Sự kiện 11 tháng 9
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Sự kiện 11 tháng 9 | |
---|---|
|
|
Địa điểm |
|
Thời điểm | Thứ Ba, 11 tháng 9, 2001 8:46 – 10:28 am (UTC-4) |
Loại hình |
|
Tử vong | 2,996 (2,977 nạn nhân, 19 không tặc) |
Bị thương | 6,000+ |
Thủ phạm |
Nếu không tính 19 không tặc, có cả thảy 2.974 người thiệt mạng trong vụ tấn công, và 24 người liệt kê mất tích xem như đã chết.[4][5]
Theo phúc trình của Ủy ban Quốc gia về vụ Khủng bố tại Hoa Kỳ (Ủy ban 11/9), tất cả 19 không tặc tiến hành cuộc tấn công đều là những tay khủng bố liên quan đến tổ chức Hồi giáo Al-Qaeda. Bản phúc trình cho rằng Osama bin Laden, người Saudi, thủ lĩnh của Al-Qaeda, là người chịu trách nhiệm về vụ tấn công, trong khi Khalid Shaikh Mohammed là người trực tiếp đặt kế hoạch cho cuộc tấn công. Chính phủ của nhiều nước khác, cũng như nhiều nguồn tin tức, đã đi đến hoặc phát biểu kết luận tương tự. Osama bin Laden quyết liệt bác bỏ mọi liên quan đến vụ tấn công trong hai lời tuyên bố vào năm 2001 [6] nhưng về sau, trong một lời tuyên bố bằng video năm 2004, ông thừa nhận là có liên quan trực tiếp đến những cuộc khủng bố[7].
Theo phúc trình của Ủy ban 11/9, các không tặc đã biến những chiếc máy bay thành những quả bom tự sát lớn nhất trong lịch sử. Vụ khủng bố ngày 11 tháng 9 là một trong những sự kiện quan trọng đáng chú ý nhất trong thế kỷ 21, và là một trong những vụ khủng bố gây thiệt hại nhiều nhất về tất cả các mặt kinh tế, xã hội, chính trị, văn hóa, và quân sự của lịch sử Hoa Kỳ cũng như những nơi khác trên thế giới.
Mục lục
Tấn công
Vụ tấn công khởi phát là việc cướp bốn chiếc máy bay thương mại. Với sức chứa gần 91.000 lít (24.000 gallon) cho các động cơ phản lực của mỗi chiếc, những chiếc máy bay này được biến thành những quả bom lửa đang bay. Chuyến bay 11 của hãng hàng không American Airlines đâm vào mé bắc của toà Tháp Bắc WTC vào lúc 8:46:40 sáng giờ địa phương (12:46:40 UTC). Lúc 9:03:11 sáng giờ địa phương (13:03:11 UTC), chuyến bay 175 của hãng hàng không United Airlines đâm vào toà Tháp Nam, được truyền hình trực tiếp bởi các máy quay trước đó đang hướng ống kính về phía Tháp Bắc.[8]Chuyến bay 77 của hãng American Airlines lao vào Lầu Năm Góc vào lúc 9:37:46 sáng giờ địa phương (13:37:46 UTC). Chiếc phi cơ thứ tư, chuyến bay 93 của hãng hàng không United Airlines, rơi xuống một cánh đồng gần Shanksville và thị trấn Stonycreek thuộc Quận Somerset, tiểu bang Pennsylvania vào lúc 10:03:11 sáng giờ địa phương (14:03:11 UTC),[9][10][11] xác vụn của chiếc máy bay đã được tìm thấy cách đó tám dặm. Người ta tin rằng máy bay bị rơi có thể là do nhóm không tặc cố ý làm như thế, nhưng cũng có thể là do hành khách trên máy bay đánh trả lại làm nhóm không tặc không thể kiểm soát được chiếc máy bay. Trong số những người có mặt trên bốn chuyến bay định mệnh này, không ai còn sống sót.
Một số hành khách và nhân viên phi hành đoàn đã cố liên lạc bằng điện thoại từ trên máy bay.[12][13] Họ báo cho biết có nhiều không tặc đang có mặt trên máy bay. Sau này, FBI nhận diện được tổng cộng có 19 không tặc, bốn trên chuyến bay 93 của hãng United. Trên ba chuyến bay còn lại, mỗi chuyến có năm không tặc.
Theo ước tính của Viện Tiêu chuẩn và Kỹ thuật Quốc gia (NIST) có khoảng 17 400 người có mặt trong Trung tâm Thương mại Thế giới vào lúc xảy ra vụ tấn công, trong khi cửa quay của Cảng New York và New Jersey cho thấy có 14 154 người ở trong tòa tháp đôi vào lúc 8:45 sáng.[14][15] Đa số đều ở dưới điểm va chạm nên được cứu thoát an toàn, có 18 người cố xoay xở để thoát ra kịp lúc từ bên trên khu vực va chạm của tòa tháp phía nam trước khi nó đổ xuống.[16] Có ít nhất 1 366 người bị kẹt ngay tại hoặc bên trên điểm va chạm của toà tháp phía bắc, không ai còn sống sót [17] Theo phúc trình của Ủy ban 11/9, hàng trăm người chết ngay khi xảy ra vụ nổ, những người còn lại bị mắc kẹt trong tòa nhà, thiệt mạng khi tòa nhà sụp đổ.[18] Có đến 600 người chết ngay lập tức hoặc bị kẹt trong các tầng lầu ngay tại điểm va chạm hoặc bên trên của tòa tháp Nam.[17]
Trong số những người có mặt trong Trung tâm Thương mại Thế giới vào lúc nơi này bị tấn công, ước tính có khoảng 200 người, tuyệt vọng vì bị nhấn chìm trong khói và sức nóng của nhiên liệu phản lực đang bốc cháy, liều mạng nhảy ra khỏi toà tháp đôi rực lửa để hứng chịu cái chết thảm khốc khi rơi xuống đường phố và trên mái của những toà cao ốc lân cận, hàng chục mét thấp hơn bên dưới.[19]
Phản ứng tương tự cũng được ghi nhận khi những nạn nhân của vụ cháy tàu General Slocum (xảy ra năm 1981 với hơn 1.000 người chết), và vụ hoả hoạn tại xưởng may Triangle Shirtwaist (năm 1911 với hơn 100 thương vong) tìm lấy cái chết khi cố tìm cách thoát khỏi tình thế nguy cấp.
Nhiều người khác đang ở các tầng lầu cao hơn điểm va chạm (nơi máy bay đâm vào toà nhà) cố chạy ngược lên mái toà nhà với hy vọng sẽ được trực thăng đến cứu. Nhưng không có kế hoạch cứu hộ nào được lập ra cho một tình huống như thế. Những người khác bị chặn lại bởi cửa đã bị khoá chặt khi họ đang cố leo lên mái toà nhà.[20]
Chiếc máy bay thứ tư
Có những suy đoán cho rằng chiếc máy bay thứ tư, chuyến bay 93 của hãng United Airlines, bị nhóm không tặc dự định cho đâm vào Điện Capitol (Trụ sở Quốc hội Hoa Kỳ) hoặc Toà Bạch Ốc ở Washington, D.C..Những gì được ghi lại trong hộp đen cho thấy những hành khách, do Todd Beamer, Jeremy Glick và Mark Bingham lãnh đạo, cố gắng giành quyền kiểm soát máy bay từ tay nhóm không tặc mặc dù những không tặc, trong một nỗ lực bất thành, cho phi cơ lắc mạnh nhằm khống chế nhóm hành khách.[21][22] Theo băng ghi âm của dịch vụ khẩn cấp 911, một hành khách trên chuyến bay 93 yêu cầu người điện thoại viên cùng cầu nguyện với anh trước khi nhóm hành khách này xông lên tranh giành với nhóm khủng bố để chiếm lại quyền điều khiển chiếc phi cơ. Sau khi cầu nguyện xong, người hành khách chỉ thốt lên "let’s roll". "Let’s roll" sau này trở thành tiếng hô xung trận của binh sĩ chiến đấu chống Al Qaeda tại Afghanistan.
Không lâu sau đó, chiếc phi cơ rơi xuống một cánh đồng gần Shanksville thuộc thị trấn Stonycreek, hạt Somerset, tiểu bang Pennsylvania vào lúc 10:30:11 sáng giờ địa phương (14:03:11UTC). Có những bất đồng về thời điểm chính xác máy bay rơi, dựa vào những chấn động được ghi nhận cho thấy có thể xảy ra lúc 10:06. Ủy ban 9/11 báo cáo rằng quân sư của al-Qaeda (đã bị bắt), Khalid Shikh Mohamed, khai rằng mục tiêu tấn công của chuyến bay 93 là Điện Capitol, trụ sở Quốc hội Hoa Kỳ, được dành cho bí danh "Khoa Luật".[23]
Tử vong và Thiệt hại
Thương vong (kể cả không tặc) | ||
---|---|---|
Thành phố New York | Trung tâm Thương mại Thế giới | 2 604 tử vong và 24 mất tích[24][25] |
Chuyến bay 11 American Airlines | 88[26] | |
Chuyến bay 175 United Airlines | 59[27] | |
Arlington | Ngũ Giác Đài | 125[28] |
Chuyến bay 77 American Airlines | 59[29] | |
Shanksville | Chuyến bay 93 United Airlines | 40[30] |
Tổng cộng | 2 975 tử vong và 24 mất tích. |
Theo tường thuật của hãng thông tấn Associated Press, thành phố đã nhận diện hơn 1 600 tử thi, nhưng không thể xác định nhân thân cho số tử thi còn lại (khoảng 1 100 người). Bản tường thuật cũng nói rằng thành phố có "khoảng 10 000 mẩu xương và các phần mô chưa thể xác nhận là phù hợp với danh sách tử vong".[31]
Con số thương vong lên đến 2 975 người, trong đó có 19 không tặc, 246 người trên 4 chiếc máy bay (không ai sống sót), 2 603 người thiệt mạng tại Thành phố New York, trong tòa tháp đôi cũng như trên mặt đất, và 125 người trong Ngũ Giác Đài.[32][33] Thêm vào danh sách nạn nhân là 24 người bị liệt kê mất tích.[24] Ngoại trừ 55 người thuộc các lực lượng vũ trang, tất cả đều là dân thường.[34]
Hơn 90 quốc gia có công dân thiệt mạng trong vụ tấn công vào Trung tâm Thương mại Thế giới.[35] Các viên chức y tế Thành phố New York đưa tên Felicia Dunn-Jones vào danh sách nạn nhân. Năm tháng sau ngày xảy ra sự kiện 11/9, Dunn-Jones chết vì bệnh phổi do hít phải bụi khi tòa nhà WTC sụp đổ.[36]
Thêm vào đó, tòa Tháp đôi cao 110 tầng của Trung tâm Thương mại Thế giới, cùng với năm tòa nhà khác thuộc khu vực WTC, gồm có tòa nhà số 7 của WTC, tòa nhà chọc trời khung bằng thép cao 48 tầng cách đó một khu phố, các tòa nhà số 6, 5, 4, 3 của WTC, phức hợp Trung tâm Tài chính Thế giới, và Nhà thờ Chính Thống giáo St Nicholas, cùng bốn trạm tàu điện ngầm hoặc bị sụp đổ hoàn toàn hoặc bị thiệt hại nặng nề.[37] Tính tổng cộng, trên Đảo Manhattan, có 45 tòa nhà bị thiệt hại. Các thiết bị truyền thông như tháp truyền hình, truyền thanh, radio hai chiều bị phá hủy nhưng các trạm truyền thông đã nhanh chóng phục hồi tín hiệu và phát sóng lại.[37][38] Tại Arlington, một phần của tòa nhà Lầu Năm Góc bị hư hại nghiêm trọng do hỏa hoạn, một phần khác bị sụp đổ.[39]
Trách nhiệm
Chính phủ Hoa Kỳ qui trách nhiệm cho tổ chức khủng bố al-Qaeda về vụ tấn công 11/9.[40] Tổ chức này từng nhận đã tấn công các mục tiêu quân sự và dân chính của Hoa Kỳ tại châu Phi và Trung Đông. Osama bin Laden, bác bỏ mọi dính líu cũng không nhận mình đã biết trước cuộc tấn công. Trước đó, bin Laden đã tuyên bố thánh chiến chống lại Hoa Kỳ. Sau thảm hoạ này, chính phủ Hoa Kỳ công bố al-Qaeda và bin Laden là thủ phạm chính.Tháng 11 năm 2001, lực lượng Hoa Kỳ cho phục hồi một băng video tìm thấy trong một căn nhà bị phá huỷ tại Jalalabad, Afghanistan, cuộn băng cho thấy Osama bin Laden đang nói chuyện với Khaled al-Harbi. Trong cuộn băng, bin Laden thừa nhận đã lập kế hoạch cho cuộc tấn công. Trong thế giới Hồi giáo, người ta tỏ vẻ hoài nghi về tính xác thực của cuộn băng này: "Phóng viên tại Trung Đông của đài BBC, Frank Gardner, nói rằng trên đường phố trong thế giới Ả Rập, nhiều người tin rằng đây chỉ là một thủ thuật tuyên truyền của chính phủ Mỹ". Cuốn băng được phát sóng trên nhiều mạng tin tức khác nhau trong tháng 12 năm 2001.
Ngày 16 tháng 9 năm 2001, Osama bin Laden đáp trả bằng cách đọc một bản tuyên bố, "Tôi nhấn mạnh rằng tôi không tiến hành điều này, nó được thực hiện bởi các cá nhân với mục tiêu riêng của họ". Bản tuyên bố được phát sóng trên kênh vệ tinh Al Jazeera của Qatar, cũng được phát sóng trên mạng lưới tin tức của Hoa Kỳ và thế giới. Phản ứng thứ hai của bin Laden xuất hiện vào ngày 28 tháng 11 trên Daily Ummat, một tờ nhật báo của Pakistan, "Tôi đã nói rằng tôi không dính líu đến các cuộc tấn công 11 tháng 9 tại Mỹ. Là một người Hồi giáo, tôi cố làm hết sức mình để khỏi phải nói dối. Tôi không biết gì về vụ tấn công, cũng không hề xem việc tàn sát phụ nữ và trẻ em vô tội, cùng những nhân mạng khác là một hành động thích đáng. Hồi giáo nghiêm cấm việc gây tổn hại cho phụ nữ, trẻ em vô tội và những người khác. Một hành vi như thế bị cấm đoán ngay cả khi đang ở trong thời chiến".
Tuy nhiên, không lâu sau cuộc bầu cử tổng thống Hoa Kỳ năm 2004, trong một thông báo ghi âm sẵn, bin Laden công khai thừa nhận sự dính líu của al-Qaeda vào vụ tấn công, và nhận có quan hệ trực tiếp với vụ tấn công. Ông ta nói rằng cuộc tấn công được thực hiện bởi vì "chúng tôi là một dân tộc tự do không chịu chấp nhận bất công, và chúng tôi muốn giành lại tự do cho dân tộc chúng tôi".
