đây là một xác ướp tự nhiên được bảo quản rất tốt của một người đàn ông từ khoảng năm 3300 TCN. Năm 2006 – Quân đội Thái Lan tiến hành đảo chính, lật đổ chính phủ của Thủ tướng Thaksin Shinawatra trong khi ông đang ở New York.
Charlie Chaplin
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Charles Chaplin | |||
---|---|---|---|
Tên khai sinh | Charles Spencer Chaplin, Jr. | ||
Sinh | 16 tháng 4, 1889 Walworth, Luân Đôn, Anh |
||
Mất | 25 tháng 12, 1977 (88 tuổi) Vevey, Thụy Sỹ |
||
Hoạt động | 1914 - 1976[1] | ||
Vai diễn đáng chú ý | Sác lô (1914-1936) Monsieur Verdoux trong Monsieur Verdoux (1947) |
||
Hôn nhân | Mildred Harris (1918-1920) Lita Grey (1924-1928) Paulette Goddard (1936-1942) Oona Chaplin (1943-1977) |
||
|
Chaplin là một trong những nghệ sĩ nhiều sáng tạo và gây nhiều ảnh hưởng nhất trong kỷ nguyên phim câm. Ông chịu ảnh hưởng từ nghệ sĩ phim câm người Pháp Max Linder, người được Chaplin đề tặng một trong những bộ phim của ông.[2] Sự nghiệp giải trí của ông kéo dài qua 75 năm cho đến khi ông mất vào tuổi 88. Năm 1999, Viện phim Mỹ xếp Chaplin đứng 10 trong danh sách những nam huyền thoại của điện ảnh mọi thời đại.[3]
Mục lục
Cuộc đời
Charlie Chaplin sinh ngày 16 tháng 4 năm 1889 tại East Street (Phố Đông), Walworth, London nước Anh. Cha mẹ ông đều là diễn viên và họ li dị khi Charlie mới được 3 tuổi. Cuộc điều tra dân số năm 1891 cho thấy mẹ ông, nữ diễn viên Lily Harvey (Hannah Harriet Hill) sống cùng Charlie và anh của cậu là Sydney ở phố Barlow, Walworth. Sydney Chaplin (16/3/1885-16/4/1965) là con riêng của bà (khi đó tên là Hannah Hill) với Sydney Hawkes (hiện không có tài liệu nào về cuộc hôn nhân này). Sau khi li dị bố Charlie, bà Hannah Harriet Pedlingham Hill còn có một con trai út tên là George Wheeler Dryden (31/8/1892-30/9/1957) với George Dryden Wheeler, một nghệ sĩ ca múa nhạc. Cha của Charlie, ông Charles Chaplin Senior là người có nguồn gốc Tsygan nghiện rượu và ít quan tâm tới con cái. Hai anh em Charlie phải đến sống cùng ông và tình nhân, bà Louise sau khi bà Hannah phải vào nhà thương điên để chữa bệnh thần kinh. Khi Chaplin lên 12 thì bố cậu qua đời (năm 1901).Sau khi bà Hannah Chaplin phải vào nhà thương điên Cane Hill Asylum, Chaplin được gửi vào trại tế bần ở Lambeth, Luân Đôn. Những năm tháng nghèo khổ này ảnh hưởng rất lớn tới những nhân vật của Chaplin sau này. Mẹ của ông mất năm 1928 tại Hollywood, vài năm sau khi được con trai mời sang Mỹ.
Chaplin đến Mỹ lần đầu tiên năm 1910 cùng với gánh hát của Fred Karno, 5 tháng sau gánh hát quay trở lại Anh. Trong lần thứ hai đến Mỹ biểu diễn năm 1912, Chaplin đã ở cùng phòng với diễn viên hài Arthur Stanley Jefferson người sau này nổi tiếng với nghệ danh Stan Laurel. Sau lần lưu diễn này, Chaplin ở lại Mỹ, diễn xuất của ông đã lọt vào mắt nhà sản xuất phim Mack Sennett của hãng Keystone Film Company và Chaplin có vai diễn đầu tiên trong bộ phim hài Making a Living ra rạp ngày 2 tháng 2 năm 1914.
