CNM365 Chào ngày mới 7 tháng 8 Wikipedia Ngày này năm xưa. Lập thu (2014); ngày Quốc khánh tại Bờ Biển Ngà (1960). Năm 1316 – Giáo hoàng Gioan XXII được bầu làm Giáo hoàng thứ 196 của Giáo hội công giáo Rôma. Năm 1789 – Bộ Chiến tranh Hoa Kỳ được thành lập, tồn tại cho đến năm 1947. Năm 1943 – Chiến tranh thế giới thứ hai: Quân đội Đồng Minh đổ bộ lên nhóm đảo Guadalcanal nhằm đánh bật quân đội Nhật Bản, khởi đầu Chiến dịch Guadalcanal (hình). Năm 2008 – Gruzia bắt đầu tiến hành chiến dịch quân sự quy mô lớn vào Nam Ossetia, khởi đầu Chiến tranh Nam Ossetia 2008.
Lập thu
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Hai mươi tư tiết khí | ||
Kinh độ | Tiết khí | Dương lịch |
---|---|---|
Xuân | ||
315° | Lập xuân | 4 - 5/2 |
330° | Vũ thủy | 18 - 19/2 |
345° | Kinh trập | 5 - 6/3 |
0° | Xuân phân | 20 - 21/3 |
15° | Thanh minh | 4 - 5/4 |
30° | Cốc vũ | 20 - 21/4 |
Hạ | ||
45° | Lập hạ | 5 - 6/5 |
60° | Tiểu mãn | 21 - 22/5 |
75° | Mang chủng | 5 - 6/6 |
90° | Hạ chí | 21 - 22/6 |
105° | Tiểu thử | 7 - 8/7 |
120° | Đại thử | 22 - 23/7 |
Thu | ||
135° | Lập thu | 7 - 8/8 |
150° | Xử thử | 23 - 24/8 |
165° | Bạch lộ | 7 - 8/9 |
180° | Thu phân | 23 - 24/9 |
195° | Hàn lộ | 8 - 9/10 |
210° | Sương giáng | 23 - 24/10 |
Đông | ||
225° | Lập đông | 7 - 8/11 |
240° | Tiểu tuyết | 22 - 23/11 |
255° | Đại tuyết | 7 - 8/12 |
270° | Đông chí | 21 - 22/12 |
285° | Tiểu hàn | 5 - 6/1 |
300° | Đại hàn | 20 - 21/1 |
Theo quy ước, tiết lập thu là khoảng thời gian bắt đầu từ khoảng ngày 7 hay 8 tháng 8 khi kết thúc tiết đại thử và kết thúc vào khoảng ngày 23 hay 24 tháng 8 trong lịch Gregory theo các múi giờ Đông Á khi tiết xử thử bắt đầu.
Lịch Trung Quốc, cũng như lịch ở các nước Đông Á cổ đại bao gồm Việt Nam, bị nhiều người lầm là âm lịch thuần túy, dẫn đến ngộ nhận về việc tiết khí nói chung và Lập thu nói riêng được tính theo chu kỳ của Mặt Trăng quay xung quanh Trái Đất. Trên thực tế lịch Trung Quốc cổ đại là một loại âm dương lịch, trong đó tiết khí, từ thời Hán Vũ Đế, đã được tính theo vị trí của Trái Đất trong chu kỳ chuyển động trên quỹ đạo xung quanh Mặt Trời. Theo cách tính hiện đại, với điểm xuân phân là gốc có kinh độ Mặt Trời bằng 0°, thì điểm diễn ra hay bắt đầu tiết Lập thu ứng với kinh độ Mặt Trời bằng 135°. Ngày bắt đầu tiết Lập thu do vậy được tính theo cách tính của dương lịch hiện đại và nó thông thường rơi vào ngày 7 hay 8 tháng 8 dương lịch tùy theo từng năm. Tiết khí đứng ngay trước Lập thu là Đại thử và tiết khí kế tiếp sau là Xử thử.
Xem thêm
Tham khảo
Bờ Biển Ngà
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Cộng hoà Côte d'Ivoire / Bờ Biển Ngà | |||||
---|---|---|---|---|---|
République de Côte d’Ivoire (tiếng Pháp) | |||||
|
|||||
Khẩu hiệu | |||||
Union - Discipline - Travail (Tiếng Pháp: "Đoàn kết - Kỷ luật - Lao động") |
|||||
Quốc ca | |||||
L'Abidjanaise | |||||
Hành chính | |||||
Chính phủ | Cộng hòa tổng thống | ||||
• Tổng thống • Thủ tướng |
Alassane Ouattara Guillaume Soro |
||||
Ngôn ngữ chính thức | Tiếng Pháp | ||||
Thủ đô | Yamoussoukro |
||||
Thành phố lớn nhất | Abidjan (thủ đô de facto) | ||||
Địa lý | |||||
Diện tích | 322.460 km² (hạng 67) | ||||
Diện tích nước | 1,4 % | ||||
Múi giờ | GMT (UTC+0) | ||||
Lịch sử | |||||
Độc lập
|
|||||
Ngày thành lập | Từ Pháp 7 tháng 8 năm 1960[1] |
||||
Dân cư | |||||
Dân số ước lượng (2005) | 17.298.040 người (hạng 57) | ||||
Dân số (1975) | ≈6.700.000 người | ||||
Mật độ | 54 người/km² (hạng 118) | ||||
Kinh tế | |||||
GDP (PPP) (2005) | Tổng số: 28,460 tỷ Mỹ kim | ||||
HDI (2003) | 0,420 thấp (hạng 163) | ||||
Đơn vị tiền tệ | Franc CFA (XOF ) |
||||
Thông tin khác | |||||
Tên miền Internet | .ci |
Dân số của Bờ Biển Ngà năm 1998 là 15.366.672 người [2], năm 2009 là 20.617.068 người.[3]
Trước khi bị người châu Âu chiếm đóng, Bờ Biển Ngà bao gồm nhiều nước nhỏ như Gyaaman, Kong Empire, và Baoulé. Ngoài ra còn có hai vương quốc Anyi, đó là Indénié và Sanwi, những quốc gia đã cố gắng duy trì sự độc lập của mình trong suốt thời kì Pháp thuộc và kể cả về sau này, khi Bờ Biển Ngà đã giành được độc lập.[4] Hiệp định 1843-1844 đã buộc Bờ Biển Ngà chấp nhận sự bảo hộ của Pháp và vào năm 1883, Bờ Biển Ngà trở thành một bộ phận của hệ thống thuộc địa của Pháp.
Bờ Biển Ngà tuyên bố độc lập vào ngày 7 tháng 8 năm 1960. Từ năm 1960 đến 1993, Bờ Biển Ngà được lãnh đạo bởi Félix Houphouët-Boigny. Trong giai đoạn này, Bờ Biển Ngà vẫn giữ mối liên kết mật thiết về kinh tế với các nước láng giềng Tây Phi cũng như các nước Châu Âu, đặc biệt là Pháp. Tuy nhiên, sau giai đoạn lãnh đạo của Houphouët-Boigny, Bờ Biển Ngà đã trải qua hai cuộc đảo chính (1999 and 2001) và một cuộc nội chiến,[5] bất chấp cuộc bầu cử [6] và một hiệp định giữa chính phủ mới và nhóm nổi loạn được kí kết mang lại hòa bình cho Bờ Biển Ngà.[7] Bờ Biển Ngà là nền cộng hòa hiện thân của sức mạnh hành pháp hoàn toàn nằm trong tay của tổng thống. Thủ đô về mặt pháp lý của Bờ Biển Ngà là Yamoussoukro và thành phố lớn nhất là thành phố cảng Abidjan. Bờ Biển Ngà có 19 vùng và 81 tỉnh. Bờ Biển Ngà là thành viên của Tổ chức Hội nghị Hồi giáo, Liên minh châu Phi, Cộng đồng Pháp ngữ, Liên minh Latin, Cộng đồng Kinh tế Tây Phi và Khu vực hòa bình và hợp tác Nam Đại Tây Dương.
Ngôn ngữ chính thức là tiếng Pháp nhưng Bờ Biển Ngà có rất nhiều thổ ngữ bao gồm tiếng Baoulé, tiếng Dioula, tiếng Dan, tiếng Anyin và tiếng Cebaara Senufo. Tôn giáo chính ở Bờ Biển Ngà là đạo Hồi, đạo Thiên Chúa và những tôn giáo bản địa khác.
Thông qua xuất khẩu cà phê và cacao, Bờ Biển Ngà là một nền kinh tế mạnh mẽ ở Tây Phi trong những năm 60 và 70 thế kỉ XX. Tuy nhiên, trong những năm 1980, Bờ Biển Ngà đã phải trải qua khủng hoảng kinh tế, khiến cho quốc gia này trở nên rối loạn về chính trị cũng như xã hội. Kinh tế Bờ Biển Ngà trong thế kỉ XXI vẫn chủ yếu giữa vào kinh tế tiểu chủ nông nghiệp.[3]
Mục lục
Từ nguyên học
Trong tiếng Việt, quốc gia này được gọi là Bờ Biển Ngà và trong nhiều ngôn ngữ khác cũng mang ý nghĩa tương tự: Elfenbeinküste trong tiếng Đức, Costa de Marfil trong tiếng Tây Ban Nha, Costa do Marfim trong tiếng Bồ Đào Nha, Ivoorkust trong tiếng Hà Lan, v.v. Vào tháng 10 năm 1985, Chính phủ nước này yêu cầu là nước được gọi Côte d'Ivoire trong mọi ngôn ngữ.Mặc dù đã có quyết định của Chính phủ Côte d'Ivoire, "Bờ Biển Ngà" vẫn là tên phổ biến nhất trong tiếng Việt và Elfenbeinküste phổ biến trong tiếng Đức [1][2]. Tuy nhiên, các chính phủ sử dụng tên "Côte d'Ivoire" với lý do ngoại giao, còn cẩm nang về văn phong báo chí thường khuyên dùng tên "Bờ Biển Ngà".
Lịch sử
Thuở sơ khai
Rất khó để xác đinh khi nào xuất hiện dấu vết đầu tiên của con người ở Bờ Biển Ngà bởi vì thời tiết ẩm ướt của Bờ Biển không cho phép lưu giữ tốt những vết tích như vậy. Tuy nhiên, sự hiện diện của các loại vũ khí thô sơ cũng như các công cụ rời rạc (đặc biệt là dấu vết của các lưỡi rìu được mài sắc trên đất sét và những gì còn sót lại của việc nấu nướng và đánh cá) chứng tỏ khả năng một số lượng lớn người đã sinh sống ở Bờ Biển Ngà là có thể trong giai đoạn Hậu đồ đá (từ năm 15.000 đến năm 10.000 trước CN),[8] hoặc ít ra là trong giai đoạn Đồ đá mới.[9]Tuy nhiên, những cư dân đầu tiên của Bờ Biển Ngà đã để lại dấu vết chứng minh cho sự tồn tại của mình rải rác khắp nơi trên vùng đất này. Những nhà sử học đều tin rằng những cư dân đầu tiên đó đã được thay thế hoặc bij đồng hóa bởi tổ tiên của cư dân Bờ Biển Ngà hiện nay bắt đầu từ thế kỉ XVI, bao gồm người Ehotilé (Aboisso), người Kotrowou (Fresco), người Zéhiri (Grand Lahou), người Ega và người Diès (Divo).[10]
Thời kỳ thuộc địa
Côte d'Ivoire là vùng đất hấp dẫn đối với các thương gia Pháp và Bồ Đào Nha từ thế kỉ 15. Họ đến đây để tìm kiếm ngà voi và nô lệ. Năm 1842, thực dân Pháp chiếm các vùng ven biển, thiết lập chế độ thuộc địa năm 1893 và sáp nhập vào lãnh thổ Tây Phi thuộc Pháp năm 1896. Năm 1934, Abidjan trở thành thủ đô, đất nước phát triển nhờ khai khẩn các đồn điền ca cao và cà phê, việc khai thác rừng được dễ dàng nhờ việc xây dựng đường sắt Abidjan-Niger kéo dài đến biên giới vùng Thượng Volta.Độc lập
Côte d'Ivoire giành độc lập năm 1960. Côte d'Ivoire cùng Dahomay (Bénin), Niger và Burkina Faso thành lập đồng minh thuế quan năm 1959. Côte d’Ivoire là một trong những nước có nền kinh tế phát triển trong vùng châu Phi cận Sahara, đứng đầu thế giới về xuất khẩu ca cao, là một trong những nước xuất khẩu cà phê hàng đầu thế giới.Houphouët-Boigny quản lý
Houphouët-Boigny trở thành Tổng thống sau khi đất nước độc lập (1960). Boigny tái đắc cử sáu lần và giữ chức này cho đến năm 1993. Lực lượng sinh viên, nông dân và thợ thuyền đã phản đối buộc Tổng thống phải hợp pháp hóa các đảng đối lập và tổ chức các cuộc bầu cử Tổng thống vào tháng 10 năm 1990. Houphouet Boigny giành thắng lợi với 81% số phiếu.Về chính trị, Houphouët-Boigny lãnh đạo Bờ Biển Ngà với chính sách "bàn tay sắt". Một số nhận xét mềm mỏng hơn cho rằng sự lãnh đạo của ông giống với hình thái "phụ quyền-gia trưởng". Không có tự do báo chí và chỉ có một chính đảng tồn tại. Điều này được một số người chấp nhận điều này như yêu cầu tất yếu nhằm mục đích tranh thủ lá phiếu của cử tri. Houphouët-Boigny cũng bị chỉ trích bởi những vấn đề liên quan các dự án quy mô lớn. Nhiều người cho rằng việc chi hàng triệu USD để cải tạo Yamoussoukro, quê hương của Houphouët Boigny, thành thủ đô mới là vô cùng lãng phí; một số người khác thì ủng hộ tầm nhìn của ông theo hướng phát triển thành phố này thành một trung tâm hòa bình, giáo dục và tôn giáo ngay giữa lòng Bờ Biển Ngà. Nhưng vào những năm đầu thập niên 80 của thế kỉ 20, suy thoái kinh té thế giới cộng với hạn hán đã tác động không nhỏ đến kinh tế Bờ Biển Ngà. Cùng với việc lạm dụng khai thác gỗ và đường bị rớt giá, nợ nước ngoài của Bờ Biển Ngà tăng lên gấp 3. Tội phạm gia tăng một cách đáng lo ngại ở Abidjan.
Vào năm 1990, hàng trăm cán bộ nhà nước và sinh viên gây bạo loạn để phản đối tình trạng tham nhũng đang hoành hành. Cuộc bạo loạn buộc chính phủ phải chuyển sang nền dân chủ đa đảng. Sức khỏe của Houphouët-Boigny ngày càng yếu và chết vào năm 1993. Ông đề cử Henri Konan Bédié là người kế nhiệm.
Bédié quản lý
Tháng 10 năm 1995, Bédié giành chiến thắng áp đảo trước phe đối lập rời rạc và thiếu tổ chức trong lần tái tranh cử. Bédié thắt chặt sự kiểm soát về chính trị, tống giam hơn 700 người ủng hộ phe đối lập. Tuy nhiên, kinh tế của Bờ Biển Ngà lại có những dấu hiệu khả quan như lạm phát giảm và chính phủ cố gắng xóa bỏ nợ nước ngoài.Khác với Houphouët-Boigny, người chủ trương tránh những mâu thuẫn sắc tộc và để ngỏ một số vị trí trong bộ máy hành chính cho những người nhập cư từ các nước láng giếng, Bản mẫu:Bedié chú trọng vào quan điểm "Ivority" (tiếng Pháp: Ivoirité) để loại bỏ đối thủ của ông ta Alassane Ouattara, vốn có bố mẹ là người phía bắc Bờ Biển Ngà, khỏi cuộc đua vào chiếc ghế tổng thống. Tuy nhiên, chính sách loại bỏ người nước ngoài này đã làm căng thẳng mối quan hệ giữa các sắc tộc khác nhau ở Bờ Biển Ngà, vốn từ trước đến nay có số lượng dân nhập cư chiếm phần lớn trong tổng số dân của cả nước.
Đảo chính năm 1999
Tương tự, Bédié đã loại bỏ nhiều đối thủ chính trị khỏi quân đội. Cuối năm 1999, một nhóm sĩ quan bất mãn với chính phủ đã tổ chức một cuộc đảo chính quân sự, đưa tướng Robert Guéï lên nắm quyền. Bédié bỏ trốn sang Pháp. Chính quyền mới đã giảm bớt tình hình tội phạm và tham nhũng, cùng với việc áp đặt giới nghiêm và vận động rộng khắp trên đường phố về một xã hội tiết kiệm hơn.Gbagbo quản lý
Cuộc bầu cử tổng thống tháng 10 năm 2000 giữa hai ứng cử viên Laurent Gbagbo và Guéï diễn ra quyết liệt nhưng hòa bình. Sự kiện nổi bật tiếp theo cuộc bầu cử tổng thống được đánh dấu bằng cuộc bạo loạn của quân đội và dân chúng Bờ Biển Ngà. Cuộc bạo loạn đã khiến 180 người chết và Guéï phải nhường lại chiếc ghế cho Gbagbo. Tòa án tối cao Bờ Biển Ngà ra quyết định phế truất Alassane Ouattara vì gốc gác Burkinabé của ông ta. Hiến pháp Bờ Biển Ngà tại thời điểm đó cũng như dưới thời Guéï không cho phép người không đáp ứng đủ yêu cầu về quốc tịch đứng ra tranh cử tổng thống. Sự kiện này đã châm ngòi cho những xô xát bạo lực giữa người ủng hộ Alassane Ouattara, chủ yếu là cư dân đến từ phía bắc Bờ Biển Ngà, và cảnh sát chống bạo động ở thủ đô Yamoussoukro.Mỗi bên đều tuyên bố thắng lợi trong cuộc bầu cử được cho là gian lận. Sự phản đối của nhân dân biến thành bạo động và buộc Tướng Guei rời khỏi nhóm quân đội nổí loạn mưu toan đảo chính. Tướng Guei và Bộ trưởng Bộ Nội vụ Doudou bị giết trong cuộc chiến giữa quân Chính phủ và phe nổi dậy. Tổng thống Laurent Gbagbo, đắc cử năm 2000, tố cáo Guei tiến hành đảo chính.
Đảo chính năm 2002
Bờ Biển Ngà vẫn còn phải đối mặt với hậu quả của cuộc khủng hoảng chính trị trong đó đỉnh điểm là vụ đảo chính năm 1999, cuộc bầu cử Tổng thống đương nhiệm Laurent Gbagbo vào năm 2000 và cuộc xung đột vũ trang năm 2002 giữa phe nổi loạn và lực lượng chính phủ. Kể từ tháng 9 năm 2002, tình hình này đã dẫn tới sự di dân ồ ạt của gần 1,7 triệu người, phá huỷ cơ sở hạ tầng kinh tế và sự rối loạn hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước.Chính phủ thống nhất 2003
Cuộc chiến vẫn tiếp tục, ngay cả sau khi một hiệp định hòa bình do Pháp làm trung gian được kí kết tháng 1 năm 2003. Hiệp định này kêu gọi Chính phủ chia sẻ quyền lực với phe nổi dậy. Tình hình vẫn còn căng thẳng mặc dầu Tổng thống cam kết sẽ khôi phục dân chủ.Hậu quả 2004 - 2007
Trong năm 2007, những thành tựu nổi bật cũng đã được ghi nhận trong việc tái lập các thẻ chế của nước Cộng hoà này. Đây là kết quả của việc thực hiện Thoả thuận chính trị Ouagadougou ký ngày 4 tháng 3 năm 2007 giữa các bên liên quan đến cuộc khủng hoảng. Tuy nhiên, Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc vẫn tỏ lo ngại về sự chậm trễ trong thực hiện tiến trình hoà bình tại Bờ Biển Ngà theo thoả thuân Ouagadougou. Đến nay, thời điểm dự định cuộc bầu cử Tổng thống vẫn chưa được ấn định.Các vùng và khu hành chính
Dân số ở các thành phố lớn
Thủ đô chính thức của Bờ Biển Ngà có dân số là Yamoussoukro (295.500 người), thành phố có dân số xếp thứ 4 trong cả nước. Abidjan, với dân số 3.310.500 người, là thành phố lớn nhất của Bờ Biển Ngà, là trung tâm thương mại và ngân hàng, thủ đô de facto của quốc giai này. Đây là thành phố có đông người nói tiếng Pháp nhất ở khu vực Tây Ph.Thành phố | Dân số |
---|---|
Abidjan | 3.310.500 |
Bouaké | 775.300 |
Daloa | 489.100 |
Yamoussoukro | 295.500 |
Korhogo | 163.400 |
San Pédro | 151.600 |
Divo | 134.200 |
Chính trị
Từ năm 1983, thủ đô chính thức của Bờ Biển Ngà là Yamoussoukro; tuy nhiên, Abidjan vẫn là trung tâm hành chính của cả nước. Hầu hết các quốc gia khác đều đặt Đại sứ quán tại Abidjan, ngoại trừ Đại sứ quán Vương quốc Anh đã chấm dứt nhiệm vụ vì những hành động bạo lực và những cuộc tấn công liên tiếp nhằm vào người châu Âu ở Bờ Biển Ngà. Người dân Bờ Biển Ngà lúc này vẫn phải chịu đựng bạo lực tiếp diễn do nội chiến. Các tổ chức quốc tế về nhân quyền đã ghi nhận Bờ Biển Ngà có những vấn đề về đối xử với dân thường bị bắt giữ của cả hai phe trong cuộc nội chiến này và sự tái trỗi dậy việc lạm dụng lao động nộ lệ trẻ em ở các đồn điền cacao. Mặc dầu chiến sự đã gần như chấm dứt vào năm 2004, nhưng Bờ Biển Ngà vẫn bị chia cắt thành hai phe, phía Bắc nămd dưới quyền kiểm soát của lực lượng "Chiến binh mới"(FN). Cuộc bầu cử tổng thống dự kiến diễn ra vào tháng 10 năm 2005 để đi đến một thỏa thuận giữa các phe phái đối địch đúng vào tháng 3 năm 2007, tuy nhiên cuộc bầu cử này vẫn bị trì hoàn nhiều lần ngay cả trong giai đoạn chuẩn bị.Thể chế Cộng hoà Tổng thống
Các đảng phái chính trị lớn: Liên minh Dân chủ Công dân, Đảng Dân chủ Bờ Biển Ngà, Đảng Lao động Bờ Biển Ngà, Liên minh Dân chủ và Hoà bình, Mặt trận nhân dân Bờ Biển Ngà (Đảng của Tổng thống Gbagbo).
Từ khi độc lập cho đến năm 1990, Đảng Dân chủ luôn nắm quyền tại Bờ Biển Ngà. Tháng 11 năm 1990, cuộc bầu cử Quốc hội đa đảng đầu tiên được tổ chức (có 19 đảng đối lập tham gia) nhưng đảng Dân chủ của ông F.H Boigny vẫn giành đa số tuyệt đối và tiếp tục nắm quyền (148/175 ghế trong Quốc hội).
Tình hình chính trị – xã hội hiện nay
Ngày 28 tháng 11 năm 2010 đã diễn ra cuộc bầu cử Tổng thống vòng hai giữa hai ứng cử viên là ông Laurent Gbagbo, Tổng thống mãn nhiệm (lên nắm quyền từ năm 2000) và ông Alasane Ouattara, nguyên là Thủ tướng nước này. Ngày 2 tháng 12 năm 2010, Chủ tịch Ủy ban Bầu cử độc lập Bờ Biển Ngà chính thức thông báo kết quả bầu cử với việc ông Alasane Ouattara giành 54,10% số phiếu (được thế giới thừa nhận là Tổng thống) và ông Laurent Gbagbo giành 45,90% số phiếu. Tuy nhiên, Tổng thống mãn nhiệm Gbagbo đã tố cáo lực lượng phiến loạn miền Bắc nước này gian lận bầu cử và không công nhận kết quả trên. Vì vậy, bạo lực đã nổ ra giữa hai phe ủng hộ hai Tổng thống. Việc ông Gbagbo không chấp nhận thất bại đã đẩy nước này vào cuộc nội chiến với hàng nghìn người bị thiệt mạng và hàng triệu người dân phải chạy khỏi Bờ Biển Ngà. Sau 4 tháng không chịu nhượng bộ, dinh thự của ông Gbagbo đã bị quân đội của tổng thống đắc cử Alassane Ouattara tấn công hôm 11 tháng 4 và ông Gbagbo bị bắt giữ.Địa lý
Kinh tế
Việc duy trì mối liên hệ chặt chẽ với Pháp sau khi giành độc lập từ năm 1960, tính đa dạng trong xuất khẩu nông nghiệp cũng như việc khuyến khích đầu tư của nước ngoài là những nhân tố chủ yếu của kinh tế Bờ Biển Ngà. Trong những năm trở lại đây, Bờ Biển Ngà phải đối mặt với sự rớt giá và cạnh tranh mạnh mẽ của cà phê và ca cao trên thị trường nông sản thế giới. Chính điều này cùng với tham nhũng trong nước cao khiến cho cuộc sống cũng như xuất khẩu của người nông dân ngày càng trở nên khó khăn hơn.Bờ Biển Ngà là một nước có tài nguyên phong phú, đặc biệt có nhiều kim cương, măng gan và sắt.
Ngành công nghiệp, nông nghiệp của Côte d'Ivoire phát triển khá cân đối. Bờ Biển Ngà là nhà xuất khẩu hàng đầu thế giới về ca cao và từ vài năm nay nước này còn có thêm nguồn thu xuất khẩu từ dầu lửa ngoài khơi. Tuy nhiên thu nhập của Côte d'Ivoire vẫn dựa chủ yếu vào sản xuất nông nghiệp (70% dân số sống bằng nghề nông). Bên cạnh đó nền công nghiệp của Bờ Biển Ngà cũng khá phát triển như: công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng dệt, da, hoá chất, khai khoáng, sản phẩm gỗ, sửa chữa và đóng tàu.
Về ngoại thương, năm 2010, kim ngạch xuất khẩu của Bờ Biển Ngà đạt 10,25 tỷ USD với các sản phẩm ca cao, cà phê, gỗ, dầu lửa, bông, chuối, dứa, dầu cọ, cá. Các đối tác xuất khẩu chính gồm Hà Lan 13.92%, Pháp 10.75%, Mỹ 7.79%, Đức 7.2%, Nigeria 6.99%, Ghana 5.56%. Năm 2010, kim ngạch nhập khẩu của Bờ Biển Ngà đạt 7 tỷ USD với các mặt hàng chính là dầu thô, máy móc trang thiết bị, lương thực, thực phẩm. Do sản xuất lúa trong nước chưa đáp ứng được nhu cầu của người dân nên mỗi năm, Bờ Biển Ngà phải mua khoảng 900.000 tấn gạo.
Các đối tác nhập khẩu chính gồm Nigeria 20.75%, Pháp 14.19%, Trung Quốc 7.18%, Thái Lan 5.09%.
Mặc dù trải qua gần 1 thập kỷ bất ổn chính trị nhưng Bờ Biển Ngà vẫn được xem là một trong những nền kinh tế hàng đầu khu vực Tây Phi. Với vị trí địa lý chiến lược, nguồn tài nguyên thiên nhiên, nông nghiệp, lâm nghiệp phong phú, nước này tiếp tục duy trì vai trò là nhà cung cấp hàng hoá và dịch vụ chính cho các nước láng giềng như Guinea, Mali, Burkina Faso… Cảng biển Abidjan và tuyến đường sắt nối Abidjan với thủ đô Ouagadouro (Burkina Faso) vẫn là tuyến đường xuất nhập cảnh ưu tiên, nhất là đối với những nước nằm sâu trong lục địa, mang lại nguồn thu ngoại tệ quan trọng cho ngân sách quốc gia.
GDP: 23,18 tỷ USD (2009)
Tỷ lệ tăng trưởng GDP: 3,8% (2009)
GDP bình quân đầu người: 1.100 USD (2009)
Dân số
77% dân số là người Bờ Biển Ngà, bao gồm nhiều dân tộc va nhóm ngôn ngữ khác nhau. Ở Bờ Biền Ngà có khoảng 65 ngôn ngữ. Phổ biến nhất là tiếng Dyula, được dùng trong giao dịch buôn bán và những người Hồi giáo.Tiếng Pháp, ngôn ngữ chính thức của Bờ Biển Ngà, được giảng dạy trong trường học và là ngôn ngữ được sử dụng giữa các nhóm dân tộc khác nhau. Bờ Biển Ngà có 3 nhóm tôn giáo chính đó là đạo Hồi, đạo Thiên Chúa và những người theo thuyết vật linh.[3] Là một quốc gia có kinh tế ổn định ở khu vực Tây Phi nên Bờ Biển Ngà thu hút đến 3,4 triệu lao động đến từ các nước láng giềng như Liveria, Burkina Faso và Guinea, chiếm tới 20% dân số của Bờ Biển Ngà. Hơn 2/3 trong số những lao động này là người Hồi Giáo.
4% dân số Bờ Biển Ngà không phải là người gốc Phi. Họ là người Pháp,[11] Liban,[12] Việt Nam và Tây Ban Nha.
Văn học, nghệ thuật truyền thống và tượng hình, các công trình kiến trúc
Văn học Bờ Biển Nga rất đa dạng và phong phú từ phong cách cho đến những câu thành ngữ, tục ngữ có nguồn gốc tương đối vững chắc từ việc biên tập cho đến các tác giả có uy tín. Trong số những tác giả nổi tiếng, có thể kể đến Bernard Dadié, phóng viên, nhà văn, nhà soạn kịch, tiểu thuyết gia và cũng là nhà thơ đã thống trị văn đàn Bờ Biển Ngà ngay từ những năm 30 hay là Aké Loba (với L'Étudiant noir, 1960) và Ahmadou Kourouma (với Les Soleils des indépendances, 1968) đã nhận được giải thưởng Prix du Livre Inter vào năm 1998 cho tác phẩm mà đã trở thành kinh điển đối với văn học châu Phi En attendant le vote des bêtes sauvages[13].Nét đặc trưng của nghệ thuật Bờ Biển Ngà xuất hiện trong nhiều vật dụng hàng ngày bằng các chất liệu đa dạng. Nghệ thuật này có mặt trên khắp đất nước, là minh chứng cho phong cách sống ở quốc gia này. Ví dụ như việc đan thúng, điêu khắc, chạm khắc gỗ, tạc tượng đã sử dụng rất nhiều chất liệu như gỗ, đồng, mây và tre...
