CNM365 Chào ngày mới 14 tháng 8. Wikipedia Ngày này năm xưa. Ngày Độc lập tại Pakistan năm 1947 (hình) . Năm 1848 – Quốc hội Hoa Kỳ thông qua đạo luật thành lập chính quyền Lãnh thổ Oregon. Năm 1900 – Liên quân tám nước (hình) tổng công kích kinh đô Bắc Kinh của triều Thanh nhằm dập tắt Khởi nghĩa Nghĩa Hòa Đoàn, Quang Tự Đế chạy trốn. Năm 1921 – Với sự hỗ trợ của Liên Xô, Đường Nỗ Ô Lương Hải tuyên bố độc lập khỏi Trung Quốc và lập nên Cộng hòa Nhân dân Tuva. Năm 1974 – Nguyên mẫu máy bay ném bom Panavia Tornado tiến hành chuyến bay đầu tiên từ căn cứ không quân Manching, Tây Đức.
Pakistan
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Cộng hoà Hồi giáo Pakistan | |||||
---|---|---|---|---|---|
اسلامی جمہوریۂ پاکستان (tiếng Urdu) Islāmī Jamhūriya-i-Pākistān (tiếng Urdu) |
|||||
|
|||||
Khẩu hiệu | |||||
Iman, Ittehad, Nazm (tiếng Urdu: "Thống nhất, Kỷ luật, Đức tin") |
|||||
Quốc ca | |||||
Qaumi Tarana | |||||
Hành chính | |||||
Chính phủ | Cộng hòa nghị viện | ||||
Tổng thống Thủ tướng |
Asif Ali Zardari Yousaf Raza Gillani |
||||
Ngôn ngữ chính thức | tiếng Urdu và tiếng Anh | ||||
Thủ đô | Islamabad |
||||
Thành phố lớn nhất | Karachi | ||||
Địa lý | |||||
Diện tích | 880.254 km² (hạng 34) | ||||
Diện tích nước | 3,1% % | ||||
Múi giờ | PST (UTC+5) | ||||
Lịch sử | |||||
từ Anh 14 tháng 8 năm 1947 |
Tuyên bố | ||||
23 tháng 3 năm 1956 | Cộng hoà Hồi giáo | ||||
Dân cư | |||||
Dân số ước lượng (2012) | 190.291.129[1] người (hạng 6) | ||||
Mật độ | 186 người/km² (hạng 42) | ||||
Kinh tế | |||||
GDP (PPP) (2007) | Tổng số: 475,6 tỷ đô la Mỹ | ||||
HDI (2003) | 0,527 trung bình (hạng 135) | ||||
Đơn vị tiền tệ | Rupee Pakistan (Rs.) (PKR ) |
||||
Thông tin khác | |||||
Tên miền Internet | .pk |
Pakistan có bờ biển dài 1,046 km (650 mi) dọc theo Biển Ả Rập và Vịnh Oman ở phía nam; phía tây giáp Afghanistan và Iran; phía đông giáp Ấn Độ; cực đông bắc giáp Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa.[6] Tajikistan cũng nằm rất gần với Pakistan nhưng bị ngăn cách bởi Hành lang Wakhan hẹp. Vì thế, nước này nằm trên ngã tư đường giữa Nam Á, Trung Á và Trung Đông.[7]
Vùng tạo thành nước Pakistan hiện đại từng là trung tâm của nền Văn minh lưu vực sông Ấn cổ đại và sau này là nơi lĩnh hội các nền văn hoá Vệ Đà, Ba Tư, Ấn-Hy Lạp, Turk-Mông Cổ và Hồi giáo. Vùng này đã chứng kiện những cuộc xâm lược và/hay định cư của người Ấn-Aryan, Ba Tư, Hy Lạp, Ả Rập, Thổ, Afghan, Mông Cổ, Sikh và Anh.[8]
Ngoài Phong trào độc lập Ấn Độ yêu cầu một nước Ấn Độ độc lập, Phong trào Pakistan (dưới sự lãnh đạo của Muhammad Ali Jinnah thuộc Liên đoàn Hồi giáo), cũng tìm kiếm một nền độc lập cho Ấn Độ, tìm kiếm một nhà nước độc lập cho đa số dân cư Hồi giáo ở các vùng phía đông và phía tây của Ấn Độ thuộc Anh. Người Anh đã trao độc lập và cũng thành lập một nhà nước đa số Hồi giáo Pakistan gồm các tỉnh Sindh, Tỉnh biên giới Tây Bắc, Tây Punjab, Balochistan và Đông Bengal. Với việc thông qua hiến pháp năm 1956, Pakistan trở thành một nước Cộng hoà Hồi giáo. Năm 1971, một cuộc nội chiến bùng phát ở Đông Pakistan dẫn tới việc thành lập Bangladesh.
Lịch sử Pakistan có đặc điểm bởi những giai đoạn cai trị quân sự và bất ổn chính trị. Pakistan là một quốc gia đang phát triển phải đối mặt với các vấn đề tỷ lệ đói nghèo và mù chữ cao. Nước này là nước đông dân thứ sáu trên thế giới và có cộng đồng dân số Hồi giáo đứng hàng thứ hai thế giới sau Indonesia.[9][10][11][12][13][14][15][16] Pakistan có số dân theo dòng Hồi giáo Shia đứng thứ hai thế giới.[11]. Đây là quốc gia hạt nhân có đa số dân là tín đồ Hồi giáo duy nhất trên thế giới. Pakistan là một thành viên của Khối thịnh vượng chung, các nền kinh tế Next Eleven và D8.
Mục lục
Từ nguyên
Cái tên Pakistan (phát âm tiếng Urdu: [paːkɪsˈtaːn] ( )) có nghĩa vùng đất của (sự) Thanh khiết trong tiếng Urdu và tiếng Ba Tư (Farsi). Nó được Choudhary Rahmat Ali gọi là Pakstan vào năm 1934 trong cuốn sách mỏng Bây giờ hay Không bao giờ của ông.[17] Cái tên là một từ kết hợp đại diện cho "ba mươi triệu người Hồi giáo PAKISTAN, đang sống ở các Khu vực phía Bắc của British Raj — Punjab, Afghania (bây giờ được gọi là Tỉnh biên giới Tây Bắc), Kashmir, Sindh, và Balochistan."[18]Lịch sử
Các làn sóng người chinh phục và di cư từ phía tây - gồm cả người Harappan, Ấn-Aryan, Ba Tư, Hy Lạp, Saka, Parthia, Kushan, Hephthalite, Afghan, Ả Rập, Turk và Mughal - đã tới định cư trong vùng trong nhiều thế kỷ, ảnh hưởng tới người dân địa phương và bị hấp thụ vào bên trong họ.[20] Các đế chế cổ ở phía đông – như Đế chế Nanda, Maurya, Sunga, Gupta, và Pala – đã cai trị những lãnh thổ này ở những khoàng thời gian khác nhau từ Patliputra.
Tuy nhiên, ở giai đoạn trung cổ, khi các tỉnh phía đông của Punjab và Sindh dần liên kết với nền văn minh Ấn Độ-Hồi giáo, các khu vực phía tây về văn hoá trở thành đồng minh của nền văn minh Iran của Afghanistan và Iran.[21] Vùng này là ngã tư của các con đường thương mại lịch sử, gồm cả Con đường tơ lụa, và như một cảng vào cho con đường thương mại ven biển giữa Lưỡng Hà và kéo dài tới La Mã ở phía tây và Malabar và tới tận Trung Quốc ở phía đông.
Pakistan ngày nay từng là trung tâm của nền Văn minh Châu thổ sông Ấn; đã sụp đổ hồi giữa thiên niên kỷ thứ hai trước Công nguyên và tiếp đó là Văn minh Vệ Đà, cũng mở rộng hầu hết các đồng bằng Ấn-Hằng. Các đế chế và vương quốc cổ đại nối tiếp nhau cai trị vùng này: đế chế Ba Tư Achaemenid[22] khoảng năm 543 trước Công nguyên, đế chế Hy Lạp do Alexander Đại đế thành lập[23] năm 326 trước Công nguyên và đế chế Maurya sau đó.
Vương quốc Ấn-Hy Lạp do Demetrius của Bactria thành lập gồm cả Gandhara và Punjab từ năm 184 trước Công nguyên, và đạt tới tầm vóc lớn nhất dưới thời Menander, thành lập nên giai đoạn Hy Lạp-Phật giáo với những tiến bộ trong thương mại và văn hoá. Thành phố Taxila (Takshashila) trở thành một trung tâm học thuật chính ở những thời cổ đại – tàn tích của thành phố, nằm ở phía tây Islamabad, là một trong những địa điểm khảo cổ chính của đất nước. Triều đại Rai (khoảng 489–632) của Sindh, ở thời cực thịnh, đã cai trị vùng này và các lãnh thổ xung quanh.
Năm 712 sau Công Nguyên, vị tướng Ả Rập Muhammad bin Qasim[24] đã chinh phục Sindh và Multan ở Punjab phía nam. Biên niên sử chính thức của chính phủ Pakistan nói rằng "sự thành lập của nó đã được sắp đặt" như một kết quả của cuộc chinh phục này.[25] Thắng lợi này của người Ả Rập và Hồi giáo sẽ lập ra một giai đoạn của nhiều đế chế Hồi giáo nối tiếp nhau ở Nam Á, gồm cả Đế chế Ghaznavid, Vương quốc Ghorid, Vương quốc Hồi giáo Delhi và Đế chế Mughal. Trong giai đoạn này, các nhà truyền giáo Sufi đóng một vai trò then chốt trong việc cải đạo đa số tín đồ Phật giáo và dân cư Hindo trong vùng sang Hồi giáo.
