CNM365. Chào ngày mới 31 tháng 8. Wikipedia Ngày này năm xưa. Ngày Độc lập tại Malaysia (1957), Trinidad và Tobago (1962), Kyrgyzstan (1991). Năm 805 – Đường Thuận Tông bị hoạn quan ép buộc phải nhường ngôi cho Thái tử Lý Thuần, tức Đường Hiến Tông, kết thúc giai đoạn Vĩnh Trinh cách tân. Năm 1963 – Thuộc địa Bắc Borneo của Vương thất Anh được trao quyền tự trị, và tham gia hình thành Malaysia nửa tháng sau đó với tên gọi Sabah. Năm 1996 – Chiến tranh Chechnya lần thứ nhất kết thúc với thắng lợi của Chechnya, quân Nga rút lui. Năm 1997 – Vương phi Diana (hình) cùng tình nhân Dodi Fayed qua đời trong một vụ tai nạn giao thông ở Paris, Pháp.
Malaysia
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Malaysia | |||||
---|---|---|---|---|---|
Malaysia | |||||
|
|||||
Khẩu hiệu | |||||
Bersekutu Bertambah Mutu[1] "Đoàn kết tạo nên lực lượng" |
|||||
Quốc ca | |||||
Negaraku Nước ta |
|||||
Hành chính | |||||
Chính phủ | quân chủ lập hiến liên bang | ||||
Quốc vương Thủ tướng |
Abdul Halim Najib Tun Razak |
||||
Ngôn ngữ chính thức | tiếng Malaysia | ||||
Thủ đô | Kuala Lumpur Putrajaya (hành chính) |
||||
Thành phố lớn nhất | Kuala Lumpur | ||||
Địa lý | |||||
Diện tích | 329.847 km² (hạng 67) | ||||
Diện tích nước | 0,3 % | ||||
Múi giờ | MST (UTC+8) | ||||
Lịch sử | |||||
Độc lập
|
|||||
31 tháng 8 năm 1957[2] | Malaya độc lập từ Anh Quốc | ||||
16 tháng 9 năm 1963 | Liên bang của Malaya với Sabah, Sarawak và Singapore² | ||||
Dân cư | |||||
Dân số (2010) | 28.334.135[3] người | ||||
Mật độ | 86 người/km² (hạng 114) | ||||
Kinh tế | |||||
GDP (PPP) (2014) | Tổng số: 555,912 tỷ USD[4] Bình quân đầu người: 18.509 USD[4] |
||||
GDP (danh nghĩa) (2014) | Tổng số: 367,712 tỷ USD[4] Bình quân đầu người: 12.243 USD[4] |
||||
HDI (2013) | 0,769[5] cao (hạng 64) | ||||
Hệ số Gini (2009) | 46,2[6] (cao) (hạng 36) | ||||
Đơn vị tiền tệ | Ringgit (RM) (MYR ) |
||||
Thông tin khác | |||||
Tên miền Internet | .my, مليسيا.[7] | ||||
¹ 020 từ Singapore ² Singapore đã trở thành nước độc lập từ ngày 9 tháng 8 năm 1965 |
Malaysia có nguồn gốc từ các vương quốc Mã Lai hiện diện trong khu vực, và từ thế kỷ 18, các vương quốc này bắt đầu lệ thuộc vào Đế quốc Anh. Các lãnh thổ đầu tiên của Anh Quốc được gọi là Các khu định cư Eo biển. Các lãnh thổ tại Malaysia bán đảo được hợp nhất thành Liên bang Malaya (Malayan Union) vào năm 1946. Malaya được tái cấu trúc thành Liên hiệp bang Malaya (Federation of Malaya) vào năm 1948, và giành được độc lập vào ngày 31 tháng 8 năm 1957. Malaya hợp nhất với Bắc Borneo, Sarawak, và Singapore vào ngày 16 tháng 9 năm 1963, với từ si được thêm vào quốc hiệu mới là Malaysia. Đến năm 1965, Singapore bị trục xuất khỏi liên bang.
Malaysia là một quốc gia đa dân tộc và đa văn hóa, đặc điểm này đóng một vai trò lớn trong chính trị quốc gia. Hiến pháp tuyên bố Hồi giáo là quốc giáo trong khi bảo vệ quyền tự do tôn giáo. Hệ thống chính quyền của Malaysia có mô hình gần với hệ thống nghị viện Westminster và hệ thống pháp luật dựa trên thông luật. Nguyên thủ quốc gia là quốc vương, được gọi là Yang di-Pertuan Agong. Người này là một quân chủ tuyển cử, được chọn từ các quân chủ kế tập của chín bang Mã Lai theo chế độ quân chủ, thay đổi sau mỗi 5 năm. Người đứng đầu chính phủ liên bang là thủ tướng.
Kể từ khi độc lập, Malaysia trở thành một trong những nước có hồ sơ kinh tế tốt nhất tại châu Á, GDP tăng trưởng trung bình 6,5% trong gần 50 năm. Về truyền thống, yếu tố thúc đẩy kinh tế Malaysia là các nguồn tài nguyên thiên nhiên, song quốc gia cũng phát triển các lĩnh vực khoa học, du lịch, thương mại hay du lịch y tế. Ngày nay, Malaysia có một nền kinh tế thị trường công nghiệp mới, có GDP danh nghĩa xếp thứ ba tại Đông Nam Á và xếp thứ 29 trên thế giới. Malaysia là một thành viên sáng lập của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á, Hội nghị cấp cao Đông Á và Tổ chức Hợp tác Hồi giáo, và là một thành viên của Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương, Thịnh vượng chung các quốc gia, và Phong trào không liên kết.
Mục lục
Lịch sử
Năm 1511, Bồ Đào Nha chinh phục Malacca,[14] đến năm 1641 thì lãnh thổ này bị người Hà Lan chiếm đoạt. Năm 1786, Đế quốc Anh thiết lập một sự hiện diện tại Malaya, khi đó Sultan của Kedah cho Công ty Đông Ấn Anh thuê Penang. Người Anh giành được Singapore vào năm 1819,[16] và đến năm 1824 thì đoạt quyền kiểm soát Malacca sau Hiệp định Anh-Hà Lan. Năm 1826, người Anh bắt đầu quản lý trực tiếp Penang, Malacca, Singapore, và đảo Labuan. Đến thế kỷ 20, tại các quốc gia Pahang, Selangor, Perak, và Negeri Sembilan, được gọi chung là Các quốc gia Mã Lai liên minh, có các thống sứ người Anh được bổ nhiệm để cố vấn cho các quân chủ Mã Lai theo điều khoản trong các hiệp định mà họ từng ký.[17] Năm quốc gia còn lại trên bán đảo được gọi là Các quốc gia Mã Lai phi liên minh, các quốc gia này không chịu sự quản lý trực tiếp của người Anh, song cũng chấp thuận các cố vấn người Anh. Tiến triển tại Bán đảo và Borneo nhìn chung là tách biệt cho đến thế kỷ 19. Trong thời gian người Anh cai trị, họ khuyến khích người Hoa và người Ấn nhập cư để trở thành lao công.[18] Khu vực mà nay là Sabah nằm dưới sự cai trị của người Anh với tên gọi Bắc Borneo khi cả Sultan của Brunei và Sultan của Sulu chuyển giao quyền sở hữu các lãnh thổ của riêng họ từ năm 1877 đến năm 1878.[19] Năm 1842, Sultan của Brunei nhượng Sarawak cho James Brooke, các Rajah da trắng kế tập cai trị Vương quốc Sarawak độc lập cho đến khi lãnh thổ này trở thành một thuộc địa vương thất Anh vào năm 1946.[20]
Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, quân đội Nhật Bản xâm nhập và chiếm đóng Malaya, Bắc Borneo, Sarawak, và Singapore trong ba năm. Trong thời kỳ này, căng thẳng sắc tộc gia tăng và chủ nghĩa dân tộc phát triển.[21] Sự ủng hộ của dân chúng đối với độc lập tăng lên sau khi lực lượng Đồng Minh tái chiếm Malaya.[22] Hậu chiến, người Anh tiến hành các nỗ lực nhằm hợp nhất việc cai quản Malaya trong một thuộc địa vương thất duy nhất gọi là Liên bang Malaya (Malayan Union), tuy nhiên điều này bị người Mã Lai phản đối mạnh, người Mã Lai phản đối việc địa vị của các quân chủ Mã Lai suy yếu và việc trao quyền công dân cho người gốc Hoa. Liên bang Malaya được thành lập vào năm 1946 và bao gồm toàn bộ các thuộc địa của Anh Quốc tại khu vực bán đảo Mã Lai, ngoại trừ Singapore, song chính thể này nhanh chóng bị giải thể và thay thế bởi Liên hiệp bang Malaya (Federation of Malaya), chính thể này khôi phục quyền tự trị cho các quân chủ của các quốc gia Mã Lai dưới sự bảo hộ của người Anh.[23] Trong thời kỳ này, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Malaya, quân nổi dậy mà hầu hết là người gốc Hoa tiến hành các hoạt động du kích với mục đích đẩy người Anh ra khỏi Malaya. Tình trạng khẩn cấp Malaya kéo dài từ năm 1948 đến năm 1960, và liên quan đến một chiến dịch chống nổi loạn kéo dài của quân Thịnh vương chung tại Malaya.[24] Sau đó, người ta đưa ra một kế hoạch nhằm liên minh Malaya với các thuộc địa vương thất Bắc Borneo (gia nhập với tên Sabah), Sarawak, và Singapore. Ngày đề xuất hợp thành liên bang là 31 tháng 8 năm 1963, tuy nhiên, thời điểm bị trì hoãn cho đến ngày 16 tháng 9 năm 1963 do phản đối của Indonesia dưới quyền Tổng thống Sukarno và Đảng Nhân dân Liên hiệp Sarawak.[25]
Sự thành lập liên bang khiến các căng thẳng tăng cao, bao gồm một cuộc xung đột với Indonesia, Singapore bị trục xuất vào năm 1965,[26][27] và xung đột sắc tộc. Xung đột sắc tộc lên đến đỉnh điểm trong các cuộc bạo loạn sắc tộc ngày 13 tháng 5 năm 1969.[28] Sau các cuộc bạo loạn, Thủ tướng Tun Abdul Razak đưa ra Chính sách Kinh tế mới gây tranh cãi, mục đích là nhằm nâng cao phần sở hữu kinh tế của bumiputera.[29] Dưới thời Thủ tướng Mahathir Mohamad, Malaysia trải qua tăng trưởng kinh tế và đô thị hóa nhanh chóng. Kinh tế Malaysia chuyển đổi từ dựa vào nông nghiệp sang dựa vào chế tạo và công nghiệp. Nhiều siêu dự án được hoàn thành, chẳng hạn như tháp đôi Petronas, xa lộ Nam-Bắc, hành lang đa phương tiện siêu cấp, và thủ đô hành chính liên bang mới Putrajaya.[30] Tuy nhiên, vào cuối thập niên 1990, Khủng hoảng tài chính châu Á suýt khiến cho đồng Ringgit cùng các thị trường chứng khoán và bất động sản Malaysia sụp đổ.[31]
Phân chia
13 bang của Malaysia dựa trên nền tảng các vương quốc Mã Lai lịch sử, 9 trong số 11 bang Bán đảo vẫn duy trì các gia tộc vương thất của mình, và được gọi là các bang Mã Lai. Quốc vương được tuyển cử từ chín quân chủ với nhiệm kỳ 5 năm.[14] Mỗi bang có một cơ quan lập pháp đơn viện được gọi là Hội đồng lập pháp bang. Mỗi bang được chia tiếp thành các huyện, rồi lại được chia thành mukim. Tại Sabah và Sarawak các huyện được nhóm thành tỉnh.[33] Sabah và Sarawak có quyền tự chủ nhiều hơn đáng kể so với các bang khác, đáng chú ý nhất là chính sách và kiểm soát nhập cư riêng.[34]
Chính phủ và chính trị
Malaysia là một quốc gia quân chủ tuyển cử lập hiến liên bang. Hệ thống chính phủ theo mô hình gần với hệ thống nghị viện Westminster, một di sản của chế độ thuộc địa Anh.[35] Nguyên thủ quốc gia là Yang di-Pertuan Agong, thường được gọi là Quốc vương. Quốc vương được bầu theo mỗi nhiệm kỳ 5 năm từ chín quân chủ kế tập của các bang Mã Lai; bốn bang còn lại có nguyên thủ trên danh nghĩa song không tham gia vào việc tuyển lựa. Theo thỏa thuận không chính thức, vị trí Quốc vương sẽ do quân chủ chín bang luân phiên nắm giữ,[35] Vai trò của Quốc vương phần lớn mang tính lễ nghi kể từ sau các thay đổi trong hiến pháp vào năm 1994.[36]Quyền lập pháp được phân chia giữa các cơ quan lập pháp liên bang và bang. Nghị viện liên bang của Malaysia bao gồm hạ viện và thượng viện.[37] Hạ viện gồm có 222 thành viên, được bầu với nhiệm kỳ tối đa là 5 năm từ các khu vực bầu cử một ghế. Toàn bộ 70 thượng nghị sĩ có nhiệm kỳ 3 năm; 26 người được 13 quốc hội bang tuyển chọn, 44 người được Quốc vương bổ nhiệm theo tiến cử của Thủ tướng.[14] Nghị viện Malaysia theo một hệ thống đa đảng và chính phủ được bầu thông qua một hệ thống đa số chế. Kể từ khi độc lập, cầm quyền tại Malaysia là một liên minh đa đảng được gọi là Barisan Nasional.[14]
Mỗi bang có một quốc hội đơn viện, các nghị viên được bầu từ các đơn vị bầu cử một ghế. Người đứng đầu các chính phủ bang là các thủ tịch bộ trưởng (Chief Minister),[14] họ là những thành viên quốc hội và đến từ đảng chiếm đa số trong quốc hội. Tại các bang có quân chủ kế tập, thủ tịch bộ trưởng theo thường lệ cần phải là người Mã Lai, do quân chủ bổ nhiệm theo tiến cử của thủ tướng.[38] Các cuộc bầu cử nghị viện được tổ chức 5 năm một lần.[14] Các cử tri đăng ký 21 tuổi hoặc lớn hơn có thể bỏ phiếu để bầu các thành viên của Hạ viện, và bầu các thành viên quốc hội bang ở hầu hết các bang. Bầu cử không bắt buộc.[39] Ngoại trừ Sarawak, cuộc bầu cử cấp bang tại các khu vực còn lại diễn ra đồng thời với bầu cử liên bang.[36]
Quyền hành pháp được trao cho Nội các do thủ tướng lãnh đạo. Thủ tướng phải là thành viên của hạ viện, được Quốc vương chuẩn thuận, nhận được đa số ủng hộ tại nghị viện. Nội các được lựa chọn từ lưỡng viện quốc hội liên bang.[14] Thủ tướng là người đứng đầu nội các và cũng là người đứng đầu chính phủ.[36]
Hệ thống pháp luật Malaysia dựa trên thông luật Anh.[14] Mặc dù cơ quan tư pháp độc lập về lý thuyết, song sự độc lập của chúng bị đặt dấu hỏi và việc bổ nhiệm các thẩm phán thiếu trách nhiệm giải trình và tính minh bạch.[40] Tòa án tối cao trong hệ thống tư pháp là Tòa án Liên bang, sau đó là Tòa thượng tố và hai Tòa cao đẳng, một cho Malaysia bán đảo và một cho Đông Malaysia. Malaysia cũng có một tòa án đặc biệt để xét xử các vụ án do Quốc vương đưa ra hoặc chống lại Quốc vương.[41] Các tòa án Syariah tách biệt với các tòa án dân sự, các tòa này áp dụng luật Sharia trong các vụ án liên quan đến người Hồi giáo Malaysia[42] và vận hành song song với hệ thống tòa án thế tục.[43] Đạo luật An ninh Nội địa cho phép giam giữ không cần xét xử, và án tử hình được áp dụng cho các tội như buôn bán ma túy.[44]
Sắc tộc có ảnh hưởng lớn trong chính trị Malaysia, nhiều chính đảng dựa trên nền tảng dân tộc.[14] Các hành động quả quyết như Chính sách Kinh tế mới[29] và thay thế nó là Chính sách Phát triển Quốc gia, được thực hiện nhằm thúc đẩy địa vị của bumiputera, bao gồm người Mã Lai và các bộ lạc bản địa, trước những người phi bumiputera như người Malaysia gốc Hoa và người Malaysia gốc Ấn.[45] Các chính sách này quy định ưu đãi cho bumiputera trong việc làm, giáo dục, học bổng, kinh doanh, tiếp cận nhà giá rẻ hơn và hỗ trợ tiết kiệm. Tuy nhiên, nó gây ra oán giận rất lớn giữa các dân tộc.[46]
Quan hệ đối ngoại và quân sự
Malaysia là một thành viên sáng lập của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN)[47] Tổ chức Hợp tác Hồi giáo (OIC),[48] và cũng tham gia vào nhiều tổ chức quốc tế như Liên Hiệp Quốc,[49] Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương,[50] và Phong trào không liên kết (NAM).[51] Malaysia từng giữ chức chủ tịch ASEAN, OIC, và NAM.[14] Do là một cựu thuộc địa của Anh Quốc, Malaysia cũng là một thành viên của Thịnh vượng chung các quốc gia.[52] Kuala Lumpur là địa điểm diễn ra Hội nghị thượng đỉnh Đông Á vào năm 2005.[53]Chính sách ngoại giao của Malaysia về chính thức là dựa trên nguyên tắc trung lập và duy trì các quan hệ hòa bình với tất cả các quốc gia, bất kể hệ thống chính trị của quốc gia đó.[54] Chính phủ đặt ưu tiên cao đối với an ninh và ổn định của Đông Nam Á,[53] và cố gắng phát triển hơn nữa mối quan hệ với các quốc gia khác trong khu vực. Về phương diện lịch sử, chính phủ cố gắng khắc họa Malaysia là một quốc gia Hồi giáo tiến bộ[54] trong khi tăng cường quan hệ với các quốc gia Hồi giáo khác.[53] Trong chính sách của Malaysia, có một nguyên lý kiên định là chủ quyền quốc gia và quyền của một quốc gia trong việc kiểm soát các công việc nội bộ.[36]
Chính phủ Malaysia theo chủ nghĩa thực dụng trong chính sách đối với các tranh chấp lãnh thổ, giải quyết các tranh chấp theo một số phương pháp, chẳng hạn như đưa vụ việc ra Tòa án Công lý Quốc tế.[55] Nhiều quốc gia trong khu vực tranh chấp chủ quyền đối với quần đảo Trường Sa. Brunei và Malaysia vào năm 2008 tuyên bố kết thúc tuyên bố chủ quyền đối với các vùng đất của nhau, và giải quyết các vấn đề liên quan đến biên giới trên biển. Philippines có tuyên bố chủ quyền không thi hành đối với Sabah. Hoạt động cải tạo đất của Singapore gây ra căng thẳng giữa hai bên, và Malaysia cũng có tranh chấp biên giới trên biển với Indonesia.[56]
Malaysia chưa từng công nhận Israel và không có quan hệ ngoại giao với quốc gia này.[57] Malaysia ủng hộ mạnh mẽ Nhà nước Palestine.[58] Lực lượng gìn giữ hòa bình của Malaysia hiện diện tại Liban[59] và Malaysia đóng góp vào nhiều sứ mệnh gìn giữ hòa bình khác của Liên Hiệp Quốc.[14][60]
Lực lượng Vũ trang Malaysia gồm ba nhánh là Hải quân Hoàng gia Malaysia, Lục quân Malaysia, và Không quân Hoàng gia Malaysia. Malaysia không thi hành chế độ nghĩa vụ quân sự, độ tuổi cần thiết để thực hiện quân sự tự nguyện là 18. Quân đội sử dụng 1,9% GDP của quốc gia, và sử dụng 1,23% nhân lực của Malaysia.[61]
Thỏa thuận phòng thủ năm nước là một sáng kiến an ninh khu vực tồn tại trong gần 40 năm, liên quan đến các cuộc luyện tập quân sự chung được tổ chức giữa Malaysia, Singapore, Australia, New Zealand, và Anh Quốc.[62] Các cuộc tuyện tập quân sự và tập trận chung được tổ chức với Indonesia trong nhiều năm.[63] Malaysia và Philippines chấp thuận tổ chức luyện tập an ninh chung nhằm đảm bảo biên giới hàng hải và giải quyết các vấn đề như nhập cư bất hợp pháp.[64]
Địa lý
Malaysia là quốc gia lớn thứ 67 trên thế giới về diện tích đất liền, với 329.847 km2 (127.355 sq mi). Tây Malaysia có biên giới trên bộ với Thái Lan, Đông Malaysia có biên giới trên bộ với Indonesia và Brunei.[65] Malaysia kết nối với Singapore thông qua một đường đắp cao hẹp và một cầu. Malaysia có biên giới trên biển với Việt Nam[66] và Philippines.[67] Biên giới trên bộ được xác định phần lớn dựa trên các đặc điểm địa chất, chẳng hạn như sông Perlis, sông Golok và kênh Pagalayan, trong khi một số biên giới trên biển đang là chủ đề tranh chấp.[65] Brunei hầu như bị Malaysia bao quanh,[68] bang Sarawak của Malaysia chia Brunei thành hai phần. Malaysia là quốc gia duy nhất có lãnh thổ nằm cả trên lục địa châu Á và quần đảo Mã Lai.[69] Điểm cực nam của lục địa châu Á là Tanjung Piai, thuộc bang nam bộ Johor.[70] Eo biển Malacca nằm giữa đảo Sumatra và Malaysia bán đảo, đây là một trong các tuyến đường quan trọng nhất trong thương mại toàn cầu.[71]Hai phần của Malaysia tách nhau qua biển Đông, tuy nhiên hai phần này có cảnh quan phần lớn là tương tự nhau với các đồng bằng duyên hải rồi cao lên đồi và núi.[65] Malaysia bán đảo chiếm 40% diện tích đất liền của Malaysia,[69] trải dài 740 km (460 mi) từ bắc xuống nam, và có chiều rộng tối đa là 322 km (200 mi).[72] Dãy Titiwangsa phân chia bờ biển đông và tây tại Malaysia bán đảo,[73] dãy núi này là một phần của hàng loạt dãy núi chạy từ phần trung tâm của bán đảo.[69] Các dãy núi này vẫn có rừng bao phủ dày đặc,[74] và có cấu tạo chủ yếu gồm đá hoa cương và các loại đá lửa khác. Nhiều phần trong đó bị xói mòn, tạo thành cảnh quan karst.[69] Dãy núi là đầu nguồn của một số hệ thống sông tại Malaysia bán đảo.[74] Các đồng bằng duyên hải bao quanh bán đảo, có chiều rộng tối đa là 50 kilômét (31 mi), và bờ biển của phần bán đảo dài 1.931 km (1.200 mi), song các bến cảng chỉ có ở bờ phía tây.[72]