Mặt nạ Dan, Baoulés, Gouros, Guérés và Bétés rất nổi tiếng ở Bờ Biển Ngà. Ngoài ra, nghề dệt tiếng tăm của những người Baoulés và những người Sénoufos đã trở thành bộ môn nghệ thuật hội họa trên nền vải. Những bức tượng nhỏ bằng đồng vốn xưa kia dùng để cân vàng nay lại được dùng làm vật trang trí, nhất là trong văn hóa Akan. Tuy nhiên, tất cả người dân Bờ Biển Ngà đều chia sẻ với nhau những vũ điệu truyền thống trên âm thanh của những nhạc cụ phổ biến như (tam-tams, balafon). Một số vũ điệu còn nổi tiếng khắp cả đất nước như: Temate của Facobly, Gouessesso và Danané, Boloye của vùng sénoufo, Zaouli của vùng gouro. Cũng nên nhắc đến những đồ sành sứ thủ công được chế tác bởi phụ nữ Bờ Biển Ngà, trong số đó nổi tiếng nhất là đồ sành sứ Katiola.
Di sản văn hóa này có sẵn và rất dồi dào. Rất nhiều tác phẩm truyền thống (đặc biệt là điêu khắc) được bày bán cho khách du lịch dừng chân ở các thành phố nghỉ mát nổi tiếng như Grand-Bassam hay Assinie. Một số khác còn được trưng bày trong các phòng triển lãm nghệ thuật hoặc tại viện bảo tàng văn hóa ở Abidjan.
Một số họa sĩ như Gilbert G. Groud và Michel Kodjo thường xuyên có những tác phẩm giá trị trong khi đó, mảng truyện tranh thuộc về Zohoré Lassane, họa sĩ phác thảo và cũng là người sáng lập ra tờ nhật báo hài hước và châm biếm Gbich !.
Có thể thấy ở Bờ Biển Ngà sự đa dạng trong những công trình lịch sử. Grand-Bassam, kinh đô đầu tiên của Bờ Biển Ngà chính là nơi tọa lạc của Dinh tổng trấn (Palais de Gouverneur), nơi đầu tiên chính quyền thuộc địa Pháp đặt trụ sở. Dinh thự này được sơ tác ở Pháp sau đó được xây dựng và hoàn thiện tại chính Bờ Biển Ngà vào năm 1983. Thành phố Grand-Bassam còn có khá nhiều công trình kiến trúc tuyệt đẹp theo lối kiến trúc thuộc địa kết hợp với chất liệu xây dựng bản địa như tòa nhà Varlet hay tòa nhà Ganamet thuộc về những thương gia giàu có.
Ở Abidjan, đại giáo đường Saint-Paul là một công trình kiến trúc rất đặc biệt có 2 mặt được làm hoàn toàn bằng kính theo dấu ấn của những người truyền giáo ở Châu Phi. Ở Yamoussoukro, Nhà thờ Đức Bà hòa bình được khánh thành bởi Giáo hoàng Jean-Paul II vào năm 1990. Nhà thờ này cũng là phiên bản của Nhà thờ lớn Saint-Pierre ở Roma và có thể đón tiếp 18000 đứng trong điện. Hơn nữa, đó được coi là một trong những kiến trúc tôn giáo lớn nhất trên thế giới về chiều cao và diện tích.[14][15] Người ta đã tiêu tốn khoảng 300 triệu USD để xây dựng côn trình kiến trúc này [16]. Bên cạnh đó, còn phải nhắc đến tòa nhà của Quỹ hòa bình Félix Houphouët-Boigny nổi tiếng.
Ở phía Bắc đất nước, những kiến trúc Hồi giáo theo phong cách Sudan xuất hiện từ thời kì đế chế Mali ở thế kỉ 14 cũng rất đáng chú ý. Theo các chuyên gia, đáng kể nhất trong số đó là nhà thờ Kaouara (tỉnh Ouangolodougou), nhà thờ Tengréla, nhà thờ Kouto, nhà thờ Nambira, hai nhà thờ khác ở Kong đều mang giá trị văn hóa, kiến trúc, lịch sử nhất định.[17].
Thể thao, truyền thông, giải trí
Người dân Bờ Biển Ngà rất ưa thích thể thao. Từ các sân golf ở Abidjan, Yamoussoukro và San-Pédro, Bờ Biển Ngà có thể tổ chức những cuộc thi đấu golf 9 lỗ hoặc 18 lỗ. Hằng năm, giải đấu golf quốc tế mở rộng mang tên Félix Houphouët Boigny vẫn diễn ra đều đặn ở Bờ Biển Ngà với sự tham gia của nhiều vận động viên chuyên nghiệp.Những vùng phá và biển tạo cho Bờ Biển Ngà cơ hội phát triển nhiều môn thể thao dưới nước như lặn, lướt ván, đua thuyền buồm, canoe-kayak và bóng chuyền bãi biển. Đua ngựa và đua xe cũng rất phổ biến ở Bờ Biển Ngà. Bên cạnh đó còn có bóng ném, bóng rổ, bóng chuyền, bóng bầu dục, điền kinh và quần vợt.
Tuy nhiên, bóng đá luôn là môn thể thao số một ở Bờ Biển Ngà. Bóng đá thu hút nhiều người dân tham gia tập luyện, kể cả những khu vực hẻo lánh nhất của đất nước. Mỗi thành phố, thậm chí là mỗi khu phố đều tổ chức một giải đấu bóng đá riêng.
Liên đoàn bóng đá quốc gia Bờ Biển Ngà đã tổ chức và đưa vào thi đấu giải bóng đá cấp quốc gia Bờ Biển Ngà. Trong giải đấu này, hai đội bóng là Africa Sports National và ASEC Mimosas luôn tỏ ra vượt trội so với các đội bóng còn lại. Rất nhiều cầu thủ Bờ Biển Ngà đang phát triển sự nghiệp ở nước ngoài trong những đội bóng danh giá nhất thế giới. Chính những cầu thủ thi đấu ở nước ngoài này là nguồn lực chính cho đội tuyển bóng đá quốc gia Bờ Biển Ngà ở các giải đấu quốc tế.
Trong quá khứ, với sự dẫn dắt của những cầu thủ như Ben Badi, Gadji Celi et Alain Gouaméné, bóng đá Bờ Biển Ngà đã đạt được những thành công nhất định. Đến thế hệ của Didier Drogba, Bờ Biển Ngà lần đầu tiên đã góp mặt tại vòng chung kết bóng đá thế giới 2006.
Trong lĩnh vực truyền thông, Bờ Biển Ngà có đầy đủ các cơ quan phụ trách nghe nhìn, báo viết, kể cả các cơ quan quản lý chuyên nghiệp tuân theo sự điều hành của Ủy ban quốc gia về báo chí mà sau này là Hội đồng báo chí quốc gia (CNP), Hội đồng nghe nhìn quốc gia (CNCA) và một tổ chức tự quản giám sát đạo đức và tự do báo chí (OLPED).
Từ năm 1991, truyền thông của Bờ Biển Ngà được điều chỉnh bởi đạo luật số 91-1034 [18] · [19] · [20] về hoạt động báo chí chuyên nghiệp. Đài phát thanh truyền hình Bờ Biển Ngà (RTI) thuộc về nhà nước, được hỗ trợ tài chính nhờ tiền bản quyền, quảng cáo và các nguồn ủng hộ khác. Bao gồm 2 kênh truyền hình và 2 trạm phát thanh: La Première, TV2 - kênh giải trí phát sóng trong khu vực bán kính 200 km ở Abidjan, Radio Côte d'Ivoire, Fréquence 2 - kênh giải trí, Radio Jam, kênh radio tư nhân đầu tiên của Bờ Biển Ngà; Africahit Music TV.
Nhiều đầu báo khác nhau phần lớn đều tập trung ở Abidjan. Ngoài Tập đoàn báo buổi sáng Bác Ái (Groupe Fraternité Matin) với khoảng 25000 ấn bản mỗi ngày, 15 đầu báo khác đều do các công ty tư nhân nắm giữ.
Âm nhạc của Bờ Biển Ngà pha trộn nhiều trào lưu khác nhau, trong đó có thể kể đến những nhạc sĩ tiên phong như Ziglibithy, Gbégbé, Lékiné hay nhóm những nhạc sĩ thuộc thế hệ thứ hai (Zouglou, Zoblazo, Mapouka,Youssoumba...) và nhóm nhạc sĩ thuộc trào lưu hiện đại (Coupé-décalé). Âm nhạc Bờ Biển Ngà là sự kết hợp của nhiều điệu nhạc khiêu vũ.
Hài kịch rất được ưa chuộng ở Bờ Biển Ngà, đặc biệt là tác phẩm trào phúng của Digbeu Cravate, Zoumana, Adjé Daniel, Gbi de Fer, Jimmy Danger, Doh Kanon, Adrienne Koutouan, Marie Louise Asseu, Adama Dahico, Bamba Bakary, duo Zongo và Tao sản xuất, biểu diễn trên sân khấu và truyền hình.
Năm 2004, với sự phát triển của công nghệ kĩ thuật số, điện ảnh Bờ Biển Ngà đã cho ra đời hàng loạt bộ phim như Coupé-décalé (Fadiga de Milano đạo diễn) hay Le Bijou du sergent Digbeu [21] của Alex Kouassi, Signature của Alain Guikou hay là Un homme pour deux sœurs của Marie-Louise Asseu. Tính cho đến thời điểm hiện tại, trung bình cứ 3 tháng lại có một bộ phim được xuất xưởng. Những bộ phim này còn nhiều yếu kém về kĩ thuật (do hình ảnh hoặc âm thanh) nhưng sự hữu ích của công nghệ kĩ thuật số thật sự đã tạo ra bước ngoặt cho điện ảnh Bờ Biển Ngà.
Festival về nghệ thuật châu Phi Marché des arts du spectacle africain - MASA được tổ chức lần đầu tiên vào năm 1993 bởi Tổ chức Pháp ngữ, đến tháng 3 năm 1998 đã nhanh chóng trở thành một chương trình có tính chất quốc tế nhằm phát triển những nghệ thuật hiện có tại châu Phi. Chương trình này là một dự án nghệ thuật liên quốc gia của châu Phi bao gồm một hội chợ về nghệ thuật trình diễn, một diễn đàn của những người làm nghệ thuật và một festival diễn ra hai năm một lần ở Abidjan.[22].
Faya Flow là cuộc thi hip hop lớn nhất ở Bờ Biển Ngà. Được tổ chức bởi Hiệp hội Tuổi trẻ Hip hop Năng động (JACH, đọc là "jack") từ năm 2005, cuộc thi này nhằm mục đích thông qua hip hop tìm kiếm, phát hiện và giúp đỡ những tài năng ca hát và văn nghệ cho Bờ Biển Ngà.
Tham khảo
- ^ Bờ Biển Ngà
- ^ (tiếng Pháp) Premiers résultats définitifs du RGPH-98 (Recensement Général de la Population et de l’Habitation de 1998), Abidjan: Institut National de la Statistique, Bureau Technique Permanent du Recensement, 2002.
- ^ a ă â “Côte d'Ivoire”, The World Factbook, CIA Directorate of Intelligence, 24 tháng 7 năm 2008, truy cập 8 tháng 8 năm 2008.
- ^ Library of Congress Country Studies, Library of Congress, Tháng 11 năm 1988, truy cập 11 tháng 4 năm 2009
- ^ (tiếng Pháp) “Loi n° 2000-513 du 1er août 2000 portant Constitution de la République de Côte d’Ivoire”, Journal Officiel de la République de Côte d’Ivoire 42 (30), 3 tháng 8 năm 2000: 529–538, truy cập 7 tháng 8 năm 2008.
- ^ Background Note: Cote d'Ivoire, United States Department of State, Tháng 7 năm 2008, truy cập 7 tháng 8 năm 2008.
- ^ (tiếng Pháp) Accord politique de Ouagadougou, Presidency of the Republic of Côte d'Ivoire, 4 tháng 3 năm 2007, truy cập 7 tháng 8 năm 2008
- ^ Guédé, François Yiodé (1995), “Contribution à l'étude du paléolithique de la Côte d'Ivoire: État des connaissances”, Journal des africanistes 65 (2): 79–91, doi:10.3406/jafr.1995.2432, ISSN 0399-0346.
- ^ Rougerie 1978, tr. 246.
- ^ Kipré 1992, tr. 15–16.
- ^ “Ivory Coast – The Economy”. Countrystudies.us. Truy cập ngày 20 tháng 6 năm 2010.
- ^ “Ivory Coast – The Levantine Community”. Countrystudies.us. Truy cập ngày 20 tháng 6 năm 2010.
- ^ Littérature africaine
- ^ (tiếng Pháp) Villes et villages, La Basilique Notre Dame de la Paix sur ReseauIvoire. Consulté le 9 juillet 2008
- ^ (tiếng Pháp) Côte d'Ivoire, des faits sur de la Basilique Notre Dame de Paix sur Abidjan.net. Consulté le 9 juillet 2008
- ^ (tiếng Anh) Everything Basilique Notre Dame de Paix sur The Everything Development Company. Consulté le 9 juillet 2008
- ^ (tiếng Pháp)Bản mẫu:Lire en ligne
- ^ (tiếng Pháp) Loi n°91-1033 du 31 décembre 1991 portant régime juridique de la presse, Journal Officiel de la République de Côte d'Ivoire, n° 2 du 9 janvier 1992
- ^ (tiếng Pháp) loi n° 91-1034 du 31 décembre 1991 portant statut des journalistes professionnels, Journal officiel de la République de Côte d'Ivoire, n° 2 du 9 janvier 1992
- ^ (tiếng Pháp) loi n°91-1001 du 27 décembre 1991 fixant le régime de la communication audiovisuelle, Journal Officiel de la République de Côte d'Ivoire, n° 2 du 9 janvier 1992
- ^ (tiếng Pháp) Marcel Appena, « Actualités-culture, Digbeu Cravate, acteur principal du film Le Bijou du sergent Digbeu: Nous tirons à boulets rouges sur les policiers… » sur Le matin d'Abidjan.com, 2008. Consulté le 4 Mai 2007
- ^ (tiếng Pháp) Présentation du Masa sur site du Masa. Consulté le 27 avril 2008
Liên kết ngoài
- Government
- (tiếng Pháp) Présidence de la République de Côte d'Ivoire Official Site of the Ivoirian President
- Embassy of Côte d'Ivoire in Japan government information and links
- Embassy of Côte d'Ivoire in Scandinavia
- Chief of State and Cabinet Members
- General information
- Country Profile from BBC News
- Cote-D'Ivoire from the Encyclopaedia Britannica
- Mục “Cote d'Ivoire” trên trang của CIA World Factbook.
- Cote d'Ivoire from UCB Libraries GovPubs
- Bờ Biển Ngà tại Dự án thư viện mở (trang đề nghị)
- Wikimedia Atlas của Côte d'Ivoire, có một số bản đồ liên quan đến Côte d'Ivoire.
- News
- allAfrica – Côte d'Ivoire news headline links
- Abidjan.Net news forum links
- Tourism
Wikivoyage có chỉ dẫn du lịch về Côte d'Ivoire |
- Other
- Cote D'Ivoire literature
- Map of Côte d'Ivoire
- (tiếng Pháp) Parti Ivoirien du Peuple
- Akwaba in Ivory Coast
- French intervention in Ivory Coast 2002–2003
- Crisis briefing on Ivory Coast's recovery from war from Reuters AlertNet
- Safer Access – A Precis of the Historical Security Context in Cote d'IvoirePDF (193 KiB)
Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về Bờ Biển Ngà |
Thể loại:
Chiến dịch Guadalcanal, còn gọi là Trận Guadalcanal, và tên mã của Đồng Minh là Chiến dịch Watchtower, diễn ra từ ngày 7 tháng 8 năm 1942 đến ngày 9 tháng 2 năm 1943 trên đảo Guadalcanal và khu vực phụ cận tại quần đảo Solomon của Mặt trận Thái Bình Dương trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Việc tranh chấp diễn ra ác liệt cả trên bộ, trên biển và trên không; chiến dịch này là cuộc tấn công lớn đầu tiên của phe Đồng Minh chống lại Đế quốc Nhật Bản sau một thời gian dài phòng thủ.[8]
Vào ngày 7 tháng 8 năm 1942, lực lượng Đồng Minh, chủ yếu là Mỹ, thực hiện đổ bộ lên các đảo Guadalcanal, Tulagi, và Florida (Nggela Sule) phía Nam quần đảo Solomon với mục tiêu ngăn chặn quân Nhật sử dụng chúng làm căn cứ đe dọa con đường vận chuyển từ Mỹ đến Australia và New Zealand. Đồng Minh còn định sử dụng Guadalcanal và Tulagi như những căn cứ hỗ trợ cho chiến dịch chiếm đóng hoặc vô hiệu hóa căn cứ chủ lực của Nhật tại Rabaul trên đảo New Britain. Lực lượng Đồng Minh đã áp đảo số lượng quân Nhật phòng thủ nhỏ bé, vốn đã chiếm đóng các đảo này từ tháng 5 năm 1942, chiếm giữ Tulagi và Florida cùng một sân bay (sau này được đặt tên là Henderson[9]) đang được xây dựng trên đảo Guadalcanal.
Bị bất ngờ bởi đòn tấn công của Đồng Minh, phía Nhật Bản từ tháng 8 đến tháng 11 năm 1942 đã nhiều lần tìm cách chiếm lại sân bay Henderson. Ba trận chiến lớn trên bộ, năm trận hải chiến lớn, và các cuộc không chiến diễn ra liên tục hầu như hàng ngày, mà đỉnh điểm là trận Hải chiến Guadalcanal mang tính quyết định vào đầu tháng 11 năm 1942, trong đó nỗ lực cuối cùng nhằm tăng viện đủ số lượng binh lính để chiếm lại sân bay Henderson bị đánh bại. Sang tháng 12 năm 1942, phía Nhật từ bỏ mọi hy vọng tái chiếm Guadalcanal và triệt thoái các lực lượng còn lại vào ngày 7 tháng 2 năm 1943.
Chiến dịch Guadalcanal đánh dấu một chiến thắng chiến lược đáng kể nhờ phối hợp các binh chủng bởi lực lượng Đồng Minh đối với Nhật Bản tại mặt trận Thái Bình Dương. Quân Nhật đã đạt đến cao trào trong sự xâm chiếm của họ tại Thái Bình Dương, và Guadalcanal đánh dấu sự chuyển mình của Đồng Minh từ các chiến dịch phòng thủ sang tấn công chiến lược tại mặt trận này.
Hai dự tính của Nhật Bản muốn duy trì thế chủ động chiến lược và mở rộng vành đai phòng thủ về phía Nam và Trung Thái Bình Dương đã bị ngăn trở trong những trận hải chiến tại biển Coral và Midway. Midway không chỉ là một chiến thắng lớn đầu tiên của phía Đồng Minh trước đối thủ Nhật Bản chưa hề nếm mùi chiến bại, nó còn làm suy giảm đáng kể khả năng tấn công của lực lượng tàu sân bay Nhật. Cho đến lúc này, phía Đồng Minh vẫn còn trong thế phòng ngự tại Thái Bình Dương, nhưng những thắng lợi chiến lược này cho họ cơ hội lấy lại quyền chủ động chiến lược từ tay quân Nhật.[11]
Đồng Minh đã chọn quần đảo Solomon, một vùng đất dưới quyền bảo hộ của Anh, đặc biệt là các đảo phía Nam gồm Guadalcanal, Tulagi, và Florida như những mục tiêu ban đầu.[12] Hải quân Nhật đã chiếm đóng Tulagi vào tháng 5 năm 1942 và xây dựng một căn cứ thủy phi cơ gần đó. Sự lo ngại của phía Đồng Minh gia tăng, khi vào đầu tháng 7 năm 1942, Hải quân Nhật bắt đầu xây dựng một sân bay lớn tại Lunga Point trên đảo Guadalcanal kế cận. Đến tháng 8 năm 1942, quân Nhật có khoảng 900 lính hải quân trú đóng tại Tulagi và các đảo lân cận, và 2.800 người trên đảo Guadalcanal (2.200 trong số đó là lao động người Triều Tiên và các chuyên viên xây dựng Nhật Bản dân sự). Các căn cứ này, một khi hoàn tất, sẽ bảo vệ cho căn cứ trọng yếu của quân Nhật tại Rabaul, đe dọa con đường tiếp tế và liên lạc của Đồng Minh đến Australia và New Zealand, và là một khu vực tập trung quân cho chiến dịch được dự định tấn công vào Fiji, New Caledonia và Samoa. Quân Nhật dự định bố trí 45 máy bay tiêm kích và 60 máy bay ném bom đến Guadalcanal một khi sân bay hoàn tất. Những máy bay này sẽ hỗ trợ trên không cho lực lượng hải quân tiến sâu hơn vào khu vực Nam Thái Bình Dương.[13]
Kế hoạch của Đồng Minh nhằm chiếm đóng Nam Solomon là sáng kiến của Đô đốc Ernest King, Tổng tư lệnh Hạm đội Hoa Kỳ. Ông đề nghị cuộc tấn công này nhằm ngăn chặn việc quân Nhật sử dụng các hòn đảo làm căn cứ đe dọa con đường tiếp tế giữa Hoa Kỳ và Australia, và sử dụng chúng như những điểm xuất phát các cuộc tấn công trong tương lai. Được sự tán thành ngấm ngầm của Tổng thống Roosevelt, King hết lòng bênh vực cho cuộc chiếm đóng Guadalcanal. Khi Đại tướng Tổng tham mưu trưởng Lục quân George C. Marshall phản đối hoạt động trên tuyến này đồng thời đặt vấn đề ai sẽ chỉ huy chiến dịch, King nhấn mạnh rằng Hải quân và Thủy quân Lục chiến sẽ tự thân thực hiện chiến dịch này, và chỉ thị cho Đô đốc Chester Nimitz tiến hành vạch kế hoạch sơ thảo. Cuối cùng thì King cũng chiến thắng trong cuộc tranh luận, và cuộc tấn công được tiến hành dưới sự hậu thuẫn của Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân.[14]
Chiến dịch Guadalcanal được thực hiện phối hợp cùng một chiến dịch tấn công tại New Guinea dưới quyền chỉ huy của tướng Douglas MacArthur nhằm chiếm lấy các quần đảo Admiralty và Bismarck, kể cả căn cứ chủ lực của Nhật tại Rabaul. Mục tiêu cuối cùng của nó là việc Mỹ sẽ tái chiếm Philippines.[15] Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân cho thành lập Mặt trận Nam Thái Bình Dương do Phó Đô đốc Robert L. Ghormley chỉ huy kể từ ngày 19 tháng 6 năm 1942, để chỉ đạo cuộc tấn công tại khu vực Solomon. Đô đốc Chester Nimitz, đặt bộ chỉ huy tại Trân Châu Cảng, được chỉ định làm Tổng tư lệnh lực lượng Đồng Minh tại Thái Bình Dương.[16]
Để chuẩn bị cho các hoạt động sắp tới tại Thái Bình Dương, vào tháng 5 năm 1942, Thiếu tướng Thủy quân Lục chiến Alexander Vandegrift được lệnh điều động Sư đoàn 1 Thủy quân Lục chiến của ông từ Hoa Kỳ đến New Zealand. Các đơn vị lục quân, hải quân và không quân Đồng Minh khác được gửi đến để thiết lập các căn cứ tại Fiji, Samoa, New Hebrides và New Caledonia.[17] Espiritu Santo thuộc New Hebrides được chọn để đặt bộ chỉ huy và là căn cứ chính của cuộc tấn công, vốn được đặt tên mã là Chiến dịch Watchtower, và ngày dự định thực hiện được đặt ra là 7 tháng 8 năm 1942. Thoạt tiên, cuộc tấn công của Đồng Minh được vạch kế hoạch nhắm vào Tulagi và quần đảo Santa Cruz, bỏ qua Guadalcanal. Tuy nhiên, sau khi trinh sát phát hiện ra các nỗ lực xây dựng sân bay Nhật trên đảo Guadalcanal, việc chiếm nó được bổ sung vào kế hoạch, và cuối cùng việc đổ bộ lên Santa Cruz bị loại bỏ.[18] Thông qua tình báo vô tuyến, quân Nhật có biết được sự điều động quân lực với quy mô lớn tại khu vực Nam Thái Bình Dương, nhưng họ cho rằng Đồng Minh đang củng cố phòng thủ cho Australia và có thể cho Port Moresby tại New Guinea.[19]
Lực lượng tham gia Chiến dịch Watchtower, bao gồm 75 tàu chiến và tàu vận tải của cả Mỹ và Australia, được tập trung gần Fiji vào ngày 26 tháng 7 năm 1942, và tham gia một cuộc tổng dượt đổ bộ trước khi lên đường hướng đến Guadalcanal vào ngày 31 tháng 7.[20]. Chỉ huy trưởng lực lượng viễn chinh Đồng Minh tại chỗ là Phó Đô đốc Frank Fletcher, đặt cờ hiệu của mình trên tàu sân bay Saratoga. Chỉ huy lực lượng đổ bộ là Chuẩn Đô đốc Richmond K. Turner. Thiếu tướng Vandegrift dẫn đầu lực lượng bộ binh Đồng Minh khoảng 16.000 người (chủ yếu là Thủy quân Lục chiến Mỹ) để thực hiện đổ bộ.[21]
Tương phản với Tulagi, Gavutu, và Tanambogo, cuộc đổ bộ lên Guadalcanal gặp phải rất ít sự kháng cự. Lúc 09 giờ 10 phút ngày 7 tháng 8, tướng Vandegrift cùng 11.000 Thủy quân Lục chiến đổ bộ lên Guadalcanal tại địa điểm giữa Koli Point và Lunga Point. Tiến quân về phía Lunga Point, họ không gặp phải bất kỳ sự kháng cự nào ngoại trừ những cơn mưa rào nhiệt đới "lộn xộn", và họ phải dừng lại nghỉ đêm cách sân bay tại Lunga Point không đầy 900 m (1.000 yard). Ngày hôm sau, chỉ gặp sự chống cự yếu ớt, Thủy quân Lục chiến tiến đến sông Lunga và hoàn toàn kiểm soát sân bay lúc 16 giờ 00 phút ngày 8 tháng 8. Các đơn vị xây dựng hải quân và đơn vị chiến đấu Nhật Bản, dưới quyền chỉ huy của Đại úy Kanae Monzen, hoảng loạn do các loạt hải pháo và các cuộc ném bom, đã bỏ khu vực sân bay tháo chạy về phía Tây cách khoảng 5 km (3 dặm) cạnh sông Matanikau và khu vực Point Cruz, bỏ lại phía sau lương thực, tiếp liệu, xe cộ và máy móc xây dựng còn nguyên vẹn cùng 13 người chết.[29]
Trong khi cuộc đổ bộ đang diễn ra vào các ngày 7 và 8 tháng 8, máy bay Hải quân Nhật đặt căn cứ tại Rabaul dưới sự chỉ huy của Sadayoshi Yamada đã nhiều lần tấn công lực lượng đổ bộ Đồng Minh, làm cháy chiếc tàu vận tải Mỹ George F. Elliot (nó chìm hai ngày sau đó) và làm hỏng nặng chiếc tàu khu trục Jarvis.[30] Trong hai ngày giao chiến, phía Nhật mất 36 máy bay, trong khi các tàu sân bay Mỹ thiệt hại 19 chiếc do cả chiến đấu lẫn tai nạn, trong đó có 14 máy bay tiêm kích.[31]
Sau các trận không chiến này, Fletcher tỏ ý e ngại về sự thiệt hại của lực lượng tiêm kích trên các tàu sân bay của ông, về nguy cơ các tàu sân bay tiếp tục bị không kích, và về tình trạng nhiên liệu của các con tàu. Ông quyết định rút lui lực lượng đặc nhiệm tàu sân bay của mình khỏi khu vực quần đảo Solomon vào chiều tối ngày 8 tháng 8.[32] Do không có được sự yểm trợ trên không của các tàu sân bay, Turner cũng cho rút lui các tàu bè của mình khỏi khu vực Guadalcanal, cho dù chưa đến nữa các trang thiết bị hạng nặng và tiếp liệu cần thiết cho lực lượng trên bờ được bốc dỡ.[33] Dù sao, Turner cũng dự định cho bốc dỡ hàng tiếp liệu càng nhiều càng tốt cho Guadalcanal và Tulagi trong suốt đêm 8 tháng 8, và chỉ cho khởi hành các con tàu vận tải của mình vào sáng sớm ngày 9 tháng 8.[34]
Đêm hôm đó, trong khi các con tàu vận tải đang được bốc dỡ, hai nhóm tàu chiến Đồng Minh hộ tống dưới quyền chỉ huy của Chuẩn Đô đốc Hải quân Hoàng gia Victor Crutchley hoàn toàn bị bất ngờ và bị đánh bại bởi một lực lượng hạm đội Nhật bao gồm bảy tàu tuần dương và một tàu khu trục của Hạm đội 8 Nhật Bản, đặt căn cứ tại Rabaul và Kavieng dưới quyền chỉ huy của Phó Đô đốc Gunichi Mikawa. Một tàu tuần dương Australia và ba tàu tuần dương Mỹ bị đánh chìm, và một tàu tuần dương Mỹ cùng hai tàu khu trục bị hư hại trong Trận chiến đảo Savo. Lực lượng Nhật Bản chỉ bị hư hại một tàu tuần dương. Tuy nhiên, Mikawa, lo lắng về nguy cơ bị các tàu sân bay Mỹ không kích vào lúc trời sáng nếu chần chừ ở lại, và không biết rằng Fletcher đã rút lui cùng các tàu sân bay Mỹ, đã ra lệnh cho hạm đội rút lui ngay về Rabaul, bỏ qua cơ hội tấn công các con tàu vận tải mà giờ đây không được bảo vệ. Sau đó, Turner cho rút tất cả các lực lượng hải quân Đồng Minh tại khu vực vào chiều tối ngày 9 tháng 8, để lại lực lượng Thủy quân Lục chiến trên bờ mà không có đủ vũ khí hạng nặng và tiếp liệu. Tuy nhiên, quyết định của Mikawa không tấn công các con tàu vận tải Đồng Minh khi ông có cơ hội đã tỏ ra là một sai lầm chiến lược nghiêm trọng.[35]
Chiều tối ngày 12 tháng 8, một lực lượng tuần tra Thủy quân Lục chiến 25 người do Trung tá Frank Goettge dẫn đầu, chủ yếu gồm các nhân viên tình báo, đổ bộ bằng xuồng bên ngoài ngoại vi Lunga giữa Point Cruz và sông Matanikau; họ thực hiện một nhiệm vụ trinh sát, và một mục đích phụ nhằm tiếp xúc với một nhóm binh sĩ Nhật mà phía Mỹ tin rằng có ý định đầu hàng. Không lâu sau khi nhóm tuần tra đổ bộ lên bờ, họ bị một trung đội quân Nhật đóng gần đó tấn công và tiêu diệt hầu như toàn bộ nhóm tuần tra.[40]
