CNM365 Chào ngày mới 15 tháng 8 Wikipedia Ngày này năm xưa. Ngày Độc lập tại Ấn Độ (1947) và Cộng hoà Congo (1960); Tiết Quang phục tại Hàn Quốc và ngày Giải phóng Tổ quốc tại Triều Tiên (1945); Lễ Đức Mẹ Lên Trời (Kitô giáo). Năm 636 – Chiến tranh Ả Rập-Đông La Mã: Đông La Mã và Rashidun bắt đầu giao chiến gần sông Yarmouk, kết quả là Rashidun sáp nhập Cận Đông. Năm 1248 – Lễ đặt viên đá đầu tiên xây dựng nhà thờ chính tòa Köln, công trình hoàn thành vào năm 1880. Năm 1914 – Kênh đào Panama (hình) bắt đầu cho phép tàu qua lại, rút ngắn hải trình giữa Đại Tây Dương và Thái Bình Dương thông qua eo đất Panama. Năm 1945 – Chiến tranh thế giới thứ hai: Thiên hoàng Hirohito tuyên bố Nhật Bản đầu hàng Đồng Minh.
Ấn Độ
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Cộng hoà Ấn Độ | |||||
---|---|---|---|---|---|
भारत गणराज्य (tiếng Hindi) Bhārat Ganarājya Republic of India (tiếng Anh) |
|||||
|
|||||
Khẩu hiệu | |||||
"Satyameva Jayate" (tiếng Phạn) "Truth Alone Triumphs" (tiếng Anh)[1] Chỉ có chân lý đắc thắng |
|||||
Quốc ca | |||||
Jana Gana Mana "Thou Art the Ruler of the Minds of All People" (tiếng Anh) [2] |
|||||
Hành chính | |||||
Chính phủ | Cộng hòa nghị viện liên bang | ||||
Tổng thống Thủ tướng |
Pranab Mukherjee Narendra Modi |
||||
Ngôn ngữ chính thức | |||||
Thủ đô | New Delhi |
||||
Thành phố lớn nhất | Mumbai | ||||
Địa lý | |||||
Diện tích | 3.287.590 km² (hạng 7) | ||||
Diện tích nước | 9,56% % | ||||
Múi giờ | IST (UTC+5:30) | ||||
Lịch sử | |||||
Độc lập từ Anh Quốc
|
|||||
15 tháng 8 năm 1947 | Nước tự trị | ||||
26 tháng 1 năm 1950 | Cộng hòa | ||||
Dân cư | |||||
Dân số ước lượng (2011) | 1.210.193.422[4] người (hạng 2) | ||||
Mật độ | 376,1 người/km² (hạng 31) | ||||
Kinh tế | |||||
GDP (PPP) (2013) | Tổng số: 4.962 tỷ Đô la Mỹ[5] | ||||
GDP (danh nghĩa) (2013) | Tổng số: 1.758 tỷ Đô la Mỹ[5] (hạng 10) Bình quân đầu người: 1.414 Đô la Mỹ[5] (hạng 146) |
||||
HDI (2012) | 0,554[6][7] trung bình (hạng 136) | ||||
Đơn vị tiền tệ | Rupee Ấn Độ (INR ) |
||||
Thông tin khác | |||||
Tên miền Internet | .in
tên miền khác[hiện]
|
Tiểu lục địa Ấn Độ là nơi xuất hiện văn minh lưu vực sông Ấn cổ đại, có các tuyến đường mậu dịch mang tính lịch sử cùng những đế quốc rộng lớn, và trở nên giàu có về thương mại và văn hóa trong hầu hết lịch sử lâu dài của mình.[8] Đây cũng là nơi bắt nguồn của bốn tôn giáo lớn: Ấn Độ giáo, Phật giáo, Jaina giáo và Sikh giáo; trong khi Do Thái giáo, Hỏa giáo, Cơ Đốc giáo và Hồi giáo được truyền đến vào thiên niên kỷ thứ nhất sau Công nguyên và cũng giúp hình thành nền văn hóa đa dạng của khu vực. Khu vực dần bị thôn tính và chuyển sang nằm dưới quyền quản lý của Công ty Đông Ấn Anh từ đầu thế kỷ 18, rồi nằm dưới quyền quản lý trực tiếp của Anh Quốc từ giữa thế kỷ 19. Ấn Độ trở thành một quốc gia độc lập vào năm 1947 sau một cuộc đấu tranh giành độc lập dưới hình thức đấu tranh bất bạo động do Mahatma Gandhi lãnh đạo.
Nền kinh tế Ấn Độ lớn thứ 11 thế giới xét theo GDP danh nghĩa và lớn thứ ba thế giới xét theo sức mua tương đương (PPP).[9] Sau các cải cách kinh tế dựa trên cơ sở thị trường vào năm 1991, Ấn Độ trở thành một trong số các nền kinh tế lớn có mức tăng trưởng nhanh nhất; và được nhận định là một nước công nghiệp mới. Tuy nhiên, quốc gia này vẫn tiếp tục phải đối diện với những thách thức từ nghèo đói, tham nhũng, kém dinh dưỡng, y tế công thiếu thốn, và chủ nghĩa khủng bố. Ấn Độ là một quốc gia vũ khí hạt nhân và là một cường quốc trong khu vực, có quân đội thường trực lớn thứ ba và xếp hạng tám về chi tiêu quân sự trên thế giới. Ấn Độ là một nước cộng hòa lập hiến liên bang theo thể chế nghị viện, gồm có 29 bang và 7 lãnh thổ liên bang. Ấn Độ là một xã hội đa nguyên, đa ngôn ngữ và đa dân tộc. Đây cũng là nơi có sự đa dạng về loài hoang dã trong nhiều khu vực được bảo vệ.
Mục lục
Từ nguyên
Thuật ngữ địa lý Bharat (भारत, phát âm [ˈbʱaːrət̪] ( )), được Hiến pháp Ấn Độ công nhận là một tên gọi chính thức của quốc gia, được sử dụng trong nhiều ngôn ngữ Ấn Độ với các biến thể.[10] Bharat bắt nguồn từ tên của Bharata, một nhân vật thần học được kinh thánh Ấn Độ giáo mô tả là một hoàng đế truyền thuyết của Ấn Độ cổ đại. Hindustan ([ɦɪnd̪ʊˈst̪aːn] ( )) có nguồn gốc từ một từ trong tiếng Ba Tư có nghĩa là "Vùng đất của người Hindu"; trước năm 1947, thuật ngữ này ám chỉ một khu vực bao trùm lên bắc bộ Ấn Độ và Pakistan. Nó đôi khi được sử dụng để biểu thị toàn bộ Ấn Độ.[11][12]Trong các thư tịch Trung Quốc, thời nhà Hán gọi khu vực là "Thân Độc" (身毒), hay "Thiên Trúc" (天竺). Tên gọi Ấn Độ (tiếng Trung: 印度; bính âm: Yìndù) xuất hiện lần đầu trong "Đại Đường Tây Vực ký" của cao tăng Huyền Trang đời nhà Đường.[13]
Tên gọi India bắt nguồn từ Indus, từ này lại bắt nguồn từ một từ tiếng Ba Tư cổ là Hinduš. Thân từ của thuật ngữ tiếng Ba Tư bắt nguồn từ tiếng Phạn Sindhu, là tên gọi bản địa có tính lịch sử của sông Ấn (Indus).[14] Người Hy Lạp cổ đại gọi người Ấn Độ là Indoi (Ινδοί), có thể dịch là "người của Indus".[15]
Lịch sử
Ấn Độ cổ đại
Người hiện đại về phương diện giải phẫu được cho là đến Nam Á từ 73-55.000 năm trở lại đây,[16] song các hài cốt được xác nhận của giống người này chỉ có niên đại sớm nhất là từ 30.000 năm trước.[17] Tại nhiều nơi trên tiểu lục địa Ấn Độ, người ta phát hiện được các di chỉ nghệ thuật trên đá gần cùng thời với thời đại đồ đá giữa, bao gồm các chỗ ở hang đá Bhimbetka tại Madhya Pradesh.[18] Khoảng năm 7000 TCN, các khu định cư thời đại đồ đá mới đầu tiên được biết đến đã xuất hiện trên tiểu lục địa, tại Mehrgarh và các di chỉ khác ở đông bộ Pakistan.[19] Chúng dần phát triển thành văn minh thung lũng sông Ấn,[20] là nền văn hóa đô thị đầu tiên tại Nam Á;[21] và phát triển hưng thịnh trong khoảng thời gian 2500–1900 TCN tại Pakistan và tây bộ Ấn Độ.[22] Nền văn minh này tập trung quanh các thành thị như Mohenjo-daro, Harappa, Dholavira, và Kalibangan, và dựa trên các hình thức sinh kế đa dạng, nền văn minh này có hoạt động sản xuất thủ công nghiệp mạnh cùng với mậu dịch trên phạm vi rộng.[21]Trong giai đoạn 2000–500 TCN, xét theo khía cạnh văn hóa, nhiều khu vực tại tiểu lục địa chuyển đổi từ thời đại đồ đồng đá sang thời đại đồ sắt.[23] Vệ-đà là những thánh kinh cổ nhất của Ấn Độ giáo,[24] chúng được soạn trong giai đoạn này,[25] và các nhà sử học phân tích chúng để thừa nhận về một nền văn hóa Vệ-đà ở vùng Punjab và phần thượng của đồng bằng sông Hằng.[23] Hầu hết các sử gia cũng nhận định trong giai đoạn này có một vài làn sóng người Ấn-Arya nhập cư đến tiểu lục địa từ phía tây-bắc.[26][24][27] Chế độ đẳng cấp xuất hiện trong giai đoạn này, tạo nên một hệ thống thứ bậc gồm các tăng lữ, quân nhân, nông dân tự do, tuy nhiên loại trừ người dân bản địa bằng cách gán cho công việc của họ là thứ ô uế.[28] Trên cao nguyên Deccan, bằng chứng khảo cổ từ thời kỳ này khẳng định sự tồn tại của tổ chức chính trị ở một giai đoạn tù bang.[23] Tại nam bộ Ấn Độ, một lượng lớn các bia kỷ niệm cự thạch có niên đại từ thời kỳ này cho thấy có một sự tiến triển lên cuộc sống định cư, ngoài ra còn có các dấu vết về nông nghiệp, bể tưới tiêu, và thủ công truyền thống nằm không xa đó.[29]
Vào cuối giai đoạn Vệ-đà, khoảng thế kỷ 5 TCN, các tù bang nhỏ ở đồng bằng sông Hằng và tây-bắc thống nhất thành 16 quả đầu quốc và quân chủ quốc lớn, chúng được gọi là các mahajanapada.[30][31] Đô thị hóa nổi lên và các tính chất chính thống trong thời kỳ này cũng hình thành nên các phong trào tôn giáo không chính thống, hai trong số đó trở thành các tôn giáo độc lập. Phật giáo dựa trên lời dạy của Tất-đạt-đa Cồ-đàm, thu hút các môn đồ từ tất cả các tầng lớp xã hội trừ tầng lớp trung lưu; ghi chép biên niên sử về cuộc đời của Phật là trung tâm trong việc khởi đầu lịch sử thành văn tại Ấn Độ.[32][33][34] Đạo Jaina nổi lên trong thời kỳ của người mô phạm của nó là Mahavira.[35] Tại một thời kỳ mà đô thị thêm phần thịnh vương, cả hai tôn giáo đều duy trì sự từ bỏ như một tư tưởng,[36] và cả hai đều hình thành các truyền thống tu viện lâu dài. Về mặt chính trị, vào thế kỷ 3 TCN, Vương quốc Magadha (Ma Kiệt Đà) sáp nhập hoặc chinh phục các quốc gia khác để rồi nổi lên thành Đế quốc Maurya (Khổng Tước).[30] Đế quốc Maurya từng kiểm soát hầu hết tiểu lục địa ngoại trừ vùng viễn nam, song các khu vực lõi của nó nay bị phân ly bởi các khu vực tự trị lớn.[37][38] Các quốc vương của Maurya được biết đến nhiều với việc xây dựng đế quốc và quản lý sinh hoạt công cộng một cách quả quyết, như Ashoka từ bỏ chủ nghĩa quân phiệt và ủng hộ rộng rãi "Phật pháp".[39][40]
Văn học Sangam viết bằng tiếng Tamil tiết lộ rằng vào giai đoạn từ 200 TCN đến 200 CN, nam bộ bán đảo nằm dưới quyền quản lý của các triều đại Chera, Chola, và Pandya, các triều đại này có quan hệ mậu dịch rộng rãi với Đế quốc La Mã cũng như với khu vực Tây và Đông Nam Á.[41][42] Ở bắc bộ Ấn Độ, Ấn Độ giáo khẳng định quyền kiểm soát phụ quyền trong gia đình, khiến phụ nữ tăng thêm tính lệ thuộc.[43][30] Đến thế kỷ 4 và 5, Đế quốc Gupta được hình thành tại đồng bằng sông Hằng với một phức hệ về hành pháp và phú thuế, trở thành hình mẫu cho các vương quốc sau này tại Ấn Độ.[44][45] Dưới chế độ Gupta, Ấn Độ giáo hồi phục dựa trên cơ sở lòng sùng đạo thay vì quản lý lễ nghi và bắt đầu khẳng định được mình.[46] Sự phục hồi của Ấn Độ giáo thể hiện qua việc nở rộ các công trình điêu khắc và kiến trúc, những thứ trở nên quen thuộc trong một giới tinh hoa đô thị.[45] Văn học tiếng Phạn cổ điển cũng nở rộ, và khoa học, thiên văn học, y học, toán học Ấn Độ có các tiến bộ đáng kể.[45]
Ấn Độ trung đại
Thời kỳ Ấn Độ trung đại đầu kéo dài từ năm 600 đến năm 1200, có đặc điểm là các vương quốc mang tính khu vực và đa dạng văn hóa.[47] Khi người cai trị phần lớn đồng bằng Ấn-Hằng từ 606 đến 647 là Hoàng đế Harsha cố gắng khoách trương về phía nam, ông chiến bại trước quân chủ của triều Chalukya ngự trị tại Deccan.[48] Khi người thừa tự của Harsha nỗ lực khoách trương về phía đông, ông ta chiến bại trước quân chủ của Pala ngự trị tại Bengal.[48] Khi triều Chalukya nỗ lực khoách trương về phía nam, họ chiến bại trước triều Pallava ở xa hơn về phía nam, triều Pallava lại đối đầu với triều Pandya và triều Chola ở xa hơn nữa về phía nam.[48] Không quân chủ nào trong giai đoạn này có thể thiết lập nên một đế quốc và kiểm soát liên tục các vùng đất nằm xa vùng lãnh thổ lõi của mình.[47] Trong thời kỳ này, các mục dân có đất đai bị phát quang để phát triển kinh tế nông nghiệp được thu nhận vào trong xã hội đẳng cấp, trở thành tầng lớp thống trị phi truyền thống mới.[49] Hệ thống đẳng cấp do đó bắt đầu thể hiện những khác biệt giữa các vùng.[49]Trong thế kỷ 6 và 7, các bài thánh ca cầu nguyện đầu tiên được sáng tác bằng tiếng Tamil.[50] Toàn Ấn Độ mô phỏng theo điều đó và khiến cho Ấn Độ giáo tái khởi, và toàn bộ các ngôn ngữ hiện đại trên tiểu lục địa có sự phát triển.[50] Các vương thất lớn nhỏ tại Ấn Độ cùng các đền thờ mà họ bảo trợ thu hút một lượng rất lớn các thần dân đến kinh thành, các kinh thành cũng trở thành những trung tâm kinh tế.[51] Các đô thị thánh đường với kính cỡ khác nhau bắt đầu xuất hiện khắp nơi khi Ấn Độ trải qua một quá trình đô thị hóa nữa.[51] Đến thế kỷ 8 và 9, các ảnh hưởng của Ấn Độ được nhận thấy tại Đông Nam Á, khi mà văn hóa và hệ thống chính trị Nam Á được truyền bá ra các vùng đất mà nay là một phần của Myanmar, Thái Lan, Lào, Campuchia, Việt Nam, Malaysia, và Java.[52] Các thương nhân, học giả, và đôi khi là quân nhân Ấn Độ tham gia vào sự truyền bá này; người Đông Nam Á cũng có sự chủ động, nhiều người lưu lại một thời gian trong các trường dòng Ấn Độ và dịch các văn bản Phật giáo và Ấn Độ giáo sang ngôn ngữ của họ.[52]
Các thị tộc du cư Trung Á sử dụng kỵ binh và có các đội quân đông đảo được thống nhất nhờ dân tộc và tôn giáo, sau thế kỷ 10 họ liên tiếp tràn qua các đồng bằng ở tây-bắc của Nam Á, cuối cùng hình thành nên Vương quốc Hồi giáo Delhi vào năm 1206.[53] Vương quốc này kiểm soát phần lớn bắc bộ Ấn Độ, tiến hành nhiều hoạt động đánh phá xuống nam bộ Ấn Độ. Mặc dù chính quyền Hồi giáo ban đầu phá vỡ giới tinh hoa Ấn Độ, song các thần dân phi Hồi giáo của vương quốc này phần lớn vẫn duy trì được luật lệ và phong tục riêng của họ.[54][55] Vương quốc Hồi giáo Delhi nhiều lần đẩy lui quân Mông Cổ trong thế kỷ 13, cứu nguy Ấn Độ khỏi cảnh tàn phá giống như ở Trung và Tây Á. Vương quốc trở thành nơi định cư của những quân nhân bỏ trốn, người có học, pháp sư, thương gia, nghệ sĩ, thợ thủ công từ khu vực Trung và Tây Á, tạo nên một nền văn hóa Ấn-Hồi hổ lốn ở bắc bộ Ấn Độ.[56][57] Các cuộc đột kích của Vương quốc Hồi giáo Delhi và sự suy yếu của các vương quốc khu vực ở nam bộ Ấn Độ tạo điều kiện cho Đế quốc Vijayanagara bản địa hình thành.[58] Đế quốc phương nam này theo một truyền thống Shiva giáo mạnh mẽ và xây dựng nên kỹ thuật quân sự vượt lên trên Vương quốc Hồi giáo Delhi, kiểm soát được phần nhiều Ấn Độ Bán đảo,[59] và có ảnh hưởng đến xã hội nam bộ Ấn Độ trong một thời gian dài sau đó.[58]
Ấn Độ cận đại
Đầu thế kỷ 16, bắc bộ Ấn Độ khi đó nằm dưới quyền cai trị của các quân chủ mà phần lớn theo Hồi giáo,[60] song một lần nữa lại sụp đổ trước tính linh động và hỏa lực vượt trội của một thế hệ các chiến binh Trung Á mới.[61] Đế quốc Mogul ra đời song không nghiền nát các xã hội địa phương, mà thay vào đó là cân bằng và bình định họ thông qua các thủ tục quản trị mới[62][63] cùng giới tinh hoa cầm quyền vốn có đặc điểm đa dạng và bao dung,[64] tạo ra một nền cai trị có hệ thống hơn, tập trung hóa và thống nhất.[65] Nhằm tránh xiềng xích bộ lạc và bản sắc Hồi giáo, đặc biệt là dưới thời Akbar, người Mogul đoàn kết đế chế rộng lớn của họ thông qua lòng trung thành đối với một hoàng đế có địa vị gần như thần thánh, biểu đạt một nền văn hóa Ba Tư hóa.[64] Các chính sách kinh tế quốc gia của Mogul, vốn có phần lớn nguồn thu đến từ nông nghiệp[66] và yêu cầu các khoản thuế phải trả theo tiền bạc được quản lý chặt,[67] khiến cho các nông dân và thợ thủ công tiến vào những thị trường lớn hơn.[65] Đế quốc giữ được tình hình tương đối hòa bình trong phần lớn thế kỷ 17, và đây là một yếu tố giúp mở rộng kinh tế Ấn Độ,[65] kết quả là sự bảo trợ lớn hơn đối với hội họa, các loại hình văn chương, dệt, và kiến trúc.[68] Các nhóm xã hội mới kết hợp tại bắc bộ và tây bộ Ấn Độ, như Maratha, Rajput, và Sikh, giành được tham vọng về quân sự và quản trị dưới chế độ Mogul, và thông qua cộng tác hoặc tai họa, họ thu được cả sự công nhận và kinh nghiệm quân sự.[69] Sự mở rộng thương mại dưới chế độ Mogul giúp cho giới tinh hoa thương mại và chính trị Ấn Độ mới dọc theo các bờ biển nam bộ và đông bộ nổi bật lên.[69] Khi đế quốc tan rã, nhiều người trong giới tinh hoa này có thể theo đuổi và kiểm soát được công việc của họ.[70]Đầu thế kỷ 18, khi mà ranh giới giữa thống trị thương mại và chính trị ngày càng bị lu mờ, một số công ty mậu dịch phương Tây, bao gồm Công ty Đông Ấn Anh, thiết lập nên các tiền đồn ven biển.[71][72] Công ty Đông Ấn Anh có quyền kiểm soát đối với các vùng biển, tiềm lực lớn hơn, có khả năng huấn luyện quân sự cùng công nghệ tiến bộ hơn, do vậy thu hút một bộ phận giới tinh hoa Ấn Độ. Nhờ đó, Công ty Đông Ấn Anh gặp thuận lợi trong việc giành quyền kiểm soát đối với vùng Bengal vào năm 1765 và gạt các công ty châu Âu khác ra ngoài lề.[73][71][74][75] Công ty Đông Ấn Anh tiếp tục tiếp cận được sự giàu có của Bengal, và sau khi tăng cường sức mạng và quy mô quân đội thì Công ty có năng lực thôn tính hoặc khuất phục hầu hết Ấn Độ vào thập niên 1820.[76] Ấn Độ sau đó không còn là nhà xuất khẩu hàng hóa chế tạo như một thời gian dài trước đó, mà trở thành một nơi cung cấp nguyên liệu cho Đế quốc Anh, và nhiều sử gia xem đây là lúc thời kỳ thực dân tại Ấn Độ bắt đầu.[71] Đương thời, do quyền lực kinh tế bị Nghị viện Anh Quốc tước bỏ một cách nghiêm trọng và do bản thân trên thực tế là một cánh tay nối dài của chính phủ Anh Quốc, Công ty Đông Ấn Anh bắt đầu có ý thức hơn trong việc tiến vào các hoạt động phi kinh tế như giáo dục, cải cách xã hội, và văn hóa.[77]
Ấn Độ hiện đại
Các sử gia xem thời kỳ hiện đại của Ấn Độ bắt đầu từ giai đoạn 1848-1885. Việc bổ nhiệm James Broun-Ramsay làm Toàn quyền của Công ty Đông Ấn Anh vào năm 1848 chuẩn bị cho những thay đổi cốt yếu đối với một quốc gia hiện đại. Chúng bao gồm củng cố và phân ranh giới chủ quyền, sự giám sát của người dân, và giáo dục cho công dân. Các biến đổi về công nghệ như đường sắt, kênh đào, và điện báo được đưa đến Ấn Độ không lâu sau khi chúng được giới thiệu tại châu Âu.[78][79][80][81] Tuy nhiên, sự bất mãn đối với Công ty cũng tăng lên trong thời kỳ này, và Khởi nghĩa Ấn Độ 1857 bùng nổ. Cuộc khởi nghĩa bắt nguồn từ những oán giận và nhận thức đa dạng, bao gồm cải cách xã hội kiểu Anh, thuế đất khắc nghiệt, và đối đãi tồi của một số địa chủ giàu có và phiên vương, nó làm rung chuyển nhiều khu vực ở bắc bộ và trung bộ Ấn Độ và làm lung lay nền móng của Công ty Đông Ấn Anh.[82][83] Mặc dù cuộc khởi nghĩa bị đàn áp vào năm 1858, song nó khiến cho Công ty Đông Ấn Anh giải thể và chính phủ Anh Quốc từ đó trực tiếp quản lý Ấn Độ. Những người cai trị mới công bố một nhà nước nhất thể và một hệ thống nghị viện từng bước theo kiểu Anh song có hạn chế, nhưng họ cũng bảo hộ các phó vương và quý tộc địa chủ nhằm tạo ra một thế lực hộ vệ phong kiến để chống lại bất ổn trong tương lai.[84][85] Trong các thập niên sau đó, hoạt động quần chúng dần nổi lên trên khắp Ấn Độ, cuối cùng dẫn đến việc thành lập Đảng Quốc đại Ấn Độ vào năm 1885.[86][87][88][89]Sự phát triển nhanh chóng của kỹ thuật cùng với thương mại hóa nông nghiệp trong nửa sau thế kỷ 19 gây nên các khó khăn kinh tế: nhiều nông dân nhỏ trở nên phụ thuộc vào các nhu cầu của các thị trường xa xôi.[90] Số lượng nạn đói quy mô lớn gia tăng,[91] và có ít công việc công nghiệp được trao cho người Ấn Độ.[92] Tuy nhiên, nó cũng có những tác động tích cực: trồng trọt mang tính thương mại, đặc biệt là ở vùng Punjab mới được khơi kênh, khiến sản lượng lương thực dành cho tiêu dùng nội địa gia tăng.[93] Hệ thống đường sắt giúp cung cấp đồ cứu tế đến những nơi bị nạn đói nguy cấp,[94] giảm đáng kể chi phí vận chuyển hàng hóa,[94] và giúp ích cho ngành công nghiệp non trẻ của Ấn Độ.[93] Có khoảng một triệu người Ấn Độ phục vụ cho Anh Quốc trong Chiến tranh thế giới thứ nhất,[95] và sau cuộc chiến này là một thời kỳ mới. Thời kỳ này mang dấu ấn với các cải cách của Anh Quốc song cũng có các áp chế về luật pháp, với việc người Ấn Độ mãnh liệt hơn trong việc yêu cầu quyền tự trị, và với việc bắt đầu một phong trào bất bạo động bất hợp tác - trong đó Mohandas Karamchand Gandhi trở thành lãnh tụ và biểu tượng.[96] Trong thập niên 1930, Anh Quốc ban hành các cải cách lập pháp một cách chậm chạp; Đảng Quốc đại Ấn Độ giành chiến thắng trong các cuộc bầu cử.[97] Thập niên tiếp theo chìm trong các cuộc khủng hoảng: Ấn Độ tham gia vào Chiến tranh thế giới thứ hai, Đảng Quốc đại kiên quyết bất hợp tác, và một đợt bột phát chủ nghĩa dân tộc Hồi giáo. Tất cả đều bị ngăn lại với việc Ấn Độ giành được độc lập vào năm 1947, song bị kiềm chế do thuộc địa này phân chia thành hai quốc gia: Ấn Độ và Pakistan.[98]