Ngày 27 tháng 9 năm 2001, FBI thông báo hình ảnh của 19 không tặc, cùng các thông tin liên quan đến quốc tịch và bí danh của nhiều nghi can.[41] Mười lăm không tặc đến từ Ả Rập Saudi, hai từ Các Tiểu Vương quốc Ả Rập Thống nhất, một từ Ai Cập, và một từ Liban.[42] Khác với nhân thân thường thấy của những kẻ đánh bom cảm tử, họ đều là những người trưởng thành và có học thức.[43]
Theo kết luận của Ủy ban 9/11 trong bản tường trình ngày 22 tháng 6 năm 2004, cuộc tấn công được lập kế hoạch và tiến hành bởi các đặc vụ của al-Qaeda. Ủy ban cho rằng al-Qaeda chi một khoản tiền từ 400.000 USD – 500.000 USD để lập kế hoạch và tiến hành vụ tấn công, nhưng nguồn gốc số tiền trên vẫn chưa được xác minh.[44]
Động lực
Theo nguồn tin chính thức từ chính phủ Hoa Kỳ, vụ tấn công 11 tháng 9 là phù hợp với những gì Al-Qaeda tự nhận là sứ mạng của mình. Al-Qaeda bị nghi ngờ dính líu vào những vụ đánh bom các sứ quán Mỹ tại Kenya và Tanzania, tổ chức này cũng nhận trách nhiệm vụ tấn công khu trục hạm USS Cole của Hải quân Hoa Kỳ tại Yemen năm 2000.Theo Hoa Kỳ, sự kiện 11/9 là một phần trong kế hoạch "giết người Mỹ ở tất cả những nơi nào trên thế giới có thể" mà bin Laden đưa ra. Chiến dịch khủng bố này lợi dụng niềm tin tôn giáo và khởi phát từ một giáo lệnh (fatwa) ban hành năm 1998 bởi bin Laden, Ayman al-Zawahiri, Abu-Yasir Rifa’i Ahmad Taha, Shaykh Mir Hamzah, và Fazlur Rahman.[45][46][47] Giáo lệnh này mở đầu với phần trích dẫn kinh Koran, "hãy giết những kẻ ngoại giáo bất cứ nơi nào ngươi tìm thấy chúng", và đi đến kết luận "nghĩa vụ của mỗi người Hồi giáo" là "giết người Mỹ ở khắp mọi nơi."[45]. Họ cáo buộc Hoa Kỳ:
- Bóc lột nguồn tài nguyên vùng bán đảo Ả Rập.
- Lũng đoạn nền chính trị của các quốc gia trong vùng.
- Ủng hộ những chế độ và các vương triều bóc lột người dân trong khu vực Trung Đông, tức là áp bức nhân dân.
- Đặt các căn cứ quân sự tại bán đảo Ả Rập, tức là xâm phạm đất thánh của người Hồi giáo, nhằm mục tiêu đe doạ các nước Hồi giáo láng giềng.
- Âm mưu tạo mối bất hoà giữa các quốc gia Hồi giáo để làm suy yếu sức mạnh chính trị của khối này.
- Ủng hộ Israel và nỗ lực hướng sự quan tâm của quốc tế khỏi việc chiếm đóng Palestine.
Những thông báo của Al-Qaeda ghi nhận được từ sau 11 tháng 9 hỗ trợ cho sự suy đoán này. Trong một băng video năm 2004, bin Laden rõ ràng là thừa nhận trách nhiệm trong vụ tấn công và nói rằng những hành động này là để "phục hồi sự tự do cho dân tộc chúng ta", để "trừng phạt kẻ xâm lược" và để phá hoại nền kinh tế nước Mỹ. bin Laden tuyên bố rằng mục tiêu kéo dài của cuộc thánh chiến là "làm chảy máu nước Mỹ đến khi nước này kiệt sức".
Cả Hoa Kỳ và Al-Qaeda đều cố trình bày cuộc tranh chấp này là cuộc chiến giữa Thiện và Ác.
Bản báo cáo của Ủy ban 9/11 khẳng định rằng thái độ thù nghịch của Khalid Shaikh Mohamed, người được xem là "kiến trúc sư trưởng" của vụ tấn công 9/11, xuất phát từ "sự bất đồng dữ dội với chính sách ngoại giao của Hoa Kỳ ủng hộ Israel". Động cơ tương tự cũng được quy cho tên không tặc lái máy bay đâm vào toà tháp đôi WTC: Mohamed Atta được miêu tả bởi Ralph Bodenstein – người từng du hành, làm việc và nói chuyện với anh ta – như là "hoàn toàn tin rằng Hoa Kỳ muốn bảo vệ Israel".
Tuy nhiên, giáo lệnh năm 1998 của bin Laden được ban hành vào thời điểm ra đời thoả hiệp Oslo về Israel và Palestine, khi các bên tin rằng cuộc tranh chấp đang đến lúc chấm dứt bằng các thỏa hiệp.
Ngược lại, chính phủ Bush cho rằng Al-Qaeda bị thúc đẩy bởi lòng căm thù tinh thần tự do và dân chủ thể hiện bởi nước Mỹ, trong khi những nhà phân tích độc lập cho rằng động cơ chính của Al-Qaeda là khuyến khích tinh thần đoàn kết Hồi giáo bằng cách tập chú vào một kẻ thù chung, như thế về lâu về dài giúp dọn đường cho sự hình thành một trật tự thế giới mới theo cung cách Hồi giáo quá khích.
Hậu quả
Phản ứng của Quốc tế
Vụ tấn công tạo ra những phản ứng khác nhau trong nền chính trị toàn cầu. Phản ứng của các chính phủ và phương tiện truyền thông trên khắp thế giới là gay gắt lên án hành động khủng bố, với những hàng tít trên nhật báo Pháp Le Monde, tóm lược thái độ đồng cảm của quốc tế: "Ngày hôm nay Tất cả chúng ta đều là người Mỹ", và hàng triệu người trên thế giới tổ chức thắp nến tưởng niệm nạn nhân.Những nhà lãnh đạo của hầu hết các quốc gia Trung Đông đều lên tiếng kết án vụ tấn công, nhưng Iraq là một ngoại lệ, nước này đưa ra một thông báo chính thức, "những gã cao bồi Mỹ đang hứng chịu hậu quả tội ác của họ chống lại nhân loại" [48]. Trong khi đó, có một số ít người Palestine ăn mừng sự kiện này.[49]
Chỉ khoảng một tháng sau vụ tấn công, Hoa Kỳ dẫn đầu một liên minh quân sự quốc tế tiến vào Afghanistan để săn đuổi các lực lượng vũ trang của al-Qaeda hầu đánh đổ chính phủ Taliban vì cớ chứa chấp bọn khủng bố [50]. Chính quyền Pakistan quyết định đứng về phía Hoa Kỳ trong cuộc chiến chống Osama bin Laden và al-Qaeda. Nước này dành cho Hoa Kỳ một số phi trường và căn cứ quân sự làm hậu cứ cho chiến dịch tấn công vào Afghanistan, cùng lúc cho bắt giữ hơn 600 nghi can là thành viên al-Qaeda và giải giao những người này cho Hoa Kỳ [51]. Hoa Kỳ cũng được sự ủng hộ của nhiều quốc gia trên thế giới, kể cả Nga và Trung Quốc, trong việc hợp tác chống khủng bố toàn cầu.
Công luận tại Hoa Kỳ
Vụ tấn công tác động mạnh mẽ bao trùm lên toàn thể dân chúng Mỹ. Người ta bày tỏ lòng biết ơn đối với những nhân viên duy trì an toàn công cộng, nhất là lính cứu hỏa. Những người này đã bày tỏ lòng dũng cảm khác thường giữa tình thế hiểm nghèo nơi hiện trường trong khi họ phải gánh chịu con số tử vong cao chưa từng có khi thi hành nhiệm vụ. Thị trưởng thành phố New York, Rudolph Giuliani, giành được sự ngưỡng mộ toàn quốc vì những hoạt động không mệt mỏi của ông trong lúc này. Giuliani được tạp chí TIME chọn làm Nhân vật của Năm 2001.[52]Thành phố New York đã bị trọng thương bởi vụ tấn công và sẽ luôn luôn mang theo mình những vết sẹo vật chất và tâm sinh lý kể từ thảm họa này. Một làn sóng hiến máu tự nguyện đã dấy lên ngay sau ngày 11 tháng 9 để cứu sinh mạng người bị nạn. Theo một tường trình trên Tạp chí Hiệp hội Y khoa Mỹ ra ngày 7 tháng 5 năm 2003: "... lượng máu được hiến tặng trong những tuần lễ sau vụ tấn công 11/9 cao hơn nhiều so với cùng kỳ trong năm 2000 (2.5 lần trong tuần lễ đầu tiên sau vụ tấn công; 1.3 – 1.4 lần trong tuần thứ hai và tuần thứ tư sau vụ tấn công)".[53][54]
Xảy ra một số vụ quấy nhiễu và tấn công chống lại người Trung Đông và những người "trông giống người Trung Đông" [55][56], nhất là người Sikh. Tổng cộng có chín người thiệt mạng trên lãnh thổ Hoa Kỳ như là nạn nhân của những hành động trả đũa. Balbir Singh Sodhi, một trong số những nạn nhân, bị bắn chết ngày 15 tháng 9. Sodhi, giống những nạn nhân khác, là một người Sikh nhưng bị hiểu lầm là người Hồi giáo.[55]
Kinh tế
Cuộc tấn công ngay lập tức gây ra những tác hại nghiêm trọng trên nền kinh tế của nước Mỹ và trên thị trường thế giới. Thị trường Chứng khoán New York (NYSE), Thị trường Chứng khoán Mỹ và NASDAQ đóng cửa trong ngày 11 tháng 9 và ngưng hoạt động cho đến ngày 17 tháng 9. Cơ sở vật chất và những trung tâm xử lý dữ liệu từ xa của NYSE không bị thiệt hại bởi vụ tấn công, nhưng các công ty thành viên, khách hàng và thị trường không thể liên lạc được vì những thiệt hại lớn mà các cuộc tấn công gây ra cho các phương tiện truyền thông gần WTC. Khi thị trường chứng khoán mở cửa trở lại vào ngày 17 tháng 9 năm 2001, sau thời gian đóng cửa lâu nhất kể từ Cuộc Đại Suy thoái (Great Depression) năm 1929, chỉ số Dow Jones (Dow Jones Industrial Average – DJIA) tuột xuống 684 điểm, tức 7,1%, chỉ còn 8920 điểm, sự tuột dốc chưa từng xảy ra chỉ trong vòng một ngày.[57] Đến cuối tuần, chỉ số DJIA rơi tự do 1369,7 điểm (14,3%), lần tuột giảm lớn nhất trong vòng một tuần trong lịch sử của chỉ số này.[58] Thị trường chứng khoán Hoa Kỳ mất 1, 4 ngàn tỉ USD trong tuần này. Đến năm 2005, Phố Wall và Phố Broadway gần Thị trường Chứng khoán New York vẫn được canh gác cẩn thận nhằm ngăn ngừa một vụ tấn công tương tự vào tòa nhà này.Hoạt động kinh tế khu Hạ Manhattan, khu vực kinh doanh lớn thứ ba tại Hoa Kỳ (sau Midtown Manhattan và Chicago Loop) bị tàn phá ngay sau đó. 31, 9 triệu ft. vuông của khu văn phòng quận Manhattan Hạ hoặc bị thiệt hại hoặc bị hủy diệt.[59] Phần lớn những nơi bị hủy hoại là những khu xếp hạng A.
Công cuộc tái thiết vẫn bị kìm hãm do thiếu sự đồng thuận về thứ tự ưu tiên. Điển hình, Thị trưởng Bloomberg xem cuộc vận động đăng cai Thế vận hội mùa hè 2012 của thành phố New York là trọng tâm cho kế hoạch phát triển của ông từ năm 2002 cho đến giữa năm 2005, trong khi Thống đốc Pataki ủng hộ Công ty Phát triển Hạ Manhattan, công ty này bị chỉ trích vì không làm được gì nhiều dù đã được cấp một ngân quỹ khổng lồ dành cho công cuộc tái thiết.
Bầu trời khu vực Bắc Mỹ bị đóng cửa trong vài ngày sau vụ tấn công, các chuyến bay bị cắt giảm đáng kể cho đến khi có lệnh mới. Hệ quả của vụ tấn công là làm suy giảm các hoạt động hàng không đến gần 20%, tăng mức độ nghiêm trọng của các vấn đề tài chính cho ngành công nghiệp hàng không dân dụng vốn đã gặp nhiều khó khăn.
Trong nhiều tiếng đồng hồ sau vụ tấn công, người ta phải cho di tản cư dân và người làm việc ở các tòa tháp cao trong các khu vực đô thị trên khắp nước Mỹ, kể cả Los Angeles, tại thành phố này lượng xe lưu thông giảm đến mức thấp nhất từ trước đến nay, trong khi những khu doanh nghiệp tại trung tâm các đô thị cũng trở nên hoang vắng.
Cứu hộ, phục hồi, bồi thường
Phải mất hàng tháng mới có thể hoàn tất các nỗ lực cứu hộ và phục hồi. Chỉ với công tác dập tắt những ngọn lửa đang cháy âm ỉ trong đống đổ nát của toà nhà WTC, người ta phải mất hàng tuần, còn việc dọn dẹp thì mãi đến tháng 5 năm 2002 mới xong. Những khán đài bằng gỗ được dựng tạm dành cho du khách đến thăm và quan sát những đội công nhân xây dựng đang miệt mài dọn dẹp những lỗ hỗng khổng lồ trước đây là tòa tháp đôi. Ngày 30 tháng 5 năm 2002, các khán đài này cũng đã đóng cửa.Nhiều quỹ cứu trợ được thành lập cấp tốc nhằm trợ giúp nạn nhân vụ tấn công, cung cấp những hỗ trợ tài chính cho những người sống sót và gia đình nạn nhân. Sau hạn chót, ngày 11 tháng 9 năm 2003, có 2.833 đơn xin bồi thường đã được tiếp nhận trong số 2.986 nạn nhân được thống kê.
Ảnh hưởng sức khỏe
Trong hằng ngàn tấn vật liệu đổ nát từ sự sụp đổ toà tháp đôi có các độc chất amiăng, chì, thuỷ ngân, cũng như mức độ tăng cao chưa từng có của dioxin và PAH (Polycyclic aromatic hydrocarbon) sản sinh từ những đám lửa âm ỉ cháy suốt trong ba tháng, gây ra chứng bệnh suy nhược cho các nhân viên cứu hộ và công nhân tái thiết,[60][61] chẳng hạn như Mark Marci thuộc Sở Cảnh sát New York (NYPD) chết vào ngày 3 tháng 9 năm 2007 do bệnh ung thư phổi di căn khắp thân thể.[62] Cũng có tác hại đến sức khỏe một số cư dân, sinh viên học sinh và nhân viên văn phòng ở khu Manhattan Hạ và Phố Tàu kế cận.[63]Một số lập luận khoa học cho rằng việc phát sinh các độc chất và các chất ô nhiễm trong không khí chung quanh toà tháp đôi sau khi sụp đổ có thể tạo ra ảnh hưởng tiêu cực trên sự phát triển bào thai. Lo sợ về hiểm hoạ tiềm ẩn này, một trung tâm sức khoẻ môi trường trẻ em danh tiếng tiến hành phân tích những trẻ em có mẹ mang thai trong thời gian xảy ra vụ tấn công và sinh sống hoặc làm việc gần tòa tháp đôi.[64]
Tuy nhiên ông Rudolph Giuliani, Thị trưởng New York, trấn an rằng mức độ ô nhiễm không đáng lo ngại. Bộ trưởng Môi trường Mỹ Christie Whiteman thông báo, Cơ quan Bảo vệ Môi trường (EPA) đã cử nhân viên đo kiểm tra không khí ở New York. Kết quả cho thấy nồng độ các chất độc hại, kể cả bột chì (được dùng để pha những hỗn hợp màu và chất dẻo trong quá trình xây dựng) và lượng dioxin, đều chưa vượt quá mức cho phép.
