Ngày Độc lập tại Burkina Faso (1960). Năm 25 – Lưu Tú xưng đế, tức Hán Quang Vũ Đế (hình), mở đầu triều Đông Hán, sau đó tiếp tục đánh bại các thế lực khác và thống nhất Trung Quốc. Năm 1392 – Sau khi lật đổ Cung Nhượng Vương của Cao Ly, tướng Lý Thành Quế lên ngôi quốc vương, khởi đầu vương triều Triều Tiên. Năm 1962 – Nelson Mandela bị cảnh sát bắt giữ với lời buộc tội kích động đình công và ra nước ngoài khi chưa được phép, ông phải ở trong tù cho đến năm 1990. Năm 1962 - Nữ diễn viên, ca sĩ Marilyn Monroe qua đời do sử dụng thuốc an thần quá liều.
Hán Quang Vũ Đế
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Hán Quang Vũ Đế | |
---|---|
Hoàng đế Trung Hoa (chi tiết...) | |
Quang Vũ Hoàng đế, tranh của Diêm Lập Bản thời nhà Đường (thế kỷ thứ 7) |
|
Hoàng đế nhà Đông Hán | |
Trị vì | 25 – 57 |
Tiền nhiệm | Hán Canh Thủy Đế |
Kế nhiệm | Hán Minh Đế |
Thông tin chung | |
Thê thiếp | Hoàng hậu Quách Thánh Thông Hoàng hậu Âm Lệ Hoa |
Tên thật | Lưu Tú (劉秀) |
Niên hiệu | Kiến Vũ (建武) (25–56) Kiến Vũ Trung Nguyên (建武中元) (56–57) |
Thụy hiệu | Quang Vũ hoàng đế |
Miếu hiệu | Thế Tổ |
Triều đại | Nhà Hán |
Thân phụ | Lưu Khâm |
Thân mẫu | Phàn Nhàn Đô |
Sinh | 6 TCN |
Mất | 57 Trung Quốc |
An táng | Nguyên Lăng |
Là dòng dõi xa của nhà Hán và từng tham gia khởi nghĩa Lục Lâm chống lại chính quyền Vương Mãng, Hán Quang Vũ Đế đã ly khai khỏi chính quyền mới của Lục Lâm, đánh bại các lực lượng cát cứ và thống nhất quốc gia, mở ra thời kỳ thịnh trị của Trung Quốc sau nhiều năm biến động.
Mục lục
Thân thế
Nhánh Thung Lăng
Lưu Tú tự là Văn Thúc (文叔), là cháu 9 đời của Hán Cao Tổ Lưu Bang. Tổ 6 đời của Lưu Tú là Lưu Phát, con thứ của Hán Cảnh Đế. Do mẹ Lưu Phát xuất thân không sang[1] nên Lưu Phát không được vua cha yêu, chỉ phong làm Trường Sa vương – vùng xa kinh thành, ẩm thấp và cằn cỗi.Làm Trường Sa vương được 28 năm thì Lưu Phát mất, con trưởng là Lưu Dung kế vị vương chư hầu, tức là Trường Sa Đái vương. Tổ 5 đời của Lưu Tú là Lưu Mãi là con thứ của Lưu Phát nên chỉ được phong hầu ở hương Thung Lăng, huyện Linh Đạo thuộc quận Linh Lăng[2], gọi là Thung Lăng hầu.
Lưu Mãi có 2 con, con trưởng Lưu Hùng Cừ, con thứ là Lưu Ngoại chính là cụ của Lưu Tú. Theo quy định, Lưu Hùng Cừ thừa kế ngôi Thung Lăng hầu, còn Lưu Ngoại không được chức vụ gì, chỉ có thể tiến thân bằng khoa cử hoặc các hình thức khác để làm quan. Sau Lưu Ngoại tự phấn đấu làm Thái thú quận Uất Lâm[3].
Dời về Nam Dương
Con Lưu Hùng Cừ là Lưu Nhân nối chức Thung Lăng hầu, còn con Lưu Ngoại là Lưu Hồi – ông nội của Lưu Tú - cũng tự phấn đấu làm chức Đô uý ở Cự Lộc[4]. Lưu Hồi là em họ của Thung Lăng hầu Lưu Nhân, có công lớn trong việc vận động Hán Nguyên Đế (49 – 33 TCN) cho gia tộc họ Lưu ở Thung Lăng được dời từ huyện Linh Đạo xa xôi và khắc nghiệt về huyện Thái Dương thuộc quận Nam Dương - nằm trong bản đồ trung nguyên. Vùng Nam Dương khi đó ngoài gia tộc anh em Lưu Nhân còn có những chi khác của Lưu Phát trước đây như Lưu Diên và Lưu Đan cũng được dời từ Trường Sa về sớm hơn[5] và các chi này đều có quan hệ khá chặt chẽ.Lưu Hồi có 2 con trai, con trưởng là Lưu Khâm, con thứ là Lưu Lương. Lưu Khâm là cha Lưu Tú, lấy con gái hào phú Phàn Trọng là Phàn Nhàn Đô. Thời Hán Thành Đế (33 – 7 TCN), Lưu Khâm qua sát hạch được phong làm huyện lệnh Tế Dương thuộc quận Trần Lưu, sau chuyển về làm huyện lệnh ở Nam Đốn. Lưu Lương được cử làm hiếu liêm rồi làm huyện lệnh huyện Tiêu thuộc Bái quận[6].
Lưu Khâm và Phàn Nhàn Đô sinh được 6 người con: 3 trai 3 gái. Lưu Tú là con thứ 5 trong nhà, ra đời tại nha phủ huyện Tế Dương vào năm 6 TCN. Ông có 2 anh và 2 chị, 1 em gái. Anh cả là Lưu Diễn, anh hai là Lưu Trọng; chị cả là Lưu Hoàng, chị hai là Lưu Nguyên, em gái là Lưu Bá Cơ.
Thời trẻ
Anh em Lưu Tú xuất thân trong gia đình có chức quyền nhiều đời, được cha mẹ quan tâm dạy dỗ từ nhỏ. Năm 4, Lưu Khâm bị bệnh đột ngột qua đời khi Lưu Tú mới lên 11 tuổi. Mất bổng lộc của cha, 6 anh em Lưu Tú sống dựa vào chú Lưu Lương.Năm 8, khi Lưu Tú 15 tuổi, Vương Mãng cướp ngôi nhà Hán, lập ra nhà Tân. Anh cả Lưu Diễn nuôi chí chống lại Vương Mãng để báo thù cho nhà Hán. Trong khi Lưu Tú chăm chỉ học hành và giữ nề nếp trong nhà thì Lưu Diễn tỏ ra khác hẳn, thích sống phóng khoáng, bán tài sản kết giao giang hồ theo phong cách của Lưu Bang. Lưu Tú bị anh chê là có tầm nhìn hạn hẹp, chỉ luẩn quẩn trong nhà, chú tâm những điều vụn vặt như ông Lưu Trọng - anh của Lưu Bang trước kia[7]. Tuy nhiên Lưu Tú không tranh luận với anh về việc đó. Sự khiêm tốn của Lưu Tú khiến ông ít được mọi người chú ý.
Khoảng niên hiệu Thiên Phượng nhà Tân (14-19), Lưu Tú lên học ở Tràng An. Lưu Tú qua các kỳ sát hạch, được vào nhà Thái học, học chính sự theo danh nho Hứa Tử Uy. Do thiếu tiền học, ông cùng các bạn học như Đặng Vũ, Chu Hựu chung nhau tiền làm thuốc viên bán; hoặc mua lừa rồi cho người khác thuê chở hàng kiếm tiền[8]. Ngoài ra, ông còn được Chu Hựu nhà khá giả chu cấp, giúp đỡ. Tuy nhiên sau đó vì khó khăn quá, ông phải bỏ dở việc học trở về nhà sau 2 năm.
Chống Vương Mãng
Khởi nghĩa
Chính quyền Vương Mãng ngày càng mất lòng dân, khắp nơi nổi dậy chống triều đình từ năm 15. Lớn mạnh nhất là 2 cuộc khởi nghĩa Lục Lâm do Vương Khuông và Vương Phượng cầm đầu ở núi Lục Lâm (năm 17) và cuộc khởi nghĩa Xích Mi do Phàn Sùng đứng đầu ở huyện Cử (năm 18).Phong trào khởi nghĩa lan rộng. Năm 21, quân Lục Lâm ngày một lớn mạnh, đánh tan 2 vạn quân của quan trấn thủ Kinh châu ở Vân Đỗ[9]. Địa bàn của quân Lục Lâm mở rộng ra vùng giáp ranh 3 quận Giang Hạ, Nam Quận và Nam Dương – gần với nơi ở của Lưu Tú. Điều đó trực tiếp tác động đến anh em Lưu Tú và Lưu Diễn. Cùng lúc anh em Lưu Tú tính chuyện dựng cờ chống Vương Mãng, một số nhân sĩ và môn khách của Lưu Diễn đã tham gia khởi nghĩa các nơi, vì vậy anh em Lưu Diễn sợ bị tội chứa chấp "quân phản loạn" phải lẩn trốn đi nơi khác, lấy cớ đi buôn thóc gạo trốn về Tân Dã theo anh rể Đặng Thần.
Tháng 9 năm 22, Lưu Diễn và Lưu Tú chia nhau đi tập hợp lực lượng chuẩn bị khởi binh. Trong khi Lưu Tú ở Uyển Thành tập hợp bạn bè như anh em Lý Thông, Lai Hấp, anh rể Đặng Thần, chú Lưu Sưởng,... được vài ngàn người thì Lưu Diễn trở về quê cũ ở hương Thung Lăng huyện Thái Dương, tụ tập được vài ngàn thanh niên cùng các môn khách giang hồ và gia nhân dựng cờ khởi nghĩa. Có người nghe Lưu Diễn phát động còn e ngại, nhưng sau đó trông thấy Lưu Tú mặc áo, đội mũ chiến dẫn quân từ Uyển Thành tới đều rất kinh ngạc, cho rằng ngày thường Lưu Tú thận trọng và khiêm tốn giữ mình, nay cũng làm phản thì thiên hạ sẽ phải đổi chủ. Vì vậy những người e ngại đều quyết chí theo anh em Lưu Tú. Hai đạo quân hợp làm một, được hơn 7000 người. Lưu Diễn tự xưng làm trụ thiên bộ hộ, giữ chức thống soái chỉ huy toàn quân. Cánh quân này gọi là Thung Lăng quân.
Gia nhập quân Lục Lâm
Căn cứ Lục Lâm có dịch bệnh, quân Lục Lâm phải chia làm 2 cánh rút khỏi Lục Lâm: một cánh theo Vương Khuông, Vương Phượng, Mã Vũ đi về Nam Dương, gọi là quân Tân Thị; cánh kia theo Vương Thường, Thành Đan đi về Nam Quận gọi là quân Hạ Giang. Tháng 7 năm 22, quân Tân Thị đi đến huyện Tuỳ, lại được sự gia nhập của quân Bình Lâm của Trần Mục và một tông thất nhà Hán là Lưu Huyền. Nghe tin đó, anh em Lưu Tú bèn cử Lưu Gia đến liên hệ với các thủ lĩnh quân Tân Thị xin gia nhập. Vương Khuông lập tức chấp thuận. Lực lượng quân Tân Thị có quân Thung Lăng hợp sức nên mạnh lên nhiều.Quân Tân Thị tiến về phía tây đánh vào Trường Tụ[10]. Trong trận đầu tiên đụng độ với quân triều đình, Lưu Tú vì là bộ tướng vẫn chưa có ngựa cưỡi nên phải cưỡi trâu ra trận[11]. Trận này quân khởi nghĩa giết chết huyện uý Tân Dã. Nhờ đoạt được ngựa của địch, Lưu Tú mới có ngựa cưỡi ra trận.
Sau đó quân Tân Thị lại đánh bại quân Tân ở Đường Tử[12], lại giành thắng lợi, thu được nhiều quân lương.
Tuy nhiên, ngay sau trận thắng này, quân Lục Lâm và quân Thung Lăng bắt đầu rạn nứt, vì các tướng Lục Lâm vốn số đông là nông dân, quá nhiệt tình đánh trận trong khi các tướng Thung Lăng xuất thân từ địa chủ, ít xông pha chiến trận nhưng giành giật của cải thu được rất nhanh. Vì vậy các tướng Lục Lâm tỏ ý bất bình. Lưu Tú vội đứng ra dàn hoà để tránh đổ vỡ liên minh, sai các thuộc hạ nộp bớt của cải thu được của quân Tân cho các tướng Lục Lâm[13].
Bại trận Tiểu Tràng An
Do giữ được hòa khí, hai cánh quân lại phối hợp đánh hạ được Cưu Dương[14] và tiến về Tân Đô[15], áp sát Uyển Thành - thủ phủ của Nam Dương.Tháng 12 năm 22, các tướng trấn thủ Nam Dương là Chân Phụ và Lương Khâu Tứ mang 10 vạn quân ra đối địch. Hai bên gặp nhau ở Tiểu Tràng An huyện Dục Dương[16]. Quân Lục Lâm (gồm Tân Thị và Thung Lăng) vừa thắng trận, chủ quan khinh địch, bị quân Tân đánh tan tác. Cánh quân của Lưu Tú bị chết và tan chạy hết, một mình Lưu Tú cưỡi ngựa chạy thoát.
Trên đường đi, ông gặp em gái Lưu Bá Cơ, bèn kéo lên ngựa đi cùng. Đi được một đoạn, anh em Lưu Tú lại gặp chị Lưu Nguyên và 3 con nhỏ. Thấy chỉ có 1 con ngựa, Lưu Nguyên biết không thể thoát nên một mực giục hai em đi trước. Lưu Tú đành mang em gái chạy. Sau đó quân nhà Tân đuổi đến, giết cả 4 mẹ con Lưu Nguyên. Mồ mả nhà Đặng Thần cũng bị san phẳng. Anh hai của Lưu Tú là Lưu Trọng cùng bị giết trong trận này.
Đại chiến Côn Dương
Quân Lục Lâm chia làm nhiều cánh bất ngờ tập kích, giết chết Chân Phụ và Lương Khâu Tứ. Sau đó Lưu Diễn lại dùng kế đánh bại cánh quân của hai tướng Nghiêm Ưu và Trần Mậu ở phía bắc sông Dục Thuỷ[17]. Quân Tân thua bỏ chạy về cố thủ ở Uyển Thành.
Trong quân Lục Lâm có chủ trương lập một người hoàng tộc nhà Hán lên làm vua để có danh chính đánh Vương Mãng, khôi phục nhà Hán. Ngoài Lưu Huyền và anh em Lưu Diễn, Lưu Tú, trong quân Lục Lâm còn có các tông thất là Lưu Lương, Lưu Tứ, Lưu Gia. Vương Khuông và Vương Phượng chủ trương lập Lưu Huyền là người tài năng kém và không có vây cánh, thế lực để dễ khống chế[18][19], trong khi thiểu số theo Lưu Diễn không tán thành, muốn mình được lập. Cuối cùng, số đông của Vương Khuông thắng thế, Lưu Huyền được lập làm vua, với danh nghĩa khôi phục nhà Hán để đánh nhà Tân, tức là vua Hán Canh Thủy Đế.
Tháng 2 năm 23, quân Lục Lâm dưới danh nghĩa nhà Hán chia làm 2 đường, cánh quân lớn do Vương Khuông, Lưu Diễn chỉ huy đánh Uyển Thành; cánh thứ 2 nhỏ hơn do Vương Phượng, Vương Thường, Lưu Tú chỉ huy, mang 2 vạn quân đánh Côn Dương[20], Đinh Lăng[21] và đất Yển[22]. Quân Nghiêm Ưu, Trần Mậu bỏ Uyển Thành về giữ Dĩnh Xuyên, giao cho các tướng dưới quyền cố thủ Uyển Thành.
Cánh quân của Vương Thường và Lưu Tú cũng luôn thắng trận, thu rất nhiều của cải và lương thực, mang cung cấp cho Lưu Diễn.
Vương Mãng nghe tin quân Tân liên tiếp thất bại, liền phái Đại tư đồ Vương Tầm, Đại tư không Vương Ấp trưng tập hết quân tướng còn lại gồm 42 vạn quân đi đánh quân Lục Lâm, mang theo cả hổ, báo, voi. Tháng 5 năm 23, quân Vương Tầm tiến đến Dĩnh Xuyên[23], hợp với quân của Nghiêm Ưu, Trần Mậu. Bốn tướng hợp đại binh tiến về phía nam, đụng độ với cánh quân nhỏ của Lục Lâm dưới quyền Lưu Tú và Vương Thường. Sau vài trận đánh chặn ở Dương Quan, Lưu Tú cũng lui về Côn Dương.
Quân tiên phong của Vương Ấp gồm 10 vạn người kéo đến thành Côn Dương. Vương Ấp cho quân vây 4 mặt, hạ trại giữ xung quanh. Trong thành, quân Lục Lâm chỉ có hơn 8000 người. Vương Phượng và Vương Thường chủ trương phá vây chạy nhưng Lưu Tú cho rằng không nên, vì lực lượng quá chênh lệch sẽ bị hỗn loạn và bị giết hết. Các tướng phản đối chủ trương của Lưu Tú. Đang bàn bạc chưa xong thì có tin báo rằng: Hậu quân Tân kéo đến, rất đông người, dài hơn trăm dặm không dứt.
Các tướng thấy Lưu Tú nói có lý, bèn quyết định nghe theo kế của ông. Vương Phượng và Vương Thường lo giữ thành, Lưu Tú và Tông Khiêu, Lý Dật cùng 13 kỵ binh nhân lúc đêm tối, nhân lúc quân địch đông đảo chưa lập trại xong, kéo ra cửa nam thành, đến các huyện đã chiếm được trước kia thu thập binh mã về cứu viện.
Quân Tân tập hợp đủ 42 vạn người, đánh thành dữ dội, các tướng trong thành phải liều chết giữ.
Tháng 6, các cánh quân Lục Lâm ở Yển Thành và Định Lăng nghe tin Lưu Tú cấp báo, bèn hợp binh được vài ngàn người tiến về cứu Côn Dương. Khi cách quân Tân còn 5 dặm, Lưu Tú bày trận. Vương Tầm coi thường viện binh, chỉ mang vài ngàn quân ra đánh. Lưu Tú nhân lúc quân Tân chưa bày trận xong, bèn tự mình hăng hái đi đầu, đánh vào trận địch tới. Quân Tân bị đánh bất ngờ, thua trận bỏ chạy. Lưu Tú thừa cơ truy kích giết hơn 1000 người.
Lúc đó cánh quân Lưu Diễn và Vương Khuông mới hạ được Uyển Thành 3 ngày nhưng phía Lưu Tú chưa biết tin. Song ông vẫn sai người phao tin rằng Uyển Thành đã bị quân Lục Lâm hạ, từ đó quân chủ lực sẽ tới cứu Côn Dương. Điều đó khiến quân trong thành rất vững tâm, còn quân Vương Tầm, Vương Ấp ở ngoài lo lắng.
Lưu Tú chọn ra 3.000 quân trong đội viện binh, nhân lúc đêm tối vượt qua Côn Thủy phía tây thành Côn Dương, rạng sáng hôm sau đột ngột tấn công vào trung quân của quân Tân. Quân Tân bị đánh bất ngờ. Vương Tầm vội mang 2 vạn quân ra nghênh chiến, nhưng quân sĩ hoảng loạn không sắp được đội hình, bị quân Lục Lâm đánh đại bại. Vương Tầm bị giết trong trận này.
Chủ soái bị giết làm quân Tân hoảng loạn. Trong thành, Vương Thường và Vương Phượng kéo ra đánh sáp lại, quân Tân bị giết rất nhiều, người chết dài hơn 100 dặm[24]. Cùng lúc đó trời bất ngờ đổ mưa to gió lớn, nước sông Trĩ Xuyên[25] phía bắc Côn Dương dâng cao, chặn đường tháo chạy của quân Tân. Quân Tân bị chết đuối trên sông rất nhiều, các tướng Vương Ấp, Nghiêm Ưu và Trần Mậu chạy thoát. Quân sĩ nhà Tân cùng nhau đào ngũ rất nhiều, chỉ có Vương Ấp cùng vài ngàn quân trung thành chạy về Tràng An.
Nén đau thương và hận thù
Sau khi hạ Uyển Thành, Canh Thủy Đế Lưu Huyền lấy đây làm kinh đô. Lưu Diễn có công đánh chiếm Uyển Thành nên tỏ ra cậy công, bất phục Lưu Huyền, tự xưng là Trụ thiên đại tướng quân. Sợ Lưu Diễn mưu lật đổ, phe Lưu Huyền được Vương Khuông, Thân Đồ Kiến ủng hộ bàn nhau giết Lưu Diễn để trừ hậu hoạ.Lưu Tú nhận thấy trong hàng ngũ các tướng Thung Lăng cũ, Lý Dật từ khi gia nhập quân Lục Lâm thường gần gũi lấy lòng các tướng Lục Lâm mà xa lánh anh em mình. Do đó ông nhắc Lưu Diễn cảnh giác với Lý Dật, nhưng Lưu Diễn không để ý tới[26].
Biết một tông thất khác là Lưu Tắc về phe Lưu Diễn và phản đối việc lập Lưu Huyền, Huyền triệu về giết chết. Lưu Diễn có mặt ở đó thấy vậy kiên quyết phản đối, đòi thu lệnh chém Lưu Tắc. Chu Vĩ và Lý Dật bèn khuyên Lưu Huyền nhân đó xử tội luôn Lưu Diễn đồng mưu phản nghịch. Canh Thuỷ Đế được cơ hội bèn sai bắt luôn Lưu Diễn mang chém vì tội chống đối.
Sau trận thắng Côn Dương, Lưu Tú mang quân đánh chiếm quận Dĩnh Xuyên. Được tin anh bị giết, Lưu Tú rất đau xót nhưng cố nén lòng, không để tang Lưu Diễn, cười nói như thường để mọi người không nghi ngờ. Sau đó ông đến tạ tội với Canh Thủy Đế khiến Canh Thủy Đế rất ngạc nhiên. Canh Thủy Đế thấy Lưu Tú có công thắng trận Côn Dương, nhân đó muốn an ủi, phong ông làm Phá lỗ tướng quân, Vũ Tín hầu.
Lưu Tú trở về bản bộ giữ thái độ như bình thường để lung lạc các thủ hạ của Lưu Huyền; ông vẫn kín đáo tưởng niệm Lưu Diễn: không uống rượu, không ăn thịt. Chỉ có duy nhất bộ tướng Phùng Dị biết việc Lưu Tú lặng lẽ khóc anh một mình ban đêm, hiểu ông và được ông tiết lộ tâm sự[27].
Bình định thiên hạ
Đi trấn thủ Hà Bắc
Nhân lúc quân Tân thua tan tác, các thổ hào các vùng nổi dậy cát cứ. Chính quyền nhà Tân lúc đó rất suy yếu, thực tế chỉ còn Tràng An và Lạc Dương. Quân Lục Lâm chia làm hai đường tiến đánh hai nơi này. Tháng 7 năm 23, tướng quân Lục Lâm là Vương Khuông đánh hạ thành Lạc Dương. Tháng 10, quân Lục Lâm tiến vào Tràng An, giết chết Vương Mãng, lật đổ nhà Tân.Sau khi đánh chiếm Lạc Dương, Lưu Huyền muốn dời đô về đó, bèn phong Lưu Tú làm Đại lý Tư lệ hiệu uý đến Lạc Dương sửa sang cung điện. Tháng 10 năm 23, Canh Thuỷ Đế dời đô về Lạc Dương. Khi quân Lục Lâm của Lưu Huyền tiến vào, vì nhiều người ăn mặc lộn xộn, mặc cả đồ phụ nữ nên các chí sĩ và địa chủ tỏ vẻ coi thường; tới khi cánh quân Lưu Tú tiến vào, trang phục và đội ngũ nghiêm chỉnh hơn nên được mọi người nể phục[28].
Mặc dù diệt được nhà Tân nhưng phạm vi quản lý của Canh Thủy Đế chỉ bao gồm Quan Trung, Lạc Dương, Giang Hoài và Kinh châu, các nơi khác do các lực lượng nhân danh chống Vương Mãng nổi dậy chiếm giữ. Lúc đó vùng Hà Bắc vẫn do các tướng do Vương Mãng bổ nhiệm và các cánh quân khởi nghĩa chia nhau nắm giữ. Quân khởi nghĩa Xích Mi của Phàn Sùng bất mãn với Lưu Huyền cũng ly khai chống lại.
Lưu Huyền định cử tướng đi bình định Hà Bắc, Tư đồ Lưu Tứ là anh họ của Lưu Tú bèn tiến cử Lưu Tú. Ban đầu Lưu Huyền nghe theo Chu Vĩ, sợ thả Lưu Tú đi sẽ khó kiềm chế. Lưu Tú bèn nhờ cha con Tả thừa tướng Tào Cánh và Tào Hử tiến cử một lần nữa. Canh Thủy Đế bằng lòng phái Lưu Tú đi. Tháng 10 năm 23, ông nhận chức Đại Tư mã, cùng các tướng Phùng Dị, Diêu Kỳ, Chu Hựu,... rời Lạc Dương lên Hà Bắc.
Bình định Hà Bắc
Bị truy đuổi
Đến Hà Bắc, ông phải đối mặt với hàng loạt lực lượng chống đối. Ngoài các tướng cũ của Vương Mãng, các cánh quân khởi nghĩa không tuân phục triều đình Canh Thuỷ Đế rất nhiều, như quân Đồng Mã, Thanh Độc, Đại Dung, Cao Hồ Thiết Kính,... tất cả 15 cánh quân. Thêm vào đó là lượng địa chủ địa phương do một thầy bói là Vương Lang đứng đầu, tự xưng là con trai Hán Thành Đế, đổi tên là Lưu Tử Dư, chiếm giữ Hàm Đan để cát cứ[29].Khi Lưu Tú đến Hàm Đan, mưu sĩ của Vương Lang (Lưu Tử Dư) là Lưu Hâm đến yết kiến định xin theo, xin hiến kế đánh quân Xích Mi của Phàn Sùng với ông. Hâm bày mưu mở cửa đê sông Hoàng Hà để dìm chết quân Phàn Sùng. Tuy nhiên Lưu Tú không tán thành ý đồ giết người tàn nhẫn như vậy nên không nghe theo. Lưu Hâm bèn trở về, cùng các đại địa chủ nước Triệu quyết ý giúp Vương Lang, lập Lang - với tên Lưu Tử Dư – làm hoàng đế.
Biết mình lực lượng mỏng không thể đối địch với Vương Lang, Lưu Tú dẫn quân đến Chân Định. Vương Lang treo giải cho ai giết được ông thì phong Vạn hộ hầu, vì thế tháng 1 năm 24 ông phải tiếp tục chạy lên phía bắc. Khi đến Lư Nô[30] thì được sự ủng hộ gia nhập của Cảnh Yểm, con trai thái thú Thượng Cốc là Cảnh Huống. Ông tiếp tục đi lên phía bắc đến huyện Kế[31], định tuần thú ở đây để thu phục lòng người, nhưng ở đâu cũng có hịch văn kêu gọi giết ông sẽ có thưởng. Ngoài ra, con của hoàng thân Lưu Gia – người tham gia quân Thung Lăng – là Lưu Tiếp cũng khởi binh hưởng ứng Lưu Tử Dư. Vì vậy Lưu Tú vội vã trở về phía nam, trên đường về ông không dám ghé vào các thành ấp, ăn ngủ đều ở bên đường.
Toàn quân đói khát, đến Nhiêu Dương, Lưu Tú phải trá xưng là sứ giả của hoàng đế Lưu Tử Dư vào quán kiếm cơm. Có người tỏ thái độ nghi ngờ nhưng vì Lưu Tú giữ thái độ bình tĩnh như thường nên cuối cùng toàn quân đi thoát.
Về phía nam đến Nam Cung[32], trời rét, quân Lưu Tú phải nghỉ trong nhà bỏ không bên đường. Tới sông Hồ Đà không có thuyền, nhưng đúng lúc đó mặt sông đóng băng nên toàn quân Lưu Tú vượt qua được sông, đến huyện Hạ Bác rồi tới Tín Đô, gặp được tướng trấn thủ là Nhiệm Quang do Lưu Huyền phái tới.
Diệt Vương Lang
Lưu Tú hợp binh với Nhiệm Quang, bàn cách liên lạc với các cánh quân khởi nghĩa nông dân Lực Tử Đô và Thành Đầu Tử Lộ - đã hàng Canh Thủy Đế - để chống Vương Lang. Ông sai Nhiệm Quang viết hịch đi khắp các quận huyện kêu gọi phản Vương Lang theo Canh Thủy Đế.Sau đó ông để Quang Tông ở lại giữ Tín Đô, còn mình cùng Nhiệm Quang mang quân tới Cự Lộc, dùng kế nghi binh uy hiếp. Tướng giữ Cự Lộc hoảng sợ xin hàng. Lưu Tú nhập quân ở Cự Lộc vào rồi tiến đến dụ hàng tiếp được huyện Thế. Thái thú quận Hoà Thành là Phi Đồng cũng quy hàng ông, mang 2000 quân lại theo.
Có người khuyên ông nên mang toàn quân ở Tín Đô và Hoà Thành rút về Tràng An để bảo toàn lực lượng, nhưng ông theo ý kiến của Phi Đồng, kiên quyết ở lại, không bỏ Hà Bắc. Sau đó ông mang quân tiến đến Xương Thành[33], anh em Lưu Thực mở cửa ra hàng.
Theo kế của Lưu Thực, Lưu Tú sai người đến cầu hôn cháu gái của hoàng thân Lưu Dương, người đang trấn giữ Chân Định, có 10 vạn quân và ảnh hưởng rất lớn đối với cục diện Hà Bắc. Nhờ sự thuyết phục của Lưu Thực, Lưu Dương đồng ý gả người cháu gái (con chị) là Quách Thánh Thông cho ông. Sử sách gọi việc này là "Lưu Tú lấy vợ mượn quân".