Để khẳng định hình ảnh là một quốc gia độc lập, hiến pháp Ấn Độ được hoàn thành vào năm 1950, xác định Ấn Độ là một nền cộng hòa thế tục và dân chủ.[99] Trong 60 năm kể từ đó, Ấn Độ trải qua cả những thành công và thất bại.[100] Đất nước này vẫn duy trì một chế độ dân chủ với các quyền tự do dân sự, một Tòa án tối cao hoạt động tích cực, và một nền báo chí độc lập ở mức độ lớn.[100] Tự do hóa kinh tế bắt đầu từ thập niên 1990, và tạo ra một tầng lớp trung lưu thành thị có quy mô lớn, biến Ấn Độ thành một trong những nền kinh tế phát triển nhanh nhất thế giới,[101] và tăng cường ảnh hưởng địa chính trị của mình. Phim, âm nhạc, và giảng đạo của Ấn Độ đóng một vai trò ngày càng lớn trong văn hóa toàn cầu.[100] Tuy nhiên, Ấn Độ phải đương đầu với các vấn đề như nghèo nàn ở cả thành thị lẫn nông thôn;[100] từ xung đột liên quan đến tôn giáo và đẳng cấp;[102] từ quân nổi dậy Naxalite được truyền cảm hứng từ tư tưởng Mao Trạch Đông;[103] từ chủ nghĩa ly khai tại Jammu và Kashmir và tại Đông Bắc.[104] Có tranh chấp lãnh thổ chưa được giải quyết với Trung Quốc, từng leo thang thành Chiến tranh Trung-Ấn vào năm 1962;[105] và các cuộc chiến tranh biên giới với Pakistan bùng phát vào các năm 1947, 1965, 1971, và 1999.[105] Sự đối đầu hạt nhân Ấn Độ–Pakistan lên đến đỉnh vào năm 1998.[106]
Địa lý
Ấn Độ bao trùm phần lớn tiểu lục địa Ấn Độ và nằm trên đỉnh của mảng kiến tạo Ấn Độ- một phần của mảng Ấn-Úc.[107] Các quá trình địa chất học xác định được của Ấn Độ bắt đầu từ 75 triệu năm trước, khi đó tiểu lục địa Ấn Độ một bộ phận của siêu lục địa phương nam Gondwana và bắt đầu trôi giạt về phía đông-bắc qua Ấn Độ Dương (khi đó còn chưa thành hình) kéo dài trong 50 triệu năm.[107] tiểu lục địa sau đó va chạm và hút chìm bên dưới mảng Á-Âu đẩy lên cao dãy Himalaya có độ cao lớn nhất hành tinh. Dãy Himalaya hiện tiếp giáp với Ấn Độ ở phía Bắc và Đông-Bắc.[107] Tại đáy biển cũ nằm ngay phía nam dãy Himalaya, kiến tạo mảng hình thành nên một máng rộng lớn để rồi dần bị trầm tích từ sông bồi lấp;[108] hình thành nên đồng bằng Ấn-Hằng hiện nay.[109] Ở phía tây có hoang mạc Thar, dãy núi cổ Aravalli chia cắt hoang mạc này với đồng bằng Ấn-Hằng.[110]Mảng Ấn Độ gốc còn lại hiện là phần Ấn Độ bán đảo, đây là phần cổ nhất và có địa chất ổn định nhất của Ấn Độ; viễn bắc của phần này là các dãy Satpura và Vindhya tại trung bộ Ấn Độ. Hai dãy song song này chạy từ bờ biển Ả Rập thuộc bang Gujarat ở phía tây đến cao nguyên Chota Nagpur có nhiều than thuộc bang Jharkhand ở phía đông.[111] Ở phía nam, ở hai bên sườn tây và đông của cao nguyên Deccan là các dãy núi ven biển được gọi là Ghat Tây và Ghat Đông;[112] cao nguyên có các thành hệ đá cổ nhất của quốc gia, một vài trong số đó có trên 1 tỷ năm tuổi. Ấn Độ nằm ở bắc Xích đạo, từ 6°44' đến 35°30' vĩ Bắc (37°6' nếu tính cả vùng tuyên bố chủ quyền tại Kashmir) và từ 68°7' đến 97°25' kinh Đông.[113]
Ấn Độ có đường bờ biển dài 7.517 kilômét (4.700 mi); trong đó, 5.423 kilômét (3.400 mi) thuộc Ấn Độ bán đảo và 2.094 kilômét (1.300 mi) thuộc các dãy đảo Andaman, Nicobar, và Lakshadweep.[114] Theo biểu đồ thủy văn học của Hải quân Ấn Độ, bờ biển lục địa của quốc gia gồm: 43% là bãi biển cát; 11% là bờ đá, gồm cả vách đá; và 46% là bãi bùn hay bãi lầy.[114]
Các sông lớn bắt nguồn từ dãy Himalaya về căn bản chảy qua lãnh thổ Ấn Độ gồm có sông Hằng và Brahmaputra, cả hai đều đổ nước vào vịnh Bengal.[115] Các chi lưu quan trọng của sông Hằng bao gồm Yamuna và Kosi; độ dốc quá nhỏ của sông Kosi thường dẫn đến các trận lụt nghiêm trọng và thay đổi dòng chảy.[116] Các sông chính ở phần bán đảo có độ dốc lớn hơn nên giúp ngăn ngừa nạn lụt, gồm có Godavari, Mahanadi, Kaveri, và Krishna, chúng đều đổ nước vào vịnh Bengal;[117] trong khi Narmada và Tapti đổ nước vào biển Ả Rập.[118] Các địa điểm đặc biệt của vùng ven biển Ấn Độ là đồng lầy nước mặn Kutch ở tây bộ Ấn Độ và đồng bằng phù sa Sundarbans (chia sẻ với Bangladesh) ở đông bộ Ấn Độ.[119] Ấn Độ có hai quần đảo lớn: Lakshadweep, gồm các đảo san hô vòng ở ngoài khơi bờ biển tây-nam Ấn Độ; còn Quần đảo Andaman và Nicobar là một dãy núi lửa trên biển Andaman.[120]
Khí hậu Ấn Độ chịu ảnh hưởng mạnh từ dãy Himalaya và hoang mạc Thar, các cơn gió mùa vào mùa hè và mùa đông có sự tác động từ hai nơi này và mang ý nghĩa quan trọng về kinh tế và văn hóa.[121] Himalaya ngăn gió hạ giáng lạnh từ Trung Á thổi xuống, giữ cho phần lớn tiểu lục địa Ấn Độ ấm hơn so với những nơi khác cùng vĩ độ.[122][123] Hoang mạc Thar đóng một vai trò quyết định trong việc hút gió mùa mùa hè tây-nam chứa nhiều hơi ẩm từ tháng 6 đến tháng 10, cung cấp phần lớn lượng mưa của Ấn Độ.[121] Bốn nhóm khí hậu lớn chi phối tại Ấn Độ: nhiệt đớt mưa, nhiệt đới khô, cận nhiệt đới ẩm, núi cao.[124]
Môi trường
Tại Ấn Độ, các vấn đề chủ yếu về môi trường bao gồm suy thoái rừng và suy thoái đất nông nghiệp; cạn kệt tài nguyên nước, khoáng sản, rừng, cát và đá; suy thoái môi trường; các vấn đề về y tế công; mất đa dạng sinh học; các hệ sinh thái mất khả năng phục hồi và an ninh sinh kế cho người nghèo.[125] Tuy nhiên, theo các dữ liêu thu thập được và nghiên cứu tác động môi trường của các chuyên gia Ngân hàng Thế giới, từ năm 1995 đến năm 2010, Ấn Độ là một trong những nước có sự tiến bộ nhanh nhất thế giới trong việc giải quyết các vấn đề môi trường và cải thiện chất lượng môi trường.[126][127]Đa dạng sinh học
Ấn Độ nằm trong vùng sinh thái Indomalaya và gồm có ba điểm nóng đa dạng sinh học.[128] Ấn Độ là một trong 17 quốc gia đa dạng sinh vật siêu cấp, có 8,6% tổng số loài thú, 13,7% tổng số loài chim, 7,9% tổng số loài bò sát, 6% tổng số loài lưỡng cư, 12,2% tổng số loài cá, và 6,0% tổng số loài thực vật có hoa.[129][130] Ấn Độ có nhiều loài đặc hữu, chiếm tỷ lệ 33%, và nằm tại các vùng sinh thái như rừng shola.[131] Môi trường sống trải dài từ rừng mưa nhiệt đới của quần đảo Andaman, Ghat Tây, và Đông Bắc đến rừng tùng bách trên dãy Himalaya. Giữa chúng là rừng sala sớm rụng ẩm ở đông bộ Ấn Độ; rừng tếch sớm rụng khô ở trung bộ và nam bộ Ấn Độ; và rừng gai do keo Ả Rập thống trị nằm ở trung bộ Deccan và tây bộ đồng bằng sông Hằng.[132] Dưới 12% đất đai của Ấn Độ có rừng rậm bao phủ.[133] Sầu đâu là một loài cây quan trọng tại Ấn Độ, được sử dụng rộng rãi trong thảo dược nông thôn Ấn Độ. Cây đề xuất hiện trên các ấn ở di chỉ Mohenjo-daro, Đức Phật giác ngộ dưới gốc của loài cây này.Nhiều loài tại Ấn Độ bắt nguồn từ các taxon có nguồn gốc từ Gondwana- nơi mà mảng Ấn Độ tách ra từ hơn 106 triệu năm trước.[134] Ấn Độ bán đảo sau đó di chuyển đến và va chạm với siêu lục địa Laurasia và khởi đầu sự trao đổi loài trên quy mô lớn. Việc khởi đầu kỷ nguyên núi lửa và thay đổi khí hậu vào 20 triệu năm trước dẫn đến tuyệt chủng hàng loạt.[135] Các loài thú sau đó tiến vào Ấn Độ từ châu Á thông qua hai hành lang động vật địa lý học đi vòng qua sườn dãy Himalaya đang nổi lên.[132] Do đó, trong khi 45,8% số loài bò sát và 55,8% số loài lưỡng cư là đặc hữu, thì chỉ có 12,6% số loài thú và 4,5% số loài chim là đặc hữu.[130] Ấn Độ có 172 loài động vật bị đe dọa theo chỉ định của IUCN, hay 2,9% số loài gặp nguy hiểm.[136]
Việc loài người tràn ngập và tàn phá sinh thái trong những thập niên gần dây khiến các loài hoang dã gặp nguy hiểm cực kỳ lớn. Hệ thống các vườn quốc gia và khu bảo tồn khởi đầu từ năm 1935, và sau đó được mở rộng về căn bản. Năm 1972, Ấn Độ ban hành Luật bảo vệ loài hoang dã[137] và Dự án Hổ để bảo vệ những vùng hoang vu cốt yếu; Đạo luật Bảo tồn rừng được ban hành vào năm 1980 và sửa đổi bổ sung vào năm 1988.[138] Ấn Độ có hơn 500 khu bảo tồn loài hoang dã và 13 khu dự trữ sinh quyển,[139] bốn trong số đó là một phần của Hệ thống khu dự trữ sinh quyển thế giới; 25 khu đất ngập nước được đăng ký nằm dưới Công ước Ramsar.[140]
Chính trị
Ấn Độ được xem là nền dân chủ đông dân nhất trên thế giới.[141] Đây là một nước cộng hòa nghị viện với một hệ thống đa đảng,[142] có sáu chính đảng cấp quốc gia được công nhận, bao gồm Đảng Quốc đại Ấn Độ và Đảng Bharatiya Janata (Đảng Nhân dân Ấn Độ), và trên 40 chính đảng cấp địa phương.[143] Đảng Quốc đại được nhận định là có tư tưởng trung-tả hay là "tự do" trong văn hóa chính trị Ấn Độ, còn Đảng Bharatiya Janata có tư tưởng trung-hữu hay là "bảo thủ". Trong hầu hết giai đoạn từ 1950 — tức khi Ấn Độ lần đầu tiên trở thành một nước cộng hòa — đến cuối thập niên 1980, Đảng Quốc đại nắm giữ đa số ghế trong Quốc hội. Tuy nhiên, kể từ đó, Đảng Quốc đại ngày càng chia sẻ nhiều hơn vũ đài chính trị với Đảng Bharatiya Janata,[144] cũng như với các chính đảng cấp địa phương mạnh khác trong các một liên minh đa đảng.[145]Trong ba cuộc tổng tuyển cử đầu tiên tại nước Cộng hòa Ấn Độ, tức vào các năm 1951, 1957, và 1962, Đảng Quốc đại do Jawaharlal Nehru lãnh đạo đã dễ dàng giành chiến thắng. Khi Jawaharlal Nehru qua đời vào năm 1964, Lal Bahadur Shastri trở thành thủ tướng trong một thời gian ngắn; người kế vị sau khi Lal Bahadur Shastri qua đời năm 1966 là Indira Gandhi, người này lãnh đạo Đảng Quốc đại giành chiến thắng trong cuộc bầu cử năm 1967 và 1971. Sau khi quần chúng bất mãn vì tình trạng khẩn cấp mà bà tuyên bố vào năm 1975, Đảng Quốc đại thất cử vào năm 1977; đa số cử tri khi đó bỏ phiếu cho Đảng Janata mới thành lập và phản đối tình trạng khẩn cấp. Chính phủ của Đảng Janata kéo dài hơn ba năm. Đảng Quốc đại lại được bầu lên nắm quyền vào năm 1980, và trải qua thay đổi trong hàng ngũ lãnh đạo vào năm 1984 khi Indira Gandhi bị ám sát; kế nhiệm bà là người con trai Rajiv Gandhi, người này dễ dàng giành chiến thắng trong cuộc tổng tuyển cử cùng năm đó. Đảng Quốc đại lại thất cử vào năm 1989 trước một liên minh Mặt trận Quốc gia, lãnh đạo liên minh này là Đảng Janata Dal mới thành lập và liên minh với Mặt trận Cánh tả; chính phủ của liên minh này tồn tại chưa đầy hai năm.[146] Các cuộc bầu cử lại được tổ chức vào năm 1991; lần này không đảng nào giành được đa số tuyệt đối. Tuy nhiên, Đảng Quốc đại có thể thành lập nên một chính phủ thiểu số do P. V. Narasimha Rao lãnh đạo với địa vị là đảng đơn lẻ lớn nhất.[147]
Sau cuộc tổng tuyển cử năm 1996 là hai năm bất ổn chính trị, một vài liên minh đoản mệnh chia sẻ quyền lực. Đảng Bharatiya Janata lập nên một chính phủ tồn tại một thời gian ngắn trong năm 1996; sau đó là hai chính phủ do liên minh Mặt trận Thống nhất thành lập. Năm 1998, Đảng Bharatiya Janata có thể thành lập nên một liên minh thắng lợi là Liên minh Dân chủ Quốc gia do Atal Bihari Vajpayee lãnh đạo. Chính phủ Liên minh Dân chủ Quốc gia trở thành chính phủ phi Quốc đại, chính phủ liên minh đầu tiên hoàn tất nhiệm kỳ 5 năm.[148] Trong cuộc tổng tuyển cử năm 2004, một lần nữa không có đảng nào giành đa số tuyệt đối, song lần này Đảng Quốc đại nổi lên với địa vị là đảng đơn lẻ lớn nhất, họ thành lập một liên minh thắng lợi là Liên minh Cấp tiến Quốc gia (UPA). Liên minh nhận được sự ủng hộ của các đảng tả khuynh và các thành viên quốc hội phản đối Đảng Bharatiya Janata. Liên minh Cấp tiến Quốc gia trở lại nắm quyền sau cuộc tổng tuyển cử năm 2009 với số ghế cao hơn, và không còn cần phải có sự ủng hộ từ các đảng cộng sản tại Ấn Độ.[149] Năm đó, Manmohan Singh trở thành thủ tướng đầu tiên được tái cử cho một nhiệm kỳ 5 năm liên tiếp kể từ thời Jawaharlal Nehru.[150] Trong tổng tuyển cử năm 2014, đảng Bharatiya Janata trở thành chính đảng đầu tiên kể từ năm 1984 giành được đa số ghế và có thể cầm quyền mà không cần sự ủng hộ từ các chính đảng khác.[151]
Chính phủ
Ấn Độ là một liên bang với một hệ thống nghị viện nằm dưới sự khống chế của Hiến pháp Ấn Độ. Đây là một nước cộng hòa lập hiến với chế độ dân chủ đại nghị, trong đó "quyền lực đa số bị kiềm chế bởi các quyền thiểu số được bảo vệ theo pháp luật". Chế độ liên bang tại Ấn Độ xác định rõ sự phân chia quyền lực giữa chính phủ liên bang và các bang. Chính phủ tuân theo sự kiểm tra và cân bằng của Hiến pháp. Hiến pháp Ấn Độ có hiệu lực vào ngày 26 tháng 1 năm 1950,[152] trong lời mở đầu của nó có viết rằng Ấn Độ là một nước cộng hòa có chủ quyền, xã hội, thế tục, dân chủ.[153] Mô hình chính phủ của Ấn Độ theo truyền thống được mô tả là "bán liên bang" do trung ương mạnh và các bang yếu,[154] song kể từ cuối thập niên 1990 thì Ấn Độ đã phát triển tính liên bang hơn nữa do kết quả của các thay đổi về chính trị, kinh tế và xã hội.[155][156]Quốc kỳ | Tam sắc |
Quốc huy | Sư kinh Sarnath |
Quốc ca | Jana Gana Mana |
Bài hát | Vande Mataram |
Quốc lịch | Saka |
Quốc hí | không tuyên bố[157] |
Quốc hoa | sen hồng |
Quốc quả | xoài |
Quốc thụ | đa |
Quốc điểu | công Ấn Độ |
Động vật lục địa | hổ Bengal |
Động vật thủy sinh | cá heo sông |
Quốc hà | Hằng (Ganga) |
- Hành pháp: Tổng thống Ấn Độ là nguyên thủ quốc gia[158] và được một đại cử tri đoàn quốc gia bầu gián tiếp[159] với một nhiệm kỷ 5 năm.[160] Thủ tướng Ấn Độ đứng đầu chính phủ và thi hành hầu hết quyền lực hành pháp.[161] Thủ tướng do tổng thống bổ nhiệm,[162] và theo quy ước là người được chính đảng hoặc liên minh đảng phải nắm giữ đa số ghế trong hạ viện ủng hộ.[161] Nhánh hành pháp của chính phủ Ấn Độ gồm có tổng thống, phó tổng thống, và Hội đồng Bộ trưởng do thủ tướng đứng đầu. Người được bổ nhiệm làm bộ trưởng phải là một thành viên trong các viện của quốc hội.[158] Trong hệ thống quốc hội Ấn Độ, hành pháp lệ thuộc lập pháp; thủ tướng và hội đồng Bộ trưởng chịu trách nhiệm trực tiếp trước hạ viện của quốc hội.[163]
- Lập pháp: Cơ quan lập pháp của Ấn Độ là lưỡng viện quốc hội. Quốc hội Ấn Độ hoạt động theo một hệ thống kiểu Westminster và gồm có thượng viện được gọi là Rajya Sabha ("Hội đồng các bang") và hạ viện được gọi là Lok Sabha ("Viện Nhân dân").[164] Rajya Sabha là một thể chế thường trực gồm có 245 thành viên phục vụ trong nhiệm kỳ 6 năm được đặt so le.[165] Hầu hết họ được bầu gián tiếp từ các cơ quan lập pháp bang và lãnh thổ và số lượng tương ứng với tỷ lệ dân số của bang so với dân số quốc gia.[162] 543 thành viên của Lok Sabha được bầu trực tiếp theo thể chế phổ thông đầu phiếu; họ đại diện cho các khu vực bầu cử riêng rẽ trong nhiệm kỳ 5 năm.[166] Hai thành viên còn lại của Lok Sabha do tổng thống chỉ định từ cộng đồng người Anh-Ấn, trong trường hợp tổng thống quyết định rằng cộng đồng này không được đại diện tương xứng.[167]
- Tư pháp: Ấn Độ có bộ máy tư pháp độc lập gồm ba cấp nhất thể,[168] gồm: Tòa án Tối cao do Chánh án đứng đầu, 25 tòa thượng thẩm, và một lượng lớn tòa án sơ thẩm.[168] Toà án Tối cao có thẩm quyền ban đầu đối với các vụ án liên quan đến các quyền cơ bản và tranh chấp giữa các bang và Trung ương; nó có quyền chống án đối với các tòa án thượng thẩm.[169] Nó có quyền công bố luật và vô hiệu hóa các luật liên bang hay bang mà trái với hiến pháp.[170] Tòa án Tối cao cũng là cơ quan diễn giải cuối cùng của hiến pháp.[171]
Phân vùng
Các bang
Quan hệ ngoại giao và quân sự
Kể từ khi độc lập vào năm 1947, Ấn Độ duy trì các quan hệ thân mật với hầu hết các quốc gia. Trong thập niên 1950, Ấn Độ ủng hộ mạnh mẽ quá trình phi thực dân hóa tại châu Phi và châu Á, đóng một vai trò lãnh đạo trong Phong trào Không liên kết.[174] Vào cuối thập niên 1980, quân đội Ấn Độ can thiệp ra nước ngoài theo lời mời của các quốc gia láng giềng: một hoạt động gìn giữ hòa bình tại Sri Lanka từ năm 1987 đếm năm 1990; và một cuộc can thiệp vũ trang để ngăn chặn một nỗ lực đảo chính tại Maldives. Ấn Độ có các mối quan hệ căng thẳng với Pakistan; hai quốc gia từng bốn lần tiến tới chiến tranh vào các năm 1947, 1965, 1971 và 1999. Ba trong số bốn cuộc chiến diễn ra trên lãnh thổ tranh chấp Kashmir, còn cuộc chiến năm 1971 diễn ra sau khi Ấn Độ ủng hộ nền độc lập cho Bangladesh.[175] Sau khi tiến hành chiến tranh với Trung Quốc vào năm 1962 và với Pakistan vào năm 1965, Ấn Độ theo đuổi các mối quan hệ quân sự và kinh tế gần gũi với Liên Xô; Liên Xô là nước cung ứng vũ khí lớn nhất cho Ấn Độ vào cuối thập niên 1960.[176]Ngoài việc tiếp tục mối quan hệ chiến lược với Nga, Ấn Độ có quan hệ quân sự ở phạm vi rộng với Israel và Pháp. Trong những năm gần đây, quốc gia này đóng vai trò then chốt trong Hiệp hội Nam Á vì sự Hợp tác Khu vực và Tổ chức Thương mại Thế giới. Ấn Độ cung cấp 100.000 nhân viên quân sự và cảnh sát để phục vụ trong 35 hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên Hiệp Quốc. Ấn Độ tham gia vào Hội nghị cấp cao Đông Á, G8+5, và nhiều diễn đàn đa phương khác.[177] Ấn Độ có các mối quan hệ kinh tế gần gũi với các khu vực Nam Mỹ, châu Á, và châu Phi; theo đuổi một chính sách "Hướng Đông" mà theo đó mưu cầu tăng cường quan hệ đối tác với các quốc gia ASEAN, Nhật Bản, và Hàn Quốc xoay quanh nhiều vấn đề, song đặc biệt là các vấn đề liên quan đến đầu tư kinh tế và an ninh khu vực.[178][179]
Sau khi Trung Quốc tiến hành vụ thử nghiệm hạt nhân vào năm 1964, và liên tục hăm dọa can thiệp hỗ trợ Pakistan trong cuộc chiến năm 1965, Ấn Độ tin rằng cần phải phát triển vũ khí hạt nhân.[180] Ấn Độ tiến hành vụ thử nghiệm vũ khí hạt nhân đầu tiên của mình vào năm 1974 và tiếp tục tiến hành vụ thử nghiệm dưới lòng đất vào năm 1998. Bất chấp các chỉ trích và trừng phạt quân sự, Ấn Độ không ký kết cả Hiệp ước cấm thử hạt nhân toàn diện và Hiệp ước không phổ biến vũ khí hạt nhân, cho rằng chúng thiếu sót và phân biệt đối xử.[181] Ấn Độ duy trì chính sách hạt nhân "không sử dụng trước tiên" và phát triển năng lực bộ ba hạt nhân như một phần của học thuyết "răn đe tối thiểu đáng tin cậy" của mình.[182][183] Ấn Độ phát triển một hệ thống phòng thủ tên lửa đạn đạo, và hợp tác với Nga nhằm phát triển một loại máy bay chiến đấu thế hệ thứ năm.[184] Các dự án quân sự bản địa khác liên quan đến việc thiết kế và bổ sung hàng không mẫu hạm lớp Vikrant và tàu ngầm hạt nhân lớp Arihant.[184]