Nghệ sĩ tiên phong
Tại hãng Keystone, Chaplin bắt đầu hoàn thiện nhân vật Sác lô của ông và cũng học rất nhanh nghệ thuật và những kỹ xảo trong việc làm phim. Anh hề Sác lô lần đầu được giới thiệu với công chúng trong bộ phim thứ hai của Chaplin, Kid Auto Races at Venice (phát hành ngày 7 tháng 2 năm 1914). Chaplin đã viết lại cảm nghĩ về những thời khắc đó trong cuốn tự truyện của ông:“ | "Tôi không hề có ý tưởng sẽ phải hóa trang cho nhân vật này thế nào. Tôi không thích tạo hình nhà báo như trong Making a Living. Trên đường đến phòng hóa trang, tôi chợt nghĩ mình có thể mặc một chiếc quần rộng thùng thình, mang một cây gậy và một chiếc mũ quả dưa. Tôi muốn mọi thứ phải thật mâu thuẫn, chiếc quần thùng thình đi với chiếc áo khoác chật, chiếc mũ nhỏ đi với đôi giày quá khổ. Nhớ rằng Sennet muốn tôi trông già dặn hơn, tôi đã thêm một bộ ria nhỏ. Tôi cũng không có ý tưởng gì về tính cách nhân vật của mình, nhưng vào thời điểm tôi hóa trang, trang phục và hóa trang đã làm tôi cảm thấy anh ta phải là người thế nào. Tôi bắt đầu biết mình sẽ phải diễn thế nào, và khi tôi bước ra trường quay, anh ta đã thực sự ra đời." | ” |
—Charles Chaplin[4]
|
Độc lập sáng tạo
Sau khi kết thúc hợp đồng với hãng Mutual năm 1917, Chaplin gia nhập hãng First National để sản xuất 8 bộ phim từ năm 1918 đến năm 1923. Hãng First National chỉ đầu tư và quản lý việc phát hành còn Chaplin được kiểm soát hoàn toàn công đoạn sản xuất phim. Chaplin cho xây dựng trường quay của riêng mình ở Hollywood và sử dụng vị thế độc lập của ông để tạo nên những tác phẩm quan trọng và vẫn còn giá trị giải trí và ảnh hưởng cho đến ngày nay. Mặc dù First National mong muốn Chaplin sẽ cung cấp cho họ những bộ phim hài ngắn như ông đã làm với hãng Mutual, Chaplin lại có tham vọng sản xuất những phim truyện dài và hoàn chỉnh hơn, trong đó phải kể tới Shoulder Arms (1918), The Pilgrim (1923) và phim truyện kinh điển The Kid.Năm 1919, Chaplin tham gia sáng lập hãng phân phối phim United Artists (UA) cùng Mary Pickford, Douglas Fairbanks và D. W. Griffith, tất cả họ đều đang tìm cách thoát khỏi mối liên kết ngày càng chặt chẽ giữa những nhà đầu tư và phát hành phim trong việc phát triển hệ thống trường quay ở Hollywood. Bước đi này, cùng với việc được quản lý hoàn toàn việc sản xuất những bộ phim của mình, đã đảm bảo sự độc lập của Chaplin trong việc làm phim. Ông tham gia việc quản lý UA mãi đến đầu thập niên 1950. Tất cả những bộ phim của Chaplin do UA phân phối đều là những phim truyện dài, tác phẩm đầu tiên là A Woman of Paris (1923), tiếp đó là The Gold Rush (Đổ xô đi tìm vàng) (1925) và The Circus (1928).
Vào đầu kỷ nguyên của những bộ phim có tiếng, Chaplin đã làm hai bộ phim câm nổi tiếng City Lights (1931) và Modern Times (Thời đại tân kỳ) (1936). City Lights được coi là tác phẩm của Chaplin đạt được sự cân băng hoàn hảo giữa hài kịch và phim tình cảm.
Sau đó Chaplin mới bắt đầu làm các bộ phim có thoại như The Great Dictator (Tên đại độc tài) (1940), Monsieur Verdoux (1947) và Limelight (1952).
Mặc dù Modern Times (1936) là một bộ phim không có thoại, khi chiếu rạp nó vẫn được lồng tiếng qua đài phát thanh hoặc thiết bị vô tuyến. Việc này là để giúp những khán giả của thập niên 1930, những người mới vừa từ bỏ thói quen xem phim câm, được chọn lựa việc nghe thoại hoặc không. Modern Times là bộ phim đầu tiên người ta có thể nghe thấy giọng của Chaplin. Tuy nhiên với phần lớn công chúng thì đây vẫn là một bộ phim câm vào cuối kỷ nguyên của thể loại này.
Tuy rằng những bộ phim có thoại bắt đầu thống trị điện ảnh ngay sau khi nó được giới thiệu năm 1927, Chaplin vẫn chống lại việc làm phim này trong suốt thập niên 1930 vì ông coi điện ảnh là một môn nghệ thuật "câm".
Tên độc tài
Bộ phim có thoại đầu tiên của Chaplin, The Great Dictator (Tên độc tài) (1940) là sự phản đối công khai của Chaplin với Adolf Hitler và Chủ nghĩa phát xít, nó được quay và phát hành tại Mỹ chỉ một năm trước khi Mỹ tham gia trực tiếp vào Chiến tranh thế giới thứ II. Trong phim Chaplin đóng cùng lúc hai vai, tên độc tài Adenoid Hynkel [5], nhân vật rõ ràng lấy hình mẫu từ Hitler (kể cả bộ ria mép), và người thợ cạo Do Thái bị bọn Đức Quốc xã hành hạ. Điều thú vị là Chaplin (16.04.1889) đã sinh cùng tháng cùng năm (04.1889) Hitler (20.04.1889).Những tác phẩm cuối
Năm 1952 Chaplin về thăm nước Anh và không bao giờ quay về sống ở Mỹ một lần nữa. Cố vấn luật của chính phủ Mỹ, Thomas McGranery, ra lệnh cho Cục di trúc Liên bang thẩm vấn Chaplin nếu ông quay về Mỹ vì ông là đảng viên Đảng cộng sản và dù đã sống tại Mỹ 40 năm ông vẫn là công dân Anh.[6] Ông sống ở Vevey, Thụy Sỹ và chỉ trở về Mỹ một thời gian ngắn vào tháng 4 năm 1972 để nhận giải Oscar Thành tựu trọn đời.Hai tác phẩm cuối cùng của Chaplin được làm tại Luân đôn, bộ phim A King in New York (1957) trong đó ông tham gia diễn xuất, biên kịch và đạo diễn, bộ phim A Countess from Hong Kong (1967), có sự tham gia của Sophia Loren và Marlon Brando, trong đó Chaplin xuất hiện lần cuối cùng trên màn ảnh với một vai nhỏ.
Trong cuốn tự truyện My Life in Pictures xuất bản năm 1974, Chaplin nói rằng ông đã viết kịch bản phim The Freak để dành riêng cho con gái út của ông, Victoria, trong đó cô sẽ đóng vai một thiên thần. Tuy nhiên bộ phim phải ngừng lại vì Victoria lấy chồng và sau đó tuy vẫn muốn tiếp tục làm phim nhưng sức khỏe suy sút quá nhanh đã khiến Chaplin không bao giờ thực hiện được bộ phim này.
Vào thập niên 1970, Chaplin viết nhạc và âm thanh cho những bộ phim câm của ông và tái phát hành chúng, trong số này có The Kid và The Circus.