Nhờ binh lực của Lưu Dương, Lưu Tú mạnh lên rất nhiều. Ông đi đánh Trung Sơn, nhanh chóng hạ được thủ phủ Lư Nô. Nhiều quận huyện nghe vậy bắt đầu phản Vương Lang theo ông. Ông tiến về phía nam, đánh chiếm Tân Thị[34], Nguyên Thị[35], Phòng Tử[36] rồi đánh bại tướng của Vương Lang là Lý Dục ở Bách Nhân[37]. Lý Dục chạy vào thành cố thủ, Lưu Tú không hạ được nên quay sang phía đông đánh Quảng A[38].
Cùng lúc, thái thú Thượng Cốc là Cảnh Huống - cha Cảnh Yểm đã theo hàng Lưu Tú - hẹn hợp binh với thái thú Ngư Dương[39] là Bành Sủng, sai hai thủ hạ là Ngô Hán và Khấu Tuần, giao cho Cảnh Yểm chỉ huy, mang quân nam tiến đánh Vương Lang. Quân Cảnh Yểm rất mạnh mẽ, giết hơn 400 tướng, chém 3 vạn quân địch, chiếm 22 huyện thuộc Trác quận, Trung Sơn, Cự Lộc, Thanh Hà, Hà Gián và đến Quảng A hội binh với Lưu Tú. Lưu Tú được 3 tướng Cảnh Yểm, Ngô Hán và Khấu Tuần rất vui mừng.
Sau một thời gian Lưu Tú rời Lạc Dương, Canh Thủy Đế lại phái Tạ Cung cầm quân lên Hà Bắc để hợp sức với Lưu Tú trừ Vương Lang và bình định vùng này, đồng thời canh chừng cử động của Lưu Tú.
Sau khi vây đánh Cự Lộc vài tháng không hạ được, tháng 4 năm 24, ông bỏ Cự Lộc, mang toàn quân đến vây đánh Hàm Đan – nơi đóng đô của Vương Lang. Sau hơn 20 ngày vây hãm, cuối cùng đến đầu tháng 5, Lưu Tú hạ được thành. Vương Lang định bỏ trốn, bị bộ tướng của Lưu Tú là Vương Bá giết chết.
Trừ Tạ Cung, ly khai Canh Thuỷ
Thấy Lưu Tú phát triển lớn mạnh, Lưu Huyền hạ chiếu gọi ông về Tràng An và bổ nhiệm các tướng đến U châu nhận chức. Lưu Tú lấy cớ chưa bình định xong Hà Bắc, không mang quân về. Sau đó ông theo kế của Cảnh Yểm, sai Yểm đi cùng Ngô Hán đến trưng tập binh mã ở U châu. Vi Thuận, Miêu Tằng và Thái Sung là những người do Lưu Huyền cử đến chống lệnh không theo, Ngô Hán và Cảnh Yểm lấy cớ giết luôn. Sau đó hai tướng điều binh mã U châu về với Lưu Tú, tụ tập quân đội đi đánh các cánh quân khởi nghĩa chưa hàng phục.Tháng 3 năm 24, Lưu Tú dùng kế cướp lương thảo, đánh bại cánh quân Đồng Mã là lực lượng khởi nghĩa mạnh nhất Hà Bắc, rồi chiêu hàng họ.
Trong lúc đánh dẹp các cánh quân khởi nghĩa, Lưu Tú vẫn phải lo đối phó với Tạ Cung là tướng của Lưu Huyền. Lưu Tú tìm cách tâng bốc lấy lòng Tạ Cung khiến Cung bớt cảnh giác.
Sau đó Cung mang quân về đóng ở Nghiệp Thành - thủ phủ Ký châu. Lưu Tú mang quân dẹp quân khởi nghĩa Thanh Độc, muốn lừa Cung dời Nghiệp Thành bèn viết thư cho Cung, nhờ đi truy kích quân khởi nghĩa Vưu Lai ở Sơn Dương[40]. Tạ Cung nghe theo, mang quân xuống Sơn Dương, để Lưu Khánh và Trần Khang ở lại giữ thành. Lưu Tú sau khi thắng quân Thanh Độc bí mật phái Ngô Hán và Sầm Bành mang quân đánh úp Nghiệp Thành. Trong lúc chưa đánh, Lưu Tú lại sai thuyết khách dụ được Trần Khang làm phản Tạ Cung, giết chết Lưu Khánh dâng thành cho Ngô Hán.
Tạ Cung thắng trận trở về, không biết Trần Khang đã làm phản, khinh suất dẫn hơn 100 quân vào thành, bị phục binh của Ngô Hán giết chết.
Đầu năm 25, sau khi bình định các lực lượng khởi nghĩa như Vưu Lại, Đại Thương, Ngũ Phiên,... Lưu Tú cơ bản làm chủ toàn bộ Hà Bắc. Một số cánh quân còn sót lại chạy tản mát về cố thủ ở một số địa phương.
Đánh Lưu Huyền
Xưng đế
Ngày Kỉ Mùi (22) tháng 6 năm Ất Dậu (5 tháng 8 năm 25), theo lời khuyên của các thủ hạ, Lưu Tú xưng làm hoàng đế ở Hạo Nam. Ông đặt lập đàn ở nơi hoang sơ, bố cáo việc lên ngôi, đặt quốc hiệu là Hán để kế tục nhà Hán, niên hiệu là Kiến Vũ. Các tướng lĩnh dưới quyền đều được phong chức: Đặng Vũ làm Đại Tư đồ, Vương Lương làm Đại tư không, Ngô Hán làm Đại tư mã,…Đánh hạ Lạc Dương
Thấy Lưu Tú ra mặt ly khai, Canh Thủy Đế sai Chu Vĩ và Lý Dật mang 30 vạn quân ra đóng ở Lạc Dương. Lưu Tú mang quân đánh lấy quận Hà Nội, làm chủ Hà Bắc, chuẩn bị tiến đánh Quan Trung. Lưu Tú sai Khấu Tuần giữ Hà Nội là nơi giàu có, không bị chiến tranh tàn phá để làm chỗ cung ứng quân lương, sai Phùng Dị giữ Mạnh Tân, kiềm chế quân Chu Vĩ ở Lạc Dương.Tháng 7 năm 25, ông cùng các tướng đến huyện Hoài, sai Ngô Hán dẫn đầu 10 tướng mang hơn 10 vạn quân ra bao vây Lạc Dương. Để chia rẽ địch, ông sai Phùng Dị viết thư cho Lý Dật khuyên hàng. Lý Dật dao động, nhưng vì từng khuyên Lưu Huyền giết Lưu Diễn nên chưa dám về hàng. Tuy nhiên, Dật cũng thông đồng để Phùng Dị đánh chiếm Thượng Đảng, Thành Cao mà không ngăn cản.
Lưu Tú lại cố ý sai người tiết lộ cho Chu Vĩ biết việc Lý Dật thông đồng. Chu Vĩ được tin bèn triệu Dật đến giết chết. Các bộ tướng của Dật bỏ Vĩ về theo Lưu Tú. Chu Vĩ giữ thành Lạc Dương bị vây lâu ngày, nhờ có 30 vạn quân và lương thực đầy đủ nên kiên cường kháng cự. Lưu Tú thúc quân đánh thành nhiều trận nhưng vẫn không hạ được Lạc Dương.
Cùng lúc, quân khởi nghĩa Xích Mi của Phàn Sùng cũng phản lại Lưu Huyền, lập Lưu Bồn Tử mới 15 tuổi làm vua, đặt niên hiệu là Kiến Thế, tức là vua Hán Kiến Thế Đế, với danh nghĩa tái lập nhà Hán. Như vậy cùng lúc có ba vua Hán là Lưu Huyền, Lưu Bồn Tử và Lưu Tú.
Trong khi Lưu Huyền giao hết quân chủ lực cho Chu Vĩ thì quân Xích Mi đông 30 vạn người tiến về tây, đánh chiếm được Tràng An. Lưu Huyền đường cùng cũng đành phải xin hàng. Tháng 12 năm 25, Lưu Huyền bị quân Xích Mi treo cổ.
Tháng 9 năm 25, nghe tin nội bộ Lưu Huyền lục đục và thất thế trước quân Xích Mi, Chu Vĩ bèn mở cửa thành đầu hàng Sầm Bành. Lưu Tú cho Vĩ hàng, không tính chuyện trả thù vì việc Lưu Diễn trước kia.
Thu được hàng binh của Chu Vĩ, Lưu Tú nắm được lực lượng quân đội mạnh lên rất nhiều. Tháng 10 năm 25, ông dời đô về Lạc Dương.
Chinh phục quân Xích Mi
Đầu năm 26, do bị thiếu lương, quân Xích Mi phải dời Tràng An dời đến An Định[41] và Bắc Địa[42] tìm lương. Lưu Tú sai Đặng Vũ mang quân đánh chiếm thành bỏ trống.Trên đường lên phía tây bắc, quân Xích Mi lại gặp bão tuyết lớn, quân sĩ bị chết cóng rất nhiều. Sau đó, quân Phàn Sùng lại bị quân cát cứ của Quỳ Ngao tập kích, đành phải quay trở lại Tràng An. Thấy quân Xích Mi quay lại, Đặng Vũ mang quân đánh chặn ở Úc Di[43]. Quân Xích Mi giao chiến đánh bại quân Đặng Vũ, Vũ phải bỏ chạy về Vân Dương. Tháng 9 năm 26, quân Xích Mi lại vào được Tràng An.
Sau đó, Đặng Vũ tiếp tục mang quân tập kích Tràng An một trận nữa nhưng vẫn bị Phàn Sùng đánh bại. Trong lúc chủ quan, quân Xích Mi bị bộ tướng cũ của Lưu Huyền là Lý Bảo mang quân đánh lén, bị thua nặng, chết 10 vạn người[44]. Lúc đó khu giáp ranh Tràng An lại xảy ra đói lớn, quân Xích Mi lại bị thiếu lương. Vì vậy đến tháng 12 năm 26 lại rút khỏi Tràng An về phía đông.
Lưu Tú thấy Đặng Vũ liên tiếp thua trận bèn sai Phùng Dị đi đánh quân Xích Mi. Tháng 2 năm 27, Phùng Dị và Đặng Vũ truy kích quân Xích Mi, hai bên gặp nhau ở Hồi Khê[45] nhưng quân Phùng Dị vẫn bị Phàn Sùng đánh bại.
Thắng trận, Phàn Sùng tiếp tục tiến về đông, nhưng Lưu Tú đã bố trí thêm Hầu Tiến đóng đồn ở Tân An[46] và Cảnh Yểm đóng ở Nghi Dương[47]. Quân Xích Mi bất ngờ bị hai cánh quân chặn đánh ở địa phận hiểm yếu tại Hào Để[48], trở tay không kịp. Trong khi đó cánh quân của Phùng Dị và Đặng Vũ cũng dồn đuổi tới từ phía sau. Phàn Sùng đại bại, dẫn quân chạy sang hướng nam, về Nghi Dương.
Lưu Tú dẫn quân đến Nghi Dương, bố trí quân mai phục. Quân Xích Mi mỏi mệt sau nhiều trận giao chiến và di chuyển đường xa, lương thực lại hết, cùng đường không thể chống cự. Phàn Sùng đành mang 10 vạn quân ra hàng Lưu Tú.
Ông tha tất cả những người đầu hàng không giết ai, lựa lời khen ngợi Phàn Sùng và Từ Tuyên cùng các tướng Xích Mi bản lĩnh, lại không quên vợ con ở quê nhà. Sau đó ông cấp nhà cửa và đất đai Phàn Sùng và các tướng lĩnh khác mang vợ con đến định cư ở kinh thành Lạc Dương.
Diệt quần hùng, thống nhất quốc gia
Các chư hầu còn lại
Sau khi quân Xích Mi bị chinh phục, vẫn còn 11 lực lượng cát cứ chống đối trong nước:- Lưu Vĩnh là tôn thất nhà Hán, cháu 8 đời dòng trưởng của Lương Hiếu vương – con Hán Văn Đế, chiếm cứ 20 thành ở Sơn Đông, Giang Tô, Hà Nam, An Huy; tự xưng là thiên tử nối ngôi nhà Hán
- Trương Bộ ở Lang Nha, giữ 12 quận ở miền trung Sơn Đông, liên minh với Lưu Vĩnh, xưng là Tề Vương
- Đổng Hiến chiếm Thanh Đàm ở đông nam Sơn Đông, cũng liên minh với Lưu Vĩnh, tự xưng là Hải Tây vương
- Lư Phương chiếm giữ Ngũ Nguyên, Sóc Phương, Vân Trung, Nhạn Môn thuộc Nội Mông và bắc Thiểm Tây, Sơn Tây, Cam Túc ở phía tây bắc, liên kết với Hung Nô, tự xưng là Thiên tử.
- Lý Hiến chiếm Lư Giang phía đông nam, tự xưng Hoài Nam vương
- Tần Phong chiếm Kinh châu ở phía nam, tự xưng là Sở Lê Vương
- Bành Sủng là tướng của Lưu Tú làm phản năm 26, tự xưng là Yên vương, chiếm bắc Hà Bắc và Liêu Ninh
- Công Tôn Thuật chiếm cứ đất Thục lập nước Thành gia, xưng là Bạch đế.
- Quỳ Ngao chiếm Lũng Tây, đông nam Cam Túc, xưng vương
- Điền Nhung chiếm Di Lăng
- Đậu Dung chiếm 5 quận ở Hà Tây
Gần trước xa sau
Do có lực lượng khá hùng hậu, nhiều tướng giỏi, Lưu Tú một mặt tập trung vào những mũi tấn công chính, mặt khác tuỳ vào diễn biến tình hình từng vùng, ông sai các tướng cùng lúc tác chiến trên nhiều mặt trận.Từ năm 26, nhân lúc quân Xích Mi ở Tràng An gặp đói kém và bị các lực lượng khác cầm chân, quấy rối, Lưu Tú tập trung quân chủ lực đi đánh Lưu Vĩnh. Do kinh đô Tuy Dương của Lưu Vĩnh chỉ cách Lạc Dương của Lưu Tú vài trăm dặm, ông chủ trương xuất quân đánh nhanh để thắng. Quả nhiên Lưu Vĩnh không chống nổi, bỏ kinh đô Tuy Dương chạy về giữ Hồ Lăng[49]. Thấy địch suy yếu, Lưu Tú rút về Lạc Dương lo đối phó với quân Xích Mi, sai Ngô Hán đi đánh Hồ Lăng. Trong thành nguy cấp, thủ hạ giết chết Lưu Vĩnh để hàng. Con Lưu Vĩnh là Lưu Hu chạy về với Hải Tây vương Đổng Hiến.
Lưu Vĩnh bị giết làm nguy cơ phía đông bớt đi. Lưu Tú tính đến phản tướng Bành Sủng ở Yên. Sủng chiếm giữ ba quận Quảng Dương, Thượng Cốc, Hữu Bắc Bình, đánh đuổi tướng của Lưu Tú là Chu Phù khỏi huyện Kế (Bắc Kinh) và câu kết với Hung Nô. Năm 28, ông sai Tế Tuân đi đánh Yên. Trong khi chiến sự giằng co, liệu thế khó đánh thắng được Sủng, Lưu Tú dùng kế ám sát. Ông mua chuộc các thủ hạ hầu hạ cho Sủng là Tử Mật. Đầu năm 29, Sủng đang làm lễ cúng bái ăn chay, thiu thiu ngủ, Tử Mật trói luôn Sủng lại. Sau đó, Tử Mật lại giả truyền lệnh gọi vợ Sủng vào và chém chết cả 2 người, mang đầu dâng cho tướng Tế Tuân.
Với chiến sự phía đông, Lưu Tú nhiều lần sai các tướng Ngô Hán, Cái Diên, Mã Vũ, Vương Bá tấn công Lưu Hu và Đổng Hiến. Năm 29, Lưu Tú đích thân cầm quân, đánh bại Hiến ở Xương Lự[50]. Tháng 8 năm 29, ông bắt giết được Lưu Hu. Cùng lúc, Lưu Tú sai mãnh tướng Cảnh Yểm đánh Tề vương Trương Bộ. Cuối năm 29, Trương Bộ không chống cự nổi, phải đầu hàng. Năm 30, Ngô Hán vây Đổng Hiến ở huyện Cù[51]. Trong thành hết lương, Hiến ngầm chạy về Hồ Trạch, bị bộ tướng của Ngô Hán đuổi theo giết chết. Toàn bộ phía đông, gồm Sơn Đông, Hà Nam và Giang Tô thuộc về Lưu Tú.
Năm 28, sau khi diệt được quân Xích Mi và dồn các lực lượng của Lưu Hu và Đổng Hiến vào thế phòng thủ, Lưu Tú điều quân đánh Thọ Xuân[52], sai Mã Thành vây đánh Lý Hiến ở Thư Thành. Lý Hiến cầm cự đến đầu năm 30 thì thành vỡ. Hiến bỏ chạy, bị thủ hạ giết chết. Vùng Lư Giang hàng Lưu Tú.
Tháng 11 năm 28, khi chiến sự miền đông đã khá thuận lợi, Lưu Tú đích thân đi đánh Uyển Thành ở phía nam. Ông sai Chu Hựu đánh Tần Phong, vây khốn Phong ở Lê Khâu[53]. Tháng 6 năm 29, Chu Hựu phá được thành, bắt được Tần Phong.
Trong khi Chu Hựu đánh Phong, tháng 3 năm 29, Lưu Tú cùng Sầm Bành đi đánh Điền Nhung ở Di Lăng. Nhung thua trận, bỏ chạy vào Thục. Lưu Tú bắt hết vợ con và hơn vạn quân của Nhung.
Cùng năm, Lưu Tú sai người đi dụ Đậu Dung ở Hà Tây. Đậu Dung liệu thế không chống được nên quy hàng Lưu Tú. Nhờ vậy Lưu Tú đã bớt được 1 lực lượng có thể liên minh với Quỳ Ngao ở phía tây.
Trong năm 29, khi quần hùng phía đông cơ bản bị dẹp, các lực lượng khởi nghĩa nông dân ở Hà Bắc còn sót lại trước đây như Đàn Hương, Hoạch Sách, Phúc Bình, Vưu Lai,... cũng bị dẹp hoàn toàn. Tới năm 30, chỉ còn 3 thế lực chống đối là Lư Phương, Quỳ Ngao và Công Tôn Thuật.
Do địa bàn Lư Phương khá xa, Lưu Tú tính tới Quỳ Ngao và Công Tôn Thuật trước. Quỳ Ngao đóng ở Thiên Thuỷ, có 10 vạn quân, từng tham gia đánh Vương Mãng và giao tranh với quân Xích Mi. Năm 30, Lưu Tú điều quân tấn công Quỳ Ngao. Chiến tranh kéo dài trong nhiều năm. Sau này Quỳ Ngao chết, con là Quỳ Thuần lên thay. Năm 34, Lưu Tú đánh bại Thuần ở Lạc Môn. Quỳ Thuần thế cùng phải đầu hàng.
Đầu năm 35, Lưu Tú chia quân làm hai đường đi đánh Công Tôn Thuật. Sầm Bành, Ngô Hán đi ngược Trường Giang vào Thục; Lai Hấp, Tang Cung đi từ Lũng Tây xuống, hội nhau ở Thành Đô. Thuật thấy quân địch kéo đến bèn dùng kế thích khách, sai người lẻn đến trại hai cánh quân Hán để đâm trộm chủ tướng. Kết quả Sầm Bành và Lai Hấp bị đâm trọng thương rồi chết, nhưng hai cánh quân do Ngô Hán, Tang Cung chỉ huy vẫn tiến vào Thục. Năm 36, quân Hán tiến vào Thành Đô. Công Tôn Thuật bị thương rồi chết.
Lực lượng của Lưu Phương phía bắc ngày một suy yếu trước sự uy hiếp của Lưu Tú. Các thủ hạ của Phương lần lượt về hàng Hán. Đến năm 40, Phương bị cô thế, phải dâng biểu xin hàng. Lưu Tú bèn phong cho Phương tước Đại vương. Tuy nhiên sau đó Phương lại câu kết với Hung Nô nổi loạn nhưng không thành công và phải chạy sang phía Hung Nô năm 42.
Sau gần 20 năm khởi binh, Lưu Tú thống nhất toàn thiên hạ với danh nghĩa kế tục nhà Hán. Ông lập ra triều đại nhà Đông Hán kéo dài gần 200 năm.
Đánh Giao Chỉ
Năm 40, ngay sau khi Lưu Tú thống nhất quốc gia thì ở phía nam, thái thú quận Giao Chỉ là Tô Định tàn bạo, mất lòng dân địa phương. Định giết hại thủ lĩnh người Việt ở Chu Diên là Thi Sách.
Vợ của Thi Sách là Trưng Trắc cùng em là Trưng Nhị kêu gọi nhân dân nổi dậy khởi nghĩa, đánh đuổi Tô Định, tự lập ở Giao Chỉ, xưng là Trưng Vương.
Năm 42, Lưu Tú sai Phục Ba tướng quân Mã Viện mang 2 vạn quân đi đánh Trưng Vương. Sang năm 43, sau nhiều trận thắng, Mã Viện dẹp được phong trào khởi nghĩa tại đây. Sau khi chị em Trưng Vương tự sát, tới cuối năm 43 thì các lực lượng chống đối bị dẹp hẳn.
Cai trị
Lưu Tú lên ngôi, tức là vua Hán Quang Vũ Đế. Ngay từ khi chưa hoàn thành việc đánh dẹp chư hầu, Lưu Tú đã quan tâm chấn chỉnh những vùng mà ông cai quản. Khi vừa hoàn thành việc thống nhất quốc gia, ông lập tức dẹp bỏ việc võ mà sửa việc văn, chủ trương cai trị thiên hạ bằng nhu đạo[54][55].Nô tỳ
Ông chú trọng tới việc giải phóng cho nô tỳ, tranh thủ sự đồng tình của những người nghèo khổ trong xã hội. Sáu lệnh phóng thích nô tỳ mà ông ban hành gồm có[56]:Năm 26, ông ra lệnh: nếu chồng muốn bán vợ thì người vợ có quyền trở về nhà bố mẹ.
Năm 30, ông ra lệnh: những người dân bị tội phải thành nô tỳ thời nhà Tân thì nay được trở lại làm dân thường
Năm 31, ông ra lệnh: Những ai trước đây nghèo khổ quá ở Thanh châu, Từ châu, phải tự bán mình làm nô tỳ và làm vợ người khác thì đến đây được tự quyết định thân phận, không ai được ép
Năm 36, ông lại xuống chiếu với những người dân ở vùng Lũng mới tiếp quản (của Quỳ Ngao): ai từng bị bắt làm nô tỳ nay được về làm thứ dân
Năm 37, ra lệnh cho những người dân Thục trước đây dưới quyền Công Tôn Thuật phải bán mình làm nô tỳ hoặc làm vợ người khác thì nay được tự ý ra đi, không ai được ép.
Năm 38, ông xuống lệnh: nô tỳ trong các phủ đệ ở Ích châu và Lương châu nhất loạt được phóng thích làm thứ dân, không phải hoàn trả bất cứ khoản tiền nào.
Ngoài ra, ông còn tuyên bố: Ai ngăn cản việc phóng thích nô tỳ hoặc không chịu phóng thích nô tỳ thì bị tội "bán người" và "cướp người" như thời Tây Hán.
Năm 35, Hán Quang Vũ Đế liên tục ban bố 3 chiếu lệnh liên quan đến nô tỳ khác:
- Trong trời đất, con người là quý, ai giết nô tỳ thì không được giảm tội
- Người nào châm đốt nô tỳ thì bị xử tội, nô tỳ bị nạn được trở lại làm thứ dân
- Người đánh nô tỳ bị thương tàn phế sẽ bị xử tội chết.
Đất đai
Năm 39, ông xuống chiếu lệnh cho các quận, huyện kiểm tra lại số ruộng đất trồng trọt, hộ khẩu và tuổi tác người dân trong nước, gọi là độ điền. Mục đích của việc làm này là hạn chế việc chiếm hữu quá nhiều đất của địa chủ. Ông thúc đẩy xây dựng thuỷ lợi tạo điều kiện cho sản xuất nông nghiệp.Trên thực tế, việc áp dụng không được hiệu quả như mong muốn của ông. Các quan lại e ngại thế lực của các địa chủ nên không dám truy số ruộng đất mà họ chiếm hữu. Tuy Quang Vũ Đế có trừng phạt một số việc làm sai trái nhưng không thay đổi tình hình được nhiều. Việc này chỉ mang lại sự làm dịu mâu thuẫn về đất đai so với trước và điều đó ít nhiều có tác dụng kích thích nông dân tham gia sản xuất, hồi phục kinh tế đất nước.
Chính sách thuế
Một khó khăn cho nhà nước Đông Hán non trẻ là việc tái thiết lại nền kinh tế sau những năm nội chiến và thiên tai hoành hành ở vùng Hoàng Hà dưới thời Vương Mãng. Quang Vũ Đế đã thi hành nhiều chính sách tích cực như giảm thuế từ 1/10 sản lượng xuống 1/30 sản lượng như thời Hán Văn Đế và Hán Cảnh Đế, phục viên binh lính để tăng thêm nhân lực cho khu vực sản xuất nông nghiệp, xây dựng các công trình thủy lợi, không tăng thêm số lính ở vùng biên cương,... nhờ vậy tình hình xã hội tương đối ổn định. Những nông dân tản cư được đưa về quê cũ. Các quan liêu phú hào có nhiều ruộng đất không khai báo trung thực về số đất đai và nhân khẩu sở hữu để trốn thuế.Nhằm kiểm soát dân số và hạn chế quyền lực của quan lại địa phương, Quang Vũ Đế thi hành chính sách lộ điền, những người sở hữu nhiều ruộng đất không được phép mua bán ruộng và xây dựng lực lượng vũ trang riêng. Năm 39, Quang Vũ Đế xuống chiếu cho các địa phương phải đăng ký lại số ruộng và hộ khẩu thực tế, khi phát hiện ra sự việc gian trá, hơn 10 quan viên cao cấp phạm tội đã bị xử tử. Tuy nhiên do không thực thi triệt để nên về sau tình trạng này vẫn tái diễn. Đến năm 57 khi Quang Vũ Đế qua đời, mới chỉ có 21 triệu người đóng thuế.
Quang Vũ đế phát triển kinh tế bằng cách giảm thuế, nhiều đến mức tối đa mà ông cho là có thể: ở mức 10 hay 13% sản lượng hay lợi nhuận.
Bộ máy quan lại và pháp luật
Mặt tích cực
Năm 26, Hán Quang Vũ Đế ra lệnh cải cách toàn diện chính sách cũ của Vương Mãng, chỉnh đốn quan lại, thành lập Thượng thư đài gồm 6 người phụ trách đại sự quốc gia để làm suy yếu hơn nữa quyền hạn của tam công, tức Thái úy, Tư đồ và Tư không. Thượng thư đài gồm các nho sĩ giúp việc tập trung nhiều quyền lực. Tam công, khanh tướng, đại phu, hiệu úy muốn làm việc gì phải có lệnh của Thượng thư đài. Các quan muốn đi lại bằng xe, muốn có quân sĩ đều do Thượng thư đài điều động.Vua có ba phụ tá gọi là Tam công, tức Tư đồ, Tư không và Tư mã. Tư đồ (quản lý về hành chính) lớn nhất rồi đến Tư không (phụ trách việc giám sát), Tư mã (quản lý việc quân sự). Song trên thực tế, Tư mã coi toàn bộ quân đội, thường lấn áp hai vị tư kia. Trong thời Quang Vũ Đế, tư đồ là Đậu Dung, tư không là Tống Hoằng, tư mã là Đặng Vũ sau đó là Ngô Hán.
Hán Quang Vũ Đế đề xướng việc "tiết kiệm, giảm quan, bớt chức", bãi bỏ quân vũ trang địa phương cho về quê làm ruộng. Ông còn giảm bớt chức quận đô uý, tăng trách nhiệm cho thái thú. Hán Quang Vũ Đế thu gọn bộ máy chính quyền từ huyện, ấp, đạo, chỉ giữ lại 1/4 trong số đó. Vì vậy số quan lại hưởng lương chỉ bằng 1/10 thời Tây Hán[55]. Binh lính tại các quận, huyện cũng được cho giải tán bớt về quê để bớt khẩu phần ăn theo; các vùng biên ải cũng không tuyển thêm quân. Do bớt quan chức, gánh nặng chi phí cũng giảm, vì vậy thuế đóng góp của nhân dân cũng bớt đi.
Nhà nước phế bỏ "quan nô" những chủ nô lệ nếu cố chấp không chịu phóng thích nô tỳ sẽ bị trừng trị theo luật mại nhân pháp và lược nhân pháp của Tây Hán, ban bố 3 sắc lệnh quy định trong thiên hạ người là quý nhất giết nô tỳ phải chịu tội chết, người tra tấn nô tỳ sẽ bị xử phạt theo pháp luật, miễn cho người đang bị tội chết làm thứ dân; sáp nhập huyện để bớt quan lại, hệ thống quan lại hành chính cũng được tổ chức lại, chỉ có những ai đã học thái học (trường quốc học) mới được bổ nhiệm làm quan, bộ máy chính quyền thu gọn lại 1/4, số quan lại lương chỉ bằng 1/10 của Tây Hán. Quang Vũ Đế phái người đi thanh tra đất đai.
Để duy trì chính sách "cùng nghỉ với dân", ông chú trọng tới việc thu hút và đào tạo nhân tài. Theo quan điểm của Lưu Tú, trị quân khác trị quốc, việc chỉ huy binh mã không thể thay thế được những yêu cầu về học vấn. Do đó khi chiến tranh dẹp các vùng cát cứ chưa chấm dứt, ông đã bắt tay xây dựng trường học để đào tạo thế hệ quan lại mới, phù hợp với mục đích phục vụ cho thời bình.
Hán Quang Vũ đế cho rằng hình phạt trước đây quá nặng, rất nhiều người bị oan. Ông ra lệnh xem xét giảm nhẹ hình phạt và nhiều lần tuyên bố đại xá. Những phạm nhân, trừ người mắc tội tử hình, ông đều cho miễn giảm và làm thứ dân[58].
Do Lưu Tú luôn chú ý tới pháp luật trong nước, quan lại thời ông trị vì được đánh giá là tương đối trong sạch[59].