Sau khi kết thúc Chiến tranh Lạnh, Ấn Độ tăng cường hợp tác về kinh tế, chiến lược và quân sự với Hoa Kỳ và Liên minh châu Âu.[185] Năm 2008, Hoa Kỳ và Ấn Độ ký kết một thỏa thuận hạt nhân dân sự. Mặc dù đương thời Ấn Độ là quốc gia sở hữu vũ khí hạt nhân và không phải là một bên của Hiệp ước không phổ biến vũ khí hạt nhân, song quốc gia này nhận được miễn trừ từ Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế và Nhóm các nhà cung cấp hạt nhân, Ấn Độ do vậy thoát khỏi các hạn chế trước đây đối với công nghệ và thương mại hạt nhân. Như một hệ quả, Ấn Độ trở thành quốc gia thứ sáu sở hữu vũ khí hạt nhân trên thực tế.[186] Ấn Độ sau đó ký kết các thỏa thuận hợp tác liên quan đến năng lượng hạt nhân dân sự với Nga,[187] Pháp,[188] Anh Quốc,[189] và Canada.[190]
Tổng thống Ấn Độ là thống soái tối cao của lực lượng vũ trang quốc gia; với 1,6 triệu quân tại ngũ và xếp thứ ba thế giới trên tiêu chí này.[191] Quân đội Ấn Độ gồm có lục quân, hải quân, và không quân; các tổ chức phụ trợ gồm có Bộ tư lệnh chiến lược (Strategic Forces Command) và ba nhóm bán quân sự: Đội quân súng trường Assam, Lực lượng biên cảnh đặc chủng, và Lực lượng bảo vệ bờ biển Ấn Độ.[192] Ngân sách quốc phòng chính thức của Ấn Độ vào năm 2011 là 36,03 tỷ đô la Mỹ, chiếm 1,83% GDP.[193] Đối với năm tài chính 2012–2013, ngân sách dự thảo là 40,44 tỷ đô la Mỹ.[194] Theo một báo cáo của SIPRI năm 2008, phí tổn quân sự hàng năm của Ấn Độ dựa theo sức mua đứng ở mức 72,7 tỷ đô la Mỹ,[195] Năm 2011, ngân sách quốc phòng hàng năm tăng 11,6%,[196] song đây chưa bao gồm các ngân quỹ đến với quân đội thông qua các nhánh khác của chính phủ.[197] Năm 2012, Ấn Độ là nước nhập khẩu vũ khí lớn nhất thế giới; từ năm 2007 đến năm 2011, tiền mua vũ khí của Ấn Độ chiếm 10% tổng phí tổn giành cho mua sắm vũ khí quốc tế.[198] Phần lớn chi tiêu quân sự tập trung vào phòng thủ chống Pakistan và chống lại ảnh hưởng ngày càng gia tăng của Trung Quốc tại Ấn Độ Dương.[196]
Kinh tế
Ấn Độ có lực lượng lao động gồm 486,6 triệu người theo số liệu năm 2011.[192] Lĩnh vực dịch vụ chiếm 55,6% GDP, lĩnh vực công nghiệp chiếm 26,3% và lĩnh vực nông nghiệp chiếm 18,1%. Các nông sản chính của Ấn Độ là lúa gạo, lúa mì, hạt có dầu, bông, đay, chè, mía, và khoai tây.[172] Các ngành công nghiệp chính của Ấn Độ là dệt, viễn thông, hóa chất, dược phẩm, công nghệ sinh học, chế biến thực phẩm, thép, thiết bị vận tải, xi măng, khai mỏ, dầu mỏ, máy móc, và phần mềm.[172] Năm 2008, Ấn Độ chiếm 1,68% giá trị ngoại thương toàn cầu;[206] Năm 2011, Ấn Độ là nước nhập khẩu lớn thứ 10 và nước xuất khẩu lớn thứ 19 trên thế giới.[207] Các mặt hàng xuất khẩu chính của Ấn Độ bao gồm các sản phẩm dầu mỏ, hàng dệt may, đồ kim hoàn, phần mềm, sản phẩm công nghệ, hóa chất, và gia công đồ da thuộc.[172] Các mặt hàng nhập khẩu chính gồm dầu, máy móc, ngọc, đá quý, phân bón, và hóa chất.[172] Từ năm 2001 đến năm 2011, đóng góp của các mặt hàng hóa dầu và công nghệ vào giá trị xuất khẩu tăng từ 14% lên 42%.[208]
Mức lương theo giờ tại Ấn Độ tăng gấp đôi trong thập niên đầu của thế kỷ 21.[209] Khoảng 431 triệu người Ấn Độ thoát nghèo kể từ năm 1985; các tầng lớp trung lưu của Ấn Độ được dự tính sẽ đạt khoảng 580 triệu người vào năm 2030.[210]
Năm 2010, Ấn Độ xếp hạng 51 về năng lực cạnh tranh toàn cầu, xếp hạng 7 về trình độ phát triển của thị trường tài chính, xếp hạng 24 về lĩnh vực ngân hàng, xếp hạng 44 về trình độ phát triển trong kinh doanh và xếp thứ 39 về cách tân, đứng trước một số nền kinh tế tiến bộ.[211] Năm 2009, 7 trong số 15 công ty gia công phần mềm hàng đầu thế giới đặt tại Ấn Độ, do vậy đất nước này được nhìn nhận là nơi gia công phần mềm thuận lợi thứ hai sau Hoa Kỳ.[212] Thị trường tiêu dùng của Ấn Độ hiện lớn thứ 11 thế giới, và dự kiến sẽ lên vị trí thứ 5 vào năm 2030.[210] Đến cuối tháng 5 năm 2012, Ấn Độ có 960,9 triệu thuê bao điện thoại,[213] và sau quý đầu tiên của năm 2013, Ấn Độ vượt qua Nhật Bản để trở thành thị trường điện thoại thông minh lớn thứ ba trên thế giới sau Trung Quốc và Hoa Kỳ.[214]
Ngành công nghiệp ô tô của Ấn Độ tăng trưởng nhanh thứ hai thế giới, doanh số bán hàng nội địa tăng 26% trong giai đoạn 2009–10,[215] và doanh số xuất khẩu tăng 36% trong giai đoạn 2008–09.[216] Công suất điện năng của Ấn Độ là 250 GW, trong đó 8% là năng lượng tái tạo.[217] Đến cuối năm 2011, ngành công nghiệp công nghệ thông tin của Ấn Độ tạo việc làm cho 2,8 triệu chuyên viên, tạo ra doanh thu gần 100 tỷ đô la Mỹ, tức bằng 7,5% GDP của Ấn Độ và đóng góp 26% kim ngạch xuất khẩu của Ấn Độ.[218]
Ngành công nghiệp dược phẩm của Ấn Độ nằm trong số các thị trường mới nổi quan trọng của công nghiệp dược phẩm thế giới. Thị trường dược phẩm Ấn Độ dự kiến đạt doanh thu 48,58 tỷ đô la Mỹ vào năm 2020. Ấn Độ chiếm 60% thị phần ngành công nghiệp sinh dược phẩm.[219]
Mặc dù tăng trưởng kinh tế ấn tượng trong các thập niên gần đây, Ấn Độ tiếp tục phải đối mặt với các thách thức về kinh tế-xã hội. Ấn Độ là nơi có số lượng người nhiều nhất sống dưới chuẩn nghèo quốc tế (1,25 đô la Mỹ/ngày) của Ngân hàng Thế giới,[220] tỷ lệ này giảm từ 60% năm 1981 xuống 42% năm 2005.[221] 48% số trẻ em Ấn Độ dưới 5 tuổi bị thiếu cân, một nửa số trẻ em dưới năm tuổi bị suy dinh dưỡng mãn tính, và tại các bang Madhya Pradesh, Andhra Pradesh, Bihar, Chhattisgarh, Haryana, Jharkhand, Karnataka, và Uttar Pradesh, chiếm 50,04% dân số Ấn Độ, 70% số trẻ em từ 6 tháng đến 59 tháng bị thiếu máu.[222] Kể từ năm 1991, bất bình đẳng kinh tế giữa các bang của Ấn Độ liên tục phát triển: sản phẩm nội địa ròng bình quân đầu người cấp bang của các bang giàu nhất vào năm 2007 gấp 3,2 lần so với các bang nghèo nhất.[223] Tham nhũng tại Ấn Độ được cho là gia tăng đáng kể.[224] Nhờ tăng trưởng mà GDP danh nghĩa bình quân đầu người của Ấn Độ tăng lên nhanh chóng kể từ năm 1991, tuy nhiên nó luôn ở mức thấp hơn so với các quốc gia đang phát triển khác tại châu Á như Indonesia, Iran, Malaysia, Philippines, Sri Lanka, hay Thái Lan, và được dự báo sẽ vẫn tiếp tục như vậy trong tương lai gần.[225]
Nhân khẩu
Với dân số 1.210.193.422 người theo điều tra tạm thời năm 2011,[4] Ấn Độ là quốc gia đông dân thứ hai trên thế giới. Tốc độ tăng trưởng dân số của Ấn Độ giảm xuống còn trung bình 1,76% mỗi năm trong giai đoạn 2001–2011,[4] từ mức 2,13% mỗi năm trong thập niên trước (1991–2001).[226] Tỷ suất giới tính theo điều tra năm 2011 là 940 nữ trên 1.000 nam.[4] Tuổi bình quân của cư dân Ấn Độ là 24,9 theo điều tra năm 2001.[192] Trong cuộc điều tra dân số hậu thuộc địa đầu tiên, tiến hành vào năm 1951, Ấn Độ có 361,1 triệu người.[227] Các tiến bộ về y tế trong suốt 50 năm vừa qua cùng với năng suất nông nghiệp gia tăng (Cách mạng xanh) khiến dân số Ấn Độ gia tăng nhanh chóng.[228] Ấn Độ tiếp tục phải đối mặt với một số thách thức liên quan đến sức khỏe cộng đồng.[229] Theo Tổ chức Y tế thế giới, 900.000 người Ấn Độ tử vong mỗi năm do uống nước bị nhiễm bẩn hay hít khí bị ô nhiễm.[230] Có khoảng 50 bác sĩ trên 100.000 người Ấn Độ.[231] Số người Ấn Độ sinh sống tại thành thị tăng trưởng 31,2% từ 1991 đến 2001.[232] Tuy nhiên, theo số liệu năm 2001, có trên 70% cư dân Ấn Độ sinh sống tại các vùng nông thôn.[233][234] Theo điều tra dân số năm 2001, có 27 đô thị trên 1 triệu dân tại Ấn Độ;[232] trong đó Delhi, Mumbai, Kolkata, Chennai, Bangalore, Hyderabad, Ahmedabad, và Pune là các vùng đô thị đông dân nhất. Tỷ lệ biết chữ năm 2011 là 74,04%: 65,46% đối với nữ giới và 82,14% đối với nam giới.[4] Kerala là bang có tỷ lệ người biết chữ cao nhất;[235] còn bang Bihar có tỷ lệ người biết chữ thấp nhất.[236]Ấn Độ là nơi có hai nhóm ngôn ngữ lớn: Ấn-Arya (74% cư dân nói) và Dravidia (24%). Các ngôn ngữ khác được nói tại Ấn Độ thuộc các ngữ hệ Nam Á và Tạng-Miến. Ấn Độ không có ngôn ngữ quốc gia.[237] Tiếng Hindi có số lượng người nói lớn nhất và là ngôn ngữ chính thức của chính phủ.[238][239] Tiếng Anh được sử dụng rộng rãi trong kinh doanh và hành chính và có địa vị "ngôn ngữ phó chính thức";[240] và có vị thế quan trọng trong giáo dục, đặc biệt là trong môi trường giáo dục đại học. Mỗi bang và lãnh thổ liên bang có một hoặc nhiều hơn các ngôn ngữ chính thức, và hiến pháp công nhận cụ thể 21 "ngôn ngữ xác định" (scheduled languages). Hiến pháp công nhận 212 nhóm bộ lạc xác định, họ chiếm tỷ lệ 7,5% trong dân số quốc gia.[241] Điều tra dân số năm 2001 đưa ra số liệu là 800 triệu người Ấn Độ (80,5% tổng dân số) là tín đồ Ấn Độ giáo, Ấn Độ giáo do vậy là tôn giáo lớn nhất tại Ấn Độ, sau đó là Hồi giáo (13,4%), Ki tô giáo (2,3%), đạo Sikh (1,9%), Phật giáo (0,8%), đạo Jaina (0,4%), Do Thái giáo, Hỏa giáo, và Bahá'í.[242] Ấn Độ có số tín đồ Ấn Độ giáo, Sikh giáo, Jaina giáo, Hỏa giáo, Bahá'í giáo đông nhất thế giới, và có số tín đồ Hồi giáo lớn thứ ba thế giới, đồng thời là quốc gia có đông người Hồi giáo nhất trong số các quốc gia mà họ không chiếm đa số.[243][244]
Văn hóa
Lịch sử văn hóa Ấn Độ kéo dài hơn 4.500 năm.[245] Trong thời kỳ Vệ Đà (k. 1700 – 500 TCN), các nền tảng của triết học, thần thoại, văn học Ấn Độ giáo được hình thành, ngoài ra còn có sự hình thành của nhiều đức tin và thực hành vẫn tồn tại cho đến nay, chẳng hạn như Dharma, Karma, yoga, và moksha.[15] Ấn Độ có sự đa dạng về mặt tôn giáo, trong đó Ấn Độ giáo, Sikh giáo, Hồi giáo, Kitô giáo, và Jaina giáo nằm trong số các tôn giáo lớn của quốc gia.[246] Ấn Độ giáo là tôn giáo chiếm ưu thế, được định hình thông qua nhiều trường phái mang tính lịch sử về tư tưởng, bao gồm các tư tưởng trong Áo nghĩa thư,[247] kinh Yoga, phong trào Bhakti,[246] và từ triết học Phật giáo.[248]Nghệ thuật và kiến trúc
Phần nhiều kiến trúc Ấn Độ, bao gồm Taj Mahal, các công trình theo kiến trúc Mogul, và kiến trúc Nam Ấn, là sự pha trộn giữa các truyền thống bản địa cổ xưa với các phong cách nhập ngoại.[249] Kiến trúc bản xứ cũng mang tính vùng miền cao. Học thuyết Vastu shastra dịch theo nghĩa đen là "khoa học xây dựng" hay "kiến trúc", và được gán cho những người mang tước vị Mamuni Mayan,[250] khám phá xem các quy luật của thiên nhiên ảnh hưởng thế nào đến chỗ ở của con người;[251] nó sử dụng các điều chỉnh hình học và định hướng chính xác để phản ánh nhận thức về cấu trúc vũ trụ.[252] Khi áp dụng trong kiến trúc đền Ấn Độ giáo, nó chịu ảnh hưởng từ Shilpa Shastras, một loạt các văn bản mang tính nền tảng có hình dạng thần thoại học cơ bản là Vastu-Purusha mandala- một hình vuông là hiện thân của "tuyệt đối".[253] Taj Mahal được xây dựng tại Agra từ năm 1631 đến năm 1648 theo lệnh của Hoàng đế Shah Jahan để tưởng nhớ hoàng hậu của ông, nó được liệt vào danh sách di sản thế giới của UNESCO với miêu tả "viên ngọc quý của nghệ thuật Hồi giáo tại Ấn Độ và một trong những kiệt tác được khắp nơi ca tụng thuộc về di sản thế giới."[254] Từ các yếu tố của kiến trúc Ấn-Hồi, Anh Quốc phát triển thành kiến trúc Ấn-Saracen phục hưng vào cuối thế kỷ 19.[255]Văn học
Các tác phẩm văn học sớm nhất tại Ấn Độ được biên soạn từ khoảng năm 1400 TCN đến 1200 TCN, chúng được viết bằng tiếng Phạn.[256][257] Các tác phẩm nổi bật trong nền văn học tiếng Phạn này bao gồm các sử thi như Mahabharata và Ramayana, các tác phẩm kịch của tác gia Kālidāsa như Abhijnanasakuntalam, và thơ ca như Mahakavya.[258][259][260] Cuốn sách nổi tiếng về quan hệ tình dục là Kama Sutra (Dục kinh) cũng được viết bằng tiếng Phạn. Văn học Sangam phát triển từ năm 600 TCN đến năm 300 TCN tại Nam Ấn Độ, bao gồm 2.381 bài thơ, được xem như một tiền thân của văn học Tamil.[261][262][263][264] Từ thế kỷ 14 đến thế kỷ 18, các truyền thống văn học của Ấn Độ trải qua một giai đoạn thay đổi mạnh mẽ do sự xuất hiện của các thi nhân sùng đạo như Kabir, Tulsidas, và Guru Nanak. Điểm đặc trưng của văn học giai đoạn này là thể hiện một hình ảnh đa dạng và rộng lớn về tư tưởng và biểu lộ tình cảm; như một hệ quả, các tác phẩm văn học Ấn Độ trung đại có sự khác biệt đáng kể so với các tác phẩm truyền thống cổ điển.[265] Đến thế kỷ 19, các tác gia Ấn Độ đi theo mối quan tâm mới về các vấn đề xã hội và mô tả tâm lý. Trong thế kỷ 20, văn học Ấn Độ chịu ảnh hưởng từ các tác phẩm của thi nhân và tiểu thuyết gia người Bengal Rabindranath Tagore.[266]Nghệ thuật biểu diễn
Âm nhạc Ấn Độ có các phong cách truyền thống và khu vực khác biệt. Âm nhạc cổ điển gồm có hai thể loại và các nhánh dân gian khác nhau của chúng: trường phái Hindustan ở bắc bộ và Carnatic ở nam bộ.[267] Các loại hình phổ biến được địa phương hóa gồm filmi và âm nhạc dân gian: baul bắt nguồn từ Bengal với truyền thống hổ lốn là một loại hình âm nhạc dân gian được biết đến nhiều. Khiêu vũ Ấn Độ cũng có các loại hình dân gian và cổ điển đa dạng, trong số những vũ điệu dân gian được biết đến nhiều, có Bhangra của Punjab, Bihu của Assam, Chhau của Tây Bengal và Jharkhand, Garba và Dandiya của Gujarat, Sambalpuri của Odisha, Ghoomar của Rajasthan, và Lavani của Maharashtra. Tám loại vũ điệu, trong đó nhiều loại đi kèm với các hình thức kể chuyện và yếu tố thần thoại được Viện Âm nhạc, Vũ đạo, Hí kịch Quốc gia ban cho địa vị vũ đạo cổ điển. Chúng gồm có Bharatanatyam của bang Tamil Nadu, Kathak của Uttar Pradesh, Kathakali và Mohiniyattam của Kerala, Kuchipudi của Andhra Pradesh, Manipuri của Manipur, Odissi của Odisha, và Sattriya của Assam.[268] Sân khấu tại Ấn Độ pha trộn các loại hình âm nhạc, vũ điệu, ứng khẩu hay đối thoại.[269] Sân khấu Ấn Độ thường dựa trên thần thoại Ấn Độ giáo, song cũng vay mượn từ các mối tình từ thời trung cổ hay các sự kiện xã hội và chính trị, và gồm có bhavai của Gujarat, Jatra của Tây Bengal, Nautanki và rRamlila ở Bắc Ấn Độ, Tamasha của Maharashtra, Burrakatha của Andhra Pradesh, Terukkuttu của Tamil Nadu, và Yakshagana của Karnataka.[270]Điện ảnh
Ngành công nghiệp điện ảnh Ấn Độ tạo ra nghệ thuật điện ảnh đông người xem nhất thế giới.[271] Các truyền thống điện ảnh địa phương tồn tại trong các ngôn ngữ gồm Assam, Bengal, Hindi, Kannada, Malayalam, Punjab, Gujarat, Marath, Oriya, Tamil, và Telugu.[272] Điện ảnh nam bộ Ấn Độ chiếm tới 75% doanh thu phim toàn quốc.[273] Truyền hình tại Ấn Độ khởi đầu từ năm 1959 như một phương tiện truyền thông quốc doanh, và được mở rộng chậm chạp trong hai thập niên sau.[274] Sự độc quyền của nhà nước đối với truyền hình kết thúc vào thập niên 1990, và kể từ đó các kênh truyền hình vệ tinh ngày càng góp phần hình thành văn hóa đại chúng của xã hội Ấn Độ.[275] Ngày nay, truyền hình là phương tiện truyền thông đi sâu vào xã hội Ấn Độ nhất; các ước tính cho thấy vào năm 2012 có trên 554 triệu khán giả truyền hình, 462 triệu có kết nối vệ tinh hoặc/và kết nối cáp, lớn hơn các loại hình truyền thông đại chúng khác như báo chí (350 triệu), phát thanh (156 triệu) hay internet (37 triệu).[276]Xã hội
Xã hội truyền thống Ấn Độ được xác định theo đẳng cấp xã hội, hệ thống đẳng cấp của Ấn Độ là hiện thân của nhiều xếp tầng xã hội và nhiều hạn chế xã hội tồn tại trên tiểu lục địa Ấn Độ. Các tầng lớp xã hội được xác định theo hàng nghìn nhóm đồng tộc thế tập, thường được gọi là jāti, hay "đẳng cấp".[277] Ấn Độ tuyên bố tiện dân là bất hợp pháp vào năm 1947 và kể từ đó ban hành các luật chống phân biệt đối xử khác và khởi xướng phúc lợi xã hội, tuy vậy nhiều tường thuật vẫn cho thấy rằng nhiều Dalit ("tiện dân cũ") và các đẳng cấp thấp khác tại các khu vực nông thôn tiếp tục phải sống trong sự cách ly và phải đối mặt với ngược đãi và phân biệt.[278][279][280] Tại những nơi làm việc ở đô thị của Ấn Độ, tại các công ty quốc tế hay công ty hàng đầu tại Ấn Độ, tầm quan trọng của hệ thống đẳng cấp bị mất đi khá nhiều.[281][282] Các giá trị gia đình có vị trí quan trọng trong văn hóa Ấn Độ, và các gia đình chung sống gia trưởng đa thế hệ là quy tắc tiêu chuẩn tại Ấn Độ, song các gia đình hạt nhân cũng trở nên phổ biến tại những khu vực thành thị.[283] Đại đa số người Ấn Độ, với sự ưng thuận của họ, kết hôn theo sự sắp xếp của cha mẹ hay các thành viên khác trong gia đình.[284] Hôn nhân được cho là gắn liền với sinh mệnh,[284] và tỷ lệ ly hôn rất thấp.[285] Tảo hôn tại Ấn Độ là việc phổ biến, đặc biệt là tại các vùng nông thôn; nhiều nữ giới tại Ấn Độ kết hôn trước độ tuổi kết hôn hợp pháp là 18.[286] Nhiều lễ hội tại Ấn Độ có nguồn gốc tôn giáo, trong đó có Chhath, Giáng sinh, Diwali, Durga Puja, Bakr-Id, Eid ul-Fitr, Ganesh Chaturthi, Holi, Makar Sankranti hay Uttarayan, Navratri, Thai Pongal, và Vaisakhi. Ấn Độ có ba ngày lễ quốc gia được tổ chức trên toàn bộ các bang và lãnh thổ liên bang: Ngày Cộng hòa, ngày Độc lập, và Gandhi Jayanti.Trang phục
Bông được thuần hóa tại Ấn Độ từ khoảng 4000 TCN, và y phục truyền thống Ấn Độ có sự khác biệt về màu sắc và phong cách giữa các vùng và phụ thuộc vào các yếu tố khác nhau, bao gồm khí hậu và đức tin. Phong cách y phục phổ biến gồm phục trang được xếp nếp như sari cho nữ giới và dhoti hay lungi cho nam giới. Các loại phục trang được khâu cũng phổ biến, như shalwar kameez cho nữ giới và kết hợp kurta–pyjama hay quần áo kiểu Âu cho nam giới.[287] Việc đeo đồ kim hoàn tinh tế, được làm theo hình hoa thật thời Ấn Độ cổ đại, là một phần của truyền thống kéo dài từ khoảng 5.000 năm; người Ấn Độ cũng đeo đá quý như một thứ bùa.[288]Thể thao
Tại Ấn Độ, một số môn thể thao bản địa truyền thống vẫn còn khá phổ biến, chẳng hạn như kabaddi, kho kho, pehlwani và gilli-danda. Một số hình thái sơ khởi của võ thuật châu Á, như kalarippayattu, musti yuddha, silambam, và marma adi, bắt nguồn tại Ấn Độ. Cờ vua thường được cho là có nguồn gốc từ Ấn Độ với tên gọi chaturanga, môn thể thao này đang lấy lại tính đại chúng bằng sự gia tăng số Đại kiện tướng người Ấn Độ.[289][290] Pachisi là tiền thân của parcheesi, Akbar Đại đế từng chơi trò này trên một kì trường khổng lồ bằng cẩm thạch.[291]Việc đội tuyển Davis Cup Ấn Độ và các đội tuyển quần vợt khác tại Ấn Độ cải thiện được kết quả vào đầu thập niên 2010 khiến môn thể thao này gia tăng tính đại chúng tại nước này.[292] Ấn Độ có sự hiện diện tương đối mạnh trong các môn thể thao bắn súng, và giành một vài huy chương tại Thế vận hội, Giải vô địch bắn súng Thế giới, và Đại hội thể thao Thịnh vượng chung.[293][294] Ấn Độ cũng thành công trên cấp độ quốc tế trong các môn gồm cầu lông,[295] quyền Anh,[296] và đấu vật.[297] Bóng đá là môn thể thao phố biến tại Tây Bengal, Goa, Tamil Nadu, Kerala, và các bang đông-bắc.[298]
Ấn Độ có một Liên đoàn quản lý môn khúc côn cầu, đội tuyển khúc côn cầu quốc gia Ấn Độ từng giành chiến thắng trong Giải vô địch khúc côn cầu thế giới năm 1975, và tính đến năm 2012, Ấn Độ giành được tổng cộng 8 huy chương vàng, một huy chương bạc, và hai huy chương đồng Thế vận hội. Ấn Độ cũng đóng một vai trò quan trọng trong việc đại chúng hóa môn cricket, và đây là môn thể thao phổ biến nhất tại quốc gia này. Đội tuyển cricket quốc gia Ấn Độ giành chiến thắng tại các giải vô địch cricket thế giới năm 1983 và 2011.