Tác phẩm hoàn chỉnh cuối cùng của ông, phần âm thanh cho bộ phim A Woman of Paris (1923) được hoàn thành năm 1976, chỉ 1 năm trước khi Chaplin chết
Cái chết
Chaplin thường xuyên bơi, chơi tennis, hút thuốc rất ít và thỉnh thoảng mới uống rượu. Tuy nhiên sức khỏe của ông vẫn ngày càng sa sút kể từ cuối thập niên 1960 sau khi ông hoàn thành bộ phim cuối cùng A Countess from Hong Kong. Trong những năm cuối đời ông ngày càng yếu và qua đời trong khi đang ngủ vào đúng ngày Giáng Sinh năm 1977 tại Vevey, hưởng thọ 88 tuổi. Ông được chôn tại nghĩa trang Corsier-Sur-Vevey ở Vaud, Thụy Sỹ. Ngày 1 tháng 3 năm 1978, di hài của ông đã bị một toán công nhân cơ khí người Ba Lan và Bulgary lấy trộm để tống tiền gia đình Chaplin. Kế hoạch của chúng bị bại lộ, những kẻ ăn trộm bị bắt, còn di hài Chaplin được tìm thấy 11 tuần sau đó ở gần hồ Genève. Để ngăn chặn những âm mưu tương tự, di hài Chaplin được cải táng dưới một tầng bê tông dày gần 2 mét.Nhà soạn nhạc
Không những đạo diễn và chỉ đạo sản xuất, Chaplin rất đa tài khi ông đã từng chỉ đạo những cảnh hành động cho bộ phim sản xuất năm 1952, Limelight, hay hát bài hát chính của phim The Circus (1928). Chaplin còn sáng tác nhạc cho nhiều bộ phim của ông, trong đó có những bài hát nổi tiếng như Smile sáng tác cho phim Modern Times hay bài This Is My Song sáng tác cho bộ phim cuối cùng của Chaplin, A Countess From Hong Kong, bài hát sau đã từng là bài hát được ưa thích nhất bằng nhiều thứ tiếng.Tranh cãi
Trong chiến tranh thế giới thứ nhất, báo chí Anh phê bình Chaplin không gia nhập quân ngũ. Trong thực tế, Chaplin đã đăng ký nhập ngũ nhưng bị từ chối vì thấp bé và nhẹ cân. Một bộ phim tuyên truyền năm 1916 mang tên Zepped với Chaplin được phát hiện vào năm 2009.[7] Trong toàn bộ sự nghiệp của Chaplin, có một số tranh cãi về nguồn gốc Do thái của ông. Chaplin cũng là người mê đắm những phụ nữ trẻ tuổi và đã có mối quan hệ với một số người. Những người viết tiểu sử của ông viết về mối quan hệ say đắm của ông với nữ thiếu niên Hetty Kelly, người ông gặp tại Anh và được mô tả là người phụ nữ lý tưởng của ông.Gia đình
Mẹ Chaplin mất năm 1928 tại Glendale, California,[8] bảy năm sau khi bà được các con trai đưa đến Hoa Kỳ.Con cái
Con | Sinh | Mất | Vợ | Cháu |
---|---|---|---|---|
Norman Spencer Chaplin | 7 tháng 7, 1919 | 10 tháng 7, 1919 | Mildred Harris | |
Charles Spencer Chaplin, Jr.[9] | 5 tháng 5, 1925 | 20 tháng 3,1968 | Lita Grey | Susan Maree Chaplin (sinh 1959) |
Sydney Earle Chaplin | 31 tháng 3, 1926 | 3 tháng 3, 2009 | Stephan Chaplin (sinh 19xx) | |
Geraldine Leigh Chaplin | 31 tháng 7, 1944 | Oona O'Neill | Shane Saura Chaplin (sinh 19xx) Oona Castilla Chaplin (b 1986) |
|
Michael John Chaplin | 7 tháng 3, 1946 | Kathleen Chaplin (b. 1975) Dolores Chaplin (sinh 1979) Carmen Chaplin (sinh 19xx) George Chaplin (sinh 19xx) |
||
Josephine Hannah Chaplin | 28 tháng 3, 1949 | Julien Ronet (sinh 1980) | ||
Victoria Chaplin | 19 tháng 5, 1951 | Aurélia Thiérrée (sinh 1971) James Thiérrée (sinh 1974) |
||
Eugene Anthony Chaplin | 23 tháng 8, 1953 | Kiera Chaplin (sinh 1982) | ||
Jane Cecil Chaplin | 23 tháng 5, 1957 | |||
Annette Emily Chaplin | 3 tháng 12, 1959 | Orson Salkind (b. 1986) Osceola Salkind (sinh 1994) |
||
Christopher James Chaplin | 6 tháng 7 1962 |
|
Giải thưởng và vinh danh
Chaplin chỉ giành được một giải Oscar trong những hạng mục có nhiều đề cử, đó là giải Nhạc trong phim xuất sắc nhất được trao năm 1972 cho bộ phim Limelight làm từ năm 1952 của Chaplin, do những rắc rối về chính trị ông gặp phải nên tác phẩm này chưa bao giờ được trình chiếu một tuần liên tục tại Los Angeles để đủ điều kiện đề cử giải Oscar, mãi cho đến năm 1972 Limelight mới có đủ điều kiện này.Chaplin còn được đề cử vào rất nhiều hạng mục của phim, kịch bản, diễn xuất và âm nhạc cho bộ phim The Great Dictator nhưng ông không giành chiến thắng bất cứ hạng mục nào. Trong suốt những năm tháng hoạt động làm phim, Chaplin luôn tỏ thái độ coi thường giải Oscar, điều này có thể giải thích tại sao ngay cả những tác phẩm của ông thuộc loại xuất sắc nhất của lịch sử điện ảnh như City Lights hay Modern Times đều không được đề cử giải Oscar.