Sự sụp đổ của WTC
Có nhiều ý kiến chung quanh sự sụp đổ của toà tháp đôi, những cuộc tranh luận sôi nổi bàn về nguyên nhân của sự sụp đổ thu hút nhiều kỹ sư về cấu trúc, kiến trúc sư và các cơ quan hữu quan thuộc chính phủ liên bang. Thiết kế của toà tháp đôi chứa đựng nhiều phát kiến mới khác với các tòa nhà chọc trời được xây dựng trước đó. Mặc dù lực va chạm khi máy bay phản lực đâm vào và các đám cháy bùng phát sau đó là chưa từng xảy ra trong lịch sử thảm hoạ ngành xây dựng, một số kỹ sư tin quyết rằng những toà nhà chọc trời được xây dựng theo thiết kế truyền thống (như Empire State Building ở thành phố New York và toà tháp đôi Petronas của Malaysia) sẽ chịu đựng tốt hơn trong một tình huống như thế, có lẽ vẫn có thể tồn tại. Nếu lập luận trên là đúng, thì các toà nhà chọc trời khác có cùng một kiểu thiết kế với toà tháp đôi WTC (như Tháp Sears và Trung tâm John Hancock ở Chicago) đang bị nguy cơ sụp đổ hoàn toàn tự nhiên hoặc vì một vài đám cháy nho nhỏ như Trung tâm thương mại thế giới số 7 cao 186 mét (610 feet) sụp đổ vào 5 giờ 20 chiều ngày 11 tháng 9 năm 2001 trong không đầy 7 giây và được người dẫn chương trình của kênh CBS Dan Rather nhận xét trong chương trình truyền hình trực tiếp là lần thứ 3 ngày hôm nay, các vụ sụp đổ này (bao gồm 3 vụ ngày hôm đó, WTC1 và WTC2 vào buổi sáng và WTC7 vào buổi chiều) trông rất giống những vụ nổ có kiểm soát được thấy nhiều trên truyền hình khi người ta kích nổ những khối thuốc nổ được đặt chính xác từ trước để làm sập chúng.Một cuộc điều tra cấp liên bang về an toàn phòng cháy và kỹ thuật xây dựng được tiến hành bởi Học viện Định chuẩn và Kỹ thuật Quốc gia thuộc Bộ Thương mại Hoa Kỳ, hoàn tất ngày 6 tháng 4 năm 2005, thanh tra về công trình xây dựng, vật liệu và các điều kiện kỹ thuật đã góp phần gây ra thảm hoạ WTC. Cuộc thanh tra được tiến hành nhằm phục vụ các mục tiêu sau:
- Cải thiện phương pháp thiết kế, xây dựng, bảo dưỡng và sử dụng các toà nhà.
- Cải thiện dụng cụ và phương pháp hướng dẫn dành cho các viên chức thuộc các ngành chức năng về an toàn và công nghiệp.
- Chỉnh sửa và xây dựng bộ luật, định chuẩn và thực hành phòng cháy chữa cháy.
- Cải thiện An toàn công cộng.
Cuộc chiến chống Khủng bố
Nhiều người Mỹ cho rằng vụ tấn công khủng bố 11/9 "đã vĩnh viễn làm thay đổi thế giới": nước Mỹ đang bị đặt trong nguy cơ bị tấn công khủng bố mà trước đây đất nước này chưa từng bị. Hoa Kỳ tuyên chiến chống khủng bố với mục tiêu đem Osama bin Laden ra trước công lý và ngăn chặn sự xuất hiện của những mạng lưới khủng bố khác. Các mục tiêu này sẽ được thực hiện bằng những phương tiện như cấm vận kinh tế và quân sự đối với các quốc gia được xem là dung dưỡng thành phần khủng bố, cùng lúc gia tăng các biện pháp giám sát toàn cầu và chia sẻ thông tin tình báo. Liên minh quân sự do Hoa Kỳ dẫn đầu tiến hành tấn công Taliban tại Afghanistan. Cùng với Hoa Kỳ, các quốc gia khác đang phải đối phó với các hoạt động khủng bố như Philippines và Indonesia cũng gia tăng sự chuẩn bị về mặt quân sự.[66][67] Tổng thống Bush cũng nhận được sự ủng hộ lớn của nhiều quốc gia trên thế giới, kể cả Nga (cũng bị khủng bố bởi các nhóm Hồi giáo cực đoan) và Trung Quốc, trong việc hợp tác chống khủng bố toàn cầu.Nhiều nước khác, trong đó có Anh, Đức, Pháp, Trung Quốc, Nga, Indonesia, Pakistan, Jordan, Mauritius, Uganda và Zimbabwe thông qua luật "chống khủng bố" và cho đóng băng các tài khoản ngân hàng của các doanh nghiệp hoặc cá nhân bị tình nghi có liên quan đến al-Qaeda. Các cơ quan tình báo và thi hành pháp luật tại một số quốc gia như Ý, Malaysia, Indonesia và Philippines bắt giữ nhiều nghi can khủng bố với mục đích đập tan những nhóm vũ trang trên toàn thế giới. Chiến dịch này dấy lên nhiều tranh cãi khi những người chỉ trích như Ủy ban Bill of Rights Defense cho rằng những hạn chế truyền thống trên các hoạt động theo dõi của liên bang nay đã bị bãi bỏ bởi Đạo luật PATRIOT; các tổ chức quyền tự do công dân như American Civil Liberties Union (ACLU) và Liberty cho rằng một số quyền con người đang bị nguy cơ hủy bỏ. Hoa Kỳ cho thiết lập một trại giam tại vịnh Guantanamo, Cuba để cầm giữ những "binh sĩ thù địch bất hợp pháp". Tính hợp pháp của các trại giam này hiện đang bị tra vấn bởi một số quốc gia thành viên của Liên minh Âu châu, Tổ chức các quốc gia châu Mỹ và Tổ chức Ân xá Quốc tế.
Bên trong nước Mỹ, Tổng thống Bush tiến hành một đợt tái cấu trúc cơ cấu chính phủ lớn nhất trong lịch sử đương đại của đất nước này với quyết định thành lập Bộ An ninh Nội địa. Quốc hội thông qua đạo luật USA PATRIOT (Uniting and Strengthening America by Providing Appropriate Tools Required to Intercept and Obstruct Terrorism – Thống nhất và Củng cố nước Mỹ bằng cách Cung ứng những Phương tiện Thích ứng Cần có để Ngăn chặn Khủng bố), giải thích rằng đạo luật này sẽ giúp dò tìm và truy tố những phần tử khủng bố và tội phạm khác trong tương lại.
Các nhóm bảo vệ quyền tự do của công dân phê phán đạo luật PATRIOT, nói rằng đạo luật này cho phép các cơ quan thi hành pháp luật xâm phạm sự riêng tư của công dân và hạn chế quyền giám sát tư pháp trên các cơ quan thi hành pháp luật và trên công tác thu thập tin tình báo. Chính phủ Bush viện dẫn biến cố 11/9 như là lý do để tiến hành một chiến dịch bí mật của Cơ quan An ninh Quốc gia nhằm "theo dõi các liên lạc bằng điện thoại và thư điện tử giữa Hoa Kỳ và nước ngoài mà không cần sự cho phép của toà án".
Biến cố 9/11 đã đem lại nhiều ủng hộ trong dư luận người Mỹ cho chính sách cứng rắn của Tổng thống Bush. Sau ngày vụ khủng bố xảy ra, sự ủng hộ của dân chúng Mỹ và uy tín của Tổng thống Bush, đang từ ở mức trung bình trên 50% dân chúng Mỹ ủng hộ, bỗng vọt lên ở mức cao trên 90%, đây là mức uy tín cao nhất trong lịch sử của dân chúng Mỹ dành cho một vị tổng thống. Tuy nhiên, chỉ số uy tín này đã giảm đáng kể, khi thu-chi ngân sách bị thâm hụt nghiêm trọng và quân đội Mỹ sa lầy và thất bại trong việc bình định tại Iraq, đến năm 2005, mức ủng hộ của dân chúng dành cho TT Bush có lúc xuống còn 34%. Chính sách cứng rắn của Mỹ, mặc dù vì lợi ích chung là chống khủng bố nhưng đã tạo hình ảnh xấu và đã gây mâu thuẫn với đồng minh. Lần đầu tiên các đồng minh then chốt của Mỹ trong khối NATO mâu thuẫn với Mỹ rất gay gắt và tìm cách tạo 1 thế đối trọng khác trong khu vực. Hoa Kỳ nhận thức rõ điều này và đã bắt đầu có những điều chỉnh trong các chính sách ngoại giao.
Tái thiết
Ngay sau khi xảy ra vụ tấn công, Thị trưởng New York, Rudy Giuliani, tuyên bố, "Chúng ta sẽ xây dựng lại. Từ biến cố này chúng ta sẽ trở nên mạnh mẽ hơn bao giờ hết, mạnh mẽ hơn về chính trị, mạnh mẽ hơn về kinh tế. Đường chân trời sẽ được hàn gắn lại "[68] Đến tháng 5 năm 2002 đống đổ nát được dọn sạch,[69] tuy vẫn có những lời chỉ trích rằng nỗ lực không tương xứng với ngân quỹ khổng lồ dành cho công tác này.[70][71]Khu vực bị hư hại của Lầu Năm Góc đã được tái thiết chỉ một năm sau khi bị tấn công.[72]
Ngay tại địa điểm của những tòa nhà đổ nát, người ta xây dựng những kiến trúc mới. Tại địa điểm trước là tòa nhà số 7 của WTC nay là tòa cao ốc văn phòng hoàn tất năm 2006. One World Trade Center đang được xây dựng sẽ vươn dến độ cao 1 776 ft (541 m) tương ứng với năm nước Mỹ giành độc lập (năm 1776), dự trù hoàn tất vào năm 2013 để trở thành tòa nhà cao nhất Tây Bán Cầu, và là cao ốc cao thứ ba trên thế giới.[73][74]
Tưởng niệm
Trong những ngày sau khi xảy ra vụ tấn công, nhiều buổi tưởng niệm và canh thức được tổ chức trên khắp thế giới.[75][76][77] Còn ngay tại Bình địa, ảnh của các nạn nhân xuất hiện khắp mọi chỗ. Một người có mặt ở đó thuật lại rằng "không có cách nào tránh khỏi những khuôn mặt của các nạn nhân vô tội. Ảnh của họ hiện diện khắp mọi nơi, tại trạm điện thoại, đính vào trụ đèn đường, trên tường trạm xe điện ngầm. Mọi thứ ở đây khiến tôi liên tưởng đến một đám tang vĩ đại, mọi người buồn bã và lặng lẽ, nhưng rất thân ái với nhau. Trước đó, New York cho tôi cảm giác lạnh lẽo, nhưng bây giờ mọi người tìm đến giúp đỡ lẫn nhau."[78]Tại Ngũ Giác Đài, khu tưởng niệm được khánh thành ngày 11 tháng 9 năm 2008,[79] với một công viên thoáng đãng có 184 chiếc ghế dài hướng về Ngũ Giác Đài.[80] Sau khi được sửa chữa trong năm 2001-2002, người ta xây dựng một nhà nguyện và một tượng đài ngay tại địa điểm chuyến bay 77 đâm xuống tòa nhà.[81]
Thiết kế cho Đài tưởng niệm Quốc gia Chuyến bay 93 được gọi là Crescent of Embrace gây ra tranh cãi vì thiết kế một hình trăng lưỡi liềm (crescent) lớn màu đỏ hướng đến Mecca. Do áp lực của công chúng, người ta cho biết đài tưởng niệm này sẽ được thiết kế lại để tránh sự nhầm lẫn với biểu trưng của Hồi giáo.
Bản thiết kế của Michael Arad cho đài tưởng niệm Reflecting Absence được tuyển chọn vào tháng 8 năm 2006 qua một cuộc thi, với hai hồ phản chiếu đặt tại chân của hai tòa tháp, bao quanh bởi tên của các nạn nhân ghi chìm dưới đất.[82]
Bên cạnh việc xây dựng các đài tưởng niệm, một số người thân và bạn bè của những nạn nhân vụ tấn công ngày 11 tháng 9 thành lập quỹ tưởng niệm, quỹ học bổng và các chương trình từ thiện nhằm tôn vinh những người thân yêu đã mất.
Hiện trường, nơi trước kia tọa lạc Tháp đôi tại New York nay được gọi là Ground Zero (Khu vực số không), nơi đây hiện đang xây cất tòa nhà One World Trade Center cao 541 m và 3 tòa nhà chọc trời được xây trên một hình bán nguyệt xung quanh khu tưởng niệm các nạn nhân trong vụ khủng bố, dự định hoàn thành trong năm 2012.
Kịch nghệ và Văn chương
Vở kịch "The Guys" của Anne Nelson hướng vào hồi ức và cảm xúc của một người sống sót, một sĩ quan thuộc lực lượng cứu hoả, một nhà văn đã tìm đến để giúp anh viết những bài điếu văn dành cho các đồng đội đã thiệt mạng trong thảm hoạ. Vở kịch được công diễn lần đầu vào ngày 4 tháng 12 năm 2001.Extremely Loud and Incredibly Close, tiểu thuyết của Jonathan Safran Foer xuất bản năm 2005, là một trong những tác phẩm đầu tiên viết về vụ khủng bố. Cuốn sách được dẫn dắt theo lời kể của một cậu bé chín tuổi, Oskar Schell, cha của cậu đang ở trên tầng cao của Trung tâm Thương mại Thế giới khi hai chiếc máy bay phản lực đâm vào toà tháp đôi. Để kìm chế nỗi buồn khôn nguôi và đè nén những tưởng tượng kinh hoàng về thảm họa mà cha cậu phải gánh chịu, Oskar dấn mình vào một cuộc phiêu lưu trong tâm trí để truy tìm ra điều mà cậu hy vọng là sự bí mật của cha cậu. Trong cuộc phiêu lưu của trí tưởng tượng này Oskar vượt qua những nỗi sợ hãi vô căn cứ và an ủi nhiều linh hồn đau thương.
Tác phẩm điện ảnh của Oliver Stone, Trung tâm Thương mại Thế giới, là câu chuyện kể về hai nhân viên thuộc Cơ quan quản lý cảng biển, John McLoughlin (Nicolas Cage) và Will Jimeno (Michael Pena), là những người tham gia vào công tác cứu hộ sau cùng còn sống sót và được toán cứu hộ đem ra khỏi khu bình địa (ground zero). Cuốn phim được trình bày như là một câu chuyện cảm động về những cư dân bình thường của thành phố New York tìm cách giúp đỡ lẫn nhau ngay giữa một cơn thảm họa khủng khiếp. Cuốn phim được bắt đầu trình chiếu trên toàn quốc (Hoa Kỳ) ngày 9 tháng 8 năm 2006.