Hạn chế
Tuy nhiên, việc tiết kiệm chi phí trong bộ máy quan chế của ông cũng có hạn chế. Do ông đề ra chính sách tiết kiệm công tác phí của các Thứ sử, khiến họ không cần đi tới các địa phương giám sát tình hình cụ thể và không cần báo cáo quá nhiều, các thứ sử chỉ ngồi suông ở công đường. Họ bị mất thân phận quan lại trung ương, không còn tiếp tục là tai mắt của triều đình. Vì thế các địa phương dần dần nảy sinh tình trạng lấn quyền triều đình trung ương. Các sử gia cho rằng điều đó từng bước phá hoại chế độ tập quyền và thống nhất của nhà Hán[60].Chính sách với công thần và chế độ phân phong
Ông tái lập lại chế độ phong vương cho con cháu (vương quốc) và phong hầu cho công thần (hầu quốc) và chia lại đất đai cho nông dân và các quý tộc. Tầng lớp thượng lưu được ban cấp nhiều ruộng đất. Chính sách này về sau được Triệu Khuông Dẫn, hoàng đế khai quốc nhà Bắc Tống áp dụng.Quang Vũ đế hạ chiếu phong cho công thần, người có công lớn được phong đất tới 4 huyện. Riêng Lý Thông và Cổ Hạ được phong đất tới 6 huyện. Việc phong thần được tiến hành 3 lần vào năm 26, năm 37 và cuối đời Quang Vũ. Số người được phong hầu trong vương thất là 125 người, trong các công thần là 365 người.
Đối với các công thần, Hán Quang Vũ Đế ban thưởng công lao rất hậu nhưng không để họ can thiệp vào việc triều chính, cũng như không để họ có thực lực, thực quyền làm phát sinh tranh chấp quyền lực giữa thiên tử và chư hầu như đầu thời Tây Hán. Với việc thành lập Thượng thư đài, Quang Vũ Đế đã giảm quyền lực của công thần, võ tướng. Các công thần được phong tước hưởng lộc ở các huyện, các quan lại ăn lương từ 600 – 2000 thạch đều do Thượng thư đài xem xét. Lưu Tú cho rằng nếu để các công thần tham gia triều chính, sẽ vừa ảnh hưởng đến chính sách cai trị thiên hạ bằng nhu đạo của ông, vừa ảnh hưởng đến hình luật quốc gia. Vì vậy hầu hết các công thần không được ông giao đảm nhiệm triều chính thời bình. Chỉ có một số ít người thực sự có tài năng để phục vụ thời bình như Đặng Ngu, Lý Thông, Giả Hạ,... được ông tiếp tục giao quyền hành. Quan điểm này của ông khác hẳn với Lưu Bang - từng sát hại hàng loạt công thần khai quốc. Ông cũng luôn nhắc các công thần phải luôn tuân thủ luật pháp, giữ mình như ngày đầu để bảo vệ công danh của mình[61].
Theo quan chế nhà Hán, bên cạnh Hoàng đế có nhiều vị tước vương, công chỉ phong cho con, em Hoàng đế, trường hợp rất hãn hữu lắm mới phong cho người ngoài có đại công như Trần Tự Sơn. Các vương, công này thường làm vua một nước nhỏ. Đôi khi họ về triều giữ một vài chức vụ tối cao, như trường hợp Hoài Nam vương Lưu Quang - giữ chức vụ Tướng quốc đóng vai trò phụ trách an ninh cho Hoàng đế.
Địa giới hành chính
Toàn quốc chia làm 13 châu: Thanh, Từ, U, Ký, Duyện, Dự, Dương, Ung, Ích, Kinh, Giao, Lương, Tinh.- Ung châu gồm các quận: Hà Nam (Lạc Dương ở quận này), Hà Nội, Hà Đông, Hoằng Nông, Kinh Triệu (Tràng An ở quận này), Tả Bình Nghi, Hữu Phù Phong.
- U châu gồm các quận: Hữu Bắc Bình, có Kế Thành, tức là thủ phủ của U châu. Trác quận sau bị cắt ra một phần thành quận Phạm Dương, Đại quận[62], Thượng Cốc, Ngư Dương, Quảng Dương, Liêu Tây, Huyền Đô, Lạc Lãng. Liêu Đông thời kỳ này chẳng phải là quận mà là thuộc quốc.
- Ký châu: thủ phủ Ký Châu trước vốn ở Tín Đô (quận An Bình), sau dời về Nghiệp Đô, thuộc Ngụy quận. Ký châu gồm các quận: Ngụy quận, Triệu quận, Cam Lăng (còn có tên Thanh Hà), Hà Gian, Bột Hải, Bác Lăng, An Bình, Thường Sơn, Trung Sơn, Cự Lộc.
- Tinh châu gồm các quận: thủ phủ là thành Tấn Dương, quận Thái nguyên. Tinh châu gồm: Thái Nguyên, Thượng Đảng, Nhạn Môn, Định Tương, Vân Trung, Ngũ Nguyên, Sóc Phương, Tây Hà, Thượng quận.
- Lương châu[63] gồm các quận: thủ phủ là Cô Tang quận Vũ Uy. Lương châu gồm: Vũ Uy, Trương Dịch, Tửu Tuyền, Đôn Hoàng, Kim Thành, Lũng Tây, Nam An, Hàm Dương/Thiên Thủy, An Định, Bắc Địa, Vũ Đô.
- Ích châu: thủ phủ là Thành đô thuộc Thục quận. Ích châu gồm các quận: Thục quận, Quảng Hán, sau một phần Quảng Hán thành Tây Khang, Hán Trung, Ba quận[64], Kiện Vi, Việt Huề, Tường Kha, Vĩnh Xương. Quận Kiện Vi phía Bắc và phía Tây giáp sông Dương Tử ngăn quận Kiện Vi với quận Ba.
- Thanh châu: thủ phủ đổi từ Lâm Tri, qua Bắc Hải, rồi Quảng Cố. Thanh châu gồm: Tề quận, Bắc Hải, Bình Nguyên, Lạc An, Tế Nam, Đông Lai.
- Duyện châu thủ phủ vốn ở Trần Lưu, sau đổi qua Bộc Dương; gồm các quận: Đông quận, Trần Lưu, Tế Âm, Sơn Dương, Tuyên Thành, Đông Bình, Tế Bắc, Thái Sơn.
- Từ châu: thủ phủ vốn ở Bành Thành, sau dời qua Hạ Bì. Từ châu gồm: Lang Nha, Đông Hải, Bành Thành, Hạ Bì sau đổi thành Lâm Hoài, Quảng Lăng.
- Dự châu: thủ phủ là Hứa Xương. Dự châu gồm: Lỗ quận, Lương quận, Trần quận, Nhữ Nam, Dĩnh Xuyên, Bái quận.
- Kinh châu: thủ phủ Giang Lăng hoặc Tương Dương, Nam quận. Kinh châu gồm các quận: Nam Dương, Nam quận, Giang Hạ, Vũ Lăng, Trường Sa, Linh Lăng, Quế Dương.
- Dương châu: thủ phủ Thọ Xuân (Cửu Giang), sau đổi về Kiến Nghiệp, rồi Vũ Xương. Dương châu gồm có các quận: Cửu Giang, Lư Giang, Đan Dương, Ngô quận, Cối Kê, Dự Chương. Quận này ngoài các quận bắc sông Dương và vùng Ngô Hội, đất rộng người thưa, chủ yếu là dân thiểu số (Sơn Nhân và Sơn Việt)[65]
- Giao Châu: Thủ phủ Long Biên (Giao Chỉ), sau chuyển về Phiên Ngung. Giao châu gồm các quận: Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố, Nam Hải, Thương Ngô, Uất Lâm. Quận Thương Ngô thì phía Bắc giáp quận Kiên Vi, phía Tây giáp quận Tấn Ninh tức là nước Điền cũ, phía Đông Bắc giáp quận Vũ Lăng tức là quận Kiến Trung đời nhà Tấn. Quận Uất Lâm ở vùng đất thuộc Quảng Tây, quận Tường Kha ở phía tây quận Uất Lâm và gồm một phần Quý Châu.
Quân đội
Quang Vũ Đế bổ nhiệm các đô úy chịu trách nhiệm trước triều đình thay thế cho lực lượng quân sự địa phương. Để đền đáp công lao cho các tướng lĩnh, năm 37, Quang Vũ Đế đã phong tước hầu cho nhiều tướng lĩnh công thần khi các cuộc hành quân mở rộng lãnh thổ được thực hiện, ông đã điều chỉnh mối quan hệ với các tướng lĩnh cho phù hợp. Ông có gắng tìm ra cách tốt nhất để bảo vệ tước vị của họ và không tạo ra sự xích mích với họ, kết thông gia với các tướng Lương Nhiễu, Đậu Dung, Mã Viện, Đặng Vũ. Các tướng lĩnh được ban cấp nhiều bổng lộc, các ý kiến của họ thường được hoàng đế lắng nghe, nhưng họ không được nắm giữ vị trí quan trọng trong chính quyền ngoại trừ một số ít những người có tài năng xuất chúng như Đặng Vũ, Lý Thông, Giả Hạ, đây là chính sách thoái công thần nhi tiến văn lại. Chính sách này về sau được Triệu Khuông Dẫn, hoàng đế khai quốc nhà Bắc Tống áp dụng.Tổ chức quân sự hành chính nhà Đông Hán rất chặt chẽ để phòng ngừa việc đảo chính như Vương Mãng đã làm. Trước hết, Vũ vệ đại tướng quân coi Ngự lâm quân. Ngự lâm quân đời Đông Hán không phải là đội quân canh gác Hoàng thành, mà là một đội quân trù bị toàn quốc. Khi hoàng đế thân chinh đánh nhau, thì mang theo Ngự lâm quân đông tới 20 vạn. Sau đó đến các chức hiệu úy chỉ huy đội thị vệ hay gọi là cấm quân gồm những vệ sĩ trong cung. Mỗi cung có một hiệu úy coi thị vệ. Theo quy định thì Thị vệ do nhà vua tuyển. Nhưng các bà Thái hậu, Hoàng hậu, Thứ phi đều tìm cách đưa con em vào đội thị vệ của mình, để sai phái riêng. Không có một chức vụ nào coi tất cả thị vệ. Vì vậy khi một đội thị vệ làm phản, sẽ bị các đội khác dẹp. Dù cả đoàn thị vệ làm phản thì sẽ bị Ngự lâm quân phản ứng. Nếu Ngự lâm quân phản bội, lại vướng phải binh lực của Thái thú Lạc Dương, tổng trấn kinh thành phản ứng. Ngoài ra Hoàng đế còn có chức Điện súy hiệu úy, chỉ huy đội thị vệ cạnh nhà vua để thi hành mệnh lệnh.
Đối ngoại
Hung Nô
Hán Quang Vũ Đế chủ trương dùng chính sách hoà bình với Hung Nô. Đúng lúc đó Hung Nô bị chia cắt thành nam bắc, cả Nam Hung Nô và Bắc Hung Nô cùng tới xin hàng.Sau đó Nam Hung Nô không chống nổi Bắc Hung Nô, xin được dời đến quận Vân Trung. Quang Vũ Đế chấp thuận. Về sau, người Hung Nô lại xin dời về phía nam, vào cư trú tại Tây Hà, Mỹ Tắc[66], cũng được ông đồng ý. Các nhà sử học cho rằng đây chính là "mai phục mầm hoạ cho Ngũ Hồ loạn Hoa về sau"[54].
Khoảng năm 45 Hung Nô bị nhiều nạn hạn hán và một nạn châu chấu, súc vật chết nhiều, dân đói. Nước chia làm hai: bắc sống độc lập, nam lệ thuộc Hán; Quang Vũ mưu mô gây sự bất hòa giữa hai bên. Nhằm cắt đứt liên hệ giữa Bắc và Nam Hung nô nhà Đông Hán cho đặt Độ Liêu tướng quân xây đồn lũy ở các vùng Ngũ Nguyên, Mang Bá (đông nam của Đạt lạp đặc kỳ thuộc Nội Mông).
Tây Vực
Các thủ lĩnh Tây Vực cũng cùng nhau sai sứ vào cống, lại tình nguyện cho con trai vào làm thị vệ để chứng tỏ lòng trung thành, xin được nhà Đông Hán bảo hộ cho Tây Vực.Tuy nhiên, Quang Vũ Đế lại đóng cửa ải Ngọc Môn, mềm mỏng từ chối đề nghị đó, vì ông không muốn thêm việc cho quốc gia, không muốn tham gia vào cuộc phân tranh của nhiều quốc gia nhỏ phía tây như Hán Vũ Đế và Hán Tuyên Đế từng làm; sợ nhọc sức dân và tốn sức nước[67].
Qua đời
Từ khi mới khởi binh, Hán Quang Vũ Đế đã rất tin vào sấm truyền. Ông đã thấy câu sấm: "Hài bất hài, tại Xích Mi; đắc bất đắc, tại Hà Bắc" ứng với việc Lưu Huyền bị quân Xích Mi giết và bản thân ông từ khi lên Hà Bắc đã phát triển được cơ nghiệp. Khi đã giành được thiên hạ đến lúc tuổi già, Quang Vũ Đế vẫn tin vào những câu sấm[68].Năm 57, Hán Quang Vũ Đế qua đời, hưởng thọ 63 tuổi. Ông ở ngôi tất cả 32 năm, đặt hai niên hiệu là:
- Kiến Vũ (建武; 25-56)
- Kiến Vũ Trung Nguyên (建武中元; 56-57)
Thái tử Lưu Trang lên nối ngôi, tức là Hán Minh Đế (57-75).
Gia quyến
- Thân phụ: Lưu Khâm (劉欽).
- Thân mẫu: Phàn Nhàn Đô (樊嫻都).
- Chị, em gái:
- Anh:
- Hậu phi:
- Phế hoàng hậu Quách Thánh Thông (郭聖通, ? - 56), lập năm 26, phế năm 41, phong làm Phái vương thái hậu (沛王太后).
- Quang Liệt hoàng hậu Âm Lệ Hoa (光烈皇后陰麗華, 5 - 64), lập năm 41.
Năm 24, vì mục đích chính trị, ông cưới Quách Thánh Thông để mượn quân của Lưu Dương. Vì gia thế của Quách Thánh Thông, khi lên ngôi hoàng đế năm 25 ông đã lập bà làm hoàng hậu; nhưng khi bình định xong thiên hạ, ông phế Quách Thánh Thông và lập Âm Lệ Hoa làm hoàng hậu năm 41. Thái tử Lưu Trang nối ngôi sau này là con của Âm hoàng hậu.
- Các con:
- Lưu Cương (劉疆), lập thái tử năm 26, phế năm 43, sau làm Đông Hải Cung vương (东海恭王), mất năm 58, mẹ là Quách hoàng hậu.
- Lưu Phụ (劉輔), được phong Trung Sơn vương (中山王, năm 41), sau đổi thành Phái Hiến vương (沛献王, năm 43), mất năm 84, mẹ là Quách hoàng hậu.
- Lưu Khang (劉康), mất năm 97, sau là Tế Nam An vương (济南安王), mẹ Quách hoàng hậu.
- Lưu Diên (劉延), sau là Phụ Lăng Chất vương (阜陵质王), mất năm 90, mẹ Quách hoàng hậu.
- Lưu Yên (劉焉), sau là Trung Sơn Giản vương (中山简王), mất năm 90, mẹ Quách hoàng hậu.
- Lưu Anh (劉英), phong Sở vương (楚王), tự sát năm 71, mẹ Hứa mỹ nhân.
- Lưu Dương (劉陽), Đông Hải công (东海公, lập năm 39), sau phong Đông Hải vương (东海王, năm 41). Sau đó đổi tên là Lưu Trang (劉莊), được lập làm Thái tử năm 43 và trở thành Hán Minh Đế, mẹ Âm hoàng hậu.
- Lưu Thương (劉蒼), sau là Đông Bình Hiến vương (东平宪王), mất năm 83, mẹ Âm hoàng hậu.
- Lưu Kinh (劉荊; 37 - 67), Nghiễm Lăng Tư vương (广陵思王), mẹ Âm hoàng hậu.
- Lưu Hành (劉衡), Lâm Hoài Hoài công (临淮怀公), mất năm 41, mẹ Âm hoàng hậu.
- Lưu Kinh (劉京), Lang Tà Hiếu vương (琅邪孝王), mất năm 69, mẹ Âm hoàng hậu.
- Vũ Dương trưởng công chúa Lưu Nghĩa Vương (舞阳长公主劉義王), không rõ mẹ.
- Niết Dương công chúa Lưu Trung Lễ (涅阳公主劉中禮), không rõ mẹ.
- Quán Đào công chúa Lưu Hồng Phu (馆陶公主劉紅夫), không rõ mẹ.
- Khánh Dương công chúa Lưu Lễ Lưu (淯阳公主劉禮劉), không rõ mẹ.
- Ly Ấp công chúa Lưu Thụ (郦邑公主刘绶), không rõ mẹ, bị chồng sát hại năm 59.
Nhận định
Quân sự
Hán Quang Vũ Đế được các sử gia Trung Quốc đánh giá rất cao. Về mặt quân sự, ông được ca ngợi là một thiên tài quân sự, một anh hùng kiệt xuất trong lịch sử Trung Quốc[69]. Xuất thân là họ hàng xa của hoàng tộc, thực chất Lưu Tú không khác nhiều so với người dân áo vải. Thân thế đó không giúp được nhiều cho ông trong cuộc chiến thời loạn lạc vốn cũng có nhiều người trong hoàng tộc khác cùng nổi lên cát cứ. Tài năng quân sự của ông thể hiện rõ trong những trận đánh lấy ít địch nhiều, lấy yếu thắng mạnh. Không chỉ giỏi cầm quân, ông còn giỏi trị quân, cất nhắc và sử dụng đúng người, xây dựng được kỷ luật nghiêm minh, tập hợp được đội ngũ tướng sĩ thiện chiến và trung thành[69]. Ông đã phải tự phấn đấu trong quá trình dựng nghiệp và trải qua nhiều khó khăn, mất mát đau thương và gian khổ để có thắng lợi cuối cùng. Lưu Tú góp công không nhỏ trong cuộc lật đổ triều nhà Tân và tự chứng tỏ là người mạnh nhất trong cuộc chiến dẹp hàng chục chư hầu và hàng chục lực lượng khởi nghĩa nông dân cát cứ lớn mạnh khác, về cơ bản hoàn thành chỉ trong khoảng 10 năm từ khi xưng đế.Chính trị
Sử gia Lê Đông Phương và Vương Tử Kim đánh giá ông là người giỏi đánh trận nhưng lại rất yêu chuộng hoà bình[54]. Chính sách "cùng nghỉ với dân", tránh đụng độ với Hung Nô, tránh can thiệp vào Tây Vực khiến nhân dân được hoà bình sau vài chục năm chiến tranh binh lửa. Những chính sách xây dựng đất nước sau khi thống nhất như giải phóng cho nô tỳ, bớt gánh nặng thuế khoá cho nhân dân,... có tác dụng rất lớn nhằm giải phóng sức sản xuất, khôi phục kinh tế, giải toả mâu thuẫn trong xã hội, khiến xã hội ổn định sau khi bị xáo trộn dưới thời Vương Mãng, khiến Trung Quốc phồn thịnh trở lại[70].Là vị vua khai quốc thời chiến loạn nhưng Lưu Tú đối xử với các công thần và những thủ lĩnh đối địch về hàng rất nhân hậu và chính điều này khiến ông được các sử gia đánh giá cao khi so sánh với Lưu Bang. Toàn quân Xích Mi đã đánh bại quân Lưu Tú nhiều lần, nhưng khi Phàn Sùng thất thế bại trận, ông tha bổng hết các tướng sĩ Xích Mi. Tướng quân Lục Lâm là Chu Vĩ từng xui Lưu Huyền giết Lưu Diễn anh ông, nhưng khi Chu Vĩ muốn hàng, ông không hề báo thù, trái lại phong chức lớn và sau này con cháu nhà Chu Vĩ vẫn truyền nối nhiều đời[71].
Khi Lưu Tú tiến vào Hàm Đan diệt Vương Lang, ông thu được các giấy tờ văn kiện, trong đó không ít văn thư của thủ hạ dưới quyền ông trao đổi qua lại với Vương Lang, có những văn thư phỉ báng ông. Lưu Tú không những không xem mà trái lại ra lệnh đốt hết các văn kiện đó đi. Sự khoan dung, độ lượng của ông khiến những người cấp dưới rất cảm phục, được đời sau đánh giá là khí phách phi phàm, không nhiều chính trị gia trước và sau ông có được[71]. Sự nhân hậu của ông cũng đã cảm phục được danh tướng Mã Viện vốn ở dưới trướng Quỳ Ngao về với ông và lập nhiều công trạng.
Đóng góp về chính trị và quân sự của Lưu Tú khiến ông được xem là một minh quân hiếm thấy trong lịch sử Trung Quốc, là vị hoàng đế có trình độ đạo đức cao nhất và chú ý đến tình người nhất trong số các vị vua khai quốc trong lịch sử Trung Quốc[72]; đồng thời, ông góp phần thúc đẩy lịch sử Trung Quốc phát triển[73].
Xem thêm
Tham khảo
- Tào Hồng Toại (2004), Thời niên thiếu của các bậc đế vương, NXB Văn hóa thông tin
- Tiêu Lê (2000), Những ông vua nổi tiếng trong lịch sử Trung Quốc, NXB Đà Nẵng
- Tiêu Lê, Mã Ngọc Chu, Lã Diên Đào (2004), 100 người đàn ông có ảnh hưởng đến lịch sử Trung Quốc, NXB Chính trị quốc gia
- Lê Đông Phương, Vương Tử Kim (2007), Kể chuyện Tần Hán, NXB Đà Nẵng
- Đặng Huy Phúc (2001), Các hoàng đế Trung Hoa, NXB Hà Nội
- Kỳ Ngạn Thần (2007), Người Trung Quốc và những hiểu lầm về lịch sử, NXB Công an nhân dân
- Bielenstein, Hans. (1986). "Wang Mang, the Restoration of the Han Dynasty, and Later Han," in The Cambridge History of China: Volume I: the Ch'in and Han Empires, 221 TCN. – A.D. 220, 223–290. Edited by Denis Twitchett and Michael Loewe. Cambridge: Cambridge University Press. ISBN 0-521-24327-0.
- Tư trị thông giám của Tư Mã Quang, các quyển 38-44 (bản gốc tại zh:s:資治通鑑), và bản tiếng Hán hiện đại được Bá Dương biên tập (Đài Bắc, 1982-1989).
- Hậu Hán thư của Phạm Diệp, quyển 1 thượng và hạ (Thế Tổ Quang Vũ Đế kỷ).
Chú thích
- ^ Mẹ Lưu Phát là Đường Cơ vốn chỉ là thị nữ của Trình Cơ - một bà phi của Hán Cảnh Đế
- ^ Đông bắc Ninh Viễn, Hồ Nam hiện nay
- ^ Quế Bình, Ngọc Lâm thuộc Quảng Tây hiện nay
- ^ Vùng Cự Lộc, Hà Bắc, Trung Quốc
- ^ Dòng Lưu Đan được về từ thời Hán Vũ Đế (128 TCN), dòng Lưu Diên về từ thời Hán Tuyên Đế (65 TCN)
- ^ Huyện Tiêu, An Huy hiện nay
- ^ Tào Hồng Toại, sách đã dẫn, tr 263
- ^ Tào Hồng Toại, sách đã dẫn, tr 267
- ^ Tây bắc huyện Miên, Hồ Bắc hiện nay
- ^ Phía tây Táo Dương, Hồ Bắc hiện nay
- ^ Tào Hồng Toại, sách đã dẫn, tr 301
- ^ Phía bắc Táo Dương, Hồ Bắc
- ^ Tiêu Lê, sách đã dẫn, tr 433
- ^ Tây bắc Đường Hà, Hà Nam, Trung Quốc
- ^ Phía đông huyện Tân Dã hiện nay
- ^ Phía nam thành phố Nam Dương, Hà Nam, Trung Quốc
- ^ Phía tây bắc Ngoã Điếm cạnh Bạch Hà, Hà Nam, Trung Quốc
- ^ Tiêu Lê, sách đã dẫn, tr 434
- ^ Đặng Huy Phúc, sách đã dẫn, tr 86-87
- ^ Huyện Diệp, Hà Nam, Trung Quốc
- ^ Tây bắc Uyển Thành, Hà Nam
- ^ Nay là Yển Thành, Hà Nam
- ^ Huyện Vũ tỉnh Hà Nam
- ^ Tào Hồng Toại, sách đã dẫn, tr321
- ^ Nay là Sa Hà
- ^ Tào Hồng Toại, sách đã dẫn, tr 326
- ^ Tào Hồng Toại, sách đã dẫn, tr 330
- ^ Tiêu Lê, sách đã dẫn, tr 441
- ^ Khi Vương Mãng còn sống đã giết Lưu Tử Dư thật - con của Thành Đế. Nhưng sau này Vương Lang nói rằng đó là Lưu Tử Dư giả, còn mình mới là Lưu Tử Dư thật. Theo Lê Đông Phương và Vương Tử Kim trong Kể chuyện Tần Hán, tr 294, ngày nay không có cơ sở nào để kết luận Vương Lang có phải là Lưu Tử Dư thật hay chỉ là mạo nhận
- ^ Huyện Định, Hà Bắc, Trung Quốc hiện nay
- ^ Bắc Kinh hiện nay
- ^ Vùng thuộc tỉnh Hà Bắc, Trung Quốc, không phải là thành phố Nam Cung
- ^ Tây bắc huyện Ký, Hà Bắc hiện nay
- ^ Đông bắc Chính Định, Hà Bắc
- ^ Tay bắc tỉnh Hà Bắc
- ^ Tây nam Cao Ấp, Hà Bắc
- ^ Phía tây Long Nghiêu, Hà Bắc hiện nay
- ^ Phía đông Long Nghiêu, Hà Bắc
- ^ Phía tây huyện Mật Vân, Bắc Kinh
- ^ Phía đông thành phố Tiêu Tái, Hà Nam, Trung Quốc
- ^ Cố Nguyên, thuộc tỉnh Cam Túc
- ^ Huyện Hoàn, tỉnh Cam Túc
- ^ Bảo Kê, Thiểm Tây hiện nay
- ^ Tào Hồng Toại, sách đã dẫn, tr 387
- ^ Tây bắc Lạc Ninh, Hà Bắc hiện nay
- ^ Phía đông Mãnh Trì, Hà Nam
- ^ Phía tây Nghi Dương, Hà Nam, Trung Quốc
- ^ Mãnh Trì, Nam Dương
- ^ Phía tây Ngư Đài, Sơn Đông
- ^ Đông nam huyện Đằng, Sơn Đông
- ^ Tây nam cảng Liên Vân, Giang Tô
- ^ Huyện Thọ, An Huy
- ^ Tây bắc Nghi Xương, Hồ Bắc
- ^ a ă â Lê Đông Phương, Vương Tử Kim, sách đã dẫn, tr 295
- ^ a ă Tiêu Lê, Mã Ngọc Chu, Lã Diên Đào, sách đã dẫn, tr 170
- ^ Tiêu Lê, sách đã dẫn, tr 456
- ^ Tiêu Lê, sách đã dẫn, tr 458
- ^ Tiêu Lê, sách đã dẫn, tr 457
- ^ Tiêu Lê, Mã Ngọc Chu, Lã Diên Đào, sách đã dẫn, tr 171
- ^ Lê Đông Phương, Vương Tử Kim, sách đã dẫn, tr 296
- ^ Tiêu Lê, Mã Ngọc Chu, Lã Diên Đào, sách đã dẫn, tr 170 - 171
- ^ Có thành Đại Đồng, sau là kinh đô Bắc Ngụy
- ^ Lương châu cuối đời Đông Hán hoàn toàn thuộc các thế lực cát cứ Hán Khương
- ^ Sau cắt ra làm ba có Ba Đông, Ba Trung, Ba Tây
- ^ Sau này Lục Tốn, Gia Cát Khác có "công" lớn khai phá vùng này cho dân Hoa Hạ
- ^ Huyện Ly Thạch, Sơn Tây hiện nay
- ^ Lê Đông Phương, Vương Tử Kim, sách đã dẫn, tr 296-297
- ^ Kỳ Ngạn Thần, sách đã dẫn, tr 130
- ^ a ă Tào Hồng Toại, sách đã dẫn, tr 399, 401
- ^ Tào Hồng Toại, sách đã dẫn, tr 400
- ^ a ă Tiêu Lê, sách đã dẫn, tr 465
- ^ Kỳ Ngạn Thần, sách đã dẫn, tr 128
- ^ Tào Hồng Toại, sách đã dẫn, tr 401
|
Triều Tiên Thái Tổ
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Cha của Thái Tổ, Lý Tử Xuân (李子春, I Cha-ch'un, 이자춘), là một quan chức nhỏ của Mông Cổ nhưng ông là người dân tộc Triều Tiên. Lý Thành Quế đã gia nhập quân đội Cao Ly và đã lên chức, cuối cùng đã chiếm ngai vàng năm 1392. Ông đã thoái vị năm 1398 trong một cuộc tranh giành vương vị giữa các con trai của ông và qua đời năm 1408. Mục lụcHoàn cảnh lịch sửVào cuối thế kỷ 14, vương triều Cao Ly - do Vương Kiến lập nên từ năm 918 - sau 4 thế kỷ tồn tại từ chỗ cường thịnh đã trở nên suy nhược và đang đứng trên bờ vực thẳm. Thật sự, nền móng của vương triều đã sụp đổ tan tành ngay sau khi bị Đế quốc Mông Cổ xâm lược và biến thành một nước phiên thuộc. Tính hợp pháp của Nhà nước Cao Ly cũng càng lúc càng trở nên đáng nghi ngờ vì hoàng gia Cao Ly không những không còn khả năng cai trị đất nước một cách hiệu quả mà còn bị buộc phải kết hôn với những thành viên thuộc hoàng tộc triều Nguyên, hành động được coi là một vết nhơ nhuốc của vương triều Cao Ly; thêm nữa nhửng cuộc đấu đá tranh giành quyền lực ngay trong nội bộ hoàng gia càng làm tình hình thêm tồi tệ (ngay bản thân mẫu hậu của U Vương - vua nhà Cao Ly đương tại vị cũng chỉ là một phụ nữ thuộc tầng lớp bình dân, chính việc này khiến người đời có những dị nghị rằng liệu ông có đúng thuộc dòng dõi của Cung Mẫn Vương hay không ?).Tình hình nội bộ vương triều Cao Ly cũng vô cùng rối ren. Các cuộc đấu đá, tranh giành quyền lực quyết liệt giữa các các quý tộc, các tướng lĩnh và quan lại khiến triều đình lâm vào cảnh chia bè kết phái rất trầm trọng. Với việc các hải tặc Oa Khấu (倭寇 wakō) thường xuyên cướp phá vùng duyên hải bán đảo Triều Tiên cũng như các cuộc xâm lấn Cao Ly của nghĩa quân Hồng Cân theo đà đánh đuổi nhà Nguyên, kẻ nắm quyền thực sự trong triều đình Cao Ly chính là phái cải cách Sinjin và phái đối lập Gweonmun, cũng như những tướng lĩnh trực tiếp chiến đấu chống lại các thế lực ngoại xâm - ví dụ như vị tướng tài ba Lý Thành Quế và địch thủ chính trị của ông, Tể tướng Thôi Huỳnh. Sự trỗi dậy của triều Minh - do Chu Nguyên Chương sáng lập - đã khiến cho thế lực của nhà Nguyên - Mông Cổ suy yếu trầm trọng, không chỉ họ bị đánh đuổi khỏi Trung Nguyên mà thậm chí Cao Ly đã giành lại được độc lập từ tay đế quốc Mông Cổ ngay trong thập niên 1350 (mặc dù các thế lực Mông Cổ ở miền Bắc Cao Ly vẫn còn rất mạnh với những đội quân đông đảo trong tay). Con đường binh nghiệpLý Thành Quế đã giành được lòng tin cũng như quyền lực vào trong tay vào những năm cuối thập kỷ 1370 và đầu thập kỷ 1380 nhở vào những chiến công trong việc đánh đuổi các thế lực Mông Cổ còn lại ra khỏi bán đảo Triều Tiên, cũng như đánh tan các cuộc tấn công của quân cướp biển Oa Khấu (倭寇 wakō) người Nhật. Ông cũng lập nhiều công lao trong việc truy đuổi các lực lượng nghĩa quân Hồng Cân khi họ tiến vào bán đảo Triều Tiên theo đà đánh đuổi quân Mông Cổ. Sau khi Chu Nguyên Chương lập ra triều Minh và đánh đuổi quân Nguyên ra khỏi Trung Nguyên vào năm 1368, triều đình Cao Ly chia làm hai phe: phe thân triều Nguyên do tể tướng Thôi Huỳnh đứng đầu, còn phe thân triều Minh do Lý Thành Quế đứng đầu.Khi một sứ thần nhà Minh đến Cao Ly vào năm 1388 đòi một phần lãnh thổ lớn nằm ở phía Bắc Cao Ly, tể tướng Thôi Huỳnh chớp lấy cơ hội này, lợi dụng làn sóng chống nhà Minh trong triều đình Cao Ly để phát động một cuộc tấn công xâm lược vào bán đảo Liêu Đông nhằm lấy lại những lãnh thổ mà quốc gia Cao Câu Ly mất vào tay Trung Quốc (Cao Ly luôn thừa nhận họ là người kế thừa trực tiếp của quốc gia Cao Câu Ly xưa, vì vậy việc đòi lại lãnh thổ cũ của Cao Câu Ly tại bờ bên kia sông Áp Lục luôn là một nguyên tắc chính trong chính sách đối ngoại của Cao Ly). Viên tướng luôn chống đối Lý Thành Quế được chọn là người chỉ huy cuộc tấn công. Tuy nhiên tại hòn đảo Wihwa trên sông Áp Lục, Lý Thành Quế đã ra một quyết định mang tính bước ngoặt, làm thay đổi hẳn lịch sử Triều Tiên. Lợi dụng sự tín nhiệm mà ông có được từ dân chúng, từ những quan lại cao cấp trong triều đình cũng như áp lực lớn của nhà Minh dưới triều vua Thái Tổ, ông quyết định nổi loạn chống lại Thôi Huỳnh và nhanh chóng tiến quân về kinh đô Khai Thành. Quan điểm của người đời về Lý Thành QuếNhững thành quả mà Thái Tổ Lý Thành Quế gây dựng được trong thời gian trị vì đã tạo nên nền móng vững chắc cho sự độc lập của vương quốc Triều Tiên trong suốt sáu thế kỷ. Mặc dù có một sự thực không thể chối cãi là Lý Thành Quế đã lật đổ nhà Cao Ly cũng như thanh trừng khốc liệt những quan lại trung thành với vương triều cũ, nhiều ý kiến vẫn đánh giá cao ông như là một nhà cách mạng và là một vị Quốc vương quyết đoán, là người đã loại bỏ một vương triều lụn bại, mục nát và già cỗi để bảo vệ quốc gia trước những hiểm họa ngoại xâm.[cần dẫn nguồn] Những thành công trong lãnh vực đối ngoại của Lý Thành Quế đã bảo vệ được vận mệnh của quốc gia Triều Tiên và được người đời đánh giá cao. Việc giữ vững an ninh và ổn định trong nước là cái nền để quốc gia Triều Tiên phục hồi và phát triển nền văn hóa của họ trong những thế kỷ tới. Nằm giữa sự ảnh hưởng của hai thế lực lớn là triều Nguyên và triều Minh, nhà Triều Tiên đã khuyến khích sự phát triển một nền văn hóa riêng biệt, đặc trưng của dân tộc mình, vốn dĩ từng bị đe dọa hủy hoại trong thời kỳ thống trị của nhà Nguyên - Mông Cổ.Tuy nhiên nhiều học giả cho rằng ông chỉ đáng là một tên phản bội, là kẻ lật đổ nhà Cao Ly cũ; còn Tể tướng Thôi Huỳnh thì được xem như là một tướng lãnh ưu tú, là một người quyết tâm bảo vệ nhà Cao Ly cũ cho đến cùng.[cần dẫn nguồn] Trị vìNăm 1394, vua Thái Tổ chọn Hán Thành (Seoul) làm kinh đô.[1]Ông qua đời ngày 24 tháng 5, 1408 ở Dương Đức cung. Ông được an táng trong ngôi mộ Hongneung (건원릉, 健元陵) ở thành phố Guri.[2] Gia đìnhSong thân
Vợ
ConCon trai
Con gái
Tên thụy đầy đủ của Lý Thành Quế
Di sảnThe tomb of his Umbilical cord is in Man-In-san, Geumsan-gun, South Chungcheong Province in the Republic of Korea.Xem thêm
Ghi chú
Tham khảo
|
Thể loại:
Nelson Rolihlahla Mandela (IPA: [xoˈliɬaɬa manˈdeːla]), 18 tháng 7, 1918 - 5 tháng 12, 2013)[1] là Tổng thống Nam Phi từ năm 1994 đến 1999, và là tổng thống Nam Phi đầu tiên được bầu cử dân chủ theo phương thức phổ thông đầu phiếu. Trước khi trở thành tổng thống, Mandela là nhà hoạt động chống chủ nghĩa apartheid (chủ nghĩa phân biệt chủng tộc), và là người đứng đầu Umkhonto we Sizwe, phái vũ trang của Đảng Đại hội Dân tộc Phi (ANC). Vào năm 1962 ông bị bắt giữ và bị buộc tội phá hoại chính trị cùng các tội danh khác, và bị tuyên án tù chung thân. Mandela đã trải qua 27 năm trong lao tù, phần lớn thời gian là ở tại Đảo Robben.