Năm 1929, Chaplin ban đầu được đề cử cho giải nam diễn viên chính và giải đạo diễn phim hài kịch nhưng sau đó tên ông bị rút ra khỏi danh sách và thay vào đó AMPAS trao cho ông một giải Oscar danh dự cho Việc diễn xuất, biên kịch và đạo diễn xuất sắc bộ phim The Circus. Giải Oscar danh dự thứ hai đến với Chaplin 44 năm sau đó, khi vào năm 1972 ông được trao giải Oscar Thành tựu trọn đời, khi lên nhận giải, Chaplin đã được cả khán phòng đứng lên vỗ tay 5 phút liền, đây là tràng vỗ tay dài nhất trong lịch sử Lễ trao giải của giải thưởng danh giá này.
Trong rất nhiều vinh dự đã được nhận, Chaplin có một ngôi sao trên Đại lộ Danh vọng Hollywood. Năm 1985 hình của ông được in lên tem của Anh và năm 1994 là tem của Mỹ
Năm 1992 một bộ phim về cuộc đời Chaplin đã được quay với tựa đề Chaplin, bộ phim được đạo diễn bởi đạo diễn từng đoạt giải Oscar Richard Attenborough và có sự tham gia diễn xuất của Robert Downey Jr., Dan Aykroyd, Geraldine Chaplin (con gái của Charlie, trong phim này cô thủ vai bà nội của mình). Downey đã được đề cử giải Oscar cho diễn viên nam chính năm 1993 với vai diễn trong bộ phim này.
Danh sách phim
Một danh sách các phim của Chaplin và các phiên bản khác được liệt kê trong sách của Ted Okuda-David Maska Charlie Chaplin at Keystone and Essanay: Dawn of the Tramp.
|
Trích đoạn phim
- "The bond of friendship" (thông tin)
- Trích đoạn phim câm "The Bond" (1918).
- "The marriage bond" (thông tin)
- Trích đoạn phim câm "The Bond" (1918).
- "U.S. Liberty Bonds" (thông tin)
- Trích đoạn phim câm "The Bond" (1918).
- Trục trặc khi xem? Xem hướng dẫn.
Đọc thêm
- Charles Chaplin: My Autobiography. Simon & Schuster, 1964.
- Charles Chaplin: Die Geschichte meines Lebens. Fischer-Verlag, 1964. (germ.)
- Charlie Chaplin Die Wurzeln meiner Komik in: Jüdische Allgemeine Wochenzeitung, 3 March 1967, gekürzt: wieder ebd. 12.4. 2006, S. 54 (germ.)
- Chaplin: A Life by Stephen Weissman Arcade Publishing 2008.
- Charles Chaplin: My Life in Pictures. Bodley Head, 1974.
- Alistair Cooke: Six Men. Harmondsworth, 1978.
- S. Frind: Die Sprache als Propagandainstrument des Nationalsozialismus, in: Muttersprache, 76. Jg., 1966, S. 129–135. (germ.)
- Georgia Hale, Charlie Chaplin: Intimate Close-Ups, edited by Heather Kiernan. Lanham: Scarecrow Press, 1995 and 1999. ISBN 978-1-57886-004-3 (1999 edition).
- Victor Klemperer: LTI – Notizbuch eines Philologen. Leipzig: Reclam, 1990. ISBN 978-3-379-00125-0; Frankfurt am Main (19. A.) 2004 (germ.)
- Charlie Chaplin at Keystone and Essanay: Dawn of the Tramp, Ted Okuda & David Maska. iUniverse, New York, 2005.
- Chaplin: His Life and Art, David Robinson. McGraw-Hill, second edition 2001.
- Chaplin: Genius of the Cinema, Jeffrey Vance. Abrams, New York, 2003. ISBN 978-0-8109-4532-6
- Charlie Chaplin: A Photo Diary, Michel Comte & Sam Stourdze. Steidl, first edition, hardcover, 359pp, ISBN 978-3-88243-792-8, 2002.
- Chaplin in Pictures, Sam Stourdze (ed.), texts by Patrice Blouin, Christian Delage and Sam Stourdze, NBC Editions, ISBN 978-2-913986-03-9, 2005.
- Double Exposure: Charlie Chaplin as Author and Celebrity, Jonathan Goldman.M/C Journal 7.5.
- Charlie Chaplin's World of Comedy, Wes D. Gehring, 1980.
Tham khảo
- ^ A Woman of Paris: A Drama of Fate (1923)
- ^ Kelly, Shawna (2008). Aviators in Early Hollywood . Mount Pleasant, SC: Arcadia Publishing. tr. 16. ISBN 978-0-7385-5902-5.
- ^ “AFI's 100 YEARS...100 STARS”. American Film Institute. 16 tháng 6 năm 1999. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 8 năm 2008. Truy cập ngày 4 tháng 6 năm 2010.
- ^ Chaplin, My Autobiography, trang 154
- ^ The Great Dictator (1940) - IMDb
- ^ 1952: US Immigration slams door on Chaplin, BBC
- ^ Higgins, Charlotte (5 tháng 11 năm 2009). “Collector finds unseen Charlie Chaplin film in tin sold for £3.20 on eBay”. The Guardian (London). Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 11 năm 2010. Truy cập ngày 28 tháng 4 năm 2010.
- ^ Chaplin, Lita Grey; Vance, Jeffrey (1998). Wife of the life of the party. The Scarecrow Filmmakers Series 61 . Scarecrow Press. tr. 90. ISBN 978-0-8108-3432-3.
- ^ Or Charles Spencer Chaplin III because his grandfather was called Charles Spencer Chaplin, Sr., and his father could have been called Charles Spencer Chaplin, Jr.