Sự suy tàn lần lần của Đế chế Mughal đầu thế kỷ 18 mang lại cơ hội cho những người Afghan, Balochis và Sikh nắm quyền ảnh hưởng trên những khu vực rộng lớn cho tới khi Công ty Đông Ấn Anh[26] giành được uy thế ở Nam Á. Cuộc Nổi dậy Ấn Độ năm 1857, cũng được gọi là Binh biến Ấn Độ, là cuộc đấu tranh vũ trang lớn cuối cùng chống lại Raj Anh, và nó lập ra những nền tảng cho cuộc đấu tranh phi vũ trang dưới sự lãnh đạo của Đảng Quốc đại Ấn Độ trong thế kỷ 19. Trong thập niên 1920 và 1930, một phong trào dưới sự lãnh đạo của Mahatma Gandhi, thể hiện cam kết ahimsa, hay bất bạo động, hàng triệu người phản kháng đã tham gia vào các chiến dịch bất tuân dân sự rộng lớn.[27]
Liên đoàn Hồi giáo Toàn Ấn giành được sự ủng hộ của dân chúng cuối thập niên 1930 giữa những lo ngại về sự lơ đãng và không chú tâm của tín đồ Hồi giáo với chính trị. Ngày 29 tháng 12 năm 1930, bài diễn văn của Allama Iqbal đã kêu gọi cho một "nhà nước tự trị ở tây bắc Ấn Độ cho các tín đồ Hồi giáo Ấn Độ, bên trong cơ cấu chính trị của Ấn Độ."[28] Muhammad Ali Jinnah tán thành Lý thuyết Hai Nhà nước và lãnh đạo Liên đoàn Hồi giáo thông qua Nghị quyết Lahore năm 1940, thường được gọi là Nghị quyết Pakistan. Đầu năm 1947, Anh thông báo quyết định chấm dứt cai trị Ấn Độ. Tháng 6 năm 1947, các lãnh đạo quốc gia của Ấn Độ thuộc Anh - gồm cả Nehru và Abul Kalam Azad thay mặt cho Đảng Quốc đại, Jinnah đại diện cho Liên đoàn Hồi giáo và Master Tara Singh đại diện cho người Sikhs - đồng ý các điều khoản được đề xuất của việc chuyển giao quyền lực và độc lập.
Nhà nước Pakistan hiện đại được thành lập ngày 14 tháng 8 năm 1947 (27 Ramadan 1366 theo Lịch Hồi giáo), cắt ra hai khu vực đa số Hồi giáo ở phía đông và phía tây bắc của Ấn Độ thuộc Anh và gồm các tỉnh Balochistan, East Bengal, Tỉnh biên giới Tây Bắc, Tây Punjab và Sindh. Sự tranh cãi, sai thời điểm, phân chia các tỉnh Punjab và Bengal đã gây ra các vụ bạo động cộng đồng trên khắp Ấn Độ và Pakistan – hàng triệu người Hồi giáo đã dời sang Pakistan và hàng triệu người Hindus và người Sikhs đã phải sang Ấn Độ. Những cuộc tranh cãi gia tăng về nhiều vương quốc hoàng thân gồm cả Jammu và Kashmir đa số Hồi giáo, nơi nhà cai trị người Hindu đã nhượng nó cho Ấn Độ sau một cuộc xâm lược của các chiến binh bộ tộc Pashtun, dẫn tới cuộc Chiến tranh Kashmir lần thứ nhất năm 1948.
Từ năm 1947 đến năm 1956, Pakistan là một lãnh thổ tự trị bên trong Khối thịnh vượng chung. Nó trở thành một nhà nước Cộng hoà năm 1956, nhưng quyền cai trị dân sự đã bị ngừng lại sau một cuộc đảo chính của Tướng Ayub Khan, người nắm chức tổng thống trong giai đoạn 1958–69, một giai đoạn bất ổn bên trong và một cuộc chiến tranh thứ hai với Ấn Độ năm 1965. Người kế nhiệm ông, Yahya Khan (1969–71) phải giải đương đầu với một trận bão có sức tàn phá mạnh — làm 500.000 người chết ở Đông Pakistan— và cũng phải đối mặt với một cuộc nội chiến năm 1971. Những sự bất bình về kinh tế và bất đồng về chính trị ở Đông Pakistan dẫn tới một tình trạng căng thẳng chính trị và bạo lực và sự đàn áp quân sự leo thang trở thành một cuộc nội chiến.[29] Sau chín tháng chiến tranh du kích giữa Quân đội Pakistan và quân du kích Belgan Mukti Bahini được Ấn Độ ủng hộ, sau này sự can thiệp của Ấn Độ leo thang thành cuộc Chiến tranh Ấn Độ-Pakistani năm 1971, và cuối cùng là sự ly khai của Đông Pakistan trở thành nhà nước Bangladesh độc lập.[30]
Quyền cai trị dân sự ở Pakistan được tái lập từ năm 1972 tới năm 1977 dưới thời Zulfikar Ali Bhutto, cho tới khi ông bị hạ bệ và bị kết án tử hình năm 1979 bởi Tướng Zia-ul-Haq, người trở thành tổng thống quân sự thứ ba của đất nước. Zia đưa ra bộ luật hình sự Hồi giáo Sharia, tăng cường ảnh hưởng của tôn giáo trong đời sống dân sự và quân sự. Khi Tổng thống Zia chết trong một tai nạn máy bay năm 1988, Benazir Bhutto, con gái của Zulfikar Ali Bhutto, được bầu làm nữ Thủ tướng đầu tiên của Pakistan. Trong thập kỷ tiếp theo bà phải đấu tranh cho quyền lực với Nawaz Sharif khi tình hình chính trị và kinh tế trong nước ngày càng xấu đi. Pakistan tham gia vào cuộc Chiến tranh Vùng Vịnh năm 1991và gửi 5,000 quân như một phần của liên quân dưới sự lãnh đạo của Mỹ, để bảo vệ Ả Rập Saudi.[31]
Những căng thẳng quân sự trong cuộc xung đột Kargil[32] với Ấn Độ được tiếp nối bằng một cuộc đảo chính quân sự Pakistan năm 1999[33] trong đó tướng Pervez Musharraf đã nắm quyền hành pháp tuyệt đối. Năm 2001, Musharraf trở thành Tổng thống sau vụ từ chức gây tranh cãi của Rafiq Tarar. Sau cuộc bầu cử nghị viện năm 2002, Musharraf chuyển giao quyền hành pháp cho Thủ tướng mới được bầu là Zafarullah Khan Jamali, ông được Shaukat Aziz kế vị sau cuộc bầu cử thủ tướng năm 2004. Ngày 15 tháng 11 năm 2007 Quốc hội hoàn thành nhiệm kỳ và cuộc bầu cử mới được kêu gọi. Các lãnh đạo chính trị lưu vong Benazir Bhutto và Nawaz Sharif được cho phép quay trở lại Pakistan. Tuy nhiên, vụ ám sát Benazir Bhutto trong chiến dịch tranh cử tháng 12 đã dẫn tới sự trì hoãn bầu cử và những cuộc nổi loạn khắp đất nước. Đảng Nhân dân Pakistan (PPP) của bà Butto giành nhiều ghế nhất trong cuộc bầu cử được tổ chức tháng 2 năm 2008 và một thành viên của đảng này Yousaf Raza Gillani đã tuyên thệ nhậm chức Thủ tướng.[34] Ngày 18 tháng 8 năm 2008, Pervez Musharaff từ chức tổng thống khi phải đối mặt với cuộc luận tội.[35] Hiện tại, (ở thời điểm cuối năm 2009), hơn 3 triệu người Pakistan đã phải dời bỏ nhà cửa vì cuộc xung đột đang diễn ra ở Tây Bắc Pakistan giữa chính phủ và các chiến binh Taliban.[36]
Chính phủ và chính trị
Nghị viện lưỡng viện gồm Thượng viện 100 thành viên và một Quốc hội với 342 thành viên. Tổng thống là Nguyên thủ quốc gia và Tổng tư lệnh các lực lượng vũ trang và được bầu bởi một ban bầu cử. Thủ tướng thường là lãnh đạo đảng lớn nhất trong Quốc hội. Mỗi tỉnh có một hệ thống chính phủ tương tự với một nghị viện Tỉnh được bầu trực tiếp trong đó lãnh đạo đảng hay liên minh lớn nhất trở thành thủ hiến (Chief Minister). Các thống đốc tỉnh do Tổng thống chỉ định.[37]
Quân đội Pakistan đã đóng một vai trò ảnh hưởng trên trường chính trị trong suốt lịch sử Pakistan, với các vị tổng thống quân sự cầm quyền từ 1958–71, 1977–88 và từ 1999–2008.[38] Đảng Nhân dân Pakistan cánh tả, dưới sự lãnh đạo của Zulfikar Ali Bhutto, đã giành được sự ủng hộ sau khi Bangladesh ly khai nhưng đã bị lật đổ sau những cuộc bạo động năm 1977.[39] Dưới sự cai trị quân sự của Muhammad Zia-ul-Haq, trong thập niên 1980, Phong trào Muttahida Qaumi (MQM) chống phong kiến, ủng hộ Muhajir khởi đầu như một đảng của tầng lớp dân cư đô thị dị giáo và có giáo dục cao người Sindh và đặc biệt ở Karachi. Một cuộc nổi dậy ở Balochistan đã bị thống đốc Rahimuddin đàn áp bằng quân sự.[40] Thập niên 1990 có đặc điểm là các liên minh chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng Nhân dân Pakistan và một Liên đoàn Hồi giáo đổi mới.[37]
Pakistan là một thành viên tích cực của Liên hiệp quốc (UN) và Tổ chức Hội nghị Hồi giáo (OIC), tổ chức mà Pakistan đã sử dụng như một diễn đàn cho Khai sáng Điều độ, một kế hoạch khuyến khích một sự phục hưng và khai sáng trong thế giới Hồi giáo.[37] Pakistan cũng là một thành viên của Hiệp hội Hợp tác Vùng Nam Á (SAARC) và Tổ chức Hợp tác Kinh tế (ECO).[37] Trong quá khứ, Pakistan có những quan hệ pha trộn với Hoa Kỳ; đầu thập niên 1950, Pakistan là "đồng minh thân cận nhất tại châu Á" của Hoa Kỳ[41] và là một thành viên của cả Tổ chức Hiệp ước Trung tâm (CENTO) và Tổ chức Hiệp ước Đông Nam Á (SEATO).