Sau khi được trả tự do vào ngày 11 tháng 2 năm 1990, Mandela đã lãnh
đạo đảng của ông trong cuộc thương nghị để tiến tới một nền dân chủ đa
sắc tộc vào năm 1994. Trong nhiệm kỳ tổng thống của mình từ năm 1994 đến
1999, Mandela thường ưu tiên cho vấn đề hòa giải dân tộc.
Tại Nam Phi, Mandela còn được biết tới với tên gọi Madiba, một tước hiệu danh dự mà bộ lạc của ông thường trao cho những già làng.
Mandela đã nhận hơn 250 giải thưởng trong hơn bốn thập niên, trong đó có Giải Nobel Hòa bình năm 1993.
Cha của Nelson Mandela, Gadla Henry Mphakanyiswa, là người đứng đầu bộ lạc ở thị trấn Mvezo.[6][[]][liên kết hỏng] Tuy vậy, do không được chính quyền thuộc địa vừa lòng, Mphakanyiswa bị tước chức và cả gia đình bị chuyển đến Qunu. Dù vậy, Mphakanyiswa vẫn là thành viên Hội đồng Cơ mật của Inkosi, và đóng vai trò là người hỗ trợ cho Jongintaba Dalindyebo lên ngôi quốc vương Thembu. Dalindyebo sau này đã trả ơn ông bằng cách nhận nuôi Mandela sau khi Mphakanyiswa chết.[7] Cha của Mandela có bốn bà vợ, sinh tổng cộng 13 người con (bốn trai, chín gái).[7] Mandela là con của bà vợ thứ ba, Nosekeni Fanny. Fanny là con của Nkedama thuộc bộ tộc Mpemvu Xhosa, thuộc về nhà Hữu gia, là vùng đất nơi Mandela đã trải qua phần lớn thời thơ ấu.[8] Tên của ông Rolihlahla có nghĩa là "kéo cành cây", hay một cách thông tục, có nghĩa là "kẻ gây rối".[9][10]
Rolihlahla Mandela là người đầu tiên trong gia đình được đi học, tại đó cô giáo Mdingane đã đặt cho ông một cái tên tiếng Anh là "Nelson".[11]
Lúc Mandela lên chín, cha ông qua đời vì bệnh lao phổi, quan nhiếp chính Jongintaba trở thành người giám hộ hợp pháp của ông.[7] Mandela đi học trường truyền giáo thuộc Hội Giám lý nằm kế bên lâu đài của quan nhiếp chính. Theo phong tục của người Thembu, ông được thụ giáo lúc 16 tuổi, rồi đi học Học viện Clarkebury Boarding.[12] Mandela đã hoàn tất Bằng sơ trung học chỉ trong vòng hai năm, thay vì ba năm như thông thường.[12] Để chuẩn bị thừa kế vị trí thành viên Hội đồng Cơ mật của cha mình, năm 1937, Mandela chuyển đến trường Healdtown, ngôi trường tại Fort Beaufort, nơi hầu hết con cháu hoàng tộc Thembu đều đi học.[13] Vào lúc 19 tuổi, ông bắt đầu quan tâm đến bộ môn quyền anh và chạy bộ tại trường.[8]
Sau đó, ông đậu vào học bằng Cử nhân tại Trường Đại học Fort Hare, nơi ông đã gặp Oliver Tambo. Tambo và Mandela sau này là những người bạn và đồng nghiệp thân thiết. Mandela cũng kết bạn với người bà con Kaiser ("K.D.") Matanzima, người thuộc dòng trực hệ của Hữu gia của người Thembu, là người thừa kế ngai vàng Transkei[5], vì vai trò mà sau đó đã đưa ông đến với chính sách Bantustan. Chính sự ủng hộ chính sách này của ông và Mandela đã khiến hai người trở thành phe chính trị đối lập.[8] Cuối năm thứ nhất, Mandela tham gia vào vụ tẩy chay của Hội sinh viên nhằm chống lại quy định của trường đại học, và bị buộc phải rời trường Fort Hare không được trở lại chừng nào ông chưa chấp nhận cuộc bầu cử của vào Hội.[14] Sau này, lúc ở trong tù, Mandela đã học bằng Cử nhân luật của Chương trình đào tạo từ xa của Đại học Luân Đôn.
Một thời gian ngắn sau khi rời Fort Hare, Jongintaba đã thông báo với Mandela và Justice (con của quan nhiếp chính và là người thừa kế ngai vàng) rằng ông đã sắp xếp đám cưới cho cả hai người. Những thanh niên trẻ không vừa lòng với sự sắp đặt này, và quyết định chuyển đến sống ở Johannesburg.[15] Khi đến Johannesburg, Mandela xin một chân canh gác tại một khu mỏ.[16] Tuy nhiên, ông chủ lập tức đuổi việc Mandela khi hay rằng ông là con nuôi đang chạy trốn của Quan nhiếp chính. Mandela chuyển sang làm tập sự ở một công ty luật ở Johannesburg, Witkin, Sidelsky và Edelman, nhờ quen biết với một người bạn và người hướng dẫn, nhân viên địa ốc Walter Sisulu.[16] Khi làm việc tại hãng Witkin, Sidelsky và Edelman, Mandela đã hoàn tất tấm bằng Cử nhân hàm thụ của Trường Đại học Nam Phi, sau đó ông học luật tại Trường Đại học Witwatersrand, tại đó ông kết bạn tới bạn học và sau này là đồng chí chống chủ nghĩa apartheid của ông Joe Slovo, Harry Schwarz và Ruth First. Slovo sau này là Bộ trưởng Bộ cư trú, còn Schwarz là Đại sứ Nam Phi tại Hoa Kỳ. Trong thời gian này, ông sống tại thành phố ngoại ô Alexandra, phía bắc Johannesburg.[17]
Mahatma Gandhi có ảnh hưởng lớn đến cách thức đấu tranh của Mandela, và cả phương pháp dành thắng lợi của các nhà hoạt động chống chủ nghĩa apartheid các thế hệ sau.[22][23] Mandela đã từng tham dự một hội nghị diễn ra tại New Delhi từ ngày 29-30 tháng 1 năm 2007 đánh dấu 100 năm ngày Gandhi đưa ra thuyết satyagraha (phản kháng bất bạo động) tại Nam Phi.[24]
Ban đầu, khi kiên trì đường lối đấu tranh bất bạo động, Mandela và 150 người khác bị bắt giam vào ngày 5 tháng 12 năm 1956 và bị buộc tội phản quốc. Sau quá trình xét xử kéo dài từ năm 1956-1961, tất cả các bị cáo đều được tuyên trắng án.[25] Từ năm 1952–1959, xuất hiện một lực lượng các nhà hoạt động da đen mới được gọi là những người Toàn Phi đã cản trở các hoạt động của ANC ở khu vực thành phố của người da đen, lực lượng này đòi hỏi phải có các biện pháp quyết liệt hơn nhằm chống lại chế độ của Đảng Quốc gia.[26] Những nhà lãnh đạo ANC lúc bấy giờ là Albert Luthuli, Oliver Tambo và Walter Sisulu không những cho rằng những người Toàn Phi đang đi quá đà mà còn cảm thấy quyền lãnh đạo của họ đang bị đe dọa.[26] Vì thế cánh lãnh đạo của ANC đã củng cố vị thế của mình bằng cách liên minh với các đảng phái chính trị nhỏ của những người Da trắng, Da màu, lẫn Da đỏ nhằm tranh thủ lôi kéo rộng rãi số người ủng hộ hơn phái Toàn Phi.[26] Những người Toàn Phi nhạo báng Hiến chương Tự do trong Hội nghị tại Kliptown năm 1955 vì đảng ANC với số lượng thành viên áp đảo 100.000 người mà chỉ có được một phiếu trong liên minh Đại hội. Bốn trong năm tổng thư ký của các đảng phái tham gia đại hội đều đã ngầm tham gia Đảng Cộng sản Nam Phi (SACP) tái cơ cấu, gắn liền với chính sách của Moskva.[27][28] Đến năm 2003 Blade Nzimande, Tổng thư ký SACP, tiết lộ rằng Walter Sisulu, Tổng thư ký của đảng ANC, cũng đã bí mật gia nhập SACP vào năm 1955[29] có nghĩa là cả năm Tổng thư ký đều là người của SACP và do đó giải thích lý do tại sao Sisulu quyết định đưa vai trò của ANC từ vai trò chi phối xuống thành một trong năm bên ngang vai nhau.
Trong năm 1959, ANC mất phần lớn sự ủng hộ từ lực lượng chiến đấu khi phần lớn những người Toàn Phi, với sự hỗ trợ tài chính từ Ghana và chính trị từ những người Sotho tại tỉnh Transvaal, đã ly khai để thành lập Đại hội Toàn Phi (PAC) dưới sự lãnh đạo của Robert Sobukwe và Potlako Leballo.[30]
Người đồng chí trong đảng ANC Wolfie Kadesh giải thích chiến dịch đánh bom do Mandela dẫn dắt như sau: "Khi chúng tôi biết rằng chúng tôi sẽ bắt đầu vào ngày 16 tháng 12 năm 1961, nhằm làm nổ tung những vị trí là biểu tượng của chủ nghĩa apartheid, như văn phòng giấy thông hành, tòa án địa phương, và những nơi tương tự... bưu điện và... các văn phòng chính phủ. Nhưng chúng tôi dự định thực hiện điều đó sao cho không có ai bị thương vong."[33] Mandela đã nói về Wolfie: "Kiến thức về chiến tranh và kinh nghiệm trận mạc của ông là cực kỳ hữu ích đối với tôi."[10]
Mandela đã xem bước chuyển sang đấu tranh vũ trang là phương kế cuối cùng; nhiều năm trời với chính sách đàn áp và bạo lực ngày càng tăng của chính quyền đã cho ông thấy sự phản kháng bất bạo động chống chủ nghĩa apartheid nhiều năm qua đã không và cũng không thể thu được tiến triển nào.[10][34]
Sau này, chủ yếu vào thập niên 1980, MK đã tiến hành chiến tranh du kích chống lại chế độ apartheid với nhiều thương vong là dân thường.[32] Mandela sau này thừa nhận rằng ANC, trong cuộc chiến đấu chống lại apartheid, cũng vi phạm quyền con người, chỉ trích thẳng thừng những đảng viên trong đảng ông cố gắng đưa những câu chữ phản ánh sự thật ra khỏi báo cáo của Ủy ban Sự thật và Hòa giải.[35]
Cho đến tận tháng 7 năm 2008, Mandela và các đảng viên ANC vẫn bị hạn chế đi đến Hoa Kỳ - ngoại trừ trụ sở Liên Hiệp Quốc ở Manhattan — nếu không có giấy phép cho phép đặc biệt của Ngoại trưởng Hoa Kỳ, vì họ bị quy là khủng bố trong thời kỳ chế độ apartheid ở Nam Phi.[36][37]
Trong lúc Mandela đang trong tù, cảnh sát đã bắt giữ nhiều lãnh đạo cốt cán của ANC vào ngày 11 tháng 7 năm 1963, tại Liliesleaf Farm, Rivonia, phía bắc Johannesburg. Mandela được ghép vào xét xử chung, và tại Phiên tòa Rivonia, họ bị chánh án, Tiến sĩ Percy Yutar, cáo buộc nhiều tội danh trong đó chủ yếu là phá hoại (Mandela thừa nhận tội này) và các tội tương đương với phản quốc, nhưng chính quyền dễ chứng minh hơn.[43] Lời buộc tội thứ hai cáo buộc các bị cáo âm mưu một cuộc xâm lược của ngoại quốc vào Nam Phi, Mandela phủ nhận tội danh này.[43]
Trong lời phát biểu tại ghế bị cáo mở đầu phiên biện hộ trong phiên tòa ngày 20 tháng 4 năm 1964 tại Tòa án Tối cao Pretoria, Mandela đã nói rằng việc ANC lựa chọn sử dụng vũ lực chỉ là một sách lược mà thôi.[44] Lời phát biểu của ông đã mô tả ANC đã sử dụng các biện pháp hòa bình như thế nào để chống lại chủ nghĩa apartheid trong nhiều năm trời cho đến khi xảy ra vụ Thảm sát Sharpeville.[45] Sự kiện đó đi kèm với cuộc trưng cầu dân ý để thành lập Cộng hòa Nam Phi và sự tuyên bố tình trạng khẩn cấp cùng với việc cấm chỉ hoạt động của ANC đã khiến cho Mandela và các đồng chí của ông thấy rằng lựa chọn duy nhất của họ chỉ có thể thông qua các hành động phá hoại, nếu không chẳng khác nào một sự đầu hàng vô điều kiện.[45] Mandela tiếp tục giải thích cách họ hình thành Tuyên ngôn Umkhonto we Sizwe vào ngày 16 tháng 12 năm 1961 dự kiến sẽ phô bày sự thất bại của các chính sách của Đảng Quốc gia sau khi nền kinh tế bị đe dọa cho những người ngoại quốc không còn sẵn lòng đầu tư vào đất nước nữa.[46] Ông kết thúc bài phát biểu bằng những lời sau đây: "Tôi cống hiến cả đời tôi cho sự nghiệp đấu tranh của người dân châu Phi. Tôi đã chiến đấu chống lại sự thống trị của người da trắng, và tôi cũng chiến đấu chống lại sự thống trị của người da đen. Tôi yêu mến lý tưởng về một xã hội dân chủ và tự do trong đó mọi người dân sống với nhau hòa thuận và bình đẳng. Đó là lý tưởng mà tôi hy vọng sẽ sống vì nó và đạt được nó. Nhưng nếu cần, tôi cũng sẵn sàng chết vì lý tưởng đó."[34]
Bram Fischer, Vernon Berrange, Harry Schwarz, Joel Joffe, Arthur Chaskalson và George Bizos là các luật sự bảo vệ cho bên bị.[47] Harold Hanson cũng được bổ sung vào cuối phiên tòa để giúp giảm nhẹ tội danh.[48] Tất cả mọi người trừ Rusty Bernstein đều bị tuyên là có tội, nhưng họ thoát khỏi án treo cổ mà bị tuyên tù chung thân vào ngày 12 tháng 6 năm 1964.[48] Lời buộc tội gồm có tham gia lên kế hoạch hành động vũ trang, cụ thể là bốn cáo buộc phá hoại, mà Mandela thừa nhận, và một âm mưu chính trị trợ giúp nước ngoài xâm lược Nam Phi, tội này bị Mandela phủ nhận.[48]
Lúc ở trong tù Mandela đã tham gia khóa học từ xa của Đại học Luân Đôn và nhận bằng Cử nhân Luật.[54] Ông sau đó được đề cử làm Hiệu trưởng danh dự của Đại học Luân Đôn trong cuộc bình chọn năm 1981, nhưng vị trí này đã thuộc về Công chúa Anne.[54]
Trong cuốn hồi ký Inside BOSS xuất bản năm 1981[55] điệp viên Gordon Winter đã kể về việc ông này tham gia kế hoạch giải cứu Mandela vào năm 1969: kế hoạch này bị Winter tiết lộ thay mặt cho cơ quan tình báo Nam Phi, họ muốn Mandela trốn thoát để họ có thể xử bắn ông khi tìm bắt lại. Kế hoạch này đã bị Cơ quan Tình báo Anh chặn đứng.[55]
Vào tháng 3 năm 1982 Mandela được chuyển từ Đảo Robben sang Nhà tù Pollsmoor, cùng với các nhà lãnh đạo ANC khác như Walter Sisulu, Andrew Mlangeni, Ahmed Kathrada và Raymond Mhlaba.[53] Đã có suy đoán rằng đây là cách để xóa bỏ sức ảnh hưởng của các nhà lãnh đạo cấp cao này đối với thế hệ những nhà hoạt động da đen trẻ đang bị giam tại Đảo Robben, cái gọi là "Trường Đại học Mandela".[56] Tuy nhiên, Thủ tướng Kobie Coetsee thuộc Đảng Quốc gia nói rằng việc chuyển trại này giúp cho việc liên hệ giữa họ và chính quyền Nam Phi được thuận tiện hơn.[57]
Tháng 2 năm 1985 Tổng thống P.W. Botha đề nghị trả tự do cho Mandela với điều kiện ông phải 'từ bỏ phương cách đấu tranh chính trị bằng bạo lực một cách vô điều kiện'.[58] Coetsee và các bộ trưởng khác phản đối đề xuất của Botha, cho rằng Mandela sẽ không bao giờ yêu cầu tổ chức của ông từ bỏ đấu tranh vũ trang để đổi lấy sự tự do cho cá nhân mình.[59] Đúng là Mandela đã bác bỏ đề xuất và đưa ra lời tuyên bố thông qua cô con gái Zindzi trong đó nói rằng "Thứ tự do đang được đề nghị cho tôi là cái gì trong khi tổ chức của nhân dân vẫn bị cấm đoán? Chỉ có những người tự do mới có thể thương lượng mà thôi. Một tù nhân không thể tham gia vào một thỏa hiệp nào hết."[57]
Cuộc gặp đầu tiên giữa Mandela và chính quyền Đảng Quốc gia diễn ra vào tháng 11 năm 1985, khi Kobie Coetsee gặp gỡ Mandela tại Bệnh viện Volks Hospital ở Cape Town nơi Mandela đang tịnh dưỡng sau cuộc phẫu thuật tuyến tiền liệt.[60] Trong bốn năm sau đó, một loạt các cuộc gặp mang tính thăm dò đã diễn ra, làm nền tảng cho các cuộc tiếp xúc và thương lượng về sau, nhưng tiến bộ thực sự thì không nhiều.[57]
Vào năm 1988 Mandela được chuyển đến Nhà tù Victor Verster và ở đó cho đến khi ông được phóng thích. Người ta đã dỡ bỏ nhiều hạn chế đối với ông và những người như Harry Schwarz đã có thể tự do thăm viếng ông. Schwarz, một người bạn của Mandela, biết ông từ khi họ học chung lớp luật ở trường đại học. Ông này cũng là luật sư biện hộ cho Mandela tại Phiên tòa Rivonia và sau này là đại sứ tại Washington khi Mandela làm tổng thống.
Trong suốt thời kỳ Mandela bị giam giữ, đã có nhiều áp lực ở trong cũng như ngoài nước đòi chính quyền Nam Phi phải trả tự do cho ông, với khẩu hiệu nổi tiếng Free Nelson Mandela! (Hãy thả Nelson Mandela)[61] Đến năm 1989, Nam Phi có sự chuyển biến khi Botha bị đột quỵ và Frederik Willem de Klerk thay thế vào vị trí tổng thống.[62] De Klerk tuyên bố thả tự do cho Mandela vào tháng 2 năm 1990.[63]
Mandela đã được Ủy hội Chữ thập đỏ Quốc tế viếng thăm vài lần khi ông còn ở Đảo Robben và sau này ở nhà tù Pollsmoor. Mandela đã nói về những chuyến thăm viếng như sau: "với cá nhân tôi, và với những ai đã từng trải qua thời gian là tù chính trị, Hội chữ thập đỏ là một tia sáng nhân đạo trong thế giới tăm tối thiếu nhân tính của nhà tù chính trị."[64][65]
Vào ngày được phóng thích, Mandela đã có một bài diễn văn gửi đến toàn quốc.[68] Ông tuyên bố cam kết hòa bình và hòa giải với những người da trắng thiểu số trong nước, nhưng nói rõ rằng cuộc đấu tranh vũ trang của ANC vẫn chưa chấm dứt khi ông nói "phương sách đấu tranh vũ trang vào năm 1960 khi chúng tôi hình thành phái quân sự trong ANC (Umkhonto we Sizwe) đơn thuần là hành động tự vệ chống lại sự tàn bạo của chủ nghĩa apartheid. Các yếu tố đưa đến cuộc đấu tranh vũ trang đến nay vẫn hiển diện. Chúng tôi không có sự lựa chọn nào khác ngoài việc phải tiếp tục. Chúng tôi bày tỏ hy vọng một không khí có lợi cho một cuộc thương lượng sẽ sớm được tạo ra, để nhu cầu đấu tranh vũ trang không còn nữa."