Để đáp trả, ngày 19 tháng 8, Vandegrift tung ra ba đại đội thuộc Trung đoàn 5 Thủy quân Lục chiến tấn công quân Nhật đang tập trung tại phía Tây Matanikau. Một đại đội tấn công vượt qua cồn cát tại cửa sông Matanikau trong khi một đại đội khác vượt sông cách 1.000 m về phía nội địa và tấn công các lực lượng Nhật đóng trong làng Matanikau. Đại đội thứ ba đổ bộ bằng xuồng xa hơn về phía Tây để tấn công làng Kokumbuna. Sau khi chiếm giữ hai làng một thời gian ngắn, ba đại đội Thủy quân Lục chiến quay trở về ngoại vi Lunga sau khi diệt được khoảng 65 lính Nhật và tổn thất bốn người. Hoạt động này, đôi khi được gọi là "Trận Matanikau thứ nhất", là trận đánh đầu tiên trong nhiều hoạt động dọc sông Matanikau trong suốt chiến dịch.[41]
Ngày 20 tháng 8, chiếc tàu sân bay hộ tống Long Island chuyển giao hai phi đội máy bay Thủy quân Lục chiến đến sân bay Henderson, một phi đội 19 chiếc máy bay tiêm kích Grumman F4F Wildcat, và phi đội kia có 12 chiếc máy bay ném bom SBD Dauntless. Những chiếc máy bay tại Henderson bắt đầu được biết đến dưới tên gọi "Không lực Cactus" (Không lực Xương rồng, CAF) do tên mã mà Đồng Minh đặt cho Guadalcanal. Những chiếc máy bay tiêm kích bắt đầu hoạt động ngay ngày hôm sau, chống trả lại các cuộc ném bom Nhật Bản diễn ra hầu như hàng ngày. Đến ngày 22 tháng 8, chúng được bổ sung bởi năm chiếc P-400 Airacobra Lục quân cùng phi công.[42]
Đánh giá thấp sức mạnh của Lực lượng Đồng Minh trên đảo Guadalcanal, đơn vị của Ichiki thực hiện một cuộc tấn công trực diện ban đêm vào vị trí của Thủy quân Lục chiến tại lạch Alligator (cũng được gọi là "sông Ilu" trên bản đồ quân Mỹ) phía Đông ngoại vi Lunga vào những giờ đầu tiên của ngày 21 tháng 8. Cuộc tấn công của Ichiki bị đánh bại với tổn thất nặng cho quân Nhật, và được biết đến dưới tên gọi Trận Tenaru. Lúc trời sáng, các đơn vị Thủy quân Lục chiến phản công vào các lực lượng của Ichiki còn sống sót, tiêu diệt thêm nhiều người trong đó có chính Ichiki. Tổng cộng, chỉ còn lại 128 người trong tổng quân số 917 của Lực lượng thứ nhất Trung đoàn Ichiki. Những người sống sót quay trở về Taivu Point, báo cáo cho Bộ chỉ huy Quân đoàn 17 sự thất bại của họ, chờ đợi tăng viện và chỉ thị từ Rabaul.[44]
Cùng lúc đó, ba đội đặc nhiệm tàu sân bay Mỹ của Đô đốc Fletcher cũng tiến đến Guadalcanal để đối phó các nỗ lực tấn công của quân Nhật. Trong các ngày 24 và 25 tháng 8, hai lực lượng tàu sân bay đối đầu với nhau trong Trận chiến đông Solomon, với kết quả là cả hai hạm đội đều phải rút lui sau khi chịu một số thiệt hại, và phía Nhật bị mất một tàu sân bay hạng nhẹ. Đoàn tàu vận tải của Tanaka phải chịu tổn thất nặng bởi các cuộc không kích của Không lực Cactus từ sân bay Henderson Field, một trong số các tàu vận tải bị đánh chìm. Họ bị buộc phải chuyển hướng sang đảo Shortland phía Bắc quần đảo Solomons chuyển số binh sĩ còn sống sót sang các tàu khu trục để được chuyển đến Guadalcanal sau đó.[48]
Trong thời gian này, Vandegrift tiếp tục hướng các nỗ lực vào việc tăng cường và cải thiện việc phòng thủ ngoại vi Lunga. Từ ngày 21 tháng 8 đến ngày 3 tháng 9, ông tái bố trí ba tiểu đoàn Thủy quân Lục chiến, bao gồm Tiểu đoàn 1 Raider do Merritt A. Edson chỉ huy, và Tiểu đoàn 1 Nhảy dù từ Tulagi và Gavutu đến Guadalcanal. Các đơn vị này đã bổ sung thêm khoảng 1.500 người cho lực lượng ban đầu 11.000 người của Vandegrift để bảo vệ sân bay Henderson.[52] Tiểu đoàn 1 Nhảy dù, vốn bị tổn thất nặng trong trận Tulagi và Gavutu-Tanambogo, cùng được đặt dưới sự chỉ huy của Edson.[53] Đơn vị được tái bố trí còn lại, Tiểu đoàn 1 thuộc Trung đoàn 5 Thủy quân Lục chiến (1/5), được cho đổ bộ bằng xuồng xuống địa điểm phía Tây Matanikau gần làng Kokumbuna vào ngày 27 tháng 8 với nhiệm vụ tấn công các đơn vị Nhật Bản tại khu vực này, giống như hoạt động Matanikau lần đầu vào ngày 19 tháng 8. Tuy nhiên, lần này, Thủy quân Lục chiến bị ngăn trở bởi địa hình phức tạp, thời tiết nóng bức và sự phòng thủ của quân Nhật được bố trí chặt chẽ. Sáng hôm sau, họ phát hiện là quân Nhật phòng ngự đã rút đi trong đêm, và họ quay về Lunga bằng xuồng.[54] Tổn thất trong trận này là 20 lính Nhật và 3 lính Mỹ thiệt mạng.[55]
Các đoàn tàu vận tải nhỏ Đồng Minh đến được Guadalcanal vào các ngày 23 và 29 tháng 8, 1 và 8 tháng 9 tiếp tế cho Thủy quân Lục chiến tại Lunga thêm thực phẩm, đạn dược, nhiên liệu máy bay và nhân viên kỹ thuật máy bay. Chuyến tàu vận tải ngày 1 tháng 9 còn mang đến đảo 392 người thuộc lực lượng Công binh để duy tu và cải thiện sân bay Henderson.[56]
Từ ngày 29 tháng 8 đến ngày 4 tháng 9, nhiều tàu tuần dương hạng nhẹ, tàu khu trục và tàu tuần tra đã có thể chuyển khoảng 5.000 binh sĩ đến Taivu Point, bao gồm hầu hết Lữ đoàn 35 bộ binh, phần lớn Trung đoàn 4 bộ binh Aoba và phần còn lại của Trung đoàn Ichiki. Tướng Kawaguchi, người đã đổ bộ lên Taivu Point ngày 31 tháng 8, được đặt làm chỉ huy toàn bộ lực lượng Nhật Bản trên đảo Guadalcanal.[59] Một chuyến vận chuyển khác đã đưa 1.000 binh sĩ thuộc Lữ đoàn Kawaguchi dưới quyền chỉ huy của Đại tá Akinosuke Oka lên Kamimbo, phía Tây ngoại vi Lunga.[60]
Cùng lúc đó, lính trinh sát bản địa dưới sự chỉ huy của Martin Clemens, một trinh sát duyên hải nguyên là sĩ quan của Lực lượng Phòng vệ Lãnh thổ Bảo hộ Solomon, và dưới sự chỉ đạo của sĩ quan Anh tại Guadalcanal, đã mang báo cáo đến Bộ chỉ huy Thủy quân Lục chiến về tình hình quân Nhật tại Taivu, gần làng Tasimboko. Edson vạch ra một cuộc đột kích vào lực lượng Nhật Bản đang tập trung tại Taivu.[63] Vào ngày 8 tháng 9, sau khi đổ bộ xuống gần Taivu bằng xuồng, người của Edson đã chiếm lấy Tasimboko trong khi lực lượng bảo vệ Nhật rút lui vào rừng.[64] Tại Tasimboko, lực lượng của Edson tìm thấy kho dự trữ tiếp liệu chính của Kawaguchi, bao gồm lượng thực phẩm dự trữ lớn, đạn dược, thuốc men và cả một điện đài sóng ngắn công suất lớn. Sau khi tiêu hủy tất cả những gì trông thấy ngoại trừ một số tài liệu và thiết bị có thể mang theo được, Thủy quân Lục chiến quay trở về khu vực ngoại vi Lunga. Số lượng lớn hàng tiếp liệu tìm thấy, cùng với tin tức tình báo có được do các tài liệu tịch thu, cho phép Thủy quân Lục chiến biết được có ít nhất 3.000 quân Nhật đang hiện diện trên đảo và rõ ràng đang vạch một kế hoạch tấn công.[65]
Edson, cùng với Đại tá Gerald Thomas, trưởng phòng hành quân trong bộ tham mưu của Vandegrift, đã dự đoán chính xác rằng cuộc tấn công của quân Nhật sẽ được thực hiện dọc theo một dãy đồi san hô hẹp mọc đầy cỏ, dài khoảng 900 m (1000 yard) chạy song song với sông Lunga ở ngay phía sau sân bay Henderson. Dãy đồi này, được gọi là đồi Lunga, cung cấp một con đường tự nhiên tiếp cận đến sân bay, khống chế được cả khu vực chung quanh, nhưng quan trọng nhất là cho đến lúc đó hầu như không được bảo vệ. Vào ngày 11 tháng 9, 840 người trong tiểu đoàn của Edson được bố trí trên dãy đồi và khu vực chung quanh.[66]
Đêm 12 tháng 9, Tiểu đoàn 1 của Kawaguchi tấn công đơn vị Raider giữa sông Lunga và dãy đồi, buộc một đại đội Thủy quân Lục chiến phải rút lui về dãy đồi trước khi quân Nhật dừng cuộc tấn công lúc trời sáng. Đêm tiếp theo, đối đầu với 830 người trong lực lượng Raider của Edson là 3.000 quân trong lữ đoàn Kawaguchi cùng một lực lượng pháo binh nhẹ. Quân Nhật bắt đầu tấn công ngay khi trời vừa tối, Tiểu đoàn 1 của Kawaguchi tấn công sườn phải của Edson về phía Tây dãy đồi. Sau khi chọc thủng đội hình của Thủy quân Lục chiến, cuối cùng cuộc tấn công của tiểu đoàn bị chặn đứng bởi lực lượng Thủy quân Lục chiến phòng thủ phần phía Bắc của dãy đồi.[67]
Hai đại đội thuộc Tiểu đoàn 2 Kawaguchi tấn công vào phần phía Nam dãy đồi và đẩy lui lực lượng của Edson về Đồi 123 tại phần trung tâm của dãy đồi. Suốt đêm, Thủy quân Lục chiến tại điểm cao này, dưới sự trợ giúp của pháo binh, đã đẩy lui quân Nhật tấn công trực diện hết đợt này đến đợt khác, đôi khi phải kết thúc bằng những cuộc giáp lá cà. Những đơn vị Nhật lọt qua được dãy đồi tiến đến rìa sân bay cũng bị đánh lui. Các cuộc tấn công của tiểu đoàn Kuma và của đơn vị Oka tại các địa điểm khác trong phần ngoại vi Lunga đều bị đánh bại. Vào ngày 14 tháng 9, sau năm ngày chiến đấu căng thẳng, Kawaguchi dẫn đầu những người còn sống sót trong lữ đoàn bị tiêu tan của ông đi về hướng Tây tại thung lũng Matanikau để sáp nhập với đơn vị của Oka.[68] Tổng cộng, lực lượng của Kawaguchi có 850 người chết trong khi Thủy quân Lục chiến mất 104 người.[69]
Ngày 15 tháng 9, Hyakutake tại Rabaul biết được tin tức về thất bại của Kawaguchi và báo cáo tin tức này về Bộ tổng tư lệnh Đế quốc tại Nhật Bản. Trong một cuộc họp khẩn cấp, lãnh đạo cao cấp của Lục quân và Hải quân Nhật đều đưa ra kết luận rằng "Guadalcanal có thể phát triển thành một trận chiến quyết định của cuộc chiến". Kết quả của trận chiến này sẽ có ảnh hưởng chiến lược mạnh mẽ đến các hoạt động tại các khu vực khác của Thái Bình Dương. Hyakutake ý thức rằng để thi hành mệnh lệnh tập trung đầy đủ nhân lực và phương tiện để có thể đánh bại lực lượng Đồng Minh tại Guadalcanal, ông không thể đồng thời hỗ trợ cho chiến dịch tấn công đang diễn ra trên đường mòn Kokoda tại New Guinea. Hyakutake, với sự tán thành của Bộ tổng tư lệnh, đã ra lệnh cho lực lượng của ông tại New Guinea, vốn chỉ còn cách mục tiêu cảng Moresby không đầy 48 km (30 dặm), rút lui cho đến khi "vấn đề Guadalcanal " được giải quyết. Hyakutake bắt đầu chuẩn bị để gửi thêm nhiều quân đến Guadalcanal để thực hiện một nỗ lực khác nhằm tái chiếm sân bay Henderson.[70]
Tình hình không chiến bên trên bầu trời Guadalcanal có được một khoảng thời gian tạm lắng, khi không có cuộc không kích nào của quân Nhật diễn ra từ ngày 14 tháng 9 đến ngày 27 tháng 9 do thời tiết xấu, thời gian mà cả hai phía củng cố lại các đơn vị không quân của mình. Phía Nhật tăng cường thêm 85 máy bay ném bom và máy bay tiêm kích cho các đơn vị tại Rabaul trong khi phía Mỹ mang 23 máy bay tiêm kích và máy bay cường kích đến sân bay Henderson. Tính đến ngày 20 tháng 9, quân Nhật có tổng cộng 117 máy bay tại Rabaul trong khi phía Đồng Minh có 71 máy bay tại sân bay Henderson.[73] Cuộc chiến trên không tiếp tục trở lại khi quân Nhật tung ra cuộc không kích xuống Guadalcanal vào ngày 27 tháng 9, và bị ngăn chặn bởi máy bay tiêm kích của Hải quân và Thủy quân Lục chiến tại Henderson.[74]
Quân Nhật lập tức bắt đầu chuẩn bị cho đợt tấn công kế tiếp nhằm chiếm lại Henderson. Tiểu đoàn 3 thuộc Trung đoàn 4 Aoba đã đổ bộ xuống vịnh Kamimbo tại phần cực Tây Guadalcanal vào ngày 11 tháng 9, quá trễ để có thể tham gia cuộc tấn công của Kawaguchi. Dù sao, giờ đây tiểu đoàn gia nhập vào lực lượng của Đại tá Oka gần Matanikau. Các chuyến vận chuyển "Tốc hành Tokyo" bởi các tàu khu trục vào ngày 14, 20, 21 và 24 tháng 9 chuyển được đến Kamimbo trên Guadalcanal một lượng lớn thực phẩm và đạn dược, cùng 280 người của Tiểu đoàn 1 thuộc Trung đoàn Aoba. Trong khi đó, các sư đoàn 2 và 38 bộ binh Lục quân Nhật được vận chuyển từ Đông Ấn thuộc Hà Lan đến Rabaul bắt đầu từ ngày 13 tháng 9. Phía Nhật Bản đặt kế hoạch chuyển tổng cộng 17.500 quân thuộc hai sư đoàn này đến Guadalcanal để tham gia cuộc tấn công lớn tiếp theo sau vào ngoại vi Lunga, được dự định vào ngày 20 tháng 10 năm 1942.[75]
Hoạt động đầu tiên của Thủy quân Lục chiến Mỹ nhằm tấn công lực lượng Nhật đóng về phía Tây sông Matanikau, được thực hiện từ ngày 23 đến ngày 27 tháng 9 bởi các đơn vị thuộc ba tiểu đoàn đã bị lực lượng của Kawaguchi dưới sự chỉ huy trực tiếp tại chỗ của Akinosuke Oka đẩy lui. Trong hoạt động này, ba đại đội Thủy quân Lục chiến bị quân Nhật bao vây gần Point Cruz về phía Tây Matanikau, chịu tổn thất nặng, và cố thoát ra được với sự trợ giúp từ một tàu khu trục Mỹ và tàu đổ bộ do người của lực lượng Tuần duyên điều khiển.[77]
Trong hoạt động thứ hai từ ngày 6 đến ngày 9 tháng 10, một lực lượng lớn Thủy quân Lục chiến đã vượt qua sông Matanikau thành công và tấn công lực lượng Nhật mới đổ bộ thuộc Sư đoàn 2 Bộ binh thuộc quyền chỉ huy của các tướng Masao Maruyama và Yumio Nasu, và đã gây thiệt hại nặng cho Trung đoàn 4 Bộ binh. Hoạt động thứ hai này đã buộc quân Nhật phải rút lui khỏi các vị trí của họ ở phía Đông Matanikau và gây trở ngại việc chuẩn bị cho cuộc tấn công lớn tiếp theo được hoạch định nhắm vào vành đai phòng thủ Lunga.[78]
Từ ngày 9 đến ngày 11 tháng 10, các tiểu đoàn 1 và 2 Thủy quân Lục chiến đột kích hai tiền đồn Nhật Bản nhỏ Gurabusu và Koilotumaria cách ngoại vi Lunga 48 km (30 dặm) về phía Đông gần vịnh Aola. Kết quả của trận đánh này đã khiến 35 lính Nhật thiệt mạng trong khi có 17 lính Thủy quân Lục chiến và ba lính Hải quân Mỹ bị giết.[79]
Cùng lúc đó, Millard F. Harmon, Tư lệnh lực lượng Quân đội Hoa Kỳ tại Nam Thái Bình Dương, đã thuyết phục Ghormley rằng lực lượng Thủy quân Lục chiến trên đảo Guadalcanal cần được tăng cường ngay để phía Đồng Minh có thể giữ vững được hòn đảo trong cuộc tấn công sắp tới của quân Nhật được dự đoán. Vì vậy, vào ngày 8 tháng 10, 2.837 người thuộc Trung đoàn 164 Bộ binh thuộc Sư đoàn Americal Lục quân Mỹ lên tàu tại New Caledonia thực hiện chuyến đi đến Guadalcanal và dự định cập bến vào ngày 13 tháng 10. Để bảo vệ đoàn tàu vận tải đi đến Guadalcanal, Ghormley ra lệnh cho Lực lượng Đặc nhiệm 64, bao gồm bốn tàu tuần dương và năm tàu khu trục dưới quyền chỉ huy của Chuẩn Đô đốc Norman Scott, để đánh chặn và chống lại mọi tàu chiến Nhật có thể xuất hiện tại Guadalcanal đe dọa đến đoàn tàu vận tải.[81]
Bộ tham mưu Hạm đội 8 của Mikawa dự định tổ chức một chuyến "Tốc hành Tokyo" quan trọng vào đêm 11 tháng 10. Hai tàu chở thủy phi cơ và sáu tàu khu trục sẽ vận chuyển 728 binh sĩ cùng pháo binh và đạn dược đến Guadalcanal. Cùng thời gian đó nhưng trong một hoạt động riêng biệt, ba tàu tuần dương và hai tàu khu trục dưới quyền chỉ huy của Chuẩn Đô đốc Aritomo Gotō lên đường bắn phá sân bay Henderson với các quả đạn pháo mảnh đặc biệt nhằm mục đích tiêu diệt Không lực Cactus và các thiết bị của sân bay. Do trong thực tế tàu chiến Mỹ chưa từng có ý định can thiệp các chuyến tàu Tốc hành Tokyo đến Guadalcanal, người Nhật cho rằng không có sự đối đầu của lực lượng tàu nổi Hải quân Mỹ trong đêm đó.[82]
Ngay trước nữa đêm, tàu chiến của Scott phát hiện lực lượng của Gotō trên màn hình radar gần lối vào eo biển giữa đảo Savo và Guadalcanal. Lực lượng của Scott ở vào vị thế Cắt ngang chữ T đội hình không được chuẩn bị của Gotō. Sau khi được lệnh nổ súng, tàu chiến của Scott đánh chìm một tàu tuần dương và một tàu khu trục của Gotō, làm hư hại nặng một tàu tuần dương khác, làm Gotō tử thương và buộc những chiếc tàu chiến còn lại từ bỏ nhiệm vụ bắn phá để rút lui. Trong trận đấu pháo, một tàu khu trục của Scott bị đánh chìm, một tàu tuần dương và một tàu khu trục khác bị hư hại. Trong khi đó, đoàn tàu vận tải Nhật hoàn tất công việc chất dỡ hàng xuống Guadalcanal và bắt đầu quay trở về mà không bị lực lượng của Scott phát hiện. Sáng hôm sau, 12 tháng 10, bốn tàu khu trục của lực lượng hộ tống đoàn tàu vận tải quay lại trợ giúp cho lực lượng tàu chiến bị hư hại của Gotō rút lui. Các đợt không kích của máy bay từ sân bay Henderson đã đánh chìm hai tàu khu trục vào cuối ngày hôm đó. Đoàn tàu vận tải Mỹ cũng đến được Guadalcanal theo kế hoạch vào ngày hôm sau và thành công trong việc đưa hành khách và hàng hóa lên đảo.[83]
Để bảo vệ đoàn tàu vận tải không bị máy bay của Không lực Cactus tấn công, Yamamoto gửi hai thiết giáp hạm từ Truk đến dội pháo xuống sân bay Henderson. Lúc 01 giờ 33 phút ngày 14 tháng 10, các thiết giáp hạm Kongō và Haruna, được hộ tống bởi một tàu tuần dương hạng nhẹ và chín tàu khu trục, đi đến Guadalcanal và khai hỏa vào sân bay Henderson từ khoảng cách 16 km (17.500 yard). Trong 1 giờ và 23 phút, hai chiếc thiết giáp hạm đã bắn 973 quả đạn pháo 356 mm (14 inch) vào khu vực Lunga, hầu hết rơi trúng bên trong phạm vi 2.200 m của sân bay. Nhiều quả đạn trong số chúng là những quả đạn miểng đặc biệt, được thiết kế để phá hủy những mục tiêu trên đất liền. Đợt bắn phá đã gây hư hỏng nặng nề cả hai đường băng hạ cánh, đốt cháy gần hết nhiên liệu máy bay, phá hủy 48 máy bay trong tổng số 90 chiếc của Không lực Cactus, và làm thiệt mạng 41 trong đó có sáu phi công. Lực lượng thiết giáp hạm sau đó rút lui ngay về Truk.[85]
Cho dù bị thiệt hại nặng nề, người của sân bay Henderson đã có thể phục hồi một trong hai đường băng hạ cánh sau vài giờ. Một đợt tăng viện 17 máy bay SBD và 20 máy bay Wildcat từ Espiritu Santo nhanh chóng bay đến Henderson, và máy bay vận tải của Lục quân và Thủy quân Lục chiến bắt đầu đưa nhiên liệu từ Espiritu Santo đến Guadalcanal. Giờ đây ý thức được về một đoàn tàu vận tải lớn của Nhật đang tiến đến gần, phía Mỹ xoay xở tìm mọi cách ngăn chặn chúng trước khi chúng đến được Guadalcanal. Sử dụng nhiên liệu rút ra từ những chiếc máy bay bị phá hủy và từ một kho dự trữ trong rừng lân cận, máy bay của Không lực Cactus trong ngày 14 tháng 10 đã hai lần tấn công đoàn tàu vận tải, nhưng không gây được thiệt hại gì.[86]
Đoàn tàu vận tải Nhật đến Tassafaronga thuộc Guadalcanal lúc nữa đêm ngày 14 tháng 10 và bắt đầu bốc dỡ. Trong suốt ngày 15 tháng 10, một chuỗi máy bay từ Henderson đã đến ném bom và bắn phá các tàu vận tải đang bốc dỡ, diệt được ba tàu vận tải. Phần còn lại của đoàn tàu khởi hành đêm hôm đó sau khi bốc dỡ tất cả binh lực và khoảng hai phần ba thiết bị và hàng tiếp liệu. Nhiều tàu tuần dương hạng nặng của Nhật cũng bắn phá sân bay Henderson trong đêm 14 rạng ngày 15 tháng 10, phá hủy thêm một số máy bay của Không lực Cactus, nhưng không gây thêm hư hỏng nào đáng kể cho sân bay.[87]
Vào ngày 12 tháng 10, một đại đội công binh Nhật Bản bắt đầu mở một con đường mòn, được gọi là "Đường mòn Maruyama", bắt đầu từ Matanikau hướng đến phần phía Nam của ngoại vi Lunga. Con đường dài 24 km (15 dặm) này trải qua một trong những địa hình phức tạp nhất trên đảo Guadalcanal: nhiều sông suối, khe sâu, đầm lầy đầy bùn, các ngọn đồi dốc đứng và rừng rậm. Từ ngày 16 đến ngày 18 tháng 10, Sư đoàn 2 bắt đầu hành quân dọc theo con đường mòn Maruyama.[90]
Đến ngày 23 tháng 10, lực lượng của Maruyama vẫn còn đang len lỏi qua rừng rậm để tiến ra vành đai phòng ngự của quân Mỹ. Chiều tối hôm đó, sau khi biết được rằng lực lượng của mình chưa đến được vị trí xuất phát, Hyakutake ra lệnh hoãn cuộc tấn công đến 19 giờ 00 ngày 24 tháng 10. Cho đến lúc này phía Mỹ hoàn toàn không hay biết gì về lực lượng của Maruyama đang đến gần.[91] Sumiyoshi nhận được tin tức từ bộ tham mưu của Hyakutake về việc thay đổi thời hạn tấn công sang ngày 24 tháng 10, nhưng không thể liên lạc được với đơn vị dưới quyền để thông báo sự trì hoãn. Do đó, đêm 23 tháng 10, hai tiểu đoàn thuộc Trung đoàn 4 Bộ binh cùng chín xe tăng của Đại đội 1 Xe tăng Độc lập tung ra cuộc tấn công vào các vị trí phòng ngự của Thủy quân Lục chiến Mỹ tại cửa sông Matanikau. Với sự hỗ trợ của hỏa lực pháo và súng cối, lực lượng Mỹ đã đẩy lui cuộc tấn công, tiêu diệt tất cả các xe tăng và diệt nhiều lính Nhật trong khi chỉ bị thiệt hại nhẹ.[92]
Rốt cuộc, vào cuối ngày 24 tháng 10, lực lượng của Maruyama cũng đến được khu vực ngoại vi Lunga. Trong hai đêm tiếp theo sau đó, họ thực hiện nhiều cuộc tấn công trực diện không thành công vào các vị trí được phòng thủ bởi các đơn vị của Tiểu đoàn 1 thuộc Trung đoàn 7 Thủy quân Lục chiến do Trung tá Chesty Puller chỉ huy và Tiểu đoàn 3 thuộc Trung đoàn 164 Bộ binh của Trung tá Robert Hall. Hỏa lực của vũ khí cầm tay, súng máy, cối, pháo binh cùng hỏa lực bắn trực tiếp của các khẩu đội pháo chống tăng 37 mm đã gây thiệt hại nặng cho quân Nhật.[93] Một số nhóm nhỏ quân Nhật vượt qua được tuyến phòng thủ của quân Mỹ, nhưng tất cả đều bị săn đuổi và tiêu diệt nhiều ngày sau đó. Có hơn 1.500 người trong lực lượng của Maruyama bị giết trong các cuộc tấn công trong khi phía Mỹ thiệt hại khoảng 60 người. Cũng trong hai ngày đó, máy bay Mỹ từ sân bay Henderson lại phải chống đỡ các cuộc tấn công của máy bay và tàu bè Nhật, phá hủy được 14 máy bay đối phương và đánh chìm một tàu tuần dương hạng nhẹ.[94]
Các cuộc tấn công khác của quân Nhật gần Matanikau trong ngày 26 tháng 10 cũng bị đẩy lui với tổn thất nặng nề cho phía Nhật Bản. Kết quả là, đến 08 giờ 00 ngày 26 tháng 10, Hyakutake quyết định chấm dứt mọi cuộc tấn công và ra lệnh cho lực lượng của ông rút lui. Khoảng phân nữa những người sống sót trong lực lượng của Maruyama được lệnh rút lui về phía trên thung lũng Matanikau trong khi Trung đoàn 230 Bộ binh dưới quyền chỉ huy của Đại tá Toshinari Shōji được cho rút về Koli Point, phía Đông ngoại vi Lunga. Các đơn vị dẫn đầu của Sư đoàn 2 đến được khu vực trú đóng của Bộ chỉ huy Tập đoàn quân 17 tại Kokumbona, phía Tây Matanikau vào ngày 4 tháng 11. Cùng ngày hôm đó, đơn vị của Shoji đến được Koli Point và đóng trại tại đây. Bị tiêu hao do chết và thương vong trong chiến đấu, thiếu ăn và bệnh tật vùng nhiệt đới, Sư đoàn 2 không còn khả năng tác chiến trong các hoạt động tấn công sắp tới và chỉ được dùng để phòng ngự dọc bờ biển trong suốt thời gian còn lại của chiến dịch. Tổng cộng phía Nhật bị mất khoảng 2.200 - 3.000 binh sĩ trong trận này trong khi tổn thất của phía Mỹ là khoảng 80 người bị giết.[95]
Hai lực lượng tàu sân bay đối đầu nhau vào buổi sáng ngày 26 tháng 10, sau này được biết đến như là Trận chiến quần đảo Santa Cruz. Sau khi tung vào nhau các đợt không kích bằng máy bay trên tàu sân bay, các tàu nổi Đồng Minh buộc phải rút lui khỏi chiến trường sau khi tàu sân bay Hornet bị đánh chìm và chiếc Enterprise duy nhất còn lại bị hỏng nặng. Tuy nhiên, lực lượng tàu sân bay Nhật cũng phải rút lui do chịu tổn thất nặng về máy bay và đội bay, cũng như hư hại đáng kể cho hai tàu sân bay. Cho dù đây là một thắng lợi chiến thuật rõ ràng cho phía Nhật Bản xét về số lượng tàu chiến bị đánh chìm và hư hại, hầu hết những tổn thất của các đội bay dày dạn chinh chiến của Nhật là không thể bù đắp được, trở thành một lợi thế chiến lược lâu dài cho phía Đồng Minh, khi tổn thất về phi công của họ trong trận này tương đối thấp. Các tàu sân bay Nhật sau đó không còn đóng vai trò nào đáng kể trong chiến dịch này.[97]
Cuộc tấn công của quân Mỹ được bắt đầu vào ngày 1 tháng 11, và sau một số khó khăn, đã tiêu diệt được lực lượng Nhật phòng thủ khu vực Point Cruz vào ngày 3 tháng 11, kể cả các đơn vị dự bị được gửi đến tăng cường cho trung đoàn bị tiêu hao của Nakaguma. Với đà tiến quân này, lực lượng Mỹ hầu như sẽ phá được tuyến phòng thủ của quân Nhật và chiếm Kokumbona. Tuy nhiên, vào lúc này, các đơn vị Mỹ khác đã phát hiện và giao chiến cùng các đơn vị Nhật vừa mới đổ bộ lên Koli Point về phía Đông ngoại vi Lunga. Để đối phó lại mối đe dọa mới này, Vandegrift tạm thời cho ngừng cuộc tấn công tại Matanikau vào ngày 4 tháng 11. Phía Mỹ thiệt hại 71 người và phía Nhật có khoảng 400 người bị giết trong trận tấn công này.[99]