Trong cuộc Chiến tranh Xô viết tại Afghanistan hồi thập niên 1980 Pakistan là một đồng minh chính của Hoa Kỳ.[cần dẫn nguồn] Nhưng các quan hệ đã xấu đi trong thập niên 1990, khi những lệnh cấm vận được Hoa Kỳ áp đặt vì Pakistan từ chối từ bỏ các hoạt động hạt nhân của mình.[42] Tuy nhiên, Cuộc chiến chống Khủng bố của Hoa Kỳ, một hậu quả của những vụ tấn công ngày 11 tháng 9 năm 2001 tại Mỹ, đã dẫn tới một sự cải thiện trong quan hệ Hoa Kỳ–Pakistan, đặc biệt sau khi Pakistan chấm dứt sự hỗ trợ của họ cho chế độ Taliban tại Kabul. Thái độ hợp tác của Pakistan được minh chứng bằng sự gia tăng viện trợ quân sự lớn của Mỹ, cung cấp cho Pakistan nhiều hơn $4 tỷ trong ba năm sau các vụ tấn công ngày 9/11 so với trước đó.[43] Mặt khác, Pakistan hiện đang có gánh nặng 3 triệu người phải dời bỏ nhà cửa bởi cuộc chiến tranh đang diễn ra ở Afghanistan. Từ năm 2004, Pakistan đã được Hoa Kỳ gọi là một phần của Đại Trung Đông.[44]
Ngày 18 tháng 2 năm 2008, Pakistan tổ chức cuộc tổng tuyển cử sau khi vụ ám sát Benazir Bhutto đã làm trì hoãn ngày dự định trước đó là mùng 8 tháng 1 năm 2008.[45] Đảng Nhân dân Pakistan giành đa số phiếu và thành lập một liên minh với Liên đoàn Hồi giáo Pakistan (N). Họ chỉ định và bầu Yousaf Raza Gilani làm Thủ tướng Pakistan.[46] Ngày 18 tháng 8 năm 2008, Pervez Musharraf từ chức Tổng thống Pakistan giữa những lời kêu gọi ngày càng gia tăng về việc luận tội ông.[47] Trong cuộc bầu cử tổng thống diễn ra sau đó, Asif Ali Zardari thuộc Đảng Nhân dân Pakistan giành một thắng lợi lớn và trở thành Tổng thống Pakistan.[48]
Phân chia hành chính
Tỉnh | Lãnh thổ |
---|---|
Balochistan | Lãnh thổ Thủ đô Islamabad |
Khyber Pakhtunkhwa | Các khu vực Hành chính Bộ lạc Liên bang (tiếng Anh: Federally Administered Tribal Areas) bao gồm Các khu vực Biên giới (tiếng Anh:Frontier Regions) |
Punjab | Azad Jammu và Kashmir |
Sindh | Gilgit-Baltistan |
Nhân khẩu
Đa số dân cư miền nam Pakistan sống dọc theo Sông Indus. Theo mức độ dân số, Karachi là thành phố lớn nhất Pakistan.[56] Ở nửa phía bắc, hầu hết dân số sống trong một vành đai được tạo thành bởi các thành phố Lahore, Faisalabad, Rawalpindi, Islamabad, Gujranwala, Sialkot, Gujrat, Jhelum, Sargodha và Sheikhupura. Trong quá khứ, dân số nước này từng có tỷ lệ tăng khá lớn, tuy nhiên đã giảm vì tỷ lệ sinh giảm. Những thay đổi xã hội lớn đã dẫn tới sự đô thị hoá nhanh chóng và sự xuất hiện của các siêu thành phố. Trong thời kỳ 1990–2003, Pakistan duy trì được vị thế lịch sử như là quốc gia đô thị hoá nhất ở Nam Á, với dân cư thành thị chiếm 36% dân số.[57]
Pakistan có một xã hội đa văn hoá và đa sắc tộc và là nơi tiếp đón một trong những cộng đồng người tị nạn lớn nhất thế giới cũng như một dân số trẻ. Xấp xỉ 1.7 triệu người tị nạn Afghanistan đang ở Pakistan.[58] Gần một nửa số người này thực tế ra đời và lớn lên ở Pakistan trong 30 năm qua, vì thế họ chưa từng nhìn thấy Afghanistan.[59][60] Họ không được tính đến trong các cuộc điều tra dân số quốc gia, thậm chí với cả người ra đời tại Pakistan, bởi họ vẫn bị coi là các công dân Afghanistan. Khoảng 8 triệu người Muhajir khi ấy chiếm một phần tư dân số đất nước tới từ Ấn Độ sau khi nước này độc lập năm 1947.[61] Người Muhajir nói tiếng Urdu chiếm gần một nửa trong số 17 triệu dân Karachi,[62] người Punjabi và Pashtun cũng là những cộng đồng đáng kể trong thành phố này.[63] Bản mẫu:Danh sách thành phố Pakistan theo dân số
Ngôn ngữ
Hạng | Ngôn ngữ | Ước tính 2008: Người sử dụng | Điều tra dân số năm 1998: Người sử dụng | Phần trăm | Người sử dụng như tiếng mẹ đẻ |
---|---|---|---|---|---|
1 | Punjabi | 76,367,360 | 58,433,431 | (44.15%) | Punjab |
2 | Pashto | 26,692,890 | 20,408,621 | (15.42%) | NWFP |
3 | Sindhi | 24,410,910 | 18,661,571 | (14.1%) | Sindh |
4 | Seraiki | 18,019,610 | 13,936,594 | (10.53%) | Nam Punjab |
5 | Urdu | 13,120,540 | 10,019,576 | (7.57%) | Karachi |
6 | Balochi | 6,204,840 | 4,724,871 | (3.57%) | Balochistan |
7 | Khác | 8,083,850 | 6,167,515 | (4.66%) | Pakistan |
8 | Tổng | 172,900,000 | 132,352,279 | (100%) | Pakistan |
Tiếng Punjabi là ngôn ngữ cấp tỉnh của Punjab. Tiếng Pashto là ngôn ngữ cấp tỉnh của NWFP. Tiếng Sindhi là ngôn ngữ cấp tỉnh của Sindh và tiếng Balochi là ngôn ngữ cấp tỉnh của Balochistan.
Các ngôn ngữ khác gồm Aer, Badeshi, Bagri, Balti, Bateri, Bhaya, Brahui, Burushaski, Chilisso, Dameli, Dehwari, Dhatki, Domaaki, Farsi (Dari), Gawar-Bati, Ghera, Goaria, Gowro, Gujarati, Gujari, Gurgula, Hazaragi, Hindko (hai loại), Jadgali, Jandavra, Kabutra, Kachchi (Kutchi), Kalami, Kalasha, Kalkoti, Kamviri, Kashmiri, Kati, Khetrani, Khowar, Indus Kohistani, Koli (ba loại), Lasi, Loarki, Marwari, Memoni, Od, Ormuri, Pahari-Potwari, Ngôn ngữ Ký hiệu Pakistan, Palula (Phalura), Sansi, Savi, Shina (hai loại), Torwali, Ushojo, Vaghri, Wakhi, Waneci, và Yidgha.[65] Một số trong số các ngôn ngữ đó đang gặp nguy cơ biến mất với một số người sử dụng khá nhỏ và những ngôn ngữ khác có hàng trăm nghìn người sử dụng.
Đa số các ngôn ngữ thuộc nhánh Ấn-Iran của ngữ hệ Ấn-Âu. Các ngoại trừ là Burushaski, là một ngôn ngữ tách biệt; Balti, là Trung-Tạng; và Brahui, là Dravidian.
Tôn giáo
Thống kê tôn giáo của đất nước như sau[20]:
- Hồi giáo 173,000,000 (96%) (gần 70% là tín đồ Hồi giáo Sunni và 20% là Hồi giáo Shi'a).
- Ấn Độ giáo 3,200,000 (1.85%)
- Ki-tô giáo 2,800,000 (1.6%)
- Đạo Sikh khoảng 20,000 (0.001%)
- Số còn lại là Parsis, Hồi giáo Ahmadi, Phật giáo, Do Thái, Bahá'ís, và vật linh (chủ yếu là Kalasha của Chitral).[67]
Sức khoẻ
Tuổi thọ khi sinh là 63 với nữ và 62 với nam năm 2006.[68] Tuổi thọ khoẻ mạnh khi sinh là 54 cho nam và 52 cho nữ năm 2003.[68] Expenditure on health was at 2% of the GDP in 2006.[68] Tỷ lệ tử dưới 5 tuổi ở mức 97 trên 1,000 ca sinh sống năm 2006.[68]Quân đội
Quân đội Pakistan lần đầu tham chiến trong cuộc Chiến tranh Kashmir lần thứ nhất, giành được quyền kiểm soát vùng hiện là Azad Kashmir. Năm 1961, quân đội đã đẩy lui một cuộc tiến công bất ngờ của Afghanistan vào biên giới phía tây Pakistan.[69] Pakistan và Ấn Độ một lần nữa tham chiến năm 1965 và năm 1971. Năm 1973, quân đội đã tiêu diệt một cuộc nổi dậy quốc gia Baloch. Trong cuộc chiến tranh Xô viết-Afghanistan, Pakistan đã bắn hạ nhiều máy bay của lực lượng Afghanistan ủng hộ Liên xô và cung cấp hỗ trợ bí mật cho lực lượng mujahideen Afghanistan thông qua cơ quan Inter-Services Intelligence. Năm 1999, Pakistan tham gia vào cuộc xung đột Kargil với Ấn Độ. Hiện tại, quân đội nước này đang tham gia vào một cuộc xung đột vũ trang với các chiến binh Hồi giáo cực đoan ở phía tây bắc đất nước.