Đông Malaysia nằm trên đảo Borneo, có bờ biển dài 2.607 km (1.620 mi).[65] Khu vực này bao gồm các miền ven biển, đồi và thung lũng, và nội lục đồi núi.[69] Dãy Crocker trải dài về phía bắc từ Sarawak,[69] phân chia bang Sabah. Trên dãy này có núi Kinabalu với cao độ 4.095,2 m (13.436 ft),[75] là núi cao nhất Malaysia. Núi Kinabalu được bảo vệ trong khuôn khổ Vườn quốc gia Kinabalu- một di sản thế giới của UNESCO.[76] Các dãy núi cao nhất tạo thành biên giới giữa Malaysia và Indonesia. quần thể hang Mulu tại Sarawak nằm trong số các hệ thống hang lớn nhất trên thế giới.[69]
Xung quanh hai phần của Malaysia là một số hòn đảo, lớn nhất trong số đó là đảo Banggi.[77] Malaysia có khí hậu xích đạo, điểm đặc trưng là gió mùa tây nam (tháng 4 đến tháng 10) và gió mùa đông bắc (tháng 10 đến tháng 2).[72] Các vùng biển xung quanh giúp điều hòa nhiệt độ cho Malaysia.[69] Ẩm độ thường cao, và lượng mưa trung bình hàng năm là 250 cm (98 in).[72] Khí hậu tại Bán đảo và Đông bộ khác biệt, thời tiết Bán đảo chịu ảnh hưởng trực tiếp từ gió thổi từ lục địa, trong khi Đông bộ có khí hậu mang tính hải dương hơn. Các khí hậu địa phương có thể phân thành: vùng cao, vùng thấp và vùng duyên hải. Biến đổi khí hậu có thể tác động đến mực nước biển và lượng mưa, tăng nguy cơ lũ lụt và dẫn đến hạn hán.[69]
Đa dạng sinh học
Malaysia ký kết Công ước đa dạng sinh vật học Rio vào ngày 12 tháng 6 năm 1993, và trở thành một bên của công ước vào ngày 24 tháng 6 năm 1994.[78] Sau đó, Malaysia đưa ra một kế hoạch chiến lược và hành động đa dạng sinh vật quốc gia, được công ước công nhận vào ngày 16 tháng 4 năm 1998.[79] Malaysia là một quốc gia đa dạng sinh vật siêu cấp với một lượng lớn các loài và có mức độ loài đặc hữu cao.[80] Theo ước tính, Malaysia có 20% số loài động vật trên thế giới.[81] Mức độ loài đặc hữu cao được phát hiện tại các khu rừng đa dạng ở vùng núi Borneo, các loài tại đây bị cô lập với các loài khác ở các khu rừng đất thấp.[69]Kinh tế
Malaysia là một nền kinh tế thị trường định hướng nhà nước tương đối mở và công nghiệp hóa mới.[82][83] Nhà nước đóng một vai trò quan trọng trong hướng dẫn hoạt động kinh tế thông qua các dự án kinh tế vĩ mô, song vai trò này đang giảm xuống. Malaysia sở hữu một trong những hồ sơ kinh tế tốt nhất tại châu Á, GDP tăng trưởng trung bình 6,5% mỗi năm trong giai đoạn từ 1957 đến 2005.[14] Năm 2011, GDP (PPP) của Malaysia là khoảng 450 tỷ đô la Mỹ, là nền kinh tế lớn thứ ba trong ASEAN và lớn thứ 29 trên thế giới.[84] Năm 1991, Thủ tướng Malaysia đương thời là Mahathir bin Mohamad phác thảo ý tưởng của ông trong "Tầm nhìn 2020", theo đó Malaysia sẽ trở thành một quốc gia công nghiệp hóa tự túc vào năm 2020.[85] Thủ tướng thứ sáu là Najib Razak nói rằng Malaysia sẽ đạt đến tình trạng nước phát triển vào năm 2018, sớm hơn so với mục tiêu vào năm 2020, ông đưa vào thực hiện hai chương trình là Chương trình chuyển đổi chính phủ và Chương trình chuyển đổi kinh tế.[86]Trong thập niên 1970, nền kinh tế dựa chủ yếu vào khai mỏ và nông nghiệp của Malaysia bắt đầu chuyển đổi hướng đến một nền kinh tế đa lĩnh vực hơn. Từ thập niên 1980, lĩnh vực công nghiệp, với đầu tư ở mức cao, dẫn dắt tăng trưởng của quốc gia.[14][87] Sau Khủng hoảng tài chính châu Á 1997, kinh tế Malaysia phục hồi sớm hơn các quốc gia láng giềng, và kể từ đó phục hồi mức của thời kỳ tiền khủng hoảng với GDP bình quân đầu người là 14.800 đô la.[88][89] Bất bình đẳng kinh tế tồn tại giữa các dân tộc khác nhau, người Hoa chiếm khoảng một phần ba dân số song lại chiếm 70% giá trị vốn hóa thị trường của quốc gia.[90]
Thương mại quốc tế của Malaysia có thuận lợi do nằm sát tuyến đường tàu thủy qua eo biển Malacca, và chế tạo là lĩnh vực then chốt.[91][92][93] Malaysia là một nước xuất khẩu tài nguyên thiên nhiên và nông sản, dầu mỏ là mặt hàng xuất khẩu chính.[14] Malaysia từng là nhà sản xuất lớn nhất các mặt hàng thiếc,[94] cao su và dầu cọ trên thế giới. Lĩnh vực chế tạo có ảnh hưởng lớn trong kinh tế quốc gia,[95] song cấu trúc kinh tế của Malaysia đang chuyển ra khỏi tình trạng này.[96] Malaysia vẫn là một trong các nhà sản xuất dầu cọ lớn nhất thế giới.[97]
Chính phủ thúc đẩy sự gia tăng du lịch đến Malaysia trong một nỗ lực nhằm đa dạng hóa kinh tế và giảm sự phụ thuộc vào hàng xuất khẩu. Kết quả là du lịch trở thành nguồn thu ngoại tệ lớn thứ ba của Malaysia, song nó đang bị đe dọa do những tác động tiêu cực từ ngành công nghiệp đang phát triển, với một lượng lớn khí thải và nước thải cùng với nạn phá rừng.[98] Từ năm 2013-2014, Malaysia được xếp là một trong những nơi tốt nhất để nghỉ hưu trên thế giới, đứng vị trí thứ 3 theo Chỉ số hưu trí toàn cầu. Đây là một trong những kết quả của chương trình "Malaysia My Second Home", theo đó người ngoại quốc được phép sống tại Malaysia theo một thị thực trường trú lâu đến 10 năm.[99]
Malaysia phát triển thành một trung tâm của ngân hàng Hồi giáo, và là quốc gia có số nữ lao động cao nhất trong ngành này.[100] Các ngành dịch vụ dựa trên tri thức cũng phát triển.[96] Để tạo ra khả năng phòng thủ tự lực và hỗ trợ phát triển quốc gia, Malaysia tiến hành tư hữu hóa một số cơ sở quân sự của mình trong thập niên 1970. Hành động tư hữu hóa tạo ra ngành công nghiệp quốc phòng, đến năm 1999 thì nằm dưới sự quản lý của Hội đồng công nghiệp quốc phòng Malaysia. Chính phủ tiếp tục thúc đẩy lĩnh vực này và tính cạnh tranh của nó, tích cực tiếp thị công nghiệp quốc phòng.[101]
Bộ Khoa học, Công nghệ và Cách tân quy định các chính sách khoa học tại Malaysia. Malaysia nằm trong số các nhà xuất khẩu lớn nhất thế giới về thiết bị bán dẫn, thiết bị điện tử, sản phẩm công nghệ thông tin và truyền thông.[14] Malaysia bắt đầu phát triển chương trình không gian một cách riêng rẽ vào năm 2002,[102][103] và đến năm 2006, Nga đồng ý vận chuyển một người Malaysia lên Trạm vũ trụ Quốc tế như là một phần trong thương vụ 18 chiến đấu cơ Sukhoi Su-30MKM trị giá nhiều tỷ đô la giữa hai bên.[104] Chính phủ Malaysia đầu tư kiến thiết các vệ tinh thông qua chương trình RazakSAT.[105]
Cơ sở hạ tầng
Malaysia có cơ sở hạ tầng thuộc hàng phát triển nhất tại châu Á.[106] Hệ thống viễn thông chỉ đứng sau Singapore tại Đông Nam Á, với 4,7 triệu thuê bao điện thoại cố định và trên 30 thuê bao điện thoại di động.[107][108] Malaysia có bảy cảng quốc tế, cảng chính là cảng Klang. Malaysia có 200 khu công nghiệp cùng với các chuyên khu như Khu Công nghệ Malaysia hay Khu Công nghệ cao Kulim.[109] Trong thời kỳ thuộc địa, sự phát triển chủ yếu tập trung các thành thị hùng mạnh về mặt kinh tế và tại các khu vực hình thành mối quan tâm về an ninh. Mặc dù các khu vực nông thôn được chú trọng, song vẫn tụt hậu so với các khu vực như bờ Tây của Malaysia bán đảo.[110]Hệ thống đường bộ của Malaysia trải dài 98.721 kilômét (61.342 mi) và có 1.821 kilômét (1.132 mi) đường cao tốc.[65] Xa lộ dài nhất Malaysia là xa lộ Nam-Bắc với chiều dài trên 800 kilômét (497 mi) từ biên giới với Thái Lan đến biên giới với Singapore. Hệ thống đường bộ tại Đông Malaysia kém phát triển hơn và có chất lượng thấp hơn so với Malaysia bán đảo.[111] Malaysia có 118 sân bay, trong đó 38 có đường băng được lát. Hãng hàng không quốc gia chính thức là Malaysia Airlines, cung cấp dịch vụ hàng không quốc tế và quốc nội. Hệ thống đường sắt do nhà nước vận hành, có tổng chiều dài 1.849 kilômét (1.149 mi).[65] Các hệ thống đường sắt nhẹ trên cao có giá tương đối rẻ và được sử dụng tại một số thành phố như Kuala Lumpur.[112]
Theo truyền thống, sản xuất năng lượng tại Malaysia dựa vào dầu và khí đốt thiên nhiên.[113] Quốc gia có công suất phát điện 13 GW.[114] Tuy nhiên, Malaysia chỉ có dự trữ khí đốt thiên nhiên 33 năm, và dự trữ dầu 19 năm, trong khi nhu cầu năng lượng đang gia tăng. Nhằm ứng phó, chính phủ phát triển các nguồn năng lượng tái tạo.[113] 16% nguồn cung điện năng đến từ thủy điện, 84% còn lại đến từ nhiệt điện.[114] Công ty quốc hữu Petronas chi phối ngành dầu khí Malaysia.[115]
Nhân khẩu
Theo điều tra dân số năm 2010, dân số Malaysia là 28.334.135,[3] là quốc gia đông dân thứ 42 trên thế giới. Dân số Malaysia bao gồm nhiều dân tộc. Năm 2010, các công dân Malaysia chiếm 91,8% dân số,trong đó bumiputera là 67,4%,.[116] Theo định nghĩa trong hiến pháp, người Mã Lai là những tín đồ Hồi giáo thực hiện các phong tục và văn hóa Mã Lai. Họ đóng vai trò chi phối về mặt chính trị.[117] Thân thế Bumiputera cũng được trao cho các dân tộc bản địa, trong đó có người Thái, người Khmer, người Chăm và dân tộc bản địa tại Sabah và Sarawak. Những người Bumiputera phi Mã Lai chiếm hơn một nửa dân số bang Sarawak và hơn hai phần ba dân số bang Sabah.[65] Các nhóm thổ dân cũng hiện diện trên phần Malaysia bán đảo song với số lượng ít hơn nhiều, họ được gọi chung là Orang Asli.[118] Luật về cấp thân thế bumiputera khác biệt giữa các bang.[119]Các nhóm thiểu số khác không có thân thế bumiputera chiếm một lượng khá lớn trong dân số. 24,6% dân số Malaysia có nguồn gốc Trung Quốc, trong khi những người có nguồn gốc Ấn Độ chiếm 7,3% dân số.[116] Người Hoa có lịch sử chi phối trong cộng đồng kinh doanh và thương mại, và chiếm đa số trong dân số bang Penang. Người Ấn Độ nhập cư đến Malaysia vào cuối thế kỷ 19.[120] Phần lớn cộng đồng người gốc Ấn Độ là người Tamil.[121]
Quyền công dân Malaysia không tự động cấp cho những người sinh ra tại Malaysia, song một trẻ em sinh tại ngoại quốc có cha mẹ là người Malaysia thì sẽ có quyền công dân Malaysia. Sở hữu quốc tịch kép không được phép tại Malaysia.[122] Công dân tại các bang Sabah và Sarawak trên phần đảo Borneo của Malaysia bị phân biệt với công dân của Malaysia bán đảo vì mục đích nhập cư. Mỗi công dân được cấp một thẻ nhận dạng chíp nhân trắc học thông minh được gọi là MyKad ở tuổi 12, và phải luôn mang theo thẻ.[123]
Trong hệ thống giáo dục tại Malaysia, mẫu giáo là không bắt buộc, giáo dục tiểu học 6 năm là bắt buộc, và giáo dục trung học 5 năm là tùy chọn.[124] Các trường học trong hệ thống tiểu học được phân thành hai loại: các trường tiểu học quốc gia dạy bằng tiếng Mã Lai, các trường thổ ngữ dạy bằng tiếng Hán hoặc tiếng Tamil.[125] Vào năm cuối trung học, các học sinh tham gia khảo thí Văn bằng giáo dục Malaysia.[126] Từ khi đưa vào chương trình dự khoa vào năm 1999, các học sinh hoàn thành chương trình 12 tháng tại các trường cao đẳng dự khoa có thể nhập học tại các đại học địa phương. Tuy nhiên, trong hệ thống dự khoa, chỉ 10% sỗ chỗ dành cho các sinh viên phi bumiputera.[127]
Tỷ suất tử vong của trẻ sơ sinh năm 2009 là 6‰, và tuổi thọ bình quân vào năm 2009 là 75 năm.[128] Với mục tiêu phát triển Malaysia thành một điểm đến du lịch y tế, 5% ngân sách phát triển lĩnh vực xã hội của chính phủ được dành cho chăm sóc sức khỏe.[129] Dân số tập trung tại Malaysia bán đảo[130] với 20 triệu người trong xấp xỉ 28 triệu cư dân Malaysia.[14] 70% cư dân sống tại đô thị.[65] Kuala Lumpur là thủ đô[65] và thành phố lớn nhất tại Malaysia,[131] cũng như là trung tâm thương mại và tài chính lớn.[132] Putrajaya là một thành phố được hình thành có mục đích từ năm 1999, và là nơi đặt trụ sở của chính phủ,[133] do nhiều nhánh hành pháp và tư pháp của chính phủ liên bang chuyển tới thành phố này nhằm giảm bớt sự đong đúc ngày càng tăng tại Kuala Lumpur.[134]
Do sự nổi lên của các ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động,[135] ước tính có trên 3 triệu công nhân nhập cư tại Malaysia; tức khoảng 10% dân số.[136]
Thành thị lớn nhất của Malaysia The World Gazetteer[137] |
|||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Hạng | Bang | Dân số | Hạng | Tên | Bang | Dân số. | |||
Subang Jaya Kuala Lumpur |
1 | Subang Jaya | Selangor | 1 553 589 | 11 | Cheras | Selangor | 601 534 | Klang Johor Bahru |
2 | Kuala Lumpur | Wilayah Persekutuan | 1 435 337 | 12 | Sandakan | Sabah | 501 195 | ||
3 | Klang | Selangor | 1 113 851 | 13 | Kajang | Selangor | 448 243 | ||
4 | Johor Bahru | Johor | 916 409 | 14 | Seremban | Negeri Sembilan | 439 296 | ||
5 | Ampang Jaya | Selangor | 804 901 | 15 | Kuantan | Pahang | 422 020 | ||
6 | Ipoh | Perak | 704 572 | 16 | Tawau | Sabah | 381 736 | ||
7 | Shah Alam | Selangor | 671 282 | 17 | Kuala Terengganu | Terengganu | 286 317 | ||
8 | Kuching | Sarawak | 658 549 | 18 | Miri | Sarawak | 280 518 | ||
9 | Petaling Jaya | Selangor | 638 516 | 19 | Kota Bharu | Kelantan | 272 647 | ||
10 | Kota Kinabalu | Sabah | 604 078 | 20 | Selayang Baru | Selangor | 265 297 |
Tôn giáo
Hiến pháp Malaysia đảm bảo quyền tự do tôn giáo trong khi xác định Hồi giáo là quốc giáo.[138] Theo số liệu từ Điều tra dân số và nhà ở năm 2010, có sự tương liên cao giữa dân tộc và tôn giáo. Xấp xỉ 61,3% dân số thực hành Hồi giáo, 19,8% thực hành Phật giáo, 9,2% thực hành Ki-tô giáo, 6,3% thực hành Ấn Độ giáo và 1,3% thực hành Nho giáo, Đạo giáo và các tôn giáo truyền thống Trung Hoa. 0,7% tuyên bố là người không tôn giáo và 1,4% còn lại thực hành các tôn giáo khác hoặc không cung cấp thông tin nào.[3] Trong số tín đồ Hồi giáo, tín đồ phái Sunni chiếm đa số trong khi tín đồ Hồi giáo phi giáo phái là nhóm đông thứ hai với 18%.[139]Theo Hiến pháp, toàn bộ người Mã Lai được xem là người Hồi giáo.[138] Số liệu từ cuộc điều tra dân số năm 2010 cho thấy rằng 83,6% người Trung Quốc xác định bản thân là Phật tử, và một lượng lớn các tín đồ theo Đạo giáo (3,4%) và Ki-tô giáo (11,1%), cùng với một nhóm nhỏ người Hồi sinh sống tại các khu vực như Penang. Phần lớn người Ấn Độ theo Ấn Độ giáo (86,2%), với một thiểu số quan trọng xác định bản thân là tín đồ Ki-tô giáo (6,0%) hay Hồi giáo (4,1%). Ki-tô giáo là tôn giáo chiếm ưu thế trong cộng đồng bumiputera phi Mã Lai (46,5%), và thêm 40,4% xác định bản thân là người Hồi giáo.[3]
Người Hồi giáo có nghĩa vụ phải tuân theo phán quyết của các tòa án Syariah trong các vấn đề liên quan đến tôn giáo của họ. Các thẩm phán Hồi giáo được cho là theo trường phái pháp luật Shafi`i của Hồi giáo, madh'hab chính của Malaysia.[140] Quyền hạn của các tòa án Shariah bị giới hạn trong cộng đồng người Hồi giáo trong các vấn đề như kết hôn, thừa kế, ly dị, bội giáo, cải đạo. Các tội và vi phạm dân sự khác thuộc thẩm quyền của các tòa án công dân, các tòa án công dân không thụ lý các vấn đề liên quan đến thực hành Hồi giáo.[141]
Ngôn ngữ
Ngôn ngữ chính thức tại Malaysia là tiếng Malaysia,[65] đây là một hình thái tiêu chuẩn hóa của tiếng Mã Lai.[142] Về mặt lịch sử, tiếng Anh là ngôn ngữ hành chính trên thực tế, tiếng Mã Lai chiếm ưu thế sau các cuộc bạo loạn sắc tộc năm 1969.[143] Theo Đạo luật ngôn ngữ quốc gia năm 1967, "chữ quốc ngữ sẽ là chữ cái Rumi [Latin]: quy định này sẽ không ngăn cấm việc sử dụng chữ Mã Lai, còn được gọi phổ biến hơn là chữ Jawi, đối với quốc ngữ."[144]Tiếng Anh vẫn là ngôn ngữ thứ hai đang dùng, Đạo luật ngôn ngữ năm 1967 cho phép sử dụng tiếng Anh trong một số mục đích chính thức,[144] và tiếng Anh đóng vai trò là ngôn ngữ giảng dạy toán và khoa học trong toàn bộ các trường công.[145][146] Tiếng Anh Malaysia là một hình thái của tiếng Anh bắt nguồn từ tiếng Anh Anh. Tiếng Anh Malaysia được sử dụng rộng rãi trong giao dịch cùng với tiếng bồi bắt nguồn từ tiếng Anh là Manglish. Chính phủ ngăn cản việc sử dụng tiếng Mã Lai phi tiêu chuẩn.[147][148]
Nhiều ngôn ngữ khác được sử dụng tại Malaysia, tại quốc gia này có người nói 137 thứ ngôn ngữ đang tồn tại.[149] Malaysia bán đảo có người nói 41 ngôn ngữ trong số đó.[150] Các bộ lạc bản địa tại Đông Malaysia có ngôn ngữ riêng của họ, chúng có liên hệ song dễ dàng phân biệt với tiếng Mã Lai. Tiếng Iban là ngôn ngữ bộ lạc chính tại Sarawak trong khi những người bản địa tại Sabah nói nhóm ngôn ngữ Dusun.[151] Người Malaysia gốc Trung Quốc chủ yếu nói các phương ngôn có nguồn gốc từ các tỉnh Hoa Nam. Phương ngôn tiếng Hán phổ biến nhất tại Malaysia là tiếng Quảng Đông, Quan thoại, tiếng Phúc Kiến, tiếng Khách Gia, tiếng Hải Nam và tiếng Phúc Châu. Phần lớn người nói tiếng Tamil là người Tamil, họ là nhóm chiếm đa số trong cộng đồng người Malaysia gốc Ấn. Các ngôn ngữ Nam Á khác cũng được nói phổ biến tại Malaysia, cùng với tiếng Thái Lan[65] Một số lượng nhỏ người Malaysia có nguồn gốc da trắng và nói các ngôn ngữ bồi, như tiếng bồi Malacca dựa trên tiếng Bồ Đào Nha,[152] và tiếng Chavacano dựa trên tiếng Tây Ban Nha.[153]