Ông cũng nói rằng tập trung chính của ông là mang lại hòa bình cho những người da đen đa số và cho họ quyền bỏ phiếu trong những cuộc bầu cử cấp quốc gia lẫn địa phương.[68]
Năm 1991, ANC tổ chức hội nghị toàn quốc đầu tiên của mình ở Nam Phi sau khi được dỡ bỏ lệnh cấm, hội nghị đã bầu Mandela làm Chủ tịch (President) của tổ chức. Người bạn và người đồng nghiệp lâu năm của ông, Oliver Tambo, người lãnh đạo tổ chức lưu vong khi Mandela còn ở trong tù, trở thành Chủ tịch Quốc gia (National Chairperson).[70]
Vai trò lãnh đạo của Mandela trong cuộc thương thuyết, cũng như mối quan hệ của ông với Tổng thống F.W. de Klerk, đã được thừa nhận khi họ cùng được trao Giải Nobel Hòa bình năm 1993. Tuy nhiên, mối quan hệ này thỉnh thoảng trở nên căng thẳng, cụ thể như trong một phát biểu nảy lửa vào năm 1991 khi ông nói De Klerk là người cầm đầu một "chế độ không hợp pháp, mất uy tín, gồm toàn những người thiểu số". Cuộc thương thuyết có lần đã đổ vỡ do vụ thảm sát Boipatong tháng 6 năm 1992, khi đó Mandela cùng đoàn đại biểu của ANC bước ra khỏi cuộc thương thuyết, cáo buộc chính quyền De Klerk đồng lõa với các vụ giết chóc.[71] Tuy nhiên, những cuộc hội đàm đã được tiếp diễn sau vụ thảm sát Bisho tháng 9 năm 1992, khi bóng ma bạo lực khiến cho người ta nhận thấy hội đàm là cách duy nhất để tiến tới một giải pháp.[10]
Sau vụ ám sát nhà lãnh đạo ANC Chris Hani tháng 4 năm 1993, lại dấy lên sự sợ hãi đất nước sẽ lại tan vỡ trong bạo lực.[72] Mandela đã gửi thông điệp toàn quốc yêu cầu mọi người bình tĩnh, trong bài phát biểu với vai trò 'tổng thống' dù khi đó ông chưa phải là tổng thống thực sự. Mandela nói rằng "tối nay tôi đang nói với từng người Nam Phi, cả đen lẫn trắng, những lời nói xuất phát từ sâu thẳm lòng mình. Một người da trắng đầy thành kiến và căm giận đã đến đất nước chúng ta và thực hiện một hành vi sai lầm đến mức khiến cả nước phải đối mặt với vực thẳm khủng hoảng. Một người phụ nữ da trắng, gốc Afrikan, đã liều mạng sống của bà để chúng ta có thể biết đến, và mang lại sự công bằng cho vụ ám sát này. Vụ giết người máu lạnh nhằm vào Chris Hani đã tạo một làn sóng rung chuyển đất nước và thế giới... Giờ đây đã đến lúc mọi người dân Nam Phi sát cánh cùng nhau để chống lại bất cứ hành vi nào nhằm phá hủy những gì Chris Hani đã cống hiến cả đời ông cho nó – sự tự do cho tất cả chúng ta".[73] Dù đã có một số vụ bạo loạn xảy ra sau vụ ám sát, các bên thương lượng vẫn tích cực hành động, và sớm thỏa thuận một cuộc bầu cử dân chủ diễn ra vào ngày 27 tháng 4 năm 1994, chỉ hơn một năm sau vụ ám sát Hani.[57]
Sau khi nhậm chức tổng thống, một trong những dấu hiệu đặc trưng của Mandela là chiếc áo Batik của ông, còn được biết đến với cái tên "Áo Madiba", kể cả trong những sự kiện long trọng.[78] Trong hành động quân sự đầu tiên sau thời kỳ apartheid của Nam Phi, Mandela đã ra lệnh cho quân đội xâm nhập lãnh thổ Lesotho vào tháng 9 năm 1998 để bảo vệ chính quyền của Thủ tướng Pakalitha Mosisili. Vụ việc này diễn ra sau một cuộc bỏ phiếu gây tranh cãi trong đó lực lượng phản đối đã đe dọa đến chính quyền thiếu ổn định này.[79] Những nhà bình luận và phê bình trong đó có cả các nhà hoạt động vì AIDS như Edwin Cameron đã chỉ trích Mandela vì sự thiếu hiệu quả của chính quyền ông trong việc ngăn chặn cuộc khủng hoảng AIDS.[80][81] Sau khi nghỉ hưu, Mandela thừa nhận rằng ông đã thất bại vì đã không chú ý nhiều hơn đến bệnh dịch HIV/AIDS.[82][83] Mandela từ đó đã có một số bài phát biểu chống lại bệnh dịch AIDS.[84][85]
Tuy nhiên, Thủ tướng Anh John Major thẳng thừng từ chối ý tưởng này nói rằng chính phủ Anh không tin tưởng vào tòa án nước ngoài.[89] Đến ba năm sau, Mandela một lần nữa lại gửi lời đề nghị đến người kế nhiệm Major, Tony Blair, khi ông có chuyến viếng thăm Luân Đôn vào tháng 7 năm 1997. Cuối năm đó, tại Cuộc họp những người đứng đầu chính phủ của khối Thịnh vượng chung năm 1997 tại Edinburgh tháng 10 năm 1997, Mandela đã cảnh báo:
Mandela vẫn mòn mỏi trong tù khi con gái ông Zenani kết hôn với Hoàng thân Thumbumuzi Dlamini năm 1973, anh trai của Vua Mswati III của Swaziland.[104] Mặc dù bà có ấn tượng sâu sắc về cha mình, nhà chức trách Nam Phi không cho phép bà thăm ông từ khi bà 4 tuổi cho đến lúc bà 16 tuổi.[105] Hai vợ chồng Dlamini sinh sống và kinh doanh tại Boston.[106] Một trong hai đứa con trai của họ, Hoàng tử Cedza Dlamini (sinh năm 1976), được giáo dục tại Hoa Kỳ, đã đi theo bước chân của ông ngoại làm một người ủng hộ cho quyền con người và trợ giúp nhân đạo.[106]
Zindzi Mandela-Hlongwane đã làm nên lịch sử trên toàn thế giới khi bà đọc bài diễn văn của Mandela từ chối lời đề nghị tha bổng có điều kiện vào năm 1985. Bà là nữ doanh nhân tại Nam Phi với ba con, đứa đầu lòng là con trai, Zondwa Gadaffi Mandela.[107]
Mandela hiện vẫn còn ngôi nhà tại Qunu do đứa cháu trai nối dõi của ông quản lý, hiện ông vẫn trả tiền học phí và giữ quyền ủy viên hội đồng.[110]
Sau khi rời ghế Tổng thống, Mandela tiếp tục đóng vai trò tích cực trong nhiều tổ chức xã hội và vì quyền con người. Ông biểu lộ sự ủng hộ phong trào Make Poverty History (Biến đói nghèo thành dĩ vãng) mà trong đó Chiến dịch ONE là một bộ phận.[111] Giải golf gây quỹ Khách mời Nelson Mandela, do Gary Player chủ trì, đã thu được hơn 20 triệu rand cho các quỹ vì trẻ em từ lúc bắt đầu năm 2000.[112]
Mandela cũng là người ủng hộ cho Làng trẻ em SOS, tổ chức chuyên quyên tiền giúp đỡ trẻ em mồ côi và bị bỏ rơi lớn nhất thế giới.[113] Mandela cũng xuất hiện trong một đoạn quảng cáo cho Thế vận hội mùa đông 2006, và đã được trích dẫn trong chiến dịch Chúc mừng nhân loại của Ủy ban Olympic Quốc tế:[114]
Tháng 6 năm 2004, ở tuổi 85, Mandela thông báo rằng ông sẽ không tham gia các hoạt động công cộng nữa. Sức khỏe của ông dần giảm sút, và ông muốn có nhiều thời gian hơn với gia đình. Mandela nói rằng không định cách ly hoàn toàn khỏi công chúng, nhưng muốn mình ở vị thế "sẽ gọi cho các bạn để hỏi xem tôi có được chào đón hay không, chứ không phải được mời làm các thứ và tham dự các sự kiện nữa. Lời thỉnh cầu của tôi là: Đừng gọi cho tôi, tôi sẽ gọi cho các bạn."[118] Từ năm 2003, ông ít xuất hiện trước công chúng hơn và ít phát ngôn trước các vấn đề.[119] Tóc ông bạc trắng và ông di chuyển chậm chạp với sự hỗ trợ của gậy. Cũng có báo cáo là ông đang bị chứng mất trí nhớ của người già.[120]
Sinh nhật lần thứ 90 của Mandela đã được tổ chức ở nhiều nơi khắp đất nước ngày 18 tháng 7 năm 2008, lễ mừng chính được tổ chức tại quê nhà Qunu của ông.[121] Một buổi hòa nhạc vinh danh ông cũng được tổ chức tại Hyde Park, Luân Đôn.[122] Trong buổi diễn văn kỷ niệm sinh nhật của mình, Mandela kêu gọi những người giàu hãy giúp đỡ người nghèo trên khắp thế giới.[121] Mặc dù vẫn ít xuất hiện trong suốt kỳ World Cup 2010 tại Nam Phi, Mandela cũng xuất hiện tại buổi bế mạc, tại đó ông đã được "chào đón nhiệt liệt".[123]
Tổng giám mục Tutu làm chủ tịch của The Elders. Các thành viên sáng lập nhóm bao gồm Graça Machel, Kofi Annan, Ela Bhatt, Gro Harlem Brundtland, Jimmy Carter, Lý Triệu Tinh, Mary Robinson và Muhammad Yunus.[125]
"Nhóm này có tiếng nói tự do và khẳng khái, hoạt động công khai lẫn hậu trường về bất cứ hành động nào cần thực hiện", Mandela nói. "Cùng với nhau chúng tôi sẽ hoạt động để ủng hộ lòng can đảm tại nơi có sợ hãi, nuôi dưỡng thỏa thuận tại nơi có tranh chấp, và truyền hy vọng tại nơi tuyệt vọng."[126]
Ông kêu gọi nhân dân Mỹ tham gia vào các cuộc biểu tình lớn chống lại Bush và kêu gọi các nhà lãnh đạo thế giới, đặc biệt là những nước có quyền phủ quyết trong Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc, phản đối Bush.[135] "Điều tôi lên án ở đây là chỉ một cường quốc, với một vị tổng thống không có óc chiến lược, người không thể nghĩ cho đúng đắn, giờ đang muốn đẩy thế giới vào một cuộc tàn sát." Ông tấn công Hoa Kỳ vì các thành tích xấu về nhân quyền và đã thả bom nguyên tử xuống Nhật Bản trong Chiến tranh thế giới II. "Nếu có một quốc gia có hành động tàn ác đến mức không thể diễn tả được bằng lời, đó là Hợp chúng quốc Hoa Kỳ. Họ bất cần."[134] Nelson Mandela cũng chê trách nặng nề Thủ tướng Anh Tony Blair và gọi ông là "ngoại trưởng của Mỹ."[136]
Vào năm 2005 và 2006, Ayob và vợ con của ông trở thành đối tượng chỉ trích của các cố vấn của Mandela. Vụ tranh chấp này được truyền thông rộng rãi, với Ayob được mô tả ở vị thế phản diện, cao điểm là khi Mandela đệ đơn lên Tòa án Tối cao. Đã có những cuộc họp công khai trong đó những người thân cận của Mandela chỉ trích Ayob và công chúng còn kêu gọi tẩy chay Ayob và gia đình ông.[140] Lời biện hộ của Ismail và Zamila Ayob (vợ ông, và cũng là bị cáo liên quan) đưa ra các văn bản do Mandela ký và được các thư ký của ông làm chứng, từ đó bác bỏ nhiều lý lẽ của Nelson Mandela và các cố vấn.[141]
Tranh chấp này một lần nữa lại xuất hiện trên mặt báo vào tháng 2 năm 2007 khi trong một phiên tòa tại Tòa án Tối cao Johannesburg, Ayob hứa sẽ trả 700.000 rand cho Mandela, chuyển qua các quỹ vì trẻ em của Mandela, và gửi lời xin lỗi,[142] [143] mặc dù sau đó ông cho rằng ông là nạn nhân của "Sự trả thù" từ Mandela.[144] Một số nhà bình luận bày tỏ sự cảm thông cho vị thế của Ayob, nói rằng vị trí biểu tượng của Mandela khiến cho Ayob khó mà được đối xử một cách công bằng.[139]
Bizos và Trengrove từ chối thông qua việc chi trả cho con cháu của Nelson Mandela và tiền trả cho công ty kế toán. Phiên tòa đã thỏa thuận rằng Ismail Ayob phải trả số tiền này, tổng cộng hơn 700.000 rand, cho quỹ ủy thác vì lẽ Ayob đã chưa được sự đồng ý của hai ủy thác viên khác trước khi dùng tiền.[147] Người ta cũng khẳng định là Ayob đã có những nhận xét phỉ báng Mandela trong bản khai, vì thế tòa cũng yêu cầu Ayob xin lỗi.[148] Người ta đã cho thấy các nhận xét này, tập trung vào các tài khoản ở nước ngoài của Nelson Mandela và việc không trả thuế cho các tài khoản này, không xuất phát từ lời khai của Ayob mà là từ chính lời khai của Nelson Mandela và George Bizos.[149]
Mặc dù cùng xuất thân là những nhà hoạt động vì tự do quốc gia, Mandela và Mugabe ít khi được xem là gần gũi. Mandela chỉ trích Mugabe vào năm 2000, nhắc tới những nhà lãnh đạo châu Phi đã giải phóng đất nước họ nhưng khư khư giữ ghế quá lâu.[155][156] Khi về hưu, Mandela ít nhắc đến Zimbabwe và các vấn đề đối nội đối ngoại hơn,[119] đôi khi đưa đến chỉ trích là không biết sử dụng ảnh hưởng của mình để khuyến khích giảm bớt chính sách của mình.[157] Luật sư của ông George Bizos tiết lộ rằng Mandela đã được khuyên để giữ gìn sức khỏe ông phải tránh tham gia vào các hoạt động nhiều áp lực như các tranh cãi về chính trị.[158] Tuy nhiên, vào năm 2007, Mandela đã nỗ lực thuyết phục Mugabe rời chức "sớm hơn", với "chút ít chân giá trị còn lại", trước khi ông bị săn đuổi như Augusto Pinochet. Mugabe không phản ứng gì trước lời phát biểu này.[159] Vào tháng 6 năm 2008, ở cao trào khủng hoảng trong cuộc bầu cử tổng thống Zimbabwe, Mandela lên án "sự thất bại thảm hại của quyền lãnh đạo" tại Zimbabwe.[160]
Tháng 11 năm 2009, Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc thông báo ngày sinh của Mandela, 18 tháng 7, sẽ được gọi là "Ngày Mandela" để ghi nhớ sự đóng góp của ông vào nền tự do của thế giới.[162]
Ông cũng thường nhận được sự tán dương khi đi ra nước ngoài. Trong chuyến thăm Canada năm 1998, 45.000 học sinh đã chào đón ông khi ông có bài phát biểu tại SkyDome, Toronto.[167] Vào năm 2001, ông là người còn sống đầu tiên trở thành Công dân danh dự của Canada (người nhận danh hiệu duy nhất trước đó là Raoul Wallenberg sau khi đã mất).[168] Khi còn ở Canada, ông cũng nhận Huân chương Canada, là một trong số ít người nước ngoài nhận được huân chương này.[169]
Năm 1981, ông đư5ơc trao Giải Bruno Kreisky. Năm 1988, ông đoạt Giải thưởng Sakharov của Nghị viện châu Âu và Giải Nhân quyền của Liên Hiệp Quốc. Năm 1990 ông nhận được Giải thưởng Bharat Ratna của chính phủ Ấn Độ và là người cuối cùng nhận được Giải thưởng Hòa bình Lenin của Liên Xô.[170] Vào năm 1992 ông được nhận Giải thưởng Hòa bình Atatürk của Thổ Nhĩ Kỳ. Ông đã từ chối giải thưởng vì cho rằng Thổ Nhĩ Kỳ lúc đó đang vi phạm nhân quyền,[171] nhưng đến năm 1999 thì chấp nhận giải thưởng[172] Vào năm 1992 ông nhận được Nishan-e-Pakistan, giải thưởng phục vụ cộng đồng cao nhất của Pakistan.[173] Năm 2004, ông được trao Giải Ý thức toàn cầu của Câu lạc bộ Budapest.
Năm 1988, một buổi hòa nhạc Kỷ niệm ngày sinh lần thứ 70 của Mandela đã diễn ra tại Sân vận động Wembley ở Luân Đôn là trung tâm của phong trào chống chủ nghĩa apartheid, tại đó nhiều ca sĩ đã góp tiếng nói ủng hộ Mandela.[175] Jerry Dammers, tác giả của bài hát Nelson Mandela, là một thành viên trong ban tổ chức.[175] Simple Minds đã thu âm bài hát "Mandela Day" dành cho buổi hòa nhạc,[175] Santana đã thu âm bản giao hưởng "Mandela",[175] Tracy Chapman trình diễn bài "Freedom Now", dành tặng cho Mandela và phát hành album Crossroads,[175] Salif Keita đến từ Mali, có chơi ở buổi hòa nhạc, sau này có đến thăm Nam Phi và năm 1995 thu âm bài hát "Mandela" trong album Folon.[175]
Tại Nam Phi, "Asimbonanga (Mandela)" ("Chúng tôi chưa thấy ông") trở thành một trong những bài hát nổi tiếng nhất của Johnny Clegg, xuất hiện trong album Third World Child năm 1987.[176] Hugh Masekela, khi đó đang lưu vong ở Anh, đã hát bài "Bring Him Back Home (Nelson Mandela)" vào năm 1987.[177] Bài hát "Black President" vào năm 1989 của Brenda Fassie, cũng dành tặng Mandela, trở nên cực kỳ nổi tiếng dù nó bị cấm tại Nam Phi.[178] Nhạc sĩ nhạc reggae người Nigeria Majek Fashek đã phát hành đĩa đơn, "Free Mandela" vào năm 1992, đưa ông thành một trong nhiều nghệ sĩ Nigeria phát hành bài hát liên quan đến phong trào chống chủ nghĩa apartheid và đến Mandela.
Vào năm 1990, ban nhạc rock ở Hồng Kông Beyond đã ra mắt bài hát tiếng Quảng Đông nổi tiếng, "Days of Glory". Bài hát với chủ đề chống chủ nghĩa apartheid đã nhắc đến cuộc đấu tranh anh hùng của Mandela vì sự công bằng sắc tộc.[179] Nhóm Ladysmith Black Mambazo đã đi cùng với Mandela tới buổi trao Giải Nobel Hòa bình tại Oslo, Na Uy vào năm 1993, và trình diễn trong buổi nhậm chức năm 1994. Vào năm 2003, Mandela đồng ý đưa tên tuổi của ông vào chiến dịch 46664 chống lại căn bệnh AIDS, đặt theo số tù của ông. Nhiều nhạc sĩ nổi tiếng đã trình diễn trong các buổi hòa nhạc.[180]
Sơ lược tiểu sử của Mandela đã được chiếu trong bản video nhạc "If Everyone Cared" của Nickelback vào năm 2006.[181] Bài hát "Turn This World Around" của Raffi dựa trên bài diễn văn của Mandela khi ông giải thích thế giới cần phải "xoay vòng, vì những đứa trẻ".[182] Một buổi hòa nhạc kỷ niệm 90 năm ngày sinh của Mandela đã diễn ra tại Hyde Park, Luân Đôn ngày 27 tháng 6 năm 2008.[183]
Trong loạt chương trình truyền hình Mỹ The Cosby Show cháu nội của Cliff và Claire Huxtable được đặt theo tên của Nelson và Winnie để tôn vinh Mandela và bà vợ khi đó của ông Winnie.
Trong cảnh cuối năm 1992 bộ phim Malcolm X, Mandela – vừa được phóng thích sau 27 năm ở tù – đóng vai thầy giáo trong một lớp học Soweto.[190] Ông nhắc lại một phần bài diễn văn nổi tiếng nhất của Malcolm X, trong đó có câu: "Chúng ta sinh ra trên Trái Đất với quyền làm người, phải được tôn trọng như một con người, được trao những quyền của một con người trong xã hội này, trên Trái Đất này, vào ngày này, điều chúng ta muốn đưa thành hiện thực..." Đoạn cuối nổi tiếng của câu đó là "bằng bất cứ giá nào."[191] Mandela đã thông báo với đạo diễn Spike Lee rằng ông không thể đọc câu này trước máy quay vì sợ chính quyền apartheid sẽ dùng nó chống lại ông. Lee đã rất biết ơn, và những giây cuối cùng của bộ phim là đoạn phim trắng đen của chính Malcolm X đọc câu này.[191]
Mandela và đội trưởng Springboks, Francois Pienaar, là chủ đề của cuốn sách năm 2008 của John Carlin, Playing the Enemy: Nelson Mandela and the Game that Made a Nation,[192] trong đó nhấn mạnh vai trò của chiến thắng trong Giải rugby vô địch thế giới 1995 tại Nam Phi thời hậu apartheid. Carlin bán quyền làm phim cho Morgan Freeman.[193] Bộ phim này, có tên Invictus,[194] được đạo diễn bởi Clint Eastwood, trong đó Freeman đóng vai Nelson Mandela và Matt Damon vai Pienaar.[193]
Vào ngày 31 tháng 3 năm 2004, Quảng trường Sandton ở Johannesburg được đổi tên thành Quảng trường Nelson Mandela, sau khi người ta dựng bức tượng Nelson Mandela cao 6 mét ở quảng trường để vinh danh nguyên thủ Nam Phi của mình.[196]
Vào ngày 29 tháng 8 năm 2007, một bức tượng Nelson Mandela được khánh thành tại Quảng trường Nghị viện ở Luân Đôn bởi Richard Attenborough, Ken Livingstone, Wendy Woods, và Gordon Brown.[197] Chiến dịch dựng tượng bắt đầu vào năm 2000 bởi Donald Woods, một nhà báo Nam Phi lưu vong vì tham gia phong trào chống chủ nghĩa apartheid. Mandela nói rằng nó đại diện cho không chỉ ông, mà còn cho những ai đang chống lại áp bức, đặc biệt tại Nam Phi.[198] Ông nói thêm: "Lịch sử đấu tranh tại Nam Phi đầy những câu chuyện về các nam nữ anh hùng, một số họ là nhà lãnh đạo, một số là người ủng hộ. Tất cả họ đều xứng đáng được ghi nhớ."[199]
Vào ngày 27 tháng 8 năm 2008, một bức tượng của Nelson Mandela được khánh thành tại Trại cải tạo Drakenstein Groot giữa Paarl và Franshhoek trên đường R301, gần Cape Town. Trước đây có tên Victor Verster, đây là nơi Mandela trải qua những năm cuối cùng trong thời gian 27 năm ở tù, khi ông và các đồng chí ở ANC đã thương thảo với chính quyền apartheid về những điều khoản để ông được tự do và bản chất của nước Nam Phi mới. Bức tượng được đặt ngay nơi Mandela bước bước đi đầu tiên với tư thế một người tự do. Ngay bên ngoài cổng tù – đỉnh điểm của Long Walk to Freedom – tên tự truyện của Mandela.[200][201]
Sau Trận động đất Loma Prieta năm 1989 phá hủy phần Cầu cạn đường Cypress của Xa lộ Nimitz tại Oakland, California, thành phố đã đổi tên con đường này và đặt tên là Mandela Parkway.
Tại Leicester, nước Anh, có một Công viên Nelson Mandela với khẩu hiệu "Nam Phi thuộc về tất cả những ai sống tại đó, dù Trắng hay Đen".
Video yêu thích
http://www.youtube.com/user/hoangkimvietnam
Trở về trang chính
Hoàng Kim, hoangkim, hoangkimvietnam, Ngọc Phương Nam, Chào ngày mới Thung dung, Dạy và học, Cây Lương thực, Tin Nông nghiệp Việt Nam, Food Crops, Cassava in Vietnam, Khát khao xanh, Dayvahoc,Học mỗi ngày, Danh nhân Việt , Food Crops News, Điểm chính, CNM365, Kim LinkedIn, KimTwitter, KimFaceBook Đọc lại và suy ngẫm, Việt Nam tổ quốc tôi, Tình yêu cuộc sống, Thơ cho con
Nelson Mandela
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Đối với các định nghĩa khác, xem Nelson Mandela (định hướng).
Nelson Mandela | |
---|---|
Mandela vào năm 2008 |
|
Chức vụ
|
|
Nhiệm kỳ | 10 tháng 5 năm 1994 – 14 tháng 6 năm 1999 |
Tiền nhiệm | Frederik Willem de Klerk Vai trò Tổng thống Nam Phi |
Kế nhiệm | Thabo Mbeki |
Nhiệm kỳ | 3 tháng 9 năm 1998 – 14 tháng 6 năm 1999 |
Tiền nhiệm | Andrés Pastrana Arango |
Kế nhiệm | Thabo Mbeki |
Thông tin chung
|
|
Đảng | Đại hội Quốc gia châu Phi |
Sinh | 18 tháng 7, 1918 Mvezo, Liên hiệp Nam Phi |
Mất | 05 tháng 12, 2013 (95 tuổi) |
Nơi ở | Điền trang Houghton, Nam Phi |
Alma mater | Đại học Fort Hare Đại học London External System Đại học Nam Phi Đại học Witwatersrand |
Tôn giáo | Tin Lành |
Trang web | Quỹ Mandela |
Chữ ký | |
Binh nghiệp
|
Tại Nam Phi, Mandela còn được biết tới với tên gọi Madiba, một tước hiệu danh dự mà bộ lạc của ông thường trao cho những già làng.
Mandela đã nhận hơn 250 giải thưởng trong hơn bốn thập niên, trong đó có Giải Nobel Hòa bình năm 1993.
Mục lục
Thơ ấu
Nelson Mandela thuộc chi nhỏ nhất của dòng họ phong kiến Thembu, trị vì các lãnh thổ Transkei thuộc tỉnh Cape của Nam Phi.[3] Ông sinh ra tại Mvezo, một ngôi làng nhỏ thuộc huyện Umtata, thủ phủ của Transkei.[3] Ông cố ruột Ngubengcuka của ông (mất năm 1832) đã trị vì với danh hiệu Inkosi Enkhulu, tức là vua của người Thembu.[4] Một trong những con trai của nhà vua, có tên là Mandela, chính là ông nội của Nelson và đây chính là nguồn gốc họ Mandela của ông. Tuy nhiên, vì ông là con trai của Inkosi với một người vợ thuộc bộ tộc Ixhiba (gọi là "Tả gia"[5]), các con cháu thuộc chi này tuy vẫn thuộc Hoàng gia nhưng không bao giờ được thừa kế ngai vàng Thembu.Cha của Nelson Mandela, Gadla Henry Mphakanyiswa, là người đứng đầu bộ lạc ở thị trấn Mvezo.[6][[]][liên kết hỏng] Tuy vậy, do không được chính quyền thuộc địa vừa lòng, Mphakanyiswa bị tước chức và cả gia đình bị chuyển đến Qunu. Dù vậy, Mphakanyiswa vẫn là thành viên Hội đồng Cơ mật của Inkosi, và đóng vai trò là người hỗ trợ cho Jongintaba Dalindyebo lên ngôi quốc vương Thembu. Dalindyebo sau này đã trả ơn ông bằng cách nhận nuôi Mandela sau khi Mphakanyiswa chết.[7] Cha của Mandela có bốn bà vợ, sinh tổng cộng 13 người con (bốn trai, chín gái).[7] Mandela là con của bà vợ thứ ba, Nosekeni Fanny. Fanny là con của Nkedama thuộc bộ tộc Mpemvu Xhosa, thuộc về nhà Hữu gia, là vùng đất nơi Mandela đã trải qua phần lớn thời thơ ấu.[8] Tên của ông Rolihlahla có nghĩa là "kéo cành cây", hay một cách thông tục, có nghĩa là "kẻ gây rối".[9][10]
Rolihlahla Mandela là người đầu tiên trong gia đình được đi học, tại đó cô giáo Mdingane đã đặt cho ông một cái tên tiếng Anh là "Nelson".[11]
Lúc Mandela lên chín, cha ông qua đời vì bệnh lao phổi, quan nhiếp chính Jongintaba trở thành người giám hộ hợp pháp của ông.[7] Mandela đi học trường truyền giáo thuộc Hội Giám lý nằm kế bên lâu đài của quan nhiếp chính. Theo phong tục của người Thembu, ông được thụ giáo lúc 16 tuổi, rồi đi học Học viện Clarkebury Boarding.[12] Mandela đã hoàn tất Bằng sơ trung học chỉ trong vòng hai năm, thay vì ba năm như thông thường.[12] Để chuẩn bị thừa kế vị trí thành viên Hội đồng Cơ mật của cha mình, năm 1937, Mandela chuyển đến trường Healdtown, ngôi trường tại Fort Beaufort, nơi hầu hết con cháu hoàng tộc Thembu đều đi học.[13] Vào lúc 19 tuổi, ông bắt đầu quan tâm đến bộ môn quyền anh và chạy bộ tại trường.[8]
Sau đó, ông đậu vào học bằng Cử nhân tại Trường Đại học Fort Hare, nơi ông đã gặp Oliver Tambo. Tambo và Mandela sau này là những người bạn và đồng nghiệp thân thiết. Mandela cũng kết bạn với người bà con Kaiser ("K.D.") Matanzima, người thuộc dòng trực hệ của Hữu gia của người Thembu, là người thừa kế ngai vàng Transkei[5], vì vai trò mà sau đó đã đưa ông đến với chính sách Bantustan. Chính sự ủng hộ chính sách này của ông và Mandela đã khiến hai người trở thành phe chính trị đối lập.[8] Cuối năm thứ nhất, Mandela tham gia vào vụ tẩy chay của Hội sinh viên nhằm chống lại quy định của trường đại học, và bị buộc phải rời trường Fort Hare không được trở lại chừng nào ông chưa chấp nhận cuộc bầu cử của vào Hội.[14] Sau này, lúc ở trong tù, Mandela đã học bằng Cử nhân luật của Chương trình đào tạo từ xa của Đại học Luân Đôn.
Một thời gian ngắn sau khi rời Fort Hare, Jongintaba đã thông báo với Mandela và Justice (con của quan nhiếp chính và là người thừa kế ngai vàng) rằng ông đã sắp xếp đám cưới cho cả hai người. Những thanh niên trẻ không vừa lòng với sự sắp đặt này, và quyết định chuyển đến sống ở Johannesburg.[15] Khi đến Johannesburg, Mandela xin một chân canh gác tại một khu mỏ.[16] Tuy nhiên, ông chủ lập tức đuổi việc Mandela khi hay rằng ông là con nuôi đang chạy trốn của Quan nhiếp chính. Mandela chuyển sang làm tập sự ở một công ty luật ở Johannesburg, Witkin, Sidelsky và Edelman, nhờ quen biết với một người bạn và người hướng dẫn, nhân viên địa ốc Walter Sisulu.[16] Khi làm việc tại hãng Witkin, Sidelsky và Edelman, Mandela đã hoàn tất tấm bằng Cử nhân hàm thụ của Trường Đại học Nam Phi, sau đó ông học luật tại Trường Đại học Witwatersrand, tại đó ông kết bạn tới bạn học và sau này là đồng chí chống chủ nghĩa apartheid của ông Joe Slovo, Harry Schwarz và Ruth First. Slovo sau này là Bộ trưởng Bộ cư trú, còn Schwarz là Đại sứ Nam Phi tại Hoa Kỳ. Trong thời gian này, ông sống tại thành phố ngoại ô Alexandra, phía bắc Johannesburg.[17]
Hoạt động chính trị
Sau chiến thắng của Đảng Quốc gia, ủng hộ chính sách phân biệt chủng tộc apartheid[18] của những người Afrikaner, Mandela bắt đầu tham gia tích cực vào hoạt động chính trị. Ông đã lãnh đạo rất thành công trong Chiến dịch Phản đối của ANC năm 1952 và Đại hội Nhân dân năm 1955, từ đó thông qua Hiến chương Tự do là nền tảng cơ bản cho cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa apartheid.[19][20] Trong thời gian này, Mandela và luật sư đồng nghiệp Oliver Tambo điều hành một công ty luật có tên là Mandela và Tambo, nhận bào chữa miễn phí hoặc giá rẻ cho nhiều người da đen thiếu luật sư đại diện.[21]Mahatma Gandhi có ảnh hưởng lớn đến cách thức đấu tranh của Mandela, và cả phương pháp dành thắng lợi của các nhà hoạt động chống chủ nghĩa apartheid các thế hệ sau.[22][23] Mandela đã từng tham dự một hội nghị diễn ra tại New Delhi từ ngày 29-30 tháng 1 năm 2007 đánh dấu 100 năm ngày Gandhi đưa ra thuyết satyagraha (phản kháng bất bạo động) tại Nam Phi.[24]
Ban đầu, khi kiên trì đường lối đấu tranh bất bạo động, Mandela và 150 người khác bị bắt giam vào ngày 5 tháng 12 năm 1956 và bị buộc tội phản quốc. Sau quá trình xét xử kéo dài từ năm 1956-1961, tất cả các bị cáo đều được tuyên trắng án.[25] Từ năm 1952–1959, xuất hiện một lực lượng các nhà hoạt động da đen mới được gọi là những người Toàn Phi đã cản trở các hoạt động của ANC ở khu vực thành phố của người da đen, lực lượng này đòi hỏi phải có các biện pháp quyết liệt hơn nhằm chống lại chế độ của Đảng Quốc gia.[26] Những nhà lãnh đạo ANC lúc bấy giờ là Albert Luthuli, Oliver Tambo và Walter Sisulu không những cho rằng những người Toàn Phi đang đi quá đà mà còn cảm thấy quyền lãnh đạo của họ đang bị đe dọa.[26] Vì thế cánh lãnh đạo của ANC đã củng cố vị thế của mình bằng cách liên minh với các đảng phái chính trị nhỏ của những người Da trắng, Da màu, lẫn Da đỏ nhằm tranh thủ lôi kéo rộng rãi số người ủng hộ hơn phái Toàn Phi.[26] Những người Toàn Phi nhạo báng Hiến chương Tự do trong Hội nghị tại Kliptown năm 1955 vì đảng ANC với số lượng thành viên áp đảo 100.000 người mà chỉ có được một phiếu trong liên minh Đại hội. Bốn trong năm tổng thư ký của các đảng phái tham gia đại hội đều đã ngầm tham gia Đảng Cộng sản Nam Phi (SACP) tái cơ cấu, gắn liền với chính sách của Moskva.[27][28] Đến năm 2003 Blade Nzimande, Tổng thư ký SACP, tiết lộ rằng Walter Sisulu, Tổng thư ký của đảng ANC, cũng đã bí mật gia nhập SACP vào năm 1955[29] có nghĩa là cả năm Tổng thư ký đều là người của SACP và do đó giải thích lý do tại sao Sisulu quyết định đưa vai trò của ANC từ vai trò chi phối xuống thành một trong năm bên ngang vai nhau.