Các lực lượng vũ trang Pakistan đã tham gia vào các nỗ lực gìn giữ hoà bình của Liên hiệp quốc, với hơn 10,000 quân được triển khai năm 2007[70], và hiện là nước đóng góp lớn nhất. Trong quá khứ, binh sĩ Pakistan đã tình nguyện phục vụ cùng với các lực lượng Ả Rập trong các cuộc xung đột với Israel. Pakistan cung cấp một đội quân cho liên minh được Liên hiệp quốc ủng hộ trong cuộc Chiến tranh vùng Vịnh lần thứ nhất.[71]
Quân đội Pakistan sử dụng nhiều loại vũ khí gồm cả vũ khí hạt nhân, các hệ thống tên lửa đạn đạo di động, các hệ thống thông tin laser, xe bọc thép và xe tăng, máy bay phản lực chiến đấu/ném bom đa nhiệm.
Đầu thế kỷ 21, Pakistan bị cáo buộc đã nhận hàng tỷ dollar để chiến đấu chống chủ nghĩa khủng bố, trong khi cùng lúc đó lại cung cấp nơi trú ẩn an toàn cho một số những kẻ cực đoan Hồi giáo nguy hiểm nhất, gồm cả lãnh đạo al-Qa'ida Osama bin Laden và lãnh đạo Taliban Afghanistan Mullah Omar [72].
Địa lý và khí hậu
Các cao nguyên phía bắc và phía tây Pakistan gồm các dãy núi Karakoram và Pamir cao ngất, gồm cả một số những đỉnh cao nhất thế giới, như K2 (28,250 ft; 8,611 m) và Nanga Parbat (26,660 ft; 8,126 m). Cao nguyên Balochistan nằm ở phía tây, và sa mạc Thar và một sự mở rộng của các đồng bằng bồi đắp, Punjab và Sind, nằm ở phía đông. Sông Indus dài 1,609 km (1,000 dặm) và các phụ lưu của nó chảy xuyên qua đất nước từ vùng Kashmir vào Biển Ả Rập.[74]
Pakistan có bốn mùa: một mùa đông lạnh và khô từ tháng 12 đến tháng 2; một mùa xuân nóng và khô từ tháng 3 đến tháng 5; mùa hè nhiều mưa, hay giai đoạn gió mùa tây nam, từ tháng 6 đến tháng 9; và giai đoạn gió mùa rút đi từ tháng 10 đến tháng 11. Sự bắt đầu và quá trình của các mùa này hơi khác biệt tuỳ theo địa điểm.[75] Lượng mưa có thể khác biệt rất nhiều tuỳ theo năm, và những mô hình kế lụt và hạn hán kế tiếp nhau cũng không hiếm thấy.[76]
Hệ động thực vật
Ở phía nam, có cá sấu sinh sống tại các vùng nước tối tại cửa sông Indus trong khi trên các bờ sông, có các loài lợn lòi, hươu, nhím, và các loài gặp nhấm nhỏ sinh sống. Tại các vùng đất cây bụi cát ở trung Pakistan có chó sói, linh cầu, mèo rừng, báo còn trên trời có các loài chim ưng, diều hâu và đại bàng. Ở các sa mạc phía tây nam có các loài báo Cheetah châu Á sinh sống. Ở những vùng núi phía bắc có nhiều loài thú quý đang gặp nguy hiểm gồm cừu Marco Polo, cừu Urial, dê Markhor và Ibex, gấu đen và gấu xám Himalaya, và loài báo tuyết quý hiếm. Trong tháng 8 năm 2006, Pakistan đã tặng một con báo tuyết mồ côi tên là Leo cho Mỹ.[79] Các giống loài quý hiếm khác là cá heo mù sông Indus khoảng 1,100 được cho là còn đang tồn tại, được bảo vệ tại Khu dự trữ cá heo sông Indus ở Sindh.[80] Trong những năm gần đây số lượng các loài thú hoang dã bị giết để lấy lông và da khiến nước này phải ra một luật mới cấm săn bắn các loài thú hoang và chim và thành lập nhiềm khu vực dự trữ bảo vệ các loài sinh vật này. Số lượng thợ săn đã giảm đáng kể sau đó.[81]
Kinh tế
Ước tính số nợ nước ngoài năm 2005 ở mức gần US$40 tỷ. Tuy nhiên, nó đã giảm bớt trong những năm gần đây với sự hỗ trợ từ Quỹ Tiền tệ Quốc tế và khoản xoá nợ đáng kể từ Hoa Kỳ. Tổng Sản phẩm Quốc nội của Pakistan, tính theo sức mua tương đương, ước tính ở mức US$475.4 tỷ[83] trong khi thu nhập trên đầu người đứng ở mức $2,942.[83] Tỷ lệ nghèo khổ ở Pakistan ước tính trong khoảng 23%[84] and 28%.[85]
Tăng trưởng GDP bền vững trong gia đoạn giữa những năm 2000 với tỷ lệ 7%;[86][87] tuy nhiên, nó đã giảm bớt trong cuộc khủng hoảng kinh tế năm 2008 xuống mức 4.7%.[20] Một tỷ lệ lạm phát cao 24.4% và mức dự trữ thấp, cùng các yếu tố kinh tế khác, tiếp tục là trở ngại cho việc duy trì một tốc độ phát triển kinh tế cao.[88][89][90] GDP của Pakistan ở mức US$167 tỷ, khiến nước này trở thành nền kinh tế đứng hàng 48 trên thế giới hay hạng 27 khi tính theo sức mua tương đương đã được điều chỉnh tỷ giá. Hiện nay, Pakistan được coi là có nền kinh tế đứng thứ hai ở Nam Á.[91]
Cơ cấu kinh tế Pakistan đã thay đổi từ chủ yếu dựa vào nông nghiệp sang một kết cấu dựa mạnh vào dịch vụ. Nông nghiệp hiện nay chỉ chiếm khoảng 20% GDP, trong khi lĩnh vực dịch vụ chiếm 53% GDP.[92] Các khoản đầu tư nước ngoài lớn đã được rót vào nhiều lĩnh vực gồm cả viễn thông, bất động sản và năng lượng.[93][94] Các ngành công nghiệp quan trọng khác gồm đồ trang sức và dệt may (chiếm gần 60% xuất khẩu), chế biến thực phẩm, sản xuất hoá chất, và các ngành công nghiệp sắt và thép.[95] Xuất khẩu của Pakistan năm 2008 đạt giá trị $20.62 tỷ (USD).[20] Pakistan là một nước phát triển nhanh.[96][97][98]
Tuy nhiên, cuộc khủng hoảng kinh tế năm 2008 đã khiến Pakistan phải tìm kiếm hơn $100 tỷ để tránh tình trạng phá sản có thể xảy ra.[99][100] Khoản tiền này không bao giờ được trao cho Pakistan và vì thế họ phải phụ thuộc vào một chính sách thuế khoá nặng nề hơn, do IMF hậu thuẫn. Một năm sau Ngân hàng Phát triển châu Á thông báo cuộc khủng hoảng kinh tế của Pakistan đã giảm nhẹ trong năm 2009 [101]. Hơn nữa, họ dự đoán rằng trong năm 2010 kinh tế Pakistan sẽ tăng trưởng ít nhất 4% và có thể tăng trưởng hơn nữa với sự phục hồi kinh tế mạnh mẽ của thế giới[102].
Giáo dục
Pakistan cũng có một hệ thống giáo dục cấp hai song song tại các trường tư, dựa trên bộ chương trình và do Cambridge International Examinations quản lý, thay cho các kỳ thi của chính phủ. Một số học sinh lựa chọn thực hiện các kỳ kiểm tra O level và A level[104] qua Hội đồng Anh.
Hiện có 730 trường kỹ thuật và dạy nghề ở Pakistan.[105] Những yêu cầu tối thiểu để vào trường dạy nghề của nam là hoàn thành lớp 8. Các chương trình nói chung kéo dài hai hay ba năm. Các yêu cầu tối thiểu để vào các trường dạy nghề của nữ là hoàn thành lớp 5.[106] Tất cả các cơ sở giáo dục hàn lâm thuộc trách nhiệm của các chính quyền tỉnh. Chính phủ Liên bang chủ yếu hỗ trợ phát triển chương trình giảng dạy, cấp bằng công nhận và một số trợ giúp tài chính cho nghiên cứu.