Hình ảnh
Vụ khủng bố 11/9 chụp từ trực thăng của cảnh sát New York, ảnh do Học viện Định chuẩn và Kỹ thuật Quốc gia của Mỹ công bố tháng 2 năm 2010, áp dụng luật tự do thông tin theo yêu cầu của ABCNews.[83][84].Xem thêm
- Bối cảnh Lịch sử Sự kiện 11 tháng 9
- Chuyến bay số 93 của United Airlines
- Todd Beamer
- Khủng bố
- Tháp Tự do
- Ủy ban Quốc gia về vụ Khủng bố tại Hoa Kỳ (Ủy ban 11/9)
- Thomas Kean, chủ tịch của Ủy ban 11/9
- Đài kỷ niệm Trung tâm Thương mại Quốc tế
- Trung tâm Thương mại Quốc tế số 7
- Bản báo cáo của Ủy ban 11/9
- Các giả thuyết về âm mưu 11 tháng 9
- Phong trào đòi sự thật về vụ 11 tháng 9
Chú thích
- ^ Lỗi chú thích: Thẻ
<ref>
sai; không có nội dung trong thẻ ref có têncbc-2004
- ^ “Security Council Condemns, 'In Strongest Terms' Terrorist Attacks on the United States”. United Nations. 12 tháng 9 năm 2001. Truy cập ngày 11 tháng 9 năm 2006. ‘The Security Council today, following what it called yesterday’s "horrifying terrorist attacks" in New York, Washington, D.C., and Pennsylvania, unequivocally condemned those acts, and expressed its deepest sympathy and condolences to the victims and their families and to the people and Government of the United States.’
- ^ “Bin Laden claims responsibility for 9/11”. CBC News. 29 tháng 10 năm 2004. Truy cập ngày 7 tháng 9 năm 2006.
- ^ War Casualties Pass 9/11 Death Toll - CBS News
- ^ September 11 by Numbers
- ^ Vào năm 2001, Osama bin Laden hai lần tuyên bố rằng:
- "I stress that I have not carried out this act, which appears to have been carried out by individuals with their own motivation... I have already said that I am not involved in the 11 September attacks in the United States... I had no knowledge of these attacks..."[cần dẫn nguồn]
- ^ Trong đoạn băng Video năm 2004, bin Laden nói rằng:
- While I was looking at these destroyed towers in Lebanon, it sparked in my mind that the tyrant should be punished with the same and that we should destroy towers in America, so that it tastes what we taste and would be deterred from killing our children and women. – Osama bin Laden (tất cả bản dịch tiếng Anh)
- ^ Neilan, Terence (11 tháng 9 năm 2001). “2 Planes Crash Into World Trade Center”. The New York Times. Truy cập ngày 23 tháng 4 năm 2008.
- ^ “The Attack Looms”. 9/11 Commission Report. National Commission on Terrorist Attacks Upon the United States. 2004. Truy cập ngày 2 tháng 7 năm 2008.
- ^ “Flight 93 Hijacker: 'We Have a Bomb on Board'”. Fox News. 13 tháng 4 năm 2006. Truy cập ngày 23 tháng 4 năm 2008.
- ^ “Hijacked Planes Used in Coordinated Attacks Upon New York, Washington”. Fox News. 11 tháng 9 năm 2001. Truy cập ngày 23 tháng 4 năm 2008.
- ^ McKinnon, Jim. “The phone line from Flight 93 was still open when a GTE operator heard Todd Beamer say: 'Are you guys ready? Let's roll'”. Pittsburgh Post-Gazette. Truy cập ngày 18 tháng 5 năm 2008. Đã bỏ qua văn bản “date-2001-09-16 ” (trợ giúp)
- ^ “Relatives wait for news as rescuers dig”. CNN. 13 tháng 9 năm 2001. Truy cập ngày 20 tháng 5 năm 2008.
- ^ Averill, Jason D., et al. (2005). “Occupant Behavior, Egress, and Emergency Communications” (PDF). Final Reports of the Federal Building and Fire Investigation of the World Trade Center Disaster. National Institute of Standards and Technology (NIST). Truy cập ngày 20 tháng 5 năm 2008.
- ^ Dwyer, Jim and Kevin Flynn (2005). 102 Minutes. Times Books. tr. p. 266.
- ^ Dwyer, Jim, et al. (26 tháng 5 năm 2002). “Last Words at the Trade Center; Fighting to Live as the Towers Die”. The New York Times. Truy cập ngày 19 tháng 5 năm 2008.
- ^ a ă Lipton, Eric (22 tháng 7 năm 2004). “Study Maps the Location of Deaths in the Twin Towers”. The New York Times. Truy cập ngày 22 tháng 4 năm 2008.
- ^ “Heroism and Honor”. National Commission on Terrorist Attacks upon the United States. U.S. Congress. 21 tháng 8 năm 2004. Truy cập ngày 20 tháng 5 năm 2008.
- ^ Cauchon, Dennis and Martha Moore (2 tháng 9 năm 2002). “Desperation forced a horrific decision”. USATODAY. Truy cập ngày 9 tháng 9 năm 2006.
- ^ “Poor Info Hindered 9/11 Rescue”. CBS News. 18 tháng 5 năm 2004. Truy cập ngày 11 tháng 9 năm 2006.
- ^ Snyder, David (19 tháng 4 năm 2002). “Families Hear Flight 93's Final Moments”. The Washington Post. Truy cập ngày 23 tháng 4 năm 2008.
- ^ “Black Box Recordings”. CNN.com. 12 tháng 4 năm 2006. Truy cập ngày 30 tháng 3 năm 2007.
- ^ Fouda, Yosri and Nick Fielding (2004). Masterminds of Terror. Arcade Publishing. tr. pp. 158–159.
- ^ a ă “24 Remain Missing”. September 11 Victims. 12 tháng 8 năm 2014. Truy cập ngày 7 tháng 9 năm 2006.
- ^ “2008 9/11 Death Toll”. Associated Press. 10 tháng 7 năm 2014. Truy cập ngày 11 tháng 9 năm 2006.
- ^ “American Airlines Flight 11”. CNN. Truy cập ngày 7 tháng 9 năm 2006.
- ^ “United Airlines Flight 175”. CNN. Truy cập ngày 7 tháng 9 năm 2006.
- ^ “American Airlines Flight 77”. CNN. Truy cập ngày 7 tháng 9 năm 2006.
- ^ “American Airlines Flight 77”. CNN. Truy cập ngày 7 tháng 9 năm 2006.
- ^ Roddy, Dennis B. (28 tháng 10 năm 2014). “Flight 93: Forty lives, one destiny”. Pittsburgh Post-Gazette. Truy cập ngày 7 tháng 9 năm 2006.
- ^ (AP, ngày 23 tháng 1 năm 2005).
- ^ “September 11: Chronology of terror”. CNN. Truy cập ngày 7 tháng 9 năm 2006.
- ^ “First video of Pentagon 9/11 attack released”. CNN. 16 tháng 5 năm 2006. Truy cập ngày 10 tháng 9 năm 2006.
- ^ Stone, Andrea (20 tháng 8 năm 2002). “Military's aid and comfort ease 9/11 survivors' burden”. USA Today. Truy cập ngày 20 tháng 5 năm 2008.
- ^ Walker, Carolee (11 tháng 9 năm 2006). “Five-Year 9/11 Remembrance Honors Victims from 90 Countries”. United States Department of State. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 1 năm 2008. Truy cập ngày 18 tháng 5 năm 2008.
- ^ DePalma, Anthony (24 tháng 5 năm 2007). “For the First Time, New York Links a Death to 9/11 Dust”. The New York Times.
- ^ a ă “World Trade Center Building Performance Study”. FEMA. May năm 2002. Truy cập ngày 12 tháng 7 năm 2007.
- ^ Bloomfield, Larry (1 tháng 10 năm 2001). “New York broadcasters rebuild”. Broadcast Engineering. Truy cập ngày 18 tháng 5 năm 2008.
- ^ “The Pentagon Building Performance Report” (PDF). American Society of Civil Engineers (ASCE). January năm 2003. Truy cập ngày 20 tháng 5 năm 2008.
- ^ Watson, Dale L. (6 tháng 2 năm 2002). “The Terrorist Threat Confronting the United States”. Federal Bureau of Investigation. United States Department of Justice. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 4 năm 2002. Truy cập ngày 20 tháng 5 năm 2008.
- ^ “The FBI releases 19 photographs of individuals believed to be the hijackers of the four airliners that crashed on September 11, 01”. Federal Bureau of Investigation. United States Department of Justice. 27 tháng 9 năm 2001. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 10 năm 2001. Truy cập ngày 20 tháng 5 năm 2008.
- ^ Johnston, David (9 tháng 9 năm 2003). “TWO YEARS LATER: 9/11 TACTICS; Official Says Qaeda Recruited Saudi Hijackers to Strain Ties”. The New York Times. Truy cập ngày 19 tháng 5 năm 2008.
- ^ Clayton, Mark (30 tháng 10 năm 2003). “Reading into the mind of a terrorist”. Christian Science Monitor. Truy cập ngày 6 tháng 7 năm 2007.
- ^ “9/11 panel: Al Qaeda planned to hijack 10 planes”. CNN. 17 tháng 6 năm 2004. Truy cập ngày 19 tháng 5 năm 2008.
- ^ a ă “Saga of Dr. Zawahri Sheds Light On the Roots of al Qaeda Terror”. The Wall Street Journal. 2 tháng 7 năm 2002. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 12 năm 2005. Truy cập ngày 20 tháng 5 năm 2008.
- ^ “Tenth Public Hearing, Testimony of Louis Freeh”. 9/11 Commission. 13 tháng 4 năm 2004. Truy cập ngày 20 tháng 5 năm 2008.
- ^ “Jihad Against Jews and Crusaders: World Islamic Front Statement”. 23 tháng 2 năm 1998. Truy cập ngày 8 tháng 9 năm 2006.
- ^ “Attacks draw mixed response in Mideast”. CNN.com. 12 tháng 9 năm 2001. Truy cập ngày 30 tháng 3 năm 2007.
- ^ Saleh, Heba (11 tháng 9 năm 2001). “Mixed response from Arab World”. BBC News. Truy cập ngày 4 tháng 5 năm 2008.
- ^ “U.S. President Bush's speech to United Nations”. CNN. 10 tháng 11 năm 2001. Truy cập ngày 14 tháng 4 năm 2008.
- ^ Khan, Aamer Ahmed (4 tháng 5 năm 2005). “Pakistan and the 'key al-Qaeda' man”. BBC. Truy cập ngày 8 tháng 9 năm 2006.
- ^ Pooley, Eric. “Mayor of the World”. Time 2001 Person of the Year. Time. Truy cập ngày 8 tháng 9 năm 2006.
- ^ Glynn, Simone A. (7 tháng 5 năm 2003). “Effect of a National Disaster on Blood Supply and Safety: The September 11 Experience”. Journal of the American Medical Association (American Medical Association) 289 (17): 2246. doi:10.1001/jama.289.17.2246. PMID 12734136. Truy cập ngày 20 tháng 5 năm 2008.
- ^ “Red Cross Woes”. PBS. 19 tháng 12 năm 2001. Truy cập ngày 1 tháng 5 năm 2008.
- ^ a ă “Hate crime reports up in wake of terrorist attacks”. CNN. 17 tháng 9 năm 2001. Truy cập ngày 8 tháng 9 năm 2006.
- ^ “U.S. Officials Should Have Been Better Prepared For Hate Crime Wave”. Human Rights Watch. 14 tháng 11 năm 2002. Truy cập ngày 11 tháng 9 năm 2008.
- ^ Barnhart, Bill (17 tháng 9 năm 2001). “Markets reopen, plunge”. Chicago Tribune. Truy cập ngày 3 tháng 5 năm 2008.
- ^ Bob, Fernandez (22 tháng 9 năm 2001). “U.S. Markets Decline Again”. KRTBN Knight Ridder Tribune Business News (The Philadelphia Inquirer).
- ^ Hensell (14 tháng 12 năm 2001). “Tough Times Loom For Manhattan Commercial Market”. Realty Times. Truy cập ngày 3 tháng 5 năm 2008. Đã bỏ qua tham số không rõ
|fisrt=
(trợ giúp) - ^ “New York: 9/11 toxins caused death”. CNN.com. 24 tháng 5 năm 2007. Truy cập ngày 10 tháng 7 năm 2007.
- ^ DePalma, Anthony (13 tháng 5 năm 2006). “Tracing Lung Ailments That Rose With 9/11 Dust”. The New York Times. Truy cập ngày 3 tháng 5 năm 2008.
- ^ Shapiro, Rich (10 tháng 9 năm 2007). “Cancer ends his fitness life after toil at the Pit”. New York Daily News. Truy cập ngày 3 tháng 5 năm 2008.
- ^ “Updated Ground Zero Report Examines Failure of Government to Protect Citizens”. Sierra Club. 2006. Truy cập ngày 21 tháng 5 năm 2008.
- ^ “CCCEH Study of the Effects of 9/11 on Pregnant Women and Newborns” (PDF). World Trade Center Pregnancy Study. Columbia University. 2006. Truy cập ngày 14 tháng 4 năm 2008.
- ^ “Translating WTC Recommendations Into Model Building Codes”. National Institute of Standards and Technology. 25 tháng 10 năm 2007. Truy cập ngày 24 tháng 1 năm 2008.
- ^ C. S. Kuppuswamy (2005-11-02). "Terrorism in Indonesia: Role of the Religious Organisation" (HTML). South Asia Analysis Group. Truy cập ngày 2007-07-06.
- ^ Banlaoi, Rommel (2006). “Radical Muslim Terrorism in the Philippines”. Trong Tan, Andrew. Handbook on Terrorism and Insurgency in Southeast Asia. London: Edward Elgar Publishing.
- ^ Taylor, Tess (26 tháng 9 năm 2001). “Rebuilding in New York” (68). Architecture Week. Truy cập ngày 21 tháng 5 năm 2008.
- ^ “Silent Tribute Marks End of Ground Zero Search”. Fox News. 30 tháng 5 năm 2002. Truy cập ngày 3 tháng 5 năm 2008.
- ^ Lubell, Sam; Charles Linn (5 tháng 12 năm 2005). “Power Struggle Heats Up While Development Moves Slowly at Ground Zero”. Architectural Record. Truy cập ngày 8 tháng 9 năm 2006.
- ^ Buettner, Russ. “Fat cats milked Ground Zero”. Daily News. Truy cập ngày 8 tháng 9 năm 2006.
- ^ Oglesby, Christy (11 tháng 9 năm 2002). “Phoenix rises: Pentagon honors 'hard-hat patriots'”. CNN. Truy cập ngày 13 tháng 6 năm 2008.
- ^ “Skyscraperpage.com, tallest buildings in NY”. Skyscraperpage.com. Truy cập ngày 23 tháng 6 năm 2012.
- ^ “Tallest buildings under construction in the world”. Skyscraperpage.com. Truy cập ngày 23 tháng 6 năm 2012.
- ^ “Honoring the fallen, From New York to Texas, Americans pay respect to the victims of terrorism”. The Dallas Morning News. 15 tháng 9 năm 2001.
- ^ Ahrens, Frank (15 tháng 9 năm 2001). “Sorrow's Legions; Washingtonians Gather With Candles, Prayers And a Shared Grief”. The Washington Post.
- ^ “Bush Thanks Canadians for Helping After 9/11”. Fox News. 1 tháng 12 năm 2004. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2007.
- ^ Sigmund, Pete (26 tháng 9 năm 2001). “Crews Assist Rescuers in Massive WTC Search”. Construction Equipment Guide. Truy cập ngày 24 tháng 1 năm 2008.