Tại Koli Point vào lúc sáng sớm ngày 3 tháng 11, năm tàu khu trục Nhật đã cho đổ bộ khoảng 300 người nhằm hỗ trợ cho Shōji và lực lượng của ông trên đường rút ra Koli Point sau Trận chiến sân bay Henderson. Nhận được tin tức về cuộc đổ bộ, Vandegrift tung một tiểu đoàn Thủy quân Lục chiến do Herman H. Hanneken chỉ huy ra đánh chặn quân Nhật tại Koli Point. Ngay sau khi đổ bộ, quân Nhật tiếp chiến và đẩy lui tiểu đoàn của Hanneken về hướng ngoại vi Lunga. Để phản công, Vandegrift ra lệnh cho tiểu đoàn Thủy quân Lục chiến của Puller và hai tiểu đoàn thuộc Trung đoàn 164 Lục quân, cùng với tiểu đoàn của Hanneken tiến về hướng Koli Point để tấn công lực lượng Nhật tại đây.[100]
Khi lực lượng Mỹ bắt đầu di chuyển, Shōji và binh lính của ông cũng bắt đầu đến Koli Point. Bắt đầu từ ngày 8 tháng 11, lực lượng Mỹ dự định bao vây lực lượng của Shōji tại đồi Gavaga gần Koli Point. Trong khi đó, Hyakutake ra lệnh cho Shōji bỏ các vị trí của mình tại Koli để hội quân tại Kokumbona trong khu vực Matanikau. Một địa hình đồi thấp và đầm lầy ngăn cách sườn phía Nam của phòng tuyến phía Mỹ. Từ ngày 9 đến ngày 11 tháng 11, Shōji cùng khoảng 2.000 đến 3.000 binh sĩ của mình đã thoát được vào rừng về phía Nam. Vào ngày 12 tháng 11, lực lượng Mỹ hoàn toàn áp đảo và tiêu diệt hết số binh sĩ Nhật còn lại trong vòng vây. Người ta đếm được có khoảng 450 đến 475 xác binh lính Nhật tại khu vực Koli Point, và chiếm được hầu hết vũ khí nặng và tiếp liệu của Shōji. Lực lượng Mỹ bị tổn thất 40 người chết và 120 người bị thương trong trận đánh này.[101]
Trong khi đó, vào ngày 4 tháng 11, hai đại đội thuộc Tiểu đoàn 2 Raider dưới quyền chỉ huy của Trung tá Evans Carlson đã đổ bộ bằng xuồng lên vịnh Aola Bay, cách Lunga Point 64 km (40 dặm) về phía Đông. Đơn vị của Carlson cùng với các đơn vị của Trung đoàn 147 Bộ binh có nhiệm vụ bảo vệ cho lực lượng 500 lính công binh xây dựng một sân bay tại địa điểm này. Halsey, theo đề nghị của Turner, đã chấp thuận cho xây dựng một sân bay tại vịnh Aola. Tuy nhiên, công việc xây dựng này sau đó bị hủy bỏ vào cuối tháng 11 do địa hình không phù hợp.[102]
Vào ngày 5 tháng 11, Vandegrift chỉ thị cho Carlson đưa lực lượng Raider của mình tiến quân trên bộ từ Aola, và tấn công mọi lực lượng của Shōji đã thoát ra khỏi Koli Point. Với các đại đội còn lại của tiểu đoàn của ông đã đổ bộ vài ngày sau đó, Carlson cùng lực lượng của mình bắt đầu đợt hành quân kéo dài 29 ngày từ Aola đến ngoại vi Lunga. Trong hoạt động này, đơn vị Raider đã đánh nhiều trận cùng các đơn vị của Shōji đang rút lui, tiêu diệt khoảng 500 người, và bị thiệt hại 16 người. Ngoài tổn thất bởi những cuộc tấn công của đơn vị Carlson, bệnh tật miền nhiệt đới và thiếu hụt lương thực cũng làm ngã gục thêm một số người của Shōji. Khi lực lượng của Shōji đến được sông Lunga vào giữa tháng 11, khoảng nữa đường đến Matanikau, chỉ còn 1.300 người còn lại trong lực lượng; và khi Shōji đến được vị trí của Tập đoàn quân 17 về phía Tây Matanikau, chỉ còn 700 đến 800 người sống sót với ông. Đa số những người còn sống sót trong lực lượng của Shōji gia nhập các đơn vị Nhật khác để phòng thủ núi Austen và khu vực thượng nguồn sông Matanikau.[103]
Các chuyến tàu "Tốc hành Tokyo" vào các ngày 5, 7 và 9 tháng 11 đã đưa thêm binh lính thuộc Sư đoàn 38 Bộ binh, bao gồm hầu hết Trung đoàn 228, đến Guadalcanal. Các đơn vị mới và sung sức này nhanh chóng được bố trí tại khu vực Point Cruz và Matanikau, và đã giúp kháng cự thành công các đợt tấn công tiếp theo sau của lực lượng Mỹ trong các ngày 10 và 18 tháng 11. Lực lượng Mỹ và Nhật tiếp tục đối diện nhau dọc theo một chiến tuyến ở về phía Tây Point Cruz trong sáu tuần lễ tiếp theo sau.[104]
Vào đầu tháng 11, lực lượng tình báo Đồng Minh cũng biết được quân Nhật lại chuẩn bị để tái chiếm sân bay Henderson.[107] Vì vậy, họ gửi Lực lượng Đặc nhiệm 67, một đoàn tàu vận tải lớn chở lực lượng tăng cường và hàng tiếp liệu đến Guadalcanal. Đoàn tàu chuyên chở binh lực thay thế cho Thủy quân Lục chiến, hai tiểu đoàn bộ binh, đạn dược và lương thực, dưới quyền chỉ huy của Turner, cập bến vào ngày 11 tháng 11. Đoàn tàu này được bảo vệ bởi hai đội đặc nhiệm do các Chuẩn Đô đốc Daniel J. Callaghan và Norman Scott chỉ huy, và bởi máy bay từ sân bay Henderson.[108] Đoàn tàu bị tấn công nhiều lần trong các ngày 11 và 12 tháng 11 bởi máy bay Nhật cất cánh từ Rabaul có ghé qua một sân bay tại Buin, Bougainville; nhưng đa số được bốc dỡ mà không bị thiệt hại nghiêm trọng.[109]
Máy bay trinh sát Mỹ đã nhìn thấy lực lượng tàu chiến bắn phá của Abe đang đến gần, và đã chuyển thông tin đến bộ chỉ huy Đồng Minh.[110] Được cảnh báo kịp thời, Turner cho tách ra mọi tàu chiến còn sử dụng được dưới quyền chỉ huy của Callaghan để bảo vệ lực lượng trên bờ khỏi cuộc tấn công của Hải quân Nhật được dự đoán, đồng thời ra lệnh cho những con tàu tiếp liệu sẽ khởi hành rời Guadalcanal vào tối ngày 12 tháng 11.[111] Lực lượng của Callaghan bao gồm hai tàu tuần dương hạng nặng, ba tàu tuần dương hạng nhẹ và tám tàu khu trục.[112]
Vào khoảng 01 giờ 30 phút ngày 13 tháng 11, lực lượng của Callaghan đã đánh chặn những tàu chiến của Abe ở khoảng giữa Guadalcanal và đảo Savo. Ngoài hai thiết giáp hạm, lực lượng của Abe còn bao gồm một tàu tuần dương hạng nhẹ và 11 tàu khu trục. Trong bóng đêm tối đen như mực,[113] hai lực lượng tàu chiến đan xen kẻ vào nhau trước khi nổ súng ở khoảng cách cực gần bất thường. Sau trận đánh, tàu chiến của Abe đã đánh chìm hay làm hư hại nặng toàn bộ lực lượng của Callaghan ngoại trừ một tàu tuần dương hạng nhẹ và một tàu khu trục, và cả Callaghan lẫn Scott đều tử trận. Về phía Nhật, hai tàu khu trục bị đánh chìm cùng một tàu khu trục và thiết giáp hạm Hiei bị hư hại nặng. Cho dù đã đánh bại được lực lượng của Callaghan, Abe ra lệnh cho các tàu chiến của ông rút lui mà không bắn phá sân bay Henderson như dự định. Hiei bị chìm trong ngày hôm đó sau khi bị máy bay của Không lực Cactus và của tàu sân bay Enterprise tấn công. Do thất bại của Abe không vô hiệu hóa được sân bay Henderson, Yamamoto ra lệnh cho đoàn tàu vận tải dưới sự chỉ huy của Raizo Tanaka đi đến quần đảo Shortland, và chờ đợi thêm một ngày đêm trước khi thẳng tiến đến Guadalcanal. Yamamoto ra lệnh cho Nobutake Kondo tổ chức một lực lượng bắn phá khác, sử dụng các tàu chiến tại Truk và lực lượng của Abe để tiến hành bắn phá sân bay Henderson vào ngày 15 tháng 11.[114]
Cùng lúc đó, vào khoảng 02 giờ 00 ngày 14 tháng 11, một lực lượng tàu tuần dương và tàu khu trục dưới quyền chỉ huy của Gunichi Mikawa xuất phát từ Rabaul đã tiến hành một đợt bắn phá xuống sân bay Henderson mà không hề bị kháng cự. Tuy nhiên, đợt bắn phá này chỉ gây ra một số thiệt hại mà không thể vô hiệu hóa sân bay hay hầu hết máy bay. Khi lực lượng của Mikawa rút lui về hướng Rabaul, đoàn tàu vận tải của Tanaka, tin rằng sân bay Henderson giờ đã bị phá hủy hay hư hỏng nặng, bắt đầu tiến vào "cái khe" để hướng đến Guadalcanal. Trong suốt ngày 14 tháng 11, máy bay từ sân bay Henderson và của Enterprise đã tấn công các con tàu của Mikawa và Tanaka, đánh chìm một tàu tuần dương hặng nặng và bảy tàu vận tải. Các phi vụ từ Henderson đã có thể cất cánh được hầu hết là nhờ sự cung cấp 488 thùng 208 lít (55 gallon) xăng 100-octane dành cho máy bay được cất dấu tại một khu vực riêng biệt dưới cánh rừng bởi thủy thủ August Martello. Đa số binh lính được cứu vớt khỏi các tàu vận tải bị đánh chìm bởi các tàu khu trục theo hộ tống của Tanaka và quay lại Shortlands. Khi trời tối, Tanaka và bốn tàu vận tải còn lại tiếp tục hành trình đến Guadalcanal trong khi lực lượng của Kondo tiến đến gần để thực hiện bắn phá sân bay Henderson.[115]
Để chặn đánh lực lượng của Kondo, Halsey, lúc này đang thiếu hụt tàu chiến, đã cho tách ra hai thiết giáp hạm Washington và South Dakota cùng bốn tàu khu trục từ lực lượng đặc nhiệm của Enterprise. Lực lượng Mỹ, dưới quyền chỉ huy của Đô đốc Willis A. Lee trên chiếc Washington, đi đến Guadalcanal và đảo Savo ngay trước lúc nữa đêm ngày 14 tháng 11, không lâu trước khi lực lượng bắn phá của Kondo xuất hiện. Lực lượng của Kondo bao gồm Kirishima và hai tàu tuần dương hạng nặng, hai tàu tuần dương hạng nhẹ và chín tàu khu trục. Khi hai lực lượng đối đầu nhau, tàu chiến của Kondo nhanh chóng đánh chìm ba trong số các tàu khu trục Mỹ và làm hư hại nặng chiếc thứ tư cuối cùng còn lại. Sau đó, lực lượng Nhật trông thấy South Dakota, nổ súng và gây hư hại nó. Nhưng khi các tàu chiến của Kondo tập trung hỏa lực vào chiếc South Dakota, Washington tiếp cận các tàu chiến Nhật mà không bị phát hiện và nổ súng vào Kirishima, liên tục bắn trúng đích chiếc thiết giáp hạm Nhật khiến nó bị phá hủy hoàn toàn. Sau khi theo đuổi một cách vô vọng Washington về hướng quần đảo Russell, Kondo ra lệnh cho những tàu chiến của ông rút lui, và một lần nữa đã không thể thực hiện việc bắn phá sân bay Henderson như dự định. Một trong những tàu khu trục của Kondo cũng bị đánh chìm trong trận đụng độ này.[116]
Khi các tàu chiến của Kondo rút lui, bốn tàu vận tải Nhật cặp bờ gần Tassafaronga trên đảo Guadalcanal lúc 04 giờ 00 và bắt đầu nhanh chóng dỡ hàng. Đến 05 giờ 55 phút, máy bay Mỹ và pháo binh bắt đầu tấn công bãi đổ bộ, phá hủy tất cả bốn con tàu cùng hầu hết số tiếp liệu mà chúng chở theo. Chỉ có khoảng 2.000–3.000 binh lính đổ bộ được lên bờ. Do thất bại không chuyển được phần lớn binh lực và tiếp liệu cần thiết, quân Nhật buộc phải hủy bỏ kế hoạch tấn công sân bay Henderson trong tháng 11 như đã dự tính.[117]
Ngày 26 tháng 11, Trung tướng Hitoshi Imamura tiếp nhận quyền chỉ huy Cụm Tập đoàn quân Khu vực 8 đặt tại Rabaul, bao gồm Tập đoàn quân 17 của Hyakutake và Tập đoàn quân 18 tại New Guinea. Một trong những ưu tiên hàng đầu của Imamura khi tiếp nhận chỉ huy là tiếp tục các nỗ lực nhằm tái chiếm sân bay Henderson và Guadalcanal. Tuy nhiên, cuộc tấn công của Đồng Minh tại Buna thuộc New Guinea, đã làm thay đổi các dự định của Imamura. Vì các hoạt động của phe Đồng Minh nhằm chiếm Buna được coi là mối đe dọa nghiêm trọng cho Rabaul, Imamura phải hoãn lại các nỗ lực tăng viện trợ lớn cho Guadalcanal để tập trung sự chú ý vào tình hình tại New Guinea.[118]
Bộ tham mưu Hạm đội 8 vạch ra kế hoạch nhằm giảm thiểu nguy cơ phơi ra của các tàu khu trục vận chuyển tiếp liệu đến Guadalcanal. Các thùng dầu hoặc gas lớn được rửa sạch rồi chất đầy lương thực hay thuốc men, với đủ không khí bên trong giúp nó nổi, rồi kết lại với nhau bằng dây thừng. Khi các tàu khu trục đi đến Guadalcanal, chúng sẽ đổi hướng nhanh trong khi dây thùng được cắt rời, và một người bơi ra biển hay xuồng có thể vớt đầu phao nổi của dây và kéo chúng vào bờ, nơi các binh sĩ có thể nhận được đồ tiếp liệu.[120]
Đơn vị Tăng cường Guadalcanal (Tốc hành Tokyo) của Hạm đội 8, hiện đang dưới quyền chỉ huy của Chuẩn Đô đốc Raizo Tanaka, được Mikawa giao nhiệm vụ thực hiện chuyến đầu tiên trong kế hoạch năm chuyến vận chuyển đến Tassafaronga thuộc Guadalcanal sử dụng phương pháp thùng rỗng như trên vào đêm 30 tháng 11. Nòng cốt lực lượng của Tanaka bao gồm tám tàu khu trục, trong đó sáu chiếc sẽ mang từ 200 đến 240 thùng tiếp liệu mỗi chiếc.[121] Được lực lượng tình báo cho biết về kế hoạch tiếp tế của quân Nhật, Halsey ra lệnh cho Lực lượng Đặc nhiệm 67 vừa mới được thành lập, bao gồm bốn tàu tuần dương và bốn tàu khu trục dưới quyền chỉ huy của Chuẩn Đô đốc Carleton H. Wright, đánh chặn lực lượng của Tanaka ngoài khơi Guadalcanal. Có thêm hai tàu khu trục gia nhập lực lượng của Wright trên đường đi từ Espiritu Santo đến Guadalcanal trong ngày 30 tháng 11.[122]
Lúc 22 giờ 40 phút đêm 30 tháng 11, lực lượng của Tanaka đi đến vùng biển ngoài khơi Guadalcanal và chuẩn bị thả các thùng tiếp liệu. Trong khi đó, tàu chiến của Wright cũng tiến đến khu vực qua eo biển Ironbottom từ hướng ngược lại. Các tàu khu trục của Wright nhìn thấy lực lượng của Tanaka trên màn hình radar và viên chỉ huy lực lượng khu trục xin phép được tấn công bằng ngư lôi. Wright chần chừ mất bốn phút trước khi quyết định cho phép, khiến lực lượng của Tanaka thoát ra khỏi tầm bắn ngư lôi tối ưu. Tất cả các quả ngư lôi Mỹ bắn ra sau đó đều trượt mục tiêu. Cùng lúc đó, các tàu tuần dương của Wright nổ súng, nhanh chóng bắn trúng và đánh chìm một tàu khu trục Nhật làm nhiệm vụ hộ tống. Các tàu chiến còn lại của Tanaka bỏ dỡ nhiệm vụ tiếp liệu, tăng tốc, quay đầu và phóng tổng cộng 44 ngư lôi về phía các tàu tuần dương của Wright.[123]
Các quả ngư lôi Nhật đã đánh trúng và làm chìm chiếc tàu tuần dương Mỹ Northampton cũng như làm hư hại nặng các tàu tuần dương Minneapolis, New Orleans và Pensacola. Lực lượng tàu khu trục còn lại của Tanaka chạy thoát mà không chịu thêm thiệt hại nào khác, nhưng thất bại không thể cung cấp bất kỳ hàng tiếp liệu cho lực lượng trên bờ tại Guadalcanal.[124]
Cho đến ngày 7 tháng 12 năm 1942, lực lượng của Hyakutake bị tiêu hao khoảng 50 người mỗi ngày do thiếu ăn, bệnh tật và các cuộc tấn công mặt đất và trên không của Đồng Minh.[125] Những nỗ lực khác do lực lượng của Tanaka thực hiện nhằm tiếp tế trong các ngày 3, 7 và 11 tháng 12 cũng không thể làm nhẹ bớt sự khủng hoảng lương thực, trong khi một trong những chiếc tàu khu trục của Tanaka lại bị ngư lôi từ tàu tuần tra-phóng lôi (PT boat) đánh chìm.[126]
Ngày 28 tháng 12, Tướng Hajime Sugiyama và Đô đốc Osami Nagano đích thân trình bày cho Nhật hoàng Hirohito về quyết định rút lui khỏi Guadalcanal. Ngày 31 tháng 12, Nhật Hoàng chính thức phê chuẩn quyết định này. Quân Nhật bắt đầu bí mật chuẩn bị cho việc triệt thoái, dưới tên gọi Chiến dịch Ke, dự định sẽ thực hiện vào cuối tháng 1 năm 1943.[128]
Ngày 18 tháng 12, lực lượng Đồng Minh bắt đầu tấn công các vị trí của quân Nhật trên núi Austen. Một vị trí cố thủ mạnh của quân Nhật, Gifu, đã ngăn trở cuộc tấn công và quân Mỹ buộc phải tạm ngưng tiến quân vào ngày 4 tháng 1.[130] Quân Đồng Minh tấn công trở lại vào ngày 10 tháng 1, đánh mạnh vào quân Nhật trên núi Austen cũng như tại hai dãy đồi lân cận Seahorse và Galloping Horse. Sau một số khó khăn, quân Đồng Minh chiếm được cả ba vị trí vào ngày 23 tháng 1. Cùng lúc đó, Thủy quân Lục chiến cũng tiến dọc theo bờ biển phía Bắc, đạt được tiến triển đáng kể. Lực lượng Mỹ thiệt hại khoảng 250 người tử trận trong khi quân Nhật bị mất khoảng 3.000 người.[131]
Patch, cảnh giác với cái mà ông cho là một cuộc tấn công của Nhật sắp xảy ra, chỉ điều một phần lực lượng tương đối yếu của ông tiếp tục cuộc tấn công chậm chạp vào lực lượng của Hyakutake. Ngày 29 tháng 1, dựa trên cùng nguồn tin tình báo, Halsey gửi một đoàn tàu vận tải hàng tiếp liệu đến Guadalcanal được hộ tống bởi một lực lượng đặc nhiệm tàu tuần dương. Trông thấy các tàu chiến Mỹ, máy bay ném ngư lôi Nhật đã tấn công lực lượng đặc nhiệm vào cùng buổi chiều tối hôm đó, gây hư hỏng nặng tàu tuần dương Mỹ Chicago. Sáng hôm sau, nhiều đợt tấn công bằng máy bay ném ngư lôi khác đã đánh chìm chiếc Chicago. Halsey ra lệnh cho phần còn lại của lực lượng đặc nhiệm quay về căn cứ và chỉ thị cho các tàu chiến còn lại dưới quyền tập trung tại biển Coral, phía Nam Guadalcanal, sẵn sàng tiến hành phản công vào lực lượng hải quân Nhật.[133]
Cùng lúc đó, Tập đoàn quân 17 Nhật rút lui ra bờ biển phía Tây Guadalcanal trong khi đơn vị bọc hậu ngăn chặn cuộc tấn công của quân Mỹ. Vào đêm 1 tháng 2, một lực lượng 20 tàu khu trục thuộc Hạm đội 8 của Mikawa dưới quyền chỉ huy của Shintaro Hashimoto di tản thành công 4.935 binh sĩ, chủ yếu thuộc Sư đoàn 38, khỏi Guadalcanal. Lực lượng Nhật và Mỹ thiệt hại mỗi bên một tàu khu trục do không kích và hải chiến trong đợt di tản này.[134]
Trong các đêm 4 và 7 tháng 2, Hashimoto và các tàu khu trục của ông hoàn tất việc di tản hầu hết những lực lượng còn lại khỏi Guadalcanal. Ngoại trừ một số cuộc không kích, lực lượng Đồng Minh, do đang chờ đợi một cuộc tấn công lớn từ phía Nhật, đã không can thiệp vào việc rút lui của Hashimoto. Cuối cùng, phía Nhật đã thành công trong việc triệt thoái 10.652 người khỏi Guadalcanal. Đến ngày 9 tháng 2, Patch nhận ra quân Nhật đã đi khỏi và công bố Guadalcanal an toàn cho lực lượng Đồng Minh, đánh dấu sự kết thúc của chiến dịch.[135]
Sau Guadalcanal, Nhật Bản rõ ràng ở thế phòng ngự tại Thái Bình Dương. Áp lực liên tục phải củng cố lực lượng tại Guadalcanal đã làm suy yếu nỗ lực của Nhật tại các chiến trường khác, góp phần vào thành công của cuộc phản công mà Liên quân Mỹ-Australian thực hiện tại New Guinea mà kết quả là đã chiếm được các căn cứ quan trọng Buna và Gona vào đầu năm 1943. Phe Đồng Minh đã có được thế chủ động chiến lược mà họ không bao giờ từ bỏ. Đến tháng 6 năm 1943, Đồng Minh tung ra Chiến dịch Cartwheel, và sau khi được sửa đổi vào tháng 8, hình thành nên chiến lược cô lập Rabaul và cắt đứt mọi con đường tiếp tế bằng đường biển đến đó. Việc vô hiệu hóa thành công Rabaul; và sau đó là cuộc tiến quân tại khu vực Tây Nam Thái Bình Dương dưới sự chỉ huy của Tướng Douglas MacArthur cũng như chiến lược "nhảy cóc" qua các hòn đảo tại khu vực Trung Thái Bình Dương của Đô đốc Chester Nimitz, cả hai nỗ lực này đều thành công trong việc tiến quân hướng đến Nhật Bản. Các đơn vị Nhật còn lại đang phòng thủ tại khu vực Nam Thái Bình Dương đều bị tiêu diệt hoặc cô lập bởi các đơn vị Đồng Minh cho đến khi chiến cuộc đi đến hồi kết thúc.[137]
Guadalcanal là một trong những chiến dịch kéo dài đầu tiên tại Thái Bình Dương, cùng với chiến dịch quần đảo Solomon liên quan xảy ra đồng thời. Cả hai chiến dịch đều là những trận đánh có mức đòi hỏi căng thẳng về tiếp vận cho tất cả các bên tham chiến. Về phía Mỹ, đây là lần đầu tiên nhu cầu chiến dịch đòi hỏi phải tổ chức không vận một cách hiệu quả; trong khi về phía Nhật, việc thất bại không chiếm được ưu thế trên không buộc họ phải dựa trên sự tiếp liệu bằng sà lan, tàu khu trục và tàu ngầm với kết quả thất thường. Vào đầu chiến dịch, người Mỹ gặp trở ngại do thiếu những nguồn lực cần thiết, khi bị thiệt hại nặng về tàu tuần dương và tàu sân bay, và sự bổ sung thay thế bị chậm trễ nhiều tháng. Tổn thất về nhân sự của Hải quân Mỹ vào đầu chiến dịch cao đến mức họ từ chối công bố số liệu về tổng thiệt hại cho đến nhiều năm sau đó. Tuy nhiên, khi chiến dịch tiếp diễn, công luận Hoa Kỳ bắt đầu nhận thức ngày càng nhiều hơn về hoàn cảnh và sự anh dũng của các lực lượng Mỹ tại Guadalcanal, và có thêm nhiều lực lượng và phương tiện được đổ vào khu vực này. Điều này báo trước sự khủng hoảng cho phía Nhật Bản khi các tổ hợp công nghiệp quân sự của họ không thể bắt kịp công suất của nền công nghiệp và nhân lực Hoa Kỳ. Do đó khi chiến dịch tiếp diễn, Nhật Bản mất đi các đơn vị không thể thay thế trong khi phía Mỹ nhanh chóng thay thế và thậm chí tăng cường thêm lực lượng của họ.[139]
Chiến dịch Guadalcanal gây tốn kém nặng nề cho phía Nhật cả về phương tiện và nhân lực. Khoảng 25.000 binh sĩ nhiều kinh nghiệm bị giết trong chiến dịch này. Sự tiêu hao các nguồn lực ảnh hưởng trực tiếp đến thất bại của Nhật Bản trong việc đạt được các mục tiêu trong Chiến dịch New Guinea. Nhật Bản cũng mất quyền kiểm soát khu vực phía Nam của Solomon và khả năng can thiệp vào đường giao thông của Đồng Minh đến Australia. Căn cứ chủ lực của Nhật tại Rabaul giờ đây trực tiếp bị đe dọa bởi không lực Đồng Minh. Quan trọng hơn cả, các lực lượng trên bộ, trên không và trên mặt biển hiếm hoi của Nhật Bản bị biến mất vĩnh viễn trong rừng rậm và vùng biển chung quanh Guadalcanal. Số máy bay bị bắn rơi và tàu chiến bị đánh chìm trong chiến dịch này hầu như không thể thay thế được, vì đó là những chiến binh được huấn luyện kỹ càng và đầy kinh nghiệm, đặc biệt là các đội bay. Có thể cho rằng chiến thắng này của Đồng Minh là bước đầu tiên trong chuỗi dài thành công mà cuối cùng sẽ dẫn đến việc Nhật Bản đầu hàng và việc chiếm đóng các đảo chính quốc Nhật Bản.[140]
Có lẽ đối với Đồng Minh, tầm quan trọng không kém một chiến thắng về quân sự chính là chiến thắng về tâm lý. Trên một sân chơi bình đẳng, lực lượng Đồng Minh đã đánh bại các lực lượng trên bộ, trên không và trên biển tốt nhất của Nhật Bản. Sau chiến dịch Guadalcanal, quân Đồng Minh đã nhìn quân Nhật với ít nỗi e ngại và sự lo sợ hơn trước đây. Thêm vào đó, phe Đồng Minh nhìn thấy diễn biến tương lai trong chiến cuộc tại Thái Bình Dương với niềm lạc quan gia tăng.[141] Nhiều nhà lãnh đạo chính trị và quân sự Nhật Bản, kể cả Naoki Hoshino, Osami Nagano và Torashirō Kawabe, phát biểu không lâu sau khi chiến tranh kết thúc rằng Guadalcanal là bước ngoặc quyết định trong cuộc xung đột. Kawabe đã nói: "Nói về bước ngoặc [của cuộc chiến], khi mọi hoạt động chủ động bị ngưng lại hay thậm chí trở thành bị động, tôi nghĩ rằng đó chính là tại Guadalcanal."[142]
Video yêu thích
http://www.youtube.com/user/hoangkimvietnam
Trở về trang chính
Hoàng Kim, hoangkim, hoangkimvietnam, Ngọc Phương Nam, Chào ngày mới Thung dung, Dạy và học, Cây Lương thực, Tin Nông nghiệp Việt Nam, Food Crops, Cassava in Vietnam, Khát khao xanh, Dayvahoc,Học mỗi ngày, Danh nhân Việt , Food Crops News, Điểm chính, CNM365, Kim LinkedIn, KimTwitter, KimFaceBook Đọc lại và suy ngẫm, Việt Nam tổ quốc tôi, Tình yêu cuộc sống, Thơ cho con
Chiến dịch Guadalcanal
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
|
|
|
Vào ngày 7 tháng 8 năm 1942, lực lượng Đồng Minh, chủ yếu là Mỹ, thực hiện đổ bộ lên các đảo Guadalcanal, Tulagi, và Florida (Nggela Sule) phía Nam quần đảo Solomon với mục tiêu ngăn chặn quân Nhật sử dụng chúng làm căn cứ đe dọa con đường vận chuyển từ Mỹ đến Australia và New Zealand. Đồng Minh còn định sử dụng Guadalcanal và Tulagi như những căn cứ hỗ trợ cho chiến dịch chiếm đóng hoặc vô hiệu hóa căn cứ chủ lực của Nhật tại Rabaul trên đảo New Britain. Lực lượng Đồng Minh đã áp đảo số lượng quân Nhật phòng thủ nhỏ bé, vốn đã chiếm đóng các đảo này từ tháng 5 năm 1942, chiếm giữ Tulagi và Florida cùng một sân bay (sau này được đặt tên là Henderson[9]) đang được xây dựng trên đảo Guadalcanal.
Bị bất ngờ bởi đòn tấn công của Đồng Minh, phía Nhật Bản từ tháng 8 đến tháng 11 năm 1942 đã nhiều lần tìm cách chiếm lại sân bay Henderson. Ba trận chiến lớn trên bộ, năm trận hải chiến lớn, và các cuộc không chiến diễn ra liên tục hầu như hàng ngày, mà đỉnh điểm là trận Hải chiến Guadalcanal mang tính quyết định vào đầu tháng 11 năm 1942, trong đó nỗ lực cuối cùng nhằm tăng viện đủ số lượng binh lính để chiếm lại sân bay Henderson bị đánh bại. Sang tháng 12 năm 1942, phía Nhật từ bỏ mọi hy vọng tái chiếm Guadalcanal và triệt thoái các lực lượng còn lại vào ngày 7 tháng 2 năm 1943.