Văn hóa
Malaysia là một xã hội đa dân tộc, đa văn hóa và đa ngôn ngữ. Văn hóa ban đầu của khu vực bắt nguồn từ các bộ lạc bản địa, cùng với những người Mã Lai nhập cư sau đó. Văn hóa Malaysia tồn tại các ảnh hưởng đáng kể từ văn hóa Trung Quốc và văn hóa Ấn Độ, bắt nguồn từ khi xuất hiện ngoại thương. Các ảnh hưởng văn hóa khác đến từ văn hóa Ba Tư, Ả Rập và Anh Quốc. Do cấu trúc của chính phủ, cộng thêm thuyết khế ước xã hội, có sự đồng hóa văn hóa tối thiểu đối với các dân tộc thiểu số.[154]Năm 1971, chính phủ ban hành một "Chính sách văn hóa quốc gia", xác định văn hóa Malaysia. Theo đó, văn hóa Malaysia phải dựa trên các dân tộc bản địa của Malaysia, có thể dung nạp các yếu tố phù hợp từ các văn hóa khác, và rằng Hồi giáo phải đóng một vai trò trong đó.[155] Nó cũng thúc đẩy tiếng Mã Lai ở cao hơn các ngôn ngữ khác.[156] Sự can thiệp này của chính phủ vào văn hóa khiến các dân tộc phi Mã Lai bất bình và cảm thấy quyền tự do văn hóa của họ bị giảm đi. Các hiệp hội của người Hoa và người Ấn đều đệ trình các bị vong lục lên chính phủ, buộc tội chính phủ chế định một chính sách văn hóa phi dân chủ.[155]
Tồn tại một số tranh chấp văn hóa giữa Malaysia và các quốc gia láng giềng, đặc biệt là Indonesia. Hai quốc gia có một di sản văn hóa tương đồng, có chung nhiều truyền thống và hạng mục. Tuy nhiên, diễn ra tranh chấp về nhiều điều, từ các món ăn cho đến quốc ca của Malaysia. Tại Indonesia có cảm tình mạnh mẽ về việc bảo vệ di sản văn hóa quốc gia.[157] Chính phủ Malaysia và chính phủ Indonesia có sự tiếp xúc nhằm xoa dịu một số căng thẳng bắt nguồn từ trùng lặp văn hóa.[158] Tình cảm này không phải là mạnh tại Malaysia, tại đây hầu hết đều công nhận nhiều giá trị văn hóa là của chung.[157]
Nghệ thuật truyền thống Malaysia chủ yếu tập trung quanh các lĩnh vực chạm khắc, dệt và bạc.[159] Nghệ thuật truyền thống có phạm vi từ những giỏ đan thủ công tại vùng nông thôn cho đến ngân sức của các triều đình Mã Lai. Các đồ nghệ thuật phổ biến vao gồm dao găm (kris) trang sức, bộ giã hạt cau, vải dệt batik và songket. Người bản địa tại Đông Malaysia nổi tiếng với các mặt nạ bằng gỗ.[69] Mỗi dân tộc có nghệ thuật trình diễn riêng biệt, có ít sự trùng lặp giữa họ. Tuy nhiên, nghệ thuật Mã Lai thể hiện một số ảnh hưởng của Bắc Ấn Độ do ảnh hưởng lịch sử của Ấn Độ.[160]
Nghệ thuật âm nhạc và trình diễn Mã Lai có vẻ như bắt nguồn từ khu vực Kelantan-Pattani với các ảnh hưởng từ Ấn Độ, Trung Quốc, Thái Lan và Indonesia. Âm nhạc dựa trên các nhạc cụ gõ,[160] quan trọng nhất trong đó là gendang (trống). Có ít nhất 14 loại trống truyền thống.[161] Trống và các nhạc cụ gõ truyền thống khác thường được làm từ các vật liệu tự nhiên.[161] Âm nhạc về mặt truyền thống được sử dụng để phục vụ cho kể chuyện, các sự kiện kỷ niệm vòng đời, và các dịp như vụ gặt.[160] Nó từng được sử dụng làm một hình thức truyền thông đường dài.[161] Tại Đông Malaysia, các bộ nhạc cụ bắt nguồn từ cồng như agung và kulintang được sử dụng phổ biến trong các dịp lễ như tang lễ và hôn lễ.[162] Các bộ nhạc cụ này cũng phổ biến tại các khu vực lân cận như tại Mindanao tại Philippines, Kalimantan tại Indonesia, và Brunei.[162]
Malaysia mạnh về truyền thống truyền khẩu, loại hình này tồn tại từ trước khi văn bản xuất hiện tại khu vực, và tiếp tục tồn tại cho đến nay. Mỗi vương quốc hồi giáo Mã Lai hình thành các truyền thống văn học riêng, có ảnh hưởng từ các câu chuyện truyền khẩu có từ trước và các câu chuyện đến cùng với Hồi giáo.[165] Tác phẩm văn học Mã Lai đầu tiên được viết bằng chữ Ả Rập. Bản văn Mã Lai đầu tiên được biết đến được khắc trên đá Terengganu, thực hiện vào năm 1303.[69] Văn học Trung Quốc và Ấn Độ trở nên phổ biến khi số người nói các ngôn ngữ này tăng lên tại Malaysia, và các tác phẩm xuất bản bản địa dựa trên ngôn ngữ từ các khu vực này bắt đầu được xuất bản vào thế kỷ 19.[165] Tiếng Anh cũng trở thành một ngôn ngữ văn học phổ biến.[69] Năm 1971, chính phủ tiến hành bước đi nhằm hạn chế văn học bằng các ngôn ngữ khác. Văn học viết bằng tiếng Mã Lai được gọi là "văn học quốc gia của Malaysia", văn học bằng các ngôn ngữ bumiputera khác được gọi là "văn học khu vực", trong khi văn học viết bằng các ngôn ngữ khác được gọi là "văn học tầng lớp".[156] Thơ Mã Lai có sự phát triển ở mức độ cao, sử dụng nhiều thể thơ, trong đó phổ biến là Hikayat, và pantun được truyền bá từ tiếng Mã Lai sang các ngôn ngữ khác.[165]
Ẩm thực của Malaysia phản ánh đặc điểm đa dân tộc của quốc gia.[166] Nhiều nền văn hóa đến từ bên trong quốc gia và các khu vực xung quanh có ảnh hưởng lớn đến với ẩm thực Malaysia. Phần lớn ảnh hưởng đến từ văn hóa Mã Lai, Trung Hoa, Ấn Độ, Thái Lan, Java, và Sumatra,[69] phần lớn là do quốc gia là một phần của con đường hương liệu cổ đại.[167] Ẩm thực Malaysia rất tương đồng với ẩm thực Singapore và Brunei,[168] và cũng mang các đặc điểm tương tự với ẩm thực Philippines.[69] Các bang khác nhau có sự biến đổi về món ăn.[168]
Truyền thông
Các báo chính của Malaysia thuộc sở hữu của chính phủ và các chính đảng trong liên minh cầm quyền,[169][170] song một số đảng đối lập lớn cũng có báo riêng, chúng được bán công khai cùng với các báo chí chính quy. Sự phân chia tồn tại giữa truyền thông tại hai phần của quốc gia. Truyền thông đặt tại Bán đảo kém ưu tiến đối với các tin tức đến từ phía Đông, và thường xem các bang phía Đông như là những thuộc địa của Bán đảo.[171] Người ta đổ lỗi cho truyền thông trong việc gia tăng căng thẳng giữa Indonesia và Malaysia, mang đến cho người dân Malaysia một hình ảnh xấu về người Indonesia.[172] Malaysia có các nhật báo bằng tiếng Mã Lai, tiếng Anh, tiếng Trung, và tiếng Tamil.[171]Nghỉ lễ
Malaysia cử hành một số ngày lễ và lễ hội trong năm, một số là ngày lễ toàn liên bang, và một số là ngày lễ của riêng từng bang. Các lễ hội khác do các nhóm dân tộc đặc thù cử hành, và ngày lễ chính của mỗi nhóm dân tộc chính được tuyên bố là ngày nghỉ công. Ngày nghỉ quốc gia được cử hành trang trọng nhất là Hari Merdeka (ngày Độc lập) vào 31 tháng 8, kỷ niệm sự kiện Liên hiệp bang Malaya độc lập vào năm 1957.[69] Ngày Malaysia được cử hành vào ngày 16 tháng 9 để kỷ niệm sự kiện thành lập liên bang vào năm 1963.[173] Ngày nghỉ quốc gia đáng chú ý khác là ngày Lao động (1 tháng 5) và sinh nhật Quốc vương.[69]Các ngày nghỉ Hồi giáo nổi bật do Hồi giáo là quốc giáo; Hari Raya Puasa (cũng gọi là Hari Raya Aidilfitri, tên tiếng Mã Lai của Eid al-Fitr), Hari Raya Haji (cũng gọi là Hari Raya Aidiladha, tức Eid ul-Adha), Maulidur Rasul (sinh nhật của Tiên tri), và các ngày lễ khác được cử hành.[69] Người Malaysia gốc Hoa tổ chức các lễ hội như tết Trung Quốc và các lễ hội khác liên quan đến tín ngưỡng Trung Quốc truyền thống. Tín đồ Ấn Độ giáo tại Malaysia tổ chức Deepavali, lễ hội ánh sáng,[138] trong khi Thaipusam là một nghi thức tôn giáo và khi đó xuất hiện việc người hành hương từ khắp nước hội tụ về động Batu.[174] Cộng đồng Ki-tô giáo Malaysia tổ chức hầu hết các ngày lễ mà các Ki-tô hữu ở những nơi khác cử hành, đáng chú ý nhất là lễ Giáng sinh và Phục sinh. Người dân tại Đông Malaysia cũng tổ chức một lễ hội gặt hái mang tên Gawai.[175]
Thể thao
Các môn thể thao phổ biến tại Malaysia gồm bóng đá, cầu lông, khúc côn cầu, bóng gỗ, quần vợt, bóng quần, võ thuật, cưỡi ngựa, thuyền buồm, và trượt ván.[109] Bóng đá là môn thể thao phổ biến nhất tại Malaysia và quốc gia đang nghiên cứu về khả năng ứng cử làm đồng chủ nhà của Cúp bóng đá thế giới năm 2034.[176] Các trận đấu cầu lông thu hút hàng nghìn khán giả, và kể từ năm 1948 thì Malaysia là một trong ba quốc gia từng giành chức vô địch Thomas Cup.[177] Liên đoàn bóng gỗ Malaysia được đăng ký vào năm 1997.[178] Các thành viên của quân đội Anh Quốc đưa môn bóng quần đến Malaysia, cuộc thi đấu đầu tiên được tổ chức vào năm 1939.[179] Hiệp hội bóng quần Malaysia được hình thành vào ngày 25 tháng 6 năm 1972.[180] Đội tuyển khúc côn cầu nam quốc gia của Malaysia xếp hạng thứ 13 thế giới vào tháng 11 năm 2013.[181] Cúp Khúc côn cầu thế giới lần thứ ba và lần thứ 10 được tổ chức tại Kuala Lumpur.[182] Malaysia cũng có đường đua công thức 1 riêng là Đường đua quốc tế Sepang. Đường đua tổ chức giải Grand Prix đầu tiên vào năm 1999.[183]Hội đồng Olympic Malaya được hình thành vào năm 1953, và được IOC công nhận vào năm 1954. Malaysia lần đầu tiên tham gia Thế vận hội vào năm 1956 tại Melbourne. Hội đồng được đổi tên hành Hội đồng Olympic Malaysia vào năm 1964, và tham gia hầu hết các kỳ Thế vận hội kể từ khi ra đời (trừ Thế vận hội năm 1980 tại Moskva). Số vận động viên lớn nhất mà Malaysia cử tham gia Thế vận hội là 57 trong Thế vận hội Mùa hè 1972.[184] Các vận động viên Malaysia giành được tổng cộng sáu huy chương Thế vận hội, trong đó có năm huy chương tại môn cầu lông.[185] Quốc gia tranh tài trong Đại hội thể thao Thịnh vượng chung kể từ năm 1950 với tên Malaya, và năm 1966 với tên Malaysia, đại hội từng được tổ chức tại Kuala Lumpur vào năm 1998.[186][187]
Tham khảo
- ^ “Malaysian Flag and Coat of Arms”. Malaysian Government. Truy cập ngày 9 tháng 9 năm 2013.
- ^ Derek Mackay (11 tháng 6 năm 2005). Eastern Customs: The Customs Service in British Malaya and the Opium Trade. The Radcliffe Press. tr. 240–. ISBN 978-1-85043-844-1. Truy cập ngày 28 tháng 8 năm 2013.
- ^ a ă â b “Population Distribution and Basic Demographic Characteristics”. Department of Statistics Malaysia. tr. 82. Truy cập ngày 4 tháng 10 năm 2011.
- ^ a ă â b “Malaysia”. International Monetary Fund. Truy cập ngày 23 tháng 1 năm 2013.
- ^ “National Human Development Reports for Malaysia”. United Nations. Truy cập ngày 15 tháng 3 năm 2013.
- ^ “Gini Index”. World Bank. Truy cập ngày 2 tháng 3 năm 2011.
- ^ “Delegation of the مليسيا domain representing Malaysia in Arabic”. Internet Assigned Numbers Authority. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2013.
- ^ http://www.mofa.gov.vn/vi/cn_vakv/ca_tbd/
- ^ Stephanie Holme (13 tháng 2 năm 2012). “Getaway to romance in Malaysia”. stuff.co.nz. Truy cập ngày 6 tháng 1 năm 2014.
- ^ Fix, Alan G. (tháng 6 năm 1995). “Malayan Paleosociology: Implications for Patterns of Genetic Variation among the Orang Asli”. American Anthropologist, New Series 97 (2): 313–323. doi:10.1525/aa.1995.97.2.02a00090. JSTOR 681964.
- ^ Mühlhäusler, Peter; Tryon, Darrell T; Wurm, Stephen A (1996). Atlas of languages of intercultural communication in the Pacific, Asia and the Americas. Walter de Gruyer & Co. tr. 695. ISBN 978-3-11-013417-9.
- ^ Suarez, Thomas (1999). Early Mapping of Southeast Asia. Periplus Editions (HK) Ltd. tr. 46–47. ISBN 962-593-470-7.
- ^ S. Suporno (1979). “The Image of Majapahit in late Javanese and Indonesian Writing”. Trong A. Reid and D. Marr. Perceptions of the Past. Southeast Asia publications 4. Singapore: Heinemann Books for the Asian Studies Association of Australia. tr. 180.
- ^ a ă â b c d đ e ê g h i k l m n o “Malaysia”. United States State Department. 14 tháng 7 năm 2010. Truy cập ngày 14 tháng 9 năm 2010.
- ^ Kent, Jonathan (3 tháng 3 năm 2005). “Chinese diaspora: Malaysia”. BBC News. Truy cập ngày 21 tháng 9 năm 2010.
- ^ Luscombe, Stephen. “The Map Room: South East Asia: Malaya”. Truy cập ngày 18 tháng 9 năm 2010.
- ^ “The Encyclopædia Britannica: a dictionary of arts, sciences, literature and general information”. Encyclopædia Britannica. Truy cập ngày 17 tháng 10 năm 2010.
- ^ Kuar, Amarjit. “International Migration and Governance in Malaysia: Policy and Performance”. University of New England. Truy cập ngày 20 tháng 12 năm 2011.
- ^ J. M. Gullick (1967). Malaysia and Its Neighbours, The World studies series. Taylor & Francis. tr. 148–149. ISBN 9780710041418. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2013Bản mẫu:Inconsistent citations
- ^ Luscombe, Stephen. “The Map Room: South East Asia: North Borneo”. Truy cập ngày 1 tháng 7 năm 2011.
- ^ Hock, David Koh Wee (2007). Legacies of World War II in South and East Asia. Institute of Southeast Asian Studies, Singapore. tr. 48. ISBN 978-981-230-457-5.
- ^ Mahathir Mohamad (31 tháng 5 năm 1999). “Our Region, Ourselves”. Time magazine. Truy cập ngày 26 tháng 10 năm 2010.
- ^ “MALAYA: Token Citizenship”. Time magazine. 19 tháng 5 năm 1952. Truy cập ngày 26 tháng 10 năm 2010.
- ^ “The Malayan Emergency: 1948-1960”. Australian Government Department of Veteran Affairs. Truy cập ngày 1 tháng 7 năm 2011.
- ^ “Malaysia: Tunku Yes, Sukarno No”. Time magazine. 6 tháng 9 năm 1963. Truy cập ngày 17 tháng 10 năm 2010.
- ^ “Proclamation on Singapore”. Singapore Attorney-General. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2010.
- ^ “Malaysia: The Art of Dispelling Anxiety”. Time magazine. 27 tháng 8 năm 1965. Truy cập ngày 26 tháng 10 năm 2010.
- ^ “Race War in Malaysia”. Time magazine. 23 tháng 5 năm 1969. Truy cập ngày 26 tháng 10 năm 2010.
- ^ a ă Jomo Kwame Sundaram (1 tháng 9 năm 2004). “The New Economic Policy and Interethnic Relations in Malaysia”. UNRISD. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2010.
- ^ Spaeth, Anthony (9 tháng 12 năm 1996). “Bound for Glory”. Time magazine. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 3 năm 2009. Truy cập ngày 20 tháng 8 năm 2011.
- ^ Lee Poh Ping; Tham Siew Yean. “Malaysia Ten Years After The Asian Financial Crisis”. Thammasat University. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 4 năm 2010. Truy cập ngày 25 tháng 7 năm 2011.
- ^ “Federal Territories and State Governments”. Malaysian government. Truy cập ngày 15 tháng 10 năm 2013.
- ^ “Malaysia Districts”. Statoids. Truy cập ngày 3 tháng 11 năm 2010.
- ^ “NRD: 'H' indicates holder is a Sabahan”. Daily Express. 5 tháng 6 năm 2010. Truy cập ngày 14 tháng 9 năm 2010.
- ^ a ă “Malaysia Information”. Federation of International Trade Associations. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2010.
- ^ a ă â b “Malaysia country brief”. Australian Government Department of Foreign Affairs and Trade. 10 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 19 tháng 2 năm 2011.
- ^ “Background”. Parlimen Malaysia. 3 tháng 6 năm 2010. Truy cập ngày 25 tháng 7 năm 2011.
- ^ The management of secondary cities in southeast Asia. United Nations Centre for Human Settlements. 1996. tr. 120. ISBN 92-1-131313-9.
- ^ “Malaysia (Dewan Rakyat)”. Inter-Parliamentary Union. 29 tháng 9 năm 2008.
- ^ “Attacks on Justice - Malaysia”. International Commission of Jurists. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 12 năm 2011. Truy cập ngày 5 tháng 12 năm 2011.
- ^ “Malaysian criminal court system”. Association of Commonwealth Criminal Lawyers. Truy cập ngày 15 tháng 12 năm 2010.
- ^ “Malaysia rejects Christian appeal”. BBC News. 30 tháng 5 năm 2007. Truy cập ngày 27 tháng 9 năm 2010.
- ^ England, Vaudine (9 tháng 7 năm 2010). “Malaysian groups welcome first Islamic women judges”. BBC News. Truy cập ngày 27 tháng 9 năm 2010.
- ^ “The Death Penalty in Malaysia”. Government of the United Kingdom. Truy cập ngày 15 tháng 10 năm 2013.
- ^ “Dasar Ekonomi Baru”. Pusat Maklumat Rakyat. 14 tháng 11 năm 2008. Truy cập ngày 21 tháng 11 năm 2010.
- ^ Jomo Kwame Sundaram (1 tháng 9 năm 2004). “The New Economic Policy and Interethnic Relations in Malaysia”. United Nations Research Institute for Social Development. ISSN 8194 1020 8194. Truy cập ngày 22 tháng 8 năm 2011.
- ^ “Overview”. Association of Southeast Asian Nations. Truy cập ngày 8 tháng 11 năm 2007.
- ^ “Islamic Affairs (OIC) and D8 Division”. Malaysian Ministry of Foreign Affairs. Truy cập ngày 12 tháng 11 năm 2010.
- ^ “List of Member States”. United Nations. Truy cập ngày 8 tháng 11 năm 2007.
- ^ “Member Economies”. Asia-Pacific Economic Cooperation. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 12 năm 2010. Truy cập ngày 10 tháng 6 năm 2011.
- ^ “The Non-Aligned Movement: Member States”. Non-Aligned Movement. Truy cập ngày 5 tháng 9 năm 2010.
- ^ “Member States”. Commonwealth Secretariat. Truy cập ngày 26 tháng 10 năm 2010.
- ^ a ă â “Malaysia Foreign Relations”. New Zealand Ministry of Foreign Affairs and Trade. 4 tháng 12 năm 2008. Truy cập ngày 18 tháng 9 năm 2010.
- ^ a ă “Malaysia's Foreign Policy”. Ministry of Foreign Affairs (Malaysia). Truy cập ngày 21 tháng 9 năm 2010.
- ^ “Malaysia’s policy towards its 1963–2008 territorial disputes”. Academic Journals. 7 tháng 9 năm 2009. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 10 năm 2013. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010.
- ^ “Disputed – International”. CIA. Truy cập ngày 26 tháng 10 năm 2010.