Ấn Độ từng tổ chức hoặc đồng tổ chức một vài sự kiện thể thao quốc tế: Á vận hội năm 1951 và 1982, vòng chung kết Giải vô địch Cricket thế giới năm 1987, 1996 và 2011; Đại hội thể thao Á-Phi năm 2013; Giải khúc côn cầu nam thế giới năm 2010; Đại hội thể thao khối Thịnh vương chung năm 2010. Các sự kiện thể thao quốc tế được tổ chức thường niên tại Ấn Độ bao gồm Chennai Open, Mumbai Marathon, Delhi Half Marathon, và Indian Masters. Cuộc đua Indian Grand Prix đầu tiên diễn ra vào cuối năm 2011.[299] Ấn Độ có truyền thống là quốc gia chiếm ưu thế tại Đại hội Thể thao Nam Á.
Chú thích
- ^ a ă â National Informatics Centre 2005
- ^ Wolpert 2003, tr. 1
- ^ “Profile | National Portal of India”. India.gov.in. Truy cập 23 tháng 8 năm 2013.
- ^ a ă â b c Ministry of Home Affairs 2011
- ^ a ă â b “Report for Selected Countries and Subjects”. World Economic Outlook Database, Quỹ Tiền tệ Quốc tế. 27 tháng 10 năm 2013. Truy cập 27 tháng 10 năm 2013.
- ^ United Nations 2012
- ^ Human Development Reports
- ^ Stein 1998, tr. 16–17
- ^ “Gross domestic product, current prices in US dollars, Oct 2013”. Truy cập 31 tháng 10 năm 2013.
- ^ Ministry of Law and Justice 2008
- ^ Kaye 1997, tr. 639–640
- ^ Encyclopædia Britannica
- ^ “Ấn Độ (India)-Tên gọi từ một con sông”. Bách khoa tri thức. Truy cập ngày 2 tháng 4 năm 2014.
- ^ Oxford English Dictionary
- ^ a ă Kuiper 2010, tr. 86
- ^ Petraglia, Allchin & 2007, tr. 6
- ^ Singh 2009, tr. 64
- ^ Singh 2009, tr. 89–93
- ^ Possehl 2003, tr. 24–25
- ^ Kulke & Rothermund 2004, tr. 21–23
- ^ a ă Singh 2009, tr. 181
- ^ Possehl 2003, tr. 2
- ^ a ă â Singh 2009, tr. 255
- ^ a ă Singh 2009, tr. 186–187
- ^ Witzel 2003, tr. 68–69
- ^ Kulke & Rothermund 2004, tr. 31
- ^ Stein 2010, tr. 47
- ^ Kulke & Rothermund 2004, tr. 41–43
- ^ Singh 2009, tr. 250–251
- ^ a ă â Singh 2009, tr. 319
- ^ Kulke & Rothermund 2004, tr. 53–54
- ^ Kulke & Rothermund 2004, tr. 54–56
- ^ Stein 1998, tr. 21
- ^ Stein 1998, tr. 67–68
- ^ Singh 2009, tr. 312–313
- ^ Singh 2009, tr. 300
- ^ Stein 1998, tr. 78–79
- ^ Kulke & Rothermund 2004, tr. 70
- ^ Singh 2009, tr. 367
- ^ Kulke & Rothermund 2004, tr. 63
- ^ Stein 1998, tr. 89–90
- ^ Singh 2009, tr. 408–415
- ^ Stein 1998, tr. 92–95
- ^ Kulke & Rothermund 2004, tr. 89–91
- ^ a ă â Singh 2009, tr. 545
- ^ Stein 1998, tr. 98–99
- ^ a ă Stein 1998, tr. 132
- ^ a ă â Stein 1998, tr. 119–120
- ^ a ă Stein 1998, tr. 121–122
- ^ a ă Stein 1998, tr. 123
- ^ a ă Stein 1998, tr. 124
- ^ a ă Stein 1998, tr. 127–128
- ^ Ludden 2002, tr. 68
- ^ Asher & Talbot 2008, tr. 47
- ^ Metcalf & Metcalf 2006, tr. 6
- ^ Ludden 2002, tr. 67
- ^ Asher & Talbot 2008, tr. 50–51
- ^ a ă Asher & Talbot 2008, tr. 53
- ^ Metcalf & Metcalf 2006, tr. 12
- ^ Robb 2001, tr. 80
- ^ Stein 1998, tr. 164
- ^ Asher & Talbot 2008, tr. 115
- ^ Robb 2001, tr. 90–91
- ^ a ă Metcalf & Metcalf 2006, tr. 17
- ^ a ă â Asher & Talbot 2008, tr. 152
- ^ Asher & Talbot 2008, tr. 158
- ^ Stein 1998, tr. 169
- ^ Asher & Talbot 2008, tr. 186
- ^ a ă Metcalf & Metcalf 2006, tr. 23–24
- ^ Asher & Talbot 2008, tr. 256
- ^ a ă â Asher & Talbot 2008, tr. 286
- ^ Metcalf & Metcalf 2006, tr. 44–49
- ^ Robb 2001, tr. 98–100
- ^ Ludden 2002, tr. 128–132
- ^ Metcalf & Metcalf 2006, tr. 51–55
- ^ Metcalf & Metcalf 2006, tr. 68–71
- ^ Asher & Talbot 2008, tr. 289
- ^ Robb 2001, tr. 151–152
- ^ Metcalf & Metcalf 2006, tr. 94–99
- ^ Brown 1994, tr. 83
- ^ Peers 2006, tr. 50
- ^ Metcalf & Metcalf 2006, tr. 100–103
- ^ Brown 1994, tr. 85–86
- ^ Stein 1998, tr. 239
- ^ Metcalf & Metcalf 2006, tr. 103–108
- ^ Robb 2001, tr. 183
- ^ Sarkar 1983, tr. 1–4
- ^ Copland 2001, tr. ix–x
- ^ Metcalf & Metcalf 2006, tr. 123
- ^ Stein 1998, tr. 260
- ^ Bose & Jalal 2011, tr. 117
- ^ Stein 1998, tr. 258
- ^ a ă Metcalf & Metcalf 2006, tr. 126
- ^ a ă Metcalf & Metcalf 2006, tr. 97
- ^ Metcalf & Metcalf 2006, tr. 163
- ^ Metcalf & Metcalf 2006, tr. 167
- ^ Metcalf & Metcalf 2006, tr. 195–197
- ^ Metcalf & Metcalf 2006, tr. 203
- ^ Metcalf & Metcalf 2006, tr. 231
- ^ a ă â b Metcalf & Metcalf 2006, tr. 265–266
- ^ United States Department of Agriculture
- ^ Metcalf & Metcalf 2006, tr. 266–270
- ^ Metcalf & Metcalf 2006, tr. 253
- ^ Metcalf & Metcalf 2006, tr. 274
- ^ a ă Metcalf & Metcalf 2006, tr. 247–248
- ^ Metcalf & Metcalf 2006, tr. 293–295
- ^ a ă â Ali & Aitchison 2005
- ^ Dikshit & Schwartzberg, tr. 7
- ^ Prakash et al. 2000
- ^ Dikshit & Schwartzberg, tr. 11
- ^ Dikshit & Schwartzberg, tr. 8
- ^ Dikshit & Schwartzberg, tr. 9–10
- ^ Ministry of Information and Broadcasting 2007, tr. 1
- ^ a ă Kumar và đồng nghiệp 2006
- ^ Dikshit & Schwartzberg, tr. 15
- ^ Duff 1993, tr. 353
- ^ Dikshit & Schwartzberg, tr. 16
- ^ Dikshit & Schwartzberg, tr. 17
- ^ Dikshit & Schwartzberg, tr. 12
- ^ Dikshit & Schwartzberg, tr. 13
- ^ a ă Chang 1967, tr. 391–394
- ^ Posey 1994, tr. 118
- ^ Wolpert 2003, tr. 4
- ^ Heitzman & Worden 1996, tr. 97
- ^ Environmental Issues, Law and Technology – An Indian Perspective. Ramesha Chandrappa và Ravi.D.R, Research India Publication, Delhi, 2009, ISBN 978-81-904362-5-0
- ^ “The Little Green Data Book”. The World Bank. 2010.
- ^ “Environment Assessment, Country Data: India”. The World Bank. 2011.
- ^ Conservation International 2007
- ^ Zoological Survey of India 2012, tr. 1
- ^ a ă Puri
- ^ Basak 1983, tr. 24
- ^ a ă Tritsch 2001
- ^ Fisher 1995, tr. 434
- ^ Crame & Owen 2002, tr. 142
- ^ Karanth 2006
- ^ Mace 1994, tr. 4
- ^ Ministry of Environments and Forests 1972
- ^ Department of Environment and Forests 1988
- ^ Ministry of Environment and Forests
- ^ Secretariat of the Convention on Wetlands
- ^ United Nations Population Division
- ^ Burnell & Calvert 1999, tr. 125
- ^ Election Commission of India
- ^ Sarkar 2007, tr. 84
- ^ Chander 2004, tr. 117
- ^ Bhambhri 1992, tr. 118, 143
- ^ The Hindu 2008
- ^ Dunleavy, Diwakar & Dunleavy 2007
- ^ Kulke & Rothermund 2004, tr. 384
- ^ Business Standard 2009
- ^ DNA 2014
- ^ Pylee & 2003 a, tr. 4
- ^ Dutt 1998, tr. 421
- ^ Wheare 1980, tr. 28
- ^ Echeverri-Gent 2002, tr. 19–20
- ^ Sinha 2004, tr. 25
- ^ “In RTI reply, Centre says India has no national game”. Truy cập 4 tháng 8 năm 2012.
- ^ a ă Sharma 2007, tr. 31
- ^ Sharma 2007, tr. 138
- ^ Gledhill 1970, tr. 112
- ^ a ă Sharma 1950
- ^ a ă Sharma 2007, tr. 162
- ^ Mathew 2003, tr. 524
- ^ Gledhill 1970, tr. 127
- ^ Sharma 2007, tr. 161
- ^ Sharma 2007, tr. 143
- ^ Sharma 2007, tr. 360
- ^ a ă Neuborne 2003, tr. 478
- ^ Sharma 2007, tr. 238, 255
- ^ Sripati 1998, tr. 423–424
- ^ Pylee & 2003 b, tr. 314
- ^ a ă â b c Library of Congress 2004
- ^ Sharma 2007, tr. 49
- ^ Rothermund 2000, tr. 48, 227
- ^ Gilbert 2002, tr. 486–487
- ^ Sharma 1999, tr. 56
- ^ Alford 2008
- ^ Ghosh 2009, tr. 282–289
- ^ Sisodia & Naidu 2005, tr. 1–8
- ^ Perkovich 2001, tr. 60–86, 106–125
- ^ Kumar 2010
- ^ Nair 2007
- ^ Pandit 2009
- ^ a ă The Hindu 2011
- ^ Europa 2008
- ^ The Times of India 2008
- ^ British Broadcasting Corporation 2009
- ^ Rediff 2008 a
- ^ Reuters 2010
- ^ Curry 2010
- ^ Ripsman & Paul 2010, tr. 130
- ^ a ă â Central Intelligence Agency
- ^ Behera 2011
- ^ Behera 2012
- ^ Stockholm International Peace Research Institute 2008, tr. 178
- ^ a ă Miglani 2011
- ^ Shukla 2011
- ^ Stockholm International Peace Research Initiative 2012
- ^ International Monetary Fund 2011, tr. 2
- ^ Nayak, Goldar & Agrawal 2010, tr. xxv
- ^ International Monetary Fund
- ^ Wolpert 2003, tr. xiv
- ^ a ă Gargan 1992
- ^ Alamgir 2008, tr. 23, 97
- ^ WTO 1995
- ^ The Times of India 2009
- ^ World Trade Organisation 2010
- ^ Economist 2011
- ^ Bonner 2010
- ^ a ă Farrell & Beinhocker 2007
- ^ Schwab 2010
- ^ Sheth 2009
- ^ Telecom Regulatory Authority 2012
- ^ Natasha Lomas (26 tháng 6 năm 2013). “India Passes Japan To Become Third Largest Global Smartphone Market, After China & U.S.”. TechCrunch. AOL Inc. Truy cập 27 tháng 6 năm 2013.
- ^ Business Line 2010
- ^ Express India 2009
- ^ Yep 2011
- ^ Nasscom 2011–2012
- ^ Vishal Dutta, ET Bureau (10 tháng 7 năm 2012). “Indian biotech industry at critical juncture, global biotech stabilises: Report”. Economic Times. Truy cập 31 tháng 10 năm 2012.
- ^ World Bank 2006
- ^ World Bank a
- ^ Social Statistics Division. “Children in India 2012: A Statistical Appraisal”. Central Statistics Office, Government of India. tr. 10–11. Truy cập 2 tháng 9 năm 2013.
- ^ Pal & Ghosh 2007
- ^ Transparency International 2010
- ^ International Monetary Fund 2011
- ^ Ministry of Home Affairs 2010–2011 b
- ^ “Census Population” (PDF). Census of India. Ministry of Finance India.
- ^ Rorabacher 2010, tr. 35–39
- ^ World Health Organisation 2006
- ^ Robinson 2008
- ^ Dev & Rao 2009, tr. 329
- ^ a ă Garg 2005
- ^ Dyson & Visaria 2005, tr. 115–129
- ^ Ratna 2007, tr. 271–272
- ^ Skolnik 2008, tr. 36
- ^ Singh 2004, tr. 106
- ^ Dharwadker 2010, tr. 168–194, 186
- ^ Ottenheimer 2008, tr. 303
- ^ Mallikarjun 2004
- ^ Ministry of Home Affairs 1960
- ^ Bonner 1990, tr. 81
- ^ Ministry of Home Affairs 2010–2011
- ^ Global Muslim population estimated at 1.57 billion. The Hindu (8 tháng 10 năm 2009)
- ^ India Chapter Summary 2012
- ^ Kuiper 2010, tr. 15
- ^ a ă Heehs 2002, tr. 2–5
- ^ Deutsch 1969, tr. 3, 78
- ^ Nakamura 1999
- ^ Kuiper 2010, tr. 296–329
- ^ Silverman 2007, tr. 20
- ^ Kumar 2000, tr. 5
- ^ Roberts 2004, tr. 73
- ^ Lang & Moleski 2010, tr. 151–152
- ^ United Nations Educational, Scientific, and Cultural Organisation
- ^ Chopra 2011, tr. 46
- ^ Hoiberg & Ramchandani 2000
- ^ Sarma 2009
- ^ Johnson 2008
- ^ MacDonell 2004, tr. 1–40
- ^ Kālidāsa & Johnson 2001
- ^ Zvelebil 1997, tr. 12
- ^ Hart 1975
- ^ Encyclopædia Britannica 2008
- ^ Ramanujan 1985, tr. ix–x
- ^ Das 2005
- ^ Datta 2006
- ^ Massey & Massey 1998
- ^ Encyclopædia Britannica b
- ^ Lal 2004, tr. 23, 30, 235
- ^ Karanth 2002, tr. 26
- ^ Dissanayake & Gokulsing 2004
- ^ Rajadhyaksha & Willemen 1999
- ^ The Economic Times
- ^ Kaminsky & Long 2011, tr. 684–692
- ^ Mehta 2008, tr. 1–10
- ^ Media Research Users Council 2012
- ^ Schwartzberg 2011
- ^ World Bank 2011
- ^ Rawat 2011, tr. 3
- ^ Wolpert 2003, tr. 126
- ^ Messner 2009, tr. 51-53
- ^ Messner 2012, tr. 27-28
- ^ Makar 2007
- ^ a ă Medora 2003
- ^ Jones & Ramdas 2005, tr. 111
- ^ Cullen-Dupont 2009, tr. 96
- ^ Tarlo 1996, tr. xii, xii, 11, 15, 28, 46
- ^ Eraly 2008, tr. 160
- ^ Wolpert 2003, tr. 2
- ^ Rediff 2008 b
- ^ Binmore 2007, tr. 98
- ^ The Wall Street Journal 2009
- ^ British Broadcasting Corporation 2010 b
- ^ The Times of India 2010
- ^ British Broadcasting Corporation 2010 a
- ^ Mint 2010
- ^ Xavier 2010
- ^ Majumdar & Bandyopadhyay 2006, tr. 1–5
- ^ Dehejia 2011
Tham khảo
Tổng quan- “India”, The World Factbook (Cơ quan Tình báo Trung ương (Hoa Kỳ)), truy cập 4 tháng 10 năm 2011
- “Country Profile: India” (PDF), Library of Congress Country Studies (ấn bản 5) (Đơn vị Nghiên cứu Liên bang Thư viện Quốc hội Mỹ), Tháng 12 năm 2004, truy cập 30 tháng 9 năm 2011
- Heitzman, J.; Worden, R. L. (tháng 8 năm 1996), India: A Country Study, Area Handbook Series, Washington, D.C.: Library of Congress, ISBN 978-0-8444-0833-0
- India, Quỹ Tiền tệ Quốc tế, truy cập 14 tháng 10 năm 2011
- “Provisional Population Totals – Census 2011”, Office of the Registrar General and Census Commissioner (Bộ Nội chính Ấn Độ), 2011, truy cập 29 tháng 3 năm 2011
- “Constituent Assembly of India—Volume XII”, Constituent Assembly of India: Debates (Trung tâm Tin học Quốc gia (Ấn Độ)), 24 tháng 1 năm 1950, truy cập 17 tháng 7 năm 2011
- There's No National Language in India: Gujarat High Court, The Times Of India, 6 tháng 1 năm 2007, truy cập 17 tháng 7 năm 2011
- “Table 1: Human Development Index and its Components” (PDF), Human Development Report 2011, Liên Hiệp Quốc, 2011
- Hindustan, Encyclopædia Britannica, truy cập 17 tháng 7 năm 2011
- Kaye, A. S. (1 tháng 9 năm 1997), Phonologies of Asia and Africa, Eisenbrauns, ISBN 978-1-57506-019-4
- Kuiper, K. biên tập (tháng 7 năm 2010), Culture of India, Rosen Publishing Group, ISBN 978-1-61530-203-1
- Constitution of India (PDF), Bộ Pháp luật và Tư pháp Ấn Độ, 29 tháng 7 năm 2008, truy cập 3 tháng 3 năm 2012, ‘Article 1(1): "India, that is Bharat, shall be a Union of States."’