Chiến dịch Guadalcanal đánh dấu một chiến thắng chiến lược đáng kể nhờ phối hợp các binh chủng bởi lực lượng Đồng Minh đối với Nhật Bản tại mặt trận Thái Bình Dương. Quân Nhật đã đạt đến cao trào trong sự xâm chiếm của họ tại Thái Bình Dương, và Guadalcanal đánh dấu sự chuyển mình của Đồng Minh từ các chiến dịch phòng thủ sang tấn công chiến lược tại mặt trận này.
Mục lục
- 1 Bối cảnh
- 2 Cuộc đổ bộ
- 3 Các chiến dịch ban đầu
- 4 Trận Tenaru
- 5 Trận chiến đông Solomon
- 6 Không chiến bên trên sân bay Henderson và tăng cường phòng thủ Lunga
- 7 Tốc hành Tokyo
- 8 Trận chiến đồi Edson
- 9 Tăng viện
- 10 Các hoạt động dọc theo sông Matanikau
- 11 Trận chiến mũi Esperance
- 12 Nã pháo bằng thiết giáp hạm xuống Henderson
- 13 Trận chiến sân bay Henderson
- 14 Trận chiến quần đảo Santa Cruz
- 15 Các hoạt động trên bộ trong tháng 11
- 16 Hải chiến Guadalcanal
- 17 Trận Tassafaronga
- 18 Nhật Bản quyết định rút lui
- 19 Trận chiến núi Austen, đồi Galloping Horse và đồi Sea Horse
- 20 Cuộc triệt thoái Ke
- 21 Diễn biến tiếp theo và ảnh hưởng
- 22 Xem thêm
- 23 Chú thích
- 24 Tham khảo
- 25 Xem thêm
Bối cảnh
Ngày 7 tháng 12 năm 1941, Nhật Bản tấn công Hạm đội Thái Bình Dương tại Trân Châu Cảng thuộc quần đảo Hawaii. Cuộc tấn công đã đánh bại hạm đội thiết giáp hạm Mỹ, chính thức khai mào cuộc chiến tranh giữa hai nước. Mục tiêu ban đầu của những nhà lãnh đạo Nhật Bản là vô hiệu hóa Hải quân Mỹ, chiếm đóng các vùng đất giàu tài nguyên thiên nhiên và thiết lập các căn cứ quân sự chiến lược nhằm bảo vệ vòng ngoài cho Đế quốc Nhật Bản tại Châu Á và Thái Bình Dương. Đi xa hơn các mục tiêu đó, lực lượng Nhật Bản đã chiếm đóng Philippines, Thái Lan, Malaya thuộc Anh, Singapore, Đông Ấn thuộc Hà Lan, đảo Wake, quần đảo Gilbert, New Britain và Guam. Tham gia cùng với Mỹ trong cuộc chiến chống lại Nhật Bản là tất cả các thế lực Đồng Minh, nhiều nước trong số đó, bao gồm Anh Quốc, Australia và Hà Lan, cũng bị Nhật Bản tấn công.[10]Hai dự tính của Nhật Bản muốn duy trì thế chủ động chiến lược và mở rộng vành đai phòng thủ về phía Nam và Trung Thái Bình Dương đã bị ngăn trở trong những trận hải chiến tại biển Coral và Midway. Midway không chỉ là một chiến thắng lớn đầu tiên của phía Đồng Minh trước đối thủ Nhật Bản chưa hề nếm mùi chiến bại, nó còn làm suy giảm đáng kể khả năng tấn công của lực lượng tàu sân bay Nhật. Cho đến lúc này, phía Đồng Minh vẫn còn trong thế phòng ngự tại Thái Bình Dương, nhưng những thắng lợi chiến lược này cho họ cơ hội lấy lại quyền chủ động chiến lược từ tay quân Nhật.[11]
Đồng Minh đã chọn quần đảo Solomon, một vùng đất dưới quyền bảo hộ của Anh, đặc biệt là các đảo phía Nam gồm Guadalcanal, Tulagi, và Florida như những mục tiêu ban đầu.[12] Hải quân Nhật đã chiếm đóng Tulagi vào tháng 5 năm 1942 và xây dựng một căn cứ thủy phi cơ gần đó. Sự lo ngại của phía Đồng Minh gia tăng, khi vào đầu tháng 7 năm 1942, Hải quân Nhật bắt đầu xây dựng một sân bay lớn tại Lunga Point trên đảo Guadalcanal kế cận. Đến tháng 8 năm 1942, quân Nhật có khoảng 900 lính hải quân trú đóng tại Tulagi và các đảo lân cận, và 2.800 người trên đảo Guadalcanal (2.200 trong số đó là lao động người Triều Tiên và các chuyên viên xây dựng Nhật Bản dân sự). Các căn cứ này, một khi hoàn tất, sẽ bảo vệ cho căn cứ trọng yếu của quân Nhật tại Rabaul, đe dọa con đường tiếp tế và liên lạc của Đồng Minh đến Australia và New Zealand, và là một khu vực tập trung quân cho chiến dịch được dự định tấn công vào Fiji, New Caledonia và Samoa. Quân Nhật dự định bố trí 45 máy bay tiêm kích và 60 máy bay ném bom đến Guadalcanal một khi sân bay hoàn tất. Những máy bay này sẽ hỗ trợ trên không cho lực lượng hải quân tiến sâu hơn vào khu vực Nam Thái Bình Dương.[13]
Kế hoạch của Đồng Minh nhằm chiếm đóng Nam Solomon là sáng kiến của Đô đốc Ernest King, Tổng tư lệnh Hạm đội Hoa Kỳ. Ông đề nghị cuộc tấn công này nhằm ngăn chặn việc quân Nhật sử dụng các hòn đảo làm căn cứ đe dọa con đường tiếp tế giữa Hoa Kỳ và Australia, và sử dụng chúng như những điểm xuất phát các cuộc tấn công trong tương lai. Được sự tán thành ngấm ngầm của Tổng thống Roosevelt, King hết lòng bênh vực cho cuộc chiếm đóng Guadalcanal. Khi Đại tướng Tổng tham mưu trưởng Lục quân George C. Marshall phản đối hoạt động trên tuyến này đồng thời đặt vấn đề ai sẽ chỉ huy chiến dịch, King nhấn mạnh rằng Hải quân và Thủy quân Lục chiến sẽ tự thân thực hiện chiến dịch này, và chỉ thị cho Đô đốc Chester Nimitz tiến hành vạch kế hoạch sơ thảo. Cuối cùng thì King cũng chiến thắng trong cuộc tranh luận, và cuộc tấn công được tiến hành dưới sự hậu thuẫn của Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân.[14]
Chiến dịch Guadalcanal được thực hiện phối hợp cùng một chiến dịch tấn công tại New Guinea dưới quyền chỉ huy của tướng Douglas MacArthur nhằm chiếm lấy các quần đảo Admiralty và Bismarck, kể cả căn cứ chủ lực của Nhật tại Rabaul. Mục tiêu cuối cùng của nó là việc Mỹ sẽ tái chiếm Philippines.[15] Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân cho thành lập Mặt trận Nam Thái Bình Dương do Phó Đô đốc Robert L. Ghormley chỉ huy kể từ ngày 19 tháng 6 năm 1942, để chỉ đạo cuộc tấn công tại khu vực Solomon. Đô đốc Chester Nimitz, đặt bộ chỉ huy tại Trân Châu Cảng, được chỉ định làm Tổng tư lệnh lực lượng Đồng Minh tại Thái Bình Dương.[16]
Để chuẩn bị cho các hoạt động sắp tới tại Thái Bình Dương, vào tháng 5 năm 1942, Thiếu tướng Thủy quân Lục chiến Alexander Vandegrift được lệnh điều động Sư đoàn 1 Thủy quân Lục chiến của ông từ Hoa Kỳ đến New Zealand. Các đơn vị lục quân, hải quân và không quân Đồng Minh khác được gửi đến để thiết lập các căn cứ tại Fiji, Samoa, New Hebrides và New Caledonia.[17] Espiritu Santo thuộc New Hebrides được chọn để đặt bộ chỉ huy và là căn cứ chính của cuộc tấn công, vốn được đặt tên mã là Chiến dịch Watchtower, và ngày dự định thực hiện được đặt ra là 7 tháng 8 năm 1942. Thoạt tiên, cuộc tấn công của Đồng Minh được vạch kế hoạch nhắm vào Tulagi và quần đảo Santa Cruz, bỏ qua Guadalcanal. Tuy nhiên, sau khi trinh sát phát hiện ra các nỗ lực xây dựng sân bay Nhật trên đảo Guadalcanal, việc chiếm nó được bổ sung vào kế hoạch, và cuối cùng việc đổ bộ lên Santa Cruz bị loại bỏ.[18] Thông qua tình báo vô tuyến, quân Nhật có biết được sự điều động quân lực với quy mô lớn tại khu vực Nam Thái Bình Dương, nhưng họ cho rằng Đồng Minh đang củng cố phòng thủ cho Australia và có thể cho Port Moresby tại New Guinea.[19]
Lực lượng tham gia Chiến dịch Watchtower, bao gồm 75 tàu chiến và tàu vận tải của cả Mỹ và Australia, được tập trung gần Fiji vào ngày 26 tháng 7 năm 1942, và tham gia một cuộc tổng dượt đổ bộ trước khi lên đường hướng đến Guadalcanal vào ngày 31 tháng 7.[20]. Chỉ huy trưởng lực lượng viễn chinh Đồng Minh tại chỗ là Phó Đô đốc Frank Fletcher, đặt cờ hiệu của mình trên tàu sân bay Saratoga. Chỉ huy lực lượng đổ bộ là Chuẩn Đô đốc Richmond K. Turner. Thiếu tướng Vandegrift dẫn đầu lực lượng bộ binh Đồng Minh khoảng 16.000 người (chủ yếu là Thủy quân Lục chiến Mỹ) để thực hiện đổ bộ.[21]
Cuộc đổ bộ
-
Xem thêm tại [[Trận Tulagi và Gavutu–Tanambogo và Trận chiến đảo Savo]]
Tương phản với Tulagi, Gavutu, và Tanambogo, cuộc đổ bộ lên Guadalcanal gặp phải rất ít sự kháng cự. Lúc 09 giờ 10 phút ngày 7 tháng 8, tướng Vandegrift cùng 11.000 Thủy quân Lục chiến đổ bộ lên Guadalcanal tại địa điểm giữa Koli Point và Lunga Point. Tiến quân về phía Lunga Point, họ không gặp phải bất kỳ sự kháng cự nào ngoại trừ những cơn mưa rào nhiệt đới "lộn xộn", và họ phải dừng lại nghỉ đêm cách sân bay tại Lunga Point không đầy 900 m (1.000 yard). Ngày hôm sau, chỉ gặp sự chống cự yếu ớt, Thủy quân Lục chiến tiến đến sông Lunga và hoàn toàn kiểm soát sân bay lúc 16 giờ 00 phút ngày 8 tháng 8. Các đơn vị xây dựng hải quân và đơn vị chiến đấu Nhật Bản, dưới quyền chỉ huy của Đại úy Kanae Monzen, hoảng loạn do các loạt hải pháo và các cuộc ném bom, đã bỏ khu vực sân bay tháo chạy về phía Tây cách khoảng 5 km (3 dặm) cạnh sông Matanikau và khu vực Point Cruz, bỏ lại phía sau lương thực, tiếp liệu, xe cộ và máy móc xây dựng còn nguyên vẹn cùng 13 người chết.[29]
Trong khi cuộc đổ bộ đang diễn ra vào các ngày 7 và 8 tháng 8, máy bay Hải quân Nhật đặt căn cứ tại Rabaul dưới sự chỉ huy của Sadayoshi Yamada đã nhiều lần tấn công lực lượng đổ bộ Đồng Minh, làm cháy chiếc tàu vận tải Mỹ George F. Elliot (nó chìm hai ngày sau đó) và làm hỏng nặng chiếc tàu khu trục Jarvis.[30] Trong hai ngày giao chiến, phía Nhật mất 36 máy bay, trong khi các tàu sân bay Mỹ thiệt hại 19 chiếc do cả chiến đấu lẫn tai nạn, trong đó có 14 máy bay tiêm kích.[31]
Sau các trận không chiến này, Fletcher tỏ ý e ngại về sự thiệt hại của lực lượng tiêm kích trên các tàu sân bay của ông, về nguy cơ các tàu sân bay tiếp tục bị không kích, và về tình trạng nhiên liệu của các con tàu. Ông quyết định rút lui lực lượng đặc nhiệm tàu sân bay của mình khỏi khu vực quần đảo Solomon vào chiều tối ngày 8 tháng 8.[32] Do không có được sự yểm trợ trên không của các tàu sân bay, Turner cũng cho rút lui các tàu bè của mình khỏi khu vực Guadalcanal, cho dù chưa đến nữa các trang thiết bị hạng nặng và tiếp liệu cần thiết cho lực lượng trên bờ được bốc dỡ.[33] Dù sao, Turner cũng dự định cho bốc dỡ hàng tiếp liệu càng nhiều càng tốt cho Guadalcanal và Tulagi trong suốt đêm 8 tháng 8, và chỉ cho khởi hành các con tàu vận tải của mình vào sáng sớm ngày 9 tháng 8.[34]
Đêm hôm đó, trong khi các con tàu vận tải đang được bốc dỡ, hai nhóm tàu chiến Đồng Minh hộ tống dưới quyền chỉ huy của Chuẩn Đô đốc Hải quân Hoàng gia Victor Crutchley hoàn toàn bị bất ngờ và bị đánh bại bởi một lực lượng hạm đội Nhật bao gồm bảy tàu tuần dương và một tàu khu trục của Hạm đội 8 Nhật Bản, đặt căn cứ tại Rabaul và Kavieng dưới quyền chỉ huy của Phó Đô đốc Gunichi Mikawa. Một tàu tuần dương Australia và ba tàu tuần dương Mỹ bị đánh chìm, và một tàu tuần dương Mỹ cùng hai tàu khu trục bị hư hại trong Trận chiến đảo Savo. Lực lượng Nhật Bản chỉ bị hư hại một tàu tuần dương. Tuy nhiên, Mikawa, lo lắng về nguy cơ bị các tàu sân bay Mỹ không kích vào lúc trời sáng nếu chần chừ ở lại, và không biết rằng Fletcher đã rút lui cùng các tàu sân bay Mỹ, đã ra lệnh cho hạm đội rút lui ngay về Rabaul, bỏ qua cơ hội tấn công các con tàu vận tải mà giờ đây không được bảo vệ. Sau đó, Turner cho rút tất cả các lực lượng hải quân Đồng Minh tại khu vực vào chiều tối ngày 9 tháng 8, để lại lực lượng Thủy quân Lục chiến trên bờ mà không có đủ vũ khí hạng nặng và tiếp liệu. Tuy nhiên, quyết định của Mikawa không tấn công các con tàu vận tải Đồng Minh khi ông có cơ hội đã tỏ ra là một sai lầm chiến lược nghiêm trọng.[35]
Các chiến dịch ban đầu
Lực lượng 11.000 lính Thủy quân Lục chiến trên đảo Guadalcanal trước tiên tập trung vào việc thiết lập một ngoại vi phòng thủ chung quanh Lunga Point và sân bay, di chuyển hàng tiếp liệu đã bốc dỡ được vào bên trong phạm vi này, và hoàn tất việc xây dựng sân bay. Sau bốn ngày nỗ lực khẩn trương, số hàng tiếp liệu được chuyển từ bãi đổ bộ đến các kho phân tán trong phạm vi bảo vệ. Công việc hoàn tất sân bay được tiến hành ngay lập tức, chủ yếu bằng các thiết bị chiếm được của quân Nhật. Vào ngày 12 tháng 8, sân bay được đặt tên là Henderson Field theo tên của một phi công Thủy quân Lục chiến, Lofton R. Henderson, hy sinh trong Trận Midway. Đến ngày 18 tháng 8, sân bay sẵn sàng hoạt động.[36] Lúc đó chỉ có năm ngày lương thực được dỡ xuống từ các tàu vận chuyển, cộng với số chiếm được từ quân Nhật, cho phép lực lượng Thủy quân Lục chiến có được 14 ngày lương thực.[37] Để dành dụm tiếp liệu lượng thực, các đơn vị bị giới hạn chỉ được hai bữa ăn mỗi ngày.[38] Lực lượng Đồng Minh còn mắc phải chứng bệnh tiêu chảy nặng không lâu sau khi đổ bộ, cứ mỗi năm người thì có một người mắc phải vào giữa tháng 8. Cho dù có một số ít công nhân xây dựng người Triều Tiên ra đầu hàng, đa số người Nhật và người Triều Tiên còn lại tập trung ngay phía Đông ngoại vi Lunga bên bờ Tây sông Matanikau và sống sót chủ yếu nhờ vào dừa. Một trạm quan sát hải quân Nhật cũng được phát hiện tại Taivu Point cách khoảng 35 km (22 dặm) phía Đông ngoại vi Lunga. Vào ngày 8 tháng 8, một tàu khu trục Nhật từ Rabaul đã chuyển 113 lính thủy đến tăng cường cho Matanikau.[39]Chiều tối ngày 12 tháng 8, một lực lượng tuần tra Thủy quân Lục chiến 25 người do Trung tá Frank Goettge dẫn đầu, chủ yếu gồm các nhân viên tình báo, đổ bộ bằng xuồng bên ngoài ngoại vi Lunga giữa Point Cruz và sông Matanikau; họ thực hiện một nhiệm vụ trinh sát, và một mục đích phụ nhằm tiếp xúc với một nhóm binh sĩ Nhật mà phía Mỹ tin rằng có ý định đầu hàng. Không lâu sau khi nhóm tuần tra đổ bộ lên bờ, họ bị một trung đội quân Nhật đóng gần đó tấn công và tiêu diệt hầu như toàn bộ nhóm tuần tra.[40]
Để đáp trả, ngày 19 tháng 8, Vandegrift tung ra ba đại đội thuộc Trung đoàn 5 Thủy quân Lục chiến tấn công quân Nhật đang tập trung tại phía Tây Matanikau. Một đại đội tấn công vượt qua cồn cát tại cửa sông Matanikau trong khi một đại đội khác vượt sông cách 1.000 m về phía nội địa và tấn công các lực lượng Nhật đóng trong làng Matanikau. Đại đội thứ ba đổ bộ bằng xuồng xa hơn về phía Tây để tấn công làng Kokumbuna. Sau khi chiếm giữ hai làng một thời gian ngắn, ba đại đội Thủy quân Lục chiến quay trở về ngoại vi Lunga sau khi diệt được khoảng 65 lính Nhật và tổn thất bốn người. Hoạt động này, đôi khi được gọi là "Trận Matanikau thứ nhất", là trận đánh đầu tiên trong nhiều hoạt động dọc sông Matanikau trong suốt chiến dịch.[41]
Ngày 20 tháng 8, chiếc tàu sân bay hộ tống Long Island chuyển giao hai phi đội máy bay Thủy quân Lục chiến đến sân bay Henderson, một phi đội 19 chiếc máy bay tiêm kích Grumman F4F Wildcat, và phi đội kia có 12 chiếc máy bay ném bom SBD Dauntless. Những chiếc máy bay tại Henderson bắt đầu được biết đến dưới tên gọi "Không lực Cactus" (Không lực Xương rồng, CAF) do tên mã mà Đồng Minh đặt cho Guadalcanal. Những chiếc máy bay tiêm kích bắt đầu hoạt động ngay ngày hôm sau, chống trả lại các cuộc ném bom Nhật Bản diễn ra hầu như hàng ngày. Đến ngày 22 tháng 8, chúng được bổ sung bởi năm chiếc P-400 Airacobra Lục quân cùng phi công.[42]
Trận Tenaru
Đánh giá thấp sức mạnh của Lực lượng Đồng Minh trên đảo Guadalcanal, đơn vị của Ichiki thực hiện một cuộc tấn công trực diện ban đêm vào vị trí của Thủy quân Lục chiến tại lạch Alligator (cũng được gọi là "sông Ilu" trên bản đồ quân Mỹ) phía Đông ngoại vi Lunga vào những giờ đầu tiên của ngày 21 tháng 8. Cuộc tấn công của Ichiki bị đánh bại với tổn thất nặng cho quân Nhật, và được biết đến dưới tên gọi Trận Tenaru. Lúc trời sáng, các đơn vị Thủy quân Lục chiến phản công vào các lực lượng của Ichiki còn sống sót, tiêu diệt thêm nhiều người trong đó có chính Ichiki. Tổng cộng, chỉ còn lại 128 người trong tổng quân số 917 của Lực lượng thứ nhất Trung đoàn Ichiki. Những người sống sót quay trở về Taivu Point, báo cáo cho Bộ chỉ huy Quân đoàn 17 sự thất bại của họ, chờ đợi tăng viện và chỉ thị từ Rabaul.[44]
Trận chiến đông Solomon
Cùng lúc đó, ba đội đặc nhiệm tàu sân bay Mỹ của Đô đốc Fletcher cũng tiến đến Guadalcanal để đối phó các nỗ lực tấn công của quân Nhật. Trong các ngày 24 và 25 tháng 8, hai lực lượng tàu sân bay đối đầu với nhau trong Trận chiến đông Solomon, với kết quả là cả hai hạm đội đều phải rút lui sau khi chịu một số thiệt hại, và phía Nhật bị mất một tàu sân bay hạng nhẹ. Đoàn tàu vận tải của Tanaka phải chịu tổn thất nặng bởi các cuộc không kích của Không lực Cactus từ sân bay Henderson Field, một trong số các tàu vận tải bị đánh chìm. Họ bị buộc phải chuyển hướng sang đảo Shortland phía Bắc quần đảo Solomons chuyển số binh sĩ còn sống sót sang các tàu khu trục để được chuyển đến Guadalcanal sau đó.[48]
Không chiến bên trên sân bay Henderson và tăng cường phòng thủ Lunga
-
Xem thêm tại [[Không lực Cactus]]
Trong thời gian này, Vandegrift tiếp tục hướng các nỗ lực vào việc tăng cường và cải thiện việc phòng thủ ngoại vi Lunga. Từ ngày 21 tháng 8 đến ngày 3 tháng 9, ông tái bố trí ba tiểu đoàn Thủy quân Lục chiến, bao gồm Tiểu đoàn 1 Raider do Merritt A. Edson chỉ huy, và Tiểu đoàn 1 Nhảy dù từ Tulagi và Gavutu đến Guadalcanal. Các đơn vị này đã bổ sung thêm khoảng 1.500 người cho lực lượng ban đầu 11.000 người của Vandegrift để bảo vệ sân bay Henderson.[52] Tiểu đoàn 1 Nhảy dù, vốn bị tổn thất nặng trong trận Tulagi và Gavutu-Tanambogo, cùng được đặt dưới sự chỉ huy của Edson.[53] Đơn vị được tái bố trí còn lại, Tiểu đoàn 1 thuộc Trung đoàn 5 Thủy quân Lục chiến (1/5), được cho đổ bộ bằng xuồng xuống địa điểm phía Tây Matanikau gần làng Kokumbuna vào ngày 27 tháng 8 với nhiệm vụ tấn công các đơn vị Nhật Bản tại khu vực này, giống như hoạt động Matanikau lần đầu vào ngày 19 tháng 8. Tuy nhiên, lần này, Thủy quân Lục chiến bị ngăn trở bởi địa hình phức tạp, thời tiết nóng bức và sự phòng thủ của quân Nhật được bố trí chặt chẽ. Sáng hôm sau, họ phát hiện là quân Nhật phòng ngự đã rút đi trong đêm, và họ quay về Lunga bằng xuồng.[54] Tổn thất trong trận này là 20 lính Nhật và 3 lính Mỹ thiệt mạng.[55]
Các đoàn tàu vận tải nhỏ Đồng Minh đến được Guadalcanal vào các ngày 23 và 29 tháng 8, 1 và 8 tháng 9 tiếp tế cho Thủy quân Lục chiến tại Lunga thêm thực phẩm, đạn dược, nhiên liệu máy bay và nhân viên kỹ thuật máy bay. Chuyến tàu vận tải ngày 1 tháng 9 còn mang đến đảo 392 người thuộc lực lượng Công binh để duy tu và cải thiện sân bay Henderson.[56]
Tốc hành Tokyo
Từ ngày 29 tháng 8 đến ngày 4 tháng 9, nhiều tàu tuần dương hạng nhẹ, tàu khu trục và tàu tuần tra đã có thể chuyển khoảng 5.000 binh sĩ đến Taivu Point, bao gồm hầu hết Lữ đoàn 35 bộ binh, phần lớn Trung đoàn 4 bộ binh Aoba và phần còn lại của Trung đoàn Ichiki. Tướng Kawaguchi, người đã đổ bộ lên Taivu Point ngày 31 tháng 8, được đặt làm chỉ huy toàn bộ lực lượng Nhật Bản trên đảo Guadalcanal.[59] Một chuyến vận chuyển khác đã đưa 1.000 binh sĩ thuộc Lữ đoàn Kawaguchi dưới quyền chỉ huy của Đại tá Akinosuke Oka lên Kamimbo, phía Tây ngoại vi Lunga.[60]
Trận chiến đồi Edson
Cùng lúc đó, lính trinh sát bản địa dưới sự chỉ huy của Martin Clemens, một trinh sát duyên hải nguyên là sĩ quan của Lực lượng Phòng vệ Lãnh thổ Bảo hộ Solomon, và dưới sự chỉ đạo của sĩ quan Anh tại Guadalcanal, đã mang báo cáo đến Bộ chỉ huy Thủy quân Lục chiến về tình hình quân Nhật tại Taivu, gần làng Tasimboko. Edson vạch ra một cuộc đột kích vào lực lượng Nhật Bản đang tập trung tại Taivu.[63] Vào ngày 8 tháng 9, sau khi đổ bộ xuống gần Taivu bằng xuồng, người của Edson đã chiếm lấy Tasimboko trong khi lực lượng bảo vệ Nhật rút lui vào rừng.[64] Tại Tasimboko, lực lượng của Edson tìm thấy kho dự trữ tiếp liệu chính của Kawaguchi, bao gồm lượng thực phẩm dự trữ lớn, đạn dược, thuốc men và cả một điện đài sóng ngắn công suất lớn. Sau khi tiêu hủy tất cả những gì trông thấy ngoại trừ một số tài liệu và thiết bị có thể mang theo được, Thủy quân Lục chiến quay trở về khu vực ngoại vi Lunga. Số lượng lớn hàng tiếp liệu tìm thấy, cùng với tin tức tình báo có được do các tài liệu tịch thu, cho phép Thủy quân Lục chiến biết được có ít nhất 3.000 quân Nhật đang hiện diện trên đảo và rõ ràng đang vạch một kế hoạch tấn công.[65]
Edson, cùng với Đại tá Gerald Thomas, trưởng phòng hành quân trong bộ tham mưu của Vandegrift, đã dự đoán chính xác rằng cuộc tấn công của quân Nhật sẽ được thực hiện dọc theo một dãy đồi san hô hẹp mọc đầy cỏ, dài khoảng 900 m (1000 yard) chạy song song với sông Lunga ở ngay phía sau sân bay Henderson. Dãy đồi này, được gọi là đồi Lunga, cung cấp một con đường tự nhiên tiếp cận đến sân bay, khống chế được cả khu vực chung quanh, nhưng quan trọng nhất là cho đến lúc đó hầu như không được bảo vệ. Vào ngày 11 tháng 9, 840 người trong tiểu đoàn của Edson được bố trí trên dãy đồi và khu vực chung quanh.[66]
Đêm 12 tháng 9, Tiểu đoàn 1 của Kawaguchi tấn công đơn vị Raider giữa sông Lunga và dãy đồi, buộc một đại đội Thủy quân Lục chiến phải rút lui về dãy đồi trước khi quân Nhật dừng cuộc tấn công lúc trời sáng. Đêm tiếp theo, đối đầu với 830 người trong lực lượng Raider của Edson là 3.000 quân trong lữ đoàn Kawaguchi cùng một lực lượng pháo binh nhẹ. Quân Nhật bắt đầu tấn công ngay khi trời vừa tối, Tiểu đoàn 1 của Kawaguchi tấn công sườn phải của Edson về phía Tây dãy đồi. Sau khi chọc thủng đội hình của Thủy quân Lục chiến, cuối cùng cuộc tấn công của tiểu đoàn bị chặn đứng bởi lực lượng Thủy quân Lục chiến phòng thủ phần phía Bắc của dãy đồi.[67]
Hai đại đội thuộc Tiểu đoàn 2 Kawaguchi tấn công vào phần phía Nam dãy đồi và đẩy lui lực lượng của Edson về Đồi 123 tại phần trung tâm của dãy đồi. Suốt đêm, Thủy quân Lục chiến tại điểm cao này, dưới sự trợ giúp của pháo binh, đã đẩy lui quân Nhật tấn công trực diện hết đợt này đến đợt khác, đôi khi phải kết thúc bằng những cuộc giáp lá cà. Những đơn vị Nhật lọt qua được dãy đồi tiến đến rìa sân bay cũng bị đánh lui. Các cuộc tấn công của tiểu đoàn Kuma và của đơn vị Oka tại các địa điểm khác trong phần ngoại vi Lunga đều bị đánh bại. Vào ngày 14 tháng 9, sau năm ngày chiến đấu căng thẳng, Kawaguchi dẫn đầu những người còn sống sót trong lữ đoàn bị tiêu tan của ông đi về hướng Tây tại thung lũng Matanikau để sáp nhập với đơn vị của Oka.[68] Tổng cộng, lực lượng của Kawaguchi có 850 người chết trong khi Thủy quân Lục chiến mất 104 người.[69]
Ngày 15 tháng 9, Hyakutake tại Rabaul biết được tin tức về thất bại của Kawaguchi và báo cáo tin tức này về Bộ tổng tư lệnh Đế quốc tại Nhật Bản. Trong một cuộc họp khẩn cấp, lãnh đạo cao cấp của Lục quân và Hải quân Nhật đều đưa ra kết luận rằng "Guadalcanal có thể phát triển thành một trận chiến quyết định của cuộc chiến". Kết quả của trận chiến này sẽ có ảnh hưởng chiến lược mạnh mẽ đến các hoạt động tại các khu vực khác của Thái Bình Dương. Hyakutake ý thức rằng để thi hành mệnh lệnh tập trung đầy đủ nhân lực và phương tiện để có thể đánh bại lực lượng Đồng Minh tại Guadalcanal, ông không thể đồng thời hỗ trợ cho chiến dịch tấn công đang diễn ra trên đường mòn Kokoda tại New Guinea. Hyakutake, với sự tán thành của Bộ tổng tư lệnh, đã ra lệnh cho lực lượng của ông tại New Guinea, vốn chỉ còn cách mục tiêu cảng Moresby không đầy 48 km (30 dặm), rút lui cho đến khi "vấn đề Guadalcanal " được giải quyết. Hyakutake bắt đầu chuẩn bị để gửi thêm nhiều quân đến Guadalcanal để thực hiện một nỗ lực khác nhằm tái chiếm sân bay Henderson.[70]
Tăng viện