Liên kết ngoài
Wikiquote có sưu tập danh ngôn về:
|
Wikimedia Commons có thêm thể loại hình ảnh và phương tiện truyền tải về Charlie Chaplin |
- Trang chính thức
- Sách
- Charlie Chaplin Biography
- Charlie Chaplin's Golden Silence
- Chaplin A Life: 40 Photo-Essays
- Works by or about Charlie Chaplin at Internet Archive (scanned books original editions color illustrated)
- Danh sách phim
- Khác
Người băng Ötzi
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Người băng Ötzi | |
---|---|
Sinh | fl. c.3300 TCN gần làng Feldthurns (Velturno) hiện nay, phía bắc Bolzano, Italia |
Mất | fl. c.3300 TCN (khoảng 45 tuổi) Sông băng Schnalstal, Ötztal Alps, gần Hauslabjoch trên biên giới giữa Áo và Italia |
Nguyên nhân mất | Nạn nhân của cuộc đánh nhau hay nghi lễ hiến tế |
Tên khác | Frozen Fritz; Người Similaun |
Nổi tiếng vì | Xác ướp tự nhiên cổ nhất của một người châu Âu thời kỳ đồ đá (thời kỳ đồ đồng) |
Chiều cao | 1,65 m (5,4 ft) |
Cân nặng | 50kg |
Website | |
South Tyrol Museum of Archaeology |
Tên của xác ướp này được đặt theo thung lũng nơi nó được tìm ra. Xác ướp này có niên đại cổ xưa không thua kém xác ướp Ginger "Ai Cập", và đã cung cấp một cái nhìn chưa từng có về người Châu Âu ở thời kỳ đồ đồng.
Mục lục
Khám phá
Ötzi được hai người leo núi gốc Đức Helmut và Erika Simon, tìm thấy ngày 19 tháng 9, 1991. Ban đầu người băng này được cho là một thi thể hiện đại, giống như nhiều thi thể khác từng được tìm thấy gần lúc ấy ở trong vùng. Thi thể đó được chính quyền Áo đưa tới Innsbruck, nơi niên đại thực sự của nó đã được khám phá. Những cuộc khảo sát sau đó đã chỉ ra rằng thi thể đó đã nằm sâu vài mét bên trong lãnh thổ Ý. Hiện nay, người băng được trưng bày tại tỉnh Nam Tirol trong Bảo tàng khảo cổ học ở thành phố Bolzano, Ý.Phân tích khoa học
Thi thể này đã được kiểm tra toàn bộ, đo đạc, chụp x-quang và xác định niên đại. Các mô và những đồ ăn trong ruột được kiểm tra bằng kính hiển vi, vì trên đồ đạc của xác ướp đã tìm thấy phấn hoa.Thân thể
Tại thời điểm chết, xác ướp Ötzi cao khoảng 160 cm (5'3"), từ 40 đến 53 tuổi theo ước tính hiện nay. Các phân tích phấn hoa, phấn ngũ cốc và các thành phần đồng vị của lớp men răng cho thấy hồi trẻ ông sống gần làng Feldthurns hiện nay, phía bắc Bolzano, nhưng sau đó chuyển tới sống ở các thung lũng cách khoảng 50 km về phía bắc. Phân tích do nhóm Franco Rollo tại Đại học Camerino tiến hành cho thấy mitochondrial DNA của Ötzi thuộc phân cụm K, nhưng không thể được phân loại vào bất kỳ nhánh nào trong ba nhánh hiện đại của phân cụm này.Các phân tích những đồ còn trong ruột của Ötzi cho thấy ông đã ăn hai bữa (bữa ăn cuối cùng vào khoảng tám tiếng trước khi ông chết), một gồm thịt sơn dương và một gồm thịt nai đỏ, cả hai được ăn kèm với một số loại ngũ cốc cũng như một số rễ cây và hoa quả. Ngũ cốc trong cả hai bữa được xay kỹ thành bột cám, rất có thể là loại thức ăn tương tự bánh mì. Trong ruột cũng có một số hạt mận gai (giống quả mận nhưng nhỏ hơn của cây mận gai).
Phấn hoa trong bữa ăn đầu tiên cho thấy rằng nó là của một loại cây hình nón mọc ở độ cao trung bình, các loại phấn hoa khác thì chứng tỏ sự hiện diện của lúa mì và các loại rau, có thể đã được canh tác. Tương tự, các phấn hoa ngũ cốc của cây thiết mộc (chi Ostrya) cũng được tìm thấy. Các phấn hoa được bảo quản rất tốt thậm chí các nhân bên trong vẫn còn nguyên vẹn, cho thấy độ tươi của chúng ở thời điểm Ötzi chết. Những khám phá này cho thấy thời gian xảy ra sự kiện là vào mùa xuân. Khá thú vị là einkorn được thu hoạch vào cuối hè và mận gai vào mùa thu; vậy chúng phải được tích trữ từ năm trước.
Các phân tích đồng vị từ chất tạo keo tóc cho thấy hoặc Ötzi đã là một người ăn chay trong thời gian rất lâu (có lẽ không đúng, vì thành phần bữa ăn cuối của ông và quần áo), hay đã có được đa số protein cần thiết từ cá biển (cũng không chắc chắn, nếu xét theo nơi ở và theo phân tích men răng của ông).
Các hình xăm
Ötzi có 57 hình xăm, một số chúng nằm tại hay ở gần các điểm châm cứu và trùng khớp với các điểm hiện nay được dùng để điều trị các triệu chứng bệnh mà có lẽ Ötzi mắc phải, như viêm khớp mãn tính. Người băng cũng bị mắc whipworm (Trichuris trichiura), một loại kí sinh ăn bám trong ruột. Một số nhà khoa học đã tìm thấy chứng cứ rằng vị trí các hình xăm là được lựa chọn cho các lý do trị bệnh theo một hệ thống rất giống với châm cứu hiện đại.Trang phục và giày
Trang phục của Ötzi, gồm một áo choàng không tay bằng cỏ bện và áo vest da và giày, tất cả đều khá tinh xảo. Đôi giày có tác dụng chống nước và rộng, có lẽ được thiết kế để đi trên tuyết; đế được làm bằng da gấu, da nai sống bên trên, và một lớp lưới bằng vỏ cây. Cỏ mềm được nhét quanh chân và bên trong giày tương tự như tất giữ ấm.Các chuyên gia đã chế tạo thử một đôi giày tương tự và thấy rằng đôi giày tuyệt vời đó có tính ứng dụng cao để sản xuất thương mại [1]. Tuy nhiên, gần đây hơn một nhà khảo cổ người Anh là Jacqui Wood nói rằng đôi giày của Ötzi thực tế chỉ là phần bên trên của giày đi tuyết. Theo lý thuyết này, vật hiện được coi như một phần của một cái ba lô trên thực tế là một khung gỗ và lưới của một đôi giày đi tuyết.