- “India”, Oxford English Dictionary, Oxford University Press, truy cập 17 tháng 7 năm 2011
- Asher, C. B.; Talbot, C (1 tháng 1 năm 2008), India Before Europe (ấn bản 1), Cambridge University Press, ISBN 978-0-521-51750-8
- Bose, S.; Jalal, A. (11 tháng 3 năm 2011), Modern South Asia: History, Culture, Political Economy (ấn bản 3), Routledge, ISBN 978-0-415-77942-5
- Brown, J. M. (26 tháng 5 năm 1994), Modern India: The Origins of an Asian Democracy, The Short Oxford History of the Modern World (ấn bản 2), Oxford University Press, ISBN 978-0-19-873113-9
- Copland, I. (8 tháng 10 năm 2001), India 1885–1947: The Unmaking of an Empire (ấn bản 1), Longman, ISBN 978-0-582-38173-5
- Kulke, H.; Rothermund, D. (1 tháng 8 năm 2004), A History of India, 4th, Routledge, ISBN 978-0-415-32920-0
- Ludden, D. (13 tháng 6 năm 2002), India and South Asia: A Short History, One World Media, ISBN 978-1-85168-237-9
- Metcalf, B.; Metcalf, T. R. (9 tháng 10 năm 2006), A Concise History of Modern India (ấn bản 2), Cambridge University Press, ISBN 978-0-521-68225-1
- Peers, D. M. (3 tháng 8 năm 2006), India under Colonial Rule 1700–1885 (ấn bản 1), Pearson Longman, ISBN 978-0-582-31738-3
- Petraglia, Michael D.; Allchin, Bridget (2007), “Human evolution and culture change in the Indian subcontinent”, trong Michael Petraglia, Bridget Allchin, The Evolution and History of Human Populations in South Asia: Inter-disciplinary Studies in Archaeology, Biological Anthropology, Linguistics and Genetics, Springer, ISBN 978-1-4020-5562-1
- Possehl, G. (tháng 1 năm 2003), The Indus Civilization: A Contemporary Perspective, Rowman Altamira, ISBN 978-0-7591-0172-2
- Robb, P. (2001), A History of India, London: Palgrave, ISBN 978-0-333-69129-8
- Sarkar, S. (1983), Modern India: 1885–1947, Delhi: Macmillan India, ISBN 978-0-333-90425-1
- Singh, U. (2009), A History of Ancient and Medieval India: From the Stone Age to the 12th Century, Delhi: Longman, ISBN 978-81-317-1677-9
- Sripati, V. (1998), “Toward Fifty Years of Constitutionalism and Fundamental Rights in India: Looking Back to See Ahead (1950–2000)”, American University International Law Review 14 (2): 413–496
- Stein, B. (16 tháng 6 năm 1998), A History of India (ấn bản 1), Oxford: Wiley-Blackwell, ISBN 978-0-631-20546-3
- Stein, B. (27 tháng 4 năm 2010), trong Arnold, D., A History of India (ấn bản 2), Oxford: Wiley-Blackwell, ISBN 978-1-4051-9509-6
- “Briefing Rooms: India”, Economic Research Service (Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ), 17 tháng 12 năm 2009
- Thapar, Romila (2003), Penguin history of early India: from the origins to A.D.1300, Penguin Books, truy cập 13 tháng 2 năm 2012
- Witzel, Michael (2003), “Vedas and Upanișads”, trong Gavin D. Flood, The Blackwell companion to Hinduism, John Wiley & Sons, ISBN 978-0-631-21535-6, truy cập 15 tháng 3 năm 2012
- Wolpert, S. (25 tháng 12 năm 2003), A New History of India (ấn bản 7), Oxford University Press, ISBN 978-0-19-516678-1
- Ali, J. R.; Aitchison, J. C. (2005), “Greater India”, Earth-Science Reviews 72 (3–4): 170–173, doi:10.1016/j.earscirev.2005.07.005
- Chang, J. H. (1967), “The Indian Summer Monsoon”, Geographical Review 57 (3): 373–396, doi:10.2307/212640
- Forest (Conservation) Act, 1980 with Amendments Made in 1988 (PDF), Bộ Môi trường và Lâm nghiệp Quần đảo Andaman và Nicobar, 1988, truy cập 25 tháng 7 năm 2011
- Dikshit, K. R.; Schwartzberg, Joseph E., Land, “India”, Encyclopædia Britannica: 1–29
- Duff, D. (29 tháng 10 năm 1993), Holmes Principles of Physical Geology (ấn bản 4), Routledge, ISBN 978-0-7487-4381-0
- Kumar, V. S.; Pathak, K. C.; Pednekar, P.; Raju, N. S. N. (2006), “Coastal processes along the Indian coastline” (PDF), Current Science 91 (4): 530–536
- India Yearbook 2007, New Delhi: Cục Xuất bản, Bộ Thông tin và Truyền thông Ấn Độ, 2007, ISBN 978-81-230-1423-4
- Posey, C. A. (1 tháng 11 năm 1994), The Living Earth Book of Wind and Weather, Reader's Digest, ISBN 978-0-89577-625-9
- Prakash, B.; Kumar, S.; Rao, M. S.; Giri, S. C. (2000), “Holocene Tectonic Movements and Stress Field in the Western Gangetic Plains” (PDF), Current Science 79 (4): 438–449
- Ali, S.; Ripley, S. D.; Dick, J. H. (15 tháng 8 năm 1996), A Pictorial Guide to the Birds of the Indian Subcontinent (ấn bản 2), Mumbai: Oxford University Press, ISBN 978-0-19-563732-8
- Animal Discoveries 2011: New Species and New Records (PDF), Zoological Survey of India, 2012, truy cập 20 tháng 7 năm 2012
- Basak, R. K. (1983), Botanical Survey of India: Account of Its Establishment, Development, and Activities, truy cập 20 tháng 7 năm 2011
- “Hotspots by Region”, Biodiversity Hotspots (Conservation International), 2007, Bản gốc lưu trữ 11 tháng 8 năm 2010, truy cập 28 tháng 2 năm 2011
- Crame, J. A.; Owen, A. W. (1 tháng 8 năm 2002), Palaeobiogeography and Biodiversity Change: The Ordovician and Mesozoic–Cenozoic Radiations, Geological Society Special Publication (194), Học hội Địa chất Luân Đôn, ISBN 978-1-86239-106-2, truy cập 8 tháng 12 năm 2011
- Fisher, W. F. (tháng 1 năm 1995), Toward Sustainable Development?: Struggling over India's Narmada River, Columbia University Seminars, M. E. Sharpe, ISBN 978-1-56324-341-7
- Griffiths, M. (6 tháng 7 năm 2010), The Lotus Quest: In Search of the Sacred Flower, St. Martin's Press, ISBN 978-0-312-64148-1
- Karanth, K. P. (25 tháng 3 năm 2006), “Out-of-India Gondwanan Origin of Some Tropical Asian Biota” (PDF), Current Science (Học viện Khoa học Ấn Độ) 90 (6): 789–792, truy cập 18 tháng 5 năm 2011
- Mace, G. M. (tháng 3 năm 1994), “1994 IUCN Red List of Threatened Animals”, World Conservation Monitoring Centre (Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế), ISBN 978-2-8317-0194-3
- “Biosphere Reserves of India”, C. P. R. Environment Education Centre (Bộ Môi trường và Lâm nghiệp Ấn Độ), truy cập 17 tháng 7 năm 2011
- Indian Wildlife (Protection) Act, 1972, Bộ Môi trường và Lâm nghiệp Ấn Độ, 9 tháng 9 năm 1972, truy cập 25 tháng 7 năm 2011
- Puri, S. K., Biodiversity Profile of India, truy cập 20 tháng 6 năm 2007
- The List of Wetlands of International Importance (PDF), Ban Thư ký Công ước về Đất ngập nước, 4 tháng 6 năm 2007, tr. 18, Bản gốc lưu trữ 21 tháng 6 năm 2007, truy cập 20 tháng 6 năm 2007
- Tritsch, M. F. (3 tháng 9 năm 2001), Wildlife of India, London: HarperCollins, ISBN 978-0-00-711062-9
- Bhambhri, C. P. (1 tháng 5 năm 1992), Politics in India, 1991–1992, Shipra, ISBN 978-81-85402-17-8, truy cập 20 tháng 7 năm 2011
- Burnell, P. J.; Calvert, P. (1 tháng 5 năm 1999), The Resilience of Democracy: Persistent Practice, Durable Idea (ấn bản 1), Taylor & Francis, ISBN 978-0-7146-8026-2, truy cập 20 tháng 7 năm 2011
- Second UPA Win, A Crowning Glory for Sonia's Ascendancy, Business Standard, 16 tháng 5 năm 2009, truy cập 13 tháng 6 năm 2009
- Chander, N. J. (1 tháng 1 năm 2004), Coalition Politics: The Indian Experience, Concept Publishing Company, ISBN 978-81-8069-092-1, truy cập 20 tháng 7 năm 2011
- Dunleavy, P.; Diwakar, R.; Dunleavy, C. (2007), The Effective Space of Party Competition (PDF) (5), Trường Kinh tế và Khoa học Chính trị Luân Đôn, truy cập 27 tháng 9 năm 2011
- Dutt, S. (1998), “Identities and the Indian State: An Overview”, Third World Quarterly 19 (3): 411–434, doi:10.1080/01436599814325
- Echeverri-Gent, J. (tháng 1 năm 2002), “Politics in India's Decentred Polity”, trong Ayres, A.; Oldenburg, P., Quickening the Pace of Change, India Briefing, London: M. E. Sharpe, tr. 19–53, ISBN 978-0-7656-0812-3
- “Current Recognised Parties” (PDF), Election Commission of India, 14 tháng 3 năm 2009, truy cập 5 tháng 7 năm 2010
- Gledhill, A. (30 tháng 3 năm 1970), The Republic of India: The Development of its Laws and Constitution, Greenwood, ISBN 978-0-8371-2813-9, truy cập 21 tháng 7 năm 2011
- Narasimha Rao Passes Away, The Hindu, 24 tháng 12 năm 2004, truy cập 2 tháng 11 năm 2008
- Mathew, K. M. (1 tháng 1 năm 2003), Manorama Yearbook, Malayala Manorama, ISBN 978-81-900461-8-3, truy cập 21 tháng 7 năm 2011
- “National Symbols of India”, Know India (Trung tâm Tin học Quốc gia (Ấn Độ)), truy cập 27 tháng 9 năm 2009
- Neuborne, B. (2003), “The Supreme Court of India”, International Journal of Constitutional Law 1 (1): 476–510, doi:10.1093/icon/1.3.476
- Pylee, M. V. (2003), “The Longest Constitutional Document”, Constitutional Government in India (ấn bản 2), S. Chand, ISBN 978-81-219-2203-6
- Pylee, M. V. (2003), “The Union Judiciary: The Supreme Court”, Constitutional Government in India (ấn bản 2), S. Chand, ISBN 978-81-219-2203-6, truy cập 2 tháng 11 năm 2007
- Sarkar, N. I. (1 tháng 1 năm 2007), Sonia Gandhi: Tryst with India, Atlantic, ISBN 978-81-269-0744-1, truy cập 20 tháng 7 năm 2011
- Sharma, R. (1950), “Cabinet Government in India”, Parliamentary Affairs 4 (1): 116–126
- Sharma, B. K. (tháng 8 năm 2007), Introduction to the Constitution of India (ấn bản 4), Prentice Hall, ISBN 978-81-203-3246-1
- Sinha, A. (2004), “The Changing Political Economy of Federalism in India”, India Review 3 (1): 25–63, doi:10.1080/14736480490443085
- World's Largest Democracy to Reach One Billion Persons on Independence Day, Cơ quan Dân số Liên Hiệp Quốc, truy cập 5 tháng 10 năm 2011
- Wheare, K. C. (tháng 6 năm 1980), Federal Government (ấn bản 4), Oxford University Press, ISBN 978-0-313-22702-8
- “BJP first party since 1984 to win parliamentary majority on its own”, DNA, IANS, 16 tháng 5 năm 2014, truy cập ngày 20 tháng 5 năm 2014
- Alford, P. (7 tháng 7 năm 2008), G8 Plus 5 Equals Power Shift, The Australian, truy cập 21 tháng 11 năm 2009
- Behera, L. K. (7 tháng 3 năm 2011), Budgeting for India's Defence: An Analysis of Defence Budget 2011–2012, Học viện Nghiên cứu và Phân tích Quốc phòng, truy cập 4 tháng 4 năm 2011
- Behera, L. K. (20 tháng 3 năm 2012), India's Defence Budget 2012–13, Học viện Nghiên cứu và Phân tích Quốc phòng, truy cập 26 tháng 3 năm 2012
- “Russia Agrees India Nuclear Deal”, BBC News (BBC), 11 tháng 2 năm 2009, truy cập 22 tháng 8 năm 2010
- Curry, B. (27 tháng 6 năm 2010), Canada Signs Nuclear Deal with India, The Globe and Mail, truy cập 13 tháng 5 năm 2011
- “India, Europe Strategic Relations”, Europa: Summaries of EU Legislation (Liên minh châu Âu), 8 tháng 4 năm 2008, truy cập 14 tháng 1 năm 2011
- Ghosh, A. (1 tháng 9 năm 2009), India's Foreign Policy, Pearson, ISBN 978-81-317-1025-8
- Gilbert, M. (17 tháng 12 năm 2002), A History of the Twentieth Century, William Morrow, ISBN 978-0-06-050594-3, truy cập 22 tháng 7 năm 2011
- India, Russia Review Defence Ties, The Hindu, 5 tháng 10 năm 2009, truy cập 8 tháng 10 năm 2011
- Kumar, A. V. (1 tháng 5 năm 2010), “Reforming the NPT to Include India”, Bulletin of Atomic Scientists, truy cập 1 tháng 11 năm 2010
- Miglani, S. (28 tháng 2 năm 2011), With An Eye on China, India Steps Up Defence Spending, Reuters, truy cập 6 tháng 7 năm 2011
- Nair, V. K. (2007), No More Ambiguity: India's Nuclear Policy (PDF), Bản gốc lưu trữ 27 tháng 9 năm 2007, truy cập 7 tháng 6 năm 2007
- Pandit, R. (27 tháng 7 năm 2009), N-Submarine to Give India Crucial Third Leg of Nuke Triad, The Times of India, truy cập 10 tháng 3 năm 2010
- Perkovich, G. (5 tháng 11 năm 2001), India's Nuclear Bomb: The Impact on Global Proliferation, University of California Press, ISBN 978-0-520-23210-5, truy cập 22 tháng 7 năm 2011
- India, France Agree on Civil Nuclear Cooperation, Rediff, 25 tháng 1 năm 2008, truy cập 22 tháng 8 năm 2010
- UK, India Sign Civil Nuclear Accord, Reuters, 13 tháng 2 năm 2010, truy cập 22 tháng 8 năm 2010
- Ripsman, N. M.; Paul, T. V. (18 tháng 3 năm 2010), Globalization and the National Security State, Oxford University Press, ISBN 978-0-19-539390-3, truy cập 22 tháng 7 năm 2011
- Rothermund, D. (17 tháng 10 năm 2000), The Routledge Companion to Decolonization, Routledge Companions to History (ấn bản 1), Routledge, ISBN 978-0-415-35632-9
- India Gets Its First Homegrown Fighter Jet, RIA Novosti, 10 tháng 1 năm 2011, truy cập 1 tháng 4 năm 2009
- Sharma, S. R. (1 tháng 1 năm 1999), India–USSR Relations 1947–1971: From Ambivalence to Steadfastness 1, Discovery, ISBN 978-81-7141-486-4
- Shukla, A. (5 tháng 3 năm 2011), China Matches India's Expansion in Military Spending, Business Standard, truy cập 6 tháng 7 năm 2011
- Sisodia, N. S.; Naidu, G. V. C. (2005), Changing Security Dynamic in Eastern Asia: Focus on Japan, Promilla, ISBN 978-81-86019-52-8
- “SIPRI Yearbook 2008: Armaments, Disarmament, and International Security”, Stockholm International Peace Research Institute (Oxford University Press), 8 tháng 8 năm 2008, ISBN 978-0-19-954895-8, truy cập 22 tháng 7 năm 2011
- “Rise in international arms transfers is driven by Asian demand, says SIPRI”, Stockholm International Peace Research Initiative, 19 tháng 3 năm 2012, Bản gốc lưu trữ 13 tháng 1 năm 2013, truy cập 26 tháng 3 năm 2012
- India, US Sign 123 Agreement, The Times of India, 11 tháng 10 năm 2008, truy cập 21 tháng 7 năm 2011
- Alamgir, J. (24 tháng 12 năm 2008), India's Open-Economy Policy: Globalism, Rivalry, Continuity, Taylor & Francis, ISBN 978-0-415-77684-4, truy cập 23 tháng 7 năm 2011
- Bonner, B (20 tháng 3 năm 2010), Make Way, World. India Is on the Move, The Christian Science Monitor, truy cập 23 tháng 7 năm 2011
- “India Lost $462bn in Illegal Capital Flows, Says Report”, BBC News (BBC), 18 tháng 11 năm 2010, truy cập 23 tháng 7 năm 2011
- “India Second Fastest Growing Auto Market After China”, Business Line, 9 tháng 4 năm 2010, truy cập 23 tháng 7 năm 2011
- Drèze, Jean; Sen, Amartya (2013), An Uncertain Glory: India and Its Contradictions, Allen Lane
- India's Economy: Not Just Rubies and Polyester Shirts, The Economist, 8 tháng 10 năm 2011, truy cập 9 tháng 10 năm 2011
- “Indian Car Exports Surge 36%”, Express India, 13 tháng 10 năm 2009, Bản gốc lưu trữ 2 tháng 1 năm 2013, truy cập 23 tháng 7 năm 2011
- Report for Selected Countries and Subjects: India, Indonesia, Islamic Republic of Iran, Malaysia, Philippines, Sri Lanka, Thailand, Quỹ Tiền tệ Quốc tế, Tháng 4 năm 2011, truy cập 23 tháng 7 năm 2011
- Farrell, D.; Beinhocker, E. (19 tháng 5 năm 2007), Next Big Spenders: India's Middle Class, McKinsey & Company, truy cập 17 tháng 9 năm 2011
- Gargan, E. A. (15 tháng 8 năm 1992), India Stumbles in Rush to a Free Market Economy, The New York Times, truy cập 22 tháng 7 năm 2011
- World Economic Outlook Update (PDF), Quỹ Tiền tệ Quốc tế, Tháng 6 năm 2011, truy cập 22 tháng 7 năm 2011
- Nayak, P. B.; Goldar, B.; Agrawal, P. (10 tháng 11 năm 2010), India's Economy and Growth: Essays in Honour of V. K. R. V. Rao, SAGE Publications, ISBN 978-81-321-0452-0
- Pal, P.; Ghosh, J (tháng 7 năm 2007), “Inequality in India: A Survey of Recent Trends” (PDF), Economic and Social Affairs: DESA Working Paper No. 45 (Liên Hiệp Quốc), truy cập 23 tháng 7 năm 2011
- The World in 2050: The Accelerating Shift of Global Economic Power: Challenges and Opportunities (PDF), PricewaterhouseCoopers, 1 tháng 1 năm 2011, truy cập 23 tháng 7 năm 2011
- Schwab, K. (2010), The Global Competitiveness Report 2010–2011 (PDF), World Economic Forum, truy cập 10 tháng 5 năm 2011
- Sheth, N. (28 tháng 5 năm 2009), “Outlook for Outsourcing Spending Brightens”, The Wall Street Journal, truy cập 3 tháng 10 năm 2010
- Srivastava, V. C. (2008), “Introduction”, trong V.C. Srivastava, Lallanji Gopal, D.P. Chattopadhyaya, History of Agriculture in India (p to c1200 AD), History of Science, Philosophy and Culture In Indian Civization, V (Part 1), Concept Publishing Co, ISBN 8180695212
- Information Note to the Press (Press Release No. 143/2012) (PDF), Telecom Regulatory Authority of India, 4 tháng 7 năm 2012, truy cập 1 tháng 4 năm 2012
- Exporters Get Wider Market Reach, The Times of India, 28 tháng 8 năm 2009, truy cập 23 tháng 7 năm 2011
- Corruption Perception Index 2010—India Continues to be Corrupt (PDF), Transparency International, 26 tháng 10 năm 2011, truy cập 23 tháng 7 năm 2011
- New Global Poverty Estimates—What It Means for India, Ngân hàng Thế giới, truy cập 23 tháng 7 năm 2011
- “India: Undernourished Children—A Call for Reform and Action”, Ngân hàng Thế giới, truy cập 23 tháng 7 năm 2011
- Inclusive Growth and Service Delivery: Building on India's Success (PDF), Ngân hàng Thế giới, 29 tháng 5 năm 2006, truy cập 7 tháng 5 năm 2009
- India Country Overview tháng 9 năm 2010, Ngân hàng Thế giới, Tháng 9 năm 2010, truy cập 23 tháng 7 năm 2011
- Trade to Expand by 9.5% in 2010 After a Dismal 2009, WTO Reports, Tổ chức Thương mại Thế giới, 26 tháng 3 năm 2010, truy cập 23 tháng 7 năm 2011
- Yep, E. (27 tháng 9 năm 2011), ReNew Wind Power Gets $201 Million Goldman Investment, The Wall Street Journal, truy cập 27 tháng 9 năm 2011
- Indian IT-BPO Industry, NASSCOM, 2011-2012, truy cập 22 tháng 6 năm 2012
- UNDERSTANDING THE WTO: THE ORGANIZATION Members and Observers, WTO, 1995, truy cập 23 tháng 6 năm 2012
- Bonner, A. (1990), Averting the Apocalypse: Social Movements in India Today, Duke University Press, ISBN 978-0-8223-1048-8, truy cập 24 tháng 7 năm 2011
- Dev, S. M.; Rao, N. C. (2009), India: Perspectives on Equitable Development, Academic Foundation, ISBN 978-81-7188-685-2
- Dharwadker, A. (28 tháng 10 năm 2010), “Representing India's Pasts: Time, Culture, and Problems of Performance Historiography”, trong Canning, C. M.; Postlewait, T., Representing the Past: Essays in Performance Historiography, University of Iowa Press, ISBN 978-1-58729-905-6, truy cập 24 tháng 7 năm 2011
- Drèze, J.; Goyal, A. (9 tháng 2 năm 2009), “The Future of Mid-Day Meals”, trong Baru, R. V., School Health Services in India: The Social and Economic Contexts, SAGE Publications, ISBN 978-81-7829-873-3
- Dyson, T.; Visaria, P. (7 tháng 7 năm 2005), “Migration and Urbanisation: Retrospect and Prospects”, trong Dyson, T.; Casses, R.; Visaria, L., Twenty-First Century India: Population, Economy, Human Development, and the Environment, Oxford University Press, ISBN 978-0-19-928382-8
- Garg, S. C. (19 tháng 4 năm 2005), Mobilizing Urban Infrastructure Finance in India (PDF), Ngân hàng Thế giới, truy cập 27 tháng 1 năm 2010
- Mallikarjun, B (tháng 11 năm 2004), “Fifty Years of Language Planning for Modern Hindi—The Official Language of India”, Language in India 4 (11), ISSN 19302940, truy cập 24 tháng 7 năm 2011
- Notification No. 2/8/60-O.L, Bộ Nội chính Ấn Độ, 27 tháng 4 năm 1960, truy cập 13 tháng 5 năm 2011
- “Religious Composition”, Office of the Registrar General and Census Commissioner (Bộ Nội chính Ấn Độ), 2010–2011, truy cập 23 tháng 7 năm 2011
- “Census Data 2001”, Office of the Registrar General and Census Commissioner (Bộ Nội chính Ấn Độ), 2010–2011, truy cập 22 tháng 7 năm 2011
- Ottenheimer, H. J. (2008), The Anthropology of Language: An Introduction to Linguistic Anthropology, Cengage, ISBN 978-0-495-50884-7
- Ratna, U. (2007), “Interface Between Urban and Rural Development in India”, trong Dutt, A. K.; Thakur, B, City, Society, and Planning 1, Concept, ISBN 978-81-8069-459-2
- Robinson, S. (1 tháng 5 năm 2008), “India's Medical Emergency”, Time, truy cập 23 tháng 7 năm 2011
- Rorabacher, J. A. (2010), Hunger and Poverty in South Asia, Gyan, ISBN 978-81-212-1027-0
- Singh, S. (2004), Library and Literacy Movement for National Development, Concept, ISBN 978-81-8069-065-5
- Skolnik, R. L. (2008), Essentials of Global Health, Jones & Bartlett Learning, ISBN 978-0-7637-3421-3
- Country Cooperation Strategy: India (PDF), Tổ chức Y tế Thế giới, Tháng 11 năm 2006, truy cập 23 tháng 7 năm 2011
- Binmore, K. G. (27 tháng 3 năm 2007), Playing for Real: A Text on Game Theory, Oxford University Press, ISBN 978-0-19-530057-4
- Bladholm, L. (12 tháng 8 năm 2000), The Indian Grocery Store Demystified (ấn bản 1), Macmillan Publishers, ISBN 978-1-58063-143-3
- “Saina Nehwal: India's Badminton Star and "New Woman"”, BBC News, 1 tháng 8 năm 2010, truy cập 5 tháng 10 năm 2010
- “Commonwealth Games 2010: India Dominate Shooting Medals”, BBC News, 7 tháng 10 năm 2010, truy cập 3 tháng 6 năm 2011
- Chopra, P. (18 tháng 3 năm 2011), A Joint Enterprise: Indian Elites and the Making of British Bombay, University of Minnesota Press, ISBN 978-0-8166-7037-6
- Cullen-Dupont, K. (tháng 7 năm 2009), Human Trafficking (ấn bản 1), Infobase Publishing, ISBN 978-0-8160-7545-4
- Das, S. K. (1 tháng 1 năm 2005), A History of Indian Literature, 500–1399: From Courtly to the Popular, Sahitya Akademi, ISBN 978-81-260-2171-0
- Datta, A. (2006), The Encyclopaedia of Indian Literature 2, Sahitya Akademi, ISBN 978-81-260-1194-0
- Dehejia, R. S. (7 tháng 11 năm 2011), “Indian Grand Prix Vs. Encephalitis?”, The Wall Street Journal, truy cập 20 tháng 12 năm 2011
- Deutsch, E. (30 tháng 4 năm 1969), Advaita Vedānta: A Philosophical Reconstruction, University of Hawaii Press, ISBN 978-0-8248-0271-4
- Dissanayake, W. K.; Gokulsing, M. (tháng 5 năm 2004), Indian Popular Cinema: A Narrative of Cultural Change (ấn bản 2), Trentham Books, ISBN 978-1-85856-329-9
- Southern Movies Account for over 75% of Film Revenues, The Economic Times, 18 tháng 11 năm 2009, truy cập 18 tháng 6 năm 2011
- Indian Dance, “South Asian Arts”, Encyclopædia Britannica, truy cập 17 tháng 7 năm 2011
- “Tamil Literature”, Encyclopædia Britannica, 2008, truy cập 24 tháng 7 năm 2011
- Eraly, A. (2008), India, Penguin Books, ISBN 978-0-7566-4952-4, truy cập 24 tháng 7 năm 2011
- Hart, G. L. (tháng 8 năm 1975), Poems of Ancient Tamil: Their Milieu and Their Sanskrit Counterparts (ấn bản 1), University of California Press, ISBN 978-0-520-02672-8
- Heehs, P. biên tập (1 tháng 9 năm 2002), Indian Religions: A Historical Reader of Spiritual Expression and Experience, New York University Press, ISBN 978-0-8147-3650-0, truy cập 24 tháng 7 năm 2011
- Henderson, C. E. (2002), Culture and Customs of India, Greenwood Publishing Group, ISBN 978-0-313-30513-9
- Hoiberg, D.; Ramchandani, I. (2000), Students' Britannica India: Select Essays, Popular Prakashan, ISBN 978-0-85229-762-9
- Johnson, W. J. biên tập (1 tháng 9 năm 2008), The Sauptikaparvan of the Mahabharata: The Massacre at Night, Oxford World's Classics (ấn bản 2), Oxford University Press, ISBN 978-0-19-282361-8
- Jones, G.; Ramdas, K. (2005), (Un)tying the Knot: Ideal and Reality in Asian Marriage, National University of Singapore Press, ISBN 978-981-05-1428-0
- Kālidāsa; Johnson, W. J. (15 tháng 11 năm 2001), The Recognition of Śakuntalā: A Play in Seven Acts, Oxford University Press, ISBN 978-0-19-283911-4
- Kaminsky, Arnold P.; Long, Roger D. (30 tháng 9 năm 2011), India Today: An Encyclopedia of Life in the Republic: An Encyclopedia of Life in the Republic, ABC-CLIO, ISBN 978-0-313-37462-3, truy cập 12 tháng 9 năm 2012</ref>
- Karanth, S. K. (tháng 10 năm 2002), Yakṣagāna, Abhinav Publications, ISBN 978-81-7017-357-1
- Kiple, K. F.; Ornelas, K. C. biên tập (2000), The Cambridge World History of Food, Cambridge: Cambridge University Press, ISBN 978-0-521-40216-3
- Kuiper, K. biên tập (1 tháng 7 năm 2010), The Culture of India, Britannica Educational Publishing, ISBN 978-1-61530-203-1, truy cập 24 tháng 7 năm 2011
- Kumar, V. (tháng 1 năm 2000), Vastushastra, All You Wanted to Know About Series (ấn bản 2), Sterling Publishing, ISBN 978-81-207-2199-9
- Lal, A. (2004), The Oxford Companion to Indian Theatre, Oxford University Press, ISBN 978-0-19-564446-3, truy cập 24 tháng 7 năm 2011
- Lang, J.; Moleski, W. (1 tháng 12 năm 2010), Functionalism Revisited, Ashgate Publishing, ISBN 978-1-4094-0701-0
- MacDonell, A. A. (2004), A History of Sanskrit Literature, Kessinger Publishing, ISBN 978-1-4179-0619-2
- Majumdar, B.; Bandyopadhyay, K. (2006), A Social History of Indian Football: Striving To Score, Routledge, ISBN 978-0-415-34835-5
- Makar, E. M. (2007), An American's Guide to Doing Business in India, Adams, ISBN 978-1-59869-211-2
- Massey, R.; Massey, J (1998), The Music of India, Abhinav Publications, ISBN 978-81-7017-332-8
- Medora, N. (2003), “Mate Selection in Contemporary India: Love Marriages Versus Arranged Marriages”, trong Hamon, R. R.; Ingoldsby, B. B., Mate Selection Across Cultures, SAGE Publications, tr. 209–230, ISBN 978-0-7619-2592-7
- Messner, W. (2009), Working with India. The Softer Aspects of a Successful Collaboration with the Indian IT & BPO Industry, Springer, ISBN 978-3-540-89077-5
- Messner, W. (2012), Engaging with India. How to Manage the Softer Aspects of a Global Collaboration, Createspace, ISBN 978-1-466244900
- “Indian Readership Survey 2012 Q1: Topline Findings” (PDF). Media Research Users Council. Growth: Literacy & Media Consumption. Truy cập 12 tháng 9 năm 2012.