Trong năm 1959, ANC mất phần lớn sự ủng hộ từ lực lượng chiến đấu khi phần lớn những người Toàn Phi, với sự hỗ trợ tài chính từ Ghana và chính trị từ những người Sotho tại tỉnh Transvaal, đã ly khai để thành lập Đại hội Toàn Phi (PAC) dưới sự lãnh đạo của Robert Sobukwe và Potlako Leballo.[30]
Hoạt động chống Chủ nghĩa Apartheid
Vào năm 1961, Mandela trở thành người đồng sáng lập và là lãnh đạo cánh vũ trang của ANC, Umkhonto we Sizwe (tạm dịch Cây giáo của Quốc gia, cũng viết tắt là MK).[31] Ông điều hành các chiến dịch phá hoại chống lại các mục tiêu quân sự và của chính quyền, lên kế hoạch cho một cuộc chiến tranh du kích nếu phương cách phá hoại vẫn không chấm dứt được chế độ apartheid.[32] Mandela cũng quyên tiền cho MK ở nước ngoài và sắp xếp các buổi huấn luyện bán quân sự cho nhóm.[32]Người đồng chí trong đảng ANC Wolfie Kadesh giải thích chiến dịch đánh bom do Mandela dẫn dắt như sau: "Khi chúng tôi biết rằng chúng tôi sẽ bắt đầu vào ngày 16 tháng 12 năm 1961, nhằm làm nổ tung những vị trí là biểu tượng của chủ nghĩa apartheid, như văn phòng giấy thông hành, tòa án địa phương, và những nơi tương tự... bưu điện và... các văn phòng chính phủ. Nhưng chúng tôi dự định thực hiện điều đó sao cho không có ai bị thương vong."[33] Mandela đã nói về Wolfie: "Kiến thức về chiến tranh và kinh nghiệm trận mạc của ông là cực kỳ hữu ích đối với tôi."[10]
Mandela đã xem bước chuyển sang đấu tranh vũ trang là phương kế cuối cùng; nhiều năm trời với chính sách đàn áp và bạo lực ngày càng tăng của chính quyền đã cho ông thấy sự phản kháng bất bạo động chống chủ nghĩa apartheid nhiều năm qua đã không và cũng không thể thu được tiến triển nào.[10][34]
Sau này, chủ yếu vào thập niên 1980, MK đã tiến hành chiến tranh du kích chống lại chế độ apartheid với nhiều thương vong là dân thường.[32] Mandela sau này thừa nhận rằng ANC, trong cuộc chiến đấu chống lại apartheid, cũng vi phạm quyền con người, chỉ trích thẳng thừng những đảng viên trong đảng ông cố gắng đưa những câu chữ phản ánh sự thật ra khỏi báo cáo của Ủy ban Sự thật và Hòa giải.[35]
Cho đến tận tháng 7 năm 2008, Mandela và các đảng viên ANC vẫn bị hạn chế đi đến Hoa Kỳ - ngoại trừ trụ sở Liên Hiệp Quốc ở Manhattan — nếu không có giấy phép cho phép đặc biệt của Ngoại trưởng Hoa Kỳ, vì họ bị quy là khủng bố trong thời kỳ chế độ apartheid ở Nam Phi.[36][37]
Bị bắt giữ và phiên tòa Rivonia
Ngày 5 tháng 8 năm 1962 Mandela bị bắt sau khi ẩn náu được 17 tháng, và giam giữ tại Pháo đài Johannesburg.[38] Vụ bắt giữ này xảy ra do Cơ quan Tình báo Trung ương Hoa Kỳ (CIA) đã tiết lộ nơi ẩn náu và nhân dạng giả của Mandela cho an ninh.[39][40][41] Ba ngày sau đó, người ta đã đọc lời buộc tội ông chủ mưu kêu gọi công nhân đình công vào năm 1961 và vượt biên bất hợp pháp tại tòa. Ngày 25 tháng 10 năm 1962, Mandela bị tuyên án 5 năm tù giam. Hai năm sau vào ngày 11 tháng 6 năm 1964, ông lại phải ra tòa một lần nữa vì những hoạt động trong Hội đồng Quốc gia châu Phi (ANC).[42]Trong lúc Mandela đang trong tù, cảnh sát đã bắt giữ nhiều lãnh đạo cốt cán của ANC vào ngày 11 tháng 7 năm 1963, tại Liliesleaf Farm, Rivonia, phía bắc Johannesburg. Mandela được ghép vào xét xử chung, và tại Phiên tòa Rivonia, họ bị chánh án, Tiến sĩ Percy Yutar, cáo buộc nhiều tội danh trong đó chủ yếu là phá hoại (Mandela thừa nhận tội này) và các tội tương đương với phản quốc, nhưng chính quyền dễ chứng minh hơn.[43] Lời buộc tội thứ hai cáo buộc các bị cáo âm mưu một cuộc xâm lược của ngoại quốc vào Nam Phi, Mandela phủ nhận tội danh này.[43]
Trong lời phát biểu tại ghế bị cáo mở đầu phiên biện hộ trong phiên tòa ngày 20 tháng 4 năm 1964 tại Tòa án Tối cao Pretoria, Mandela đã nói rằng việc ANC lựa chọn sử dụng vũ lực chỉ là một sách lược mà thôi.[44] Lời phát biểu của ông đã mô tả ANC đã sử dụng các biện pháp hòa bình như thế nào để chống lại chủ nghĩa apartheid trong nhiều năm trời cho đến khi xảy ra vụ Thảm sát Sharpeville.[45] Sự kiện đó đi kèm với cuộc trưng cầu dân ý để thành lập Cộng hòa Nam Phi và sự tuyên bố tình trạng khẩn cấp cùng với việc cấm chỉ hoạt động của ANC đã khiến cho Mandela và các đồng chí của ông thấy rằng lựa chọn duy nhất của họ chỉ có thể thông qua các hành động phá hoại, nếu không chẳng khác nào một sự đầu hàng vô điều kiện.[45] Mandela tiếp tục giải thích cách họ hình thành Tuyên ngôn Umkhonto we Sizwe vào ngày 16 tháng 12 năm 1961 dự kiến sẽ phô bày sự thất bại của các chính sách của Đảng Quốc gia sau khi nền kinh tế bị đe dọa cho những người ngoại quốc không còn sẵn lòng đầu tư vào đất nước nữa.[46] Ông kết thúc bài phát biểu bằng những lời sau đây: "Tôi cống hiến cả đời tôi cho sự nghiệp đấu tranh của người dân châu Phi. Tôi đã chiến đấu chống lại sự thống trị của người da trắng, và tôi cũng chiến đấu chống lại sự thống trị của người da đen. Tôi yêu mến lý tưởng về một xã hội dân chủ và tự do trong đó mọi người dân sống với nhau hòa thuận và bình đẳng. Đó là lý tưởng mà tôi hy vọng sẽ sống vì nó và đạt được nó. Nhưng nếu cần, tôi cũng sẵn sàng chết vì lý tưởng đó."[34]
Bram Fischer, Vernon Berrange, Harry Schwarz, Joel Joffe, Arthur Chaskalson và George Bizos là các luật sự bảo vệ cho bên bị.[47] Harold Hanson cũng được bổ sung vào cuối phiên tòa để giúp giảm nhẹ tội danh.[48] Tất cả mọi người trừ Rusty Bernstein đều bị tuyên là có tội, nhưng họ thoát khỏi án treo cổ mà bị tuyên tù chung thân vào ngày 12 tháng 6 năm 1964.[48] Lời buộc tội gồm có tham gia lên kế hoạch hành động vũ trang, cụ thể là bốn cáo buộc phá hoại, mà Mandela thừa nhận, và một âm mưu chính trị trợ giúp nước ngoài xâm lược Nam Phi, tội này bị Mandela phủ nhận.[48]
Thời gian trong tù
Nelson Mandela bị giam giữ tại Đảo Robben và đã ở đấy 18 năm trong tổng số 27 năm trong tù của ông.[49] Khi ở trong tù, ông dần dần trở nên nổi tiếng với vai trò là nhà lãnh đạo da đen đáng chú ý nhất tại Nam Phi.[1] Ở trên đảo, ông và các tù nhân khác phải lao động khổ sai ở một mỏ đá vôi.[50] Điều kiện sống trong tù rất cơ bản. Tù nhân cũng bị phân chia theo sắc tộc và tù nhân da đen là những người nhận được lượng thực phẩm ít nhất.[51] Tù chính trị được giam giữ riêng biệt với thường phạm và được hưởng ít quyền lợi hơn.[52] Mandela đã mô tả rằng, do bị xếp vào tù nhân nhóm D (hạng thấp nhất) ông chỉ được phép có một người khách viếng thăm và nhận một lá thư mỗi sáu tháng.[53] Những lá thư thường bị trễ khá lâu và rất khó đọc do chế độ kiểm duyệt trong nhà tù.[10]Lúc ở trong tù Mandela đã tham gia khóa học từ xa của Đại học Luân Đôn và nhận bằng Cử nhân Luật.[54] Ông sau đó được đề cử làm Hiệu trưởng danh dự của Đại học Luân Đôn trong cuộc bình chọn năm 1981, nhưng vị trí này đã thuộc về Công chúa Anne.[54]
Trong cuốn hồi ký Inside BOSS xuất bản năm 1981[55] điệp viên Gordon Winter đã kể về việc ông này tham gia kế hoạch giải cứu Mandela vào năm 1969: kế hoạch này bị Winter tiết lộ thay mặt cho cơ quan tình báo Nam Phi, họ muốn Mandela trốn thoát để họ có thể xử bắn ông khi tìm bắt lại. Kế hoạch này đã bị Cơ quan Tình báo Anh chặn đứng.[55]
Vào tháng 3 năm 1982 Mandela được chuyển từ Đảo Robben sang Nhà tù Pollsmoor, cùng với các nhà lãnh đạo ANC khác như Walter Sisulu, Andrew Mlangeni, Ahmed Kathrada và Raymond Mhlaba.[53] Đã có suy đoán rằng đây là cách để xóa bỏ sức ảnh hưởng của các nhà lãnh đạo cấp cao này đối với thế hệ những nhà hoạt động da đen trẻ đang bị giam tại Đảo Robben, cái gọi là "Trường Đại học Mandela".[56] Tuy nhiên, Thủ tướng Kobie Coetsee thuộc Đảng Quốc gia nói rằng việc chuyển trại này giúp cho việc liên hệ giữa họ và chính quyền Nam Phi được thuận tiện hơn.[57]
Tháng 2 năm 1985 Tổng thống P.W. Botha đề nghị trả tự do cho Mandela với điều kiện ông phải 'từ bỏ phương cách đấu tranh chính trị bằng bạo lực một cách vô điều kiện'.[58] Coetsee và các bộ trưởng khác phản đối đề xuất của Botha, cho rằng Mandela sẽ không bao giờ yêu cầu tổ chức của ông từ bỏ đấu tranh vũ trang để đổi lấy sự tự do cho cá nhân mình.[59] Đúng là Mandela đã bác bỏ đề xuất và đưa ra lời tuyên bố thông qua cô con gái Zindzi trong đó nói rằng "Thứ tự do đang được đề nghị cho tôi là cái gì trong khi tổ chức của nhân dân vẫn bị cấm đoán? Chỉ có những người tự do mới có thể thương lượng mà thôi. Một tù nhân không thể tham gia vào một thỏa hiệp nào hết."[57]
Cuộc gặp đầu tiên giữa Mandela và chính quyền Đảng Quốc gia diễn ra vào tháng 11 năm 1985, khi Kobie Coetsee gặp gỡ Mandela tại Bệnh viện Volks Hospital ở Cape Town nơi Mandela đang tịnh dưỡng sau cuộc phẫu thuật tuyến tiền liệt.[60] Trong bốn năm sau đó, một loạt các cuộc gặp mang tính thăm dò đã diễn ra, làm nền tảng cho các cuộc tiếp xúc và thương lượng về sau, nhưng tiến bộ thực sự thì không nhiều.[57]
Vào năm 1988 Mandela được chuyển đến Nhà tù Victor Verster và ở đó cho đến khi ông được phóng thích. Người ta đã dỡ bỏ nhiều hạn chế đối với ông và những người như Harry Schwarz đã có thể tự do thăm viếng ông. Schwarz, một người bạn của Mandela, biết ông từ khi họ học chung lớp luật ở trường đại học. Ông này cũng là luật sư biện hộ cho Mandela tại Phiên tòa Rivonia và sau này là đại sứ tại Washington khi Mandela làm tổng thống.
Trong suốt thời kỳ Mandela bị giam giữ, đã có nhiều áp lực ở trong cũng như ngoài nước đòi chính quyền Nam Phi phải trả tự do cho ông, với khẩu hiệu nổi tiếng Free Nelson Mandela! (Hãy thả Nelson Mandela)[61] Đến năm 1989, Nam Phi có sự chuyển biến khi Botha bị đột quỵ và Frederik Willem de Klerk thay thế vào vị trí tổng thống.[62] De Klerk tuyên bố thả tự do cho Mandela vào tháng 2 năm 1990.[63]
Mandela đã được Ủy hội Chữ thập đỏ Quốc tế viếng thăm vài lần khi ông còn ở Đảo Robben và sau này ở nhà tù Pollsmoor. Mandela đã nói về những chuyến thăm viếng như sau: "với cá nhân tôi, và với những ai đã từng trải qua thời gian là tù chính trị, Hội chữ thập đỏ là một tia sáng nhân đạo trong thế giới tăm tối thiếu nhân tính của nhà tù chính trị."[64][65]
Trả tự do
Ngày 2 tháng 2 năm 1990, Tổng thống Quốc gia F.W. de Klerk đã hủy lệnh cấm hoạt động đối với Đảng ANC và các tổ chức chống chủ nghĩa apartheid khác, đồng thời thông báo Mandela sẽ sớm được trả tự do.[66] Mandela được trả tự do từ Nhà tù Victor Verster ở Paarl vào ngày 11 tháng 2 năm 1990. Sự kiện này được phát hình trực tiếp trên khắp thế giới.[67]Vào ngày được phóng thích, Mandela đã có một bài diễn văn gửi đến toàn quốc.[68] Ông tuyên bố cam kết hòa bình và hòa giải với những người da trắng thiểu số trong nước, nhưng nói rõ rằng cuộc đấu tranh vũ trang của ANC vẫn chưa chấm dứt khi ông nói "phương sách đấu tranh vũ trang vào năm 1960 khi chúng tôi hình thành phái quân sự trong ANC (Umkhonto we Sizwe) đơn thuần là hành động tự vệ chống lại sự tàn bạo của chủ nghĩa apartheid. Các yếu tố đưa đến cuộc đấu tranh vũ trang đến nay vẫn hiển diện. Chúng tôi không có sự lựa chọn nào khác ngoài việc phải tiếp tục. Chúng tôi bày tỏ hy vọng một không khí có lợi cho một cuộc thương lượng sẽ sớm được tạo ra, để nhu cầu đấu tranh vũ trang không còn nữa."
Ông cũng nói rằng tập trung chính của ông là mang lại hòa bình cho những người da đen đa số và cho họ quyền bỏ phiếu trong những cuộc bầu cử cấp quốc gia lẫn địa phương.[68]
Thương thuyết
Sau khi được trả tự do, Mandela trở lại làm lãnh đạo ANC, rồi từ năm 1990 đến 1994, ông lãnh đạo đảng này trong cuộc thương lượng đa đảng dẫn tới cuộc bầu cử đa sắc tộc đầu tiên trong nước.[69]Năm 1991, ANC tổ chức hội nghị toàn quốc đầu tiên của mình ở Nam Phi sau khi được dỡ bỏ lệnh cấm, hội nghị đã bầu Mandela làm Chủ tịch (President) của tổ chức. Người bạn và người đồng nghiệp lâu năm của ông, Oliver Tambo, người lãnh đạo tổ chức lưu vong khi Mandela còn ở trong tù, trở thành Chủ tịch Quốc gia (National Chairperson).[70]
Vai trò lãnh đạo của Mandela trong cuộc thương thuyết, cũng như mối quan hệ của ông với Tổng thống F.W. de Klerk, đã được thừa nhận khi họ cùng được trao Giải Nobel Hòa bình năm 1993. Tuy nhiên, mối quan hệ này thỉnh thoảng trở nên căng thẳng, cụ thể như trong một phát biểu nảy lửa vào năm 1991 khi ông nói De Klerk là người cầm đầu một "chế độ không hợp pháp, mất uy tín, gồm toàn những người thiểu số". Cuộc thương thuyết có lần đã đổ vỡ do vụ thảm sát Boipatong tháng 6 năm 1992, khi đó Mandela cùng đoàn đại biểu của ANC bước ra khỏi cuộc thương thuyết, cáo buộc chính quyền De Klerk đồng lõa với các vụ giết chóc.[71] Tuy nhiên, những cuộc hội đàm đã được tiếp diễn sau vụ thảm sát Bisho tháng 9 năm 1992, khi bóng ma bạo lực khiến cho người ta nhận thấy hội đàm là cách duy nhất để tiến tới một giải pháp.[10]
Sau vụ ám sát nhà lãnh đạo ANC Chris Hani tháng 4 năm 1993, lại dấy lên sự sợ hãi đất nước sẽ lại tan vỡ trong bạo lực.[72] Mandela đã gửi thông điệp toàn quốc yêu cầu mọi người bình tĩnh, trong bài phát biểu với vai trò 'tổng thống' dù khi đó ông chưa phải là tổng thống thực sự. Mandela nói rằng "tối nay tôi đang nói với từng người Nam Phi, cả đen lẫn trắng, những lời nói xuất phát từ sâu thẳm lòng mình. Một người da trắng đầy thành kiến và căm giận đã đến đất nước chúng ta và thực hiện một hành vi sai lầm đến mức khiến cả nước phải đối mặt với vực thẳm khủng hoảng. Một người phụ nữ da trắng, gốc Afrikan, đã liều mạng sống của bà để chúng ta có thể biết đến, và mang lại sự công bằng cho vụ ám sát này. Vụ giết người máu lạnh nhằm vào Chris Hani đã tạo một làn sóng rung chuyển đất nước và thế giới... Giờ đây đã đến lúc mọi người dân Nam Phi sát cánh cùng nhau để chống lại bất cứ hành vi nào nhằm phá hủy những gì Chris Hani đã cống hiến cả đời ông cho nó – sự tự do cho tất cả chúng ta".[73] Dù đã có một số vụ bạo loạn xảy ra sau vụ ám sát, các bên thương lượng vẫn tích cực hành động, và sớm thỏa thuận một cuộc bầu cử dân chủ diễn ra vào ngày 27 tháng 4 năm 1994, chỉ hơn một năm sau vụ ám sát Hani.[57]
Thời kỳ làm Tổng thống Nam Phi
Cuộc bầu cử đa sắc tộc đầu tiên ở Nam Phi với quyền bỏ phiếu được trao cho tất cả mọi người đã diễn ra vào ngày 27 tháng 4 năm 1994. ANC giành được 62% số phiếu bầu, và Mandela, với vai trò là lãnh đạo ANC, đã nhậm chức làm Tổng thống da đen đầu tiên của Nam Phi vào ngày 10 tháng 5 năm 1994, de Klerk của Đảng Quốc gia là phó tổng thống thứ nhất và Thabo Mbeki là phó tổng thống thứ hai trong Chính phủ Thống nhất Quốc gia.[74] Với vị trí là Tổng thống từ tháng 5 năm 1994 cho đến tháng 6 năm 1999, Mandela đã chủ trì sự chuyển giao từ quyền lực của thiểu số và chủ nghĩa apartheid, giành được sự tôn trọng của quốc tế đối với những nỗ lực hòa giải quốc gia và thế giới của ông.[75] Mandela đã khích lệ những người Nam Phi da đen ủng hộ cho đội Springbok (đội tuyển rugby quốc gia Nam Phi) trước đây bị dân chúng ghét bỏ khi Nam Phi tổ chức Cúp Rugby Thế giới 1995.[76] Sau khi Springbok giành chiến thắng trong trận chung kết trước New Zealand, Mandela đã trao cúp vô địch cho đội trưởng Francois Pienaar, một người Afrikan, trên người mặc chiếc áo đấu Springbok với con số 6 của Pienaar sau lưng. Hành động này được xem là bước tiến lớn của sự hòa giải giữa người Nam Phi da trắng và da đen.[77]Sau khi nhậm chức tổng thống, một trong những dấu hiệu đặc trưng của Mandela là chiếc áo Batik của ông, còn được biết đến với cái tên "Áo Madiba", kể cả trong những sự kiện long trọng.[78] Trong hành động quân sự đầu tiên sau thời kỳ apartheid của Nam Phi, Mandela đã ra lệnh cho quân đội xâm nhập lãnh thổ Lesotho vào tháng 9 năm 1998 để bảo vệ chính quyền của Thủ tướng Pakalitha Mosisili. Vụ việc này diễn ra sau một cuộc bỏ phiếu gây tranh cãi trong đó lực lượng phản đối đã đe dọa đến chính quyền thiếu ổn định này.[79] Những nhà bình luận và phê bình trong đó có cả các nhà hoạt động vì AIDS như Edwin Cameron đã chỉ trích Mandela vì sự thiếu hiệu quả của chính quyền ông trong việc ngăn chặn cuộc khủng hoảng AIDS.[80][81] Sau khi nghỉ hưu, Mandela thừa nhận rằng ông đã thất bại vì đã không chú ý nhiều hơn đến bệnh dịch HIV/AIDS.[82][83] Mandela từ đó đã có một số bài phát biểu chống lại bệnh dịch AIDS.[84][85]
Vụ xử Lockerbie
Tổng thống Mandela có sự quan tâm đặc biệt trong việc giúp đỡ giải quyết tranh cãi kéo dài giữa một bên là quốc gia Lybia dưới thời Gaddafi, còn bên kia là Hoa Kỳ và Anh, đối với việc mang ra xét xử hai người Lybia bị truy tố vào tháng 11 năm 1991 và bị buộc tội phá hoại Chuyến bay 103 của Pan Am, khiến nó rơi tại thị trấn Lockerbie của Scotland ngày 21 tháng 12 năm 1988, làm cho 270 người thiệt mạng.[86] Từ đầu năm 1992, Mandela đã có lời đề nghị không chính thức gửi tới Tổng thống George H.W. Bush yêu cầu xét xử hai nghi phạm Lybia tại quốc gia thứ ba. Bush tỏ ra tán thành đề nghị này, cả Tổng thống François Mitterrand của Pháp và Vua Juan Carlos I của Tây Ban Nha cũng vậy.[87] Vào tháng 11 năm 1994 – sáu tháng sau khi ông đắc cử tổng thống – Mandela chính thức đề nghị Nam Phi nên là nơi diễn ra phiên toàn xét xử vụ đánh bom Chuyến bay 103 của Pan Am.[88]Tuy nhiên, Thủ tướng Anh John Major thẳng thừng từ chối ý tưởng này nói rằng chính phủ Anh không tin tưởng vào tòa án nước ngoài.[89] Đến ba năm sau, Mandela một lần nữa lại gửi lời đề nghị đến người kế nhiệm Major, Tony Blair, khi ông có chuyến viếng thăm Luân Đôn vào tháng 7 năm 1997. Cuối năm đó, tại Cuộc họp những người đứng đầu chính phủ của khối Thịnh vượng chung năm 1997 tại Edinburgh tháng 10 năm 1997, Mandela đã cảnh báo:
"Không thể có một quốc gia vừa là nguyên cáo, vừa là bên nguyên lẫn quan tòa."Cuối cùng đã có một thỏa hiệp để tổ chức phiên tòa ở Trại quân sự Zeist ở Hà Lan, xét xử theo Luật Scotland, và Tổng thống Mandela bắt đầu thương thuyết với Đại tá Gaddafi để dẫn độ hai bị cáo (Megrahi và Fhimah) vào tháng 4 năm 1999.[90] Sau phiên tòa kéo dài 9 tháng, phán quyết đã được công bố vào ngày 31 tháng 1 năm 2001. Fhimah được tuyên trắng án, nhưng Megrahi bị buộc tội và phải lãnh 27 năm tù trong một nhà tù ở Scotland. Kháng cáo lần đầu của Megrahi đã bị bác vào tháng 3 năm 2002, và cựu tổng thống Mandela đã đến thăm người này tại nhà tù Barlinnie vào ngày 10 tháng 6 năm 2002.
'Megrahi hoàn toàn cô độc', Mandela nói trong cuộc họp báo nhỏ trong phòng thăm viếng của nhà tù. 'Anh ta không có ai để nói chuyện cả. Đây là sự hành hạ về tâm lý mà một người đàn ông phải chịu đựng trong suốt thời gian dài chịu án hoàn toàn một mình. Sẽ công bằng hơn nếu anh ta được chuyển đến một quốc gia Hồi giáo — và có nhiều quốc gia Hồi giáo mà phương Tây tin tưởng. Nó sẽ giúp gia đình anh dễ viếng thăm anh hơn nếu anh ở một nơi như vương quốc Maroc, Tunisia hay Ai Cập.'[91]Megrahi sau đó được chuyển đến nhà tù Greenock và không còn bị biệt giam nữa.[92] Tháng 8 năm 2009, Megrahi, sau khi được chẩn đoán bị ung thư và chỉ còn sống được 3 tháng, đã được trả tự do trong một đợt ân xá và được phép trở về Libya. Quỹ Nelson Mandela đã ủng hộ quyết định ân xá cho Megrahi trong một bức thư gửi tới Chính quyền Scotland thay mặt cho Mandela.[93]
Hôn nhân và gia đình
Mandela đã kết hôn ba lần, và có 6 con, 20 đứa cháu và số chắt thì ngày càng tăng. Ông là ông nội của Tù trưởng Mandla Mandela.[94]Cuộc hôn nhân đầu tiên
Cuộc hôn nhân đầu tiên của Mandela là kết hôn với Evelyn Ntoko Mase người cũng như Mandela, xuất thân từ nơi về sau gọi là vùng Transkei của Nam Phi, mặc dù thực ra họ gặp nhau tại Johannesburg.[95] Hai người chia tay vào năm 1957 sau 13 năm chung sống, ly dị vì sự căng thẳng do ông thường xuyên vắng nhà, dành quá nhiều thời gian cho công cuộc cách mạng, và một phần do bà là tín đồ Chứng nhân Jehovah, một tôn giáo đòi hỏi một sự trung lập về chính trị.[96] Evelyn Mase chết năm 2004.[97] Hai người có với nhau hai con trai, Madiba Thembekile (Thembi) (1946–1969) và Makgatho Mandela (1950–2005), và hai con gái, cả hai đều có tên Makaziwe Mandela (được biết đến với tên Maki; sinh 1947 và 1953). Đứa con gái đầu chết lúc 9 tháng tuổi, và họ đặt tên đứa con gái thứ hai theo tên cô con gái đầu lòng.[98] Các con của họ đều đi học Trường Thế giới Thống nhất ở Waterford Kamhlaba.[99] Thembi chết trong tai nạn xe hơi năm 1969 ở tuổi 25, khi Mandela đang bị giam giữ tại Đảo Robben, và Mandela không được phép tham dự lễ tang.[100] Makgatho chết vì bệnh AIDS năm 2005, khi 54 tuổi.[101]Cuộc hôn nhân thứ hai
Người vợ thứ hai của Mandela, Winnie Madikizela-Mandela, cũng xuất thân từ vùng Transkei, mặc dù hai người cũng gặp nhau tại Johannesburg, nơi bà là công chức da đen đầu tiên của thành phố.[102] Họ có hai con gái, Zenani (Zeni), sinh ngày 4 tháng 2 năm 1958 và Zindziswa (Zindzi) Mandela-Hlongwane, sinh năm 1960.[102] Zindzi chỉ mới 18 tháng tuổi khi cha cô bị giam tại nhà tù Đảo Robben. Sau này, Winnie phải chịu mối bất hòa trong gia đình, phản ảnh cuộc xung đột chính trị của đất nước; khi chồng bà đang chịu án chung thân ở Đảo Robben, còn cha bà lại làm bộ trưởng nông nghiệp ở Transkei.[102] Cuộc hôn nhân kết thúc bằng một cuộc ly thân rồi ly dị, được kích thêm từ mối bất hòa về chính trị.[103]Mandela vẫn mòn mỏi trong tù khi con gái ông Zenani kết hôn với Hoàng thân Thumbumuzi Dlamini năm 1973, anh trai của Vua Mswati III của Swaziland.[104] Mặc dù bà có ấn tượng sâu sắc về cha mình, nhà chức trách Nam Phi không cho phép bà thăm ông từ khi bà 4 tuổi cho đến lúc bà 16 tuổi.[105] Hai vợ chồng Dlamini sinh sống và kinh doanh tại Boston.[106] Một trong hai đứa con trai của họ, Hoàng tử Cedza Dlamini (sinh năm 1976), được giáo dục tại Hoa Kỳ, đã đi theo bước chân của ông ngoại làm một người ủng hộ cho quyền con người và trợ giúp nhân đạo.[106]
Zindzi Mandela-Hlongwane đã làm nên lịch sử trên toàn thế giới khi bà đọc bài diễn văn của Mandela từ chối lời đề nghị tha bổng có điều kiện vào năm 1985. Bà là nữ doanh nhân tại Nam Phi với ba con, đứa đầu lòng là con trai, Zondwa Gadaffi Mandela.[107]
Cuộc hôn nhân thứ ba
Mandela đã tái giá vào sinh nhật lần thứ 80 của ông năm 1998, với Graça Machel nhũ danh Simbine, góa phụ của Samora Machel, cựu tổng thống Mozambique và là đồng minh của ANC bị chết trong vụ rơi máy bay 12 năm trước đó.[108] Cuộc hôn nhân là kết quả của hàng tháng trời thương thảo ở cấp quốc tế để đặt ra đồ sính lễ chưa từng có trong lịch sử để được rút khỏi bộ tộc của Machel. Một thỏa thuận miệng đã được thực hiện bởi nhà vua truyền thống đại diện cho Mandela, Vua Buyelekhaya Zwelibanzi Dalindyebo.[109] Ông nội của thủ lĩnh tối cao là quan nhiếp chính Jongintaba Dalindyebo, người đã sắp xếp cuộc hôn nhân cho Mandela, đã lảng tránh bằng cách trốn sang Johannesburg vào năm 1940.[15]Mandela hiện vẫn còn ngôi nhà tại Qunu do đứa cháu trai nối dõi của ông quản lý, hiện ông vẫn trả tiền học phí và giữ quyền ủy viên hội đồng.[110]
Nghỉ hưu
Mandela là Tổng thống đắc cử lớn tuổi nhất của Nam Phi khi ông nhậm chức ở tuổi 75 vào năm 1994. Ông đã quyết định không cầm quyền nhiệm kỳ thứ hai và nghỉ hưu vào năm 1999, người kế nhiệm ông là Thabo Mbeki.Sau khi rời ghế Tổng thống, Mandela tiếp tục đóng vai trò tích cực trong nhiều tổ chức xã hội và vì quyền con người. Ông biểu lộ sự ủng hộ phong trào Make Poverty History (Biến đói nghèo thành dĩ vãng) mà trong đó Chiến dịch ONE là một bộ phận.[111] Giải golf gây quỹ Khách mời Nelson Mandela, do Gary Player chủ trì, đã thu được hơn 20 triệu rand cho các quỹ vì trẻ em từ lúc bắt đầu năm 2000.[112]
Mandela cũng là người ủng hộ cho Làng trẻ em SOS, tổ chức chuyên quyên tiền giúp đỡ trẻ em mồ côi và bị bỏ rơi lớn nhất thế giới.[113] Mandela cũng xuất hiện trong một đoạn quảng cáo cho Thế vận hội mùa đông 2006, và đã được trích dẫn trong chiến dịch Chúc mừng nhân loại của Ủy ban Olympic Quốc tế:[114]
For seventeen days, they are roommates. For seventeen days, they are soulmates. And for twenty-two seconds, they are competitors. Seventeen days as equals. Twenty-two seconds as adversaries. What a wonderful world that would be. That's the hope I see in the Olympic Games.Tạm dịch:
Trong mười bảy ngày, chúng ta là bạn hữu. Trong mười bảy ngày, chúng ta là tâm giao. Và trong mười hai giây, chúng ta là đối thủ. Mười bảy ngày bình đẳng. Mười hai giây đối địch. Thế giới như thế mới tuyệt vời làm sao. Đó là niềm hy vọng mà tôi thấy được trong Thế vận hội.