Các trang bị khác
Các đồ vật khác được tìm thấy cùng người băng là một cái rìu đồng với một cái cán bằng gỗ thuỷ tùng, một con dao bằng đá lửa với một cái cán bằng gỗ tần bì, một ống tên chứa đầy các mũi tên với giáo bằng gỗ cây tú cầu và cây sơn thù du và mũi đá lửa, và một cái cung thủy tùng chưa làm xong còn cao hơn cả ông.Trong những đồ vật của Ötzi có hai loài nấm polypore. Một loại (nấm bulô (birch fungus)) đã được biết là có các tính chất kháng khuẩn, và có lẽ được sử dụng cho mục đích y tế. Loại kia là nấm bùi nhùi với những phần có lẽ là một dụng cụ đánh lửa khá tinh vi. Bộ đồ này gồm những thành phần từ hơn mười hai loại cây khác nhau, cùng với đá lửa và quặng sun phít sắt (pyrite) để tạo ra tia lửa.
Tội ác thời cổ đại?
Quét x-quang trục cho thấy Ötzi có lẽ đã bị một mũi tên bắn vào vai khi ông chết, gây ra một vết xước nhỏ trên áo khoác. Cán mũi tên đã được rút ra, rõ ràng là bởi một người cùng đi. Ông cũng bị những vết thâm tím và những vết cắt trên tay, cổ tay, và ngực. Phân tích DNA cho thấy những dấu vết máu từ bốn người khác trên đồ dùng của ông: một ở trên dao, hai trên cùng đầu mũi tên, vết thứ tư trên áo khoác.Các giả thuyết khác
Trước khi có những chứng cứ cuối cùng, các chuyên gia cho rằng Ötzi là nạn nhân của một cuộc hiến tế lễ nghi, có lẽ để trở thành một tù trưởng. Sự giải thích này có lẽ bị ảnh hưởng bởi các lý thuyết từng được đưa ra trước đó đối với các thân thể ở trong các đầm lầy than bùn từ thiên niên kỷ thứ nhất trước công nguyên, như người Tollund và người Lindow.Một trong những lý thuyết kỳ lạ nhất cho rằng trên thực tế ông là một người Ai Cập đã bị thiến theo nghi thức. Tuy nhiên, những kiểm tra về sau cho thấy dù bị teo lại bởi quá trình xác ướp hoá, thực tế Ötzi có một dương vật.
Các thân thể đóng băng khác
Năm 2004, các thân thể đóng băng của ba binh sĩ người Áo -Hung bị giết trong Trận San Matteo (1918) được tìm thấy. Một cái được gửi tới bảo tàng với hy vọng nghiên cứu xem bằng cách nào môi trường đã gây ảnh hưởng tới việc giữ gìn xác từ đó giúp biết được về quá khứ và khuynh hướng phát triển tương lai của Ötzi.Ở Bắc Mỹ, "người băng" đầu tiên được khám phá năm 1999 tại Sông băng Samuel, British Columbia. Xác chết này được đặt tên là Kwäday Dän Ts’ínchi (người được tìm thấy từ lâu; viết tắt: KDT) bởi First Nation tribes. Xác này không cổ bằng Ötzi, ông ta chết khoảng 550 năm trước.
"Lời nguyền của người băng"
Một số nhà báo đã lưu ý về cái chết của nhiều người liên quan tới việc khám phá xác ướp, gồm cả Helmut Simon là người tìm ra Ötzi, và tìm cách liên kết nó với một lời nguyền của người băng Ötzi — tương tự như điều được gắn với xác ướp của Tutankhamun.Rất nhiều người đã bác bỏ giả thuyết trên khi chỉ ra rằng mọi người cuối cùng đều chết, và rằng những người leo núi rất thường gặp nguy hiểm và thường chết sớm vì các nguyên nhân tai nạn. Họ cũng lưu ý rằng nhiều nhà nghiên cứu và khoa học đã làm việc rất gần gũi với thân thể Ötzi và vẫn không chết trong 14 năm qua kể từ khi tìm thấy xác ướp này. Tờ Guardian bình luận về cái gọi là lời nguyền giải thích; "Giống như tất cả các thuyết về lời nguyền, chết tự nhiên, tai nạn và không may mắn luôn được đưa vào chỉ một giả thuyết về điểm gở." [1]
Liên kết ngoài
- Photo of Ötzi at Mesa Community College, Arizona.
- South Tyrol Museum of Archaeology - official website about Ötzi Same information for browsers without Flash
- Otzi the Iceman at James M. Deem's Mummy Tombs site.
- BBC programme summary and other useful links
- PBS web site for their Otzi program
- Ötzi links (German/Italian/English)
- Plants and the Iceman, Ötzi's Last Journey
- Ötzi finder dies in the Alps
- All about Ötzi
- Theory: Iceman Oetzi Wore High-Tech Shoes. By Jennifer Viegas, Discovery News.
- "Infertility link in iceman's DNA". (Feb. 3, 2006). BBC.