Giáo dục tiếng Anh trung học được mở rộng, dựa trên cơ sở các giai đoạn, với mọi trường học trên cả nước.[107] Thông qua nhiều cuộc cải cách giáo dục, tới năm 2015, bộ giáo dục dự kiến đạt mức đăng ký theo học 100% với các trẻ em trong độ tuổi, và tỷ lệ biết chữ đạt 86% ở người trên 10 tuổi.[108]
Pakistan cũng có các madrassah cung cấp giáo dục miễn phí và cũng cung cấp các chương trình học cùng nơi ở miễn phí cho các học sinh thuộc tầng lớp nghèo nhất xã hội.[109] Sau những chỉ trích về việc những kẻ khủng bố sử dụng những trường này cho mục đích tuyển mộ chiến binh, những nỗ lực đã được đưa ra nhằm quản lý các trường đó.[110]
Xã hội và văn hoá
Sự đa dạng của âm nhạc Pakistan từ các loại âm nhạc dân gian của các tỉnh tới các thể loại âm nhạc truyền thống như Qawwali và Ghazal Gayaki tới các hình thức âm nhạc hiện đại dựa trên âm nhạc truyền thống và phương tây, như sự đồng bộ hoá Qawwali và âm nhạc phương tây bởi nhà soạn nhạc nổi tiếng thế giới Nusrat Fateh Ali Khan. Ngoài ra Pakistan cũng là quê hương của nhiều ca sĩ nhạc dân gian nổi tiếng như Alam Lohar, người cũng nổi tiếng ở Punjab Ấn Độ. Tuy nhiên, đa số người dân Pakistan nghe âm nhạc Ấn Độ do Bollywood sản xuất và của ngành công nghiệp điện ảnh Ấn Độ. Sự xuất hiện của những người tị nạn Afghanistan ở các tỉnh phía tây đã nhen lại âm nhạc Pashto và Ba Tư và biến Peshawar thành một cổng chính cho các nhạc sĩ Afghanistan và là một trung tâm phân phối của âm nhạc Afghanistan ra nước ngoài.[113]
Tập đoàn Truyền hình Pakistan (PTV) và Tập đoàn Truyền phát Pakistan thuộc sở hữu nhà nước là các cơ quan truyền thông có vai trò chi phối, nhưng hiện có nhiều kênh truyền hình tư nhân. Đại đa số người dân Pakistan được tiếp cận nhiều kênh truyền hình và các bộ phim Mỹ, châu Âu và châu Á thông qua các mạng lưới truyền hình tư nhân, truyền hình cáp, và truyền hình vệ tinh. Cũng có một ngành công nghiệp phim bản xứ nhỏ tại Lahore và Peshawar (thường được gọi là Lollywood). Và tuy các bộ phim Bollywood đã bị cấm trình chiếu tại các rạp chiếu phim công cộng từ năm 1965 chúng vẫn phổ biến trong văn hoá đại chúng[114].
Kiến trúc của các khu vực hiện tạo thành Pakistan có thể chia thành bốn giai đoạn riêng biệt —tiền Hồi giáo, Hồi giáo, thuộc địa và hậu thuộc địa. Với sự bắt đầu của văn minh Indus khoảng giữa thiên niên kỷ thứ ba[115] trước Công Nguyên, một nền văn hoá thành thị tiên tiến đã phát triển lần đầu tiên trong vùng, với những cơ sở kiến trúc lớn, một số công trình vẫn còn tồn tại đến ngày nay.[116] Mohenjo Daro, Harappa và Kot Diji thuộc các khu định cư thời kỳ tiền Hồi giáo. Sự trỗi dậy của Phật giáo và ảnh hưởng Ba Tư và Hy Lạp đã dẫn tới sự phát triển của phong cách Hy Lạp-Phật giáo, bắt đầu từ thế kỷ thứ nhất sau Công Nguyên. Đỉnh cao của thời kỷ này diễn ra cùng phong cách Gandhara. Một ví dụ về kiến trúc Phật giáo là các tàn tích của tu viện Phật giáo Takht-i-Bahi ở tỉnh Biên giới Tây Bắc.
Sự xuất hiện của Đạo Hồi ở Pakistan hiện nay có nghĩa là một sự chấm dứt đột ngột của kiến trúc Phật giáo.[117] Tuy nhiên, một sự chuyển tiếp nhẹ nhàng sang kiến trúc Hồi giáo không tranh ảnh đã diễn ra. Công trình quan trọng nhất trong một số ít công trình đã hoàn toàn được khám phá thuộc phong cách Ba Tư là lăng mộ của Shah Rukn-i-Alam ở Multan. Trong thời kỳ Mughal các yếu tố thiết kế của kiến trúc Hồi giáo-Ba Tư đã bị pha trộn với các hình thức thường ít nghiêm túc của nghệ thuật Hindustani. Lahore, nơi ở không thường xuyên của các vị vua cai trị Mughal, có nhiều công trình quan trọng từ thời đế chế, trong số đó có thánh đường Hồi giáo Badshahi, Pháo đài Lahore với Cổng Alamgiri nổi tiếng, thánh đường Hồi giáo Wazir Khan nhiều màu sắc, mang nặng ảnh hưởng Ba Tư cũng như nhiều thánh đường và lăng mộ khác.
Tương tự Thánh đường Shahjahan ở Thatta của người Sindh từ thời Mughal. Trong thời kỳ thuộc địa Anh, các công trình chủ yếu mang tính chất chức năng thuộc phong cách Ấn-Âu đã phát triển từ một tập hợp các yếu tố châu Âu và Ấn Độ-Hồi giáo. Bản sắc quốc gia hậu thuộc địa được thể hiện trong những công trình hiện đại như Thánh đường Faisal, Minar-e-Pakistan và Mazar-e-Quaid.
Văn học Pakistan gồm văn học của các ngôn ngữ đã từng tồn tại ở quốc gia này, gồm Urdu, Sindhi, Punjabi, Pushto, Baluchi cũng như tiếng Anh[118] trong các thời kỳ gần đây và trong quá khứ gồm cả văn học Ba Tư. Trước thế kỷ 19, văn học chủ yếu gồm yếu tố thơ trữ tình và tôn giáo, thần bí và đại chúng. Trong thời kỳ thuộc địa các nhân vật văn học bản xứ, dưới ảnh hưởng của văn học phương Tây thuộc chủ nghĩa hiện thực, đã ngày càng tiếp cận với các chủ đề và các hình thức diễn tả khác nhau. Ngày nay, truyện ngắn được dân chúng rất ưa chuộng.[119]
Nhà thơ quốc gia Pakistan, Allama Muhammad Iqbal, đã đề xuất việc tạo lập một quê hương riêng biệt cho những người Hồi giáo Ấn Độ. Tuy nhiên, Iqbal cũng đã viết Tarana-e-Hind nói nên niềm tin vào một nước Ấn Độ thống nhất và hùng mạnh. Cuốn sách The Reconstruction of Religious Thought in Islam (Tái thiết Tư tưởng Tôn giáo trong Đạo Hồi) của ông là một tác phẩm lớn của triết học Hồi giáo hiện đại. Nhân vật nổi tiếng nhất của văn học Urdu đương đại ở Pakistan là Faiz Ahmed Faiz. Thơ Sufi Shah Abdul Latif, Bulleh Shah và Khawaja Farid cũng rất phổ biến ở Pakistan.[120] Mirza Kalich Beg đã được gọi là người cha của văn xuôi Sindhi hiện đại.[121]
Du lịch
Tại Balochistan có nhiều hang động cho những khách du lịch và người thám hiểm hang động, đặc biệt là Hang Juniper Shaft, hang Murghagull Gharra, hang Mughall saa, và những hang tự nhiên đẹp đẽ. Pakistan là một quốc gia thành viên Liên minh Hang động học Quốc tế (UIS).[125]
Những vùng phía bắc Pakistan là nơi có nhiều pháo đài, tháp và các kiến trúc lịch sử, gồm cả các thung lũng Hunza và Chitral, thung lũng là nơi sinh sống của Kalash, một cộng đồng theo thuyết vật linh nhỏ thời tiền Hồi giáo.[126] Punjab cũng là một địa điểm diễn ra trận đánh của Alexandre trên sông Jhelum. Thành phố Lahore lịch sử được coi là trung tâm văn hoá của Pakistan và có nhiều công trình kiến trúc Mughal như Badshahi Masjid, Vườn Shalimar, Lăng mộ Jahangir và Pháo đài Lahore.[127] Hiệp hội Phát triển Du lịch Pakistan (PTDC) cũng giúp quảng bá du lịch trong nước.[128] Tuy nhiên, du lịch vẫn bị hạn chế bởi sự thiếu hụt cơ sở hạ tầng thích hợp và tình hình an ninh đang kém đi trong nước. Các hoạt chiến sự gần đây của Pakistan tại các địa điểm du lịch, gồm cả Swat và NWFP, đã ảnh hưởng lớn tới ngành công nghiệp du lịch.[129] Những khó khăn khác cũng được quy cho mạng lưới du lịch còn hạn chế, khung quản lý du lịch kém, chính phủ ít ưu tiên cho ngành du lịch, tính hiệu quả thấp trong quảng bá du lịch và một nhận thức thiển cận về du lịch.[130] Hơn nữa Pakistan từng tiếp đón hơn 500,000 du khách trước cuộc giảm phát kinh tế toàn cầu [131].
Thể thao
Ở mức độ quốc tế, Pakistan đã nhiều lần tham gia Olympics mùa hè môn hockey trên cỏ, đấm bốc, điền kinh, bơi lội, và bắn súng. Pakistan đã giành được tổng số 10 chiếc huy chương (3 vàng, 3 bạc và 4 đồng) trong khi tại Commonwealth Games và Asian Games họ có 61 và 182 huy chương. Hockey là môn thể thao Pakistan có được nhiều thành công nhất tại các kỳ Olympics, với ba huy chương vàng năm (1960, 1968, và 1984). Pakistan cũng có kỷ lục bốn lần giành Hockey World Cup (1971, 1978, 1982, 1994). Motorsport Association của Pakistan là một thành viên của Fédération Internationale de l'Automobile[132]. Trong các môn thể thao thám hiểm hang động Pakistan là một quốc gia thành viên của UIS (Liên đoàn Hang động học Quốc tế)[125] Freedom Rally là một cuộc đua off-road được tổ chức hàng năm diễn ra trong các dịp kỷ niệm Độc lập. Pakistan cũng đã lần đầu tiên được tham gia Golf World Cup năm 2009.[133]
Đề cương Pakistan
Tham khảo
- ^ CIA World Factbook ước tính, CIA World Factbook ước tính
- ^ “Pakistan”. Encarta Encyclopedia. Truy cập ngày 22 tháng 2 năm 2009.