- ^ “Malaysia: Anti-Semitism without Jews”. Jerusalem Center for Public Affairs. Truy cập ngày 5 tháng 9 năm 2010.
- ^ “Malaysia can be Muslim 'thought leader' – Clinton”. New Straits Times. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 6 năm 2011. Truy cập ngày 15 tháng 11 năm 2010.
- ^ “Peacekeeping in Lebanon: A Necessary but Insufficient Risk”. Real Instituto Elcano. 10 tháng 4 năm 2006. Truy cập ngày 15 tháng 10 năm 2013. “Bangladesh has offered 1,500; Indonesia, 1,000; Malaysia, 1,000; and Nepal, 850. Israel is reluctant to accept the first three because they are Muslim countries that have not formally recognised the Jewish state, making their participation uncertain.”
- ^ “Malaysia - Permanent Missions to the United Nations”. United Nations. 12 tháng 2 năm 2013. Truy cập ngày 15 tháng 10 năm 2013.
- ^ “Malaysian Military statistics”. NationMaster. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010.
- ^ “Australia says major military exercise underway in Malaysia”. My Sinchew. 26 tháng 4 năm 2010. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010.
- ^ “Indonesia-Malaysia military exercises must continue – defence minister”. ANTARA News. 13 tháng 9 năm 2010. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010.
- ^ “Malaysia, Philippines committed to enhancing border security”. My Sinchew. 9 tháng 8 năm 2010. Truy cập ngày 18 tháng 9 năm 2010.
- ^ a ă â b c d đ e ê g h “Malaysia”. CIA. Truy cập ngày 26 tháng 10 năm 2010.
- ^ “To Reduce Conflicts, Indonesia and Malaysia Should Meet Intensively”. Universitas Gadjah Mada. Truy cập ngày 26 tháng 10 năm 2010.
- ^ Prescott, John Robert Victor; Schofield, Clive H (2001). Undelimited maritime boundaries of the Asian Rim in the Pacific Ocean. International Boundaries Research Unit. tr. 53. ISBN 1-897643-43-8.
- ^ “Brunei”. CIA. Truy cập ngày 13 tháng 9 năm 2011.
- ^ a ă â b c d đ e ê g h i k l m n o ô World and Its Peoples: Malaysia, Philippines, Singapore, and Brunei. Marshall Cavendish Corporation. 2008. tr. 1160, 1166–1171, 1218–1222. ISBN 978-0-7614-7642-9.
- ^ Leow Cheah Wei (3 tháng 7 năm 2007). “Travel Times”. New Straits Times. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 7 năm 2007. Truy cập ngày 26 tháng 10 năm 2010.
- ^ Schuman, Michael (22 tháng 4 năm 2009). “Waterway To the World – Summer Journey”. Time magazine. Truy cập ngày 16 tháng 8 năm 2011.
- ^ a ă â b Saw, Swee-Hock (2007). The population of Peninsular Malaysia. Institute of Southeast Asian Studies. tr. 1–2. ISBN 978-981-230-730-9.
- ^ Stevens, Alan M. (2004). Kamus Lengkap Indonesia Inggris. Ohio University Press. tr. 89. ISBN 979-433-387-5.
- ^ a ă “Main Range (mountains, Malaysia)”. Encyclopædia Britannica. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010.
- ^ Richmond, Simon (2010). Malaysia, Singapore & Brunei. Lonely Planet. tr. 366. ISBN 978-1-74104-887-2.
- ^ “Mount Kinabalu – revered abode of the dead”. Ecology Asia. Truy cập ngày 17 tháng 9 năm 2010.
- ^ T. Daw (tháng 4 năm 2004). Reef Fish Aggregations in Sabah, East Malaysia. Western Pacific Fisher Survey series 5. Society for the Conservation of Reef Fish Aggregations. tr. 17.
- ^ “List of Parties”. Truy cập ngày 9 tháng 12 năm 2012.
- ^ “Malaysia's National Policy on Biological Diversity”. Truy cập ngày 15 tháng 10 năm 2013.
- ^ “Biodiversity Theme Report”. Australian Government Department of the Environment, Water, Heritage and the Arts. 2001. Truy cập ngày 24 tháng 1 năm 2009.
- ^ Alexander, James (2006). Malaysia Brunei & Singapore. New Holland Publishers. tr. 46–50. ISBN 1-86011-309-5.
- ^ Boulton, WilliaM; Pecht, Michael; Tucker, William; Wennberg, Sam (tháng 5 năm 1997). “Electronics Manufacturing in the Pacific Rim, World Technology Evaluation Center, Chapter 4: Malaysia”. The World Technology Evaluation Center, Inc. Truy cập ngày 1 tháng 11 năm 2010.
- ^ “Malaysia, A Statist Economy”. Infernalramblings. Truy cập ngày 1 tháng 11 năm 2010.
- ^ “Country Comparison:: GDP (Purchasing Power Parity)”. CIA. Truy cập ngày 1 tháng 7 năm 2011.
- ^ Mahathir Bin Mohamad (17 tháng 11 năm 2008). “The Way Forward”. Prime Minister’s Office.
- ^ Herdaru Purnomo (4 tháng 7 năm 2013). “5 Tahun Lagi Malaysia Pede Jadi Negara Maju, RI Kapan Ya?” (bằng Indonesian). Detik Finance. Truy cập ngày 15 tháng 10 năm 2013.
- ^ H. Osman-Rani, Kin Woon Toh, Anuwar Ali (1986). Effective mechanisms for the enhancement of technology and skills in Malaysia. Institute of Southeast Asian Studies. tr. 1. ISBN 978-9971-988-34-0.
- ^ Bożyk, Paweł (2006). “Newly Industrialized Countries”. Globalization and the Transformation of Foreign Economic Policy. Ashgate Publishing Ltd. tr. 164. ISBN 0-7546-4638-6.
- ^ Mankiw, N. Gregory (2007). Principles of Economics (ấn bản 4). ISBN 0-324-22472-9.
- ^ Chau, Amy. “Minority rule, majority hate”. Asia Times. Truy cập ngày 15 tháng 11 năm 2010.
- ^ “The Security of The Straits of Malacca and Its Implications to The South East Asia Regional Security”. Office of The Prime Minister of Malaysia. Truy cập ngày 21 tháng 6 năm 2010.
- ^ “BNM National Summary Data Page”. Bank Negara Malaysia. 30 tháng 9 năm 2003. Truy cập ngày 29 tháng 10 năm 2010.
- ^ Schuman, Michael (22 tháng 4 năm 2009). “How to Defeat Pirates: Success in the Strait”. Time.
- ^ “TED Case Studies: Tin Mining In Malaysia - Present And Future”. American University. Truy cập ngày 15 tháng 10 năm 2013.
- ^ “BNM National Summary Data Page”. Bank Negara Malaysia. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2010.
- ^ a ă “WHO Western Pacific Region – 2006 – Malaysia – Political and socioeconomic situation”. WHO. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 8 năm 2010. Truy cập ngày 18 tháng 10 năm 2010.
- ^ Clover, Charles (10 tháng 6 năm 2007). “Malaysia defends palm oil production”. The Telegraph. Truy cập ngày 28 tháng 11 năm 2010.
- ^ Heidi, Munan; Yee, Foo Yuk (2001). Malaysia. Benchmark Books. tr. 28, 36–37. ISBN 0-7614-1351-0.
- ^ T. Avineshwaran (8 tháng 1 năm 2014). “M'sia listed as 3rd best place to retire”. Jakarta Post. Truy cập ngày 9 tháng 1 năm 2014.
- ^ Gooch, Liz (tháng 9 năm 2010). “A Path to Financial Equality in Malaysia”. International Herald Tribune (The New York Times Company). Truy cập ngày 27 tháng 9 năm 2010.
- ^ Pike, John. “Malaysia Defence Industry”. Globalsecurity.org. Truy cập ngày 24 tháng 9 năm 2010.
- ^ Agensi Angkasa Negara. “About Us - Our Organization”. Government of Malaysia, National Space Agency (ANGKASA). Truy cập ngày 5 tháng 9 năm 2011.
- ^ Kent, Jonathan (28 tháng 8 năm 2005). “Malaysia has high hoped for moon”. BBC News. Truy cập ngày 30 tháng 5 năm 2011.
- ^ “Malaysian astronaut to fly to ISS in 2007”. Ria Novosti. 19 tháng 5 năm 2006. Truy cập ngày 18 tháng 10 năm 2010.
- ^ “RM200mil for RazakSAT-2 satellite programme”. 9 tháng 9 năm 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 6 năm 2013. Truy cập ngày 7 tháng 8 năm 2013.
- ^ “Why Malaysia”. Malaysia Industrial Development Authority. Truy cập ngày 20 tháng 8 năm 2011.
- ^ “Malaysian Telecommunications Overview”. American University. Truy cập ngày 25 tháng 5 năm 2011.
- ^ “Telephones – mobile celluar”. CIA world factbook. Truy cập ngày 25 tháng 5 năm 2011.
- ^ a ă Guidebook on Expatriate Living in Malaysia. Malaysia Industrial Development Authority. Tháng 5 năm 2009. tr. 8–9, 69.
- ^ “Infrastructure and Rural Development in Malaysia”. Centre on Integrated Rural Development for Asia and the Pacific. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 6 năm 2011. Truy cập ngày 25 tháng 5 năm 2011.
- ^ Mody, Ashoka (1997). Infrastructure strategies in East Asia: the untold story. The World Bank. tr. 35. ISBN 0-8213-4027-1.
- ^ Richmond, Simon; Cambon, Marie; Harper, Damian (2004). Malaysia, Singapore & Brunei. Lonely Planet. tr. 10. ISBN 978-1-74059-357-1.
- ^ a ă Salsuwanda Selamat and Che Zulzikrami Azner Abidin. “Renewable Energy and Kyoto Protocol: Adoption in Malaysia”. Universiti Malaysia Perlis. Truy cập ngày 15 tháng 10 năm 2013.
- ^ a ă “National Energy Grid of Malaysia – National Electricity Transmission Grid of Malaysia”. Global Energy Network Institute. 28 tháng 6 năm 2007. Truy cập ngày 24 tháng 9 năm 2010.
- ^ “Malaysia”. United States Energy Information Administration. 3 tháng 9 năm 2013. Truy cập ngày 15 tháng 10 năm 2013.
- ^ a ă “Population Distribution and Basic Demographic Characteristic Report 2010 (Ethnic composition)”. Department of Statistics Malaysia. 2010. Truy cập ngày 10 tháng 10 năm 2013.
- ^ Robin Brant (4 tháng 3 năm 2008). “Malaysia's lingering ethnic divide”. BBC News. Truy cập ngày 29 tháng 10 năm 2013.
- ^ Gomes, Alberto G. (2007). Modernity and Malaysia: settling the Menraq forest nomads. Taylor & Francis Group. tr. 10. ISBN 0-203-96075-0.
- ^ “PM asked to clarify mixed-race bumiputra status”. The Star. 4 tháng 11 năm 2009. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 7 năm 2012. Truy cập ngày 26 tháng 10 năm 2010.
- ^ Baradan Kuppusamy (24 tháng 3 năm 2006). “Racism alive and well in Malaysia”. Asia Times. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2010.
- ^ West, Barbara A. (2009). Encyclopedia of the Peoples of Asia and Oceania, Volume 1. Facts on File inc. tr. 486. ISBN 0-8160-7109-8.
- ^ “Malaysia: Citizenship laws, including methods by which a person may obtain citizenship; whether dual citizenship is recognized and if so, how it is acquired; process for renouncing citizenship and related documentation; grounds for revoking citizenship”. Immigration and Refugee Board of Canada. 16 tháng 11 năm 2007. Truy cập ngày 25 tháng 7 năm 2011.
- ^ Leow Yong May (30 tháng 8 năm 2007). “More than just a card”. The Star. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 10 năm 2013. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2010.
- ^ M. Nozawa, C. Wing, S. Chaiyasook (2011). Secondary Education Regional Information Base: Country Profile – Malaysia (PDF). Bangkok: UNESCO. tr. 4 (12). ISBN 978-92-9223-374-7Bản mẫu:Inconsistent citations
- ^ Mustafa, Shazwan (22 tháng 8 năm 2010). “Malay groups want vernacular schools abolished”. The Malaysian Insider. Truy cập ngày 18 tháng 9 năm 2010.
- ^ “Secondary School Education”. Malaysian Government. Truy cập ngày 15 tháng 10 năm 2013.
- ^ Saw, Swee-Hock; Kesavapany, K. (2006). Malaysia: recent trends and challenges. Institute of Southeast Asian Studies. tr. 259. ISBN 981-230-339-1.
- ^ “Malaysia – Statistics”. UNICEF. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2011.
- ^ “Mission, Vision & Background”. Ministry of Health Malaysia. 3 tháng 7 năm 2009. Truy cập ngày 17 tháng 9 năm 2010.
- ^ Hassan, Asan Ali Golam (2004). Growth, structural change, and regional inequality in Malaysia. Ashgate Publishing Ltd. tr. 12. ISBN 0-7546-4332-8.
- ^ “Tourism Malaysia Corporate Website”. Tourism Malaysia. Truy cập ngày 15 tháng 10 năm 2013.
- ^ “Vision & Goals of Kuala Lumpur”. Portal Rasmi Dewan Bandaraya Kuala Lumpur. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 5 năm 2009. Truy cập ngày 18 tháng 9 năm 2010.
- ^ “Putrajaya – Federal Administrative Capital”. Malaysian Government. Truy cập ngày 15 tháng 10 năm 2013.
- ^ Ho, Chin Siong (2006). “Putrajaya – Administrative Centre of Malaysia – Planning Concept and Implementation”. Truy cập ngày 18 tháng 9 năm 2010.
- ^ Permatasari, Soraya (13 tháng 7 năm 2009). “As Malaysia deports illegal workers, employers run short”. New York Times. Truy cập ngày 26 tháng 10 năm 2010.
- ^ Kent, Jonathan (29 tháng 10 năm 2004). “Illegal workers leave Malaysia”. BBC News. Truy cập ngày 26 tháng 10 năm 2010.
- ^ “Malaysia: largest cities and towns and statistics of their population”. World Gazetteer. Truy cập ngày 29 tháng 10 năm 2010.
- ^ a ă â “Malaysia – Religion”. Asian Studies Center - Michigan State University. Truy cập ngày 13 tháng 7 năm 2011.
- ^ Chapter 1: Religious Affiliation retrieved 4 September 2013
- ^ Peletz, Michael G. (2002). Islamic modern: religious courts and cultural politics in Malaysia. Princeton University Press. tr. 84–85. ISBN 0-691-09508-6.
- ^ Mahathir, Marina (17 tháng 8 năm 2010). “Malaysia moving forward in matters of Islam and women by Marina Mahathir”. Common Ground News Service. Truy cập ngày 14 tháng 9 năm 2010.
- ^ “Malay, Standard”. Ethnologue. 2009. Truy cập ngày 25 tháng 7 năm 2011.
- ^ Andaya, Barbara Watson; Andaya, Leonard Y. (1982). A History of Malaysia. MacMillan Press Ltd. tr. 26–28, 61, 151–152, 242–243, 254–256, 274, 278. ISBN 0-333-27672-8.
- ^ a ă National Language Act 1967
- ^ “PAGE hands in second memorandum”. The Star. 9 tháng 7 năm 2010. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 7 năm 2012. Truy cập ngày 8 tháng 9 năm 2010. “Deputy Prime Minister Tan Sri Muhyiddin Yassin announced last year that the policy of Teaching of Mathematics and Science in English (known by its Malay acronym, PPSMI) would be scrapped from 2012.”
- ^ “Malaysia Ends Use of English in Science and Math Teaching”. The New York Times. 8 tháng 7 năm 2009. Truy cập ngày 15 tháng 10 năm 2013.
- ^ Zimmer, Benjamin (5 tháng 10 năm 2006). “Language Log: Malaysia cracks down on "salad language"”. University of Pennsylvania. Truy cập ngày 14 tháng 9 năm 2010.
- ^ “Dewan Bahasa champions use of BM in ads”. New Straits Times. 14 tháng 10 năm 2013. Truy cập ngày 16 tháng 10 năm 2013.
- ^ “Ethnologue report for Malaysia”. Ethnologue. Truy cập ngày 18 tháng 10 năm 2010.
- ^ “Ethnologue report for Malaysia (Peninsular)”. Ethnologue. Bản gốc lưu trữ 2010. Truy cập ngày 18 tháng 10 năm 2010.
- ^ Adelaar, Alexander; Himmelmann, Nikolaus P. (2005). The Austronesian languages of Asia and Madagascar. Taylor and Francis Group. tr. 56, 397. ISBN 0-7007-1286-0.
- ^ Hancock, I. F. (1975). “Malaysian Creole Portuguese: Asian, African or European?”. Anthropological Linguistics (University of Texas) 17 (5): 211–236. JSTOR 30027570.
- ^ Michaelis, Susanne (2008). Roots of Creole structures. John Benjamins Publishing Co. tr. 279. ISBN 978-90-272-5255-5.
- ^ R. Raghavan (1977 (No. 4)). “Ethno-racial marginality in West Malaysia: The case of the Peranakan Hindu Melaka or Malaccan Chitty community”. Bijdragen tot de Taal-, Land- en Volkenkunde 133 (Royal Netherlands Institute of Southeast Asian and Caribbean Studies). tr. 438–458. ISSN 0006-2294. Truy cập ngày 7 tháng 10 năm 2010.
- ^ a ă “Cultural Tourism Promotion and policy in Malaysia”. School of Housing, Building and Planning. 22 tháng 10 năm 1992. Truy cập ngày 6 tháng 11 năm 2010.
- ^ a ă Van der Heide, William (2002). Malaysian cinema, Asian film: border crossings and national cultures. Amsterdam University Press. tr. 98–99. ISBN 90-5356-580-9.
- ^ a ă Schonhardt, Sara (3 tháng 10 năm 2009). “Indonesia cut from a different cloth”. Asia Times. Truy cập ngày 6 tháng 11 năm 2010.
- ^ “Indonesia, Malaysia agree to cool tension on cultural heritage dispute”. People Daily. 17 tháng 9 năm 2009. Truy cập ngày 6 tháng 11 năm 2010.
- ^ George Dunford (2006). Southeast Asia on a Shoestring. Lonely Planet. tr. 419–. ISBN 978-1-74104-444-7.
- ^ a ă â Miller, Terry E.; Williams, Sean (2008). The Garland handbook of Southeast Asian music. Taylor and Francis Group. tr. 223–224. ISBN 0-203-93144-0.
- ^ a ă â Gateway to Malay culture. Asiapac Books Ptd Ltd. 2003. tr. 110. ISBN 981-229-326-4.
- ^ a ă Matusky, Patricia Ann; Sooi Beng Tan (2004). The Music of Malaysia: The Classical, Folk, and Syncretic Traditions. Ashgate Publishing Ltd. tr. 177–187. ISBN 978-0-7546-0831-8. Truy cập ngày 1 tháng 11 năm 2010.
- ^ “Lipton urges Malaysians to take pride in teh tarik, our national beverage”. New Sabah Times. 7 tháng 9 năm 2012. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 11 năm 2013. Truy cập ngày 6 tháng 11 năm 2013.
- ^ Dwayne A. Rules (7 tháng 4 năm 2011). “Nasi lemak, our 'national dish'”. The Star. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 11 năm 2013. Truy cập ngày 6 tháng 11 năm 2013.
- ^ a ă â Mohd Taib Osman. “Languages and Literature”. The Encyclopedia of Malaysia. Truy cập ngày 3 tháng 11 năm 2010.
- ^ Eckhardt, Robyn (1 tháng 6 năm 2008). Kuala Lumpur Melaka & Penang. Lonely Planet. tr. 42. ISBN 978-1-74104-485-0.
- ^ Jarvis, Alice-Azania (13 tháng 10 năm 2010). “Far Eastern cuisine: Fancy a Malaysian? – Features, Food & Drink”. The Independent. Truy cập ngày 3 tháng 11 năm 2010.
- ^ a ă Richmond, Simon (2010). Malaysia, Singapore & Brunei. Lonely Planet. tr. 70, 72. ISBN 978-1-74104-887-2.
- ^ Ahmad, Razak (5 tháng 2 năm 2010). “Malaysian media shapes battleground in Anwar trial”. Reuters. Truy cập ngày 3 tháng 11 năm 2010.
- ^ “Malaysian opposition media banned”. BBC News. 23 tháng 3 năm 2009. Truy cập ngày 3 tháng 11 năm 2010.
- ^ a ă “The East-West divide of Malaysian media”. Malaysian Mirror. 9 tháng 9 năm 2010. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 3 tháng 11 năm 2010.
- ^ “Comment: Anwar blames Malaysian media”. The Jakarta Post. 28 tháng 9 năm 2010. Truy cập ngày 3 tháng 11 năm 2010.
- ^ Yeng Ai Chun (19 tháng 10 năm 2009). “Malaysia Day now a public holiday, says PM”. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 10 năm 2013. Truy cập ngày 7 tháng 5 năm 2011.
- ^ “Batu Caves, Selangor”. Tourism Malaysia. Truy cập ngày 15 tháng 10 năm 2013.
- ^ Hutton, Wendy (1997). East Malaysia and Brunei. Periplus Editions (HK) Ltd. tr. 169. ISBN 962-593-180-5.
- ^ “'Asean to bid for 2034 FIFA World Cup'”. The Brunei Times. 16 tháng 5 năm 2013. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 10 năm 2013. Truy cập ngày 15 tháng 10 năm 2013.
- ^ “History of Badminton”. SportsKnowHow.com. Truy cập ngày 11 tháng 6 năm 2011.
- ^ “Malaysia Lawn Bowls Federation”. 88DB.com. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010.
- ^ John Nauright; Charles Parrish (2012). Sports Around the World: History, Culture, and Practice. ABC-CLIO. tr. 250–. ISBN 978-1-59884-300-2.
- ^ “History of SRAM”. a Racquets Association of Malaysia. Truy cập ngày 15 tháng 10 năm 2013.