Tham khảo
- ^ Scientist seen as latest 'victim' of Iceman, Barbara McMahon, The Guardian, Wednesday 20 April 2005 16.31 BST
Saint Kitts và Nevis
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Liên bang Saint Christopher và Nevis Liên bang Saint Kitts và Nevis1 |
|||||
|
|||||
Khẩu hiệu | |||||
---|---|---|---|---|---|
"Country Above Self" | |||||
Quốc ca | |||||
O Land of Beauty! | |||||
Hành chính | |||||
Chính phủ | Nghị viện dân chủ (Liên bang quân chủ lập hiến) | ||||
Quốc vương | Nữ hoàng Elizabeth II | ||||
Toàn quyền | Cuthbert Sebastian | ||||
Thủ tướng | Tiến sĩ Denzil Douglas | ||||
Ngôn ngữ chính thức | Tiếng Anh | ||||
Thủ đô | Basseterre |
||||
Thành phố lớn nhất | Thủ đô | ||||
Địa lý | |||||
Diện tích | 261 km² 101 mi² (hạng 207) |
||||
Diện tích nước | Không đáng kể % | ||||
Múi giờ | UTC-4 | ||||
Lịch sử | |||||
19 tháng 9 1983 | từ Vương quốc liên hiệp Anh | ||||
Dân cư | |||||
Tên dân tộc | Kittitian, Nevisian | ||||
Dân số ước lượng (Tháng 7 năm 2005) | 42.696 người (hạng 209) | ||||
Mật độ | (hạng 64)424 người/mi² | ||||
Kinh tế | |||||
GDP (PPP) (2002) | Tổng số: $339 triệu (hạng 213) Bình quân đầu người: $14.649 (hạng 47) |
||||
HDI (2004) | 0.8252 high (hạng 51) | ||||
Đơn vị tiền tệ | East Caribbean dollar (XCD ) |
||||
Thông tin khác | |||||
Tên miền Internet | .kn | ||||
Mã điện thoại | 1 869 | ||||
hay "Liên bang Saint Christopher và Nevis". hdr.undp.org |
Thành phố thủ đô và tổng hành dinh của chính phủ Liên bang nằm trên đảo Saint Kitts(Theo ý kiến của nhiều người, tên gọi ngày nay của hòn đảo này bắt nguồn từ tiếng Tây Ban Nha ("San Cristóbal") do Christopher Columbus đặt cho.
Bang Nevis, còn có tên gọi khác "Nuestra Señora de las Nieves" (tạm dịch "Bà Tuyết của chúng tôi"), là một bang nhỏ nhất của đảo quốc này; nó nằm trên phần diện tích rộng khoảng 2 dặm (3 km) ở phía Đông - Nam Saint Kitts, cắt ngang qua con kênh có tên "The Narrows".
Theo các tài liệu lịch sử, Anguilla, một thuộc địa của thực dân Anh, từng là một phần của Liên bang, nhưng sau đó ta1hc ra và được biết đến với tên gọi vùng lãnh thổ Saint Christopher-Nevis-Anguilla như ngày nay.
Saint Kitts và Nevis là một lãnh thổ địa lý thuộc quần đảo Leeward; giáp Saint Eustatius, Saba, Saint Barthélemy,và Saint Martin ở phía Bắc Đông Bắc; giáp Antigua và Barbuda về phía Đông Bắc; còn ở phía Đông Nam, giáp đảo quốc nhỏ, không người ở Redonda, và đảo Montserrat, khu vực thường xuyên xảy ra những đợt núi lửa lớn.
Lịch sử
Năm 1493, Cristoforo Colombo đặt chân lên đảo St. Kitts, đặt tên đảo theo tên vị thánh bổn mạng của ông ta, Cristoforo (Thánh Christopher), nhưng những người định cư từ Anh sang (1623) đã rút gọn tên gọi thành St. Kitts. Đảo này trở thành thuộc địa của Anh, thổ dân Carib bị đánh đuổi và các nô lệ Da đen được đem đến từ châu Phi. Danh từ Nevis xuất phát từ những đám mây quanh chóp đỉnh của đảo giống như tuyết (tiếng Tây Ban Nha, las nieves nghĩa là tuyết). Các đảo này bị thực dân Anh chiếm đóng vào thế kỉ 17, trở thành thuộc địa Anh từ năm 1783 (Hiệp ước Versailles).Liên bang gồm ba đảo: St. Kitts, Nevis và Anguilla được thành lập năm 1967, nhưng sau đó Anguilla đã rút khỏi liên bang. Quốc gia này đạt được quy chế tự trị năm 1967, trở thành quốc gia độc lập thuộc Khối thịnh vượng chung Anh năm 1983.
Giá đường thế giới giảm sút làm tổn hại đến nền kinh tế trong nửa thập niên 1980. Chính phủ tìm cách giảm bớt sự phụ thuộc vào sản xuất đường của đảo quốc, đa dạng hóa nền kinh tế, khuyến khích phát triển du lịch tài chính. Năm 1990, người đứng đầu đảo Nevis loan báo ý định tách đảo này khỏi Khối thịnh vượng chung Anh năm 1992, nhưng cuộc bầu cử địa phương (tháng 6 năm 1992) đã trì hoãn ý định này. Tháng 8 năm 1998, 62% dân chúng bỏ phiếu cho việc li khai đảo Nevis, nhưng không đạt được 2/3 số phiếu yêu cầu.