Trong khi quân Nhật đang tái tập trung lực lượng tại phía Tây Matanikau, lực lượng Mỹ tập trung vào việc chống đỡ và tăng cường phòng thủ Lunga. Vào ngày 14 tháng 9, Vandegrift cho chuyển thêm Tiểu đoàn 3 thuộc Trung đoàn 2 Thủy quân Lục chiến (3/2) từ Tulagi đến Guadalcanal. Sang ngày 18 tháng 9, một đoàn tàu vận tải Đồng Minh đưa đến thêm 4.157 người thuộc Lữ đoàn 3 Thủy quân Lục chiến (gồm Trung đoàn 7 Thủy quân Lục chiến, Trung đoàn 11 và một số đơn vị hỗ trợ), 137 xe cộ, lều bạt, nhiên lliệu máy bay, đạn dược, thực phẩm và các thiết bị công cụ đến Guadalcanal. Sự tăng viện kịp thời này cho phép Vandegrift, bắt đầu từ ngày 19 tháng 9, thành lập một vành đai phòng thủ liên tục chung quanh ngoại vi Lunga. Tuy nhiên, trong khi hộ tống đoàn tàu vận tải này, tàu sân bay Wasp bị tàu ngầm Nhật I-19 đánh chìm phía Đông Nam Guadalcanal, tạm thời khiến cho chỉ còn lại một tàu sân bay Đồng Minh duy nhất (Hornet) hoạt động tại vùng Nam Thái Bình Dương.[71] Vandegrift cũng thay đổi một số chỉ huy cao cấp trong các đơn vị chiến đấu, điều đi khỏi đảo nhiều sĩ quan mà theo ông không đáp ứng tiêu chuẩn thể hiện, đề bạt vào vị trí đó nhiều sĩ quan cấp dưới từng khẳng định được mình trong chiến đấu. Một trong số đó là Đại tá vừa được thăng cấp Merritt Edson, được giao trách nhiệm chỉ huy Trung đoàn 5 Thủy quân Lục chiến.[72]Tình hình không chiến bên trên bầu trời Guadalcanal có được một khoảng thời gian tạm lắng, khi không có cuộc không kích nào của quân Nhật diễn ra từ ngày 14 tháng 9 đến ngày 27 tháng 9 do thời tiết xấu, thời gian mà cả hai phía củng cố lại các đơn vị không quân của mình. Phía Nhật tăng cường thêm 85 máy bay ném bom và máy bay tiêm kích cho các đơn vị tại Rabaul trong khi phía Mỹ mang 23 máy bay tiêm kích và máy bay cường kích đến sân bay Henderson. Tính đến ngày 20 tháng 9, quân Nhật có tổng cộng 117 máy bay tại Rabaul trong khi phía Đồng Minh có 71 máy bay tại sân bay Henderson.[73] Cuộc chiến trên không tiếp tục trở lại khi quân Nhật tung ra cuộc không kích xuống Guadalcanal vào ngày 27 tháng 9, và bị ngăn chặn bởi máy bay tiêm kích của Hải quân và Thủy quân Lục chiến tại Henderson.[74]
Quân Nhật lập tức bắt đầu chuẩn bị cho đợt tấn công kế tiếp nhằm chiếm lại Henderson. Tiểu đoàn 3 thuộc Trung đoàn 4 Aoba đã đổ bộ xuống vịnh Kamimbo tại phần cực Tây Guadalcanal vào ngày 11 tháng 9, quá trễ để có thể tham gia cuộc tấn công của Kawaguchi. Dù sao, giờ đây tiểu đoàn gia nhập vào lực lượng của Đại tá Oka gần Matanikau. Các chuyến vận chuyển "Tốc hành Tokyo" bởi các tàu khu trục vào ngày 14, 20, 21 và 24 tháng 9 chuyển được đến Kamimbo trên Guadalcanal một lượng lớn thực phẩm và đạn dược, cùng 280 người của Tiểu đoàn 1 thuộc Trung đoàn Aoba. Trong khi đó, các sư đoàn 2 và 38 bộ binh Lục quân Nhật được vận chuyển từ Đông Ấn thuộc Hà Lan đến Rabaul bắt đầu từ ngày 13 tháng 9. Phía Nhật Bản đặt kế hoạch chuyển tổng cộng 17.500 quân thuộc hai sư đoàn này đến Guadalcanal để tham gia cuộc tấn công lớn tiếp theo sau vào ngoại vi Lunga, được dự định vào ngày 20 tháng 10 năm 1942.[75]
Các hoạt động dọc theo sông Matanikau
Hoạt động đầu tiên của Thủy quân Lục chiến Mỹ nhằm tấn công lực lượng Nhật đóng về phía Tây sông Matanikau, được thực hiện từ ngày 23 đến ngày 27 tháng 9 bởi các đơn vị thuộc ba tiểu đoàn đã bị lực lượng của Kawaguchi dưới sự chỉ huy trực tiếp tại chỗ của Akinosuke Oka đẩy lui. Trong hoạt động này, ba đại đội Thủy quân Lục chiến bị quân Nhật bao vây gần Point Cruz về phía Tây Matanikau, chịu tổn thất nặng, và cố thoát ra được với sự trợ giúp từ một tàu khu trục Mỹ và tàu đổ bộ do người của lực lượng Tuần duyên điều khiển.[77]
Trong hoạt động thứ hai từ ngày 6 đến ngày 9 tháng 10, một lực lượng lớn Thủy quân Lục chiến đã vượt qua sông Matanikau thành công và tấn công lực lượng Nhật mới đổ bộ thuộc Sư đoàn 2 Bộ binh thuộc quyền chỉ huy của các tướng Masao Maruyama và Yumio Nasu, và đã gây thiệt hại nặng cho Trung đoàn 4 Bộ binh. Hoạt động thứ hai này đã buộc quân Nhật phải rút lui khỏi các vị trí của họ ở phía Đông Matanikau và gây trở ngại việc chuẩn bị cho cuộc tấn công lớn tiếp theo được hoạch định nhắm vào vành đai phòng thủ Lunga.[78]
Từ ngày 9 đến ngày 11 tháng 10, các tiểu đoàn 1 và 2 Thủy quân Lục chiến đột kích hai tiền đồn Nhật Bản nhỏ Gurabusu và Koilotumaria cách ngoại vi Lunga 48 km (30 dặm) về phía Đông gần vịnh Aola. Kết quả của trận đánh này đã khiến 35 lính Nhật thiệt mạng trong khi có 17 lính Thủy quân Lục chiến và ba lính Hải quân Mỹ bị giết.[79]
Trận chiến mũi Esperance
Cùng lúc đó, Millard F. Harmon, Tư lệnh lực lượng Quân đội Hoa Kỳ tại Nam Thái Bình Dương, đã thuyết phục Ghormley rằng lực lượng Thủy quân Lục chiến trên đảo Guadalcanal cần được tăng cường ngay để phía Đồng Minh có thể giữ vững được hòn đảo trong cuộc tấn công sắp tới của quân Nhật được dự đoán. Vì vậy, vào ngày 8 tháng 10, 2.837 người thuộc Trung đoàn 164 Bộ binh thuộc Sư đoàn Americal Lục quân Mỹ lên tàu tại New Caledonia thực hiện chuyến đi đến Guadalcanal và dự định cập bến vào ngày 13 tháng 10. Để bảo vệ đoàn tàu vận tải đi đến Guadalcanal, Ghormley ra lệnh cho Lực lượng Đặc nhiệm 64, bao gồm bốn tàu tuần dương và năm tàu khu trục dưới quyền chỉ huy của Chuẩn Đô đốc Norman Scott, để đánh chặn và chống lại mọi tàu chiến Nhật có thể xuất hiện tại Guadalcanal đe dọa đến đoàn tàu vận tải.[81]
Bộ tham mưu Hạm đội 8 của Mikawa dự định tổ chức một chuyến "Tốc hành Tokyo" quan trọng vào đêm 11 tháng 10. Hai tàu chở thủy phi cơ và sáu tàu khu trục sẽ vận chuyển 728 binh sĩ cùng pháo binh và đạn dược đến Guadalcanal. Cùng thời gian đó nhưng trong một hoạt động riêng biệt, ba tàu tuần dương và hai tàu khu trục dưới quyền chỉ huy của Chuẩn Đô đốc Aritomo Gotō lên đường bắn phá sân bay Henderson với các quả đạn pháo mảnh đặc biệt nhằm mục đích tiêu diệt Không lực Cactus và các thiết bị của sân bay. Do trong thực tế tàu chiến Mỹ chưa từng có ý định can thiệp các chuyến tàu Tốc hành Tokyo đến Guadalcanal, người Nhật cho rằng không có sự đối đầu của lực lượng tàu nổi Hải quân Mỹ trong đêm đó.[82]
Ngay trước nữa đêm, tàu chiến của Scott phát hiện lực lượng của Gotō trên màn hình radar gần lối vào eo biển giữa đảo Savo và Guadalcanal. Lực lượng của Scott ở vào vị thế Cắt ngang chữ T đội hình không được chuẩn bị của Gotō. Sau khi được lệnh nổ súng, tàu chiến của Scott đánh chìm một tàu tuần dương và một tàu khu trục của Gotō, làm hư hại nặng một tàu tuần dương khác, làm Gotō tử thương và buộc những chiếc tàu chiến còn lại từ bỏ nhiệm vụ bắn phá để rút lui. Trong trận đấu pháo, một tàu khu trục của Scott bị đánh chìm, một tàu tuần dương và một tàu khu trục khác bị hư hại. Trong khi đó, đoàn tàu vận tải Nhật hoàn tất công việc chất dỡ hàng xuống Guadalcanal và bắt đầu quay trở về mà không bị lực lượng của Scott phát hiện. Sáng hôm sau, 12 tháng 10, bốn tàu khu trục của lực lượng hộ tống đoàn tàu vận tải quay lại trợ giúp cho lực lượng tàu chiến bị hư hại của Gotō rút lui. Các đợt không kích của máy bay từ sân bay Henderson đã đánh chìm hai tàu khu trục vào cuối ngày hôm đó. Đoàn tàu vận tải Mỹ cũng đến được Guadalcanal theo kế hoạch vào ngày hôm sau và thành công trong việc đưa hành khách và hàng hóa lên đảo.[83]
Nã pháo bằng thiết giáp hạm xuống Henderson
Cho dù Hải quân Mỹ chiến thắng trong trận hải chiến ngoài khơi mũi Esperance, người Nhật tiếp tục thực hiện kế hoạch và chuẩn bị cho cuộc tấn công lớn được dự định vào cuối tháng 10. Họ quyết định mạo hiểm một lần, không theo quy luật chỉ sử dụng các tàu chiến nhanh để đưa người và vật tư đến đảo. Ngày 13 tháng 10, một đoàn tàu vận tải bao gồm sáu tàu vận tải và tám tàu khu trục hộ tống khởi hành từ quần đảo Shortland hướng đến Guadalcanal. Đoàn tàu vận tải này chuyên chở 4.500 binh sĩ thuộc các trung đoàn 16 và 230 bộ binh, một số lính thủy, hai đại đội pháo binh hạng nặng và một đại đội xe tăng.[84]Để bảo vệ đoàn tàu vận tải không bị máy bay của Không lực Cactus tấn công, Yamamoto gửi hai thiết giáp hạm từ Truk đến dội pháo xuống sân bay Henderson. Lúc 01 giờ 33 phút ngày 14 tháng 10, các thiết giáp hạm Kongō và Haruna, được hộ tống bởi một tàu tuần dương hạng nhẹ và chín tàu khu trục, đi đến Guadalcanal và khai hỏa vào sân bay Henderson từ khoảng cách 16 km (17.500 yard). Trong 1 giờ và 23 phút, hai chiếc thiết giáp hạm đã bắn 973 quả đạn pháo 356 mm (14 inch) vào khu vực Lunga, hầu hết rơi trúng bên trong phạm vi 2.200 m của sân bay. Nhiều quả đạn trong số chúng là những quả đạn miểng đặc biệt, được thiết kế để phá hủy những mục tiêu trên đất liền. Đợt bắn phá đã gây hư hỏng nặng nề cả hai đường băng hạ cánh, đốt cháy gần hết nhiên liệu máy bay, phá hủy 48 máy bay trong tổng số 90 chiếc của Không lực Cactus, và làm thiệt mạng 41 trong đó có sáu phi công. Lực lượng thiết giáp hạm sau đó rút lui ngay về Truk.[85]
Cho dù bị thiệt hại nặng nề, người của sân bay Henderson đã có thể phục hồi một trong hai đường băng hạ cánh sau vài giờ. Một đợt tăng viện 17 máy bay SBD và 20 máy bay Wildcat từ Espiritu Santo nhanh chóng bay đến Henderson, và máy bay vận tải của Lục quân và Thủy quân Lục chiến bắt đầu đưa nhiên liệu từ Espiritu Santo đến Guadalcanal. Giờ đây ý thức được về một đoàn tàu vận tải lớn của Nhật đang tiến đến gần, phía Mỹ xoay xở tìm mọi cách ngăn chặn chúng trước khi chúng đến được Guadalcanal. Sử dụng nhiên liệu rút ra từ những chiếc máy bay bị phá hủy và từ một kho dự trữ trong rừng lân cận, máy bay của Không lực Cactus trong ngày 14 tháng 10 đã hai lần tấn công đoàn tàu vận tải, nhưng không gây được thiệt hại gì.[86]
Đoàn tàu vận tải Nhật đến Tassafaronga thuộc Guadalcanal lúc nữa đêm ngày 14 tháng 10 và bắt đầu bốc dỡ. Trong suốt ngày 15 tháng 10, một chuỗi máy bay từ Henderson đã đến ném bom và bắn phá các tàu vận tải đang bốc dỡ, diệt được ba tàu vận tải. Phần còn lại của đoàn tàu khởi hành đêm hôm đó sau khi bốc dỡ tất cả binh lực và khoảng hai phần ba thiết bị và hàng tiếp liệu. Nhiều tàu tuần dương hạng nặng của Nhật cũng bắn phá sân bay Henderson trong đêm 14 rạng ngày 15 tháng 10, phá hủy thêm một số máy bay của Không lực Cactus, nhưng không gây thêm hư hỏng nào đáng kể cho sân bay.[87]
Trận chiến sân bay Henderson
Vào ngày 12 tháng 10, một đại đội công binh Nhật Bản bắt đầu mở một con đường mòn, được gọi là "Đường mòn Maruyama", bắt đầu từ Matanikau hướng đến phần phía Nam của ngoại vi Lunga. Con đường dài 24 km (15 dặm) này trải qua một trong những địa hình phức tạp nhất trên đảo Guadalcanal: nhiều sông suối, khe sâu, đầm lầy đầy bùn, các ngọn đồi dốc đứng và rừng rậm. Từ ngày 16 đến ngày 18 tháng 10, Sư đoàn 2 bắt đầu hành quân dọc theo con đường mòn Maruyama.[90]
Đến ngày 23 tháng 10, lực lượng của Maruyama vẫn còn đang len lỏi qua rừng rậm để tiến ra vành đai phòng ngự của quân Mỹ. Chiều tối hôm đó, sau khi biết được rằng lực lượng của mình chưa đến được vị trí xuất phát, Hyakutake ra lệnh hoãn cuộc tấn công đến 19 giờ 00 ngày 24 tháng 10. Cho đến lúc này phía Mỹ hoàn toàn không hay biết gì về lực lượng của Maruyama đang đến gần.[91] Sumiyoshi nhận được tin tức từ bộ tham mưu của Hyakutake về việc thay đổi thời hạn tấn công sang ngày 24 tháng 10, nhưng không thể liên lạc được với đơn vị dưới quyền để thông báo sự trì hoãn. Do đó, đêm 23 tháng 10, hai tiểu đoàn thuộc Trung đoàn 4 Bộ binh cùng chín xe tăng của Đại đội 1 Xe tăng Độc lập tung ra cuộc tấn công vào các vị trí phòng ngự của Thủy quân Lục chiến Mỹ tại cửa sông Matanikau. Với sự hỗ trợ của hỏa lực pháo và súng cối, lực lượng Mỹ đã đẩy lui cuộc tấn công, tiêu diệt tất cả các xe tăng và diệt nhiều lính Nhật trong khi chỉ bị thiệt hại nhẹ.[92]
Rốt cuộc, vào cuối ngày 24 tháng 10, lực lượng của Maruyama cũng đến được khu vực ngoại vi Lunga. Trong hai đêm tiếp theo sau đó, họ thực hiện nhiều cuộc tấn công trực diện không thành công vào các vị trí được phòng thủ bởi các đơn vị của Tiểu đoàn 1 thuộc Trung đoàn 7 Thủy quân Lục chiến do Trung tá Chesty Puller chỉ huy và Tiểu đoàn 3 thuộc Trung đoàn 164 Bộ binh của Trung tá Robert Hall. Hỏa lực của vũ khí cầm tay, súng máy, cối, pháo binh cùng hỏa lực bắn trực tiếp của các khẩu đội pháo chống tăng 37 mm đã gây thiệt hại nặng cho quân Nhật.[93] Một số nhóm nhỏ quân Nhật vượt qua được tuyến phòng thủ của quân Mỹ, nhưng tất cả đều bị săn đuổi và tiêu diệt nhiều ngày sau đó. Có hơn 1.500 người trong lực lượng của Maruyama bị giết trong các cuộc tấn công trong khi phía Mỹ thiệt hại khoảng 60 người. Cũng trong hai ngày đó, máy bay Mỹ từ sân bay Henderson lại phải chống đỡ các cuộc tấn công của máy bay và tàu bè Nhật, phá hủy được 14 máy bay đối phương và đánh chìm một tàu tuần dương hạng nhẹ.[94]
Các cuộc tấn công khác của quân Nhật gần Matanikau trong ngày 26 tháng 10 cũng bị đẩy lui với tổn thất nặng nề cho phía Nhật Bản. Kết quả là, đến 08 giờ 00 ngày 26 tháng 10, Hyakutake quyết định chấm dứt mọi cuộc tấn công và ra lệnh cho lực lượng của ông rút lui. Khoảng phân nữa những người sống sót trong lực lượng của Maruyama được lệnh rút lui về phía trên thung lũng Matanikau trong khi Trung đoàn 230 Bộ binh dưới quyền chỉ huy của Đại tá Toshinari Shōji được cho rút về Koli Point, phía Đông ngoại vi Lunga. Các đơn vị dẫn đầu của Sư đoàn 2 đến được khu vực trú đóng của Bộ chỉ huy Tập đoàn quân 17 tại Kokumbona, phía Tây Matanikau vào ngày 4 tháng 11. Cùng ngày hôm đó, đơn vị của Shoji đến được Koli Point và đóng trại tại đây. Bị tiêu hao do chết và thương vong trong chiến đấu, thiếu ăn và bệnh tật vùng nhiệt đới, Sư đoàn 2 không còn khả năng tác chiến trong các hoạt động tấn công sắp tới và chỉ được dùng để phòng ngự dọc bờ biển trong suốt thời gian còn lại của chiến dịch. Tổng cộng phía Nhật bị mất khoảng 2.200 - 3.000 binh sĩ trong trận này trong khi tổn thất của phía Mỹ là khoảng 80 người bị giết.[95]
Trận chiến quần đảo Santa Cruz
Hai lực lượng tàu sân bay đối đầu nhau vào buổi sáng ngày 26 tháng 10, sau này được biết đến như là Trận chiến quần đảo Santa Cruz. Sau khi tung vào nhau các đợt không kích bằng máy bay trên tàu sân bay, các tàu nổi Đồng Minh buộc phải rút lui khỏi chiến trường sau khi tàu sân bay Hornet bị đánh chìm và chiếc Enterprise duy nhất còn lại bị hỏng nặng. Tuy nhiên, lực lượng tàu sân bay Nhật cũng phải rút lui do chịu tổn thất nặng về máy bay và đội bay, cũng như hư hại đáng kể cho hai tàu sân bay. Cho dù đây là một thắng lợi chiến thuật rõ ràng cho phía Nhật Bản xét về số lượng tàu chiến bị đánh chìm và hư hại, hầu hết những tổn thất của các đội bay dày dạn chinh chiến của Nhật là không thể bù đắp được, trở thành một lợi thế chiến lược lâu dài cho phía Đồng Minh, khi tổn thất về phi công của họ trong trận này tương đối thấp. Các tàu sân bay Nhật sau đó không còn đóng vai trò nào đáng kể trong chiến dịch này.[97]
Các hoạt động trên bộ trong tháng 11
Cuộc tấn công của quân Mỹ được bắt đầu vào ngày 1 tháng 11, và sau một số khó khăn, đã tiêu diệt được lực lượng Nhật phòng thủ khu vực Point Cruz vào ngày 3 tháng 11, kể cả các đơn vị dự bị được gửi đến tăng cường cho trung đoàn bị tiêu hao của Nakaguma. Với đà tiến quân này, lực lượng Mỹ hầu như sẽ phá được tuyến phòng thủ của quân Nhật và chiếm Kokumbona. Tuy nhiên, vào lúc này, các đơn vị Mỹ khác đã phát hiện và giao chiến cùng các đơn vị Nhật vừa mới đổ bộ lên Koli Point về phía Đông ngoại vi Lunga. Để đối phó lại mối đe dọa mới này, Vandegrift tạm thời cho ngừng cuộc tấn công tại Matanikau vào ngày 4 tháng 11. Phía Mỹ thiệt hại 71 người và phía Nhật có khoảng 400 người bị giết trong trận tấn công này.[99]
Tại Koli Point vào lúc sáng sớm ngày 3 tháng 11, năm tàu khu trục Nhật đã cho đổ bộ khoảng 300 người nhằm hỗ trợ cho Shōji và lực lượng của ông trên đường rút ra Koli Point sau Trận chiến sân bay Henderson. Nhận được tin tức về cuộc đổ bộ, Vandegrift tung một tiểu đoàn Thủy quân Lục chiến do Herman H. Hanneken chỉ huy ra đánh chặn quân Nhật tại Koli Point. Ngay sau khi đổ bộ, quân Nhật tiếp chiến và đẩy lui tiểu đoàn của Hanneken về hướng ngoại vi Lunga. Để phản công, Vandegrift ra lệnh cho tiểu đoàn Thủy quân Lục chiến của Puller và hai tiểu đoàn thuộc Trung đoàn 164 Lục quân, cùng với tiểu đoàn của Hanneken tiến về hướng Koli Point để tấn công lực lượng Nhật tại đây.[100]
Khi lực lượng Mỹ bắt đầu di chuyển, Shōji và binh lính của ông cũng bắt đầu đến Koli Point. Bắt đầu từ ngày 8 tháng 11, lực lượng Mỹ dự định bao vây lực lượng của Shōji tại đồi Gavaga gần Koli Point. Trong khi đó, Hyakutake ra lệnh cho Shōji bỏ các vị trí của mình tại Koli để hội quân tại Kokumbona trong khu vực Matanikau. Một địa hình đồi thấp và đầm lầy ngăn cách sườn phía Nam của phòng tuyến phía Mỹ. Từ ngày 9 đến ngày 11 tháng 11, Shōji cùng khoảng 2.000 đến 3.000 binh sĩ của mình đã thoát được vào rừng về phía Nam. Vào ngày 12 tháng 11, lực lượng Mỹ hoàn toàn áp đảo và tiêu diệt hết số binh sĩ Nhật còn lại trong vòng vây. Người ta đếm được có khoảng 450 đến 475 xác binh lính Nhật tại khu vực Koli Point, và chiếm được hầu hết vũ khí nặng và tiếp liệu của Shōji. Lực lượng Mỹ bị tổn thất 40 người chết và 120 người bị thương trong trận đánh này.[101]
Trong khi đó, vào ngày 4 tháng 11, hai đại đội thuộc Tiểu đoàn 2 Raider dưới quyền chỉ huy của Trung tá Evans Carlson đã đổ bộ bằng xuồng lên vịnh Aola Bay, cách Lunga Point 64 km (40 dặm) về phía Đông. Đơn vị của Carlson cùng với các đơn vị của Trung đoàn 147 Bộ binh có nhiệm vụ bảo vệ cho lực lượng 500 lính công binh xây dựng một sân bay tại địa điểm này. Halsey, theo đề nghị của Turner, đã chấp thuận cho xây dựng một sân bay tại vịnh Aola. Tuy nhiên, công việc xây dựng này sau đó bị hủy bỏ vào cuối tháng 11 do địa hình không phù hợp.[102]
Vào ngày 5 tháng 11, Vandegrift chỉ thị cho Carlson đưa lực lượng Raider của mình tiến quân trên bộ từ Aola, và tấn công mọi lực lượng của Shōji đã thoát ra khỏi Koli Point. Với các đại đội còn lại của tiểu đoàn của ông đã đổ bộ vài ngày sau đó, Carlson cùng lực lượng của mình bắt đầu đợt hành quân kéo dài 29 ngày từ Aola đến ngoại vi Lunga. Trong hoạt động này, đơn vị Raider đã đánh nhiều trận cùng các đơn vị của Shōji đang rút lui, tiêu diệt khoảng 500 người, và bị thiệt hại 16 người. Ngoài tổn thất bởi những cuộc tấn công của đơn vị Carlson, bệnh tật miền nhiệt đới và thiếu hụt lương thực cũng làm ngã gục thêm một số người của Shōji. Khi lực lượng của Shōji đến được sông Lunga vào giữa tháng 11, khoảng nữa đường đến Matanikau, chỉ còn 1.300 người còn lại trong lực lượng; và khi Shōji đến được vị trí của Tập đoàn quân 17 về phía Tây Matanikau, chỉ còn 700 đến 800 người sống sót với ông. Đa số những người còn sống sót trong lực lượng của Shōji gia nhập các đơn vị Nhật khác để phòng thủ núi Austen và khu vực thượng nguồn sông Matanikau.[103]
Các chuyến tàu "Tốc hành Tokyo" vào các ngày 5, 7 và 9 tháng 11 đã đưa thêm binh lính thuộc Sư đoàn 38 Bộ binh, bao gồm hầu hết Trung đoàn 228, đến Guadalcanal. Các đơn vị mới và sung sức này nhanh chóng được bố trí tại khu vực Point Cruz và Matanikau, và đã giúp kháng cự thành công các đợt tấn công tiếp theo sau của lực lượng Mỹ trong các ngày 10 và 18 tháng 11. Lực lượng Mỹ và Nhật tiếp tục đối diện nhau dọc theo một chiến tuyến ở về phía Tây Point Cruz trong sáu tuần lễ tiếp theo sau.[104]
Hải chiến Guadalcanal
Vào đầu tháng 11, lực lượng tình báo Đồng Minh cũng biết được quân Nhật lại chuẩn bị để tái chiếm sân bay Henderson.[107] Vì vậy, họ gửi Lực lượng Đặc nhiệm 67, một đoàn tàu vận tải lớn chở lực lượng tăng cường và hàng tiếp liệu đến Guadalcanal. Đoàn tàu chuyên chở binh lực thay thế cho Thủy quân Lục chiến, hai tiểu đoàn bộ binh, đạn dược và lương thực, dưới quyền chỉ huy của Turner, cập bến vào ngày 11 tháng 11. Đoàn tàu này được bảo vệ bởi hai đội đặc nhiệm do các Chuẩn Đô đốc Daniel J. Callaghan và Norman Scott chỉ huy, và bởi máy bay từ sân bay Henderson.[108] Đoàn tàu bị tấn công nhiều lần trong các ngày 11 và 12 tháng 11 bởi máy bay Nhật cất cánh từ Rabaul có ghé qua một sân bay tại Buin, Bougainville; nhưng đa số được bốc dỡ mà không bị thiệt hại nghiêm trọng.[109]
Máy bay trinh sát Mỹ đã nhìn thấy lực lượng tàu chiến bắn phá của Abe đang đến gần, và đã chuyển thông tin đến bộ chỉ huy Đồng Minh.[110] Được cảnh báo kịp thời, Turner cho tách ra mọi tàu chiến còn sử dụng được dưới quyền chỉ huy của Callaghan để bảo vệ lực lượng trên bờ khỏi cuộc tấn công của Hải quân Nhật được dự đoán, đồng thời ra lệnh cho những con tàu tiếp liệu sẽ khởi hành rời Guadalcanal vào tối ngày 12 tháng 11.[111] Lực lượng của Callaghan bao gồm hai tàu tuần dương hạng nặng, ba tàu tuần dương hạng nhẹ và tám tàu khu trục.[112]
Vào khoảng 01 giờ 30 phút ngày 13 tháng 11, lực lượng của Callaghan đã đánh chặn những tàu chiến của Abe ở khoảng giữa Guadalcanal và đảo Savo. Ngoài hai thiết giáp hạm, lực lượng của Abe còn bao gồm một tàu tuần dương hạng nhẹ và 11 tàu khu trục. Trong bóng đêm tối đen như mực,[113] hai lực lượng tàu chiến đan xen kẻ vào nhau trước khi nổ súng ở khoảng cách cực gần bất thường. Sau trận đánh, tàu chiến của Abe đã đánh chìm hay làm hư hại nặng toàn bộ lực lượng của Callaghan ngoại trừ một tàu tuần dương hạng nhẹ và một tàu khu trục, và cả Callaghan lẫn Scott đều tử trận. Về phía Nhật, hai tàu khu trục bị đánh chìm cùng một tàu khu trục và thiết giáp hạm Hiei bị hư hại nặng. Cho dù đã đánh bại được lực lượng của Callaghan, Abe ra lệnh cho các tàu chiến của ông rút lui mà không bắn phá sân bay Henderson như dự định. Hiei bị chìm trong ngày hôm đó sau khi bị máy bay của Không lực Cactus và của tàu sân bay Enterprise tấn công. Do thất bại của Abe không vô hiệu hóa được sân bay Henderson, Yamamoto ra lệnh cho đoàn tàu vận tải dưới sự chỉ huy của Raizo Tanaka đi đến quần đảo Shortland, và chờ đợi thêm một ngày đêm trước khi thẳng tiến đến Guadalcanal. Yamamoto ra lệnh cho Nobutake Kondo tổ chức một lực lượng bắn phá khác, sử dụng các tàu chiến tại Truk và lực lượng của Abe để tiến hành bắn phá sân bay Henderson vào ngày 15 tháng 11.[114]