- Mehta, Nalin (30 tháng 7 năm 2008), Television in India: Satellites, Politics and Cultural Change, Taylor & Francis US, ISBN 978-0-415-44759-1, truy cập 12 tháng 9 năm 2012
- Is Boxing the New Cricket?, Mint, 24 tháng 9 năm 2010, truy cập 5 tháng 10 năm 2010
- Nakamura, H. (1 tháng 4 năm 1999), Indian Buddhism: A Survey with Bibliographical Notes, Buddhist Tradition Series (ấn bản 12), Motilal Banarsidass, ISBN 978-81-208-0272-8
- Puskar-Pasewicz, M. (16 tháng 9 năm 2010), Cultural Encyclopedia of Vegetarianism, Greenwood Publishing Group, ISBN 978-0-313-37556-9
- Raghavan, S. (23 tháng 10 năm 2006), Handbook of Spices, Seasonings, and Flavorings (ấn bản 2), CRC Press, ISBN 978-0-8493-2842-8
- Raichlen, S. (10 tháng 5 năm 2011), A Tandoor Oven Brings India's Heat to the Backyard, The New York Times, truy cập 14 tháng 6 năm 2011
- Rajadhyaksha, A.; Willemen, P. biên tập (22 tháng 1 năm 1999), Encyclopaedia of Indian Cinema (ấn bản 2), British Film Institute, ISBN 978-0-85170-669-6
- Ramanujan, A. K. (dịch giả) (15 tháng 10 năm 1985), Poems of Love and War: From the Eight Anthologies and the Ten Long Poems of Classical Tamil, New York: Columbia University Press, tr. ix–x, ISBN 978-0-231-05107-1
- Rawat, Ramnarayan S (23 tháng 3 năm 2011), Reconsidering Untouchability: Chamars and Dalit History in North India, Indiana University Press, ISBN 978-0-253-22262-6
- Anand Crowned World Champion, Rediff, 29 tháng 10 năm 2008, truy cập 29 tháng 10 năm 2008
- Roberts, N. W. (12 tháng 7 năm 2004), Building Type Basics for Places of Worship (ấn bản 1), John Wiley & Sons, ISBN 978-0-471-22568-3
- Sarma, S. (1 tháng 1 năm 2009), A History of Indian Literature 1 (ấn bản 2), Motilal Banarsidass, ISBN 978-81-208-0264-3
- Schoenhals, M. (22 tháng 11 năm 2003), Intimate Exclusion: Race and Caste Turned Inside Out, University Press of America, ISBN 978-0-7618-2697-2
- Schwartzberg, J. (2011), Caste, “India”, Encyclopædia Britannica, truy cập 17 tháng 7 năm 2011
- Sen, A. (5 tháng 9 năm 2006), The Argumentative Indian: Writings on Indian History, Culture, and Identity (ấn bản 1), Picador, ISBN 978-0-312-42602-6
- Seymour, S.C. (28 tháng 1 năm 1999), Women, Family, and Child Care in India: A World in Transition, Cambridge University Press, ISBN 978-0-521-59884-2
- Silverman, S. (10 tháng 10 năm 2007), Vastu: Transcendental Home Design in Harmony with Nature, Gibbs Smith, ISBN 978-1-4236-0132-6
- Tarlo, E. (1 tháng 9 năm 1996), Clothing Matters: Dress and Identity in India (ấn bản 1), University of Chicago Press, ISBN 978-0-226-78976-7, truy cập 24 tháng 7 năm 2011
- Sawant Shoots Historic Gold at World Championships, The Times of India, 9 tháng 8 năm 2010, truy cập 25 tháng 5 năm 2011
- Taj Mahal, UNESCO, truy cập 3 tháng 3 năm 2012
- India Aims for Center Court, The Wall Street Journal, 11 tháng 9 năm 2009, truy cập 29 tháng 9 năm 2010
- Wengell, D. L.; Gabriel, N. (1 tháng 9 năm 2008), Educational Opportunities in Integrative Medicine: The A-to-Z Healing Arts Guide and Professional Resource Directory (ấn bản 1), The Hunter Press, ISBN 978-0-9776552-4-3
- “Intergenerational Mobility for Dalits Is Visible, Albeit Limited” (PDF). World Bank Report 2011. doi:10.1596/978-0-8213-8689-7. Truy cập 6 tháng 9 năm 2012.
- Xavier, L. (12 tháng 9 năm 2010), Sushil Kumar Wins Gold in World Wrestling Championship, The Times of India, truy cập 5 tháng 10 năm 2010
- Yadav, S. S.; McNeil, D.; Stevenson, P. C. (23 tháng 10 năm 2007), Lentil: An Ancient Crop for Modern Times, Springer, ISBN 978-1-4020-6312-1
- Zvelebil, K. V. (1 tháng 8 năm 1997), Companion Studies to the History of Tamil Literature, Brill Publishers, ISBN 978-90-04-09365-2
Liên kết ngoài
Tìm thêm về Ấn Độ tại những đồng dự án của Wikipedia: | |
Từ điển ở Wiktionary | |
Sách ở Wikibooks | |
Cẩm nang du lịch ở Wikivoyage | |
Hồ sơ ở Wikiquote | |
Văn kiện ở Wikisource | |
Hình ảnh và phương tiện ở Commons | |
Tin tức ở Wikinews | |
Tài liệu giáo dục ở Wikiversity |
- Cổng thông tin quốc gia của Chính phủ Ấn Độ
- Mục “India” trên trang của CIA World Factbook.
- Ấn Độ tại Dự án thư viện mở (trang đề nghị)
- Sơ lược Ấn Độ từ BBC News
- Mục từ Ấn Độ trên Encyclopædia Britannica
- Ấn Độ trên Thư viện Thông tin Chính phủ UCB
|
Nhà thờ chính tòa Köln
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nhà thờ chính tòa Köln | |
---|---|
Di sản thế giới UNESCO | |
Quốc gia | Đức |
Kiểu | Văn hoá |
Hạng mục | i, ii, iv |
Tham khảo | 292 |
Vùng UNESCO | Châu Âu |
Lịch sử công nhận | |
Công nhận | 1996 (kì thứ 20th) |
Bị đe dọa | 2004-2006 |
Nhà thờ lớn Köln là nhà thờ được xây dựng theo phong cách Gothic lớn thứ ba trên thế giới (sau Nhà thờ lớn Sevilla và Nhà thờ lớn Milano). Nhiều nhà sử học về nghệ thuật nhận định công trình xây dựng này là một sự phối hợp hài hòa có một không hai của tất cả các nguyên tố xây dựng và của trang trí trong phong cách kiến trúc Gothic thời Trung cổ. Vì lý do này mà năm 1996 nhà thờ lớn Köln được đưa vào trong danh sách di sản thế giới của UNESCO[1]. Diện tích khổng lồ của mặt tây với hai tháp tổng cộng trên 7.000 m² cho đến nay vẫn chưa có nơi nào vượt qua được[2].
Từ 1880 đến 1888 Nhà thờ lớn Köln đã là ngôi nhà cao nhất thế giới[3]. Thêm vào đó, nhà thờ là điểm tham quan nổi tiếng nhất ở Đức: Năm 2001 có 5 triệu khách tham quan, năm 2004 là 6 triệu khách tham quan đến từ khắp nơi trên thế giới[4].Và trong một ngày đón khoảng 20.000 khách tham quan [5].
Mục lục
Lịch sử
Thời Thượng cổ và thời kỳ đầu của Trung cổ
Khai quật dưới nhà thờ đã tìm thấy di tích của nhiều nhà dân cư người La Mã từ thế kỷ thứ 1 đến thế kỷ thứ 4. Vào cuối thế kỷ thứ 4 hay trong thế kỷ thứ 5 dưới chỗ ngồi của đội hợp xướng nhà thờ ngày nay là một nơi tu niệm dài từ 30 m đến 40 m, có thể đã là nhà thờ đầu tiên. Trong thế kỷ thứ 5 hay chậm nhất là vào đầu thế kỷ thứ 6 tòa nhà này đã được thay thế bằng một kiến trúc lớn tương tự, trong những năm của thập niên 530 đã là nơi chứa mộ của các vị hầu tước người Frank giàu có. Các ngôi mộ này là bằng chứng cho việc sử dụng công trình xây dựng này như một nhà thờ. Trong nửa sau của thế kỷ thứ 6 một ngôi nhà thờ mới đã thành hình, và theo như các khai quật khảo cổ học, với một bục giảng kinh có dạng như một lổ khóa bao trùm lên công trình cũ. Qua việc mở rộng về hướng tây, nhà thờ này lớn tương tự như Nhà thờ chính tòa Cũ tiếp theo sau đó và hẳn đã tồn tại cho đến thế kỷ thứ 9.Nhà thờ chính tòa Cũ
Nhà thờ chính tòa Cũ là công trình xây dựng tiền thân của nhà thờ lớn ngày nay. Nhà thờ được khánh thành vào ngày 27 tháng 9 năm 873. Nhà thờ chính tòa Cũ có một tòa nhà dài, ở hai đầu là hai tòa nhà ngang. Nhà thờ chính tòa Cũ là kiểu mẫu cho rất nhiều nhà thờ hình thành trong châu Âu trong thời gian đó đấy và đã chứa chiếc Thập tự giá Gero hình thành từ thế kỷ 10 là chiếc thập tự giá cổ thứ nhì của phương Tây[6]. Trong năm 1248 người ta muốn giật sập Nhà thờ chính tòa Cũ dần dần để có thể bắt đầu xây dựng một nhà thờ kiểu Gothic mới. Thế nhưng khi đốt cháy cánh hát hợp xướng phía Đông năm 1248</ref>[7], gần như toàn bộ nhà thờ đã cháy trụi. Phần phía tây được tái kiến thiết tạm thời để có thể hành lễ. Ngay trong năm đấy, công việc xây dựng Nhà thờ lớn Köln ngày nay đã được bắt đầu[8].Nhà thờ lớn của Köln ngày nay
Năm 1164 tổng giám mục của Köln là Rainald von Dassel đã mang di cốt của ba vị vua thánh từ Milano về Köln. Đấy là quà tặng của hoàng đế Friedrich I cho vị thủ tướng của ông từ những chiến lợi phẩm chiếm đoạt được. Chính những hài cốt này đã dẫn đến kế hoạch xây dựng một nhà thờ mới trong năm 1225 [9] vì nhà thờ cũ đã không thể đối phó với làn sóng người hành hương và trở thành quá nhỏ.[10]Công trình xây dựng Gothic này được bắt đầu vào ngày 15 tháng 8 năm 1248[11][12][13][14][15] theo kế hoạch của Gerhard von Rile. Vật liệu xây dựng chủ yếu là đá trachyt từ vùng núi Siebengebirge. Nhà thờ Đức Bà Amiens được chọn làm kiểu mẫu. Sau Trận Worringen năm 1288[16] Köln trên thực tế trở thành thành phố độc lập trong Đế quốc La Mã Thần thánh vì thế nên mặc dù là nhà thờ lớn trên danh nghĩa vẫn là trụ sở của tổng giám mục nhưng hiếm khi ông lại vào nhà thờ này[9][17]. Lúc đầu việc này không ảnh hưởng đến tiến trình xây dựng vì chi phí xây dựng do giáo hội Köln chi trả. Dàn đồng ca được khánh thành năm 1322. Năm 1410 tháp phía nam đã có tầng thứ hai và ít lâu sau đấy chuông đã được treo trong tháp chuông. Vào cuối thế kỷ 15 tốc độ xây dựng ngày càng giảm đi. Vào khoảng năm 1510 việc xây dựng ngưng trệ vì nhiều vấn đề về tài chính và thiếu sự chú ý, cuối cùng, vào năm 1560, giáo hội đã ngưng hẳn không chi trả tiền để tiếp tục xây dựng nữa. Trên 300 năm liền nhà thờ lớn không hoàn thành với tháp phía nam dở dang đã là hình dáng của thành phố. Lưu truyền từ thời gian này là câu nói của người dân Köln rằng khi nhà thờ lớn hoàn thành thì ngày đấy là ngày tận thế.
Năm 1814[18] phân nửa bản vẽ mặt ngoài to 4,05 mét của người nối bước thứ hai của Gerhard được Georg Moller tìm thấy tại thành phố Darmstadt, nửa kia do Sulpiz Boisserée tìm thấy tại Paris năm 1816. Vào khoảng thời gian chuyển tiếp của thế kỷ 19, dư luận lại bắt đầu chú ý đến công trình xây dựng nhà thờ dở dang, lúc đấy là biểu tượng cho sự thống nhất Đức trong phong trào quốc gia dân tộc đang trỗi dậy mạnh mẽ. Bên cạnh những người khác, Joseph Görres và Silpiz Boisseré là những động lực thúc đẩy chính cho việc hoàn thành công trình xây dựng này. Vào ngày 4 tháng 9 năm 1842 vua Phổ Friedrich Wilhelm IV[19] và tổng giám mục sau này là Johannes von Geisel đã làm lễ đặt viên đá tiếp tục xây dựng. Hòn đá được kéo lên và xây vào tường ờ tháp nam. Nhà nước Phổ cũng tham gia đóng góp về tài chính[20]. Ngay trước buổi lễ đặt viên đá, Hiệp hội trung tâm xây dựng nhà thờ lớn đã được thành lập mà việc quyên tiền cho công trình xây dựng thuộc vào trong số những nhiệm vụ quan trọng nhất.[21]
Công trình xây dựng Nhà thờ lớn được hoàn thành vào năm 1880[22], trung thành với các bản vẽ của người xây nhà thờ Köln thời Trung cổ và theo bản vẽ mặt ngoài từ khoảng năm 1280. Thế nhưng mặt ngoài của nhà ngang lại là sáng tạo của thế kỷ 19 vì không có bản vẽ nào của thời Trung cổ cho phần này. Kỹ thuật hiện đại nhất đã được sử dụng trong lúc xây dựng, đặc biệt là vào lúc xây mái, là một cấu trúc bằng sắt đương đại. Sau khi hoàn thành, Nhà thờ lớn Köln với độ cao 157,38 m đã là tòa nhà cao nhất thế giới 8 năm liền. Độ khoảng 300.000 tấn đá đã được sử dụng.
Lễ hoàn thành công trình xây dựng nhà thờ được cử hành vào ngày 15 tháng 10 năm 1880 và là dịp để vua Wilhelm I phô trương thanh thế nơi công cộng và cũng là một nguyên tố tạo tính cách cho Đế chế Đức được thành lập 9 năm trước đó. Thế nhưng buổi lễ này được tiến hành trong thời kỳ mâu thuẫn tôn giáo. Tổng giám mục đương nhiệm của Köln đang bị xua đuổi ra khỏi thành phố và nhiều thành viên của giới tư bản Köln đã không đến tham dự chào đón vị hoàng đế theo đạo Tin Lành.
Nhà thờ đã bị hư hại trong Chiến tranh thế giới lần thứ hai, cũng do trúng 70 quả bom. Bom cháy đã được những người canh gác trong và trên nhà thờ dập tắt ngay lập tức. Việc khai quật khảo cổ do Otto Doppelfeld lãnh đạo được bắt đầu trong năm 1946 và kéo dài cho đến 1997. Năm 1948 lễ kỷ niệm 700 năm ngày đặt viên đá đầu tiên được tiến hành trong nhà thờ lớn lúc đấy đang bị hư hại nặng. Bắt đầu từ năm 1956 nhà thờ lại tiếp tục thực hiện chức năng của nó cho người theo đạo.
Một vụ trộm đã xảy ra trong đêm ngày 2 tháng 11 năm 1975 khi 3 kẻ trộm dùng thang dây và dụng cụ leo núi thông qua lối thông hơi đột nhập vào phòng đựng bảo vật cũ của nhà thờ trong dãy nhà ngang phía bắc – được cho là an toàn vào thời gian đấy – mang đi nhiều bình bày bánh thánh và thập tự giá quý giá. Nhờ vào sự giúp đỡ của giới giang hồ Köln mà những kẻ trộm đã bị bắt và đã lãnh án tù giam nhiều năm. Họ đã nấu chảy mộtphần những thứ đã trộm được như chiếc bình bày bánh thánh bằng vàng từ năm 1657.
Từ ngày 21 tháng 10 năm 2000, các bảo vật được trưng bày trong hầm từ thế kỷ 13 ở mặt phía bắc của nhà thờ. Kho bảo vật của nhà thờ lớn Köln bao gồm 6 phòng trên 3 tầng. Nhiều hòm quý giá, dụng cụ và áo choàng dùng làm nghi thức tế lễ cũng như là biểu trưng của các tổng giám mục và linh mục của nhà thờ từ thế kỷ thứ 4 đến thế kỷ 20, tượng từ thời Trung cổ và di tích mộ người Frank được trưng bày trên diện tích vào khoảng 500 m2.
Di sản thế giới
Năm 1996 Nhà thờ lớn Köln được đánh giá là một trong những công trình kiến trúc Gothic đẹp nhất châu Âu và được công nhận là di sản thế giới của UNESCO[1]. Vào ngày 5 tháng 7 năm 2004 Ủy ban di sản thế giới của UNESCO đã đưa nhà thờ lớn Köln vào danh sách đỏ của di sản thế giới đang bị đe dọa do có kế hoạch xây dựng nhà cao tầng bên bờ sông Rhein đối diện với nhà thờ. Sau nhiều cuộc thương lượng, vào ngày 13 tháng 7 năm 2005 trong đại hội UNESCO tại thành phố Durban của Cộng hòa Nam Phi, quyết định cuối cùng được hoãn đi 1 năm để cơ quan chức năng của Đức có cơ hội cung cấp thông tin về kế hoạch xây dựng trong khu Köln-Deutz.Trong tháng 7 năm 2006, Ủy ban di sản thế giới trong hội nghị lần thứ 30 tại Vilnius (Litva) quyết định đưa nhà thờ lớn Köln ra khỏi danh sách các di sản thế giới đang bị đe dọa do kế hoạch xây dựng hữu ngạn sông Rhein đã được thay đổi; ngoài "Köln Triangle" ra sẽ không có ngôi nhà cao tầng nào được xây dựng nữa.
Số liệu
Chiều dài tổng cộng bên ngoài | 144,58 m |
Chiều ngang tổng cộng bên ngoài | 86,25 m |
Chiều ngang bên trong của tòa nhà dài | 45,19 m |
Chiều ngang của mặt ngoài phía tây | 61,54 m |
Độ cao của tháp bắc | 157,38 m |
Độ cao của tháp nam | 157,31 m |
Chuông | 11 |
Chiều cao của tòa nhà ngang | 69,95 m |
Độ cao bên trong của gian giữa | 43,35 m |
Diện tích cửa sổ (dự tính) | 10.000 m² |
Diện tích mái (dự tính) | 12.000 m² |
Chỗ ngồi | 4000 |
Phí tổn bảo trì hằng năm | 10 triệu € |
Địa chỉ | Domkloster 4, 50667 Köln |
Tham khảo
- ^ a ă UNESCO World Heritage Sites, Nhà thờ Cologne
- ^ A Little Closer to Heaven, Các video chính thức, các trang web chính thức của Nhà thờ Cologne, một yêu cầu về ngày 04 tháng 3 năm 2010
- ^ Nhà thờ Cologne Trang mạng chính thức
- ^ Arnod Wolff, verbericht ueber die Ergebnisse der Koelner Domgrabung 1946-1983, Opladen 1983
- ^ A Little Closer to Heaven, the official movie, Cologne Cathedral website. Retrieved 7 November 2010.
- ^ Stefanie Lieb (Hrsg.): Stil und Form (Festschrift Binding), "Architekturdarstellungen in der ottonischen Buchmalerei: Der Alte Kölner Dom im Hillinus-Codex", Darmstadt 2001, S. 32-45
- ^ Arnold Wolff, Toni Diederich (Hrsg.) (1990), p. 9
- ^ Baptismal font behind cathedral
- ^ Lỗi chú thích: Thẻ
<ref>
sai; không có nội dung trong thẻ ref có tênDomforum
- ^ Neuerscheinung. »Der Schrein der Heiligen Drei Könige«, dombau-koeln.de, 18 tháng 8, 2006
- ^ “Cologne Cathedral official website”. Koelner-dom.de. Truy cập ngày 15 tháng 8 năm 2010.
- ^ Franz Mertens, Ueber den Dom zu Koeln und di franzoesische Bauschule in Deutschland, Koeln 1841.
- ^ Ludger Honnefelder, Norbert Trippen, Arnold Wolff (1998), p. 17
- ^ Ludger Honnefelder, Norbert Trippen, Arnold Wolff (1998), p. 20
- ^ Arnold Wolff: [1], koelner-dom.de
- ^ Arnold Wolff, Toni Diederich (Hrsg.) (1990), p. 32
- ^ Arnold Wolff, Toni Diederich (Hrsg.) (1990), p. 31
- ^ Ludger Honnefelder, Norbert Trippen, Arnold Wolff (1998), p. 185~p. 232
- ^ Arnold Wolff, Toni Diederich (Hrsg.) (1990), p. 36~37
- ^ Arnold Wolff, Toni Diederich (Hrsg.) (1990), p. 36
- ^ Arnold Wolff, Toni Diederich (Hrsg.) (1990), p. 39
- ^ Paul Clemen, Der Dom zu Köln. In: Kunstdenkmäler der Rheinprovinz, 6 III, S. 62–63.
Liên kết ngoài
Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về Nhà thờ lớn Köln |
- Trang Web chính thức
- UNESCO World Heritage List: Cologne Cathedral (tiếng Anh)
- Video và hình ảnh về các vật báu của Nhà thờ lớn Köln (tiếng Đức)
Trước | Nhà thờ chính tòa Köln | Sau | |||
Nhà thờ Đức Bà Rouen, Rouen, Pháp |
|
Tượng đài Washington, Washington DC, Hoa Kỳ |
Wikimedia Commons có thêm thể loại hình ảnh và phương tiện truyền tải về Nhà thờ chính tòa Köln |
Thể loại:
Kênh đào Panama (tiếng Tây Ban Nha: Canal de Panamá) là kênh đào chính cho tàu thuyền đi qua, cắt ngang eo đất Panama tại Trung Mỹ, nối Đại Tây Dương với Thái Bình Dương.
Việc xây dựng kênh đào này là một trong số những dự án công trình lớn
nhất và khó khăn nhất đã thực hiện từ trước đến nay. Nó có ảnh hưởng to
lớn đến vận tải thủy giữa hai đại dương, xóa bỏ hành trình dài và nguy
hiểm thông qua eo biển Drake và Mũi Sừng (Cape Horn) ở điểm cực nam của Nam Mỹ. Một chuyến đi của tàu thuyền từ New York tới San Francisco qua kênh đào này chỉ vượt qua khoảng cách 9.500 km (6.000 dặm), chưa tới một nửa khoảng cách của hành trình trước đây qua mũi đất Horn (22.500 km hay 14.000 dặm)[1]. Mặc dù ý tưởng về kênh đào tại Panama đã có từ đầu thế kỷ 16, nhưng cố gắng đầu tiên trong việc xây dựng kênh đào này chỉ có vào năm 1880 dưới sự lãnh đạo của Pháp. Sau khi cố gắng này sụp đổ, công trình này cuối cùng đã được Hoa Kỳ
hoàn thành và kênh đào mở cửa vào năm 1914. Việc xây dựng 77 km (48
dặm) chiều dài của kênh đào đã vấp phải các trở ngại, bao gồm bệnh dịch
(cụ thể là bệnh sốt rét và bệnh sốt vàng) cũng như các vụ lở đất. Ước tính có tới 27.500 công nhân đã chết trong quá trình xây dựng kênh đào.
Kể từ khi mở cửa, kênh đào đã thu được thành công to lớn và tiếp tục là đường dẫn then chốt trong hàng hải quốc tế. Mỗi năm có hơn 14.000 tàu thuyền đi qua kênh đào, mang theo trên 203 triệu tấn hàng hóa. Vào năm 2002 nói chung có khoảng 800.000 tàu đã sử dụng kênh đào[2].
Kênh đào có thể tiếp nhận các tàu thuyền từ các du thuyền tư nhân nhỏ tới các tàu thương mại tương đối lớn. Kích thước tối đa của tàu thuyền có thể sử dụng kênh đào được gọi là Panamax; một lượng đang gia tăng các tàu thuyền hiện đại vượt quá giới hạn này, được biết đến với tên gọi tàu thuyền hậu Panamax. Một chuyến đi thông thường của tàu hàng qua kênh đào mất khoảng 9 giờ. 14.011 tàu đã đi qua trong năm 2005, với tổng cộng 278,8 triệu tấn, trung bình gần 40 tàu mỗi ngày[3].