Sức khỏe
Tháng 7 năm 2001 Mandela được chẩn đoán bệnh ung thư tuyến tiền liệt và tiến hành chữa trị. Ông được xạ trị trong 7 tuần.[115] Năm 2003, Mandela bị CNN thông báo nhầm là đã chết khi bản cáo phó viết sẵn của ông (cùng với vài yếu nhân khác) do sơ xuất đã hiển thị trên website của CNN vì lỗi bảo vệ mật khẩu.[116] Vào năm 2007, một nhóm cánh tả không chính thống đã phổ biến email và tin nhắn SMS giả mạo nói rằng nhà chức trách đang giấu giếm cái chết của Mandela và những người Nam Phi da trắng sẽ bị tàn sát sau tang lễ của ông. Mandela lúc đó đang đi nghỉ tại Mozambique.[117]Tháng 6 năm 2004, ở tuổi 85, Mandela thông báo rằng ông sẽ không tham gia các hoạt động công cộng nữa. Sức khỏe của ông dần giảm sút, và ông muốn có nhiều thời gian hơn với gia đình. Mandela nói rằng không định cách ly hoàn toàn khỏi công chúng, nhưng muốn mình ở vị thế "sẽ gọi cho các bạn để hỏi xem tôi có được chào đón hay không, chứ không phải được mời làm các thứ và tham dự các sự kiện nữa. Lời thỉnh cầu của tôi là: Đừng gọi cho tôi, tôi sẽ gọi cho các bạn."[118] Từ năm 2003, ông ít xuất hiện trước công chúng hơn và ít phát ngôn trước các vấn đề.[119] Tóc ông bạc trắng và ông di chuyển chậm chạp với sự hỗ trợ của gậy. Cũng có báo cáo là ông đang bị chứng mất trí nhớ của người già.[120]
Sinh nhật lần thứ 90 của Mandela đã được tổ chức ở nhiều nơi khắp đất nước ngày 18 tháng 7 năm 2008, lễ mừng chính được tổ chức tại quê nhà Qunu của ông.[121] Một buổi hòa nhạc vinh danh ông cũng được tổ chức tại Hyde Park, Luân Đôn.[122] Trong buổi diễn văn kỷ niệm sinh nhật của mình, Mandela kêu gọi những người giàu hãy giúp đỡ người nghèo trên khắp thế giới.[121] Mặc dù vẫn ít xuất hiện trong suốt kỳ World Cup 2010 tại Nam Phi, Mandela cũng xuất hiện tại buổi bế mạc, tại đó ông đã được "chào đón nhiệt liệt".[123]
The Elders
Ngày 18 tháng 7 năm 2007, Nelson Mandela, Graça Machel, và Desmond Tutu tụ họp một nhóm các nhà lãnh đạo thế giới tại Johannesburg để đóng góp sự hiểu biết và khả năng lãnh đạo độc lập để giải quyết các vấn đề khó khăn nhất trên thế giới. Nelson Mandela thông báo lập nên một nhóm mới, The Elders, trong một bài diễn văn nhân sinh nhật lần thứ 89 của mình.[124]Tổng giám mục Tutu làm chủ tịch của The Elders. Các thành viên sáng lập nhóm bao gồm Graça Machel, Kofi Annan, Ela Bhatt, Gro Harlem Brundtland, Jimmy Carter, Lý Triệu Tinh, Mary Robinson và Muhammad Yunus.[125]
"Nhóm này có tiếng nói tự do và khẳng khái, hoạt động công khai lẫn hậu trường về bất cứ hành động nào cần thực hiện", Mandela nói. "Cùng với nhau chúng tôi sẽ hoạt động để ủng hộ lòng can đảm tại nơi có sợ hãi, nuôi dưỡng thỏa thuận tại nơi có tranh chấp, và truyền hy vọng tại nơi tuyệt vọng."[126]
Chống AIDS
Sau khi về hưu, một trong những sự quan tâm chính của Mandela là đấu tranh chống lại bệnh dịch AIDS. Ông đã có bài phát biểu bế mạc Hội nghị về AIDS Quốc tế lần thứ XIII năm 2000, tại Durban, Nam Phi.[127] Vào năm 2003, ông hỗ trợ bằng cách cho phép chiến dịch gây quỹ chống AIDS 46664 sử dụng số hiệu tù nhân của ông.[128] Tháng 7 năm 2004, ông bay tới Bangkok để phát biểu tại Hội nghị về AIDS Quốc tế lần thứ XV.[129] Con trai ông, Makgatho Mandela, chết vì bệnh AIDS vào ngày 6 tháng 1 năm 2005.[130]Phê phán chính sách ngoại giao của Mỹ và Anh
Nelson Mandela phản đối mạnh mẽ vụ can thiệp của NATO tại Kosovo năm 1999 và gọi đó là nỗ lực của các cường quốc nhằm kiểm soát thế giới.[131] Năm 2002 và 2003, Mandela chỉ trích chính sách ngoại giao của chính quyền Tổng thống Mỹ George W. Bush trong nhiều bài phát biểu.[132][133] Phê phán về việc thiếu sự tham gia của Liên Hiệp Quốc trong quyết định bắt đầu Chiến tranh Iraq, ông nói, "Đó là một bi kịch, những gì đang xảy ra, những gì Bush đang làm. Nhưng Bush giờ đây đang làm xói mòn Liên Hiệp Quốc." Mandela cho rằng ông chỉ ủng hộ hành động chống lại Iraq nếu đó là do Liên Hiệp Quốc ra lệnh. Mandela cũng nói bóng gió đến việc Liên Hiệp Quốc có lẽ đã bị ảnh hưởng bởi sự phân biệt chủng tộc vì đã không tuân theo ý kiến của Liên Hiệp Quốc và tổng thư ký Kofi Annan về vấn đề chiến tranh. "Có phải vì tổng thư ký Liên Hiệp Quốc hiện tại là một người da đen hay không? Họ không bao giờ làm vậy khi tổng thư ký là người da trắng".[134]Ông kêu gọi nhân dân Mỹ tham gia vào các cuộc biểu tình lớn chống lại Bush và kêu gọi các nhà lãnh đạo thế giới, đặc biệt là những nước có quyền phủ quyết trong Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc, phản đối Bush.[135] "Điều tôi lên án ở đây là chỉ một cường quốc, với một vị tổng thống không có óc chiến lược, người không thể nghĩ cho đúng đắn, giờ đang muốn đẩy thế giới vào một cuộc tàn sát." Ông tấn công Hoa Kỳ vì các thành tích xấu về nhân quyền và đã thả bom nguyên tử xuống Nhật Bản trong Chiến tranh thế giới II. "Nếu có một quốc gia có hành động tàn ác đến mức không thể diễn tả được bằng lời, đó là Hợp chúng quốc Hoa Kỳ. Họ bất cần."[134] Nelson Mandela cũng chê trách nặng nề Thủ tướng Anh Tony Blair và gọi ông là "ngoại trưởng của Mỹ."[136]
Tranh chấp với Ismail Ayob
Ismail Ayob từng là một người bạn tin cậy và là luật sư riêng của Mandela trong hơn 30 năm. Vào tháng 5 năm 2005, Ayob được Mandela yêu cầu dừng bán các ấn phẩm có chữ ký của Mandela và tính toán lại lợi nhuận thu được từ việc bán chúng. Tranh chấp này đã khiến Mandela đệ đơn lên Tòa án Tối cao Nam Phi vào năm đó.[137] Ayob cho rằng mình không làm điều gì sai trái,[138] và nói rằng ông là nạn nhân của một chiến dịch bôi nhọ do các cố vấn của Mandela, mà cụ thể là luật sư George Bizos, dựng lên.[139]Vào năm 2005 và 2006, Ayob và vợ con của ông trở thành đối tượng chỉ trích của các cố vấn của Mandela. Vụ tranh chấp này được truyền thông rộng rãi, với Ayob được mô tả ở vị thế phản diện, cao điểm là khi Mandela đệ đơn lên Tòa án Tối cao. Đã có những cuộc họp công khai trong đó những người thân cận của Mandela chỉ trích Ayob và công chúng còn kêu gọi tẩy chay Ayob và gia đình ông.[140] Lời biện hộ của Ismail và Zamila Ayob (vợ ông, và cũng là bị cáo liên quan) đưa ra các văn bản do Mandela ký và được các thư ký của ông làm chứng, từ đó bác bỏ nhiều lý lẽ của Nelson Mandela và các cố vấn.[141]
Tranh chấp này một lần nữa lại xuất hiện trên mặt báo vào tháng 2 năm 2007 khi trong một phiên tòa tại Tòa án Tối cao Johannesburg, Ayob hứa sẽ trả 700.000 rand cho Mandela, chuyển qua các quỹ vì trẻ em của Mandela, và gửi lời xin lỗi,[142] [143] mặc dù sau đó ông cho rằng ông là nạn nhân của "Sự trả thù" từ Mandela.[144] Một số nhà bình luận bày tỏ sự cảm thông cho vị thế của Ayob, nói rằng vị trí biểu tượng của Mandela khiến cho Ayob khó mà được đối xử một cách công bằng.[139]
Lý lẽ
Ayob, George Bizos và Wim Trengove là những người được ủy thác của Quỹ Ủy thác Nelson Mandela, được thành lập để cất giữ hàng triệu rand do các nhân vật kinh doanh nổi tiếng, trong đó có gia đình Oppenheimer, tặng cho Nelson Mandela vì lợi ích của con và cháu của ông.[145] Ayob sau này rút lui của Quỹ ủy thác. Vào năm 2006, hai người được ủy thác còn lại của Nelson Mandela Trust đã tố cáo Ayob đã chi tiêu tiền từ quỹ ủy thác mà không báo cho họ biết.[146] Ayob tuyên bố rằng số tiền này là để trả cho Dịch vụ Doanh thu Nam Phi, cho con và cháu của Mandela, cho chính Mandela, và trả cho bốn năm làm việc của công ty kế toán.[143]Bizos và Trengrove từ chối thông qua việc chi trả cho con cháu của Nelson Mandela và tiền trả cho công ty kế toán. Phiên tòa đã thỏa thuận rằng Ismail Ayob phải trả số tiền này, tổng cộng hơn 700.000 rand, cho quỹ ủy thác vì lẽ Ayob đã chưa được sự đồng ý của hai ủy thác viên khác trước khi dùng tiền.[147] Người ta cũng khẳng định là Ayob đã có những nhận xét phỉ báng Mandela trong bản khai, vì thế tòa cũng yêu cầu Ayob xin lỗi.[148] Người ta đã cho thấy các nhận xét này, tập trung vào các tài khoản ở nước ngoài của Nelson Mandela và việc không trả thuế cho các tài khoản này, không xuất phát từ lời khai của Ayob mà là từ chính lời khai của Nelson Mandela và George Bizos.[149]
Tranh cãi về Kim cương máu
Trong một bài viết trong báo The New Republic tháng 12 năm 2006, Nelson Mandela bị chỉ trích vì một số lời nhận xét tốt đẹp về ngành công nghiệp kim cương. Người ta lo ngại là điều này sẽ làm lợi cho những nhà cung cấp kim cương máu.[150] Trong bức thư gửi tới Edward Zwick, đạo diễn của bộ phim Kim cương máu, Mandela nói rằng:...sẽ cực kỳ đáng tiếc nếu bộ phim này vô tình sai sự thật, và kết quả là, khiến cho thế giới tin rằng cần phải có hành động thích hợp để ngưng việc mua kim cương được khai thác từ châu Phi.... Chúng tôi hy vọng rằng khát khao được kể một câu chuyện lịch sử về câu chuyện có thật hấp dẫn và quan trọng sẽ không dẫn đến sự mất ổn định tại các quốc gia sản xuất kim cương ở châu Phi, và cuối cùng là nhân dân các nước đó.[151]Bài báo trên New Republic nói rằng lời bình luận này, cũng như các sáng kiến và phát biểu trong cuộc đời ông và trong thời gian làm tổng thống Nam Phi, bị ảnh hưởng từ cả tình bạn với Harry Oppenheimer, cựu chủ tịch De Beers, lẫn từ quan điểm 'quyền lợi quốc gia hẹp hòi' của Nam Phi (là nhà sản xuất kim cương chính).[152]
Zimbabwe và Robert Mugabe
Robert Mugabe, tổng thống Zimbabwe, người đã lãnh đạo đất nước này từ khi độc lập năm 1980, đã nhận được nhiều lời chỉ trích trên thế giới vì trận đánh giết chết khoảng 3000 người vào thập niên 1980 cũng như tham nhũng, quản lý yếu kém, đàn áp chính trị và theo gia đình trị dẫn đến nền kinh tế nước này sụp đổ.[153][154]Mặc dù cùng xuất thân là những nhà hoạt động vì tự do quốc gia, Mandela và Mugabe ít khi được xem là gần gũi. Mandela chỉ trích Mugabe vào năm 2000, nhắc tới những nhà lãnh đạo châu Phi đã giải phóng đất nước họ nhưng khư khư giữ ghế quá lâu.[155][156] Khi về hưu, Mandela ít nhắc đến Zimbabwe và các vấn đề đối nội đối ngoại hơn,[119] đôi khi đưa đến chỉ trích là không biết sử dụng ảnh hưởng của mình để khuyến khích giảm bớt chính sách của mình.[157] Luật sư của ông George Bizos tiết lộ rằng Mandela đã được khuyên để giữ gìn sức khỏe ông phải tránh tham gia vào các hoạt động nhiều áp lực như các tranh cãi về chính trị.[158] Tuy nhiên, vào năm 2007, Mandela đã nỗ lực thuyết phục Mugabe rời chức "sớm hơn", với "chút ít chân giá trị còn lại", trước khi ông bị săn đuổi như Augusto Pinochet. Mugabe không phản ứng gì trước lời phát biểu này.[159] Vào tháng 6 năm 2008, ở cao trào khủng hoảng trong cuộc bầu cử tổng thống Zimbabwe, Mandela lên án "sự thất bại thảm hại của quyền lãnh đạo" tại Zimbabwe.[160]
Tôn vinh
Theo một bài viết trên tạp chí Newsweek, "Mandela đã có được một vị trí bất khả xâm phạm khi nhắc đến Nam Phi. Ông là nhà giải phóng dân tộc, vị cứu tinh, là Washington và Lincoln hòa lại làm một".[161]Tháng 11 năm 2009, Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc thông báo ngày sinh của Mandela, 18 tháng 7, sẽ được gọi là "Ngày Mandela" để ghi nhớ sự đóng góp của ông vào nền tự do của thế giới.[162]
Huân huy chương
Mandela đã nhận được nhiều giải thưởng của Nam Phi, nước ngoài và quốc tế, trong đó có Giải Nobel Hòa bình năm 1993 (cùng với Frederik Willem de Klerk),[163] được Nữ hoàng Elizabeth II trao Huân chương Công lao và Baliff Grand Cross của Huân chương Thánh John, Huân chương Tự do Tổng thống của George W. Bush.[164]Bản mẫu:Failed verification[165] Tháng 7 năm 2004, thành phố Johannesburg trao tặng danh hiệu cao nhất cho Mandela sự tự do của thành phố tại buổi lễ ở Orlando, Soweto.[166]Ông cũng thường nhận được sự tán dương khi đi ra nước ngoài. Trong chuyến thăm Canada năm 1998, 45.000 học sinh đã chào đón ông khi ông có bài phát biểu tại SkyDome, Toronto.[167] Vào năm 2001, ông là người còn sống đầu tiên trở thành Công dân danh dự của Canada (người nhận danh hiệu duy nhất trước đó là Raoul Wallenberg sau khi đã mất).[168] Khi còn ở Canada, ông cũng nhận Huân chương Canada, là một trong số ít người nước ngoài nhận được huân chương này.[169]
Năm 1981, ông đư5ơc trao Giải Bruno Kreisky. Năm 1988, ông đoạt Giải thưởng Sakharov của Nghị viện châu Âu và Giải Nhân quyền của Liên Hiệp Quốc. Năm 1990 ông nhận được Giải thưởng Bharat Ratna của chính phủ Ấn Độ và là người cuối cùng nhận được Giải thưởng Hòa bình Lenin của Liên Xô.[170] Vào năm 1992 ông được nhận Giải thưởng Hòa bình Atatürk của Thổ Nhĩ Kỳ. Ông đã từ chối giải thưởng vì cho rằng Thổ Nhĩ Kỳ lúc đó đang vi phạm nhân quyền,[171] nhưng đến năm 1999 thì chấp nhận giải thưởng[172] Vào năm 1992 ông nhận được Nishan-e-Pakistan, giải thưởng phục vụ cộng đồng cao nhất của Pakistan.[173] Năm 2004, ông được trao Giải Ý thức toàn cầu của Câu lạc bộ Budapest.
Bài hát ca ngợi
Nhiều nghệ sĩ đã viết bài hát và nhạc về Mandela. Một trong những nhóm nổi tiếng nhất là The Specials đã thu âm bài hát "Free Nelson Mandela" vào năm 1983. Stevie Wonder viết bài hát đã đoạt giải Oscar "I Just Called to Say I Love You" cho Mandela, dẫn đến bài này bị Hãng thông tấn Nam Phi cấm lưu hành.[174] Vào năm 1985, album Nelson Mandela của Youssou N'Dour là bản phát hành đầu tiên tại Mỹ của ca sĩ người Senegal này.Năm 1988, một buổi hòa nhạc Kỷ niệm ngày sinh lần thứ 70 của Mandela đã diễn ra tại Sân vận động Wembley ở Luân Đôn là trung tâm của phong trào chống chủ nghĩa apartheid, tại đó nhiều ca sĩ đã góp tiếng nói ủng hộ Mandela.[175] Jerry Dammers, tác giả của bài hát Nelson Mandela, là một thành viên trong ban tổ chức.[175] Simple Minds đã thu âm bài hát "Mandela Day" dành cho buổi hòa nhạc,[175] Santana đã thu âm bản giao hưởng "Mandela",[175] Tracy Chapman trình diễn bài "Freedom Now", dành tặng cho Mandela và phát hành album Crossroads,[175] Salif Keita đến từ Mali, có chơi ở buổi hòa nhạc, sau này có đến thăm Nam Phi và năm 1995 thu âm bài hát "Mandela" trong album Folon.[175]
Tại Nam Phi, "Asimbonanga (Mandela)" ("Chúng tôi chưa thấy ông") trở thành một trong những bài hát nổi tiếng nhất của Johnny Clegg, xuất hiện trong album Third World Child năm 1987.[176] Hugh Masekela, khi đó đang lưu vong ở Anh, đã hát bài "Bring Him Back Home (Nelson Mandela)" vào năm 1987.[177] Bài hát "Black President" vào năm 1989 của Brenda Fassie, cũng dành tặng Mandela, trở nên cực kỳ nổi tiếng dù nó bị cấm tại Nam Phi.[178] Nhạc sĩ nhạc reggae người Nigeria Majek Fashek đã phát hành đĩa đơn, "Free Mandela" vào năm 1992, đưa ông thành một trong nhiều nghệ sĩ Nigeria phát hành bài hát liên quan đến phong trào chống chủ nghĩa apartheid và đến Mandela.
Vào năm 1990, ban nhạc rock ở Hồng Kông Beyond đã ra mắt bài hát tiếng Quảng Đông nổi tiếng, "Days of Glory". Bài hát với chủ đề chống chủ nghĩa apartheid đã nhắc đến cuộc đấu tranh anh hùng của Mandela vì sự công bằng sắc tộc.[179] Nhóm Ladysmith Black Mambazo đã đi cùng với Mandela tới buổi trao Giải Nobel Hòa bình tại Oslo, Na Uy vào năm 1993, và trình diễn trong buổi nhậm chức năm 1994. Vào năm 2003, Mandela đồng ý đưa tên tuổi của ông vào chiến dịch 46664 chống lại căn bệnh AIDS, đặt theo số tù của ông. Nhiều nhạc sĩ nổi tiếng đã trình diễn trong các buổi hòa nhạc.[180]
Sơ lược tiểu sử của Mandela đã được chiếu trong bản video nhạc "If Everyone Cared" của Nickelback vào năm 2006.[181] Bài hát "Turn This World Around" của Raffi dựa trên bài diễn văn của Mandela khi ông giải thích thế giới cần phải "xoay vòng, vì những đứa trẻ".[182] Một buổi hòa nhạc kỷ niệm 90 năm ngày sinh của Mandela đã diễn ra tại Hyde Park, Luân Đôn ngày 27 tháng 6 năm 2008.[183]
Sách tiểu sử đã xuất bản
Tự truyện của Mandela, Long Walk to Freedom, được xuất bản vào năm 1994. Mandela đã bắt đầu viết cuốn sách này một cách bí mật khi ở trong tù.[184] Trong quyển sách này Mandela không tiết lộ điều gì về sự đồng lõa của F. W. de Klerk trong những vụ bạo lực xảy ra vào thập niên 80 và 90, hay vai trò của bà vợ cũ Winnie Mandela trong những vụ tắm máu đó. Tuy nhiên, ông sau này có cộng tác cùng với bạn ông, nhà báo Anthony Sampson bàn luận về các vấn đề này trong Mandela: The Authorised Biography.[185] Một chi tiết khác mà Mandela đã bỏ qua là cuốn sách có phần giả mạo Goodbye Bafana.[186] Tác giả của nó, cai ngục James Gregory trên đảo Robben, nhận mình là bạn tâm tình của Mandela trong tù và đã xuất bản những chi tiết về những vụ yêu đương trong gia đình của người tù.[186] Sampson luôn nói rằng Mandela không biết rõ Gregory lắm, nhưng có thể Gregory đã kiểm duyệt những bức thư gửi cho Mandela nên khám phá ra những chi tiết về đời tư của Mandela. Sampson cũng quả quyết rằng các cai ngục khác nghi ngờ Gregory là mật thám của chính phủ và Mandela đang xem xét việc kiện Gregory.[187]Điện ảnh và truyền hình
Bộ phim Mandela and De Klerk kể lại câu chuyện phóng thích Mandela.[188] Mandela do Sidney Poitier đóng vai. Goodbye Bafana, một bộ phim phóng sự nói về cuộc đời của Mandela, ra mắt tại liên hoan phim Berlin ngày 11 tháng 2 năm 2007. Bộ phim có diễn viên Dennis Haysbert đóng vai Mandela và diễn tả tình bạn trong tù giữa Mandela và James Gregory.[189]Trong loạt chương trình truyền hình Mỹ The Cosby Show cháu nội của Cliff và Claire Huxtable được đặt theo tên của Nelson và Winnie để tôn vinh Mandela và bà vợ khi đó của ông Winnie.
Trong cảnh cuối năm 1992 bộ phim Malcolm X, Mandela – vừa được phóng thích sau 27 năm ở tù – đóng vai thầy giáo trong một lớp học Soweto.[190] Ông nhắc lại một phần bài diễn văn nổi tiếng nhất của Malcolm X, trong đó có câu: "Chúng ta sinh ra trên Trái Đất với quyền làm người, phải được tôn trọng như một con người, được trao những quyền của một con người trong xã hội này, trên Trái Đất này, vào ngày này, điều chúng ta muốn đưa thành hiện thực..." Đoạn cuối nổi tiếng của câu đó là "bằng bất cứ giá nào."[191] Mandela đã thông báo với đạo diễn Spike Lee rằng ông không thể đọc câu này trước máy quay vì sợ chính quyền apartheid sẽ dùng nó chống lại ông. Lee đã rất biết ơn, và những giây cuối cùng của bộ phim là đoạn phim trắng đen của chính Malcolm X đọc câu này.[191]
Mandela và đội trưởng Springboks, Francois Pienaar, là chủ đề của cuốn sách năm 2008 của John Carlin, Playing the Enemy: Nelson Mandela and the Game that Made a Nation,[192] trong đó nhấn mạnh vai trò của chiến thắng trong Giải rugby vô địch thế giới 1995 tại Nam Phi thời hậu apartheid. Carlin bán quyền làm phim cho Morgan Freeman.[193] Bộ phim này, có tên Invictus,[194] được đạo diễn bởi Clint Eastwood, trong đó Freeman đóng vai Nelson Mandela và Matt Damon vai Pienaar.[193]
Tượng đài
Vào ngày 30 tháng 4 năm 2001, Khu vườn Nelson Mandela ở Quảng trường Thiên niên kỷ, Leeds đã chính thức khai trương và Nelson Mandela được tặng giải sự tự do của thành phố và được tặng một 'con cú vàng' (biểu tượng của Leeds) làm kỷ niệm. Trong bài phát biểu bên ngoài Đại sảnh Leeds trước 5000 người, Mandela đã cảm ơn nhầm 'nhân dân Liverpool vì sự hào phóng của các bạn'.[195]Vào ngày 31 tháng 3 năm 2004, Quảng trường Sandton ở Johannesburg được đổi tên thành Quảng trường Nelson Mandela, sau khi người ta dựng bức tượng Nelson Mandela cao 6 mét ở quảng trường để vinh danh nguyên thủ Nam Phi của mình.[196]
Vào ngày 29 tháng 8 năm 2007, một bức tượng Nelson Mandela được khánh thành tại Quảng trường Nghị viện ở Luân Đôn bởi Richard Attenborough, Ken Livingstone, Wendy Woods, và Gordon Brown.[197] Chiến dịch dựng tượng bắt đầu vào năm 2000 bởi Donald Woods, một nhà báo Nam Phi lưu vong vì tham gia phong trào chống chủ nghĩa apartheid. Mandela nói rằng nó đại diện cho không chỉ ông, mà còn cho những ai đang chống lại áp bức, đặc biệt tại Nam Phi.[198] Ông nói thêm: "Lịch sử đấu tranh tại Nam Phi đầy những câu chuyện về các nam nữ anh hùng, một số họ là nhà lãnh đạo, một số là người ủng hộ. Tất cả họ đều xứng đáng được ghi nhớ."[199]
Vào ngày 27 tháng 8 năm 2008, một bức tượng của Nelson Mandela được khánh thành tại Trại cải tạo Drakenstein Groot giữa Paarl và Franshhoek trên đường R301, gần Cape Town. Trước đây có tên Victor Verster, đây là nơi Mandela trải qua những năm cuối cùng trong thời gian 27 năm ở tù, khi ông và các đồng chí ở ANC đã thương thảo với chính quyền apartheid về những điều khoản để ông được tự do và bản chất của nước Nam Phi mới. Bức tượng được đặt ngay nơi Mandela bước bước đi đầu tiên với tư thế một người tự do. Ngay bên ngoài cổng tù – đỉnh điểm của Long Walk to Freedom – tên tự truyện của Mandela.[200][201]
Sau Trận động đất Loma Prieta năm 1989 phá hủy phần Cầu cạn đường Cypress của Xa lộ Nimitz tại Oakland, California, thành phố đã đổi tên con đường này và đặt tên là Mandela Parkway.