- ^ Wilgoren, Debbie; Nick Miroff, Robin Shulman (11 tháng 9 năm 2008). “"Pentagon Memorial Dedicated on 7th Anniversary of Attacks"”. The Washington Post (The Washington Post Company). Truy cập ngày 11 tháng 9 năm 2008.
- ^ Dwyer, Timothy (26 tháng 5 năm 2007). “Pentagon Memorial Progress Is Step Forward for Families”. The Washington Post. Truy cập ngày 21 tháng 5 năm 2008.
- ^ “DefenseLINK News Photos - Pentagon's America's Heroes Memorial”. Department of Defense. Truy cập ngày 24 tháng 7 năm 2007.
- ^ “WTC Memorial Construction Begins”. CBS News. 6 tháng 3 năm 2006. Truy cập ngày 22 tháng 7 năm 2007.
- ^ Vụ khủng bố 11/9 nhìn từ trên cao Minh Long, Vnexpress.net 9/2/2010
- ^ World Trade Center 9/11 Photos: A Fresh But Painful Look at Sept. 11 Tragedy
Tham khảo
- Wayne Barrett and Dan Collins, Grand Illusion: The Untold Story of Rudy Giuliani and 9/11. New York, Harper Collins, (2006). ISBN 0-06-053660-8
- National Commission on Terrorist Attacks, The 9/11 Commission Report: Final Report of the National Commission on Terrorist Attacks Upon the United States, W.W. Norton and Company, (2004), ISBN 0-393-32671-3
Phương tiện
-
Bài diễn văn của TT George W. Bush về cuộc khủng bố Tổng thống George W. Bush diễn thuyết với nước Mỹ về những cuộc khủng bố vào ngày 12 tháng 9 năm 2001. - Trục trặc khi nghe? Xem hướng dẫn.
Liên kết ngoài
Wikimedia Commons có thêm thể loại hình ảnh và phương tiện truyền tải về Sự kiện 11 tháng 9 |
- Mỹ công bố đoạn băng vụ tấn công ngày 11-9 Tường Vy, báo Tuổi Trẻ, 17/05/2006 10:39 (GMT + 7)
- Theo dòng sự kiện tại Vnexpress.
- Biến cố 9/11: 5 năm sau nhìn lại, 13, Tháng Chín 2006
- World Trade Center Attacks trên YouTube
- September 11 2001 Video trên YouTube
Thể loại:
Lời nguyền của các pharaong nói tới niềm tin rằng bất kỳ ai xâm phạm
lăng mộ của người Ai cập cổ đại, nhất là lăng mộ của các vụ vua Ai cập,
các Pharaon, thì sẽ chịu một lời nguyền. Lời nguyền này, không loại trừ
ai, sẽ đem đến bất hạnh cho người xâm phạm, có thể là rủi ro, ốm hoặc
chết.
Từ giữa thế kỷ 20, nhiều học giả và tài liệu cho rằng lời nguyền là có thật trên khía cạnh là ai xâm phạm lăng mộ sẽ bị các loại vi khuẩn, hóa chất độc hại tấn công.
Lời nguyền Tutankhamun hay lời nguyền xác ướp bắt đầu lan truyền sau khi một loạt sự kiện khủng khiếp xảy ra sau khi hầm mộ của vua Tutankhamun được khám phá. Truyền thuyết nói rằng bất kỳ ai dám mở hầm mộ sẽ phải hứng chịu sự tức giận tột bực của xác ướp.
Một vài tháng sau khi hầm mộ được mở, thảm kịch bắt đầu giáng xuống. Huân tước Carnarvon, 57 tuổi, người tài trợ cho cuộc khai quật hầm mộ đã ốm nặng và mau chóng phải tới Cairo. Ông đã qua đời vài ngày sau đó. Nguyên nhân chính xác của cái chết vẫn chưa rõ nhưng dường như bị nhiễm trùng do côn trùng cắn. Truyền thuyết cho biết, khi huân tước chết, toàn Cairo mất điện. Sau này, con trai huân tước - lúc đó đang ở Anh nói, con chó yêu của huân tước đã tru lên và cũng chết đột ngột.
Lạ lùng hơn nữa, khi xác ướp của Tutankhamun được mở ra năm 1925, người ta tìm thấy một vết thương trên má trái của xác ướp, đúng vị trí mà côn trùng cắn lên má Carnarvon, vết cắn khiến vị huân tước này thiệt mạng.
Năm 1929, 11 người liên quan tới việc khai phá hầm mộ chết sớm vì những nguyên nhân quái dị. Trong thập kỷ đầu tiên sau khi lăng mộ được khai quật, 26 người trong đoàn đã chết vì những nguyên nhân bí mật.
Năm 1986, nhân dịp kỷ niệm 25 năm thành lập cùng việc hoạt động mở rộng phạm vi nên WWF quyết định đổi tên thành World Wide Fund For Nature; tên cũ tuy nhiên vẫn giữ nguyên ở Bắc Mỹ gồm Hoa Kỳ và Canada.
Biểu tượng là hình phác họa theo mẫu một con gấu trúc lớn tên Chi Chi đang sống tại Sở thú Luân Đôn lúc thành lập WWF. Năm 2002, WWF đã thắng trong một cuộc tranh kiện, làm Công ty Đấu Vật Thế giới - World Wrestling Federation phải đổi tên là World Wrestling Entertainment (WWE) [3].
WWF mong muốn giảm bớt sự tàn phá thiên nhiên toàn cầu để xây dựng một tương lai mà con người sống hòa hợp cùng thiên nhiên.
Từ năm 1960, WWF đã tài trợ cho khoảng 12.000 dự án trong 153 quốc gia và 1.500.000 cây số vuông đã có thể chuyển thể thành vườn quốc gia.
Trên thế giới hiện có khoảng chừng 4000 nhân viên trên 100 quốc gia hoạt động trong khoảng 300 khu vực được bảo hộ. Trên 5 triệu người trên thế giới ủng hộ, nhờ đó năm 2006 trên 374 triệu Euro đã được quyên góp để sử dụng cho các mục đích bảo vệ thiên nhiên, trong đó riêng năm 2006 là 2000 dự án bảo vệ thiên nhiên và môi trường [2].
Video yêu thích
http://www.youtube.com/user/hoangkimvietnam
Trở về trang chính
hoangkim vietnam, hoangkim, hoangkimvietnam, Hoàng Kim, Ngọc Phương Nam, Chào ngày mới Thung dung, Dạy và học, Cây Lương thực, Tin Nông nghiệp Việt Nam, Food Crops, Cassava in Vietnam, VietnamAfricaCassavaRice, Khát khao xanh, Dayvahoc, Học mỗi ngày, Danh nhân Việt , Food Crops News, Điểm chính, CNM365, Kim LinkedIn, KimTwitter, KimFaceBook Đọc lại và suy ngẫm, Việt Nam tổ quốc tôi, Tình yêu cuộc sống, Thơ cho con
Viên kim cương Hope
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Viên kim cương Hope (tiếng Anh là: Hope Diamond) hay còn gọi là Kim cương xanh của nhà vua, Màu xanh nước Pháp là viên kim cương màu xanh đen (saphir) lớn nhất thế giới[1]. Nó được biết đến với vẻ đẹp lộng lẫy và phi thường của nó với màu xanh huyền bí. Viên kim cương này nặng 45,52 carat (ban đầu nặng đến 115 carat)[2][3]. Điều nổi bật hơn tất cả những viên kim cương khác là bởi lời nguyền gắn liền với nó. Hiện đang được trưng bày tại Bảo tàng Lịch sử tự nhiên Smithsonian tại Thủ đô Washington D.C của Mỹ. Hiện viên kim cương xanh biếc này có giá khoảng 250 triệu USD[4].
Từ khi bị đánh cắp tại một ngôi đền ở Ấn Độ, nó đã trôi dạt qua rất nhiều nơi và bắt đầu lời nguyền của mình. Điều đặc biệt của lời nguyền này là nó mang đến cái chết hoặc sự bất hạnh đến cho người chủ sở hữu nó[3][4][5]. Có rất nhiều lời đồn đại xung quanh viên kim cương này nhưng tựu trung vẫn là những câu chuyện xui xẻo cho những người từng vô tình hoặc cố ý làm chủ nhân của nó. Giới học giả cho rằng nhiều câu chuyện đã được người bán xào nấu hoặc đơm đặt thêm để nâng giá bán.[2]
Người ta kể rằng Tavernier đã móc viên đá quý trên khỏi một trong những con mắt trên tượng thần Sita của đạo Hindu, và do hành động báng bổ thánh thần đó, ngay sau khi dâng và bán nó cho vua Louis XIV, Tavernier đã gặp thảm kịch khi tới Ấn Độ trong một chuyến đi khác, có tin cho rằng ông bị một bầy chó hoang xé xác.[3] nhưng số thông tin khác cho rằng đó chỉ là tin đồn vì Tavernier trở về Pháp và bán viên ngọc cho vua Louis XIV, sau đó, ông về hưu và qua đời một cách yên bình ở Nga.[2]
Vua Louis XIV cũng thoát khỏi vận rủi khi nhận được viên kim cương này, nhưng một trong các hậu duệ của ông không được may mắn như thế. Sự bất hạnh đi cùng viên kim cương này tiếp tục gây họa cho vua Louis XVI và hoàng hậu Marie Antoinette[7]. Sau một thời gian trị vì gây sự phẫn nộ trong nhân dân vì tình hình đất nước đầy bất ổn, cả hai vợ chồng đã bị chặt đầu tại cuộc Cách mạng Pháp năm 1789.
Trong suốt cuộc khủng hoảng chính trị Pháp, rất nhiều đồ trang sức của hoàng gia bị đánh cắp, trong đó có viên kim cương quý này, đồ bị mất gồm những viên ngọc trên vương miện của họ, bao gồm cả viên kim cương Hope này cũng bị trộm mất[4] Vụ việc diễn ra khoảng tháng 9-1792, khi khách sạn Garde-Meuble (tòa nhà cất giữ báu vật) bị đánh cướp. Sau đó trong suốt thời kỳ hỗn loạn sau cách mạng Pháp, cuộc điều tra dẫn đến nhiều ngõ ngách và Cảnh sát bắt rất nhiều tên trộm, nhưng chỉ tìm thấy những món nữ trang ít có giá trị kể cả một vụ trộm lớn 20 năm sau đó.[6]
Sau đó, viên kim cương này được mua bởi Henry Philip Hope chủ một gia đình quý tộc người Anh vào năm 1813 và được gọi là "Kim cương Hope" từ đó[5]. Nhiều bằng chứng khẵng định viên kim cương này chính là viên kim cương của Hoàng gia Pháp. Năm 1858, một nhà kim hoàn người Pháp tên Barbot phát hiện thấy viên kim cương xanh xuất hiện tại nhà Hope. Barbot biết rõ một vật tương đương là viên kim cương xanh của vua Louis XIV ông này đã mở cuộc điều tra và kinh ngạc khi thấy nhà Hope có viên đã này từ năm 1812. Viên kim cương này là tài sản chính thức của gia tộc Hope, đúng 20 năm 2 ngày sau khi viên kim cương của vua Pháp bị đánh cắp và 20 năm chính là thời gian vô hiệu hóa việc truy tìm viên kim cương bị đánh cắp cho nên không ai có thể truy tố gia đình Hope để đòi lại viên kim cương[6].
Barbot khẳng định viên kim cương Hope đang cất giữ chính là của vua Louis XIV nhưng chưa thể chứng minh vì không có một bản sao của viên kim cương xanh (bản sao này là quy định bắt buộc bởi vì các nhà kim hoàn luôn có thói quen làm một bản sao bằng chì, mọi viên đá quý đã qua tay họ chế tác để lưu giữ kích thước). Barbot tiếp tục điều tra, nhưng phải bỏ cuộc vì không tìm thấy bản sao.[6]
Sau này mhưng một người khác là Francois Farges thì lại biết rõ câu chuyện này và lại có trong tay bản sao bằng chì viên kim cương xanh của vua Louis XIV. Ông lục soát kho tư liệu và phát hiện một bản văn cũ nói rằng nó đã được tặng cho Viện bảo tàng vào năm 1850 do một người thợ kim hoàn tại Paris tên là Charles Achard. Bên cạnh bản sao còn có một mảnh giấy ghi dòng chữ: kiểu dáng của một viên kim cương rất đáng lưu ý do mức độ trong sáng của nó, tài sản của ông Hope tại Luân Đôn. Chữ Hope này có 2 "p", nhưng Francois Farges không còn nghi ngờ vì đó chính là sai lầm khi khắc chữ. Điều đó chứng tỏ nhà ngân hàng người Anh Henry Philip Hope là sở hữu chủ viên kim cương xanh của vua Louis XIV. Nhưng phải chứng minh bằng đo đặc viên kim cương của Hope và của triều đình Pháp chính là một.
Farges đến Anvers, kinh đô kim cương tại nước Bỉ, mang theo ảnh chụp của bản sao bằng kỹ thuật số 3 chiều vì ông muốn so sánh nó với viên kim cương của Hope, mà sau khi qua nhiều tay trung gian đã đến thủ đô nước Mỹ, chui vào tủ kính của Viện Smithsonian, một trung tâm nghiên cứu lớn có nhiều viện bảo tàng. Nơi đây dễ dàng cung cấp cho ông hình ảnh 3 chiều của viên kim cương.
Từ đó nhà nghiên cứu chỉ còn so sánh hai bức ảnh. Viên kim cương của Hope trùng khớp viên kim cương xanh, nếu viên kim cương của Hope được mài từ viên kim cương của vua Louis XIV thì mọi mặt của nó trùng khớp dễ dàng với viên kim cương gốc màu xanh. Nói khác đi, khi mài một viên kim cương, người ta sẽ có được hình dáng giống hệt nhưng kích thước nhỏ hơn. Kết quả cho thấy hai viên kim cương trùng khớp nhau hoàn toàn. Ngày nay sau khi đo đạc tỉ mỉ, ông quả quyết chúng giống nhau đến 99,9% nhưng để khẳng định là một thì còn phải chứng minh trước tòa án thành phần hóa học viên kim cương của Hope giống hệt viên kim cương xanh điều mà vào thời vua Louis XIV, không ai phân tích nó[6]
Lời nguyền của viên kim cương này tuy không linh ứng với Henry Hope, nhưng giáng đòn khốc liệt lên con cháu ông này là Ngài Francis Hope. Viên kim cương đã để lại cho gia đình Hope sự bất hạnh bằng cách tước đi sự giàu có và đưa họ đến chỗ phá sản. Sau cái chết của Henry Hope, viên kim cương được để lại cho cháu trai ông Lord Francis Hope, người đã cố gắng xin phép tòa án cho bán nó. Năm 1901, đề nghị của ông được chấp thuận, khi ông đang chìm trong cờ bạc và phá sản[3]. Cụ thể là sau khi Lord Francis nhận được quyền thừa kế vào năm 21 tuổi, ông cưới một cô gái nhảy tên Mary Yohe và sống xa xỉ cho đến khi quá túng thiếu và buộc phải bán viên kim cương đồng thời tuyên bố phá sản vì khánh kiệt. Người vợ chạy theo đối thủ của chồng, còn Lord Francis chết trong cảnh nghèo đói[2].