- ^ “FIH Men's World Rankings - 25 November 2013”. International Hockey Federation. 25 tháng 11 năm 2013. Truy cập ngày 28 tháng 11 năm 2013.
- ^ “History of Hockey World Cup”. Times of India. 27 tháng 2 năm 2010. Truy cập ngày 1 tháng 11 năm 2010.
- ^ Novikov, Andrew. “Formula One Grand Prix Circuits”. All Formula One Info. Truy cập ngày 27 tháng 9 năm 2010.
- ^ “Olympic Games – History”. The Olympic Council of Malaysia. Truy cập ngày 27 tháng 9 năm 2010.
- ^ “Previous Olympic Games Medal Tally”. Olympic Council of Malaysia. Truy cập ngày 17 tháng 10 năm 2013.
- ^ Rueben Dudley (13 tháng 9 năm 2010). “Doing Malaysia proud”. The Sun Daily. Truy cập ngày 15 tháng 10 năm 2013.
- ^ “Commonwealth Games Federation, History and Tradition of Commonwealth Games, Edinburgh, Bendigo, Pune”. Commonwealth Youth Games 2008. 14 tháng 8 năm 2000. Truy cập ngày 27 tháng 9 năm 2010.
Liên kết ngoài
Tìm hiểu thêm về Malaysia ở các dự án khác của Wikipedia: | |
Định nghĩa ở Wiktionary | |
Nội dung đa phương tiện ở Commons | |
Tư liệu học tập ở Wikiversity | |
Tin tức ở Wikinews | |
Câu nói nổi tiếng ở Wikiquote | |
Văn bản ở Wikisource | |
Sách ở Wikibooks |
- Chính phủ
- myGovernment portal – Cổng chính phủ Malaysia
- Văn phòng Thủ tướng Malaysia
- Cơ quan Thống kê Malaysia
- Thông tin chung
- Malaysia trên Encyclopædia Britannica
- Mục “Malaysia” trên trang của CIA World Factbook.
- Malaysia tren UCB Libraries GovPubs
- Malaysia tại DMOZ (trang đề nghị)
- Sơ lược Malaysia từ BBC News
- Wikimedia Atlas của Malaysia, có một số bản đồ liên quan đến Malaysia.
- Du lịch
- Giáo dục
|
|
|
|
Trinidad và Tobago
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Cộng hòa Trinidad và Tobago | |||||
|
|||||
Khẩu hiệu | |||||
---|---|---|---|---|---|
"Together we aspire, together we achieve" | |||||
Quốc ca | |||||
Forged From The Love of Liberty | |||||
Hành chính | |||||
Chính phủ | Cộng hòa Nghị viện | ||||
Tổng thống | George Maxwell Richards | ||||
Thủ tướng | Kamla Persad-Bissessar | ||||
Ngôn ngữ chính thức | Tiếng Anh (chính thức), Tây Ban Nha (tình trạng đặc biệt)[1] | ||||
Thủ đô | Port of Spain |
||||
thị trấn | Chaguanas [1] | ||||
Địa lý | |||||
Diện tích | 5.128 km² 1.979 mi² (hạng 172) |
||||
Diện tích nước | không đáng kể % | ||||
Múi giờ | UTC-4 | ||||
Lịch sử | |||||
31 tháng 8 năm 1962 | từ Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland | ||||
Dân cư | |||||
Tên dân tộc | Trinidadian, Tobagonian | ||||
Dân số ước lượng (Tháng 7 2005) | 1.305.000 người (hạng 152) | ||||
Mật độ | (hạng 47th)538.6 người/mi² | ||||
Kinh tế | |||||
GDP (PPP) (2005) | Tổng số: $18.352 billion (hạng 113th) Bình quân đầu người: $19.700 (hạng 46th) |
||||
HDI (2007) | 0.814 cao (hạng 59th) | ||||
Đơn vị tiền tệ | Đôla Trinidad và Tobago (TTD ) |
||||
Thông tin khác | |||||
Tên miền Internet | .tt | ||||
Mã điện thoại | 1-868 |
Nước này là một đảo quốc[1] gồm hai đảo chính, Trinidad và Tobago, và 21 đảo nhỏ với tổng diện tích 5.128 km² hay 1.864 mi². Ước tính dân số vào tháng 7 năm 2006 là 1.065.842 người. Chiều dài trung bình của Trinidad là 80 km và chiều rộng trung bình là 59 km. Tobago là 41 km dài và 12 km ở điểm rộng nhất.
Đảo lớn và đông dân hơn là Trinidad (nghĩa là "Hòn đảo của Thiên Chúa Ba Ngôi" - Trinity), trong khi Tobago nhỏ hơn (303 km² hay 116 mi²; khoảng 6% tổng diện tích) và dân cư thưa thớt hơn (50.000 người; hay 5% tổng dân số). Các công dân chính thức được gọi là "người Trinidad" hay "người Tobago" hay "công dân của Trinidad và Tobago", nhưng người Trinidad thường để chỉ người Trinis còn cả người Trinidad và người Tobago thường được gọi là Trinbagonians.
Không giống hầu hết các nước nói tiếng Anh ở vùng Caribbe, Trinidad và Tobago là một nước chủ yếu công nghiệp hóa với nền kinh tế dựa vào dầu mỏ và hóa dầu. Những con cháu của người Châu Phi và người Ấn Độ chiếm tới 80% dân số, phần còn lại chủ yếu là những người nhiều dòng máu với một số lượng nhỏ người châu Âu, người Hoa và người Ả Rập Saudi-người Syria-người Liban. Trinidad và Tobago nổi tiếng về Lễ hội Carnival tiền-Lenten và là nơi ra đời của nhạc cụ steelpan, điệu nhạc calypso và lối khiêu vũ limbo.
Thủ đô Port-of-Spain, với dân số vùng đô thị khoảng 350.000 người, hiện là ứng cử viên hàng đầu để trở thành nơi đóng trụ sở của Ban thư ký thường trực Vùng thương mại tự do Châu Mỹ (FTAA-ALCA).
Mục lục
Lịch sử
Buổi đầu người Tây Ban Nha thiết lập cơ sở tại Trinidad, nhưng vì thiếu dân tới định cư nên cuối cùng họ cho phép tất cả mọi người châu Âu theo Cơ đốc giáo định cư trên hòn đảo, dẫn tới những cuộc di cư từ Pháp và các nước khác. Trong lúc đó, Tobago hết thuộc quyền cai trị của Anh đến Pháp đến Hà Lan và Courland. Anh đã củng cố quyền lực của mình trên cả hai hòn đảo trong thời gian Chiến tranh Napoléon, và họ gộp chúng vào thành thuộc địa Trinidad và Tobago năm 1889. Vì những cuộc tranh giành thuộc địa đó, những tên địa điểm theo tiếng của thổ dân châu Mỹ, tiếng Tây Ban Nha, tiếng Pháp và tiếng Anh rất phổ biến tại quốc gia này. Những người nô lệ châu Phi, người Ấn Độ, Trung Quốc, Bồ Đào Nha và những người lao động tự do từ châu Phi đã tới đây bổ sung vào lực lượng lao động trong thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20.
Những cuộc di cư từ Barbados và Lesser Antilles, Venezuela và Syria và Liban cũng đã mang lại ảnh hưởng về mặt chủng tộc trên đất nước này.
Dù ban đầu là một thuộc địa với mía và cacao là hai sản phẩm chủ lực của nền kinh tế ở thời điểm cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20. Sau sự giảm sút sản lượng cacao (vì bệnh dịch và cuộc Đại khủng hoảng) dầu mỏ dần chiếm vị trí trọng yếu trong nền kinh tế. Cuộc khủng hoảng và sự gia tăng thị phần dầu mỏ trong nền kinh tế dẫn tới những thay đổi trong cấu trúc xã hội.
Sự hiện diện của những căn cứ quân sự Hoa Kỳ tại Chaguaramas và Cumuto ở Trinidad trong Thế chiến thứ hai đã làm thay đổi căn bản tính chất xã hội. Trong giai đoạn hậu chiến, làn sóng giải thực diễn ra khắp Đế quốc Anh dẫn tới sự thành lập Liên bang Tây Ấn năm 1958 như bước đầu tiên giành lại độc lập. Chaguaramas được đề xuất trở thành thủ đô của liên bang. Liên bang đã giải thể sau khi Jamaica rút lui, và Trinidad và Tobago đã lựa chọn độc lập năm 1962.
Năm 1970, một số sinh viên đã tụ tập trước sứ quán Canada để phản đối khoản lệ phí visa cho sinh viên, ở thời ấy là kiểu bắt chước làn sóng nhân quyền thập niên 1960 tại Bắc Mỹ. Kết quả là cái mà ngày nay chúng ta gọi là Những cuộc nổi loạn quyền lực đen năm 1970[cần dẫn nguồn].
Năm 1976 nước này chấm dứt các quan hệ với chế độ quân chủ Anh và trở thành một nước cộng hoà bên trong Khối thịnh vượng chung Anh.
Năm 1990, 114 người thuộc Jamaat al Muslimeen, do Yasin Abu Bakr (trước đó thường được gọi là Lennox Phillip) lãnh đạo, đã xông vào Nghị viện Trinidad & Tobago tại Nhà Đỏ, và đài truyền hình duy nhất đất nước ở thời điểm đó, giữ chính phủ làm con tin trong sáu ngày. Vụ này đã được giải quyết và từ đó đất nước hoàn toàn thanh bình.
Dầu mỏ, hóa dầu và khí tự nhiên tiếp tục là xương sống của nền kinh tế quốc gia. Du lịch cũng là một nhân tố chủ chốt của kinh tế Tobago, và hòn đảo này vẫn là điểm đến ưa thích của nhiều khách du lịch châu Âu. Trinidad và Tobago là một trong những quốc gia thịnh vượng nhất vùng Caribbean, dù đã có sút kém so với thời "bùng nổ dầu mỏ" trong khoảng giữa 1973 và 1983.
Năm 1991, Patrick Manning được bổ nhiệm làm Thủ tướng. Trong nhiều năm, giới lãnh đạo phải đương đầu với các cuộc nổi dậy của nhân dân phát sinh từ những khó khăn kinh tế và những đối kháng của thành phần cấp tiến. Tình trạng thất nghiệp và dư thừa nhân công là một trong những vấn đề dai dẳng ở đảo quốc này vàphần lớn nhân dân đòi Chính phủ quốc hữu hóa các ngành công nghiệp sản xuất đường và dầu mỏ hiện đang thuộc quyền kiểm soát của các công ty nước ngoài.
Chính trị
Nghị viện gồm hai cấp, Thượng viện (31 thành viên) và Hạ viện (36 thành viên, sẽ tăng lên thành 41 thành viên kể từ cuộc bầu cử sau). Các thành viên thượng nghị viện do tổng thống chỉ định. Mười sáu Thượng nghị sĩ Chính phủ được chỉ định theo sự gợi ý của Thủ tướng, sáu Thượng nghị sĩ Đối lập được chỉ định theo sự gợi ý của Lãnh đạo phe đối lập và chín Thượng nghị sĩ độc lập được chỉ định bởi Tổng thống để đại diện cho những lĩnh vực dân sự xã hội khác. 36 thành viên của Hạ nghị viện do nhân dâu bầu ra với nhiệm kỳ tối đa 5 năm.
Từ 24 tháng 12 năm 2001, đảng cầm quyền là Phong trào nhân dân quốc gia do Patrick Manning lãnh đạo; đảng Đối lập là Đại hội quốc gia thống nhất do Kamala Persad-Bissessar lãnh đạo (Lãnh đạo đối lập) và Winston Dookeran (UNC lãnh đạo chính trị).
Trinidad và Tobago là một thành viên tích cực của Cộng đồng Caribbean (CARICOM) và Khối kinh tế, thị trường chung CARICOM (CSME).
Địa lý
Đa số dân cư sống trên hòn đảo Trinidad, đây là nơi có nhiều thành phố và khu thị tứ lớn. Trinidad có ba vùng đô thị: Port of Spain, thủ đô, San Fernando, và Chaguanas. Trong số ba vùng đó, Chaguanas có tốc độ phát triển nhanh nhất. Thành phố lớn nhất tại Tobago là Scarborough.
Trinidad được tạo nên từ nhiều kiểu nền đất khác nhau, đa phần là cát mịn và đất sét nặng. Các châu thổ đất bồi của Dãy phía bắc và vùng đất "Hành lang Đông Tây" là màu mỡ nhất.
Dãy phía Bắc gồm phần lớn là những núi đá Thượng Jurassic và Cretaceous, đa số là andesite và đá phiến. Những vùng đất thấp phía bắc (Hành lang Đông Tây và Đồng bằng Caroni) gồm các kiến tạo từ thời Pleistocene hay cát và đất sét trẻ hơn với các con sông nhiều sỏi và đầm lầy đất bồi. Phía nam vùng này, Dãy Trung tâm là một nếp lồi phay nghịch gồm đá từ kỷ Cretaceous và Eocene, với các thành tạo theo thể Miocene dọc theo các sườn phía đông và phía nam. Đồng bằng Naparima và Đầm lầy Nariva tạo thành bộ phận phía nam của phay nghịc này. Các vùng đất thấp phía nam gồm cát thể Miocene và Pliocene, đất sét và sỏi. Chúng che giấu bên dưới các trầm tích dầu mỏ và khí tự nhiên, đặc biệt phía bắc Phay Los Bajos. Dãy phía Nam tạo thành phay nghịch nếp lồi thứ ba. Nó gồm nhiều dãy đồi, phần nổi tiếng nhất là Đồi Ba ngôi. Đá là đá sa thạch, đá phiến sétvà đá phù sa và đất sét đã được tạo thành từ thời Miocene và được đẩy lên cao trong kỷ Pleistocene. Cát dầu và các núi lửa bùn hiện diện đặc biệt nhiều ở vùng này.
Dù chỉ nằm ngay ngoài khơi bờ biển Nam Mỹ, Trinidad và Tobago thường được coi là một phần của lục địa Bắc Mỹ vì nó có tính chất của một quốc gia vùng Caribbean. Xem Các quốc gia liên lục địa.
Kinh tế
Đặc điểm khí hậu ở đảo quốc này giúp phát triển các loại cây trồng nhiệt đới, đặc biệt là các đồn điền mía với sản lượng 129.000 tấn đường mỗi năm (1994). Các loại nông sản khác gồm: ca cao, cà phê, chuối, cam quýt, cơm dừa. Ngành chăn nuôi cũng rất phát triển.
Công nghiệp chủ yếu dựa vào khai thác hyđrocacbon. Hồ Pitch ở phía Tây Nam đảo Trinidad, được khai thác từ thế kỉ 16, hiện nay cung cấp 108.000 tấn bitum (dùng làm nhựa rải đường) và phần lớn được xuất khẩu. Các vỉa dầu phần lớn ở miền Nam Trinidad cung cấp hơn 7 triệu tấn/năm (1994). Khai thác khí đốt cũng trên đà gia tăng. Dầu mỏ được xuất khẩu sang Hoa Kỳ và Vương quốc Anh. Phần lớn giếng dầu và các nhà máy lọc dầu đều nằm trong tay các công ti của Hoa Kỳ. Sản lượng hyđrocacbon chiếm 80% tổng giá trị các loại sản phẩm xuất khẩu. Khí hậu ôn hòa, phong cảnh thiên nhiên đẹp và mạng lưới giao thông vận tải tốt giúp cho ngành du lịch mang lại một nguồn thu nhập đáng kể.
Nhân khẩu
Sự di cư ra khỏi Trinidad và Tobago, cũng như đối với các nước Caribbean khác, đạt mức độ cao trong lịch sử; đa số họ tới Hoa Kỳ, còn Canada và Anh tiếp nhận hầu hết số còn lại. Sự di cư này vẫn đang tiếp diễn, dù ở mức độ thấp hơn, thậm chí tỷ lệ sinh đã giảm mạnh tới mức tương đương với các nước phát triển.
Nhiều tôn giáo hiện diện ở Trinidad và Tobago. Hai tôn giáo lớn nhất là Công giáo La Mã và đạo Hindu; Anh giáo, Hồi giáo, Presbyterian, Methodist là những tôn giáo nhỏ hơn. Hai đức tin đa tạp Afro-Caribbean là Shouter (hay Spiritual Baptist) và Orisha (trước kia được gọi là Shango, ít mang ý nghĩa ca tụng hơn) nằm trong những nhóm tôn giáo phát triển nhanh nhất, cũng như các nhà thờ của Evangelical và Fundamentalist theo kiểu Mỹ thường được đa số người Trinidad coi gộp vào với nhau thành "Pentecostal" (dù cách định danh này thường không chính xác). Nhà thờ Mormon đã mở rộng sự hiện diện của họ tại quốc gia này từ giữa thập niên 1980.
Tiếng Anh là ngôn ngữ chính thức của quốc gia, nhưng tiếng Bhojpuri, ở trong nước thường được gọi là tiếng Hindi, cũng được sử dụng bởi một số người Trinidad gốc Ấn và hiện diện nhiều trong âm nhạc bình dân. Ngôn ngữ chính, tiếng Anh-Trinidad vừa được xếp hạng là một thổ ngữ vừa là một biến thể của tiếng Anh hay một kiểu tiếng Anh lai Trinidad (Trinidadian Creole English). Ngôn ngữ được sử dụng nhiều ở Tobago là tiếng Anh lai Tobago (Tobagonian Creole English). Cả hai ngôn ngữ đều chứa đựng các yếu tố châu Phi; tuy nhiên, tiếng Anh Trinidad bị ảnh hưởng nhiều từ tiếng Pháp và tiếng Pháp lai cũng như tiếng Bhojpuri/Hindi. Các ngôn ngữ châu Mỹ và các thứ tiếng địa phương thường chỉ được sử dụng trong những dịp không chính thức, và cho tới nay vẫn chưa có một hệ thống chuẩn hóa cách viết (giống như trong tiếng Anh tiêu chuẩn). Những vị du khách tới đây trong một thời gian ngắn không cần phải lo ngại về việc học tiếng địa phương/tiếng châu Mỹ, vì hầu như mọi người đều nói và hiểu được tiếng Anh. Tuy nhiên, thường thì người dân sử dụng tiếng địa phương/tiếng châu Mỹ để nói chuyện với nhau. Dù tiếng địa phương (một loại tiếng Pháp lai) từng là ngôn ngữ được sử dụng rộng rãi trên hòn đảo này (và tại vùng bờ biển Paria Venezuela), nhưng hiện nay đã không còn giữ được vị trí đó nữa.
Vì vị trí của Trinidad nằm trên bờ biển Nam Mỹ, nước này không phát triển nhiều quan hệ với các dân tộc nói tiếng Tây Ban Nha, vì thế cho tới năm 2004 chỉ có 1.500 trên tổng số 1,3 triệu dân Trinidad nói tiếng Tây Ban Nha.2. ^ Năm 2004 chính phủ đã đưa ra sáng kiến "Tiếng Tây Ban Nha - Ngoại ngữ số một (SAFFL)" [3], và công bố rộng rãi vào tháng 3 năm 2005. Các quy định của chính phủ hiện nay buộc các trường cao học phải dạy tiếng Tây Ban Nha cho sinh viên, trong khi 30% công chức sẽ phải có khả năng sử dụng ngôn ngữ này trong 5 năm tới. Người Venezuela thường tới Trinidad và Tobago để học tiếng Anh, và nhiều trường tiếng Anh đã mở rộng cả việc giảng dạy tiếng Tây Ban Nha.
Văn hoá
Nghệ thuật ở nơi đây cũng sôi động. Trinidad và Tobago có hai tác giả đã đoạt giải Nobel về văn học, V. S. Naipaul và Derek Walcott sinh tại Saint Lucia. Nhà thiết kế thương hiệu Mas Peter Minshall không chỉ nổi tiếng về các trang phục dành cho lễ hội mà còn về vai trò của ông trong lễ khai mạc Thế vận hội Mùa hè 1992, Giải vô địch bóng đá thế giới 1994, Thế vận hội Mùa hè 1996 và Thế vận hội Mùa đông 2002, và ông đã đoạt một Giải Emmy.
Trinidad và Tobago cũng đã đoạt hai giải Hoa hậu hoàn vũ, với Penny Commisiong năm 1977, và Wendy Fitzwilliams năm 1998.
Thể thao
- Cricket: Trinidad và Tobago tham dự cả hai giải one day international và Test cricket với tư cách thành viên của Đội criket Đông Ấn. Đội tuyển quốc gia chơi tại giải hạng nhất trong các cuộc thi đấu vùng. Brian Lara, người giữ hai kỷ lục thế giới của môn thể thao này mang quốc tịch Trinidad và Tobago.
- Bóng đá: Đội tuyển quốc gia đã lọt qua vòng loại để tham gia vào World Cup 2006 tại Đức sau khi đánh bại Đội tuyển bóng đá quốc gia Bahrain ở Manama ngày 16 tháng 11 năm 2005, biến họ trở thành nước nhỏ nhất (về dân số) từng lọt qua vòng đấu loại. Dưới sự chỉ đạo của huấn luyện viên người Hà Lan Leo Beenhakker, ở vòng đấu bảng Trinidad và Tobago chỉ giành được một điểm và sớm bị loại. Các cầu thủ nổi tiếng của đội tuyển gồm: Dwight York (Sydney FC, cựu cầu thủ Manchester United), Shakka Hislop (West Ham United) và Jason Scotland (St Johnstone F.C.).
- Thế vận hội: Hasely Crawford đoạt huy chương vàng đầu tiên và duy nhất cho Trinidad và Tobago ở môn chạy 100 m nam trong kỳ Thế vận hội mùa hè 1976. Mười hai vận động viên Trinidad và Tobago cũng đã đoạt huy chương, đầu tiên là chiếc Huy chương đồng của Rodney Wilkes năm 1948[cần dẫn nguồn]. Ato Boldon đã đoạt nhiều huy chương nhất cho Trinidad và Tobago.