Cùng lúc đó, vào khoảng 02 giờ 00 ngày 14 tháng 11, một lực lượng tàu tuần dương và tàu khu trục dưới quyền chỉ huy của Gunichi Mikawa xuất phát từ Rabaul đã tiến hành một đợt bắn phá xuống sân bay Henderson mà không hề bị kháng cự. Tuy nhiên, đợt bắn phá này chỉ gây ra một số thiệt hại mà không thể vô hiệu hóa sân bay hay hầu hết máy bay. Khi lực lượng của Mikawa rút lui về hướng Rabaul, đoàn tàu vận tải của Tanaka, tin rằng sân bay Henderson giờ đã bị phá hủy hay hư hỏng nặng, bắt đầu tiến vào "cái khe" để hướng đến Guadalcanal. Trong suốt ngày 14 tháng 11, máy bay từ sân bay Henderson và của Enterprise đã tấn công các con tàu của Mikawa và Tanaka, đánh chìm một tàu tuần dương hặng nặng và bảy tàu vận tải. Các phi vụ từ Henderson đã có thể cất cánh được hầu hết là nhờ sự cung cấp 488 thùng 208 lít (55 gallon) xăng 100-octane dành cho máy bay được cất dấu tại một khu vực riêng biệt dưới cánh rừng bởi thủy thủ August Martello. Đa số binh lính được cứu vớt khỏi các tàu vận tải bị đánh chìm bởi các tàu khu trục theo hộ tống của Tanaka và quay lại Shortlands. Khi trời tối, Tanaka và bốn tàu vận tải còn lại tiếp tục hành trình đến Guadalcanal trong khi lực lượng của Kondo tiến đến gần để thực hiện bắn phá sân bay Henderson.[115]
Để chặn đánh lực lượng của Kondo, Halsey, lúc này đang thiếu hụt tàu chiến, đã cho tách ra hai thiết giáp hạm Washington và South Dakota cùng bốn tàu khu trục từ lực lượng đặc nhiệm của Enterprise. Lực lượng Mỹ, dưới quyền chỉ huy của Đô đốc Willis A. Lee trên chiếc Washington, đi đến Guadalcanal và đảo Savo ngay trước lúc nữa đêm ngày 14 tháng 11, không lâu trước khi lực lượng bắn phá của Kondo xuất hiện. Lực lượng của Kondo bao gồm Kirishima và hai tàu tuần dương hạng nặng, hai tàu tuần dương hạng nhẹ và chín tàu khu trục. Khi hai lực lượng đối đầu nhau, tàu chiến của Kondo nhanh chóng đánh chìm ba trong số các tàu khu trục Mỹ và làm hư hại nặng chiếc thứ tư cuối cùng còn lại. Sau đó, lực lượng Nhật trông thấy South Dakota, nổ súng và gây hư hại nó. Nhưng khi các tàu chiến của Kondo tập trung hỏa lực vào chiếc South Dakota, Washington tiếp cận các tàu chiến Nhật mà không bị phát hiện và nổ súng vào Kirishima, liên tục bắn trúng đích chiếc thiết giáp hạm Nhật khiến nó bị phá hủy hoàn toàn. Sau khi theo đuổi một cách vô vọng Washington về hướng quần đảo Russell, Kondo ra lệnh cho những tàu chiến của ông rút lui, và một lần nữa đã không thể thực hiện việc bắn phá sân bay Henderson như dự định. Một trong những tàu khu trục của Kondo cũng bị đánh chìm trong trận đụng độ này.[116]
Khi các tàu chiến của Kondo rút lui, bốn tàu vận tải Nhật cặp bờ gần Tassafaronga trên đảo Guadalcanal lúc 04 giờ 00 và bắt đầu nhanh chóng dỡ hàng. Đến 05 giờ 55 phút, máy bay Mỹ và pháo binh bắt đầu tấn công bãi đổ bộ, phá hủy tất cả bốn con tàu cùng hầu hết số tiếp liệu mà chúng chở theo. Chỉ có khoảng 2.000–3.000 binh lính đổ bộ được lên bờ. Do thất bại không chuyển được phần lớn binh lực và tiếp liệu cần thiết, quân Nhật buộc phải hủy bỏ kế hoạch tấn công sân bay Henderson trong tháng 11 như đã dự tính.[117]
Ngày 26 tháng 11, Trung tướng Hitoshi Imamura tiếp nhận quyền chỉ huy Cụm Tập đoàn quân Khu vực 8 đặt tại Rabaul, bao gồm Tập đoàn quân 17 của Hyakutake và Tập đoàn quân 18 tại New Guinea. Một trong những ưu tiên hàng đầu của Imamura khi tiếp nhận chỉ huy là tiếp tục các nỗ lực nhằm tái chiếm sân bay Henderson và Guadalcanal. Tuy nhiên, cuộc tấn công của Đồng Minh tại Buna thuộc New Guinea, đã làm thay đổi các dự định của Imamura. Vì các hoạt động của phe Đồng Minh nhằm chiếm Buna được coi là mối đe dọa nghiêm trọng cho Rabaul, Imamura phải hoãn lại các nỗ lực tăng viện trợ lớn cho Guadalcanal để tập trung sự chú ý vào tình hình tại New Guinea.[118]
Trận Tassafaronga
Bộ tham mưu Hạm đội 8 vạch ra kế hoạch nhằm giảm thiểu nguy cơ phơi ra của các tàu khu trục vận chuyển tiếp liệu đến Guadalcanal. Các thùng dầu hoặc gas lớn được rửa sạch rồi chất đầy lương thực hay thuốc men, với đủ không khí bên trong giúp nó nổi, rồi kết lại với nhau bằng dây thừng. Khi các tàu khu trục đi đến Guadalcanal, chúng sẽ đổi hướng nhanh trong khi dây thùng được cắt rời, và một người bơi ra biển hay xuồng có thể vớt đầu phao nổi của dây và kéo chúng vào bờ, nơi các binh sĩ có thể nhận được đồ tiếp liệu.[120]
Đơn vị Tăng cường Guadalcanal (Tốc hành Tokyo) của Hạm đội 8, hiện đang dưới quyền chỉ huy của Chuẩn Đô đốc Raizo Tanaka, được Mikawa giao nhiệm vụ thực hiện chuyến đầu tiên trong kế hoạch năm chuyến vận chuyển đến Tassafaronga thuộc Guadalcanal sử dụng phương pháp thùng rỗng như trên vào đêm 30 tháng 11. Nòng cốt lực lượng của Tanaka bao gồm tám tàu khu trục, trong đó sáu chiếc sẽ mang từ 200 đến 240 thùng tiếp liệu mỗi chiếc.[121] Được lực lượng tình báo cho biết về kế hoạch tiếp tế của quân Nhật, Halsey ra lệnh cho Lực lượng Đặc nhiệm 67 vừa mới được thành lập, bao gồm bốn tàu tuần dương và bốn tàu khu trục dưới quyền chỉ huy của Chuẩn Đô đốc Carleton H. Wright, đánh chặn lực lượng của Tanaka ngoài khơi Guadalcanal. Có thêm hai tàu khu trục gia nhập lực lượng của Wright trên đường đi từ Espiritu Santo đến Guadalcanal trong ngày 30 tháng 11.[122]
Lúc 22 giờ 40 phút đêm 30 tháng 11, lực lượng của Tanaka đi đến vùng biển ngoài khơi Guadalcanal và chuẩn bị thả các thùng tiếp liệu. Trong khi đó, tàu chiến của Wright cũng tiến đến khu vực qua eo biển Ironbottom từ hướng ngược lại. Các tàu khu trục của Wright nhìn thấy lực lượng của Tanaka trên màn hình radar và viên chỉ huy lực lượng khu trục xin phép được tấn công bằng ngư lôi. Wright chần chừ mất bốn phút trước khi quyết định cho phép, khiến lực lượng của Tanaka thoát ra khỏi tầm bắn ngư lôi tối ưu. Tất cả các quả ngư lôi Mỹ bắn ra sau đó đều trượt mục tiêu. Cùng lúc đó, các tàu tuần dương của Wright nổ súng, nhanh chóng bắn trúng và đánh chìm một tàu khu trục Nhật làm nhiệm vụ hộ tống. Các tàu chiến còn lại của Tanaka bỏ dỡ nhiệm vụ tiếp liệu, tăng tốc, quay đầu và phóng tổng cộng 44 ngư lôi về phía các tàu tuần dương của Wright.[123]
Các quả ngư lôi Nhật đã đánh trúng và làm chìm chiếc tàu tuần dương Mỹ Northampton cũng như làm hư hại nặng các tàu tuần dương Minneapolis, New Orleans và Pensacola. Lực lượng tàu khu trục còn lại của Tanaka chạy thoát mà không chịu thêm thiệt hại nào khác, nhưng thất bại không thể cung cấp bất kỳ hàng tiếp liệu cho lực lượng trên bờ tại Guadalcanal.[124]
Cho đến ngày 7 tháng 12 năm 1942, lực lượng của Hyakutake bị tiêu hao khoảng 50 người mỗi ngày do thiếu ăn, bệnh tật và các cuộc tấn công mặt đất và trên không của Đồng Minh.[125] Những nỗ lực khác do lực lượng của Tanaka thực hiện nhằm tiếp tế trong các ngày 3, 7 và 11 tháng 12 cũng không thể làm nhẹ bớt sự khủng hoảng lương thực, trong khi một trong những chiếc tàu khu trục của Tanaka lại bị ngư lôi từ tàu tuần tra-phóng lôi (PT boat) đánh chìm.[126]
Nhật Bản quyết định rút lui
Ngày 28 tháng 12, Tướng Hajime Sugiyama và Đô đốc Osami Nagano đích thân trình bày cho Nhật hoàng Hirohito về quyết định rút lui khỏi Guadalcanal. Ngày 31 tháng 12, Nhật Hoàng chính thức phê chuẩn quyết định này. Quân Nhật bắt đầu bí mật chuẩn bị cho việc triệt thoái, dưới tên gọi Chiến dịch Ke, dự định sẽ thực hiện vào cuối tháng 1 năm 1943.[128]
Trận chiến núi Austen, đồi Galloping Horse và đồi Sea Horse
Ngày 18 tháng 12, lực lượng Đồng Minh bắt đầu tấn công các vị trí của quân Nhật trên núi Austen. Một vị trí cố thủ mạnh của quân Nhật, Gifu, đã ngăn trở cuộc tấn công và quân Mỹ buộc phải tạm ngưng tiến quân vào ngày 4 tháng 1.[130] Quân Đồng Minh tấn công trở lại vào ngày 10 tháng 1, đánh mạnh vào quân Nhật trên núi Austen cũng như tại hai dãy đồi lân cận Seahorse và Galloping Horse. Sau một số khó khăn, quân Đồng Minh chiếm được cả ba vị trí vào ngày 23 tháng 1. Cùng lúc đó, Thủy quân Lục chiến cũng tiến dọc theo bờ biển phía Bắc, đạt được tiến triển đáng kể. Lực lượng Mỹ thiệt hại khoảng 250 người tử trận trong khi quân Nhật bị mất khoảng 3.000 người.[131]
Cuộc triệt thoái Ke
-
Xem thêm tại [[Trận chiến đảo Rennell]]
Patch, cảnh giác với cái mà ông cho là một cuộc tấn công của Nhật sắp xảy ra, chỉ điều một phần lực lượng tương đối yếu của ông tiếp tục cuộc tấn công chậm chạp vào lực lượng của Hyakutake. Ngày 29 tháng 1, dựa trên cùng nguồn tin tình báo, Halsey gửi một đoàn tàu vận tải hàng tiếp liệu đến Guadalcanal được hộ tống bởi một lực lượng đặc nhiệm tàu tuần dương. Trông thấy các tàu chiến Mỹ, máy bay ném ngư lôi Nhật đã tấn công lực lượng đặc nhiệm vào cùng buổi chiều tối hôm đó, gây hư hỏng nặng tàu tuần dương Mỹ Chicago. Sáng hôm sau, nhiều đợt tấn công bằng máy bay ném ngư lôi khác đã đánh chìm chiếc Chicago. Halsey ra lệnh cho phần còn lại của lực lượng đặc nhiệm quay về căn cứ và chỉ thị cho các tàu chiến còn lại dưới quyền tập trung tại biển Coral, phía Nam Guadalcanal, sẵn sàng tiến hành phản công vào lực lượng hải quân Nhật.[133]
Cùng lúc đó, Tập đoàn quân 17 Nhật rút lui ra bờ biển phía Tây Guadalcanal trong khi đơn vị bọc hậu ngăn chặn cuộc tấn công của quân Mỹ. Vào đêm 1 tháng 2, một lực lượng 20 tàu khu trục thuộc Hạm đội 8 của Mikawa dưới quyền chỉ huy của Shintaro Hashimoto di tản thành công 4.935 binh sĩ, chủ yếu thuộc Sư đoàn 38, khỏi Guadalcanal. Lực lượng Nhật và Mỹ thiệt hại mỗi bên một tàu khu trục do không kích và hải chiến trong đợt di tản này.[134]
Trong các đêm 4 và 7 tháng 2, Hashimoto và các tàu khu trục của ông hoàn tất việc di tản hầu hết những lực lượng còn lại khỏi Guadalcanal. Ngoại trừ một số cuộc không kích, lực lượng Đồng Minh, do đang chờ đợi một cuộc tấn công lớn từ phía Nhật, đã không can thiệp vào việc rút lui của Hashimoto. Cuối cùng, phía Nhật đã thành công trong việc triệt thoái 10.652 người khỏi Guadalcanal. Đến ngày 9 tháng 2, Patch nhận ra quân Nhật đã đi khỏi và công bố Guadalcanal an toàn cho lực lượng Đồng Minh, đánh dấu sự kết thúc của chiến dịch.[135]
Diễn biến tiếp theo và ảnh hưởng
Diễn biến tiếp theo
Sau khi quân Nhật rút lui, Guadalcanal và Tulagi được phát triển thành những căn cứ chính hỗ trợ cho cuộc tiến quân của Đồng Minh ngược lên chuỗi quần đảo Solomon. Ngoài sân bay Henderson, có thêm hai đường băng được xây dựng tại Lunga Point và một sân bay dành cho máy bay ném bom được xây dựng tại Koli Point. Cảng hải quân quy mô lớn và các cơ sở hậu cần được thiết lập tại Guadalcanal, Tulagi và Florida. Điểm neo đậu tàu chung quanh Tulagi trở thành một căn cứ tiền phương quan trọng cho tàu chiến và tàu vận tải Đồng Minh hỗ trợ cho Chiến dịch quần đảo Solomon. Các đơn vị trên bộ được tập trung tại các cơ sở doanh trại quy mô lớn tại Guadalcanal trước khi được bố trí đến các chiến trường tại Solomon.[136]Sau Guadalcanal, Nhật Bản rõ ràng ở thế phòng ngự tại Thái Bình Dương. Áp lực liên tục phải củng cố lực lượng tại Guadalcanal đã làm suy yếu nỗ lực của Nhật tại các chiến trường khác, góp phần vào thành công của cuộc phản công mà Liên quân Mỹ-Australian thực hiện tại New Guinea mà kết quả là đã chiếm được các căn cứ quan trọng Buna và Gona vào đầu năm 1943. Phe Đồng Minh đã có được thế chủ động chiến lược mà họ không bao giờ từ bỏ. Đến tháng 6 năm 1943, Đồng Minh tung ra Chiến dịch Cartwheel, và sau khi được sửa đổi vào tháng 8, hình thành nên chiến lược cô lập Rabaul và cắt đứt mọi con đường tiếp tế bằng đường biển đến đó. Việc vô hiệu hóa thành công Rabaul; và sau đó là cuộc tiến quân tại khu vực Tây Nam Thái Bình Dương dưới sự chỉ huy của Tướng Douglas MacArthur cũng như chiến lược "nhảy cóc" qua các hòn đảo tại khu vực Trung Thái Bình Dương của Đô đốc Chester Nimitz, cả hai nỗ lực này đều thành công trong việc tiến quân hướng đến Nhật Bản. Các đơn vị Nhật còn lại đang phòng thủ tại khu vực Nam Thái Bình Dương đều bị tiêu diệt hoặc cô lập bởi các đơn vị Đồng Minh cho đến khi chiến cuộc đi đến hồi kết thúc.[137]
Ảnh hưởng
Nhiều người cho rằng Trận Midway là bước ngoặc trong chiến tranh tại Thái Bình Dương, vì đây là thắng lợi hải quân đầu tiên của Đồng Minh mang tính quyết định trước đối thủ Nhật Bản chưa hề nếm mùi chiến bại, và nó cũng ngăn chặn sự bành trướng của Đế quốc Nhật Bản về phía Đông đến Hawaii và bờ Tây Hoa Kỳ. Cho dù như thế, Nhật vẫn tiếp tục cuộc xâm lấn về phía Nam Thái Bình Dương. Thực ra, chính sách "Châu Âu trước tiên" của Hoa Kỳ thoạt tiên chỉ cho phép tiến hành các hoạt động phòng thủ chống lại sự bành trướng của Nhật, nhằm tập trung mọi nguồn lực vào việc đánh bại Đức tại Châu Âu. Tuy nhiên, sự tranh đấu của Đô đốc King cho chiến dịch chiếm đóng Guadalcanal, cũng như sự thực hiện thành công kế hoạch này, đã thuyết phục được Tổng thống Franklin D. Roosevelt rằng Mặt trận Thái Bình Dương có thể tiếp tục tấn công. Đến cuối năm 1942, rõ ràng là Nhật Bản đã thua trong chiến dịch Guadalcanal, một đòn nặng nề giáng vào kế hoạch chiến lược phòng thủ đế quốc của họ, và một chiến thắng không thể đảo ngược trong tầm tay của Đồng Minh.[138]Guadalcanal là một trong những chiến dịch kéo dài đầu tiên tại Thái Bình Dương, cùng với chiến dịch quần đảo Solomon liên quan xảy ra đồng thời. Cả hai chiến dịch đều là những trận đánh có mức đòi hỏi căng thẳng về tiếp vận cho tất cả các bên tham chiến. Về phía Mỹ, đây là lần đầu tiên nhu cầu chiến dịch đòi hỏi phải tổ chức không vận một cách hiệu quả; trong khi về phía Nhật, việc thất bại không chiếm được ưu thế trên không buộc họ phải dựa trên sự tiếp liệu bằng sà lan, tàu khu trục và tàu ngầm với kết quả thất thường. Vào đầu chiến dịch, người Mỹ gặp trở ngại do thiếu những nguồn lực cần thiết, khi bị thiệt hại nặng về tàu tuần dương và tàu sân bay, và sự bổ sung thay thế bị chậm trễ nhiều tháng. Tổn thất về nhân sự của Hải quân Mỹ vào đầu chiến dịch cao đến mức họ từ chối công bố số liệu về tổng thiệt hại cho đến nhiều năm sau đó. Tuy nhiên, khi chiến dịch tiếp diễn, công luận Hoa Kỳ bắt đầu nhận thức ngày càng nhiều hơn về hoàn cảnh và sự anh dũng của các lực lượng Mỹ tại Guadalcanal, và có thêm nhiều lực lượng và phương tiện được đổ vào khu vực này. Điều này báo trước sự khủng hoảng cho phía Nhật Bản khi các tổ hợp công nghiệp quân sự của họ không thể bắt kịp công suất của nền công nghiệp và nhân lực Hoa Kỳ. Do đó khi chiến dịch tiếp diễn, Nhật Bản mất đi các đơn vị không thể thay thế trong khi phía Mỹ nhanh chóng thay thế và thậm chí tăng cường thêm lực lượng của họ.[139]
Chiến dịch Guadalcanal gây tốn kém nặng nề cho phía Nhật cả về phương tiện và nhân lực. Khoảng 25.000 binh sĩ nhiều kinh nghiệm bị giết trong chiến dịch này. Sự tiêu hao các nguồn lực ảnh hưởng trực tiếp đến thất bại của Nhật Bản trong việc đạt được các mục tiêu trong Chiến dịch New Guinea. Nhật Bản cũng mất quyền kiểm soát khu vực phía Nam của Solomon và khả năng can thiệp vào đường giao thông của Đồng Minh đến Australia. Căn cứ chủ lực của Nhật tại Rabaul giờ đây trực tiếp bị đe dọa bởi không lực Đồng Minh. Quan trọng hơn cả, các lực lượng trên bộ, trên không và trên mặt biển hiếm hoi của Nhật Bản bị biến mất vĩnh viễn trong rừng rậm và vùng biển chung quanh Guadalcanal. Số máy bay bị bắn rơi và tàu chiến bị đánh chìm trong chiến dịch này hầu như không thể thay thế được, vì đó là những chiến binh được huấn luyện kỹ càng và đầy kinh nghiệm, đặc biệt là các đội bay. Có thể cho rằng chiến thắng này của Đồng Minh là bước đầu tiên trong chuỗi dài thành công mà cuối cùng sẽ dẫn đến việc Nhật Bản đầu hàng và việc chiếm đóng các đảo chính quốc Nhật Bản.[140]
Có lẽ đối với Đồng Minh, tầm quan trọng không kém một chiến thắng về quân sự chính là chiến thắng về tâm lý. Trên một sân chơi bình đẳng, lực lượng Đồng Minh đã đánh bại các lực lượng trên bộ, trên không và trên biển tốt nhất của Nhật Bản. Sau chiến dịch Guadalcanal, quân Đồng Minh đã nhìn quân Nhật với ít nỗi e ngại và sự lo sợ hơn trước đây. Thêm vào đó, phe Đồng Minh nhìn thấy diễn biến tương lai trong chiến cuộc tại Thái Bình Dương với niềm lạc quan gia tăng.[141] Nhiều nhà lãnh đạo chính trị và quân sự Nhật Bản, kể cả Naoki Hoshino, Osami Nagano và Torashirō Kawabe, phát biểu không lâu sau khi chiến tranh kết thúc rằng Guadalcanal là bước ngoặc quyết định trong cuộc xung đột. Kawabe đã nói: "Nói về bước ngoặc [của cuộc chiến], khi mọi hoạt động chủ động bị ngưng lại hay thậm chí trở thành bị động, tôi nghĩ rằng đó chính là tại Guadalcanal."[142]
Xem thêm
Chú thích
- ^ Zimmerman John L. 1949, tr. 173–175. Những tài liệu về sự tham gia của dân bản địa quần đảo Solomon trong chiến dịch Guadalcanal và phần lớn quần đảo Solomon nằm trong quyền kiểm soát của Anh trong Thế Chiến II ngoại trừ phần phía Bắc, bao gồm Bougainville và Buka là một phần của lãnh thổ Papua New Guinea do Australia ủy trị.
- ^ Vava'u Press Ltd, Matangi Tonga Online, 2006 [1] cho biết 28 binh sĩ Tonga đã tham chiến tại Guadalcanal, có hai người tử trận.
- ^ Jersey Stanley Coleman 2008, tr. 356–358. Nhóm commando người Fiji dưới sự chỉ huy của sĩ quan và hạ sĩ quan thuộc lực lượng viễn chinh New Zealand đã hỗ trợ phía Mỹ vào giai đoạn sau của chiến dịch.
- ^ Frank Richard 1990, tr. 619–621; và Rottman Gordon L. 2005, tr. 64. Khoảng 20.000 Thủy quân Lục chiến Mỹ và 40.000 Lục quân Mỹ được bố trí tại Guadalcanal tại nhiều thời điểm khác nhau trong suốt chiến dịch.
- ^ Rottman Gordon L. 2005, tr. 65. Có 31.400 lính Lục quân Nhật và 4.800 lính Hải quân Nhật được bố trí đến Guadalcanal trong suốt chiến dịch. Jersey cho rằng có tổng cộng 50.000 lính Lục quân và Hải quân Nhật được gửi đến Guadalcanal, và hầu hết trong số lực lượng ban đầu 1.000–2.000 người được triệt thoái thành công trong tháng 11 và tháng 12 năm 1942 bởi những chuyến tàu Tốc hành Tokyo. (Jersey Stanley Coleman 2008, tr. 348–350)
- ^ Frank Richard 1990, tr. 598–618; và Lundstrom John B. 2005 (bản mới), tr. 456. Có 85 lính Australia bị giết trong trận chiến đảo Savo. Tổng số dân bản địa Solomon chết không rõ. Hầu hết, nếu không nói là tất cả, số người thiệt mạng còn lại đều là người Mỹ. Số người chết bao gồm mọi nguyên nhân kể cả trong chiến đấu, bệnh tật và tai nạn. Số người chết bao gồm 1.768 (lục quân), 4.911 (hải quân) và 420 (không lực). Bốn thành viên đội bay bị Nhật bắt sống trong Trận chiến quần đảo Santa Cruz đã sống sót đến hết chiến tranh. Theo tài liệu của Nhật, một số lượng không rõ binh lính thuộc mọi binh chủng bị quân Nhật bắt được trong chiến dịch đã không sống sót, ngày giờ và nguyên nhân chết không rõ (Jersey Stanley Coleman 2008, tr. 346, 449). Tài liệu Nhật Bản thu được cho biết hai lính trinh sát Thủy quân Lục chiến bị bắt đã bị trói vào cây và bị mổ sống (Clemens Martin 2004 (tái bản), tr. 295). Số tàu chìm bao gồm tàu chiến và tàu phụ trợ "lớn". Số máy bay bị tiêu diệt kể cả trong chiến đấu và do tai nạn.
- ^ Frank Richard 1990, tr. 598-618; Shaw Henry I. 1992, tr. 52; và Rottman Gordon L. 2005, tr. 65. Số người chết bao gồm mọi nguyên nhân kể cả trong chiến đấu, bệnh tật và tai nạn. Số người chết bao gồm 24.600–25.600 (lục quân), 3.543 (hải quân), và 2.300(không lực). Khoảng 9.000 người chết do bệnh tật. Đa số những người bị bắt là lao động nô lệ người Triều Tiên trong các đơn vị xây dựng hải quân. Số tàu chìm bao gồm tàu chiến và tàu phụ trợ "lớn". Số máy bay bị tiêu diệt kể cả trong chiến đấu và do tai nạn.
- ^ Keegan, John (1989). The Second World War. Glenfield, Auckland 10, New Zealand: Hutchinson.
- ^ Tên Henderson được đặt theo tên của Thiếu tá, phi công Thủy quân Lục chiến Lofton Henderson, chỉ huy Phi đội VMSB-241 đã hy sinh trong Trận Midway khi dẫn đầu phi đội của mình tấn công các tàu sân bay Nhật.
- ^ Murray Williamson 2001, tr. 169–195
- ^ Murray Williamson 2001, tr. 196
- ^ Loxton Bruce 1997, tr. 3
- ^ Alexander Joseph H. 2000, tr. 72; Frank Richard 1990, tr. 23-31, 129, 628; Smith Michael T. 2000, tr. 5; Bullard Steven (dịch giả) 2007, tr. 119, 127; Lundstrom John B. 2005 (bản mới), tr. 39. Máy bay Nhật Bản được bố trí tại Guadalcanal đến từ Không đoàn 26, lúc đó đang đặt căn cứ tại Trung Thái Bình Dương (Bullard)
- ^ Bowen, James. “Despite Pearl Harbor, America adopts a 'Germany First' strategy”. America Fights Back. The Pacific War from Pearl Harbor to Guadalcanal. Pacific War Historical Society. Truy cập ngày 30 tháng 12 năm 2007.
- ^ Morison Samuel Eliot 1958, tr. 12; Frank Richard 1990, tr. 15–16; và Miller John, Jr. 1959, tr. 5.
- ^ Murray Williamson 2001, tr. 199–200; Jersey Stanley Coleman 2008, tr. 85; và Lundstrom John B. 2005 (bản mới), tr. 5
- ^ Loxton Bruce 1997, tr. 5; và Miller John Jr. 1949, tr. 11
- ^ Frank Richard 1990, tr. 35–37, 53
- ^ Bullard Steven (dịch giả) 2007, tr. 122
- ^ Morison Samuel Eliot 1958, tr. 15; và McGee William L. 2002, tr. 20–21
- ^ Frank Richard 1990, tr. 57, 619–621
- ^ McGee William L. 2002, tr. 21; và Bullard Steven (dịch giả) 2007, tr. 125–126. Nhiều máy bay tuần tra xuất phát từ Tulagi đã bay trong khu vực cạnh đoàn tàu vận tải Đồng Minh di chuyển, nhưng không thể phát hiện do thời tiết rất xấu và mây dày đặc (Bullard)
- ^ Frank Richard 1990, tr. 60; và Jersey Stanley Coleman 2008, tr. 95. Lực lượng đổ bộ, được đặt tên là Lực lượng Đặc nhiệm 62, bao gồm 6 tàu tuần dương hạng nặng, 2 tàu tuần dương hạng nhẹ, 15 tàu khu trục, 13 tàu vận chuyển, 6 tàu hàng, 4 tàu khu trục vận chuyển, và 5 tàu quét mìn
- ^ Hammel Eric 1999, tr. 46–47; và Lundstrom John B. 2005 (bản mới), tr. 38
- ^ Frank Richard 1990, tr. 51.
- ^ Frank Richard 1990, tr. 50. Nhân lực của Hải quân Nhật bao gồm các chuyên viên xây dựng người Triều Tiên và Nhật Bản cùng các đơn vị huấn luyện tác chiến.
- ^ Shaw Henry I. 1992, tr. 8–9; và McGee William L. 2002, tr. 32–34
- ^ Frank Richard 1990, tr. 79. Có khoảng 80 quân Nhật tháo chạy sang đảo Florida, nơi họ bị các lực lượng Thủy quân Lục chiến tuần tra phát hiện và tiêu diệt trong hai tháng sau đó.
- ^ Jersey Stanley Coleman 2008, tr. 113–115, 190, 350; Morison Samuel Eliot 1958, tr. 15; và Frank Richard 1990, tr. 61–62, 81.
- ^ Loxton Bruce 1997, tr. 90–103
- ^ Frank Richard 1990, tr. 80
- ^ Hammel Eric 1999, tr. 99; và Loxton Bruce 1997, tr. 104–105. Các tác giả Loxton, Frank Richard 1990, tr. 94 và Morison Samuel Eliot 1958, tr. 28 tranh luận rằng tình hình nhiên liệu của Fletcher không hoàn toàn đến mức báo động, nhưng Fletcher đã nhấn mạnh như thế nhằm biện luận cho quyết định rút lui lực lượng của mình khỏi khu vực chiến trường.
- ^ Hammel Eric 1999, tr. 100
- ^ Morison Samuel Eliot 1958, tr. 31
- ^ Morison Samuel Eliot 1958, tr. 19–59
- ^ Smith Michael T. 2000, tr. 14–15. Vào lúc này, chính xác có 10.819 lính Thủy quân Lục chiến trên đảo Guadalcanal (Frank Richard 1990, tr. 125–127).
- ^ Smith Michael T. 2000, tr. 16–17
- ^ Shaw Henry I. 1992, tr. 13
- ^ Smith Michael T. 2000, tr. 20, 35–36
- ^ Zimmerman John L. 1949, tr. 58–60; Smith Michael T. 2000, tr. 35; và Jersey Stanley Coleman 2008, tr. 196–199. Goettge là một trong những người đầu tiên thiệt mạng. Chỉ có ba người quay trở lại được phạm vi Lunga Point. Bảy binh sĩ Nhật thiệt mạng trong cuộc chạm trán. Chi tiết về sự kiện được mô tả tại: Clark, Jack, "Goettge Patrol", Pacific Wreck Database [2] và Broderson, Ben, "Franklin native recalls key WWII battle".