- ^ http://news.bbc.co.uk/1/hi/world/south_asia/2608713.stm
- ^ http://www.dawn.com/wps/wcm/connect/dawn-content-library/dawn/news/pakistan/16-the-politics-of-pipelines-hs-05
- ^ http://www.issi.org.pk/journal/2007_files/no_2/article/a3.htm
- ^ a ă Lãnh thổ Kashmir nơi cả hai Pakistan và Ấn Độ cùng tuyên bố chủ quyền là vùng vẫn trong vòng tranh chấp. Pakistan gọi Kashmir do Ấn Độ quản lý là Kashmir do Ấn Độ chiếm đóng.
- ^ Pakistan: a global studies handbook By Yasmeen Niaz Mohiuddin
- ^ Pakistan “Pakistan”. InfoPlease. Truy cập ngày 22 tháng 2 năm 2009.
- ^ a ă Robert Ayres (1998). Turning Point: The End of the Growth Paradigm. James & James/Earthscan. tr. 63. ISBN 1853834394.
- ^ a ă “Muslim Population - Statistics About the Muslim Population of the World”. About.com. Truy cập ngày 27 tháng 7 năm 2009.
- ^ a ă â “PakistanPaedia - Religions in Pakistan”. PakistanPaedia. Truy cập ngày 27 tháng 7 năm 2009.
- ^ http://news.bbc.co.uk/1/hi/in_depth/8296200.stm
- ^ http://web.archive.org/web/20091011115301/news.yahoo.com/s/ap/20091008/ap_on_re_us/us_rel_muslim_population
- ^ http://beta.dawn.com/wps/wcm/connect/dawn-content-library/dawn/news/world/08-global-muslim-population-hits-157-billion-ts-01
- ^ http://pewforum.org/docs/?DocID=450
- ^ http://pewforum.org/newassets/images/reports/Muslimpopulation/Muslimpopulation.pdf
- ^ Choudhary Rahmat Ali (28 tháng 1 năm 1933). “Now or never: Are we to live or perish for ever?”. Columbia University. Truy cập ngày 4 tháng 12 năm 2007.
- ^ Wolpert, Stanley A. (1984). Jinnah of Pakistan. New York: Oxford University Press. ISBN 0195034120.
- ^ Minnesota State University page on Mohenjo-Daro.
- ^ a ă â b c d đ e “Pakistan”. World Factbook. CIA. Truy cập ngày 13 tháng 2 năm 2008.
- ^ Wright, John W. (1997). Universal Almanac. New York: Andrews & McMeel Publishing. ISBN 0836221877.
- ^ Jona Lendering. “Achaemenids”. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2009.
- ^ “Plutarch's Life of Alexander”. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2009.
- ^ “Infinity Foundation's translation of the Chach-Nama”. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2009.
- ^ “History in Chronological Order”. Government of Pakistan.
- ^ “A Country Study: Pakistan”. Library of Congress. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2009.
- ^ Concise Encyclopedia. Dorling Kindersley Limited. 1997. tr. 455. ISBN 0-7513-5911-4.
- ^ “Sir Muhammad Iqbal's 1930 Presidential Address”. Speeches, Writings, and Statements of Iqbal. Truy cập ngày 19 tháng 12 năm 2006.
- ^ “1971 war summary”. BBC. 2002. Truy cập ngày 16 tháng 3 năm 2009.
- ^ “US Country Studies article on the Bangladesh War”. U.S. Library of Congress. Truy cập ngày 16 tháng 3 năm 2009.
- ^ “The 1991 Gulf war”. San Francisco Chronicle. 24 tháng 9 năm 2002. Truy cập ngày 16 tháng 3 năm 2009.
- ^ “India launches Kashmir air attack”. BBC News. 26 tháng 5 năm 1999. Truy cập ngày 5 tháng 8 năm 2008.
- ^ “Pakistan after the coup: Special report”. BBC. 12 tháng 10 năm 2000. Truy cập ngày 17 tháng 3 năm 2009.
- ^ “New Pakistan PM Gillani sworn in”. BBC. 25 tháng 3 năm 2008. Truy cập ngày 17 tháng 3 năm 2009.
- ^ Reza Sayah (18 tháng 8 năm 2008). “Musharraf's resignation accepted”. CNN. Truy cập ngày 17 tháng 3 năm 2009.
- ^ 3.4 million displaced by Pakistan fighting. United Press International. May 30, 2009.
- ^ a ă â b c “Government of Pakistan”. Truy cập ngày 16 tháng 3 năm 2009.
- ^ “World: South Asia Pakistan's army and its history of politics”. BBC. 10 tháng 12 năm 1999. Truy cập ngày 16 tháng 3 năm 2009.
- ^ M. Zafar. “How Pakistan Army moved into the Political Arena”. Truy cập ngày 15 tháng 3 năm 2009.
- ^ Balochis of Pakistan: On the Margins of History. United Kingdom: Foreign Policy Centre. 2006. tr. 75. ISBN 978-1-905833-08-5.
- ^ Robert Nolan. “Pakistan: The Most Allied Ally in Asia”. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2009.
- ^ “Why America Should Be A Trustworthy Friend of Pakistan”. Truy cập ngày 16 tháng 3 năm 2009.
- ^ “Pakistan's $4.2 Billion 'Blank Check' for U.S. Military Aid, After 9/11, funding to country soars with little oversight”. Center for Public Integrity. 27 tháng 3 năm 2007.
- ^ The United States’ new backyard. by Alain Gresh. Le Monde diplomatique. November 2007.
- ^ Ahmed Rashid (10 tháng 1 năm 2007). “Pakistan's uncertain year ahead”. BBC News. Truy cập ngày 2 tháng 4 năm 2008.
- ^ “Pakistani prime minister frees judges”. AP. 24 tháng 3 năm 2008.
- ^ Associated Press (18 tháng 8 năm 2008). “Pakistani President Musharraf Resigns Amid Impeachment Threats”. Fox News. Truy cập ngày 18 tháng 8 năm 2008.
- ^ “Zardari wins Pakistan presidential election: officials”. AFP. 5 tháng 9 năm 2008. Truy cập ngày 17 tháng 3 năm 2009.
- ^ “What is Decentralization Support Program”. Decentralization Support Program, Government of Pakistan. Truy cập ngày 8 tháng 2 năm 2008.
- ^ Gwillim Law (20 tháng 3 năm 2004). “Divisions of Pakistan”. Truy cập ngày 16 tháng 3 năm 2009.
- ^ Lỗi chú thích: Thẻ
<ref>
sai; không có nội dung trong thẻ ref có tênunpop
- ^ 2009 World Population Data Sheet - Population Reference Bureau
- ^ “UN world population prediction, 2006”. UN. Truy cập ngày 17 tháng 3 năm 2009.
- ^ Human Development Indices, Table 3: Human and income poverty, p. 35. Retrieved on 1 June 2009
- ^ Feeney and Alam (2003). “Pakistan Fertility”. Truy cập ngày 17 tháng 3 năm 2009.
- ^ The Urban Frontier — Karachi. NPR.org. 2 June 2008.
- ^ https://www.cia.gov/library/publications/the-world-factbook/geos/pk.html
- ^ UNHCR and Pakistan sign new agreement on stay of Afghan refugees, March 13, 2009.
- ^ Voice of America, Pakistan Extends Deadline for Afghan Refugees
- ^ Government of Pakistan – National Database & Registration Authority (NADRA), NADRA Has Registered 2.15 Million Afghan Refugees, February 15, 2007.
- ^ muhajir (people). Britannica Online Encyclopedia.
- ^ "In a city of ethnic friction, more tinder". The National. August 24, 2009.
- ^ "Karachi violence stokes renewed ethnic tension". IRIN Asia. May 17, 2007.
- ^ Lewis, M. Paul; Gary F. Simons; Charles D. Fennig biên tập (2013). Ethnologue: Languages of the World (bằng tiếng Anh) (ấn bản 17). Dallas, Texas, Hoa Kỳ: SIL International.
- ^ Gordon, Raymond (2005). “Languages of Pakistan”. Truy cập ngày 17 tháng 3 năm 2009.
- ^ “Bomb kills four at Pakistan Shiite funeral: police”. AFP. 19 tháng 2 năm 2009. Truy cập ngày 16 tháng 3 năm 2009.
- ^ “International Religious Freedom Report 2007”. State Department, US. 2007. Truy cập ngày 21 tháng 3 năm 2009.
- ^ a ă â b http://www.who.int/countries/pak/en/
- ^ Ian Talbot (1999). The Armed Forces of Pakistan. Macmillan. tr. 99. ISBN 0312216068.
- ^ “Monthly Summary of Contributors to UN Peacekeeping Operations” (PDF). United Nations. Truy cập ngày 20 tháng 4 năm 2007.
- ^ “Pakistan Army”. Pakistan Defense. Truy cập ngày 11 tháng 3 năm 2009.
- ^ nhiều nguồn, a.o. "Obama forced to rethink pullout"
- ^ The area of Pakistan proper excludes the regions administered in Kashmir URL accessed on 03 November 2006.
- ^ InfoPlease. “Pakistan”. Truy cập ngày 16 tháng 3 năm 2009.