Sau một thời gian tìm kiếm, ông đã bán được nó cho Evalyn Walsh McLean một người giàu có nhưng lập dị đã đồng ý mua khi nghe về lời nguyền của nó. Bà đã coi nó như một chiếc bùa may mắn, nhưng nó lại mang lại quá nhiều bất hạnh. McLean cùng chồng đã mua Hope vào năm 1912 và từ đó cuộc sống của họ trượt thẳng vào vòng xoáy bi kịch. Con trai của họ chết trong một tai nạn xe hơi còn đứa con gái tự tử, còn chồng McLean bỏ theo người phụ nữ khác và cuối cùng bà lên cơn điên và chết trong nhà thương điên.[3][4]. Theo lời của Viện Bảo tàng Smithsonian, "hơn ai hết Evalyn Walsh McLean là người quảng bá hiệu quả nhất cho lời nguyền huyền thoại của Hope".[2]
Sau cái chết của Evalyn McLean, viên kim cương này đã được bán năm 1949 và được mua bởi một thương nhân New York tên là Harry Winston một Nhà thiết kế nổi tiếng, ông đã mua viên kim cương có thành tích khủng khiếp này từ nhà McLean và cũng tránh được lời nguyền. Có thể bị ảnh hưởng bởi câu chuyện về lời nguyền, Winston đã quyết tâm tặng viên kim cương cho bảo tàng Lịch sử tự nhiên Smithsonian, nơi hiện tại nó đang được trưng bày[7]. Tuy vậy, người ta nói lời nguyền của viên kim cương mạnh đến nỗi khi nó được chuyển đến bảo tàng trong một chiếc hộp bằng đồng bởi James Todd, ông đã gãy chân khi bị xe tải đâm và còn hơn thế nữa, khi vợ ông qua đời sau cơn đau tim, con chó của ông bị vướng xích và bị thắt cổ chết, cuối cùng, căn nhà của ông bị cháy rụi[2][3].
May Yohe, diễn viên đã cố gắng đưa lời nguyền lên màn ảnh với 15 tập của bộ phim với tên gọi "Bí ẩn của viên kim cương The Hope". Mặc dù nỗ lực của cô để đưa lời nguyền này đến với mọi người không mang lại hiệu quả, nhưng sự thật là viên kim cương này đã mang lại quá nhiều bi kịch cho quá nhiều người, kể cả người chủ sở hữu, người thân của họ, cho đến những người liên quan gián tiếp[4] Hiện Hope vẫn nằm yên ổn trong Viện Bảo tàng tự nhiên Smithsonian ở Washington, Mỹ. Và đến giờ, viên kim cương này chưa có dấu hiệu gì mang lại điềm rủi cho tổ chức trên.
Từ khi bị đánh cắp tại một ngôi đền ở Ấn Độ, nó đã trôi dạt qua rất nhiều nơi và bắt đầu lời nguyền của mình. Điều đặc biệt của lời nguyền này là nó mang đến cái chết hoặc sự bất hạnh đến cho người chủ sở hữu nó[3][4][5]. Có rất nhiều lời đồn đại xung quanh viên kim cương này nhưng tựu trung vẫn là những câu chuyện xui xẻo cho những người từng vô tình hoặc cố ý làm chủ nhân của nó. Giới học giả cho rằng nhiều câu chuyện đã được người bán xào nấu hoặc đơm đặt thêm để nâng giá bán.[2]
Tại Ấn Độ
Viên kim cương nguyên thủy được tìm thấy tại mỏ kim cương Kollur tại Golconda và sau đó được gắn vào bức tượng thần Sita trong một ngôi đền ở Ấn Độ.[3] Vào năm 1642, một thương gia, nhà vận chuyển kim cương-kiêm nhà thám hiểm, phiêu lưu mạo hiểm người Pháp tên là Jean Baptiste Tavernier đến Ấn Độ và sở hữu được viên kim cương xanh trong một chuyến đi buôn tại Ấn Độ.Người ta kể rằng Tavernier đã móc viên đá quý trên khỏi một trong những con mắt trên tượng thần Sita của đạo Hindu, và do hành động báng bổ thánh thần đó, ngay sau khi dâng và bán nó cho vua Louis XIV, Tavernier đã gặp thảm kịch khi tới Ấn Độ trong một chuyến đi khác, có tin cho rằng ông bị một bầy chó hoang xé xác.[3] nhưng số thông tin khác cho rằng đó chỉ là tin đồn vì Tavernier trở về Pháp và bán viên ngọc cho vua Louis XIV, sau đó, ông về hưu và qua đời một cách yên bình ở Nga.[2]
Tại Pháp
Khi Baptiste Tavenier mang về từ Ấn Độ một viên kim cương này, báu vật được dâng tặng cho vua Louis XIV, vị vua này say mê sắc đẹp của nó nên đã mua ngay và cho đẽo gọt lại.[6]. Viên kim cương được nhận danh hiệu "Kim cương xanh của nhà vua" (Blue Diamond of the Crown) và bị cắt thành hình trái tim.[3] nó có một tên khác là Màu xanh nước Pháp (French Blue)[2]. Công việc đẽo gọt được giao cho Jean Pitau một thợ kim hoàn riêng của hoàng gia Pháp. Trong vòng hai năm, Jean Pitau đã đẽo gọt, đánh bóng viên kim cương trước khi cẩn vào một cây trâm cài áo. Kết quả là viên kim cương 68,3 kara lóe sáng màu xanh da trời và xanh thẫm. Trong suốt thế kỷ XVIII, viên kim cương này là báu vật của triều đình Pháp[6]Vua Louis XIV cũng thoát khỏi vận rủi khi nhận được viên kim cương này, nhưng một trong các hậu duệ của ông không được may mắn như thế. Sự bất hạnh đi cùng viên kim cương này tiếp tục gây họa cho vua Louis XVI và hoàng hậu Marie Antoinette[7]. Sau một thời gian trị vì gây sự phẫn nộ trong nhân dân vì tình hình đất nước đầy bất ổn, cả hai vợ chồng đã bị chặt đầu tại cuộc Cách mạng Pháp năm 1789.
Trong suốt cuộc khủng hoảng chính trị Pháp, rất nhiều đồ trang sức của hoàng gia bị đánh cắp, trong đó có viên kim cương quý này, đồ bị mất gồm những viên ngọc trên vương miện của họ, bao gồm cả viên kim cương Hope này cũng bị trộm mất[4] Vụ việc diễn ra khoảng tháng 9-1792, khi khách sạn Garde-Meuble (tòa nhà cất giữ báu vật) bị đánh cướp. Sau đó trong suốt thời kỳ hỗn loạn sau cách mạng Pháp, cuộc điều tra dẫn đến nhiều ngõ ngách và Cảnh sát bắt rất nhiều tên trộm, nhưng chỉ tìm thấy những món nữ trang ít có giá trị kể cả một vụ trộm lớn 20 năm sau đó.[6]
Vương Quốc Anh
Sau khi được tìm thấy ở Luân Đôn, Viên kim cương đã thuộc quyền sở hữu của hoàng hậu Tây Ban Nha là Maria Louisa vào năm 1800. Trong thời gian đó, viên kim cương đã được tạo hình lại bởi một nhà nữ trang người Hà Lan Wilhelm Fals. Trong thời gian gia công nó, viên kim cương bị đánh cắp bởi con trai mình Hendrick và ông chết trong đau khổ và người con trai ăn cắp của ông cũng tự sát sau đó không lâu.[3]Sau đó, viên kim cương này được mua bởi Henry Philip Hope chủ một gia đình quý tộc người Anh vào năm 1813 và được gọi là "Kim cương Hope" từ đó[5]. Nhiều bằng chứng khẵng định viên kim cương này chính là viên kim cương của Hoàng gia Pháp. Năm 1858, một nhà kim hoàn người Pháp tên Barbot phát hiện thấy viên kim cương xanh xuất hiện tại nhà Hope. Barbot biết rõ một vật tương đương là viên kim cương xanh của vua Louis XIV ông này đã mở cuộc điều tra và kinh ngạc khi thấy nhà Hope có viên đã này từ năm 1812. Viên kim cương này là tài sản chính thức của gia tộc Hope, đúng 20 năm 2 ngày sau khi viên kim cương của vua Pháp bị đánh cắp và 20 năm chính là thời gian vô hiệu hóa việc truy tìm viên kim cương bị đánh cắp cho nên không ai có thể truy tố gia đình Hope để đòi lại viên kim cương[6].
Barbot khẳng định viên kim cương Hope đang cất giữ chính là của vua Louis XIV nhưng chưa thể chứng minh vì không có một bản sao của viên kim cương xanh (bản sao này là quy định bắt buộc bởi vì các nhà kim hoàn luôn có thói quen làm một bản sao bằng chì, mọi viên đá quý đã qua tay họ chế tác để lưu giữ kích thước). Barbot tiếp tục điều tra, nhưng phải bỏ cuộc vì không tìm thấy bản sao.[6]
Sau này mhưng một người khác là Francois Farges thì lại biết rõ câu chuyện này và lại có trong tay bản sao bằng chì viên kim cương xanh của vua Louis XIV. Ông lục soát kho tư liệu và phát hiện một bản văn cũ nói rằng nó đã được tặng cho Viện bảo tàng vào năm 1850 do một người thợ kim hoàn tại Paris tên là Charles Achard. Bên cạnh bản sao còn có một mảnh giấy ghi dòng chữ: kiểu dáng của một viên kim cương rất đáng lưu ý do mức độ trong sáng của nó, tài sản của ông Hope tại Luân Đôn. Chữ Hope này có 2 "p", nhưng Francois Farges không còn nghi ngờ vì đó chính là sai lầm khi khắc chữ. Điều đó chứng tỏ nhà ngân hàng người Anh Henry Philip Hope là sở hữu chủ viên kim cương xanh của vua Louis XIV. Nhưng phải chứng minh bằng đo đặc viên kim cương của Hope và của triều đình Pháp chính là một.
Farges đến Anvers, kinh đô kim cương tại nước Bỉ, mang theo ảnh chụp của bản sao bằng kỹ thuật số 3 chiều vì ông muốn so sánh nó với viên kim cương của Hope, mà sau khi qua nhiều tay trung gian đã đến thủ đô nước Mỹ, chui vào tủ kính của Viện Smithsonian, một trung tâm nghiên cứu lớn có nhiều viện bảo tàng. Nơi đây dễ dàng cung cấp cho ông hình ảnh 3 chiều của viên kim cương.
Từ đó nhà nghiên cứu chỉ còn so sánh hai bức ảnh. Viên kim cương của Hope trùng khớp viên kim cương xanh, nếu viên kim cương của Hope được mài từ viên kim cương của vua Louis XIV thì mọi mặt của nó trùng khớp dễ dàng với viên kim cương gốc màu xanh. Nói khác đi, khi mài một viên kim cương, người ta sẽ có được hình dáng giống hệt nhưng kích thước nhỏ hơn. Kết quả cho thấy hai viên kim cương trùng khớp nhau hoàn toàn. Ngày nay sau khi đo đạc tỉ mỉ, ông quả quyết chúng giống nhau đến 99,9% nhưng để khẳng định là một thì còn phải chứng minh trước tòa án thành phần hóa học viên kim cương của Hope giống hệt viên kim cương xanh điều mà vào thời vua Louis XIV, không ai phân tích nó[6]
Lời nguyền của viên kim cương này tuy không linh ứng với Henry Hope, nhưng giáng đòn khốc liệt lên con cháu ông này là Ngài Francis Hope. Viên kim cương đã để lại cho gia đình Hope sự bất hạnh bằng cách tước đi sự giàu có và đưa họ đến chỗ phá sản. Sau cái chết của Henry Hope, viên kim cương được để lại cho cháu trai ông Lord Francis Hope, người đã cố gắng xin phép tòa án cho bán nó. Năm 1901, đề nghị của ông được chấp thuận, khi ông đang chìm trong cờ bạc và phá sản[3]. Cụ thể là sau khi Lord Francis nhận được quyền thừa kế vào năm 21 tuổi, ông cưới một cô gái nhảy tên Mary Yohe và sống xa xỉ cho đến khi quá túng thiếu và buộc phải bán viên kim cương đồng thời tuyên bố phá sản vì khánh kiệt. Người vợ chạy theo đối thủ của chồng, còn Lord Francis chết trong cảnh nghèo đói[2].
Lưu lạc trước khi đến Mỹ
Sau đó, viên kim cương được qua tay từ hoàng tử Nga Kanitowski, người bị giết bởi những người cách mạng, tới diễn viên người Pháp Lorens Ladue, người đã tự sát ngay trên sân khấu. Chủ sở hữu người Hy Lạp là Simon Montharides cùng gia đình đã qua đời sau một vụ tai nạn ôtô khi đâm xe vào vách đá. Kể cả nhà vua Thổ Nhĩ Kì Sultan Abdul-Hamid II người sở hữu viên kim cương trong một khoảng thời gian ngắn cũng bị truất ngôi năm 1909[3][4].Tại Mỹ
Một thời gian sau đó, viên kim cương Hope được chuyển tới Mỹ bởi nhà nữ trang Simon Frankel và thuộc quyền sở hữu của Pierre Cartier. Viên kim cương này đổi chủ vài lần cho đến khi đến tay nhà buôn kim hoàn người Mỹ Pierre Cartier và lời nguyền lại buông tha vị này. Tuy nhiên, giới sử gia đặt nghi vấn rằng chính Cartier cũng thêm thắt thêm vài điểm huyền bí cho viên kim cương với hy vọng dụ dỗ người mua kế tiếp là Evalyn Walsh McLean - một phụ nữ giàu có ở Washington.Sau một thời gian tìm kiếm, ông đã bán được nó cho Evalyn Walsh McLean một người giàu có nhưng lập dị đã đồng ý mua khi nghe về lời nguyền của nó. Bà đã coi nó như một chiếc bùa may mắn, nhưng nó lại mang lại quá nhiều bất hạnh. McLean cùng chồng đã mua Hope vào năm 1912 và từ đó cuộc sống của họ trượt thẳng vào vòng xoáy bi kịch. Con trai của họ chết trong một tai nạn xe hơi còn đứa con gái tự tử, còn chồng McLean bỏ theo người phụ nữ khác và cuối cùng bà lên cơn điên và chết trong nhà thương điên.[3][4]. Theo lời của Viện Bảo tàng Smithsonian, "hơn ai hết Evalyn Walsh McLean là người quảng bá hiệu quả nhất cho lời nguyền huyền thoại của Hope".[2]
Sau cái chết của Evalyn McLean, viên kim cương này đã được bán năm 1949 và được mua bởi một thương nhân New York tên là Harry Winston một Nhà thiết kế nổi tiếng, ông đã mua viên kim cương có thành tích khủng khiếp này từ nhà McLean và cũng tránh được lời nguyền. Có thể bị ảnh hưởng bởi câu chuyện về lời nguyền, Winston đã quyết tâm tặng viên kim cương cho bảo tàng Lịch sử tự nhiên Smithsonian, nơi hiện tại nó đang được trưng bày[7]. Tuy vậy, người ta nói lời nguyền của viên kim cương mạnh đến nỗi khi nó được chuyển đến bảo tàng trong một chiếc hộp bằng đồng bởi James Todd, ông đã gãy chân khi bị xe tải đâm và còn hơn thế nữa, khi vợ ông qua đời sau cơn đau tim, con chó của ông bị vướng xích và bị thắt cổ chết, cuối cùng, căn nhà của ông bị cháy rụi[2][3].