Các ngày nghỉ lễ
Các ngày lễ ở Trinidad và Tobago.Ngày | Tên | Ghi chú |
---|---|---|
1 tháng 1 | Năm mới | |
Tùy thuộc | Carnival | Thứ hai và Thứ ba ngay tiếp sau Thứ tư tuần chay. Dù nhiều công sở và trường học đóng cửa cho Lễ Carnival Thứ hai và Thứ ba, chúng không chính thức là ngày nghỉ lễ. |
Tùy thuộc | Eid-ul-Fitr | Kết thúc tháng Ramadan. Đây là lễ duy nhất ở Trinidad và Tobago của Đạo Hồi. Dù nó là ngày lễ quan trọng nhất theo Lịch Hồi giáo nó không phải là ngày lễ Hồi giáo nổi tiếng và có nhiều người tham gia nhất đất nước. |
Tùy thuộc | Phục sinh | Thứ sáu tuần thánh và Thứ hai Phục sinh |
30 tháng 3 | Spiritual Baptist/Shouter Liberation Day | Quốc gia đầu tiên trên thế giới công nhận Lễ rửa tội là một ngày nghỉ lễ quốc gia |
Tùy thuộc | Corpus Christi | |
30 tháng 5 | Ngày tới nơi của người Ấn Độ | Quốc gia đầu tiên trên thế giới công nhận sự giao kèo Đông-Ấn. |
19 tháng 6 | Ngày Lao động | |
1 tháng 8 | Ngày giải phóng | Quốc gia đầu tiên trên thế giới công nhận Ngày giải phóng |
31 tháng 8 | Ngày độc lập | |
24 tháng 9 | Ngày cộng hoà | |
Tùy thuộc | Divali | Lễ hội Hindu của ánh sáng và ngày lễ duy nhất của tín ngưỡng Hindu. |
25 tháng 12 | Giáng sinh | |
26 tháng 12 | Ngày tặng quà |
Xem thêm
Bản mẫu:Các chủ đề về Trinidad và TobagoGhi chú
1. ^ Archipelagic Waters and Exclusive Economic Zone Act No 24 of 1986 2. ^ The Independent, 31 August 2005, "Hola! Trinidad drops English and learns to speak Spanish".Tham khảo
- Besson, Gérard & Brereton, Bridget. 1992. The Book of Trinidad. 2nd ed. Port of Spain: Paria Publishing Co. Ltd. ISBN 976-8054-36-0.
- Mendes, John. 1986. Cote ce Cote la: Trinidad & Tobago Dictionary. Arima, Trinidad.
- Saith, Radhica and Lyndersay, Mark. 1993. Why Not a Woman? Port of Spain: Paria Publishing Co. Ltd. ISBN 976-8054-42-5.
Liên kết ngoài
Tìm thêm về Trinidad and Tobago tại những đồng dự án của Wikipedia: | |
Từ điển ở Wiktionary | |
Sách ở Wikibooks | |
Cẩm nang du lịch ở Wikivoyage | |
Hồ sơ ở Wikiquote | |
Văn kiện ở Wikisource | |
Hình ảnh và phương tiện ở Commons | |
Tin tức ở Wikinews | |
Tài liệu giáo dục ở Wikiversity |
- Trinidad and Tobago Online Community
- "Trinilife" Online Community
- Breaking News from Trinidad and Tobago
- Official Government Website
- Official Tourism Website
- National emblems of Trinidad and Tobago
- Central Statistical Office, Government of Trinidad and Tobago
- CIA World Factbook: Trinidad and Tobago
- The Trinidad and Tobago Webdirectory
- Open Directory Project - Trinidad and Tobago directory category
- Map of Trinidad
- Map of Tobago
- CaribGenWeb Pages for Trinidad and Tobago
|
|
|
Wikimedia Commons có thêm thể loại hình ảnh và phương tiện truyền tải về Trinidad và Tobago |
Kyrgyzstan
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Cộng hoà Kyrgyzstan | |||||
---|---|---|---|---|---|
Кыргыз Республикасы (tiếng Kyrgyz) Kyrgyz Respublikasy (tiếng Kyrgyz) Кыргызская республика (tiếng Nga) Kyrgyzskaya respublika (tiếng Nga) |
|||||
|
|||||
Khẩu hiệu | |||||
không có | |||||
Quốc ca | |||||
Quốc ca của Kyrgyzstan | |||||
Hành chính | |||||
Chính phủ | Cộng hòa nghị viện | ||||
Tổng thống Thủ tướng |
Roza Otunbayeva(quyền) | ||||
Ngôn ngữ chính thức | tiếng Kyrgyz, tiếng Nga | ||||
Thủ đô | Bishkek |
||||
Thành phố lớn nhất | Bishkek | ||||
Địa lý | |||||
Diện tích | 198.500 km² (hạng 85) | ||||
Diện tích nước | 3,6% % | ||||
Múi giờ | KGT (UTC+5); mùa hè: KGST (UTC+6) | ||||
Lịch sử | |||||
Ngày thành lập |
Từ Nga 31 tháng 8 năm 1991 tháng 12 năm 1991 |
||||
Dân cư | |||||
Dân số ước lượng | 5.146.281 người (hạng 111) | ||||
Dân số (1999) | 4.896.100 người | ||||
Mật độ | 25 người/km² (hạng 147) | ||||
Kinh tế | |||||
GDP (PPP) (2005) | Tổng số: 9.324 tỷ đô la Mỹ | ||||
HDI (2003) | 0,702 trung bình (hạng 109) | ||||
Đơn vị tiền tệ | Som Kyrgyzstan (KGS ) |
||||
Thông tin khác | |||||
Tên miền Internet | .kg |
Theo những con số ước tính tháng 7 năm 2005, dân số nước này là 5.264.000 người với đa số (76,1 phần trăm) là tín đồ Hồi giáo.
Mục lục
Lịch sử
Buổi đầu lịch sử
Theo những khám phá lịch sử gần đây, lịch sử Kyrgyz bắt đầu từ năm 201 trước Công Nguyên. Ban đầu người Kyrgyz sống ở vùng thượng châu thổ Sông Yenisey, trung tâm Siberia. Sự khám phá những nền văn hóa Pazyryk và Tashtyk cho thấy chúng có pha trộn các yếu tố văn hóa từ các bộ lạc du mục Turkic và Iran. Các văn bản Trung Quốc và Hồi giáo giai đoạn thế kỷ 7–12 Công nguyên miêu tả người Kyrgyz là giống người tóc đỏ với nước da sáng và mắt xanh lá cây hay xanh nước biển.Mặt khác nguồn gốc người Kyrgyz từ dân bản địa Siberia đã được xác nhận sau những cuộc nghiên cứu di truyền học gần đây[1]. Đáng chú ý, 63% đàn ông Kyrgyz hiện đại có chung Haplogroup R1a1 (Y-DNA) với người Tajik (64%), người Ukraine (54%), người Ba Lan (56%) và thậm chí người Iceland (25%). Haplogroup R1a1 (Y-DNA) được cho là tín hiệu của những người nói các ngôn ngữ Proto-Indo-European.
Quốc gia Kyrgyz mở rộng nhất sau khi đánh bại Vương quốc Khan Uighur năm 840 Công Nguyên. Sau đó Kyrgyz nhanh chóng tiến xa tới tận dãy Tian Shan và tiếp tục duy trì ảnh hưởng của họ trên vùng đất này trong khoảng 200 năm. Tuy nhiên, ở thế kỷ 12, ảnh hưởng của Kyrgyz chỉ còn tới Dãy Altay và Núi Sayan vì sự mở rộng của Đế quốc Mông Cổ đang trên đà hình thành. Với sự xuất hiện của Đế quốc Mông Cổ ở thế kỷ 13, người Kyrgyz đã di cư về phía nam.
Nhiều sắc tộc Turkic đã cai trị họ cho tới năm 1685, khi họ rơi vào quyền kiểm soát của Kalmyks (Oirats, Dzungars).
Ảnh hưởng của Nga
Đầu thế kỷ 19, vùng phía nam của Kyrgyzstan ngày nay rơi vào vòng kiểm soát của Vương quốc Khan Kokand. Lãnh thổ này, khi ấy được người Nga gọi là "Kirgizia", đã được chính thức sáp nhập vào Đế chế Nga năm 1876. Người Nga phải đối mặt với nhiều cuộc nổi dậy chống chính quyền Sa Hoàng, và nhiều người Kyrgyz đã lựa chọn di cư tới Pamirs và Afghanistan. Ngoài ra, sự đàn áp cuộc nổi dậy năm 1916 tại Trung Á đã khiến nhiều người Kyrgyz phải di cư tới Trung Quốc. Bởi nhiều nhóm sắc tộc trong vùng này đã (và vẫn đang) sống trên lãnh thổ của nhiều quốc gia láng giềng, ở thời điểm khi các biên giới còn chưa được phân định rõ ràng, nên việc di chuyên tới lui giữa các vùng núi, phụ thuộc vào địa điểm nào họ cho là thích hợp nhất với cuộc sống của mình; có nghĩa là nơi có nhiều mưa cho mùa màng hay sự quản lý của chính phủ dễ dàng hơn, là điều rất thông thường.Thời kỳ Xô viết
Lần đầu tiên quyền lực Xô viết được thiết lập ở vùng này là vào năm 1919 và Vùng tự trị Kara-Kyrgyz được thành lập bên trong nước Cộng hòa Liên bang Xã hội chủ nghĩa Xô viết Nga (thuật ngữ Kara-Kirghiz đã được người Nga sử dụng cho tới giữa những năm 1920 để phân biệt họ với người Kazakhs, những người cũng được gọi là Kirghiz). Ngày 5 tháng 12 năm 1936, Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Kyrgyz được thành lập với tư cách một nước cộng hòa đầy đủ của Liên bang Xô viết.Trong thập niên 1920, Kyrgyzstan đã có bước phát triển đáng kể về văn hoá, giáo dục và đời sống xã hội. Tỷ lệ biết chữ gia tăng mạnh, và một tiêu chuẩn về biết chữ được đưa ra. Phát triển kinh tế và xã hội cũng đạt thành quả lớn. Nhiều lĩnh vực văn hóa quốc gia Kyrgyz vẫn được duy trì dù có sự đàn áp các hoạt động quốc gia thời Stalin, và vì thế, những căng thẳng với tất cả các cơ quan liên bang liên tục diễn ra.
Những năm đầu thời kỳ cải tổ không mang lại thay đổi nhiều trong đời sống chính trị Kyrgyzstan. Tuy nhiên, báo chí tại nước cộng hòa này được cho phép có quan điểm tự do hơn và được thành lập một cơ quan xuất bản mới, Literaturny Kirghizstan, của Liên minh Nhà văn. Các nhóm chính trị không chính thức bị cấm đoán, nhưng nhiều nhóm vẫn xuất hiện năm 1989 để đương đầu với cuộc khủng hoảng sâu sắc về nhà ở được phép hoạt động.
Tháng 6 năm 1990, căng thẳng sắc tộc giữa người Uzbek và người Kyrgyz xuất hiện tại Vùng Osh, nơi người Uzbek chiếm đa số. Bạo lực nhanh chóng diễn ra, và tình trạng khẩn cấp cùng lệnh giới nghiêm được ban hành. Trật tự chỉ được tái lập vào tháng 8 năm 1990.
Đầu thập niên 1990 nhiều thay đổi to lớn đã diễn ra tại Kyrgyzstan. Tới thời điểm ấy, Phong trào Dân chủ Kyrgyzstan (KDM) đã phát triển thành một lực lượng chính trị khá mạnh trong nghị viện. Trong một thắng lợi gây tranh cãi, Askar Akayev, vị chủ tịch theo đường lối tự do của Viện hàn lâm Kyrgyz, đã lên giữ chức tổng thống tháng 10 năm 1990. Tháng 1 năm sau đó, Akayev đưa ra các cơ cấu chính phủ mới và chỉ định một chính phủ gồm chủ yếu những chính trị gia trẻ, có khuynh hướng cải cách.
Tháng 12 năm 1990, Xô viết Tối cao bỏ phiếu thay đổi tên nhà nước cộng hòa thành Cộng hoà Kyrgyzstan. (Năm 1993, nước này đổi tên thành Cộng hoà Kyrgyz.) Tháng 2 năm 1991, tên thủ đô, Frunze, được đổi lại theo cái tên trước đó là Bishkek. Dù có những động thái theo hướng độc lập, những thực tế kinh tế dường như vẫn chống lại sự ly khai khỏi Liên bang Xô viết. Trong một cuộc trưng cầu dân ý về việc duy trì nhà nước Xô viết tháng 3 năm 1991, 88.7% cử tri đã bỏ phiếu ủng hộ duy trì Liên bang Xô viết dưới hình thức một "Liên bang mới."
Ngày 19 tháng 8 năm 1991, khi Ủy ban Khẩn cấp Nhà nước nắm quyền lực tại Moskva, đã có nỗ lực nhằm hạ bệ Akayev tại Kyrgyzstan. Sau khi vụ đảo chính bị tiêu diệt một tuần sau đó, Akayev và Phó tổng thống German Kuznetsov thông báo việc rút lui khỏi Đảng Cộng sản Liên bang Xô viết (CPSU), và toàn thể ủy ban cũng như các thư ký cơ cấu đảng đều từ chức. Sau đó Xô viết Tối cao bỏ phiếu tuyên bố độc lập khỏi Liên bang Xô viết ngày 31 tháng 8 năm 1991.
Độc lập
Tháng 10 năm 1991, Akayev là ứng cử viên duy nhất tranh cử và chiến thắng trong cuộc bầu cử tổng thống của nước Cộng hòa mới qua bỏ phiếu trực tiếp, với 95% phiếu bầu. Cùng với các đại biểu của 7 nước cộng hòa khác, cũng trong tháng 10, ông ký kết Hiệp ước Cộng đồng Kinh tế Mới. Cuối cùng, ngày 21 tháng 12 năm 1991, Kyrgyzstan cùng bốn nước cộng hòa khác vùng Trung Á chính thức gia nhập Cộng đồng các quốc gia độc lập mới được thành lập. Năm 1992, Kyrgyzstan gia nhập Liên hiệp quốc và Tổ chức An ninh và Hợp tác Châu Âu (CSCE).Cuộc "Cách mạng Tulip," sau cuộc bầu cử nghị viện tháng 3 năm 2005, đã buộc Tổng thống Akayev phải từ chức ngày 4 tháng 4 năm 2005. Các lãnh đạo phe đối lập đã thành lập một liên minh và một chính phủ mới dưới sự lãnh đạo của Tổng thống Kurmanbek Bakiyev và Thủ tướng Feliks Kulov.
Tuy nhiên, sự ổn định chính trị dường như còn mong manh, bởi nhiều nhóm và phe phái được cho là có liên quan tới tội phạm có tổ chức đang gắng sức giành quyền lực. Ba trong 75 thành viên Nghị viện được bầu tháng 3 năm 2005 đã bị ám sát, và một thành viên khác bị ám sát ngày 10 tháng 5 năm 2006 một thời gian ngắn sau khi trúng cử chiếc ghế trống của anh mình đã bị ám sát trước đó. Tất cả bốn người đều bị cho là có liên quan trực tiếp tới các hoạt động kinh doanh bất hợp pháp.
Những vấn đề hiện nay ở Kyrgyzstan gồm: tư nhân hóa các doanh nghiệp nhà nước, mở rộng dân chủ và tự do chính trị, quan hệ sắc tộc và chủ nghĩa khủng bố.
Chính trị
Tháng 3 năm 2002, tại quận phía nam Aksy, năm người phản đối việc tùy tiện bắt giữ một chính trị gia đối lập đã bị cảnh sát bắn chết, gây ra những cuộc phản kháng rộng rãi trên khắp cả nước. Tổng thống Akayev đã đề xuất một quá trình cải cách hiến pháp ban đầu gồm sự tham gia của một ủy ban đại diện chính phủ, dân sự và xã hội rộng lớn hơn trong một cuộc thảo luận mở, dẫn tới cuộc trưng cầu dân ý vào tháng 2 năm 2003, không thành công bởi những gian lận. Những sử đổi hiến pháp được phê chuẩn theo cuộc trưng cầu dân ý dẫn tới quyền kiểm soát mạnh hơn cho tổng thống và giảm quyền lực của Nghị viện cùng Tòa án Hiến pháp. Cuộc bầu cử nghị viện mới với 75 ghế được tổ chức từ ngày 27 tháng 2 đến 13 tháng 3 năm 2005, nhưng bị đa số các nhà quan sát cho là có gian lận. Những cuộc biểu tình phản kháng sau đó đã dẫn tới một cuộc đảo chính hòa bình ngày 24 tháng 3, sau sự kiện này Akayev đã chạy trốn khỏi đất nước và được thay thế bởi tổng thống lâm thời Kurmanbek Bakiyev. (xem: Cách mạng Tulip).
Các lãnh đạo chính phủ lâm thời đang phát triển một cơ cấu chính phủ mới cho đất nước và làm việc để giải quyết các vấn đề nổi cộm về hiến pháp. Ngày 10 tháng 7 năm 2005, tổng thống lâm thời Bakiyev chiến thắng trong cuộc bầu cử tổng thống với thắng lợi vang dội, đạt 88.9% số phiếu, và chính thức nhậm chức ngày 14 tháng 8. Tuy nhiên, sự ủng hộ ban đầu của công chúng cho ban lãnh đạo mới sau mấy tháng đã sụt giảm vì họ không thể giải quyết các vấn đề tham nhũng đã từng là tai họa của đất nước từ khi độc lập khỏi Liên bang Xô viết, cùng với những vụ ám sát các thành viên nghị viện. Những vụ tuần hành đông đảo phản đối tổng thống Bakyiev đã diễn ra tại Bishkek trong tháng 4 và tháng 11 năm 2006, các lãnh đạo phe đối lập buộc tội tổng thống không thể thực hiện các lời hứa khi tranh cử như cải cách hiến pháp và chuyển giao một số quyền lực cho nghị viện. [1]
Phân chia hành chính
Kyrgyzstan được chia thành 7 tỉnh (số ít oblast (область), số nhiều oblasttar (областтар)) được quản lý bởi các thống đốc do chỉ định. Thủ đô, Bishkek, về mặt hành chính là một thành phố độc lập (shaar) với vị thế tương đương một tỉnh.Các tỉnh, thành phố thủ đô, như sau:
- Bishkek
- Batken (Batken)
- Chui (Chui-Tokmok)
- Jalal-Abad (Jalal-Abad)
- Naryn (Naryn)
- Osh (Osh)
- Talas (Talas)
- Issyk-Kul (Karakol)
Địa lý
Khí hậu khác biệt theo từng vùng. Thung lũng Fergana phía tây nam thuộc kiểu khí hậu cận nhiệt đới và rất nóng vào mùa hè, với nhiệt độ đạt tới 40 °C (104 °F.) Các vùng đồi phía bắc thuộc khí hậu ôn hoà và Tian Shan từ kiểu khí hậu lục địa khô tới khí hậu cực, tùy thuộc độ cao. Tại các vùng lạnh nhất nhiệt độ ở mức dưới không trong khoảng 40 ngày mùa đông, và thậm chí tại một số vùng sa mạc còn có tuyết rơi thường xuyên trong thời kỳ này.
Kyrgyzstan có nguồn khoáng sản kim loại khá lớn gồm vàng và kim loại hiếm. Vì địa hình đất nước này chủ yếu là đồi núi, chưa tới 8% diện tích có thể canh tác, và tập trung tại các vùng đất thấp phía bắc và các rìa Thung lũng Fergana.
Bishkek ở phía bắc là thủ đô và thành phố lớn nhất, với xấp xỉ 900.000 nghìn dân (thời điểm năm 2005). Thành phố đứng thứ hai là thị trấn cổ Osh, nằm tại Thung lũng Fergana gần biên giới với Uzbekistan. Con sông chính là Naryn, chảy về phía tây xuyên qua Thung lũng Fergana vào Uzbekistan, nơi nó hợp lưu với dòng sông chính khác của Kyrgyzstan, sông Kara Darya, hình thành nên Syr Darya cuối cùng chảy vào Biển Aral — dù một lượng lớn nước đã bị khai thác cho tưới tiêu tại các cánh đồng bông của Uzbekistan khiến con sông khô cạn trước khi nó tới được biển này. sông Chu cũng có một đoạn ngắn chảy qua Kyrgyzstan trước khi vào Kazakhstan.
Những vùng đất bị quốc gia khác bao quanh và những vùng đất tách khỏi mẫu quốc
Có một vùng đất tách khỏi mẫu quốc, đó là ngôi làng nhỏ Barak, Kyrgyzstan [3], (dân số 627 người) tại thung lũng Fergana. Làng này bị lãnh thổ Uzbek bao quanh và nằm giữa các thị trấn Margilan và Fergana.Có bốn vùng đất Uzbekistan nằm trong lãnh thổ Kyrgyzstan. Hai trong số đó là các thị trấn Sokh (diện tích 325 km²/125 dặm vuông với dân số 42.800 người năm 1993, dù một số ước tính cho rằng con số này có thể lên tới 70.000 người; 99% là người Tajik, số còn lại là người Uzbek), và Shakhrimardan (cũng được gọi là Shakirmardon hay Shah-i-Mardan, diện tích 90 km²/35 dặm vuông và dân số 5.100 năm 1993; 91% là người Uzbek, số còn lại là người Kyrgyz); hai vùng lãnh thổ nhỏ khác là Chuy-Kara (hay Kalacha, dài khoảng 3 km và rộng 1 km hay 2 dặm nhân 0.6 dặm) và Dzhangail (một chấm đất nhỏ chỉ có chiều ngang 2 hay 3 km). Chuy-Kara nằm trên sông Sokh, giữa biên giới Uzbek và khu lãnh thổ tách khỏi mẫu quốc Sokh.
Có hai vùng lãnh thổ của Tajikistan nằm gọn trong Kyrgyzstan: Vorukh (diện tích khoảng 95 và 130 km² [37–50 dặm vuông], dân số được ước lượng trong khoảng 23.000 và 29.000, 95% người Tajik và 5% Kyrgyz, sống tại 17 ngôi làng), nằm cách 45 kilômét (28 dặm) phía nam Isfara trên bờ phải sông Karafshin, và một khu định cư nhỏ gần ga đường sắt Kyrgyz Kairagach.