- ^ U.S. Library of Congress. “Climate”. Truy cập ngày 16 tháng 3 năm 2009.
- ^ “Pakistna Climate”. Encyclopedia of the Nations. 28 tháng 3 năm 2008. Truy cập ngày 16 tháng 3 năm 2009.
- ^ “Basic Facts”. Pakistan Ministry of Information and Broadcasting. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2009.
- ^ “Conservation of Mangrove Forests in the Coastal Areas of Sindh and Balochistan”. WWF Pakistan. Truy cập ngày 17 tháng 3 năm 2009.
- ^ “Leo the snow leopard is US-bound”. BBC News. 9 tháng 8 năm 2006. Truy cập ngày 5 tháng 8 năm 2008.
- ^ Paul Massicot (21 tháng 6 năm 2006). “Animal Info:Indus River Dolphin”. Truy cập ngày 17 tháng 3 năm 2009.
- ^ “Pakistan Wildlife”. Wildlife Sanctuaries of Pakistan. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2009.
- ^ a ă â “Economy”. Pakistan Trade Development Authority. Truy cập ngày 8 tháng 3 năm 2009.
- ^ a ă “Report for Selected Countries and Subjects (PPP)”. International Monetary Fund. October năm 2007.
- ^ “WB, UNDP question poverty estimates”. Dawn Group of Newspapers. 20 tháng 6 năm 2006. Truy cập ngày 12 tháng 2 năm 2008.
- ^ “Pakistan: People”. The World Factbook. CIA. Truy cập ngày 12 tháng 2 năm 2008.
- ^ “7% growth achieved in FY 05–06”. Daily Times of Pakistan. 1 tháng 12 năm 2006. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 1 năm 2013. Truy cập ngày 12 tháng 2 năm 2008.
- ^ “Pakistan Economy Registers 7% Growth Rate for 4th Consecutive Year”. Pakistan Times. 2 tháng 6 năm 2007. Truy cập ngày 12 tháng 2 năm 2008.
- ^ John Wall. “Concluding Remarks at the Pakistan Development Forum 2006”. World Bank. Truy cập ngày 12 tháng 2 năm 2008.
- ^ “Country-by-Country Growth and Forecasts”. Asian Development Bank. Truy cập ngày 12 tháng 2 năm 2008.
- ^ “View: Is GDP growth sustainable?”. Daily Times Newspaper. 1 tháng 5 năm 2006. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 1 năm 2013. Truy cập ngày 12 tháng 2 năm 2006.
- ^ [1]
- ^ “Sectoral Share in Gross Domestic Product”. Truy cập ngày 17 tháng 3 năm 2009.
- ^ “FDI to touch $7 billion by year-end: SBP governor”. Daily Times of Pakistan. 1 tháng 4 năm 2007. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 9 năm 2012. Truy cập ngày 12 tháng 2 năm 2008.
- ^ “Foreign investment to reach $7 billion during current fiscal: Governor SBP”. Pak Tribune. 1 tháng 4 năm 2007. Truy cập ngày 12 tháng 2 năm 2008.
- ^ “Pakistan Industry”. Nations Encyclopedia. Truy cập ngày 17 tháng 3 năm 2009.
- ^ “GCC investments in Pakistan and future trends”. Gulf Research Center. 3 tháng 1 năm 2007. Truy cập ngày 12 tháng 2 năm 2008.
- ^ “Quid Pro Quo 45 – Tales of Success” (PDF). Muslim Commercial Bank of Pakistan. 19 tháng 9 năm 2007. Truy cập ngày 12 tháng 2 năm 2008.
- ^ “Pakistan steels itself for sell-offs”. BBC News. 1 tháng 6 năm 2006. Truy cập ngày 12 tháng 2 năm 2008.
- ^ Isambard Wilkinson (6 tháng 10 năm 2008). “Pakistan facing bankruptcy - Telegraph”.
- ^ Con Coughlin (10 tháng 10 năm 2008). “If Pakistan goes bust, the Taliban will rule the roost there as well - Telegraph”.
- ^ [2]
- ^ [3]
- ^ “Diagnostic Report” (PDF). Ministry of Education, Government of Pakistan. Truy cập ngày 13 tháng 2 năm 2008.
- ^ “GCE O and A level exams in Pakistan”. The British Council. Truy cập ngày 13 tháng 2 năm 2008.
- ^ “Medium Term Development framework 2005-10” (PDF). Ministry of Education, Government of Pakistan. Truy cập ngày 13 tháng 2 năm 2008.
- ^ Structure of Pakistani Education. World Education Services. Retrieved on 10 February 2008.
- ^ “Ministry of Education”. Ministry of Education, Government of Pakistan. Truy cập ngày 13 tháng 2 năm 2008.
- ^ “National Plan of Action”. Ministry of Education, Government of Pakistan. Truy cập ngày 13 tháng 2 năm 2008.
- ^ “PAKISTANI MADRASSAHS:”. International Crisis Group. Truy cập ngày 21 tháng 2 năm 2009.
- ^ Synovitz, Ron. “Pakistan: Despite Reform Plan, Few Changes Seen At Most Radical Madrassahs”. Radio Free Europe Radio Liberty. Truy cập ngày 21 tháng 2 năm 2009.
- ^ “Pakistan- Language, Religion, Culture, Customs and Etiquette”. Kwint Essential. Truy cập ngày 17 tháng 3 năm 2009.
- ^ Kearney Foreign Policy Globalization Index.
- ^ Tohid, Owais Music soothes extremism along troubled Afghan border. Christian Science Monitor. Retrieved on 18 February 2008.
- ^ “Pakistan to show Bollywood film”. BBC News. Truy cập ngày 13 tháng 2 năm 2008.
- ^ Dehejia, Vidja South Asian Art and Culture. The Metropolitan Museum of Art. Retrieved on 10 February 2008.
- ^ The Indus Valley And The Genesis Of South Asian Civilization [4] Retrieved on 6 February 2008.
- ^ Architecture in Pakistan: A Historical Overview. All Things Pakistan. Retrieved on 10 February 2008.
- ^ Shamsie, Muneeza Pakistani Writers in English: A Question of Identity. Sepia Mutiny. Retrieved on 9 February 2008.
- ^ Kamran, Gilani Pakistani Literature- Evolution & trends. The South Asian. Retrieved on 9 February 2008.
- ^ Shah Abdul Latif. Story of Pakistan. Retrieved on 9 February 2008.
- ^ Rahman, Mahmudur. “Renowned scholar of Sindh”. DAWN newspaper. Truy cập ngày 9 tháng 2 năm 2008.
- ^ http://www.economist.com/opinion/displayStory.cfm?Story_ID=10430237
- ^ “Tourism in Pakistan”. 20 tháng 10 năm 2005. Truy cập ngày 5 tháng 4 năm 2008.
- ^ “PTDC page on mountaineering”. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 11 năm 2006.
- ^ a ă http://www.uis-speleo.org/people/delegate.html
- ^ “Visiting”. Empori Trade. Truy cập ngày 19 tháng 3 năm 2009.
- ^ “Attack terrorises Lahore’s upscale commercial centre”. Daily Times. 4 tháng 3 năm 2009. Truy cập ngày 19 tháng 3 năm 2009.
- ^ “About PTDC”. Truy cập ngày 19 tháng 3 năm 2009.
- ^ “Lanka-style policies sought to save Pakistan tourism”. Daily Mirror. 2 tháng 3 năm 2009. Truy cập ngày 19 tháng 3 năm 2009.
- ^ “Travel and Tourism Competitiveness Report 2009: Pakistan ranks 113 out of 130 countries”. Daily Times. 5 tháng 3 năm 2009. Truy cập ngày 19 tháng 3 năm 2009.
- ^ [5]
- ^ “Motorsport Association of Pakistan”. Truy cập ngày 11 tháng 6 năm 2009.
- ^ http://www.dawn.com/wps/wcm/connect/dawn-content-library/dawn/news/sport/08-pakistan-qualify-for-world-cup-make-history-ts-06
Đọc thêm
- Cohen, Stephen P. The Idea of Pakistan. The Brookings Institution. November 2004. ISBN 0-8157-1502-1.
- Banuazizi, Ali and Weiner, Myron. The State, Religion, and Ethnic Politics: Afghanistan, Iran, and Pakistan. Syracuse University Press. August 1988. ISBN 0-8156-2448-4.
- Halliday, Fred. State and Ideology in the Middle East and Pakistan. Monthly Review Pr. February 1998. ISBN 0-85345-734-4.
- Hammond Incorporated. Hammond Greater Middle East Region: Including Afghanistan, Pakistan, Libya, and Turkey. American Map Corporation. August 2002. ISBN 0-8437-1827-7.
- Hilton, Isabel. Letter from Pakistan: The Pashtun Code. The New Yorker. 3 December 2001.ISABEL HILTON (3 tháng 12 năm 2001). “THE PASHTUN CODE”. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 2 năm 2007.
- Insight Guides, Halliday, Tony and Ikram, Tahir. Insight Guide Pakistan. Apa Productions. January 1998. ISBN 0-88729-736-6.
- Malik, Hafeez. Pakistan: Founders' Aspirations and Today's Realities. Oxford University Press, USA. May 2001. ISBN 0-19-579333-1.
- Malik, Iftikhar H. Religious Minorities in Pakistan. Minority Rights Group International. September 2002. ISBN 1-897693-69-9.[6]
- Malik, Iftikhar H. Culture and customs of Pakistan. Greenwood Press. December 2005. ISBN 0-313-33126-X.
- Najim, Adil. Pakistan and Democracy. The News International Pakistan. 6 May 2004.“Pakistan and Democracy”. Truy cập ngày 14 tháng 8 năm 2008.