Do đặc điểm địa lý của khu vực nên hướng chính của cung đường là đông nam-tây bắc, trong khi hướng toàn thể là từ Thái Bình Dương sang Đại Tây Dương là tây-đông. Mặt khác do mực nước ở Thái Bình Dương cao hơn so với mực nước ở Đại Tây Dương (chênh lệch 20 cm ở khu vực kênh đào này) nên kênh đào cần phải xây các âu tàu để tàu thuyền qua lại dễ dàng
Nhận thấy vị trí chiến lược của Trung Mỹ như là một vùng đất hẹp phân chia hai đại dương lớn, các dạng khác của các liên kết thương mại đã được thử theo thời gian. Kế hoạch Darien chết yểu là một cố gắng được Hoàng gia Scotland vạch ra năm 1698 để thiết lập một lộ trình thương mại trên đất liền, nhưng nó đã bị thất bại do các điều kiện khắc nghiệt nói chung và nó bị từ bỏ năm 1700[6]. Cuối cùng, đường sắt Panama đã được xây dựng xuyên qua eo đất, mở cửa năm 1855.Liên kết trên đất liền này đã làm thuận tiện lớn cho thương mại, và bộ phận quan trọng này của cơ sở hạ tầng đã là yếu tố quan trọng trong việc lựa chọn hành trình kênh đào sau này.
Một hành trình toàn nước giữa các đại dương vẫn được coi là giải pháp lý tưởng, và ý tưởng về kênh đào đã được hồi sinh ở các thời kỳ khác nhau, và đối với các hành trình khác nhau; hành trình thông qua Nicaragua đã đượcnghiên cứu tỉ mỉ vài lần. Cuối cùng, được cổ vũ bởi thành công của kênh đào Suez, người Pháp, dưới sự chỉ huy của Ferdinand de Lesseps, đã bắt đầu xây dựng một kênh đào ngang mực nước biển (nghĩa là không cần các âu thuyền) thông qua tỉnh Panama (khi đó nó là một tỉnh) vào ngày 1 tháng 1 năm 1880. Năm 1893, sau khi đã thực hiện một khối lượng công việc lớn, kế hoạch của người Pháp đã bị từ bỏ do bệnh tật và khó khăn lớn trong xây dựng một kênh đào ngang mực nước biển, cũng như sự thiếu kinh nghiệm hiện trường của người Pháp, chẳng hạn các trận mưa như trút nước xuống đã làm cho các thiết bị bằng thép bị han gỉ[7]. Thiệt hại lớn về nhân lực cũng là một trong các yếu tố chính trong thất bại này: mặc dù không có ghi chép chi tiết nào được giữ, nhưng ước tính có tới 22.000 công nhân đã chết trong thời gian xây dựng chính của người Pháp (1881-1889)[8].
Hoa Kỳ, dưới thời Theodore Roosevelt, đã mua lại thiết bị và các phần đã đào của người Pháp, và bắt đầu công việc vào năm 1904, sau khi hỗ trợ Panama giành độc lập từ tay người Colombia để đổi lấy việc kiểm soát khu vực kênh đào Panama. Một khoản đầu tư đáng kể đã được rót vào để lại trừ bệnh dịch ra khỏi khu vực, cụ thể là bệnh sốt vàng và bệnh sốt rét, mà nguyên nhân của nó gần đây đã được phát hiện (xem Các biện pháp bảo vệ sức khỏe trong xây dựng kênh đào Panama). Khi bệnh dịch đã được kiểm soát và sau khi đã có các công việc đáng kể trong việc chuẩn bị cơ sở hạ tầng, việc xây dựng kênh đào theo bậc thang bằng các âu thuyền đã bắt đầu một cách nghiêm túc. Kênh đào này chính thức mở cửa vào ngày 15 tháng 8 năm 1914 với sự quá cảnh của tàu chở hàng Ancon[9].
Các tiến bộ trong vệ sinh đã làm cho số lượng tử vong giảm xuống trong thời kỳ xây dựng của người Mỹ; nhưng vẫn có 5.609 công nhân chết trong thời kỳ này (1904-1914) [10]. Nó làm cho tổng số người chết trong việc xây dựng kênh đào đạt tới khoảng 27.500 người.
Vào thập niên 1930, người ta nhận thấy việc cấp nước có thể là vấn đề cho kênh đào; điều này dẫn tới việc xây dựng đập Madden ngang qua sông Chagres phía trên hồ Gatún. Đập nước này được hoàn thành năm 1935, đã tạo ra hồ Alajuela, có vai trò như là một nguồn dự trữ nước bổ sung cho kênh đào[11],[12]. Năm 1939, việc xây dựng đã bắt đầu với các hoàn thiện chính tiếp theo: một âu thuyền mới cho kênh đào, mở rộng đủ để cho các tàu chiến lớn hơn mà Hoa Kỳ đang cho đóng hay có kế hoạch đóng trong tương lai có thể đi qua. Công việc này tiếp diễn trong vài năm và một lượng đất đai được đào bới đáng kể đã được thực hiện trên các kênh dẫn vào mới; nhưng dự án này đã bị hủy bỏ sau Đại chiến thế giới lần thứ 2[13][14].
Sau chiến tranh, việc kiểm soát của Hoa Kỳ đối với kênh đào và khu vực kênh đào xung quanh nó trở nên dễ gây bất đồng do quan hệ của Panama và Hoa Kỳ ngày càng trở nên căng thẳng. Nhiều người Panama cảm thấy rằng khu vực kênh đào một cách công bằng phải thuộc về Panama; các cuộc biểu tình của sinh viên đã đối mặt với việc dựng lên hàng rào bảo vệ khu vực cũng như sự gia tăng sự có mặt quân sự[15]. Các đàm phán cho một thỏa thuận mới đã bắt đầu vào năm 1974 và kết quả của nó là hiệp ước Torrijos-Carter. Được tổng thống Hoa Kỳ Jimmy Carter và tướng Omar Torrijos ký ngày 7 tháng 9 năm 1977, nó đã thúc đẩy tiến trình chuyển giao việc tiếp quản kênh đào cho phía Panama một cách miễn phí. Mặc dù có sự mâu thuẫn trong lòng nước Mỹ, nhưng hiệp ước đã dẫn tới việc kiểm soát toàn phần của phía Panama trở nên có hiệu lực vào giữa trưa ngày 31 tháng 12 năm 1999 và việc kiểm soát kênh đào đã được bàn giao cho Cục quản lý kênh đào Panama (ACP).
Trước chuyển giao này, chính quyền Panama đã tổ chức đấu thầu quốc tế để điều đình một hợp đồng 25 năm trong điều hành các cảng vận tải côngtenơ của kênh đào (chủ yếu là tại 2 điểm vào/ra Đại Tây Dương và Thái Bình Dương), công ty thắng thầu là Hutchison Whampoa, một công ty vận tải tại Hồng Kông mà chủ sở hữu của nó là tỷ phú Lý Gia Thành, người giàu nhất châu Á khi đó.
Đối với các tàu côngtenơ, mức phí được tính theo "TEU" (đơn vị tương đương côngtenơ 20 ft), nó là kích thước của côngtenơ 20 ft tiêu chuẩn (20 ft x 8 ft x 8,5 ft hay 6 m x 2,4 m x 2,6 m). Có hiệu lực từ ngày 1 tháng 5 năm 2006, mức phí này là 49 USD/TEU. Người ta có kế hoạch nâng mức phí này thành 54 USD vào ngày 1 tháng 5 năm 2007. Một tàu côngtenơ Panamax có thể chuyên chở tới 4.400 TEU. Mức phí miễn giảm được tính cho các tàu côngtenơ khi chở "đồ dằn"; nghĩa là khi không có hàng (không có hành khách hoặc hàng hóa).
Phần lớn các kiểu tàu khác thanh toán phí theo tấn ròng PC/UMS, trong đó một "tấn" trên thực tế là tương đương với dung tích 100 phút khối (2,8 m³). Vào năm 2006, mức phí này là 2,96 USD/tấn đối với 10.000 tấn đầu tiên, 2,90 USD/tấn cho 10.000 tấn kế tiếp và 2,85 USD/tấn cho các tấn sau đó. Giống như đối với tàu côngtenơ, mức phí miễn giảm được dành cho các tàu chuyên chở "đồ dằn".
Các tàu nhỏ được thu phí theo chiều dài của chúng. Vào năm 2006, các mức phí này là:
Mức phí cao nhất để đi qua kênh đào cho tới nay được tính vào ngày 30 tháng 5 năm 2006 cho tàu côngtenơ Maersk Dellys với trị giá 249.165,00 USD để đi qua. Mức phí thấp nhất là 36 cent cho nhà thám hiểm người Mỹ Richard Halliburton khi ông này bơi qua kênh đào vào năm 1928[17]. Mức phí trung bình là 54.000 USD.
Lượng hàng hóa nhập khẩu từ châu Á đang gia tăng mà trước đây được bốc xếp tại các cảng ven biển phía tây Hoa Kỳ thì ngày nay được chuyên chở thông qua kênh đào để về phía bờ biển phía đông[20]. Tổng lượng tàu quá cảnh trong năm tài chính 1999 là 14.336; giảm xuống 13.154 vào năm 2003, một phần là do các yếu tố kinh tế toàn cầu, nhưng đã tăng lên 14.194 năm 2006 (năm tài chính của kênh đào từ tháng 10 năm trước tới tháng 9 năm sau). Tuy nhiên, nó được kết hợp với sự gia tăng vững chắc trong kích thước trung bình của tàu và trong số lượng các tàu Panamax quá cảnh, vì thế tổng trọng tải qua kênh đào đã tăng đều từ 227,9 triệu tấn PC/UMS trong năm tài chính 1999 tới 296,0 triệu tấn vào năm 2006[21],[3]. Dù chịu ảnh hưởng tiêu cực của kích thước tàu đối với tần suất quá cảnh (ví dụ, các tàu lớn không có khả năng đi qua đường xẻ Gaillard), nhưng nó vẫn cho thấy một sự gia tăng tổng thể đáng kể trong sức chuyên chở của kênh đào, mặc dù tổng số quá cảnh giảm xuống. Kênh đào này đạt kỷ lục lưu thông vào ngày 13 tháng 3 năm 2006, khi có 1.070.023 tấn PC/UMS quá cảnh trong ngày[22], vượt qua kỷ lục cũ 1.005.551 tấn PC/UMS lập vào ngày 16 tháng 3 năm 2004.[23].
Cục quản lý kênh đào đã đầu tư khoảng 1 tỷ USD để mở rộng và hiện đại hóa kênh đào, với mục tiêu tăng khả năng chuyên chở lên 20 %[24]. Cục quản lý kênh đào cũng đề cập tới một loạt các hoàn thiện chủ yếu, bao gồm mở rộng và uốn thẳng đường xẻ Gaillard để giảm các hạn chế đối với tàu thuyền đi ngang qua, nạo vét kênh dẫn lái tại hồ Gatún để làm giảm các hạn chế do bùn lắng và cải thiện việc cấp nước, cũng như việc nạo vét các lối vào kênh đào từ Đại Tây Dương và Thái Bình Dương. Các công việc này được hỗ trợ bằng các tàu thuyền mới, như xà lan khoan mới hay các tàu nạo vét kiểu hút và sự gia tăng của đội tàu kéo lên 20%. Ngoài ra, các hoàn thiện cũng được thực hiện đối với máy móc vận hành kênh đào, bao gồm sự gia tăng và hoàn thiện của đội tàu hỏa kéo, thay thế trên 16 km đường ray của đoàn tàu hỏa kéo, cũng như các máy móc thiết bị kiểm soát âu thuyền mới. Các hoàn thiện cũng được thực hiện đối với hệ thống kiểm soát lưu thông để cho phép kiểm soát hiệu quả hơn đối với tàu thuyền trong kênh đào[25].
Việc rút đi của người Mỹ đã cho phép Panama bán lượng điện dư thừa được sản xuất từ các đập nước của kênh đào, điều mà trước đây chính quyền Hoa Kỳ ngăn cấm. Chỉ 25% lượng điện do các nhà máy thủy điện trong hệ thống kênh đào sản sinh ra đã đủ để vận hành kênh đào này.
Dù cho các lợi ích được thực hiện là có hiệu quả, nhưng kênh đào này sẽ nhanh chóng đạt tới khả năng cực đại của nó. Một phức tạp bổ sung là tỷ lệ các quá cảnh tàu bè lớn (gần với kích thước Panamax) đang gia tăng vững chắc; điều này có thể tiếp tục làm giảm số lượng quá cảnh, thậm chí nếu như trọng tải hàng hóa vẫn tăng. Trong bất kỳ trường hợp nào, nếu kênh đào còn tiếp tục phục vụ cho nhu cầu hàng hải thế giới thì cần phải làm tăng khả năng chuyên chở của nó.
Các nhà phê bình cũng lên tiếng về sự e ngại của họ liên quan tới kế hoạch tăng mức lệ phí qua kênh đào, cho rằng kênh đào Suez có thể trở thành sự thay thế chấp nhận được cho hàng hóa có hành trình từ châu Á tới bờ biển phía đông Hoa Kỳ. Tuy nhiên, nhu cầu về kênh đào Panama vẫn tiếp tục tăng lên.
Tốc độ tan chảy của băng tại Bắc Băng Dương đang gia tăng cũng dẫn tới suy đoán rằng Hành lang Tây Bắc có thể trở thành chấp nhận được cho vận tải thương mại ở một thời điểm nào đó trong tương lai. Hành trình này có thể tiết kiệm 9.300 km (5.800 dặm) trên lộ trình từ châu Á tới châu Âu khi so sánh với việc đi qua kênh đào Panama, có thể dẫn tới sự suy giảm một số lưu thông theo hành trình này. Tuy nhiên, hành trình như thế vẫn còn nhiều vấn đề đáng kể do băng, cũng như các vấn đề về lãnh thổ vẫn chưa giải quyết xong[27],[28].
Một kế hoạch mở rộng tương tự như kế hoạch âu thuyền thứ ba năm 1939, để cho phép một lượng quá cảnh lớn hơn và khả năng tiếp nhận các tàu lớn hơn, đã được nghiên cứu xem xét một thời gian[30]. Ngày 4 tháng 4 năm 2006, BBC thông báo rằng kế hoạch mở rộng này đã được chính quyền Panama thông qua[31]. Đề nghị mở rộng kênh đào này đã được phê chuẩn tại cuộc trưng cầu dân ý với khoảng 80% người đồng ý vào ngày 22 tháng 10 năm 2006[32].
Các âu thuyền mới sẽ được hỗ trợ bằng các đường dẫn vào mới, bao gồm kênh dài 6,2 km (3,8 dặm) tại Miraflores từ âu thuyền tới đường xẻ Gaillard, men theo hồ Miraflores. Mỗi kênh này sẽ rộng 218 m (715 ft), là yêu cầu để các tàu hậu Panamax có thể lưu thông trên kênh theo một hướng trong một thời điểm. Đường xẻ Gaillard và kênh qua hồ Gatún sẽ được mở rộng tới không dưới 280 m (918 ft) trên các phần thẳng và không dưới 366 m (1.200 ft) trên các phần cong. Mực nước tối đa trong hồ Gatún sẽ được nâng lên từ độ cao tham chiếu 26,7 m (87,5 ft) thành 27,1 m (89 ft).
Mỗi bậc thang của âu thuyền sẽ kèm theo 9 bồn trũng tái sử dụng nước (3 bồn trên một khoang), mỗi bồn trũng này có kích thước rộng 70 m (230 ft), dài 430 m (1.410 ft) và sâu 5,50 m (18 ft). Các bồn trũng được nuôi nhờ trọng trường này sẽ cho phép 60% lượng nước đã sử dụng trong mỗi lần quá cảnh có thể được tái sử dụng; và như thế các âu thuyền mới sẽ sử dụng tiết kiệm hơn 7% lượng nước cho mỗi lần quá cảnh so với các âu thuyền đang có. Việc nạo vét sâu hồ Gatún cùng việc tăng mực nước tối đa của nó sẽ cung cấp một dung tích lưu trữ nước phụ trội thêm đáng kể. Các biện pháp này có ý định cho phép mở rộng kênh đào để hoạt động mà không cần xây dựng thêm các hồ chứa nước mới.
Chi phí ước tính cho dự án này là 5,25 tỷ USD. Dự án được thiết kế để cho phép sự gia tăng đã dự báo trước trong lưu thông từ 280 triệu tấn PC/UMS vào năm 2005 lên thành gần 510 triệu tấn PC/UMS vào năm 2025; kênh đào đã mở rộng sẽ có khả năng chuyên chở tối đa có thể chịu được là khoảng 600 triệu tấn PC/UMS một năm. Các mức lệ phí vẫn tiếp tục được tính toán dựa trên kích thước tàu và không phụ thuộc vào các âu thuyền được sử dụng.
Các âu thuyền mới được dự kiến sẽ mở cửa cho lưu thông vào năm 2015. Các âu thuyền hiện tại, sẽ là 100 năm tuổi vào thời gian đó, sẽ có cơ hội lớn hơn để bảo trì và được lập dự tính để tiếp tục hoạt động vô hạn định[29]. Một bài báo trong số ra tháng 2 năm 2007 của tạp chí Popular Mechanics đã miêu tả các kế hoạch cho kênh đào, tập trung vào các khía cạnh công nghệ của dự án mở rộng[33]. nha
Video yêu thích
http://www.youtube.com/user/hoangkimvietnam
Trở về trang chính
Hoàng Kim, hoangkim, hoangkimvietnam, Ngọc Phương Nam, Chào ngày mới Thung dung, Dạy và học, Cây Lương thực, Tin Nông nghiệp Việt Nam, Food Crops, Cassava in Vietnam, VietnamAfricaCassavaRice, Khát khao xanh, Dayvahoc,Học mỗi ngày, Danh nhân Việt , Food Crops News, Điểm chính, CNM365, Kim LinkedIn, KimTwitter, KimFaceBook Đọc lại và suy ngẫm, Việt Nam tổ quốc tôi, Tình yêu cuộc sống, Thơ cho con
Kênh đào Panama
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Kênh đào Panama | |
---|---|
Kênh đào Panama | |
Kênh đào Panama |
|
Thông tin chung | |
Quốc gia | Panama |
Tọa độ | |
Khách hàng | Các công ty vận tải biển |
Chủ đầu tư | La Société internationale du Canal |
Kỹ sư | John Findlay Wallace, John Frank Stevens, George Washington Goethals |
Chú thích | |
Mở |
Kể từ khi mở cửa, kênh đào đã thu được thành công to lớn và tiếp tục là đường dẫn then chốt trong hàng hải quốc tế. Mỗi năm có hơn 14.000 tàu thuyền đi qua kênh đào, mang theo trên 203 triệu tấn hàng hóa. Vào năm 2002 nói chung có khoảng 800.000 tàu đã sử dụng kênh đào[2].
Kênh đào có thể tiếp nhận các tàu thuyền từ các du thuyền tư nhân nhỏ tới các tàu thương mại tương đối lớn. Kích thước tối đa của tàu thuyền có thể sử dụng kênh đào được gọi là Panamax; một lượng đang gia tăng các tàu thuyền hiện đại vượt quá giới hạn này, được biết đến với tên gọi tàu thuyền hậu Panamax. Một chuyến đi thông thường của tàu hàng qua kênh đào mất khoảng 9 giờ. 14.011 tàu đã đi qua trong năm 2005, với tổng cộng 278,8 triệu tấn, trung bình gần 40 tàu mỗi ngày[3].
Mục lục
Sơ đồ bố trí
Kênh đào này gồm có 17 hồ nhân tạo, một vài kênh nhân tạo và đã cải tiến, cùng hai âu thuyền. Một hồ nhân tạo bổ sung, hồ Alajuela, có vai trò làm hồ chứa nước cho kênh đào. Sơ đồ bố trí của kênh đào được xem xét trong quá cảnh tàu thuyền từ Thái Bình Dương tới Đại Tây Dương là như sau:[4]Do đặc điểm địa lý của khu vực nên hướng chính của cung đường là đông nam-tây bắc, trong khi hướng toàn thể là từ Thái Bình Dương sang Đại Tây Dương là tây-đông. Mặt khác do mực nước ở Thái Bình Dương cao hơn so với mực nước ở Đại Tây Dương (chênh lệch 20 cm ở khu vực kênh đào này) nên kênh đào cần phải xây các âu tàu để tàu thuyền qua lại dễ dàng
- Từ lối vào phao nổi của kênh đào tại vịnh Panama, tàu thuyền đi qua 13,2 km (8,2 dặm) tới âu thuyền Miraflores, vượt qua phía dưới cầu Americas.
- Hệ thống âu thuyền hai tầng Miraflores, bao gồm cả lối vào sát tường, dài 1,7 km (1,1 dặm), với tổng độ nâng là 16,5 m (54 ft) khi thủy triều trung bình.
- Hồ nhân tạo Miraflores là giai đoạn tiếp theo, dài 1,7 km (1,0 dặm), và nằm ở độ cao 16,5 m (54 ft) trên mực nước biển.
- Âu thuyền Pedro Miguel một tầng, dài 1,4 km (0, 8 dặm), là phần nâng lên cuối cùng với độ nâng 9,5 m (31 ft)lên tới mức chính của kênh đào.
- Đường xẻ Gaillard cắt 12, 6 km (7,8 dặm) thông qua đường phân chia lục địa tại cao độ 26 m (85 ft) và vượt qua phía dưới cầu Centenario.
- Sông Chagres (Río Chagres), một đường thủy tự nhiên được mở rộng bằng cách xây đập chắn hồ Gatún, chảy về phía tây khoảng 8,5 km (5,3 dặm), hợp nhất vào hồ Gatún.
- Hồ Gatún, một hồ nhân tạo được tạo ra nhờ xây đập Gatún, đưa tàu thuyền đi thêm 24,2 km (15,0 dặm) xuyên qua eo đất.
- Âu thuyền Gatún, một âu thuyền bậc thang ba tầng dài 1,9 km (1,2 dặm), hạ tàu thuyền trở lại xuống tới mực nước biển.
- Một kênh dài 3,2 km (2,0 dặm) tạo thành lối đi tới các âu thuyền từ phía Đại Tây Dương.
- Vịnh Limón (Bahía Limón), một bến tàu tự nhiên lớn, cung cấp nơi neo đậu cho một số tàu thuyền chờ quá cảnh và quãng đường đi dài 8,7 km (5,4 dặm) tới đê chắn sóng phía bên ngoài.
Lịch sử
Nhận thấy vị trí chiến lược của Trung Mỹ như là một vùng đất hẹp phân chia hai đại dương lớn, các dạng khác của các liên kết thương mại đã được thử theo thời gian. Kế hoạch Darien chết yểu là một cố gắng được Hoàng gia Scotland vạch ra năm 1698 để thiết lập một lộ trình thương mại trên đất liền, nhưng nó đã bị thất bại do các điều kiện khắc nghiệt nói chung và nó bị từ bỏ năm 1700[6]. Cuối cùng, đường sắt Panama đã được xây dựng xuyên qua eo đất, mở cửa năm 1855.Liên kết trên đất liền này đã làm thuận tiện lớn cho thương mại, và bộ phận quan trọng này của cơ sở hạ tầng đã là yếu tố quan trọng trong việc lựa chọn hành trình kênh đào sau này.
Một hành trình toàn nước giữa các đại dương vẫn được coi là giải pháp lý tưởng, và ý tưởng về kênh đào đã được hồi sinh ở các thời kỳ khác nhau, và đối với các hành trình khác nhau; hành trình thông qua Nicaragua đã đượcnghiên cứu tỉ mỉ vài lần. Cuối cùng, được cổ vũ bởi thành công của kênh đào Suez, người Pháp, dưới sự chỉ huy của Ferdinand de Lesseps, đã bắt đầu xây dựng một kênh đào ngang mực nước biển (nghĩa là không cần các âu thuyền) thông qua tỉnh Panama (khi đó nó là một tỉnh) vào ngày 1 tháng 1 năm 1880. Năm 1893, sau khi đã thực hiện một khối lượng công việc lớn, kế hoạch của người Pháp đã bị từ bỏ do bệnh tật và khó khăn lớn trong xây dựng một kênh đào ngang mực nước biển, cũng như sự thiếu kinh nghiệm hiện trường của người Pháp, chẳng hạn các trận mưa như trút nước xuống đã làm cho các thiết bị bằng thép bị han gỉ[7]. Thiệt hại lớn về nhân lực cũng là một trong các yếu tố chính trong thất bại này: mặc dù không có ghi chép chi tiết nào được giữ, nhưng ước tính có tới 22.000 công nhân đã chết trong thời gian xây dựng chính của người Pháp (1881-1889)[8].