Kinh tế
Kinh tế Cộng hòa Kyrgyz đã bị ảnh hưởng nặng nề sau sự sụp đổ của Liên bang Xô viết và sự biến mất của một thị trường rộng lớn. Năm 1990, khoảng 98% xuất khẩu Kyrgyz là tới những khu vực khác thuộc Liên bang Xô viết. Vì thế, tình hình nền kinh tế quốc gia đầu những năm 1990 ở đây tồi tệ hơn bất kỳ một nước cộng hòa nào khác thuộc Liên bang Xô viết cũ ngoại trừ các quốc gia bị ảnh hưởng bởi những cuộc chiến tranh: Armenia, Azerbaijan, và Tajikistan, khi các nhà máy, các hợp tác xã nông nghiệp sụp đổ cùng sự biến mất của các thị trường truyền thống. Tuy tình hình kinh tế đã có cải thiện đáng kể trong vài năm qua, và đặc biệt từ năm 1998, nhiều vấn đề vẫn tồn tại như nhu cầu về các khoản thu thích ứng từ thuế và tạo lập được một mạng lưới an sinh xã hội thích hợp.
Nông nghiệp là một lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế Cộng hòa Kyrgyz; xem Nông nghiệp Kyrgyzstan. Tới đầu thập niên 1990, lĩnh vực nông nghiệp tư nhân chiếm khoảng một phần ba tới một nửa sản lượng thu hoạch. Năm 2002 nông nghiệp chiếm 35.6% GDP và khoảng một nửa lực lượng lao động. Lãnh thổ Cộng hoà Kyrgyz chủ yếu là đồi núi, thích hợp cho chăn nuôi, hoạt động nông nghiệp lớn nhất, với những sản phẩm chính là len, thịt, và các sản phẩm sữa. Cây trồng chủ chốt gồm lúa mì, củ cải đường, khoai tây, bông, thuốc lá, rau, và quả. Bởi giá nhập khẩu các sản phẩm hóa chất nông nghiệp và dầu mỏ tăng cao, đa số các hoạt động nông nghiệp được thực hiện bằng tay hay bằng sức ngựa, như hàng thế hệ trước. Chế biến sản phẩm nông nghiệp là một yếu tố then chốt của kinh tế công nghiệp, cũng như là một trong những lĩnh vực thu hút đầu tư nước ngoài lớn nhất.
Cộng hoà Kyrgyz sở hữu nhiều nguồn tài nguyên khoáng sản nhưng có trữ lượng dầu mỏ và khí tự nhiên thấp; nước này phải nhập khẩu dầu mỏ và khí gas. Trong số các nguồn tài nguyên khoáng sản có than, vàng, uranium, antimony, và các kim loại hiếm khác. Luyện kim là một ngành công nghiệp quan trọng, và chính phủ hy vọng đây sẽ là lĩnh vực thu hút đầu tư nước ngoài mạnh. Chính phủ đã khuyến khích sự tham gia của các nhà đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực khai thác và chế biến vàng. Các nguồn tài nguyên nước phong phú của Cộng hòa Kyrgyz và địa hình đồi núi cho phép nước này sản xuất và xuất khẩu một lượng lớn năng lượng thủy điện.
Ở mức độ địa phương, kinh tế chủ yếu là kinh doanh nhỏ. Một lượng lớn giao dịch thương mại địa phương diễn ra tại các chợ và kiốt ở các làng. Hàng hóa tiêu dùng như khí đốt (nhiên liệu) thường được bán ven đường trong các thùng chứa. Một lượng đáng kể thương mại diễn ra ngoài tầm kiểm soát của nhà nước. Tại các làng hẻo lánh tình trạng thiếu thốn hàng hóa tiêu dùng cũng thường xảy ra. Vì thế phần đông các gia đình đều có khả năng tự cung tự cấp về lương thực. Có sự khác biệt rất lớn giữa kinh tế thành thị và nông thôn.
Các mặt hàng xuát khẩu chính là các loại kim loại màu và khoáng sản, sản phẩm len cùng các sản phẩm nông nghiệp, năng lượng điện, và một số sản phẩm cơ khí. Nhập khẩu gồm dầu mỏ và khí gas, kim loại màu, hóa chất, đa số các loại máy móc, len và các sản phẩm giấy cùng một số loại thực phẩm và vật liệu xây dựng. Các đối tác thương mại chính của nước này là Đức, Nga, và các nước láng giềng Trung Quốc, Kazakhstan và Uzbekistan.
Nhân khẩu
Nhóm sắc tộc lớn nhất nước là Kyrgyz, một dân tộc Turkic. Người Kyrgyz chiếm 69.5% dân số và trong lịch sử từng là những người chăn nuôi bán du mục, sống trong những chiếc lều tròn được gọi là yurt và nuôi cừu, ngựa và bò Tây Tạng. Truyền thống du mục này còn tiếp tục diễn ra theo mùa (xem Chuyển gia súc lên núi) khi các gia đình chăn nuôi quay trở về từ các đồng cỏ (hay jailoo) trên núi cao vào mùa hè. Việc bảo tồn di sản du mục này cũng như những tư tưởng tự do của nó vẫn có ảnh hưởng lớn tới không khí chính trị trong nước. Cái tên Kyrgyz, sử dụng cho cả người dân và quốc gia, được cho rằng có nghĩa "bốn mươi cô gái", một sự ám chỉ tới Manas (sử thi) dân gian về việc thống nhất bốn mươi bộ tộc chống lại người Mông Cổ.
Các nhóm sắc tộc khác gồm người Nga (9.0%) tập trung ở phía Bắc và người Uzbek (14.5%) sống ở phía nam. Các cộng đồng nhỏ nhưng cũng đáng chú ý khác gồm Tatars (1.9), Uyghurs (1.1%), Kazakhs (0.7%) và Ukraina (0.5%). Cộng đồng Đức Volga từng khá đông đúc trước kia, đã bị Stalin trục xuất tới đây từ nhà cửa của họ tại nước Cộng hòa Đức Volga, đa số họ đã quay trở về Đức, và chỉ còn sót lại vài nhóm nhỏ. Một số nhỏ dân số là người Triều Tiên Xô viết, có nghĩa hậu duệ của những cư dân Triều Tiên trước kia tại Vladivostok, Những người đã bị Stalin trục xuất tại Trung Á (và vùng Caucasus) trong Thế chiến thứ hai.
Ngôn ngữ
Kyrgyzstan là một trong hai trong số năm nước cộng hòa thuộc Liên Xô cũ ở Trung Á còn giữ tiếng Nga là một ngôn ngữ chính thức (tiếng Kazakhstan là ngôn ngữ kia). Nước này đã thêm tiếng Kyrgyz để trở thành quốc gia có hai ngôn ngữ chính thức vào tháng 9 năm 1991. Đây là một tín hiệu rõ ràng cho những người Nga sinh sống ở Kyrgyzstan rằng họ được chào đón trong nước cộng hòa mới, trong một nỗ lực nhằm tránh tình trạng chảy máu chất xám. Tiếng Kyrgyz là một thành viên thuộc nhóm ngôn ngữ Turkic và được viết bằng ký tự Ả Rập cho đến tận thế kỷ 20. Ký tự Latinh đã được đưa ra và chấp nhận năm 1928, và sau đó đã được thay thế bởi ký tự Kirin năm 1941.Nói chung, tất cả mọi người trong nước đều hiểu và nói tiếng Nga, ngoại trừ tại một số vùng xa xôi hẻo lánh. Tiếng Nga là tiếng mẹ đẻ của đa số dân cư Bishkek, và hầu hết các giao dịch thương mại cũng như chính trị đều được tiến hành bằng ngôn ngữ này. Cho tới gần đây, tiếng Kyrgyz vẫn là ngôn ngữ được sử dụng tại gia đình, và hiếm khi được dùng trong các cuộc gặp gỡ hay các sự kiện khác. Tuy nhiên, đa số các cuộc họp nghị viện hiện nay được tiến hành bằng tiếng Kyrgyz, với phiên dịch đồng thời cho những người không nói tiếng Kyrgyz.
Văn hoá
- Manas, một sử thi
- Komuz, đàn luýt ba dây
- Tush kyiz, đồ treo tường thêu tỉ mỉ lớn
- Shirdak, nệm phẳng làm bằng shadow-pairs [4]
- các loại sản phẩm dệt khác, đặc biệt chế tạo từ nỉ
- Thuật săn bằng chim ưng
Truyền thống
Một hành động đã bị cấm đoán nhưng vẫn thường diễn là truyền thống bắt cóc cô dâu [5].Hiện đang có tranh cãi về việc liệu hành động bắt cóc cô dâu có thực sự là một truyền thống hay không. Một số lý lẽ xung đột có thể xuất phát từ việc các cuộc hôn nhân có sắp xếp là một hành động truyền thống, và một trong những cách thoát khỏi những cuộc hôn nhân có sắp xếp đó là tổ chức một cuộc "bắt cóc." Xem Báo cáo của Human Rights Watch "Cam chịu Bạo lực: Nhà nước không thể ngăn chặn những vụ lạm dụng và bắt cóc phụ nữ tại Kyrgyzstan" xuất bản tháng 9 năm 2006, Vol. 18, No.9.
Tôn giáo
- Kyrgyzstan là một quốc gia thế tục. Trong thời Xô viết, quốc gia vô thần được khuyến khích.
- Tôn giáo chủ yếu của nước này là Hồi giáo Sunni (đặc biệt là trường phái Hanafi) - khoảng 70% vào thời điểm năm 1994.[6] Hồi giáo tại Kyrgyzstan là một nền tảng văn hóa chứ không phải là sự thực hiện nghi thức hàng ngày đối với một số người.
- Các nhà thờ Thiên chúa giáo chính là Chính thống Nga và Chính thống Ukraine. Một cộng đồng nhỏ người Đức là các tín đồ Tin lành Thiên chúa, chủ yếu thuộc phái Lutheran và Baptist[2].
- Các truyền thống duy linh vẫn tồn tại, và là những ảnh hưởng từ Phật giáo như hành động treo cờ phướn trên những cây thiêng.
- Một số lượng nhỏ Người Do Thái Bukharian sống tại Kyrgyzstan, nhưng trong thời kỳ Liên bang Xô viết sụp đổ đa số họ đã tới Hoa Kỳ và Israel.
Cờ
Mặt trời tỏa 40 tia nắng vàng ở trung tâm lá cờ thể hiện 40 chiến binh của người anh hùng thần thoại Manas. Các đường bên trong mặt trời thể hiện ngôi vua hay tunduk (Kyrgyz түндүк) của một yurt, một biểu tượng được lặp lại trên nhiều công trình kiến trúc Kyrgyz. Phần màu đỏ trên lá cờ biểu hiện hòa bình và sự cởi mở của Kyrgyzstan.Giáo dục
Các định chế giáo dục tại Kyrgyzstan gồm:- Đại học Trung Á Hoa Kỳ
- KRSU - Đại học Slavơ Kyrgyz Nga
- KNU - Đại học quốc gia Kyrgyz
- Đại học Kyrgyz-Thổ Nhĩ Kỳ MANAS
- Đại học Nhân loại Bishkek
- Đại học quốc tế Kyrgyzstan
- Đại học quốc tế Ataturk-Alatoo
- Đại học quốc gia Osh
- Đại học Kyrgyz Uzbek
- Đại học kỹ thuạt Osh
- Viện Luật và Doanh nghiệp Moskov
- Đại học quốc tế Kyrgyzstan
- Đại học quốc gia Kyrgyz-Nga
Cưỡi ngựa
Các môn thể thao truyền thống quốc gia phản ánh tầm quan trọng của hành động cưỡi ngựa trong văn hoá Kyrgyz. Rất phổ thông, như tại tất cả các quốc gia Trung Á khác, là Kok Boru (có nghĩa "sói xanh"), một môn thể thao đồng đội giống như polo và rugby trên lưng ngựa, theo đó hai đội tìm cách mang xác một con dê không đầu vượt qua vạch gôn đội đối thủ, hay theo kiểu thường được chơi ngày nay, vào trong gôn đội đối thủ, một chiếc bình lớn hay một vòng đánh dấu trên mặt đất. Trong trận đấu các đấu thủ tìm cách giật xác dê từ tay đối thủ.Các môn thể thao phổ thông trên lưng ngựa khác gồm Tyiyn hay Tenghe Enish (nhặt một đồng xu trên mặt đất trong khi đang phi ngựa), Kyz Kuumai (đuổi một cô gái để thắng một cái hôn của cô ta, khi cô đang phi ngựa chạy và có thể đánh kẻ đuổi theo bằng chiếc roi da của mình), Oodarysh (vật trên lưng ngựa), những cuộc đua ngựa đường trường trên 15, 20 hay thậm chí 50 và 100 km, và các môn thể thao khác.
Vận tải
Sân bay
Cuối thời kỳ Xô viết có khoảng 50 sân bay và đường băng tại Kyrgyzstan, nhiều trong số chúng được xây dựng chủ yếu phục vụ cho các mục đích quân sự tại vùng biên giới giáp Trung Quốc này. Chỉ một vài sân bay hiện vẫn hoạt động.- Sân bay Manas gần Bishkek là cảng hàng không quốc tế chính, với các đường bay tới Moskva, Tashkent, Dushanbe, Istanbul, Baku, và Luân Đôn.
- Sân bay Osh là cảng hàng không chính ở phía Nam, với các chuyến bay hàng ngày tới Bishkek.
- Sân bay Jalal-Abad được nối với Bishkek bởi hai chuyến bay mỗi tuần.
- Các cơ sở khác xây dựng thời Xô viết hoặc đã đóng cửa hoặc chỉ được sử dụng thỉnh thoảng hay dành riêng cho quân sự (ví dụ, căn cứ không quân Kant, hiện là căn cứ không quân của Nga gần Bishkek
Đường sắt
Thung lũng Chui ở phía bắc và thung lũng Ferghana ở phía nam là các điểm kết thúc của hệ thống đường sắt Liên bang Xô viết ở Trung Á. Sau khi các quốc gia độc lập xuất hiện thời hậu Xô viết, các tuyến đường sắt được xây dựng trước kia đã bị các biên giới hành chính cắt ngang, và vì thế ảnh hưởng nghiêm trọng tới hoạt động giao thông. Những đoạn đường sắt ngắn bên trong Kyrgyzstan, tổng cộng khoảng 370 km (khổ 1.520 mm), có ít giá trị kinh tế vì thiếu hàng hóa vận chuyển trên khoảng cách xa cũng như đi và tới các trung tâm như Tashkent, Almaty và các thành phố của Nga.Hiện có những kế hoạch bước đầu để mở rộng các tuyến đường sắt từ Balykchy ở phía bắc và/hay từ Osh ở phía nam tới Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, nhưng chi phí cho việc này rất lớn.
Những tuyến đường sắt nối với các quốc gia lân cận
- Kazakhstan - có - nhánh Bishkek - cùng khổ
- Uzbekistan - có - nhánh Osh - cùng khổ
- Tajikistan - không - cùng khổ
- Trung Quốc - không - khác khổ 1524mm/1435mm
Đường cao tốc
Với sự hỗ trợ của Ngân hàng phát triển Châu Á, một đường chính nối từ phía bắc tới tây nam từ Bishkek tới Osh gần đây đã hoàn thành. Công trình này giúp việc liên lạc giữa hai trung tâm dân cư chính trong nước—Thung lũng Chui ở phía bắc và Thung lũng Fergana ở phía nam trở nên dễ dàng hơn rất nhiều. Một phần của con đường này vượt qua một con đèo cao 3.500 dẫn vào Thung lũng Talas ở phía tây bắc. Nhiều kế hoạch đang được đưa ra nhằm xây dựng một con đường chính từ Osh tới Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.Tổng cộng: 30.300 km (gồm 140 km đường cao tốc)
đường trải nhựa: 22.600 km (gồm cả một số đoạn trải sỏi)
không trải nhựa: 7.700 km (những con đường này làm bằng đất không lu và rất khó đi lại trong điều kiện thời tiết xấu) (1990)
Đường ống
Khí tự nhiên 200 kmĐường thuỷ
Các tuyến đường thủy chỉ hoạt động trên Hồ Issyk Kul, và đã thu hẹp nhiều từ sau khi Liên bang Xô viết sụp đổ.Cảng
Balykchy (Ysyk-Kol hay Rybach'ye), trên Hồ Issyk Kul.Các chủ đề khác
- Liên minh Trung Á
- Viễn thông Kyrgyzstan
- Quan hệ nước ngoài Kyrgyzstan
- Kyrgyzstan tại Olympic mùa hè 2004
- Bầu cử nghị viện Kyrgyz năm 2005
- Bầu cử tổng thống Kyrgyz năm 2005
- Danh sách các loài chim Kyrgyzstan
- Danh sách thành phố Kyrgyzstan
- Quân đội Kyrgyzstan
- Hướng đạo sinh Kyrgyzstan
- Vận tải Kyrgyzstan
- Cách mạng Tulip
- Tem bưu chính và lịch sử bưu chính Kyrgyzstan
- Căn cứ không quân Manas
Đọc thêm
- Historical Dictionary of Kyrgyzstan của Rafis Abazov
- Kyrgyzstan: Central Asia's Island of Democracy? của John Anderson
- Kyrgyzstan: The Growth and Influence of Islam in the Nations of Asia and Central Asia của Daniel E. Harmon
- Lonely Planet Guide: Central Asia của Paul Clammer, Michael Kohn và Bradley Mayhew
- Odyssey Guide: Kyrgyz Republic của Ceri Fairclough, Rowan Stewart và Susie Weldon
- "Silk Road to Ruin: Is Central Asia the New Middle East?" của Ted Rall
- "Kyrgyzstan: Traditions of Nomads," của V. Kadyrov, Rarity Ltd., Bishkek, 2005 ISBN 9967-424-42-7
Ghi chú
Liên kết ngoài
Tìm thêm về Kyrgyzstan tại những đồng dự án của Wikipedia: | |
Từ điển ở Wiktionary | |
Sách ở Wikibooks | |
Cẩm nang du lịch ở Wikivoyage | |
Hồ sơ ở Wikiquote | |
Văn kiện ở Wikisource | |
Hình ảnh và phương tiện ở Commons | |
Tin tức ở Wikinews | |
Tài liệu giáo dục ở Wikiversity |
- Government of Kyrgyzstan official site
- President of the Kyrgyz Republic
- Kyrgyzstan Ministry of External Trade and Industry
- Kyrgyz State Television and Radio
- Local government Official website (in Russian)
- CIA World Factbook - Kyrgystan
- KyrgyzReport.com ongoing analysis, including an analysis of the clusters of political forces in Kyrgyzstan and the roots of the country’s political problems
- Open Directory Project - Kyrgyzstan directory category
- BBC News - Kyrgystan Country Profile
- Eurasianet - Kyrgyzstan Daily Digest news
- Common Language Project Country Fact Sheet - Kyrgyzstan
- PBS documentary on Kyrgyz bride "kidnapping" tháng 3 năm 2004
- Photos of traditional life in Kyrgyzstan
- Photo gallery and information about Kyrgyzstan - in German
- Traditional felt making in Kyrgyzstan, journal by Dutch designer Sietze Kalkwijk
- Kyrgyzstan's location on a 3D globe (Java)
|
|
|
---|
|
Thể loại:
Cuộc chiến Chechnya lần thứ I là một cuộc xung đột giữa Liên bang Nga và Cộng hòa Chechnya Ichkeria, từ tháng 12 năm 1994 đến tháng 8 năm 1996. Đỉnh điểm của cuộc chiến là trận tàn phá thủ đô Grozny. Mặc dù quân số áp đảo, được sự hỗ trợ của không quân, quân Nga đã cố gắng chiếm quyền kiểm soát khu vực miền núi của Chechnya nhưng không thành công. Năm 1996, chính phủ của Boris Yeltsin
tuyên bố một thỏa thuận ngừng bắn và một hiệp ước hòa bình được ký kết
một năm sau đó. Con số chính thức số quân Nga tử vong là 5.500. Mặc dù
không có con số chính xác cho số dân quân Chechnya bị giết, con số ước
lượng là từ 3.000 đến hơn 15.000 người. Ước tính số thường dân bị chết
từ 30.000 và 100.000 người, có thể hơn 200.000 người bị thương, các
thành phố và làng mạc trên khắp nước cộng hòa trong tàn phá.
Năm 1992, Tổng thống Nga đã thông qua điều luật Duma ban hành. Tuy nhiên, hai quốc gia Chechnya và Tatarstan đã không thông qua. Cuối cùng, năm 1994, Tổng thống Yeltsin đã kí hiệp định đặc biệt, ban cho các nước cộng hoà trực thuộc đặc quyền chính trị lớn hơn. Nhưng Chechnya đã không thông qua. Mâu thuẫn nảy sinh.
Nhở khả năng "thiên bẩm" của mình, Dzhokhar Dudayev đã có được sự ủng hộ mạnh mẽ của quần chúng Chechen. Ông này cũng thành lập nên quân đội Chechen, có sự trang bị hiện đại và sự hậu thuẫn của Mỹ cũng như Phương Tây, sẵn sàng đối đầu với quân Nga.
Đến tháng 8 năm 1994, các đảng đối lập, chống đối Dudayev đã ra mặt chống đối. Moskva đã bí mật cung cấp vũ khí cho các tay súng chống đối Dudayev. Sự việc vỡ lở, Grozny cáo buộc Moskva tiếp tay cho khủng bố. Lập tức, Yeltsin đã cho binh sĩ kéo đến, phong toả Chechen.