May Yohe, diễn viên đã cố gắng đưa lời nguyền lên màn ảnh với 15 tập của bộ phim với tên gọi "Bí ẩn của viên kim cương The Hope". Mặc dù nỗ lực của cô để đưa lời nguyền này đến với mọi người không mang lại hiệu quả, nhưng sự thật là viên kim cương này đã mang lại quá nhiều bi kịch cho quá nhiều người, kể cả người chủ sở hữu, người thân của họ, cho đến những người liên quan gián tiếp[4] Hiện Hope vẫn nằm yên ổn trong Viện Bảo tàng tự nhiên Smithsonian ở Washington, Mỹ. Và đến giờ, viên kim cương này chưa có dấu hiệu gì mang lại điềm rủi cho tổ chức trên.
Chú thích
- ^ Hope Diamond
- ^ a ă â b c d đ Nửa thế kỷ bình yên của kim cương Hope - Thanh Niên Online
- ^ a ă â b c d đ e ê g Lời nguyền chết chóc của viên kim cương xanh huyền bí - VTC News
- ^ a ă â b c d Lời nguyền của viên kim cương The Hope
- ^ a ă Lời nguyền của viên kim cương 24h
- ^ a ă â b c d Vụ án "viên kim cương xanh"
- ^ a ă Bản tin Saigon News - Nửa thế kỷ bình yên của kim cương Hope
Wikimedia Commons có thêm thể loại hình ảnh và phương tiện truyền tải về Viên kim cương Hope |
Thể loại:
Một Lời nguyền là một sự bày tỏ lời ước của một người đến một
người khác hay dòng họ khác nhưng điều bất hạnh và đau khổ. Sự đặc thù,
lời nguyền có thể giáng xuống các sự xui như làm thương hoặc bị chết bởi
một sức mạnh vô hình, có thể được coi như thần chú, Lời cầu nguyện thường liên quan tới Phù thủy, Chúa hoặc Linh hồn.
Trong nhiều loại đức tin vào các vị thần linh khác nhau, lời nguyền đi
cùng với nghi lễ, nó được coi là tạo nên sức mạnh bí ẩn vô hình, siêu
nhiên dẫn tới hậu quả xấu.[1]
Lời nguyền
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
|
Nội dung và quan điểm của bài hoặc đoạn này có thể thể hiện một tầm nhìn chưa mang tính toàn cầu. Xin cải thiện bài này hoặc thảo luận về vấn đề này tại trang thảo luận. |
Xem thêm
Chú thích
- ^ Dictionary of Sexual Terms curse of Eve, the
Wikimedia Commons có thêm thể loại hình ảnh và phương tiện truyền tải về Lời nguyền |
Lời nguyền của pharaon
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
|
Bài viết hoặc đoạn này cần thêm chú thích nguồn gốc để có thể kiểm chứng thông tin. Những nội dung không có nguồn có thể bị đặt vấn đề và xóa bỏ. Mời bạn bổ sung chú thích từ các nguồn đáng tin cậy để giúp cải thiện bài viết. |
Từ giữa thế kỷ 20, nhiều học giả và tài liệu cho rằng lời nguyền là có thật trên khía cạnh là ai xâm phạm lăng mộ sẽ bị các loại vi khuẩn, hóa chất độc hại tấn công.
Lời nguyền Tutankhamun hay lời nguyền xác ướp bắt đầu lan truyền sau khi một loạt sự kiện khủng khiếp xảy ra sau khi hầm mộ của vua Tutankhamun được khám phá. Truyền thuyết nói rằng bất kỳ ai dám mở hầm mộ sẽ phải hứng chịu sự tức giận tột bực của xác ướp.
Một vài tháng sau khi hầm mộ được mở, thảm kịch bắt đầu giáng xuống. Huân tước Carnarvon, 57 tuổi, người tài trợ cho cuộc khai quật hầm mộ đã ốm nặng và mau chóng phải tới Cairo. Ông đã qua đời vài ngày sau đó. Nguyên nhân chính xác của cái chết vẫn chưa rõ nhưng dường như bị nhiễm trùng do côn trùng cắn. Truyền thuyết cho biết, khi huân tước chết, toàn Cairo mất điện. Sau này, con trai huân tước - lúc đó đang ở Anh nói, con chó yêu của huân tước đã tru lên và cũng chết đột ngột.
Lạ lùng hơn nữa, khi xác ướp của Tutankhamun được mở ra năm 1925, người ta tìm thấy một vết thương trên má trái của xác ướp, đúng vị trí mà côn trùng cắn lên má Carnarvon, vết cắn khiến vị huân tước này thiệt mạng.
Năm 1929, 11 người liên quan tới việc khai phá hầm mộ chết sớm vì những nguyên nhân quái dị. Trong thập kỷ đầu tiên sau khi lăng mộ được khai quật, 26 người trong đoàn đã chết vì những nguyên nhân bí mật.
Lời nguyền
Một vài lời nguyền có thật từ lăng mộ của xác ướp:- Bất kì kẻ nào bước vào ngôi mộ với tâm hồn đen tối, ta sẽ trói cổ hắn như trói cổ một con chim.
- Bất kì kẻ nào phá hủy mọi thứ này, thần Thoth sẽ phá hủy hắn ta.
- Bất kì kẻ nào phá hủy những kí tự này hắn sẽ không về tới nhà, hắn sẽ không được ôm con hắn, hắn sẽ không bao giờ thành công.
Thể loại:
Lời nguyền Tippecanoe
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Lời nguyền Tippecanoe (tiếng Anh: Curse of Tippecanoe), hay còn gọi là Lời nguyền của Tecumseh (Tecumseh's curse) là cụm từ đôi khi được dùng để nói tới sự kiện: trong khoảng thời gian từ năm 1840 đến năm 1960, cứ tổng thống Mỹ nào trúng cử vào các năm tận cùng bằng số 0 (ví dụ 1880, 1900) đều qua đời khi đang tại nhiệm.
Sau khi quyển sách Ripley's Believe It or Not xuất bản năm 1931, quả thực hai tổng thống được bầu vào các năm tận cùng bằng số 0 tiếp theo đã chết khi đang tại nhiệm, đó là Franklin D. Roosevelt (bầu năm 1940, chết vì xuất huyết não năm 1945) và John F. Kennedy (bầu năm 1960, bị ám sát năm 1963). Trong cuộc chạy đua vào Nhà Trắng năm 1980 (năm tận cùng bằng số 0 liền sau năm 1960), ứng cử viên và là đương kim tổng thống Jimmy Carter khi được hỏi về lời nguyền đã trả lời: "Tôi không sợ. Nếu tôi biết điều đó sẽ xảy ra, tôi sẽ vẫn cứ tiếp tục làm tổng thống và cố gắng hết sức có thể đến ngày cuối cùng"[4][5]. Người trúng cử năm 1980 không phải là Carter mà là Ronald Reagan. Tuy bị ám sát chỉ 69 ngày sau khi được bầu nhưng Reagan đã hoàn thành trọn vẹn hai nhiệm kỳ tổng thống và chỉ qua đời vì tuổi già năm 2004. Vài ngày sau khi Ronald Reagan bị ám sát không thành, nhà báo Jack Anderson trong bài "Reagan and the Eerie Zero Factor" ("Reagan và nhân tố 0 kỳ quái") đã nói rằng hoặc vị tổng thống thứ 40 của Hoa Kỳ đã chứng minh lời nguyền là sai, hoặc mạng ông ta quá lớn (he had nine lives)[6]. Sau khi hoàn thành nhiệm kỳ thứ hai năm 1988, Reagan trở thành tổng thống Mỹ đầu tiên sau 152 năm được bầu vào một năm tận cùng 0 mà không chết khi đang tại nhiệm. Người được bầu vào năm tận cùng 0 tiếp theo (2000) là George W. Bush cũng hoàn thành trọn vẹn hai nhiệm kỳ của mình.
Lịch sử lời nguyền
Lời nguyền Tippecanoe lần đầu được đề cập tới trong cuốn sách của nhà xuất bản Ripley's Believe It or Not phát hành năm 1931[1]. Nó đề cập tới việc kể từ cái chết của tổng thống William Henry Harrison (qua đời năm 1841 sau khi trúng cử năm 1840), cứ 20 năm lại có một tổng thống Mỹ chết khi đang tại nhiệm. Cái tên Tippecanoe xuất phát từ tên trận Tippecanoe (1811). Vào thời điểm đó, với tư cách thống đốc vùng Idiana, William Harrison đã mua chuộc những người da đỏ để họ nhượng lại đất cho Chính phủ Hoa Kỳ, đồng thời Harrison cũng đưa rượu whiskey vào cuộc sống của những người thổ dân gây ra nạn nghiện rượu và tội phạm cho cộng đồng này[2]. Những hành động của chính quyền đã dẫn tới việc Tecumseh, thủ lĩnh của người Shawnee đứng lên đánh lại quân đội Hoa Kỳ. Năm 1811 Harrison đã đánh bại đội quân da đỏ của Tecumseh tại làng của ông. Có thể[3] sau trận Tippecanoe, người anh em của Tecumseh là Tenskwatawa, được biết tới như là Nhà tiên tri của người Shawnee, đã đưa ra lời nguyền cho Harrison và các tổng thống Mỹ kế nhiệm.Sau khi quyển sách Ripley's Believe It or Not xuất bản năm 1931, quả thực hai tổng thống được bầu vào các năm tận cùng bằng số 0 tiếp theo đã chết khi đang tại nhiệm, đó là Franklin D. Roosevelt (bầu năm 1940, chết vì xuất huyết não năm 1945) và John F. Kennedy (bầu năm 1960, bị ám sát năm 1963). Trong cuộc chạy đua vào Nhà Trắng năm 1980 (năm tận cùng bằng số 0 liền sau năm 1960), ứng cử viên và là đương kim tổng thống Jimmy Carter khi được hỏi về lời nguyền đã trả lời: "Tôi không sợ. Nếu tôi biết điều đó sẽ xảy ra, tôi sẽ vẫn cứ tiếp tục làm tổng thống và cố gắng hết sức có thể đến ngày cuối cùng"[4][5]. Người trúng cử năm 1980 không phải là Carter mà là Ronald Reagan. Tuy bị ám sát chỉ 69 ngày sau khi được bầu nhưng Reagan đã hoàn thành trọn vẹn hai nhiệm kỳ tổng thống và chỉ qua đời vì tuổi già năm 2004. Vài ngày sau khi Ronald Reagan bị ám sát không thành, nhà báo Jack Anderson trong bài "Reagan and the Eerie Zero Factor" ("Reagan và nhân tố 0 kỳ quái") đã nói rằng hoặc vị tổng thống thứ 40 của Hoa Kỳ đã chứng minh lời nguyền là sai, hoặc mạng ông ta quá lớn (he had nine lives)[6]. Sau khi hoàn thành nhiệm kỳ thứ hai năm 1988, Reagan trở thành tổng thống Mỹ đầu tiên sau 152 năm được bầu vào một năm tận cùng 0 mà không chết khi đang tại nhiệm. Người được bầu vào năm tận cùng 0 tiếp theo (2000) là George W. Bush cũng hoàn thành trọn vẹn hai nhiệm kỳ của mình.
Danh sác các tổng thống liên quan
Năm trúng cử | Tổng thống | Nhiệm kỳ (khi qua đời) |
Nguyên nhân cái chết | Ngày qua đời |
1840 | William Henry Harrison | Thứ nhất | Viêm phổi | 4 tháng 4 năm 1841 |
1860 | Abraham Lincoln | Thứ hai | Bị ám sát | 15 tháng 4 năm 1865 |
1880 | James A. Garfield | Thứ nhất | Bị ám sát | 19 tháng 9 năm 1881 |
1900 | William McKinley | Thứ hai | Bị ám sát | 14 tháng 9 năm 1901 |
1920 | Warren G. Harding | Thứ nhất | Đau tim hoặc nhồi máu cơ tim | 2 tháng 8 năm 1923 |
1940 | Franklin D. Roosevelt | Thứ tư | Xuất huyết não | 12 tháng 4 năm 1945 |
1960 | John F. Kennedy | Thứ nhất | Bị ám sát | 22 tháng 11 năm 1963 |
1980 | Ronald Reagan | Bị ám sát bất thành | Hoàn thành đủ 2 nhiệm kỳ | |
2000 | George W. Bush | Hoàn thành đủ 2 nhiệm kỳ |
Tham khảo
- ^ Ripley's Believe it or Not, 2nd Series (Simon & Schuster, 1931); an updated reference is on page 140 of the Pocket Books paperback edition of 1948
- ^ The New Big Book Of U.S. Presidents By Todd Davis, Marc Frey
- ^ Randi Henderson and Tom Nugent, "The Zero Curse: More than just a coincidence?" (Reprinted from the Baltimore Sun), 2 tháng 11, 1980, in Syracuse Herald-American, p C-3
- ^ "I'm not afraid. If I knew it was going to happen, I would go ahead and be President and do the best I could, for the last day I could."
- ^ Henderson and Nugent
- ^ The Sunday Intelligencer (Doylestown, PA), 5 tháng 4, 1981, p 8
Liên kết ngoài
Lời nguyền Kennedy
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Lời nguyền Kennedy [1][2][3] là những suy diễn xuất phát từ việc chứng kiến một chuỗi những tai ương giáng đổ trên Gia tộc Kennedy.[3][4][5][6][7][8] Ý niệm về một "lời nguyền" đến từ các phương tiện truyền thông, rồi được phát triển và phổ biến rộng rãi trong công chúng.[9][10][11]
Mặc dù những bất hạnh này có thể xảy đến cho bất kỳ ai, nhiều người vẫn xem những thảm họa nối tiếp nhau trút xuống gia tộc Kennedy như là một "lời nguyền". Câu hỏi được đặt ra là liệu các tai ương chỉ một mình gia tộc Kennedy gánh chịu, đặc biệt là hai vụ ám sát cướp lấy mạng sống của một tổng thống và một thượng nghị sĩ Hoa Kỳ, là định mệnh nghiệt ngã như một lời nguyền hay chỉ đơn giản là những âm mưu có phối hợp chống lại gia tộc danh giá và quyền thế này.
Mặc dù những bất hạnh này có thể xảy đến cho bất kỳ ai, nhiều người vẫn xem những thảm họa nối tiếp nhau trút xuống gia tộc Kennedy như là một "lời nguyền". Câu hỏi được đặt ra là liệu các tai ương chỉ một mình gia tộc Kennedy gánh chịu, đặc biệt là hai vụ ám sát cướp lấy mạng sống của một tổng thống và một thượng nghị sĩ Hoa Kỳ, là định mệnh nghiệt ngã như một lời nguyền hay chỉ đơn giản là những âm mưu có phối hợp chống lại gia tộc danh giá và quyền thế này.
Lược sử
Những người tin vào giả thuyết "lời nguyền" thường trích dẫn những sự kiện sau và xem chúng như là chứng cớ của những bất hạnh đổ xuống gia tộc Kennedy.- 1941 – Rosemary Kennedy (1918-2005, con thứ ba và là con gái đầu của Joseph P. Kennedy) phải giải phẫu thuỳ não để chữa trị bệnh trì độn (mental retardation). Kết quả của cuộc giải phẫu là một thảm hoạ, và Rosemary phải sống trong một dưỡng đường cho đến khi qua đời năm 2005.[4][5][6][12][13]
- 1944 – Joseph P. Kennedy, Jr. (1915-1944, con đầu của Joseph P. Kennedy) đã hi sinh trong một phi vụ vượt qua eo biển Manche trong Đệ nhị Thế chiến.