Hoa Kỳ, dưới thời Theodore Roosevelt, đã mua lại thiết bị và các phần đã đào của người Pháp, và bắt đầu công việc vào năm 1904, sau khi hỗ trợ Panama giành độc lập từ tay người Colombia để đổi lấy việc kiểm soát khu vực kênh đào Panama. Một khoản đầu tư đáng kể đã được rót vào để lại trừ bệnh dịch ra khỏi khu vực, cụ thể là bệnh sốt vàng và bệnh sốt rét, mà nguyên nhân của nó gần đây đã được phát hiện (xem Các biện pháp bảo vệ sức khỏe trong xây dựng kênh đào Panama). Khi bệnh dịch đã được kiểm soát và sau khi đã có các công việc đáng kể trong việc chuẩn bị cơ sở hạ tầng, việc xây dựng kênh đào theo bậc thang bằng các âu thuyền đã bắt đầu một cách nghiêm túc. Kênh đào này chính thức mở cửa vào ngày 15 tháng 8 năm 1914 với sự quá cảnh của tàu chở hàng Ancon[9].
Các tiến bộ trong vệ sinh đã làm cho số lượng tử vong giảm xuống trong thời kỳ xây dựng của người Mỹ; nhưng vẫn có 5.609 công nhân chết trong thời kỳ này (1904-1914) [10]. Nó làm cho tổng số người chết trong việc xây dựng kênh đào đạt tới khoảng 27.500 người.
Vào thập niên 1930, người ta nhận thấy việc cấp nước có thể là vấn đề cho kênh đào; điều này dẫn tới việc xây dựng đập Madden ngang qua sông Chagres phía trên hồ Gatún. Đập nước này được hoàn thành năm 1935, đã tạo ra hồ Alajuela, có vai trò như là một nguồn dự trữ nước bổ sung cho kênh đào[11],[12]. Năm 1939, việc xây dựng đã bắt đầu với các hoàn thiện chính tiếp theo: một âu thuyền mới cho kênh đào, mở rộng đủ để cho các tàu chiến lớn hơn mà Hoa Kỳ đang cho đóng hay có kế hoạch đóng trong tương lai có thể đi qua. Công việc này tiếp diễn trong vài năm và một lượng đất đai được đào bới đáng kể đã được thực hiện trên các kênh dẫn vào mới; nhưng dự án này đã bị hủy bỏ sau Đại chiến thế giới lần thứ 2[13][14].
Sau chiến tranh, việc kiểm soát của Hoa Kỳ đối với kênh đào và khu vực kênh đào xung quanh nó trở nên dễ gây bất đồng do quan hệ của Panama và Hoa Kỳ ngày càng trở nên căng thẳng. Nhiều người Panama cảm thấy rằng khu vực kênh đào một cách công bằng phải thuộc về Panama; các cuộc biểu tình của sinh viên đã đối mặt với việc dựng lên hàng rào bảo vệ khu vực cũng như sự gia tăng sự có mặt quân sự[15]. Các đàm phán cho một thỏa thuận mới đã bắt đầu vào năm 1974 và kết quả của nó là hiệp ước Torrijos-Carter. Được tổng thống Hoa Kỳ Jimmy Carter và tướng Omar Torrijos ký ngày 7 tháng 9 năm 1977, nó đã thúc đẩy tiến trình chuyển giao việc tiếp quản kênh đào cho phía Panama một cách miễn phí. Mặc dù có sự mâu thuẫn trong lòng nước Mỹ, nhưng hiệp ước đã dẫn tới việc kiểm soát toàn phần của phía Panama trở nên có hiệu lực vào giữa trưa ngày 31 tháng 12 năm 1999 và việc kiểm soát kênh đào đã được bàn giao cho Cục quản lý kênh đào Panama (ACP).
Trước chuyển giao này, chính quyền Panama đã tổ chức đấu thầu quốc tế để điều đình một hợp đồng 25 năm trong điều hành các cảng vận tải côngtenơ của kênh đào (chủ yếu là tại 2 điểm vào/ra Đại Tây Dương và Thái Bình Dương), công ty thắng thầu là Hutchison Whampoa, một công ty vận tải tại Hồng Kông mà chủ sở hữu của nó là tỷ phú Lý Gia Thành, người giàu nhất châu Á khi đó.
Lệ phí
Các mức lệ phí để đi qua kênh đào này do Cục quản lý kênh đào Panama quyết định và nó dựa trên kiểu và kích thước tàu cũng như loại hình hàng hóa chuyên chở [16].Đối với các tàu côngtenơ, mức phí được tính theo "TEU" (đơn vị tương đương côngtenơ 20 ft), nó là kích thước của côngtenơ 20 ft tiêu chuẩn (20 ft x 8 ft x 8,5 ft hay 6 m x 2,4 m x 2,6 m). Có hiệu lực từ ngày 1 tháng 5 năm 2006, mức phí này là 49 USD/TEU. Người ta có kế hoạch nâng mức phí này thành 54 USD vào ngày 1 tháng 5 năm 2007. Một tàu côngtenơ Panamax có thể chuyên chở tới 4.400 TEU. Mức phí miễn giảm được tính cho các tàu côngtenơ khi chở "đồ dằn"; nghĩa là khi không có hàng (không có hành khách hoặc hàng hóa).
Phần lớn các kiểu tàu khác thanh toán phí theo tấn ròng PC/UMS, trong đó một "tấn" trên thực tế là tương đương với dung tích 100 phút khối (2,8 m³). Vào năm 2006, mức phí này là 2,96 USD/tấn đối với 10.000 tấn đầu tiên, 2,90 USD/tấn cho 10.000 tấn kế tiếp và 2,85 USD/tấn cho các tấn sau đó. Giống như đối với tàu côngtenơ, mức phí miễn giảm được dành cho các tàu chuyên chở "đồ dằn".
Các tàu nhỏ được thu phí theo chiều dài của chúng. Vào năm 2006, các mức phí này là:
Độ dài tàu | Lệ phí |
---|---|
Tới 15,240 m (50 ft) | 500 USD |
Trên 15,240 m (50 ft) tới 24,384 m (80 ft) | 750 USD |
Trên 24,384 m (80 ft) tới 30,480 m (100 ft) | 1.000 USD |
Trên 30,480 m (100 ft) | 1.500 USD |
Quãng đường
Tuyến | Khoảng cách (hải lí) | |
Qua Panama | Vòng qua Nam Mĩ | |
New York đến San Francisco | 5263 | 13107 |
New York đến Vancouver | 6050 | 13907 |
New York đến Valparaíso | 1627 | 8337 |
Liverpool đến San Francisco | 7930 | 13507 |
New York đến Yokohama | 9700 | 13042 |
New York đến Sydney | 9692 | 13051 |
New York đến Thượng Hải | 10584 | 12321 |
New York đến Singapore | 8885 | 10141 |
Các vấn đề hiện tại
Hơn 90 năm kể từ khi mở cửa, kênh đào này vẫn tiếp tục thu được thành công lớn.Mặc dù hàng hải thế giới và kích thước của tàu thuyền cũng như chính chúng đã thay đổi vượt qua khả năng tiếp nhận kể từ khi kênh đào này được thiết kế, nhưng nó vẫn tiếp tục là đầu mối liên kết thiết yếu trong thương mại thế giới, chở nhiều hàng hóa hơn trước đây với chi phí giảm xuống. Tuy nhiên, kênh đào này cũng đối mặt với một số vấn đề tiềm tàng.Hiệu quả và bảo trì
Có một số e ngại rằng hiệu quả và sự bảo trì có thể trở nên tồi tệ hơn sau khi người Mỹ rút đi; tuy nhiên, điều đó đã không xảy ra, và hiệu quả của kênh đào dường như được cải thiện hơn dưới sự quản lý của Panama[18]. Canal Waters Time (CWT), là thời gian trung bình để tàu bè đi qua kênh đào, bao gồm cả thời gian chờ đợi, là một chỉ số quan trọng trong tính hiệu quả; mà theo như ACP thì CWT đang giảm xuống. Cùng lúc đó, tỷ lệ các tai nạn cũng ở mức thấp[19].Lượng hàng hóa nhập khẩu từ châu Á đang gia tăng mà trước đây được bốc xếp tại các cảng ven biển phía tây Hoa Kỳ thì ngày nay được chuyên chở thông qua kênh đào để về phía bờ biển phía đông[20]. Tổng lượng tàu quá cảnh trong năm tài chính 1999 là 14.336; giảm xuống 13.154 vào năm 2003, một phần là do các yếu tố kinh tế toàn cầu, nhưng đã tăng lên 14.194 năm 2006 (năm tài chính của kênh đào từ tháng 10 năm trước tới tháng 9 năm sau). Tuy nhiên, nó được kết hợp với sự gia tăng vững chắc trong kích thước trung bình của tàu và trong số lượng các tàu Panamax quá cảnh, vì thế tổng trọng tải qua kênh đào đã tăng đều từ 227,9 triệu tấn PC/UMS trong năm tài chính 1999 tới 296,0 triệu tấn vào năm 2006[21],[3]. Dù chịu ảnh hưởng tiêu cực của kích thước tàu đối với tần suất quá cảnh (ví dụ, các tàu lớn không có khả năng đi qua đường xẻ Gaillard), nhưng nó vẫn cho thấy một sự gia tăng tổng thể đáng kể trong sức chuyên chở của kênh đào, mặc dù tổng số quá cảnh giảm xuống. Kênh đào này đạt kỷ lục lưu thông vào ngày 13 tháng 3 năm 2006, khi có 1.070.023 tấn PC/UMS quá cảnh trong ngày[22], vượt qua kỷ lục cũ 1.005.551 tấn PC/UMS lập vào ngày 16 tháng 3 năm 2004.[23].
Cục quản lý kênh đào đã đầu tư khoảng 1 tỷ USD để mở rộng và hiện đại hóa kênh đào, với mục tiêu tăng khả năng chuyên chở lên 20 %[24]. Cục quản lý kênh đào cũng đề cập tới một loạt các hoàn thiện chủ yếu, bao gồm mở rộng và uốn thẳng đường xẻ Gaillard để giảm các hạn chế đối với tàu thuyền đi ngang qua, nạo vét kênh dẫn lái tại hồ Gatún để làm giảm các hạn chế do bùn lắng và cải thiện việc cấp nước, cũng như việc nạo vét các lối vào kênh đào từ Đại Tây Dương và Thái Bình Dương. Các công việc này được hỗ trợ bằng các tàu thuyền mới, như xà lan khoan mới hay các tàu nạo vét kiểu hút và sự gia tăng của đội tàu kéo lên 20%. Ngoài ra, các hoàn thiện cũng được thực hiện đối với máy móc vận hành kênh đào, bao gồm sự gia tăng và hoàn thiện của đội tàu hỏa kéo, thay thế trên 16 km đường ray của đoàn tàu hỏa kéo, cũng như các máy móc thiết bị kiểm soát âu thuyền mới. Các hoàn thiện cũng được thực hiện đối với hệ thống kiểm soát lưu thông để cho phép kiểm soát hiệu quả hơn đối với tàu thuyền trong kênh đào[25].
Việc rút đi của người Mỹ đã cho phép Panama bán lượng điện dư thừa được sản xuất từ các đập nước của kênh đào, điều mà trước đây chính quyền Hoa Kỳ ngăn cấm. Chỉ 25% lượng điện do các nhà máy thủy điện trong hệ thống kênh đào sản sinh ra đã đủ để vận hành kênh đào này.
Sức chuyên chở
Kênh đào hiện nay có thể chấp nhận giao thông tàu thuyền nhiều hơn so với khả năng mà những người xây dựng ra nó có thể mường tượng. Năm 1934, người ta ước tính rằng khả năng chuyên chở tối đa của nó là khoảng 80 triệu tấn một năm;[26] mà như đã biết, lưu thông của kênh đào này năm 2005 là khoảng 278,8 triệu tấn hàng hải.Dù cho các lợi ích được thực hiện là có hiệu quả, nhưng kênh đào này sẽ nhanh chóng đạt tới khả năng cực đại của nó. Một phức tạp bổ sung là tỷ lệ các quá cảnh tàu bè lớn (gần với kích thước Panamax) đang gia tăng vững chắc; điều này có thể tiếp tục làm giảm số lượng quá cảnh, thậm chí nếu như trọng tải hàng hóa vẫn tăng. Trong bất kỳ trường hợp nào, nếu kênh đào còn tiếp tục phục vụ cho nhu cầu hàng hải thế giới thì cần phải làm tăng khả năng chuyên chở của nó.
Cạnh tranh
Mặc dù có được ví trí đặc quyền đặc lợi trong nhiều năm, nhưng kênh đào vẫn đang phải đối mặt với sự cạnh tranh đang gia tăng từ các nguồn khác. Mặc dù không rõ ràng, nhưng các suy đoán vẫn tiếp diễn về khả năng xây dựng kênh đào mới qua Mexico, Colombia hay Nicaragua có khả năng chấp nhận các tàu thuyền hậu Panamax, cũng như hai đề xuất tư nhân về việc xây dựng đường sắt nối các cảng ở hai bờ[cần dẫn nguồn].Các nhà phê bình cũng lên tiếng về sự e ngại của họ liên quan tới kế hoạch tăng mức lệ phí qua kênh đào, cho rằng kênh đào Suez có thể trở thành sự thay thế chấp nhận được cho hàng hóa có hành trình từ châu Á tới bờ biển phía đông Hoa Kỳ. Tuy nhiên, nhu cầu về kênh đào Panama vẫn tiếp tục tăng lên.
Tốc độ tan chảy của băng tại Bắc Băng Dương đang gia tăng cũng dẫn tới suy đoán rằng Hành lang Tây Bắc có thể trở thành chấp nhận được cho vận tải thương mại ở một thời điểm nào đó trong tương lai. Hành trình này có thể tiết kiệm 9.300 km (5.800 dặm) trên lộ trình từ châu Á tới châu Âu khi so sánh với việc đi qua kênh đào Panama, có thể dẫn tới sự suy giảm một số lưu thông theo hành trình này. Tuy nhiên, hành trình như thế vẫn còn nhiều vấn đề đáng kể do băng, cũng như các vấn đề về lãnh thổ vẫn chưa giải quyết xong[27],[28].
Các vấn đề về nước
Một vấn đề đáng kể là sự suy giảm lượng nước trung bình của hồ Gatún, chủ yếu là do chặt phá rừng. 52 triệu galông nước ngọt từ hồ bị chảy ra biển qua các âu thuyền mỗi khi có tàu thuyền quá cảnh qua kênh đào;[17] và mặc dù tại đây có đủ lượng mưa hàng năm để bù đắp lại lượng nước mà kênh đào sử dụng trong năm, nhưng bản chất theo mùa của mưa có nghĩa là nước cần phải được tích trữ từ mùa mưa này cho tới mùa mưa sau. Mặc dù hồ Gatún có thể tích trữ một số trong lượng nước mưa này, nhưng các cánh rừng mưa đóng vai trò quan trọng trong việc hấp thụ lượng nước mưa này để sau đó giải phóng dần chúng với một tốc độ vừa phải vào hồ. Với việc suy giảm thảm thực vật, nước mưa nhanh chóng chảy qua các sườn núi không còn rừng vào hồ, mà từ đó lượng nước dư thừa phải tháo ra biển. Điều này dẫn tới sự sụt giảm lượng nước trong mùa khô, khi có tương đối ít nước chảy vào hồ. Việc chặt phá rừng cũng làm cho phù sa dễ bị xói mòn từ khu vực quanh hồ Gatún và lắng đọng dưới đáy hồ, làm giảm dung tích của nó.Tương lai
Với nhu cầu đang tăng lên, kênh đào vẫn là một đặc trưng đáng kể trong hàng hải thế giới trong tương lai có thể thấy trước. Tuy nhiên, các thay đổi trong các kiểu mẫu tàu thuyền; cụ thể là sự gia tăng của tàu hậu Panamax; sẽ dẫn tới sự cần thiết phải thay đổi kênh đào nếu nó vẫn muốn duy trì một thị phần đáng kể. Người ta tiên đoán rằng vào năm 2011, 37% lượng tàu côngtenơ của thế giới là quá to đối với kênh đào này như ở tình trạng hiện nay, và vì thế thất bại trong việc mở rộng kênh đào có thể làm mất đi một thị phần đáng kể. Khả năng chuyên chở tối đa mà kênh đào hiện tại có thể gánh vác được, với tính toán tới các công việc hoàn thiện tương đối nhỏ, được ước tính là khoảng 330 tới 340 triệu tấn PC/UMS một năm; người ta cũng dự đoán rằng khả năng chuyên chở này có thể đạt tới vào khoảng thời kỳ 2009-2012. Gần 50% tàu thuyền quá cảnh qua kênh đào đã sử dụng hết chiều rộng toàn phần của các âu thuyền[29].Một kế hoạch mở rộng tương tự như kế hoạch âu thuyền thứ ba năm 1939, để cho phép một lượng quá cảnh lớn hơn và khả năng tiếp nhận các tàu lớn hơn, đã được nghiên cứu xem xét một thời gian[30]. Ngày 4 tháng 4 năm 2006, BBC thông báo rằng kế hoạch mở rộng này đã được chính quyền Panama thông qua[31]. Đề nghị mở rộng kênh đào này đã được phê chuẩn tại cuộc trưng cầu dân ý với khoảng 80% người đồng ý vào ngày 22 tháng 10 năm 2006[32].
Dự án tổ hợp âu thuyền thứ ba
Các âu thuyền mới sẽ được hỗ trợ bằng các đường dẫn vào mới, bao gồm kênh dài 6,2 km (3,8 dặm) tại Miraflores từ âu thuyền tới đường xẻ Gaillard, men theo hồ Miraflores. Mỗi kênh này sẽ rộng 218 m (715 ft), là yêu cầu để các tàu hậu Panamax có thể lưu thông trên kênh theo một hướng trong một thời điểm. Đường xẻ Gaillard và kênh qua hồ Gatún sẽ được mở rộng tới không dưới 280 m (918 ft) trên các phần thẳng và không dưới 366 m (1.200 ft) trên các phần cong. Mực nước tối đa trong hồ Gatún sẽ được nâng lên từ độ cao tham chiếu 26,7 m (87,5 ft) thành 27,1 m (89 ft).
Mỗi bậc thang của âu thuyền sẽ kèm theo 9 bồn trũng tái sử dụng nước (3 bồn trên một khoang), mỗi bồn trũng này có kích thước rộng 70 m (230 ft), dài 430 m (1.410 ft) và sâu 5,50 m (18 ft). Các bồn trũng được nuôi nhờ trọng trường này sẽ cho phép 60% lượng nước đã sử dụng trong mỗi lần quá cảnh có thể được tái sử dụng; và như thế các âu thuyền mới sẽ sử dụng tiết kiệm hơn 7% lượng nước cho mỗi lần quá cảnh so với các âu thuyền đang có. Việc nạo vét sâu hồ Gatún cùng việc tăng mực nước tối đa của nó sẽ cung cấp một dung tích lưu trữ nước phụ trội thêm đáng kể. Các biện pháp này có ý định cho phép mở rộng kênh đào để hoạt động mà không cần xây dựng thêm các hồ chứa nước mới.
Chi phí ước tính cho dự án này là 5,25 tỷ USD. Dự án được thiết kế để cho phép sự gia tăng đã dự báo trước trong lưu thông từ 280 triệu tấn PC/UMS vào năm 2005 lên thành gần 510 triệu tấn PC/UMS vào năm 2025; kênh đào đã mở rộng sẽ có khả năng chuyên chở tối đa có thể chịu được là khoảng 600 triệu tấn PC/UMS một năm. Các mức lệ phí vẫn tiếp tục được tính toán dựa trên kích thước tàu và không phụ thuộc vào các âu thuyền được sử dụng.
Các âu thuyền mới được dự kiến sẽ mở cửa cho lưu thông vào năm 2015. Các âu thuyền hiện tại, sẽ là 100 năm tuổi vào thời gian đó, sẽ có cơ hội lớn hơn để bảo trì và được lập dự tính để tiếp tục hoạt động vô hạn định[29]. Một bài báo trong số ra tháng 2 năm 2007 của tạp chí Popular Mechanics đã miêu tả các kế hoạch cho kênh đào, tập trung vào các khía cạnh công nghệ của dự án mở rộng[33]. nha
Xem thêm
|
Tham khảo
- ^ The Americans in Panama, William R. Scott; Công ty xuất bản Statler, New York, NY, 1913
- ^ The Panama Canal, từ Global Perspectives
- ^ a ă Panama Canal Traffic — Fiscal Years 2002 – 2004, Panama Canal Authority
- ^ Historical Map & Chart Project from NOAA, including Panama Canal charts
- ^ Early Canal Plans, from the Panama Canal Authority
- ^ Darien Expedition — extensive background, including a detailed description, maps, lists of ships and people involved, and chronology
- ^ The French Canal Construction, from the Panama Canal Authority
- ^ The French Failure, from America's Triumph in Panama by Ralph E. Avery; L.W. Walter Company, Chicago, IL, 1913
- ^ American Canal Construction, from the Panama Canal Authority
- ^ A History of the Panama Canal: French and American Construction Efforts, Panama Canal Authority
- ^ Article on flooding of Alhajuela Lake in 2001, with pictures of Madden Dam.
- ^ Article on Mr. Richard Bilonick, who was the engineer in charge during the construction of the Madden Dam.
- ^ Enlarging the Panama Canal, Alden P. Armagnac, CZ Brats
- ^ Enlarging the Panama Canal for Bigger Battleships, notes from CZ Brats
- ^ The Martyrs of 1964, Eric Jackson
- ^ Maritime Operations — Tolls, Panama Canal Authority
- ^ a ă Panama Canal Authority FAQ
- ^ A Man, A Plan, A Canal: Panama Rises, Smithsonian Magazine, tháng 3 năm 2004
- ^ Tonnage Increases; Canal Waters Time and Accidents Drop, Panama Canal Authority, ngày 9 tháng 12 năm 2003
- ^ New York Port Hums Again, With Asian Trade, Eric Lipton, New York Times, 22 tháng 11, 2004
- ^ Annual Reports of the Panama Canal Authority
- ^ Panama Canal Breaks Two Records in Two Days, Panama Canal Authority, ngày 21 tháng 3 năm 2006. Truy cập ngày 25 tháng 4 năm 2006.
- ^ Panama Canal Sets Historic Record in PC/UMS Tonnage, Panama Canal Authority, ngày 2 tháng 4 năm 2004. Truy cập ngày 25 tháng 4 năm 2006
- ^ Transfer heavy on symbolism, light on change, Steve Nettleton, CNN Interactive
- ^ Modernization & Improvements, Panama Canal Authority
- ^ The Land Divided - A History of the Panama Canal and Other Isthmian Canal Projects, Gerstle Mack, 1944
- ^ Northwest Passage redux, Levon Sevunts; từ The Washington Times, ngày 12 tháng 6 năm 2005. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2006
- ^ Conservative Leader Harper Asserts Canada’s Arctic Claims, Michel Comte; từ DefenceNews.com. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2006
- ^ a ă Relevant Information on the Third Set of Locks Project, Panama Canal Authority, ngày 24 tháng 4 năm 2006. Truy cập ngày 25 tháng 4 năm 2006
- ^ The Panama Canal, Business in Panama (bài viết về sự phát triển tương lai đang đề nghị của kênh đào)
- ^ Panama Canal set for $7.5bn revamp, Jane Monahan; BBC News, ngày 4 tháng 4 năm 2006.
- ^ Panama approves $5.25 billion canal expansion, MSNBC.com, ngày 22 tháng 10 năm 2006
- ^ The Panama Canal's Ultimate Upgrade, Brad Reagan. Popular Mechanics, tháng 2 năm 2007.
Liên kết ngoài
Wikimedia Commons có thêm thể loại hình ảnh và phương tiện truyền tải về Kênh đào Panama |
- Panama Canal Sailing Guide trong CaptainWiki.Com
- Official website of the Panama Canal Authority — Has a simulation that shows how the canal works
- Canalmuseum — Panama Canal History, Documents, Photographs and Stories
- Canal Zone Brats — Comprehensive information on the canal and the zone
- History of the Canal Zone — including much canal information, from CZ Brats
- Latin Business Chronicle — Panama Canal: Chinese Control?
- Panama Canal Webcams
- Time Lapse Video of the Canal (created using one week of web cam footage).
- Slideshow of a ship passing through the Miraflores locks
- TeddyRoosevelt.com: The Man that Built the Panama Canal
- (tiếng Tây Ban Nha) Dr. Alonso Roy's short essays on Panama Canal History
- Judicial Watch, Inc. v. Panama Canal Commission case (archived)
- Satellite view in Google Maps
- Cruises Going to the Panama Canal
- General information regarding Panama Canal
- Structurae: Panama Canal
- Taking the waters in Panama Foreign Report, 22 tháng 8 năm 2006
- University of Washington Libraries Digital Collections -- Freshwater and Marine Image Bank -- Panama Canal An ongoing digital collection of images related to the Panama Canal.
http://www.youtube.com/user/hoangkimvietnam
Trở về trang chính
Hoàng Kim, hoangkim, hoangkimvietnam, Ngọc Phương Nam, Chào ngày mới Thung dung, Dạy và học, Cây Lương thực, Tin Nông nghiệp Việt Nam, Food Crops, Cassava in Vietnam, VietnamAfricaCassavaRice, Khát khao xanh, Dayvahoc,Học mỗi ngày, Danh nhân Việt , Food Crops News, Điểm chính, CNM365, Kim LinkedIn, KimTwitter, KimFaceBook Đọc lại và suy ngẫm, Việt Nam tổ quốc tôi, Tình yêu cuộc sống, Thơ cho con
No comments:
Post a Comment