Phiến quân làm loạn ở Grozny từ tháng 10 năm 1994. Tuy nhiên, không thành công. Nga đã chính thức tuyên chiến với Chechnya. FSB, Quân đội Nga được cài vào các cơ quan của Chechen để đối phó. Kể từ ngày 01 Tháng 12, lực lượng Nga đã công khai thực hiện không kích Chechnya. Ngày 11 Tháng 12 Năm 1994, Tướng Pavel Grachev của Nga đã đồng ý để "tránh tiếp tục sử dụng vũ lực", lực lượng Nga tiến vào nước cộng hòa để "thiết lập trật tự hiến pháp tại Chechnya và bảo quản sự toàn vẹn lãnh thổ của Nga".
Tháng 11 năm 1996, hai bên đã kí một thoả thuận, quyết định Nga phải bồi thường cho những người dân Chechnya bị ảnh hưởng từ cuộc chiến. Nga cũng chấp nhận một ân xá cho các binh sĩ Nga và phiến quân Chechnya như nhau.[8]. Tuy nhiên, quan hệ Grozny-Moskva vẫn chưa thể ấm lên. Sau cuộc tấn công lại năm 1999, mâu thuẫn lại tiếp tục nảy sinh.
Diana, Vương phi xứ Wales (Diana Frances; nhũ danh Spencer; 1 tháng 7 năm 1961 – 31 tháng 8 năm 1997; báo chí Việt Nam thường gọi là Công nương thay vì Vương phi) là vợ thứ nhất của Charles, Thân vương xứ Wales[2]. Hai con trai của bà là Hoàng tử William và Hoàng tử Harry, xếp thứ hai và thứ ba trong thứ tự kế vị ngôi vua của Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland và 15 vùng đất khác thuộc Khối thịnh vượng chung trong thời gian bà còn sống.
Diana trở thành một người nổi tiếng sau khi bà đính hôn với Thái tử Charles. Cuộc sống của bà đã trở thành đề tài của chú ý của công chúng do địa vị hoàng gia và các hoạt động xã hội của bà. Sau nhiều năm dư luận bàn tán về các vấn đề trong cuộc sống hôn nhân của họ, Thân vương Charles và Diana đã ly hôn. Cái chết của bà trong một vụ tai nạn xe hơi đã lập tức dẫn đến một giai đoạn thương tiếc và để tang của dân chúng Anh quốc, cũng như toàn thế giới. Elton John có bài hát "Candle in the Wind 1997" để tưởng nhớ bà.
Dòng họ Spencer là một trong những gia đình danh tiếng lâu đời nhất tại Anh và có mối quan hệ mật thiết trong một vài đời với gia đình hoàng gia. Vào lúc này gia đình Spencer đang chờ đợi một bé trai nên đã không có một cái tên nào được chọn để đặt cho bé gái mới sinh trong tuần đầu tiên, sau đó họ quyết định cái tên "Diana Frances". Diana có ba anh chị em gồm Lady Sarah McCorquodale, Nữ Nam tước Jane Fellowes, và bá tước Spencer thứ 9 Charles Spencer;[3][3] và được làm lễ rửa tội ở nhà thờ Sandringham; riêng em trai, Charles, được rửa tội ở Westminster Abbey do Nữ hoàng Elizabeth II làm mẹ đỡ đầu chính.
Diana được 8 tuổi khi cha mẹ ly dị[5], sau khi mẹ bà có dan díu với ông Peter Shand Kydd.[6] Diana sống với mẹ ở London trong lúc cha mẹ ly thân, nhưng trong mùa lễ Giáng sinh sau Lord Althorp không cho phép Diana trở về London với mẹ. Sau đó, với sự giúp đỡ của mẹ vợ Ruth Roche, Nữ Nam tước Fermoy, John Spencer được cho quyền nuôi nấng Diana.[3] Diana ban đầu học ở Riddlesworth Hall gần Diss, Norfolk, sau đó học nội trú tại The New School at West Heath,[3] tại Sevenoaks, Kent. Vào năm 1973, Lord Althorp bắt đầu có quan hệ tình cảm với Raine McCorquodale, Nữ Bá tước Dartmouth, người con gái duy nhất của Alexander McCorquodale và bà Barbara Cartland.[7] Lady Dartmouth, không được ưa thích bởi Diana, cưới Lord Spencer tại Caxton Hall, London vào ngày 14 tháng 7 năm 1976.[6] Diana trở thành Lady Diana khi cha bà thừa hưởng chức tước Earl Spencer vào ngày 9 tháng 6 năm 1975.[8]. Sau khi học xong trường tại Institut Alpin Videmanette tại Thụy Sĩ, Lady Diana dọn về London, và dạy trẻ con tại vườn trẻ Young England School.[3] Diana đã từng chơi đùa với hoàng tử Andrew và hoàng tử Edward khi còn nhỏ khi gia đình bà mướn Park House, thuộc sở của Nữ hoàng Elizabeth II và nằm trong khu nhà Sandringham Estate.[3][9]
Video yêu thích
http://www.youtube.com/user/hoangkimvietnam
Trở về trang chính
Hoàng Kim, hoangkim, hoangkimvietnam, Ngọc Phương Nam, Chào ngày mới Thung dung, Dạy và học, Cây Lương thực, Tin Nông nghiệp Việt Nam, Food Crops, Cassava in Vietnam, VietnamAfricaCassavaRice, Khát khao xanh, Dayvahoc,Học mỗi ngày, Danh nhân Việt , Food Crops News, Điểm chính, CNM365, Kim LinkedIn, KimTwitter, KimFaceBook Đọc lại và suy ngẫm, Việt Nam tổ quốc tôi, Tình yêu cuộc sống, Thơ cho con
- Kyrgyzstan
- Cộng hoà lập hiến
- Nước và vùng lãnh thổ nói tiếng Nga
- Cộng hòa
- Quốc gia và vùng lãnh thổ nói tiếng Nga
Chiến tranh Chechnya lần thứ nhất
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
|
|
|
|
Mục lục
Bối cảnh
Liên Xô sụp đổ
Năm 1992, Tổng thống Nga đã thông qua điều luật Duma ban hành. Tuy nhiên, hai quốc gia Chechnya và Tatarstan đã không thông qua. Cuối cùng, năm 1994, Tổng thống Yeltsin đã kí hiệp định đặc biệt, ban cho các nước cộng hoà trực thuộc đặc quyền chính trị lớn hơn. Nhưng Chechnya đã không thông qua. Mâu thuẫn nảy sinh.
Chechen độc lập
Nhở khả năng "thiên bẩm" của mình, Dzhokhar Dudayev đã có được sự ủng hộ mạnh mẽ của quần chúng Chechen. Ông này cũng thành lập nên quân đội Chechen, có sự trang bị hiện đại và sự hậu thuẫn của Mỹ cũng như Phương Tây, sẵn sàng đối đầu với quân Nga.
Diễn biến
Căng thẳng Grozny-Moskva
Từ năm 1991, nhiều người dân tộc Chechen đã có ý định chống đối Nga. Sau khi Chechen độc lập, căng thẳng Grozny và Moskva đã xảy ra. Chính phủ Chechen đã quyết định trục xuất những người Nga sống tại Chechen (Dân số Chechnya chủ yếu là người Nga, Ukraina, Armenia).[3]. Sau sự kiện biểu tình chống Nga năm 1993, chính phủ lâm thời do Dudayev đã lên thay thế chính thức chính quyền Nga tại đây.Đến tháng 8 năm 1994, các đảng đối lập, chống đối Dudayev đã ra mặt chống đối. Moskva đã bí mật cung cấp vũ khí cho các tay súng chống đối Dudayev. Sự việc vỡ lở, Grozny cáo buộc Moskva tiếp tay cho khủng bố. Lập tức, Yeltsin đã cho binh sĩ kéo đến, phong toả Chechen.
Phiến quân làm loạn ở Grozny từ tháng 10 năm 1994. Tuy nhiên, không thành công. Nga đã chính thức tuyên chiến với Chechnya. FSB, Quân đội Nga được cài vào các cơ quan của Chechen để đối phó. Kể từ ngày 01 Tháng 12, lực lượng Nga đã công khai thực hiện không kích Chechnya. Ngày 11 Tháng 12 Năm 1994, Tướng Pavel Grachev của Nga đã đồng ý để "tránh tiếp tục sử dụng vũ lực", lực lượng Nga tiến vào nước cộng hòa để "thiết lập trật tự hiến pháp tại Chechnya và bảo quản sự toàn vẹn lãnh thổ của Nga".
Diễn biến quân sự
Giai đoạn đầu
Ngày 11 tháng 12 năm 1994, Nga đã tấn công Chechen từ nhiều phía. Hành động này không được ủng hộ. Rất nhiều quan chức Nga đã từ chức để phản đối. Tình hình này khiến Bộ trưởng Quốc phòng Nga cũng phải từ chức. Người Nga coi đây là hành động "nồi da nấu thịt". Hơn 800 quân nhân đã từ chối tham chiến, trong đó có 83 người bị xét xử[4]. Tướng Nga là Lev Rokhlin cũng từ chối tham gia.Trận Grozny
Nga tiếp tục tấn công
Kết quả
Theo Nga, Nga có 3.826 binh lính đã thiệt mạng, 17.892 bị thương, và 1.906 mất tích. Theo uỷ ban Quân sự độc lập của Nga, Nga có 5.362 binh lính chết, 52.000 người bị thương hoặc bị bệnh[6]. Thương vong Chechnya được ước tính lên đến 100.000 người chết hoặc nhiều hơn, trong đó phần lớn là dân thường[7], Bộ trưởng Nội vụ Nga Anatoly Kulikov cho rằng ít hơn 20.000 dân thường đã bị giết hại.Tháng 11 năm 1996, hai bên đã kí một thoả thuận, quyết định Nga phải bồi thường cho những người dân Chechnya bị ảnh hưởng từ cuộc chiến. Nga cũng chấp nhận một ân xá cho các binh sĩ Nga và phiến quân Chechnya như nhau.[8]. Tuy nhiên, quan hệ Grozny-Moskva vẫn chưa thể ấm lên. Sau cuộc tấn công lại năm 1999, mâu thuẫn lại tiếp tục nảy sinh.
Tài liệu tham khảo
- A Military History of Russia: From Ivan the Terrible to the War in Chechnya Author: David R. Stone (preview available)
- A Small Corner of Hell: Dispatches from Chechnya Author: Anna Politkovskaya (preview available)
- Allah's Mountains: The Battle for Chechnya Author: Sebastian Smith (preview available)
- Angel of Grozny Author: Asne Seierstad
- Chechnya: Calamity in the Caucasus Author: Carlotta Gall, Thomas De Waal
- Chechnya: From Nationalism to Jihad Author: James Hughes (preview available)
- Chechnya: From Past To Future Author: Richard Sakwa and others (preview available)
- Chechnya: Life in a War-Torn Society Author: Valery Tishkov (preview available)
- Chechnya: The Case for Independence Author: Tony Wood
- Chechnya: Tombstone of Russian Power Author: Anatol Lieven
- Landscapes of War: From Sarajevo to Chechnya Author: Juan Goytisolo (preview available)
- My Jihad Author: Aukai Collins
- Open Wound: Chechnya 1994-2003 Author: Stanley Greene
- Russia Confronts Chechnya: Roots of a Separatist Conflict Author: John B. Dunlop (preview available)
- Russia in Afghanistan and Chechnya Author: Robert M. Cassidy (preview available)
- Russia's Chechen War Author: Tracey C. German (preview available)
- Russia's Restless Frontier: The Chechnya Factor in Post-Soviet Russia Author: Dmitri Trenin, Anatol Lieven (preview available)
- Russia's Wars with Chechnya 1994-2003 Author: Michael Orr
- Russian Military Reform, 1992-2002 Author: Anne Aldis, Roger N. McDermott
- The Chechen Wars: Will Russia Go the Way of the Soviet Union? Author: Matthew Evangelista (preview available)
- The Lone Wolf and the Bear: Three Centuries of Chechen Defiance of Russian Rule Author: Moshe Gammer (preview available)
- The Russian Army in a Time of Troubles Author: Pavel K. Baev (preview available)
- The Oath: A Surgeon Under Fire Author: Khassan Baiev
- The Wolves of Islam: Russia and the Faces of Chechen Terror Author: Paul J. Murphy (preview available)
Chú thích
- ^ (Tiếng Nga) Броня горела, как дрова... - Публицистика - Православное воинство - Русское Воскресение;?>
- ^ thương vong dân sự và quân sự của cuộc chiến tranh tại Chechnya Chechnya Hữu nghị Nga-Xã hội
- ^ OP Orlov; VP Cherkassov "Россия. - Чечня: Цепь ошибок и преступлений" (tiếng Nga). Memorial
- ^ Gall, Carlotta; Thomas de Waal (1998) Chechnya:. Thiên tai tại Caucasus. New York University Press. ISBN 0-8147-2963-0.: Pp. 177-181.
- ^ Bạo lực bùng một lần nữa tại Chechnya, CNN, Ngày 06 tháng 8 năm 1996
- ^ Saradzhyan, Simon (2005-03-09) "Quân đội. Học kinh nghiệm từ bài học ít Chechnya". Moscow
- ^ Quân đội Nga tại Chechnya bởi Pavel Felgenhauer
- ^ Đầu Chechnya tranh - 1994-1996
Wikimedia Commons có thêm thể loại hình ảnh và phương tiện truyền tải về Chiến tranh Chechnya lần thứ nhất |
Diana, Vương phi xứ Wales
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Diana | |
---|---|
Vương phi xứ Wales năm 1987 | |
Thông tin chung | |
Phối ngẫu | Charles, Thân vương xứ Wales kết hôn 1981; ly dị 1996[1] |
Hậu duệ | Hoàng tử William, Công tước xứ Cambridge Hoàng tử Harry xứ Wales |
Tên đầy đủ | Diana Frances Spencer |
Tước vị | Diana, Princess of Wales HRH The Princess of Wales Lady Diana Spencer The Hon Diana Spencer |
Hoàng tộc | Nhà Windsor |
Thân phụ | Edward Spencer |
Thân mẫu | Frances Shand Kydd |
Sinh | 1 tháng 7, 1961 Park House, Sandringham, Anh |
Thanh tẩy | St. Mary Magdalene Church, Sandringham |
Mất | 31 tháng 8, 1997 (36 tuổi) Bệnh viện Pitié-Salpêtrière, Paris, Pháp |
An táng | Althorp, Northamptonshire, Anh |
Diana trở thành một người nổi tiếng sau khi bà đính hôn với Thái tử Charles. Cuộc sống của bà đã trở thành đề tài của chú ý của công chúng do địa vị hoàng gia và các hoạt động xã hội của bà. Sau nhiều năm dư luận bàn tán về các vấn đề trong cuộc sống hôn nhân của họ, Thân vương Charles và Diana đã ly hôn. Cái chết của bà trong một vụ tai nạn xe hơi đã lập tức dẫn đến một giai đoạn thương tiếc và để tang của dân chúng Anh quốc, cũng như toàn thế giới. Elton John có bài hát "Candle in the Wind 1997" để tưởng nhớ bà.
Mục lục
Tuổi thơ
Diana sinh ra trong một buổi chiều muộn ngày 1 tháng 7 năm 1961 tại Sandringha, Norfolk.[3][4] Bà là con thứ tư trong số năm người con của tử tước (viscount) Althorp và bá tước (earl) Spencer thứ 8, ông John Spencer Viscount và bà Frances Shand Kydd (nhũ danh Frances Roche, sau đổi thành Shand Kydd). Gia đình Spencer lúc này đang kì vọng có con trai kế thừa gia sản (do người con thứ ba, một bé trai đã chết ngay sau khi sinh)[3]Dòng họ Spencer là một trong những gia đình danh tiếng lâu đời nhất tại Anh và có mối quan hệ mật thiết trong một vài đời với gia đình hoàng gia. Vào lúc này gia đình Spencer đang chờ đợi một bé trai nên đã không có một cái tên nào được chọn để đặt cho bé gái mới sinh trong tuần đầu tiên, sau đó họ quyết định cái tên "Diana Frances". Diana có ba anh chị em gồm Lady Sarah McCorquodale, Nữ Nam tước Jane Fellowes, và bá tước Spencer thứ 9 Charles Spencer;[3][3] và được làm lễ rửa tội ở nhà thờ Sandringham; riêng em trai, Charles, được rửa tội ở Westminster Abbey do Nữ hoàng Elizabeth II làm mẹ đỡ đầu chính.
Diana được 8 tuổi khi cha mẹ ly dị[5], sau khi mẹ bà có dan díu với ông Peter Shand Kydd.[6] Diana sống với mẹ ở London trong lúc cha mẹ ly thân, nhưng trong mùa lễ Giáng sinh sau Lord Althorp không cho phép Diana trở về London với mẹ. Sau đó, với sự giúp đỡ của mẹ vợ Ruth Roche, Nữ Nam tước Fermoy, John Spencer được cho quyền nuôi nấng Diana.[3] Diana ban đầu học ở Riddlesworth Hall gần Diss, Norfolk, sau đó học nội trú tại The New School at West Heath,[3] tại Sevenoaks, Kent. Vào năm 1973, Lord Althorp bắt đầu có quan hệ tình cảm với Raine McCorquodale, Nữ Bá tước Dartmouth, người con gái duy nhất của Alexander McCorquodale và bà Barbara Cartland.[7] Lady Dartmouth, không được ưa thích bởi Diana, cưới Lord Spencer tại Caxton Hall, London vào ngày 14 tháng 7 năm 1976.[6] Diana trở thành Lady Diana khi cha bà thừa hưởng chức tước Earl Spencer vào ngày 9 tháng 6 năm 1975.[8]. Sau khi học xong trường tại Institut Alpin Videmanette tại Thụy Sĩ, Lady Diana dọn về London, và dạy trẻ con tại vườn trẻ Young England School.[3] Diana đã từng chơi đùa với hoàng tử Andrew và hoàng tử Edward khi còn nhỏ khi gia đình bà mướn Park House, thuộc sở của Nữ hoàng Elizabeth II và nằm trong khu nhà Sandringham Estate.[3][9]
Quan hệ với thái tử Charles (1977–1980)
Diana có dịp làm quen với thái tử Charles vào tháng 11 năm 1977 tại một cuộc đi săn tổ chức tại nhà của gia đình Spencer. Cô ta được hoàng tộc xem là thích hợp với ngôi vị nữ hoàng tương lai, khi cô ta tham dự đám cưới của chị mình, Jane Spencer với tử tước Robert Fellowes vào tháng tư năm 1978, nhất là sau buổi tiệc sinh nhật 30 tuổi của thái tử Charles vào tháng 11 năm 1978.[10] Là một gia đình quý tộc lâu đời tại Anh gia đình Spencer có điều kiện tốt nhất để làm sui gia với gia đình nữ hoàng. Ngoài ra người vợ sắp cưới của thái tử Wales phải có một nền giáo dục theo đạo Tin lành và phải là trinh nữ, 2 điều kiện này Diana đều có.[11] Cả hai phía, hoàng tộc cũng như gia đình Spencer, tạo cơ hội để Diana có dịp gặp gỡ thái tử Wales. Tina Brown cho là hoàng tộc lúc đó đang khẩn cấp tìm người để thay thế Camilla Parker Bowles, người mà thái tử Charles vẫn còn yêu mặc dù bà ta đã có chồng.[12] Thái tử Charles và Camilla Shand, quen nhau vào mùa hè năm 1971,[13] và Charles đã tỏ tình với cô ta vào tháng 12 năm 1972, tuy nhiên không hỏi cưới.[14] Vào tháng 7 năm 1973 Camilla Shand đã thành hôn với thiếu tá Andrew Parker Bowles.[15]Danh hiệu
- 1 tháng 7 năm 1961 - 9 tháng 6 năm 1975: The Honourable Diana Frances Spencer
- 9 tháng 6 năm 1975 - 29 tháng 7 năm 1981: Lady Diana Frances Spencer
- 29 tháng 7 năm 1981 - 28 tháng 8 năm 1996: Her Royal Highness Vương phi xứ Wales
- tại Scotland: Her Royal Highness Nữ Công tước xứ Rothesay
- 28 tháng 8 năm 1996 - 31 tháng 8 năm 1997: Diana, Vương phi xứ Wales
Xem thêm
Tham khảo
- ^ “The Life of Diana, Princess of Wales 1961–1997”.
- ^ “Diana, Princess of Wales - Marriage and family”. royal.gov.uk. Truy cập ngày 23 tháng 5 năm 2012.
- ^ a ă â b c d đ e “Princess Diana Biography”. The Biography Channel. Truy cập ngày 21 tháng 5 năm 2011.
- ^ Morton, p. 99
- ^ Morton, p. 98
- ^ a ă “Princess Diana: The Early Years”. British Royals. Truy cập ngày 21 tháng 5 năm 2011.
- ^ “Raine Spencer: Friend not foe”. The Independent (London). 15 tháng 12 năm 2007. Truy cập ngày 21 tháng 5 năm 2011.
- ^ “Princess Diana: The Earl's daughter, born to life of privilege”. CNN. Truy cập ngày 30 tháng 5 năm 2013.
- ^ “The Life of Diana, Princess of Wales 1961-1997”. BBC News.
- ^ Brown (2007), S. 177
- ^ Brown (2007), S. 147
- ^ Brown (2007), S. 178/179
- ^ Brown (2007), S. 163
- ^ Brown (2007), S. 166
- ^ Brown (2007), S. 167
Liên kết ngoài
Phương tiện liên quan tới Diana, Princess of Wales tại Wikimedia Commonshttp://www.youtube.com/user/hoangkimvietnam
Trở về trang chính
Hoàng Kim, hoangkim, hoangkimvietnam, Ngọc Phương Nam, Chào ngày mới Thung dung, Dạy và học, Cây Lương thực, Tin Nông nghiệp Việt Nam, Food Crops, Cassava in Vietnam, VietnamAfricaCassavaRice, Khát khao xanh, Dayvahoc,Học mỗi ngày, Danh nhân Việt , Food Crops News, Điểm chính, CNM365, Kim LinkedIn, KimTwitter, KimFaceBook Đọc lại và suy ngẫm, Việt Nam tổ quốc tôi, Tình yêu cuộc sống, Thơ cho con
No comments:
Post a Comment