Địa lý
Quốc gia liên bang gồm hai đảo St.Kitts (176 km2) và đảo Nevis (93 km2) ở quần đảo Tiểu Antilles, Trung Mỹ với diện tích 269 km2. Đảo St.Kitts có dạng gần giống hình trái xoan, ngoại trừ một dải bán đảo hẹp và dài ở phía Đông Nam; đỉnh núi cao nhất là Mount Liamuiga (1.156 m). Đảo Nevis là một ngọn núi (Nevis Peak, 985 m) được bao bọc bởi các vỉa san hô. Một eo biển khoảng 3 km tách rời hai đảo này.Chính trị
Đất nước này là một thành viên của Khối thịnh vượng chung Anh với Nữ hoàng Elizabeth II là người đứng đầu của nhà nước, có đại diện tại St. Kitts và Nevis là một vị Toàn quyền. Thủ tướng là người đứng đầu chính phủ đắc cử khi đảng của thủ tướng chiếm đa số ở Hạ viện.St Kitts và Nevis có một cơ quan lập pháp đơn viện, được gọi là Quốc hội. Nó bao gồm 14 thành viên: 11 thành viên đại diện dân cử (ba hòn đảo Nevis) và ba thượng nghị sĩ, những người được bổ nhiệm bởi Toàn quyền. Hai trong số các thượng nghị sĩ được bổ nhiệm theo lời đề nghị của Thủ tướng, và một theo lời đề nghị của các nhà lãnh đạo của phe đối lập. Không giống như ở các nước khác, các thượng nghị sĩ không phải là đại biểu của một Thượng viện riêng biệt. Tất cả các đại biểu quốc hội có nhiệm kỳ 5 năm. Thủ tướng và Nội các chịu trách nhiệm trước Nghị viện.
Saint Kitts và Nevis là một thành viên đầy đủ của Cộng đồng Caribbe (CARICOM) và Tổ chức Đông Caribbe (OECS).
Kinh tế
Saint Kitts và Nevis là một liên bang đảo có nền kinh tế du lịch phát triển của mình, nông nghiệp và các ngành công nghiệp sản xuất khác tương đối phát triển. Đường đã được xuất khẩu chủ yếu từ các nông trại mía địa phương, nhưng chi phí sản xuất tăng cao, giá thị trường thế giới thấp, và nỗ lực của chính phủ để giảm sự phụ thuộc vào nó đã dẫn đến một sự đa dạng hóa ngày càng tăng của ngành nông nghiệp. Năm 2005, chính phủ quyết định đóng cửa công ty đường thuộc sở hữu nhà nước, trong đó có thiệt hại kinh tế góp phần quan trọng cho sự thâm hụt ngân sách. Các đồn điền mía cũ vẫn thống trị cảnh quan quốc đảo, tuy nhiên nhiều đồn điền mía đang được đốt cháy để nhường chỗ cho phát triển đất đai, đặc biệt là ở phía bắc của hòn đảo, trong các giáo xứ Saint John Capisterre và Christchurch. Nông nghiệp, du lịch, sản xuất theo định hướng xuất khẩu, và các lĩnh vực ngân hàng ngoài khơi đang được phát triển và hiện đang tham gia vai trò lớn hơn trong nền kinh tế của đất nước. Sự phát triển của ngành du lịch đã trở thành nguồn thu ngoại tệ chính cho Saint Kitts và Nevis. Đất nước này cũng đã phát triển một ngành công nghiệp may mặc, lắp ráp thành công và một trong các ngành công nghiệp lắp ráp điện tử lớn nhất trong vùng Caribe.St Kitts phụ thuộc vào du lịch để lái nền kinh tế của nó. Du lịch đảo đã được mở rộng từ năm 1978. Trong năm 2009, đã có 587.479 lượt khách đến Saint Kitts so với 379.473 trong năm 2007. Sự tăng trưởng này thể hiện mức tăng chỉ dưới 40% trong một khoảng thời gian 2 năm.
St Kitts và Nevis cũng mua lại vốn đầu tư nước ngoài trực tiếp từ công dân của họ bằng chương trình đầu tư, được nêu trong Luật Quốc tịch năm 1984. Các bên quan tâm có thể có được Quốc tịch nếu họ vượt qua kiểm tra lý lịch của chính phủ và thực hiện một khoản đầu tư vào sự phát triển bất động sản đã được phê duyệt.
Hành chính
Liên bang Saint Kitts và Nevis được chia thành 14 giáo xứ. Chín giáo xứ nằm trên đảo Saint Kitts và năm trên Nevis.Ghi chú
- ^ Both the names Saint Christopher and Saint Kitts are given in the Constitution of Saint Christopher and Nevis.
Liên kết ngoài
Phương tiện liên quan tới Saint Kitts and Nevis tại Wikimedia CommonsWikimedia Commons có thêm thể loại hình ảnh và phương tiện truyền tải về Saint Kitts và Nevis |
- St. Kitts & Nevis - Government of Saint Kitts and Nevis official website
- Ministry of Finance - of the Saint Kitts & Nevis Federation
- Nevis Ministry of Finance - for the Nevis Island Administration
- SKNVibes.com Online
Wikivoyage có chỉ dẫn du lịch về Saint Kitts và Nevis |
- Saint Kitts Tourism Authority - Official Site
- The Nevis Tourism Authority - Official Site
- Discover St Kitts Nevis Beaches - Personal Guide to St Kitts and Nevis by a Local.
- St. Kitts Music Festival - Official Website of the annual Music Festival
- Human Development Report 2006
- St. Kitts Anglican Churches
- Hosted at the University of the West Indies - Articles and materials on Nevis secession
- Windsor University School of Medicine
- St.Kitts Paper Money
- Map of St. Kitts
- Map of Nevis
- Google Maps satellite photo of Saint Kitts and Nevis
|
|
|
http://www.youtube.com/user/hoangkimvietnam
Trở về trang chính
hoangkim vietnam, hoangkim, hoangkimvietnam, Hoàng Kim, Ngọc Phương Nam, Chào ngày mới Thung dung, Dạy và học, Cây Lương thực, Tin Nông nghiệp Việt Nam, Food Crops, Cassava in Vietnam, VietnamAfricaCassavaRice, Khát khao xanh, Dayvahoc, Học mỗi ngày, Danh nhân Việt , Food Crops News, Điểm chính, CNM365, Kim LinkedIn, KimTwitter, KimFaceBook Đọc lại và suy ngẫm, Việt Nam tổ quốc tôi, Tình yêu cuộc sống, Thơ cho con
No comments:
Post a Comment