- 1948 – Kathleen Kennedy (1920-1948, con thứ tư và là con gái thứ hai của Joseph P. Kennedy) chết trong một tai nạn máy bay tại Pháp.[4][5][6][13]
- August 23, 1956 (23 tháng 8) – Jacqueline Bouvier Kennedy sinh một bé gái nhưng bị chết non, Arabella.[6] (Dù được chôn cất tại Nghĩa trang Quốc gia Arlington cạnh song thân với bia mộ ghi "Con gái", cô được đặt tên Arabella.)[14]
- Ngày 19 tháng 12 năm 1961 – Joseph P. Kennedy (1888-1969), người cha già của gia tộc Kennedy, bị đột quỵ khiến mọi cử động của cơ thể trở nên cực kỳ khó khăn cho đến ngày chết.
- Ngày 7 tháng 8 năm 1963 - Patrick Bouvier Kennedy, con trai thứ hai của John F. Kennedy và Jacqueline Kennedy, sinh non tám tuần lễ và chết chỉ vài ngày sau khi ra đời.[4][6][12]
- Ngày 22 tháng 11 năm 1963 - Tổng thống John F. Kennedy bị ám sát tại Dallas, tiểu bang Texas, dù các cuộc điều tra chính thức qui cho Lee Harvey Oswald là thủ phạm, cho đến nay vẫn còn nhiều tra vấn về những kết luận này.[4][5][6][13]
- Ngày 6 tháng 6 năm 1968 - Robert F. Kennedy (1925-1968), em trai của John và anh trai của Ted (Edward Kennedy), bị ám sát tại Los Angeles sau khi giành thắng lợi trong kỳ bầu cử sơ bộ của đảng Dân chủ tại California, trong khuôn khổ chiến dịch tranh cử tổng thống của ông. Thủ phạm được cho là Sirhan Sirhan, song vẫn còn tồn tại nhiều nghi vấn xoay quanh vụ ám sát này.[4][5][6][13]
- 1969 – "Sự kiện Chappaquiddick" – Trong khi cầm lái, xe của Ted Kennedy (sinh năm 1932, con trai út của Joseph P. Kennedy) rơi khỏi cầu trên đường về nhà từ một dạ tiệc. Người phụ nữ ngồi trong xe với Ted, Mary Jo Kopechne, trước đó là phụ tá cho Robert Kennedy, chết trong tai nạn này.[4][5][6][7][13]
- 1973 – Edward Kennedy, Jr. (con trai của Edward Kennedy) mất chân phải vì bệnh ung thư xương.
- 1973 – Joseph P. Kennedy II, con trai của Robert và Ethel, gây tai nạn đang khi lái xe tại Cape Cod khiến một người ngồi trong xe, Pam Kelley, bị bại liệt hoàn toàn.[4][6][12]
- 1983 – Robert F. Kennedy, Jr. bị bắt giữ tại tiểu bang South Dakota vì tội tàng trữ heroin.
- 1984 – David A. Kennedy, một con trai khác của Robert, chết vì dùng Demerol và cocaine quá liều ở một khách sạn tại Palm Beach, tiểu bang Florida.[4][5][6][12][13]
- 1986 – Patrick J. Kennedy, con trai của Thượng nghị sĩ Ted Kennedy, bắt đầu điều trị cai nghiện cocaine.
- 1991 – William Kennedy Smith, con trai của Jean Kennedy (sinh 1932, con thứ tám và là con gái út của Joseph P. Kennedy) bị cáo buộc cưỡng bức một phụ nữ tại Palm Beach, Florida, song Smith được xử trắng án.[15] Smith was acquitted.[1][3][4][12]
- 1997 – Michael Kennedy, con trai của Robert, chết trong một tai nạn trượt tuyết tại Aspen, tiểu bang Colorado.[15] Smith was acquitted.[1][3][4][12]
- 1999 (16 tháng 7) – John F. Kennedy, Jr., cùng với vợ Carolyn Bessette Kennedy, và chị vợ Lauren Bessette, tử nạn khi chiếc máy bay riêng do Kennedy điều khiển rơi xuống biển trong một chiều đầy sương mù trên chuyến bay từ New York đến đảo Martha's Vinyard.[4][5][6][13]
- 2002 – Michael Skakel, cháu của Ethel Skakel Kennedy, bị buộc tội giết Martha Moxley, một cô gái trẻ sống gần nhà.
- 2011 (16 tháng 9) – Kara Kennedy Allen chết vì bệnh tim trong khi tập thể dục tại một câu lạc bộ ở Washington, D.C.. Chín năm trước cô mắc bệnh ung thư phổi, nhưng đã chữa khỏi.[16][17]
- 2012 (16 tháng 5) – Mary Richardson Kennedy (vợ của Robert F. Kennedy, Jr., Robert, Jr. là con trai của Robert F. Kennedy) treo cổ tự sát tại nhà riêng ở Bedford, Westchester, New York.[13][18]
Chú thích
- ^ a ă â “Kennedy Family Tragedies”. The Washington Post. 1999. Truy cập ngày 26 tháng 8 năm 2009.
- ^ “Kennedy family tragedies”. Tribune Company. Truy cập ngày 26 tháng 8 năm 2009.
- ^ a ă â b McGrory, Brian (18 tháng 7 năm 1999). “Family overshadowed by a litany of tragedy”. The Boston Globe. Truy cập ngày 26 tháng 8 năm 2009.
- ^ a ă â b c d đ e ê g h i Klein, Edward (2004). The Kennedy Curse: Why Tragedy Has Haunted America's First Family for 150 Years. St. Martin's Press. ISBN 978-0-312-31293-0.
- ^ a ă â b c d đ e Jones, Sam; Tran, Mark (26 tháng 8 năm 2009). “History of the Kennedy curse”. The Guardian. Truy cập ngày 26 tháng 8 năm 2009.
- ^ a ă â b c d đ e ê g h “The Kennedy Curse”. The Hartford Courant. Truy cập ngày 26 tháng 8 năm 2009.
- ^ a ă “Is Pat's Crash Part of Kennedy Curse?”. ABC News. 5 tháng 5 năm 2006. Truy cập ngày 26 tháng 8 năm 2009.
- ^ Lacayo, Richard (26 tháng 8 năm 2009). “Ted Kennedy, 1932–2009: The Brother Who Mattered Most”. Time. Truy cập ngày 26 tháng 8 năm 2009.
- ^ Grady, Sandy (22 tháng 7 năm 1999). “There is no Kennedy curse; it's actually too much macho”. Rome News-Tribune. Truy cập ngày 29 tháng 8 năm 2009.
- ^ “Kennedy curse”. The Skeptic's Dictionary. Truy cập ngày 29 tháng 8 năm 2009.
- ^ O'Dowd, Niall (18 tháng 9 năm 2011). “Talk of a Kennedy curse is nonsense, latest death of Kara revives idle chatter”. IrishCentral. Truy cập ngày 19 tháng 5 năm 2012.
- ^ a ă â b c d King, John (17 tháng 7 năm 1999). “Tragedy has repeatedly stalked Kennedy clan”. CNN. Truy cập ngày 15 tháng 2 năm 2008.
- ^ a ă â b c d đ e Negrin, Matt (16 tháng 5 năm 2012). “Kennedy Curse: A Political Family's Troubled Life”. ABC News. Truy cập ngày 17 tháng 5 năm 2012.
- ^ Arabella Kennedy (1956–1956) - Find A Grave Memorial
- ^ a ă Dunne, Dominick (tháng 3 năm 1992). “The Verdict”. Vanity Fair. Truy cập ngày 17 tháng 5 năm 2012.
- ^ Goddard, Jacqui (17 tháng 9 năm 2011). “Kara Kennedy dies aged 51”. The Daily Telegraph. Truy cập ngày 19 tháng 5 năm 2012.
- ^ “'I'm so grateful I have those memories': Joan Kennedy remembers last summer with daughter Kara before she died”. The Daily Mail. 21 tháng 9 năm 2011. Truy cập ngày 19 tháng 5 năm 2012.
- ^ RFK Jr.'s troubled estranged wife found dead in NY Associated Press, 16 May 2012. Retrieved 16 May 2012.
Xem thêm
Quỹ Quốc tế Bảo vệ Thiên nhiên
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Đối với các định nghĩa khác, xem WWF (định hướng).
Quỹ Quốc tế Bảo vệ Thiên nhiên, (tiếng Anh: World Wide Fund For Nature - WWF) là một trong những tổ chức phi chính phủ lớn nhất thế giới về bảo vệ thiên nhiên. Tên cũ là Quỹ Động vật Hoang dã Thế giới hoặc Quỹ Bảo vệ Đời sống Thiên nhiên Thế giới (World Wildlife Fund) [1].Quỹ Quốc tế Bảo vệ Thiên nhiên | |
---|---|
Trụ sở chính | Gland, Thụy Sĩ |
Nhân vật chủ chốt | Sir Julian Huxley Dr Claude Martin HE Chief Emeka Anyaoku |
Ngân sách | 374 triệu € (2006) [2] |
Số nhân viên | khoảng 4500 |
Trang web | http://wwf.org/ / http://www.panda.org/ |
Mục lục
Lịch sử
Quỹ Quốc tế Bảo vệ Thiên nhiên (WWF) được thành lập ngày 11 tháng 9 năm 1961 tại Thụy Sĩ, với tên ban đầu là World Wildlife Fund. Ngay năm đầu tiên, WWF đã có chi nhánh tại Thụy Sĩ, Vương quốc Liên hiệp Anh và Hoa Kỳ, sau đó là những chi nhánh tại Áo, Đức, Hà Lan, và Nam Phi. Ngày nay, WWF có chi nhánh tại 59 quốc gia trên thế giới.Năm 1986, nhân dịp kỷ niệm 25 năm thành lập cùng việc hoạt động mở rộng phạm vi nên WWF quyết định đổi tên thành World Wide Fund For Nature; tên cũ tuy nhiên vẫn giữ nguyên ở Bắc Mỹ gồm Hoa Kỳ và Canada.
Biểu tượng là hình phác họa theo mẫu một con gấu trúc lớn tên Chi Chi đang sống tại Sở thú Luân Đôn lúc thành lập WWF. Năm 2002, WWF đã thắng trong một cuộc tranh kiện, làm Công ty Đấu Vật Thế giới - World Wrestling Federation phải đổi tên là World Wrestling Entertainment (WWE) [3].
Mục đích
WWF đưa ra những mục tiêu sau:WWF mong muốn giảm bớt sự tàn phá thiên nhiên toàn cầu để xây dựng một tương lai mà con người sống hòa hợp cùng thiên nhiên.
-
- Bảo tồn sự đa dạng sinh học của thế giới.
- Đảm bảo duy trì sử dụng các tài nguyên thiên nhiên có thể tái sinh.
- Xúc tiến việc giảm bớt ô nhiễm môi trường và tiêu thụ lãng phí. [4]
Hoạt động
Trong biên bản thành lập có ghi hoạt động của WWF là "bảo vệ động vật, thực vật, rừng, cảnh quan, nước, nền đất và những nguồn tài nguyên thiên nhiên qua sự mua và quản trị những khu vực. Những khoản tài trợ sẽ được sử dụng cho việc nghiên cứu và giáo dục các tầng lớp, thông tin công chúng, điều hợp những cố gắng và liên kết những nhóm quan tâm".[5] Theo đó, WWF tạo sự khác biệt với những tổ chức bảo vệ môi trường khác là chú trọng vào những công việc vận động hành lang cổ điển, liên kết với những công ty thương mại để tài trợ những dự án bảo vệ hệ sinh thái dài hạn, thay vì tạo những chiến dịch nổi bật gây dư luận và thu hút truyền thông đại chúng ngắn hạn như tổ chức Hòa bình xanh. Trong quá trình hoạt động, WWF đã mở rộng phạm vi hoạt động trở thành một tổ chức bảo vệ thiên nhiên phổ thông, đặc biệt chú trọng về việc ngăn ngừa hiệu ứng nhà kính gây ra do sự nóng lên của khí hậu toàn cầu, thành lập những khu vực được bảo vệ (conservator) để bảo vệ dài hạn những động- và thực vật bị đe đọa, thay vì chỉ nhắm vào động- thực vật hoang dã như mục tiêu ban đầu.Từ năm 1960, WWF đã tài trợ cho khoảng 12.000 dự án trong 153 quốc gia và 1.500.000 cây số vuông đã có thể chuyển thể thành vườn quốc gia.
Trên thế giới hiện có khoảng chừng 4000 nhân viên trên 100 quốc gia hoạt động trong khoảng 300 khu vực được bảo hộ. Trên 5 triệu người trên thế giới ủng hộ, nhờ đó năm 2006 trên 374 triệu Euro đã được quyên góp để sử dụng cho các mục đích bảo vệ thiên nhiên, trong đó riêng năm 2006 là 2000 dự án bảo vệ thiên nhiên và môi trường [2].
Chủ tịch
- Hoàng tử Bernhard của Hà Lan (1962–1976)
- John H Loudon (1976–1981)
- Hoàng thân Philip, Công tước Edinburgh (1981–1996)
- Syed Babar Ali (1996–1999)
- Ruud Lubbers (2000–2000)
- Sara Morrison (2000–2001)
- Emeka Anyaoku (2001–2010)[6]
- Yolanda Kakabadse (2010-)
Chú thích
- ^ Trong tiếng Việt, hiện nay tên tổ chức này có nhiều lối dịch khác nhau và chưa thống nhất: Quỹ Thiên nhiên thế giới, Quỹ Bảo vệ Thiên nhiên Toàn Cầu, Quỹ quốc tế bảo vệ thiên nhiên, Quỹ Toàn cầu cho Thiên nhiên, Quỹ Toàn thế giới vì thiên nhiên, Quỹ Quốc tế về Bảo tồn Thiên Nhiên, Quỹ Bảo tồn thiên nhiên quốc tế...
- ^ a ă Kết toán WWF 2006 . Năm 2005 là $120.910.695 USD theo Capital Research Center: WWF (English)|
- ^ InternetNews.com: „Wildlife Fund Pins Wrestling Federation"
- ^ WWF Who we are
- ^ What was the original motivation of the founders?
- ^ Các Chủ tịch WWF trong lịch sử
Liên kết ngoài
Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về WWF |
Trang web địa phương
Wikimedia Commons có thêm thể loại hình ảnh và phương tiện truyền tải về Quỹ Quốc tế Bảo vệ Thiên nhiên |
http://www.youtube.com/user/hoangkimvietnam
Trở về trang chính
hoangkim vietnam, hoangkim, hoangkimvietnam, Hoàng Kim, Ngọc Phương Nam, Chào ngày mới Thung dung, Dạy và học, Cây Lương thực, Tin Nông nghiệp Việt Nam, Food Crops, Cassava in Vietnam, VietnamAfricaCassavaRice, Khát khao xanh, Dayvahoc, Học mỗi ngày, Danh nhân Việt , Food Crops News, Điểm chính, CNM365, Kim LinkedIn, KimTwitter, KimFaceBook Đọc lại và suy ngẫm, Việt Nam tổ quốc tôi, Tình yêu cuộc sống, Thơ cho con
Best content & valuable as well. Thanks for sharing this content.
ReplyDeleteApproved Auditor in DAFZA
Approved Auditor in RAKEZ
Approved Auditor in JAFZA
i heard about this blog & get actually whatever i was finding. Nice post love to read this blog
Approved Auditor in DMCC
Good luck & keep writing such awesome content.
ReplyDeleteVirgin Linseed Oil BP
Pure Linseed Oil