Tại Leicester, nước Anh, có một Công viên Nelson Mandela với khẩu hiệu "Nam Phi thuộc về tất cả những ai sống tại đó, dù Trắng hay Đen".
Các câu nói
Về Thể thao- "Thể thao là phương tiện hữu hiệu có khả năng làm thay đổi cục diện thế giới, là công cụ hữu ích cho tương quan thân hữu và nền hòa bình của thế giới..." [3]
Chú thích
- ^ a ă “Nelson Mandela - Biography”. Nobelprize.org. The Nobel Foundation. 1993. Truy cập ngày 30 tháng 4 năm 2009.
- ^ Mandela 1996, trang 16, 17
- ^ a ă “South Africa: Celebrating Mandela At 90”. AllAfrica.com. 17 tháng 7 năm 2008. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ Kopkind, Andrew (16 tháng 3 năm 1990). “Book Review - Higher than Hope”. Entertainment Weekly. Time Inc. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ a ă Mafela, Munzhedzi James (tháng 10 năm 2008). “The revelation of African culture in Long Walk to Freedom”. Indigenous Biography and Autobiography. Australian National University. Truy cập ngày 18 tháng 7 năm 2009.
- ^ “President of South Africa: Nelson Mandela”. Chalre Associates. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.[[]][liên kết hỏng]
- ^ a ă â Aikman (2003), pp 70–71
- ^ a ă â Mandela, Nelson (2006). Mandela: The Authorized Portrait. Kansas City, Mo.: Andrews McMeel Pub. tr. 13. ISBN 0-7407-5572-2. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2008.
- ^ Mandela 1996, p.7
- ^ a ă â b c Mandela, Nelson (1994). Long Walk to Freedom. Little, Brown and Company.
- ^ Mandela 1996, p. 9. "Không ai trong gia đình tôi đi học cả [...] Trong ngày nhập học, cô giáo của tôi, cô Mdingane, đặt cho mỗi đứa một cái tên tiếng Anh. Hồi đó đây là thông lệ của người châu Phi và rõ ràng nó thể hiện xu hướng thiên về tiếng Anh trong nền giáo dục mà chúng tôi thụ hưởng. Hôm đó, cô Mdingane bảo với tôi tên mới của tôi sẽ là Nelson. Tại sao cô lại đặt cho tôi tên này, tôi cũng không biết nữa."
- ^ a ă “Mandela celebrates 90th birthday”. BBC. 17 tháng 7 năm 2008. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ “Healdtown Comprehensive School”. Historic Schools Project: South Africa. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ Mandela 1996, pp. 18-19.
- ^ a ă Mandela 1996, pp. 10, 20.
- ^ a ă “Nelson Mandela Biography - Early Years”. Nelson Mandela Foundation. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ “Nelson Mandela Children's Fund - Organise”. Nelson Mandela Children's Fund. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ “The 1948 election and the National Party Victory”. South African History Online. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ “The Defiance Campaign”. African National Congress. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ “Congress of the People, 1955”. African National Congress. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ Callinicos, Luli (2004). Oliver Tambo: Beyond the Engeli Mountains. New Africa Books. tr. 173. ISBN 0864866666.
- ^ Mandela, Nelson (3 tháng 1 năm 2000). “The Sacred Warrior”. Time 100: The Most Important People of the Century. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2008.
- ^ Bhana, Surendra; Vahed, Goolam (2005). The Making of a Political Reformer: Gandhi in South Africa, 1893–1914. tr. 149.
- ^ Bhalla, Nita (29 tháng 1 năm 2007). “Mandela calls for Gandhi's non-violence approach”. Reuters. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2008.
- ^ “Nelson Mandela's Testimony at the Treason Trial 1956-60”. African National Congress. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ a ă â “ANC - Statement to the Truth and Reconciliation Commission”. African National Congress. Tháng 8 năm 1996. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ Shillington, Kevin (2005). Encyclopedia of African History. CRC Press. tr. 1449. ISBN 1579582451.
- ^ “The Freedom Charter”. African National Congress. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ SACP Salutes Walter Sisulu
- ^ Leeman, Bernard (1996). Trong Alexander, Peter; Hutchison, Ruth; Schreuder, Deryck. The PAC of Azania in Africa Today. The Humanities Research Centre, The Australian National University Canberra: The Australian National University Canberra. ISBN 07315 24918.
- ^ “Umkhonto is Born”. African National Congress. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ a ă â Whittaker, David J. (2003). The Terrorism Reader . Routledge. tr. 244. ISBN 0415301017.
- ^ “Tell me about the bomb at the brickworks - Frontline The Long Walk of Nelson Mandela”. PBS.
- ^ a ă Mandela, Nelson (20 tháng 4 năm 1964). “"I am Prepared to Die" — Nelson Mandela's statement from the dock at the opening of the defence case in the Rivonia Trial”. African National Congress. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2008.
- ^ “Mandela admits ANC violated rights, too”. Financial Times. 2 tháng 11 năm 1998.
- ^ “BBC News: US shamed by Mandela terror link”. 10 tháng 4 năm 2008.
- ^ “Mandela taken off US terror list”. BBC News. 1 tháng 7 năm 2008. Truy cập ngày 1 tháng 7 năm 2008.
- ^ “5 August - This day in history”. The History Channel. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ Blum, William. “How the CIA sent Nelson Mandela to prison for 28 years”. Third World Traveller. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2008.
- ^ Stein, Jeff (14 tháng 11 năm 1996). “Our Man in South Africa”. Salon.com. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2008.
- ^ Weiner, Tim (2007). Legacy of Ashes. Penguin Group. tr. 362. ISBN 978-1-846-14046-4.
- ^ Katwala, Sunder (11 tháng 2 năm 2001). “The Rivonia Trial”. The Guardian. London. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ a ă “ANC Lilliesleaf Farm arrests”. South African History Online. 11 tháng 7 năm 1963. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ Mandela, Nelson (20 tháng 4 năm 1964). “An ideal for which I am prepared to die”. The Guardian. London. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ a ă “The Sharpeville Massacre”. TIME. 4 tháng 4 năm 1960. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ “Manifesto of Umkhonto we Sizwe”. African National Congress. 16 tháng 12 năm 1961. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2008.
- ^ “Rivonia Trial Papers”. Aluka. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ a ă â “Toward Robben Island: The Rivonia Trial”. African National Congress. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ “Mandela's jail overrun by rabbits”. BBC. 15 tháng 10 năm 2008. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ “A monument to Mandela: the Robben Island years”. The Independent (London: Independent Print Limited). 2 tháng 9 năm 2007. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ “Political prisoner recalls time on Robben Island”. The Michigan Daily. 17 tháng 10 năm 2002. Truy cập ngày 9 tháng 3 năm 2010.
- ^ Holmes, Steven A. (22 tháng 6 năm 1994). “Robben Island Journal; South Africa Ponders Fate of Apartheid's Bastille”. NY Times. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ a ă Kathrada, Ahmed; Mandela, Nelson (2004). Memoirs. Zebra. tr. 246. ISBN 1868729184.
- ^ a ă “The Big Read: Nelson Mandela: a living legend”. Daily Observer. 25 tháng 7 năm 2008. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ a ă Winter, Gordon (1981). Inside BOSS. Penguin Books.
- ^ Hallengren, Anders (11 tháng 9 năm 2001). “Nelson Mandela and the Rainbow of Culture”. Nobelprize.org. The Nobel Foundation. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 8 năm 2008. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ a ă â b Sparks, Allister (1994). Tomorrow is Another Country. Struik.
- ^ Cowell, Alan (1 tháng 2 năm 1985). “South Africa hints at conditional release for jailed black leaders”. NY Times. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ “Mandela's response to being offered freedom”. ANC. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ “Key Dates in South African History”. Nelson Mandela Children's Fund. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ “Free Nelson Mandela”. ANC. Tháng 7 năm 1988. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ “PW Botha, unrepentant defender of apartheid, dies aged 90”. The Independent (London: Independent Print Limited). 1 tháng 11 năm 2006. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ Malam, John (2002). The Release of Nelson Mandela: 11 February 1990. Cherrytree Books. ISBN 1842341030.
- ^ http://icrc.org/web/eng/siteeng0.nsf/html/south-africa-feature-020709 South Africa: commemorating 150 years since the battle of Solferino
- ^ http://icrc.org/web/eng/siteeng0.nsf/htmlall/5pkj9a Nelson Mandela: Red Cross a "beacon of humanity" for political prisoners
- ^ “1990: Freedom for Nelson Mandela”. BBC. 11 tháng 2 năm 1990. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ Ormond, Roger (12 tháng 2 năm 1990). “Mandela free after 27 years”. The Guardian. London. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ a ă “Nelson Mandela's address to Rally in Cape Town on his Release from Prison”. ANC. 11 tháng 2 năm 1990. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ “A Crime Against Humanity - Analysing the Repression of the Apartheid State”. South African History Online. Truy cập ngày 23 tháng 12 năm 2008.
- ^ “Profile of Nelson Rolihlahla Mandela”. African National Congress. Truy cập ngày 8 tháng 5 năm 2007.
- ^ “Boipatong Massacre”. African National Congress. 18 tháng 6 năm 1992. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2008.
- ^ “Chris Hani assassinated. (Obituary)”. Social Justice. Truy cập ngày 23 tháng 12 năm 2008.
- ^ “Statement of the President of the ANC, Nelson Mandela on the assassination of Martin Chris Hani”. 10 tháng 4 năm 1993. Truy cập ngày 23 tháng 12 năm 2008.
- ^ “Mandela becomes SA's first black president”. BBC. 10 tháng 5 năm 1994. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2008.
- ^ “The Nobel Peace Prize 1993 - Presentation Speech”. Nobelprize.org. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ “Mandela rallies Springboks”. BBC Sport. 6 tháng 10 năm 2003. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ Carlin, John (19 tháng 10 năm 2007). “How Nelson Mandela won the rugby World Cup”. The Daily Telegraph (London). Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ Khumalo, Fred (5 tháng 8 năm 2004). “How Mandela changed SA fashion”. BBC. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ Thai, Bethuel (4 tháng 10 năm 1998). “Lesotho to hold re-elections within 15 to 18 months”. Lesotho News Online. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2008.
- ^ Sampson, Anthony (6 tháng 7 năm 2003). “Mandela at 85”. The Observer. London. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2008.
- ^ Robinson, Simon (11 tháng 4 năm 2007). “The Lion In Winter”. Time. Time Inc. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2008.
- ^ “Can Mandela's AIDS Message Pierce the Walls of Shame?”. Peninsula Peace and Justice Center. 9 tháng 1 năm 2005. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2008.
- ^ Quist-Arcton, Ofeibea (19 tháng 7 năm 2003). “South Africa: Mandela Deluged With Tributes as He Turns 85”. AllAfrica.com. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2008.
- ^ “Mandela's stark Aids warning”. BBC News. 1 tháng 12 năm 2000. Truy cập ngày 23 tháng 12 năm 2008.
- ^ Wines, Michael (7 tháng 1 năm 2005). “Mandela, Anti-AIDS Crusader, Says Son Died of Disease”. NY Times. Truy cập ngày 23 tháng 12 năm 2008.
- ^ Brown, Derek (31 tháng 1 năm 2001). “Lockerbie trial: what happened when”. The Guardian. London. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ McGreal, Chris (11 tháng 5 năm 1999). “Mandela shies away from global role in retirement”. The Guardian. London. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ “Families say SA trial site acceptable”. Dispatch. 27 tháng 10 năm 1997. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2008.
- ^ “Mandela's parting shot at Major over Lockerbie”. The Guardian. 11 tháng 5 năm 1999. tr. 13.
- ^ “Analysis: Lockerbie's long road”. BBC. 31 tháng 1 năm 2001. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2008.
- ^ “Mandela appeals on behalf of Lockerbie bomber”. London: guardian.co.uk. 10 tháng 6 năm 2002. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2008.
- ^ “Lockerbie bomber 'leaves solitary confinement'”. The Daily Telegraph (London). 25 tháng 2 năm 2005. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ “Mandela backs Lockerbie decision”. bbc online. Truy cập ngày 30 tháng 8 năm 2009.
- ^ Soszynski, Henry. “Genealogical Gleanings”. University of Queensland. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2008.
- ^ “Nelson Mandela - Timeline”. Nelson Mandela Foundation. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ “Mandela's life and times”. BBC. 16 tháng 7 năm 2008. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ “Madiba bids final farewell to his first wife”. Independent Online. Independent News & Media. 8 tháng 5 năm 2004. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ “Nelson Mandela Biography - Black History”. Biography.com. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ “UWC - Presidents and Patrons”. United World Colleges. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 5 năm 2008. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ Smith, Charlene; Tutu, Desmond (2004). Mandela: In Celebration of a Great Life. Struik. tr. 41. ISBN 1868728285.
- ^ Timberg, Craig (7 tháng 1 năm 2005). “Mandela Says AIDS Led to Death of Son”. The Washington Post (The Washington Post Company). Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2010.
- ^ a ă â “Winnie Mandela”. ANC. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2008.
- ^ “Nelson and Winnie Mandela divorce; Winnie fails to win $5 million settlement.”. Jet. 8 tháng 4 năm 1996. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2008.
- ^ “Swaziland prince and princess attend Boston University”. WGBH Boston. 13 tháng 5 năm 1987. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2008.
- ^ “Daddy Stayed In Jail. That Was His Job'; Zenani Mandela's Life Without Father”. The Washington Post. The Washington Post Company. 8 tháng 11 năm 1987. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2008.
- ^ a ă “AILA International Fellows Program”. Center for Strategic & International Studies. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2008.
- ^ “Zondwa Gadaffi Mandela”. Aurora Empowerment Systems. Truy cập ngày 20 tháng 9 năm 2009.
- ^ “Mandela gets married on 80th birthday”. CNN. 18 tháng 7 năm 1998. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2008.
- ^ Ngcukana, Lubabalo. “andela, Kaunda honour king”. Daily Dispatch. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2008.
- ^ de Bruyne, Marnix. “Zuidelijk Afrika”. Netherlands Institute for Southern Africa. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2008.
- ^ “2005: The year of Make Poverty History”. Make Poverty History. Truy cập ngày 1 tháng 5 năm 2007.
- ^ “SA's best to join international stars for charity”. Nelson Mandela Invitational. 5 tháng 9 năm 2007. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2008.
- ^ “Nelson Mandela”. SOS Children's Villages. Truy cập ngày 1 tháng 8 năm 2008.
- ^ “Celebrate Humanity 2004” (PDF). International Olympic Committee. 2004. Truy cập ngày 1 tháng 5 năm 2007.
- ^ “Mandela 'responding well to treatment'”. BBC. 15 tháng 8 năm 2001. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2008.
- ^ “The Smoking Gun: Archive”. The Smoking Gun. 2003. Truy cập ngày 1 tháng 5 năm 2007.
- ^ Groenewald, Yolandi; Joubert, Pearlie (2 tháng 3 năm 2007). “Not yet uhuru”. Mail & Guardian.
- ^ “"I'll call you"”. SouthAfrica.info. 2 tháng 6 năm 2004. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2008.
- ^ a ă Carroll, Rory (18 tháng 7 năm 2006). “Mandela keeps his opinions to himself as a nation marks its idol's birthday”. The Guardian (London). Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2008.
- ^ “Is Nelson Mandela Losing His Memory?”. Who2.com. 7 tháng 12 năm 2009.
- ^ a ă “Nelson Mandela Celebrates 90th Birthday by Urging Rich to Help Poor”. Fox News. 18 tháng 7 năm 2008. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2008.
- ^ Bingham, John (6 tháng 5 năm 2008). “Hyde Park concert to mark Mandela's 90th”. The Independent. London: Independent Print Limited. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2008.
- ^ http://www.guardian.co.uk/world/2010/jul/11/nelson-mandela-world-cup-final
- ^ “Mandela joins ‘Elders’ on turning 89”. MSNBC. 20 tháng 7 năm 2007. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2008.
- ^ “Mandela launches The Elders”. SAinfo. 19 tháng 7 năm 2007. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2008.
- ^ “Nelson Mandela announces The Elders”. The Elders. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 4 năm 2008. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2008.
- ^ Paul Tebas, MD, "Closing Ceremony," http://www.thebody.com/content/art16140.html
- ^ “About 46664”. 46664.com. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2008.
- ^ “XV International AIDS Conference - Daily Coverage”. Kaisernetwork. 15 tháng 7 năm 2004. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2008.
- ^ “Mandela's eldest son dies of Aids”. BBC. 6 tháng 1 năm 2005. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2008.
- ^ [1]
- ^ “Mandela warns Bush over Iraq”. BBC. 1 tháng 9 năm 2002. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2008.
- ^ Cornwell, Rupert (31 tháng 1 năm 2003). “Mandela lambastes 'arrogant' Bush over Iraq”. The Independent. London: Independent Print Limited. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2008.
- ^ a ă Fenton, Tom (30 tháng 1 năm 2003). “Mandela Slams Bush On Iraq”. CBS. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2008.
- ^ “Mandela Slams Bush On Iraq”. CBS News. 30 tháng 1 năm 2003. Truy cập ngày 23 tháng 12 năm 2008.
- ^ [2]
- ^ Chanda, Abhik Kumar (10 tháng 5 năm 2005). “Mandela sues over forged sketches”. Mail & Guardian. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2008.
- ^ Mabuza, Ernest (13 tháng 7 năm 2005). “Ayob denies gain from Mandela art”. Business Day. Bản gốc lưu trữ ngày 31 tháng 3 năm 2008. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2008.
- ^ a ă Moya, Fikile-Notsikelelo (5 tháng 8 năm 2005). “Poor Ismail Ayob”. Mail & Guardian. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2008.
- ^ Keet, Jacques (21 tháng 7 năm 2005). “Courts 'have final word on Mandela-Ayob clash'”. Business Day. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 1 năm 2008. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2008.
- ^ Mabuza, Ernest (18 tháng 7 năm 2005). “Bizos behind vicious campaign to discredit, defame me — Ayob”. Business Day. Bản gốc lưu trữ ngày 31 tháng 3 năm 2008.
- ^ “Ayob to pay back Mandela money”. News24. 27 tháng 2 năm 2007. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2008.
- ^ a ă Gordin, Jeremy (4 tháng 3 năm 2007). “What caused the Ayob, Mandela spat?”. Sunday Independent (Independent News & Media). Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2008.
- ^ Schmidt, Michael (3 tháng 3 năm 2007). “Mandela waging a vendetta - Ayob”. Pretoria News.
- ^ “Mandela's lawyers take Ismail to court over money”. Mail & Guardian. 25 tháng 2 năm 2007. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2008.
- ^ Sefara, Makhudu; Mapiloko, Jackie (3 tháng 3 năm 2007). “Madiba set me up, says Ayob”. News24. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2008.
- ^ Adams, Sheena (8 tháng 7 năm 2006). “'Ayob tried to cover up unlawful spending'”. IOL. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2008.
- ^ Mkhwanazi, Siyabonga (28 tháng 2 năm 2007). “Lawyer to pay back R800000 to Mandela trust”. Pretoria News (South Africa). Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2008.
- ^ Mabuza, Ernest (10 tháng 3 năm 2007). “Ayob Runs Out of Cash But Accuses Mandela Again”. Business Day. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2008.
- ^ Bates, Rob (22 tháng 6 năm 2006). “Nelson Mandela to speak out for diamond industry”. Jewelers' Circular Keystone. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2008.
- ^ “Half Nelson - Mandela, diamond shill”. The New Republic. 8 tháng 12 năm 2006. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 3 năm 2007. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2008.
- ^ Snead, Elizabeth (15 tháng 6 năm 2006). “Mandela to defend De Beers from bad "Blood"”. LA Times. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2008.
- ^ Chimuka, Garikai (14 tháng 5 năm 2008). “Gukurahundi and current wave of violence similar”. The Zimbabwe Times. Truy cập ngày 26 tháng 10 năm 2008.
- ^ Winter, Joseph (13 tháng 3 năm 2002). “Mugabe's descent into dictatorship”. BBC. Truy cập ngày 26 tháng 10 năm 2008.
- ^ “Mandela expresses anger at Mugabe”. The Namibian. 8 tháng 5 năm 2000. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 6 năm 2008. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2008.
- ^ “Mandela repudiates Mbeki on AIDS stance”. CNN. 29 tháng 9 năm 2000. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2008.
- ^ Hentoff, Matt (23 tháng 5 năm 2003). “Where is Nelson Mandela?”. The Village Voice. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2008.
- ^ Trapido, Michael (10 tháng 6 năm 2008). “Why has Nelson Mandela remained silent on Zimbabwe?”. Thought Leader. Truy cập ngày 25 tháng 6 năm 2008.
- ^ “Mugabe snubs Mandela”. News24. 5 tháng 11 năm 2007. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2010.
- ^ “Failure of leadership in Zim - Mandela”. News24. 25 tháng 6 năm 2008. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2010.
- ^ Father Disfigure by Eve Fairbanks, Newsweek Magazine, 27 August 2009
- ^ “UN gives backing to 'Mandela Day'”. BBC News. 11 tháng 11 năm 2009. Truy cập ngày 11 tháng 11 năm 2009.
- ^ “The Nobel Peace Prize 1993”. Nobelprize.org. Truy cập ngày 26 tháng 10 năm 2008.
- ^ “The Order of Merit”. Royal Insight. Tháng 11 năm 2002. Truy cập ngày 26 tháng 10 năm 2008.Bản mẫu:Failed verification
- ^ “President Honors Recipients of the Presidential Medal of Freedom”. The White House. 9 tháng 7 năm 2002. Truy cập ngày 26 tháng 10 năm 2008.
- ^ “Madiba conferred freedom of Johannesburg”. Gauteng Provincial Government. 27 tháng 7 năm 2004. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 6 năm 2008. Truy cập ngày 26 tháng 10 năm 2008.
- ^ “Mandela and the Children”. Rooney Productions. Truy cập ngày 26 tháng 10 năm 2008.
- ^ “Mandela to be honoured with Canadian citizenship”. CBC News. 19 tháng 11 năm 2001. Truy cập ngày 26 tháng 10 năm 2008.
- ^ “Order of Canada - Nelson Mandela, C.C.”. Governor General of Canada. Truy cập ngày 26 tháng 10 năm 2008.
- ^ “Bharat Ratna Award”. National Portal of India. Truy cập ngày 26 tháng 10 năm 2008.
- ^ “Statement on the Ataturk Award given to Nelson Mandela”. African National Congress. 12 tháng 4 năm 1992. Truy cập ngày 2 tháng 1 năm 2007.
- ^ “Mandela changes his mind”. Turkish Press Review. 7 tháng 1 năm 1999. Truy cập ngày 2 tháng 1 năm 2007.
- ^ “Mandela in Pakistan”. The Independent (London: Independent Print Limited). 3 tháng 10 năm 1992. Truy cập ngày 7 tháng 6 năm 2010.
- ^ “Stevie Wonder Music Banned in South Africa”. The New York Times. 27 tháng 3 năm 1985. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2008.
- ^ a ă â b c d Ketchum, Mike. “The Mandela Concert, Wembley 1988”. African National Congress. Truy cập ngày 23 tháng 12 năm 2008.
- ^ Drewett, Michael; Cloonan, Martin (2006). Popular Music Censorship in Africa. Ashgate Publishing. tr. 30. ISBN 0754652912.
- ^ Guernsey, Otis L.; Sweet, Jeffrey; Kronenberger, Louis (21 tháng 5 năm 2008). The Best Plays. University of Michigan. tr. 347. ISBN 1557830401.
- ^ “Brenda Fassie dies”. BBC. 2004. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2008.
- ^ Lee, Carmen (16 tháng 6 năm 2003). “20 Years Ago Today”. Time. Truy cập ngày 27 tháng 5 năm 2008.
- ^ Sherrod, Lonnie R. (2006). Youth Activism: An International Encyclopedia. Greenwood Press. tr. 62. ISBN 0313328129.
- ^ Lamb, Bill. “Nickelback - If Everyone Cared”. About. Truy cập ngày 23 tháng 12 năm 2008.
- ^ Trussell, Jeff. “Freedom Hero: Nelson Mandela”. The My Hero Project. Truy cập ngày 23 tháng 12 năm 2008.
- ^ “Mandela's 90th birthday year celebrates diversity of ideas”. Nelson Mandela Foundation. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2008.
- ^ Mandela 1996, p. 144-148.
- ^ Ann, Talbot (5 tháng 8 năm 1999). “Biography falls short of penetrating myth surrounding ANC leader”. International Committee of the Fourth International (ICFI). Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ a ă Gilbey, Ryan (14 tháng 5 năm 2007). “Whitewashed and watered down”. New Statesman. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ Sampson, Anthony (1999). Mandela: The Authorised Biography. HarperCollins. tr. 217.
- ^ Keller, Bill. “Mandela and de Klerk (1997)”. The New York Times. Truy cập ngày 26 tháng 10 năm 2008.
- ^ “Goodbye Bafana - Sypnosis”. Goodbye Bafana - Official site. Truy cập ngày 26 tháng 10 năm 2008.
- ^ Cunningham, Matthew (3 tháng 6 năm 2004). “Creme cameos”. The Guardian. London. Truy cập ngày 26 tháng 10 năm 2008.
- ^ a ă Guerrero, Ed (1993). Framing Blackness: The African American Image in Film. Temple University Press. tr. 202. ISBN 1566391261.
- ^ Carlin, John (2008). Playing the Enemy: Nelson Mandela and the Game that Made a Nation. New York: Penguin Press. ISBN 978-1-59420-174-5
- ^ a ă Keller, Bill. - "Entering the Scrum". - The New York Times Book Review. - 17 August 2008.
- ^ “The cast of the World Cup film revealed!”. Planet Rugby. 24 tháng 12 năm 2008. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2009.
- ^ Ian Herbert North (1 tháng 5 năm 2001). “Mandela vindicates 'loony left' of Leeds for honouring struggle”. The Independent (London: Independent Print Limited). Truy cập ngày 24 tháng 1 năm 2008.
- ^ “S. Africa renames Sandton Square as Nelson Mandela Square”. Xinhua News Agency. 31 tháng 3 năm 2004. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ “Nelson Mandela statue is unveiled”. BBC News. 29 tháng 8 năm 2007. Truy cập ngày 23 tháng 12 năm 2008.
- ^ “Broad Parliamentary Support for Trafalgar Square Mandela statue”. London. 21 tháng 5 năm 2003. Truy cập ngày 23 tháng 12 năm 2008.
- ^ “Mandela salutes apartheid heroes”. News24. 29 tháng 8 năm 2007. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2008.
- ^ Stern, Jennifer (27 tháng 8 năm 2008). “Long walk immortalised in bronze”. Media Club South Africa. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2009.
- ^ “Nelson Mandela statue unveiled in Cape Town”. Nelson Mandela Foundation. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2009.
Tài liệu
- [[David Aikman|Aikman, David]] (2003). Great Souls: Six Who Changed a Century. Lexington Books. ISBN 0739104381.
- Mandela, Nelson (1996). The Illustrated Long Walk to Freedom. Paul Duncan (abridgement and picture editing). Boston: Little, Brown and Company. ISBN 0316880205.
Đọc thêm
- A Prisoner in the Garden: Opening Nelson Mandela's Prison Archive. Penguin Books. 2005. ISBN 0-143-02495-7.
- Desmond Tutu; edited by John Allen. (1996). The Rainbow People of God: The Making of a Peaceful Revolution. Doubleday. ISBN 978-0385-48374-2.
- Benson, Mary. Nelson Mandela: The Man and the Movement.
- Bezdrob, Anne Marie du Preez (2006). The Nelson Mandela Story. Samoja Books. ISBN 0-620-36570-6.
- Denenberg, Barry. Nelson Mandela: No Easy Walk To Freedom.
- Hoobler, Dorothy; Hoobler, Thomas (1992). Mandela: The Man, The Struggle, The Triumph. New York: Franklin Watts. ISBN 978-0531152454.
- Juckes, Tim (1995). Opposition in South Africa: The Leadership of Matthews, Nelson Mandela, and Stephen Biko. Westport: Praeger Publishers.
- Mandela, Nelson (1995). Long Walk to Freedom. Little, Brown and Company. ISBN 0-316-54818-9.
- Meredith, Martin. Nelson Mandela: A Biography.
- Sampson, Anthony (1999). Mandela: The Authorised Biography. New York: Vintage Books. ISBN 0-679-78178-1.
- Smith, Charlene. Mandela: In Celebration of a Great Life.
- Stengel, Richard (2009). Mandela's Way: Fifteen Lessons on Life, Love, and Courage. Crown. ISBN 978-0307460684.
- Villa-Vicencio, Charles (1996). The Spirit of Freedom. Berkeley: University of California Press.
Liên kết ngoài
Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về Nelson Mandela |
- Nelson Mandela – Biography at Nobelprize.org
- Nelson Mandela Foundation
- Nelson Mandela Children's Fund
- Nelson Mandela Children's Fund (Canada)
- Time 100 profile
- Mandela: An Audio History
- Mandela: Son of Africa, Father of a Nation Documentary & Soundtrack
- The Elders
- The Art of Nelson Mandela
- CBC Digital Archives – Nelson Mandela: Prisoner, president, peacemaker
- Nelson Mandela: A Hero's Way - Life magazine
- Martin Meredith: Nelson Mandela: A Biography - Interview May 2010
|
Wikimedia Commons có thêm thể loại hình ảnh và phương tiện truyền tải về Nelson Mandela |
http://www.youtube.com/user/hoangkimvietnam
Trở về trang chính
Hoàng Kim, hoangkim, hoangkimvietnam, Ngọc Phương Nam, Chào ngày mới Thung dung, Dạy và học, Cây Lương thực, Tin Nông nghiệp Việt Nam, Food Crops, Cassava in Vietnam, Khát khao xanh, Dayvahoc,Học mỗi ngày, Danh nhân Việt , Food Crops News, Điểm chính, CNM365, Kim LinkedIn, KimTwitter, KimFaceBook Đọc lại và suy ngẫm, Việt Nam tổ quốc tôi, Tình yêu cuộc sống, Thơ cho con
No comments:
Post a Comment