- ^ Frank Richard 1990, tr. 132–133; Jersey Stanley Coleman 2008, tr. 203; và Smith Michael T. 2000, tr. 36–42. Số 500 binh sĩ Nhật Bản thuộc Đơn vị Bảo vệ 84, các Đơn vị Xây dựng 11 và 13, cùng Đơn vị Doanh trại 1 vừa mới tăng cường. Sau trận đánh, lực lượng Nhật rút lui sâu hơn vào những ngọn đồi giữa hòn đảo.
- ^ Shaw Henry I. 1992, tr. 18
- ^ Smith Michael T. 2000, tr. 88; Evans David C. 1986 (tái bản lần 2), tr. 158; và Frank Richard 1990, tr. 141–143. Trung đoàn Ichiki được đặt tên theo vị sĩ quan chỉ huy của nó, trong thành phần Sư đoàn 7 Lục quân Nhật trú đóng tại Hokkaido. Trung đoàn Aoba thuộc Sư đoàn 2 Lục quân Nhật có tên được đặt theo Lâu đài Aoba ở Sendai, vì đa số binh sĩ của trung đoàn xuất thân từ tỉnh Miyagi (Rottman Gordon L. 2005, tr. 52). Trung đoàn Ichiki từng được giao nhiệm vụ tấn công và chiếm đóng Midway, và đang trên đường quay trở lại Nhật Bản vì cuộc tấn công bị hủy bỏ sau thất bại của Nhật Bản trong trận Midway. Mặc dù một số sử gia cho rằng Trung đoàn Ichiki trú đóng tại Truk, Chuẩn Đô đốc Raizo Tanaka, trong sách của Evans, cho biết ông đã đưa Trung đoàn Ichiki đến Guam sau trận Midway. Đơn vị này sau đó xuống tàu và được vận chuyển đi một nơi nào đó, nhưng được đổi hướng đến Truk sau khi Đồng Minh đổ bộ lên Guadalcanal.
- ^ Frank Richard 1990, tr. 156–158, 681; và Smith Michael T. 2000, tr. 43
- ^ Smith Michael T. 2000, tr. 33–34
- ^ Zimmerman John L. 1949, tr. 70; và Frank Richard 1990, tr. 159.
- ^ Hammel Eric 1999, tr. 124–125, 157
- ^ Hara Tameichi 1961, tr. 118–119; và Hough Frank O., tr. 293. Một "số lượng lớn" không thể xác định binh sĩ thuộc đơn vị Yokosuka 5 Đổ bộ Đặc biệt bị thiệt mạng khi tàu vận tải của họ bị đánh chìm.
- ^ Zimmerman John L. 1949, tr. 74
- ^ Hough Frank O., tr. 297
- ^ Frank Richard 1990, tr. 194–213; và Lundstrom John B. 2005 (bản mới), tr. 45. Để so sánh: khoảng cách giữa Lunga Point và Rabaul là 900 km (560 dặm), và cách 740 km (460 dặm) từ các căn cứ không lực Đồng Minh tại Đông England. Sau này Đô đốc William F. Halsey đã biểu dương các trinh sát duyên hải người Australia: "Các trinh sát duyên hải đã cứu Guadalcanal, và Guadalcanal đã cứu Nam Thái Bình Dương." Xem thêm: Behind Enemy Lines: An Amateur Radio Operator’s Amazing Tale of Bravery
- ^ Morison Samuel Eliot 1958, tr. 15; và Hough Frank O., tr. 298
- ^ Smith Michael T. 2000, tr. 103; và Hough Frank O., tr. 298
- ^ Zimmerman John L. 1949, tr. 78–79
- ^ Frank Richard 1990, tr. 197
- ^ Smith Michael T. 2000, tr. 79, 91–92, 94–95
- ^ Griffith Samuel B. 1963, tr. 113; và Frank Richard 1990, tr. 198–199, 205 và 266. Thuật ngữ "rat transportation" được sử dụng bởi vì, giống như chuột, các tàu Nhật chỉ hoạt động tích cực vào ban đêm. Lữ đoàn 35 bộ binh thuộc Sư đoàn 18 bộ binh Lục quân Nhật, có khoảng 3.880 binh sĩ, với nòng cốt là Trung đoàn 124 bộ binh và nhiều đơn vị tăng cường khác (Alexander Joseph H. 2000, tr. 139)
- ^ Morison Samuel Eliot 1958, tr. 113–114
- ^ Frank Richard 1990, tr. 201–203; Griffith Samuel B. 1963, tr. 116–124; và Smith Michael T. 2000, tr. 87–112
- ^ Frank Richard 1990, tr. 218–219
- ^ Frank Richard 1990, tr. 219–220; và Smith Michael T. 2000, tr. 113–115 & 243. Hầu hết binh sĩ trong Lực lượng thứ hai của Trung đoàn Ichiki xuất thân từ Asahikawa, Hokkaidō. "Kuma" có nghĩa là gấu nâu, loài vật thường sống tại khu vực này.
- ^ Frank Richard 1990, tr. 220; và Smith Michael T. 2000, tr. 121
- ^ Zimmerman John L. 1949, tr. 80; và Griffith Samuel B. 1963, tr. 125
- ^ Hough Frank O., tr. 298–299; Frank Richard 1990, tr. 221–222; Smith Michael T. 2000, tr. 129; và Griffith Samuel B. 1963, tr. 129–130
- ^ Griffith Samuel B. 1963, tr. 130–132; Frank Richard 1990, tr. 221–222; và Smith Michael T. 2000, tr. 130
- ^ Frank Richard 1990, tr. 223, 225–226; Griffith Samuel B. 1963, tr. 132 & 134–135; và Smith Michael T. 2000, tr. 130–131, 138
- ^ Smith Michael T. 2000, tr. 161–167. Lực lượng Thủy quân Lục chiến phòng thủ cuối cùng chặn đứng được cuộc tấn công của Kokusho có thể là thuộc Trung đoàn 11 Thủy quân Lục chiến với sự trợ giúp của Tiểu đoàn 1 Tiên phong (Smith Michael T. 2000, tr. 167; và Frank Richard 1990, tr. 235)
- ^ Smith Michael T. 2000, tr. 162–193; Frank Richard 1990, tr. 237–246; và Griffith Samuel B. 1963, tr. 141–147
- ^ Griffith Samuel B. 1963, tr. 144; và Smith Michael T. 2000, tr. 184–194
- ^ Smith Michael T. 2000, tr. 197–198
- ^ Evans David C. 1986 (tái bản lần 2), tr. 179–180; Frank Richard 1990, tr. 247–252; Griffith Samuel B. 1963, tr. 156; và Smith Michael T. 2000, tr. 198–200
- ^ Frank Richard 1990, tr. 263
- ^ Frank Richard 1990, tr. 264–265
- ^ Frank Richard 1990, tr. 272
- ^ Griffith Samuel B. 1963, tr. 152; Frank Richard 1990, tr. 224, 251–254 và 266; Jersey Stanley Coleman 2008, tr. 248–249; và Smith Michael T. 2000, tr. 132 & 158
- ^ Smith Michael T. 2000, tr. 204; và Frank Richard 1990, tr. 270
- ^ Smith Michael T. 2000, tr. 204–215; Frank Richard 1990, tr. 269–274; và Zimmerman John L. 1949, tr. 96–101
- ^ Griffith Samuel B. 1963, tr. 169–176; Frank Richard 1990, tr. 282–290; và Hough Frank O., tr. 318–322
- ^ Frank Richard 1990, tr. 290–291. Ba thủy thủ Hải quân và 15 lính Thủy quân Lục chiến đã thiệt mạng khi xuồng chở họ từ Tulagi đến vịnh Aola thuộc Guadalcanal bị mất. Một trong số binh sĩ Nhật bị giết trong trận đột kích này là "Ishimoto," một nhân viên tình báo Nhật từng làm việc tại khu vực quần đảo Solomon trước chiến tranh và đã tham gia vào việc giết hại hai tu sĩ Công Giáo và hai nữ tu tại Tasimboko vào ngày 3 tháng 9 năm 1942.
- ^ Rottman Gordon L. 2005, tr. 61; Griffith Samuel B. 1963, tr. 152; Frank Richard 1990, tr. 224, 251–254, 266–268, và 289–290; Dull Paul S. 1978, tr. 225–226; và Smith Michael T. 2000, tr. 132 & 158
- ^ Frank Richard 1990, tr. 293–297; Morison Samuel Eliot 1958, tr. 147–149; và Dull Paul S. 1978, tr. 225. Vì không phải mọi tàu chiến của Lực lượng Đặc nhiệm 64 đều có mặt, lực lượng của Scott được đặt tên là Đội Đặc nhiệm 64.2. Các tàu khu trục Mỹ thuộc Hải đội 12 do Đại tá Robert G. Tobin chỉ huy trên chiếc Farenholt
- ^ Frank Richard 1990, tr. 295–296; Hackett, HIJMS Aoba: Tabular Record of Movement; Morison Samuel Eliot 1958, tr. 149–151; D'Albas, trang 183; và Dull Paul S. 1978, tr. 226
- ^ Frank Richard 1990, tr. 299–324; Morison Samuel Eliot 1958, tr. 154–171; và Dull Paul S. 1978, tr. 226–230
- ^ Frank Richard 1990, tr. 313–315. Trung đoàn 16 thuộc Sư đoàn 2 và Trung đoàn 230 thuộc Sư đoàn 38.
- ^ Evans David C. 1986 (tái bản lần 2), tr. 181–182; Frank Richard 1990, tr. 315–320; và Morison Samuel Eliot 1958, tr. 171–175. Raizo Tanaka chỉ huy Hải đội Khu trục 2 trong thành phần hộ tống những chiếc thiết giáp hạm.
- ^ Frank Richard 1990, tr. 319–321.
- ^ Frank Richard 1990, tr. 321–326; và Hough Frank O., tr. 327–328
- ^ Shaw Henry I. 1992, tr. 34; và Rottman Gordon L. 2005, tr. 63
- ^ Rottman Gordon L. 2005, tr. 61; Frank Richard 1990, tr. 289–340; Hough Frank O., tr. 322–330; Griffith Samuel B. 1963, tr. 186–187; Dull Paul S. 1978, tr. 226–230; và Morison Samuel Eliot 1958, tr. 149–171. Lực lượng Nhật được đưa đến Guadalcanal trong giai đoạn này bao gồm toàn bộ Sư đoàn 2 Bộ binh (Sendai), hai tiểu đoàn của Sư đoàn 38 Bộ binh và nhiều đơn vị pháo binh, xe tăng, công binh và các đơn vị hỗ trợ khác. Lực lượng của Kawaguchi còn bao gồm phần còn lại của Tiểu đoàn 3, Trung đoàn 124 nguyên là một phần của Lữ đoàn 35 Bộ binh do Kawaguchi chỉ huy trong Trận chiến đồi Edson.
- ^ Miller Thomas G. 1969, tr. 155; Frank Richard 1990, tr. 339–341; Hough Frank O., tr. 330; Rottman Gordon L. 2005, tr. 62; và Griffith Samuel B. 1963, tr. 187–188. Hyakutake gửi một sĩ quan trong bộ tham mưu của mình, Đại tá Masanobu Tsuji, theo dõi sự tiến quân của Sư đoàn 2 dọc theo đường mòn và báo cáo về khả năng có thể thực hiện cuộc tấn công đúng vào ngày 22 tháng 10 như được dự định. Masanobu Tsuji bị một số sử gia phát hiện rất có thể là thủ phạm đứng phía sau sự kiện Con đường chết Bataan.
- ^ Griffith Samuel B. 1963, tr. 193; Frank Richard 1990, tr. 346–348; và Rottman Gordon L. 2005, tr. 62
- ^ Hough Frank O., tr. 332–333; Frank Richard 1990, tr. 349–350; Rottman Gordon L. 2005, tr. 62–63; Griffith Samuel B. 1963, tr. 195–196; và Miller Thomas G. 1969, tr. 157–158. Thủy quân Lục chiến bị tổn thất 2 người trong chiến đấu. Thiệt hại về phía Nhật Bản không được ghi rõ, nhưng theo Frank, "rõ ràng là nặng nề". Griffith cho rằng có 600 binh sĩ Nhật bị giết. Chỉ có 17 trong tổng số 44 người của Đại đội 1 Xe tăng Độc lập còn sống sót sau trận đánh.
- ^ Frank Richard 1990, tr. 361–362
- ^ Hough Frank O., tr. 336; Frank Richard 1990, tr. 353–362; Griffith Samuel B. 1963, tr. 197–204; Miller John, Jr. 1959, tr. 147–151, 160–162; và Lundstrom John B. 2005 (bản mới), tr. 343–352. Trung đoàn 164 trở thành đơn vị Lục quân đầu tiên tham chiến trong cuộc chiến tranh này, và sau đó được tặng thưởng Đơn vị Tuyên dương tổng thống.
- ^ Frank Richard 1990, tr. 363–406, 418, 424, và 553; Zimmerman John L. 1949, tr. 122–123; Griffith Samuel B. 1963, tr. 204; Hough Frank O., tr. 337; và Rottman Gordon L. 2005, tr. 63. Huân chương Ngôi sao Bạc đã được tưởng thưởng cho Trung sĩ Norman Greber (Ohio), Binh nhì Don Reno (Texas), Binh nhì Jack Bando (Oregon), Binh nhì Stan Ralph (New York) và Hạ sĩ Michael Randall (New York) do những hoạt động anh dũng của họ trong trận này.
- ^ Morison Samuel Eliot 1958, tr. 199–207; Frank Richard 1990, tr. 368–378; và Dull Paul S. 1978, tr. 235–237
- ^ Dull Paul S. 1978, tr. 237–244; Frank Richard 1990, tr. 379–403; và Morison Samuel Eliot 1958, tr. 207–224
- ^ Hough Frank O., tr. 343; Hammel Eric 1999, tr. 135; Griffith Samuel B. 1963, tr. 214–15; Frank Richard 1990, tr. 411; Anderson Charles R. 1993; Shaw Henry I. 1992, tr. 40–41; và Zimmerman John L. 1949, tr. 130–31
- ^ Shaw Henry I. 1992, tr. 40–41; Griffith Samuel B. 1963, tr. 215–218; Hough Frank O., tr. 344–345; Zimmerman John L. 1949, tr. 131–133; Frank Richard 1990, tr. 412–420; và Hammel Eric 1999, tr. 138–139
- ^ Zimmerman John L. 1949, tr. 133–138; Griffith Samuel B. 1963, tr. 217–219; Hough Frank O., tr. 347–348; Frank Richard 1990, tr. 414–418; Miller Thomas G. 1969, tr. 195–197; Hammel Eric 1999, tr. 141; Shaw Henry I. 1992, tr. 41–42; và Jersey Stanley Coleman 2008, tr. 297. Tác giả Jersey cho rằng lực lượng đổ bộ là Đại đội 2 của Trung đoàn 230 Bộ binh do Trung úy Tamotsu Shinno chỉ huy cùng Đại đội 6 thuộc Trung đoàn 28 Sơn pháo chỉ với hai khẩu pháo.
- ^ Zimmerman John L. 1949, tr. 133–141; Griffith Samuel B. 1963, tr. 217–223; Hough Frank O., tr. 347–350; Frank Richard 1990, tr. 414–423; Miller John Jr. 1949, tr. 195–200; Hammel Eric 1999, tr. 141–144; Shaw Henry I. 1992, tr. 41–42; và Jersey Stanley Coleman 2008, tr. 297–305
- ^ Peatross Oscar F. 1995, tr. 132–133; Frank Richard 1990, tr. 420–421; và Hoffman. Hai đại đội của Tiểu đoàn 2 Raider được gửi đến Aola là các đại đội C và E. Các đơn vị xây dựng Aola di chuyển đến Koli Point nơi họ xây dựng thành công một sân bay phụ bắt đầu từ ngày 3 tháng 12 năm 1942. (Miller John, Jr. 1959, tr. 174)
- ^ Hough Frank O., tr. 348–350; Shaw Henry I. 1992, tr. 42–43; Frank Richard 1990, tr. 420–424; Griffith Samuel B. 1963, tr. 246; Miller Thomas G. 1969, tr. 197–200; Zimmerman John L. 1949, tr. 136–145; và Jersey Stanley Coleman 2008, tr. 361
- ^ Frank Richard 1990, tr. 420–421, 424–25, 493–497; Anderson Charles R. 1993; Hough Frank O., tr. 350–58; và Zimmerman John L. 1949, tr. 150–52
- ^ Hammel Eric 1999, tr. 41–46
- ^ Hammel Eric 1999, tr. 93
- ^ Hammel Eric 1999, tr. 37
- ^ Hammel Eric 1999, tr. 38–39; và Frank Richard 1990, tr. 429–430. Lực lượng Mỹ tăng cường có tổng cộng 5.500 người, bao gồm Tiểu đoàn 1 Kỹ thuật Không lực Thủy quân Lục chiến, binh lực thay thế cho các đơn vị mặt đất và không quân, Tiểu đoàn 4 Thủy quân Lục chiến, hai tiểu đoàn thuộc Trung đoàn 182 Bộ binh, đạn dược và tiếp liệu.
- ^ Frank Richard 1990, tr. 432; và Hammel Eric 1999, tr. 50–90
- ^ Hara Tameichi 1961, tr. 137
- ^ Hammel Eric 1999, tr. 92
- ^ Hammel Eric 1999, tr. 99–107
- ^ Trăng thượng tuần vào ngày 8 tháng 11 năm 1942 lúc 15 giờ 19 phút: National Aeronautics and Space Administration, Phases of the Moon: 1901 to 2000
- ^ Frank Richard 1990, tr. 428–461; Hammel Eric 1999, tr. 103–401; và Hara Tameichi 1961, tr. 137–156
- ^ Frank Richard 1990, tr. 465–474; và Hammel Eric 1999, tr. 298–345
- ^ Hammel Eric 1999, tr. 349–395; và Frank Richard 1990, tr. 469–486
- ^ Frank Richard 1990, tr. 484–488, 527; và Hammel Eric 1999, tr. 391–395
- ^ Dull Paul S. 1978, tr. 261; và Frank Richard 1990, tr. 497–499. Vào ngày 24 tháng 12, các đơn vị Hạm đội 8, Không hải đội 11 và mọi đơn vị hải quân khác tại khu vực New Guinea và quần đảo Solomon được hợp nhất vào một cơ cấu chỉ huy chung đặt tên là Hạm đội Khu vực Đông Nam do Jinichi Kusaka chỉ huy.
- ^ Evans David C. 1986 (tái bản lần 2), tr. 197–198; Crenshaw Russell Sydnor 1998, tr. 136; và Frank Richard 1990, tr. 499–502
- ^ Hara Tameichi 1961, tr. 160–161; Roscoe, trang 206; Dull Paul S. 1978, tr. 262; Evans David C. 1986 (tái bản lần 2), tr. 197–198; Crenshaw Russell Sydnor 1998, tr. 137; Toland John 2003 (1970), tr. 419; Frank Richard 1990, tr. 502; và Morison Samuel Eliot 1958, tr. 295
- ^ Dull Paul S. 1978, tr. 262–263; Evans David C. 1986 (tái bản lần 2), tr. 198–199; Crenshaw Russell Sydnor 1998, tr. 137; Morison Samuel Eliot 1958, tr. 297; và Frank Richard 1990, tr. 502–504
- ^ Brown, trang 124–125; USSBS, trang 139; Roscoe, trang 206; Dull Paul S. 1978, tr. 262; Crenshaw Russell Sydnor 1998, tr. 26–33; Kilpatrick C. W. 1987, tr. 139–142; Morison Samuel Eliot 1958, tr. 294–296; và Frank Richard 1990, tr. 504
- ^ Hara Tameichi 1961, tr. 161–164; Dull Paul S. 1978, tr. 265; Evans David C. 1986 (tái bản lần 2), tr. 199–202; Crenshaw Russell Sydnor 1998, tr. 34, 63, 139–151; Morison Samuel Eliot 1958, tr. 297–305; và Frank Richard 1990, tr. 507–510
- ^ Dull Paul S. 1978, tr. 265; Crenshaw Russell Sydnor 1998, tr. 56–66; Morison Samuel Eliot 1958, tr. 303–312; và Frank Richard 1990, tr. 510–515
- ^ Frank Richard 1990, tr. 527
- ^ Dull Paul S. 1978, tr. 266–267; Evans David C. 1986 (tái bản lần 2), tr. 203–205; Morison Samuel Eliot 1958, tr. 318–319; và Frank Richard 1990, tr. 518–521
- ^ Jersey Stanley Coleman 2008, tr. 384; Frank Richard 1990, tr. 536–538; Griffith Samuel B. 1963, tr. 268; Hayashi Saburo 1959, tr. 62–64; và Toland John 2003 (1970), tr. 426
- ^ Hayashi Saburo 1959, tr. 62–64; Griffith Samuel B. 1963, tr. 268; Frank Richard 1990, tr. 534–539; Toland John 2003 (1970), tr. 424–426; Dull Paul S. 1978, tr. 261; và Morison Samuel Eliot 1958, tr. 318–321. Trong cuộc họp với Sugiyama và Nagano, Nhật Hoàng đã hỏi Nagano: "Tại sao người Mỹ chỉ mất vài ngày để xây dựng một sân bay trong khi người Nhật mất một tháng hoặc hơn thế ?" (ban đầu Hải quân Nhật đã chiếm Guadalcanal và bắt đầu xây dựng sân bay). Nagano đã xin lỗi và trả lời rằng người Mỹ sử dụng máy móc trong khi người Nhật chủ yếu dựa vào sức người. (Toland John 2003 (1970), tr. 426)
- ^ Frank Richard 1990, tr. 247–252, 293, 417–420, 430–431, 521–522, 529; Griffith Samuel B. 1963, tr. 156, 257–259, 270; Miller Thomas G. 1969, tr. 143, 173–177, 183, 189, 213–219; Jersey Stanley Coleman 2008, tr. 304–305, 345–346, 363, 365; Hough Frank O., tr. 360–362; Shaw Henry I. 1992, tr. 46–47; và Zimmerman John L. 1949, tr. 156–157, 164. Các trung đoàn bộ binh của sư đoàn Americal là những đơn vị Vệ binh Quốc gia: Trung đoàn 164 từ North Dakota, Trung đoàn 182 từ Massachusetts, và Trung đoàn 132 từ Illinois. Trung đoàn 147 trước đây ở trong thành phần của Sư đoàn 37 Bộ binh. Trong chiến dịch Guadalcanal, Sư đoàn 1 Thủy quân Lục chiến bị tổn thất 650 người chết, 31 mất tích, 1.278 bị thương và 8.580 mắc bệnh, chủ yếu là sốt rét. Trung đoàn 2 Thủy quân Lục chiến đã đến Guadalcanal cùng phần lớn Sư đoàn 1, nhưng đã ở lại phía sau để gia nhập vào đơn vị mẹ của nó là Sư đoàn 2 Thủy quân Lục chiến. Trung đoàn 35 thuộc Sư đoàn 25 Bộ binh Lục quân Mỹ đến Guadalcanal ngày 17 tháng 12, Trung đoàn 27 vào ngày 1 tháng 1, và Trung đoàn 161 vào ngày 4 tháng 1. Đơn vị chỉ huy của Sư đoàn 2 Thủy quân Lục chiến là Trung đoàn 6 cùng nhiều đơn vị hỗ trợ và hỏa lực nặng đến nơi vào các ngày 4 và 6 tháng 1. Thiếu tướng John Marston, tư lệnh Sư đoàn 2 Thủy quân Lục chiến, ở lại New Zealand vì ông có thâm niên cấp bậc lớn hơn Patch. Thay vào đó, Chuẩn tướng Alphonse De Carre chỉ huy các đơn vị của Sư đoàn 2 tại Guadalcanal. Tổng quân số Thủy quân Lục chiến tại Guadalcanal và Tulagi vào ngày 6 tháng 1 năm 1943 là 18.383 người.
- ^ Frank Richard 1990, tr. 529–534; Miller Thomas G. 1969, tr. 231–237, 244, 249–252; Jersey Stanley Coleman 2008, tr. 350–351; Anderson Charles R. 1993; Hough Frank O., tr. 363–364; và Griffith Samuel B. 1963, tr. 263–265
- ^ Frank Richard 1990, tr. 563–567; Miller Thomas G. 1969, tr. 290–305; và Jersey Stanley Coleman 2008, tr. 367–371
- ^ Miller John, Jr. 1959, tr. 338; Frank Richard 1990, tr. 540–560; Morison Samuel Eliot 1958, tr. 333–339; Rottman Gordon L. 2005, tr. 64; Griffith Samuel B. 1963, tr. 269–279; Jersey Stanley Coleman 2008, tr. 384–388; và Hayashi Saburo 1959, tr. 64
- ^ Hough Frank O., tr. 367–368; Frank Richard 1990, tr. 568-576; Miller Thomas G. 1969, tr. 319–342; và Morison Samuel Eliot 1958, tr. 342–350. Sau khi bốc dỡ hàng tiếp liệu, các tàu vận tải Mỹ đã triệt thoái Trung đoàn 2 Thủy quân Lục chiến khỏi đảo. Trung đoàn 2 đã hiện diện liên tục tại Guadalcanal kể từ khi bắt đầu chiến dịch.
- ^ Frank Richard 1990, tr. 582–588, 757–758; Jersey Stanley Coleman 2008, tr. 376–378; Morison Samuel Eliot 1958, tr. 364–368; Miller Thomas G. 1969, tr. 343–345; Zimmerman John L. 1949, tr. 162; và Dull Paul S. 1978, tr. 268
- ^ Frank Richard 1990, tr. 589–597; Jersey Stanley Coleman 2008, tr. 378–383, 383, 400–401; và Miller Thomas G. 1969, tr. 342–348
- ^ U.S. Navy, tr. 246–256
- ^ Hough Frank O., tr. 374; và Zimmerman John L. 1949, tr. 166
- ^ Willmott, H. P; Robin Cross, Charles Messenger (2006) [2004]. “American Offensives in the Pacific”. Trong Dennis Cowe. World War II. London: Dorling Kindersley. tr. g. 208. ISBN 1405312629.; Miller John Jr. 1949, tr. 350; Shaw Henry I. 1992, tr. 52; và Alexander Joseph H. 2000, tr. 81
- ^ Murray Williamson 2001, tr. 215; và Hough Frank O., tr. 372
- ^ Hough Frank O., tr. 372; Miller Thomas G. 1969, tr. 350; và Zimmerman John L. 1949, tr. 166
- ^ Murray Williamson 2001, tr. 215
- ^ Zimmerman John L. 1949, tr. 167
Tham khảo
Sách
|
|
Web
|
|
Xem thêm
Sách
|
Liên kết ngoài
Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về Chiến dịch Guadalcanal |
- Australian War Memorial. “Secondary Bibliography by Author” (bibliography of Japanese-language sources). Australia-Japan Research Project. Truy cập ngày 6 tháng 11 năm 2008.
- Burbeck, James (2008). “The Guadalcanal Campaign”. Flash animated combat map series at The War Times Journal. Truy cập ngày 3 tháng 1 năm 2010.
- Cagney, James. “An Animated Map History of the Battle for Guadalcanal”. HistoryAnimated.com. Truy cập ngày 4 tháng 9 năm 2008.
- Craven, Wesley Frank; James Lea Cate. “Vol. IV, The Pacific: Guadalcanal to Saipan, August 1942 to July 1944”. The Army Air Forces in World War II. U.S. Office of Air Force History. Truy cập ngày 20 tháng 10 năm 2006.
- Dillard, Nancy R. (20 tháng 5 năm 1997). “Operational Leadership: A Case Study of Two Extremes during Operation Watchtower” (Academic report). Joint Military Operations Department, Naval War College. Truy cập ngày 1 tháng 8 năm 2014.
- Dyer, George Carroll. “The Amphibians Came to Conquer: The Story of Admiral Richmond Kelly Turner”. United States Government Printing Office. Truy cập ngày 20 tháng 10 năm 2006.
- Emberton, Keith D. (1 tháng 5 năm 1996). doc=GetTRDoc.pdf “Operational Leadership Once Beyond the Culminating Point: Perspectives on Calculated Tactical Risk to Achieve Operational Success” (Academic report). Joint Military Operations Department, Naval War College. Truy cập ngày 4 tháng 8 năm 2009.
- Garrett, James R. “[[James R. "Rube" Garrett]] A Marine Diary: My Experiences on Guadalcanal”. An Eyewitness Account of the Battle of Guadalcanal. Truy cập ngày 3 tháng 1 năm 2010. Tựa đề URL chứa liên kết wiki (trợ giúp)
- Gillespie, Oliver A. (1952). “The Official History of New Zealand in the Second World War, 1939–1945; The Battle for the Solomons (Chapter 7)”. New Zealand Electronic Text Center. Truy cập ngày 11 tháng 7 năm 2006.
- Hoffman, Jon T. (1995). “From Makin to Bougainville: Marine Raiders in the Pacific War” (brochure). World War II Commemorative Series. Marine Corps Historical Center. Truy cập ngày 29 tháng 8 năm 2006.
- Hoffman, Jon T. “Silk Chutes and Hard Fighting: U.S. Marine Corps Parachute Units in World War II”. Commemorative series. Marine Corps History and Museums Division. tr. 1. Truy cập ngày 26 tháng 12 năm 2006.
- Mersky, Peter B. (1993). “Time of the Aces: Marine Pilots in the Solomons, 1942-1944”. Marines in World War II Commemorative Series. History and Museums Division, Headquarters, U.S. Marine Corps. Truy cập ngày 20 tháng 10 năm 2006.
- Newell, Clayton R. (2003). “Central Pacific”. The U.S. Army Campaigns of World War II. U.S. Army Center of Military History. Truy cập ngày 6 tháng 8 năm 2008.
- U.S. Army Center of Military History. “Japanese Operations in the Southwest Pacific Area, Volume II - Part I”. Reports of General MacArthur. Truy cập ngày 8 tháng 12 năm 2006. Bản dịch tài liệu chính thức của Văn phòng Giải giáp Nhật Bản về chi tiết sự tham gia của Lục quân và Hải quân Đế quốc Nhật Bản tại khu vực Tây Nam Thái Bình Dương của cuộc Chiến tranh Thái Bình Dương.
- U.S. Army Air Forces (1992 (tái bản)). “Pacific Counterblow: The 11th Bombardment Group and the 67th Fighter Squadron in the Battle for Guadalcanal”. Wings at War. Office of Assistant Chief of Air Staff, Intelligence. Truy cập ngày 8 tháng 12 năm 2006.
|
http://www.youtube.com/user/hoangkimvietnam
Trở về trang chính
Hoàng Kim, hoangkim, hoangkimvietnam, Ngọc Phương Nam, Chào ngày mới Thung dung, Dạy và học, Cây Lương thực, Tin Nông nghiệp Việt Nam, Food Crops, Cassava in Vietnam, Khát khao xanh, Dayvahoc,Học mỗi ngày, Danh nhân Việt , Food Crops News, Điểm chính, CNM365, Kim LinkedIn, KimTwitter, KimFaceBook Đọc lại và suy ngẫm, Việt Nam tổ quốc tôi, Tình yêu cuộc sống, Thơ cho con
No comments:
Post a Comment