- Rooney, John. Shadows in the dark: A history of Christianity in Pakistan up to the 10th century. Christian Study Centre. January 1984. OCLC 12177250
- Rahman, Tariq.1996. Language and Politics in Pakistan Karachi: Oxford University Press. Reprinted several times, latest repr. 2006.
- Rahman, Tariq.2002. Language, Ideology and Power: Language-learning Among the Muslims of Pakistan and North India Karachi: OUP.
- Rahman, Tariq.2004. Denizens of Alien Worlds: A Study of Education, Inequality and Polarization in Pakistan Karachi: OUP, 2006 repr.
- Sharif, Shuja. Musharraf's Administration And Pakistan's Economy. Contemporary Review. 31 March 2005. 129–134.
- Wolpert, Stanley. Jinnah of Pakistan. Oxford University Press, USA. May 1984. ISBN 0-19-503412-0.
- Zakaria, Rafiq. The Man Who Divided India: An Insight into Jinnah's Leadership and its Aftermath. Popular Prakashan. 2001. ISBN 81-7154-892-X.
- Statehood in South Asia.
- Strategic Insights, Volume III, Issue 10 (October 2004).
Liên kết ngoài
Tìm thêm về Pakistan tại những đồng dự án của Wikipedia: | |
Từ điển ở Wiktionary | |
Sách ở Wikibooks | |
Cẩm nang du lịch ở Wikivoyage | |
Hồ sơ ở Wikiquote | |
Văn kiện ở Wikisource | |
Hình ảnh và phương tiện ở Commons | |
Tin tức ở Wikinews | |
Tài liệu giáo dục ở Wikiversity |
- Government of Pakistan
- Pakistan Board of Investment
- The President of Pakistan
- The Ministry of Information and Broadcasting
- Chief of State and Cabinet Members
- Mục “Pakistan” trên trang của CIA World Factbook.
- Pakistan at UCB Libraries GovPubs
- Pakistan tại Dự án thư viện mở (trang đề nghị)
- Wikimedia Atlas của Pakistan, có một số bản đồ liên quan đến Pakistan.
Wikivoyage có chỉ dẫn du lịch về Pakistan |
|
|
Thể loại:
- Pakistan
- Quốc gia Nam Á
- Quốc gia Ấn Độ Dương
- Quốc gia thành viên D8
- Quốc gia và vùng lãnh thổ nói tiếng Anh
- Quốc gia và vùng lãnh thổ nói tiếng Hindustani
- Quốc gia liên bang
- Cựu thuộc địa Anh
- Cao nguyên Iran
- Cộng hoà Hồi giáo
- Thành viên Khối thịnh vượng chung
- Thành viên Tổ chức Hội nghị Hồi giáo
- Nam Á
- Quốc gia thành viên Hiệp hội Hợp tác Vùng Nam Á
- Quốc gia và vùng lãnh thổ thành lập năm 1947
- Cộng hòa
- Quốc gia thành viên Khối Thịnh vượng chung Anh
- Cộng hòa Hồi giáo
- Quốc gia Hồi giáo
Quang Tự
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Quang Tự hoàng đế | |
---|---|
Hoàng đế Trung Hoa (chi tiết...) | |
Hoàng đế nhà Thanh | |
Trị vì | 25 tháng 2 năm 1875 – 14 tháng 11 năm 1908 |
Tiền nhiệm | Thanh Mục Tông |
Kế nhiệm | Thanh Cung Tông |
Thông tin chung | |
Tên thật | Ái-tân-đảng-la Tải-điềm (Tải/Tái Điềm) |
Thụy hiệu | Đức Tông Đồng Thiên Sùng Vận Đại Trung Chí Chính Kinh Văn Vĩ Vũ Nhân Hiếu Mẫn Trí Đoan Kiệm Khoan Cần Cảnh Hoàng Đế |
Hoàng tộc | Nhà Thanh |
Thân phụ | Ái-tân-đảng-la Dịch-hoàn |
Sinh | 1871 |
Mất | 1908 |
Mục lục
Tiểu sử sơ lược
Hoàng đế Quang Tự là con của Thuần hiền Thân vương Ái Tân Giác La Dịch Hoàn (sử Việt ghi là Dịch Hoàn), mẹ là người họ Diệp Hách Na Lạp , em của Thái hậu Từ Hi.Năm 1875, Hoàng đế Đồng Trị (tên thật là Ái Tân Giác La Tải Thuần, sử Việt ghi là Tải Thuần, con ruột Thái hậu Từ Hi) mất vì bệnh, Thái hậu Từ Hi cùng với Thái hậu Từ An liền giáng chỉ đưa Tải Điềm (4 tuổi) vào cung, cho làm con nối nghiệp rồi đưa lệnh kế vị ngay năm ấy, lấy niên hiệu là Quang Tự.
Tuy Quang Tự làm Hoàng đế, nhưng chỉ là hư vị, vì mọi quyền hành đều ở trong tay Thái hậu Từ Hi. Theo Nguyễn Hiến Lê thì ngay từ khi vào cung, vị Hoàng đế này đã bị Từ Hi quản thúc chặt chẽ quá, mỗi chút là bị quát tháo, đánh đập, hoặc bắt quì cả mấy giờ. Vì vậy, Quang Tự sợ người cô này như sợ cọp, bảo gì cũng phải nghe theo...Thái giám Lý Liên Anh, vốn được Từ Hi sủng ái, cũng hùa theo ăn hiếp Hoàng đế. Sau này, Quang Tự có một quí phi rất hiền mà ông rất quí mến, Lý Liên Anh cũng tìm cách xô nàng xuống giếng, rồi sai thủ hạ lấy đá lấp lại.
Chính biến Mậu Tuất (1898) xảy ra, Hoàng đế Quang Tự bị giam 10 năm ở Doanh Đài, trong một căn phòng bẩn thỉu, ăn không đủ no, mặc không đủ ấm, chịu nhục nhã cho đến khi chết (1908). Lược theo Sử Trung Quốc (Tập 2, tr. 251). Tác giả Phổ Nghi cho biết cái chết của Quang Tự là một nghi án. Theo lời kể của viên thái giám già Lý Tường An, thì Quang Tự mất vì bị Khánh Vương Dịch Khuông và Viên Thế Khải đầu độc. Cũng có lời đồn đãi cho rằng do Từ Hi giết chết vì "bà không cam tâm chết trước vua Quang Tự" (Nửa đời đã qua, tr. 29-30).
Hoàng đế Quang Tự qua đời ngày 14 tháng 11 năm 1908 (một ngày trước khi Thái hậu Từ Hi mất) ở tuổi 37 và ở ngôi được 33 năm. Ông được đình thần tôn miếu hiệu là Đức Tông Đồng Thiên Sùng Vận Đại Trung Chí Chính Kinh Văn Vĩ Vũ Nhân Hiếu Mẫn Trí Đoan Kiệm Khoan Cần Cảnh Hoàng Đế, gọi tắt là Đức Tông (德宗).
Kế ngôi Quang Tự là Ái Tân Giác La Phổ Nghi (sử Việt ghi là Phổ Nghi). Đây là vị Hoàng đế cuối cùng của triều Thanh.
Chính biến Mậu Tuất
Sau trận Chiến tranh Thanh-Nhật (tháng 7 năm 1894), bị một nước nhỏ là Nhật Bản đánh thua, nhiều kẻ sĩ Trung Quốc bỗng thức tỉnh. Họ nhận ra rằng cần mà phải thay đổi chế độ và duy tân mọi mặt mới chấn hưng được nước nhà. Trong số ấy, có Khang Hữu Vi và Lương Khải Siêu (học trò ông Vi) là người hăng hái nhất.Sau vài lần dâng thư lên Hoàng đế Quang Tự xin biến pháp duy tân (gọi vắn là biến pháp), bị các đình thần không đồng tình ém nhẹm, tháng 6 năm 1896, thầy trò Khang Hữu Vi lại dâng thư lần nữa. Lần này nhờ có Ông Đồng Hòa (đang làm Thượng thư bộ Hộ, tước Hiệp biện đại học sĩ, trước là thầy học của Quang Tự) tiến cử nên thành công.
Tuy nhiên, mãi đến ngày 11 tháng 6 năm Quang Tự thứ 28 (1898), công cuộc biến pháp mới chính thức khởi sự, vì lúc này Từ Hi đã lui về nghỉ ở Di Hòa viên, giao lại mọi quyền hành cho Hoàng đế (dĩ nhiên vẫn luôn theo dõi mọi hành động của Quang Tự).
Thế nhưng chỉ mấy ngày sau, thì vấp phải sự chống đối của phái Hậu đảng, tức phe phái của Thái hậu Từ Hi. Đàm Tự Đồng, một thành viên của phái duy tân, thấy vậy bèn khuyên Quang Tự đoạt lấy chính quyền. Hoàng đế nghe lời bèn triệu Viên Thế Khải lúc đó đang thống lĩnh 7.000 quân về Bắc Kinh bàn việc, có ý dùng quân của Viên để bao vây Di Hòa Viên.
Chẳng may việc đó bị tiết lộ (chính Viên phản Hoàng đế Quang Tự, vì thấy Từ Hi và phe cánh của bà hãy còn mạnh). Sau đó, dựa vào lực lượng quân đội của Vinh Lộc (Tổng đốc Trực Lệ), bà ra lệnh bắt giam Hoàng đế Quang Tự và các thành viên đứng đầu phái Duy Tân, đồng thời cho bãi bỏ hết những cải cách mà Hoàng đế vừa ban ra. Sử gọi vụ đấy là Chính biến Mậu Tuất (1898), là Bách nhật duy tân (Cuộc cải cách trăm ngày).
Cuộc đời làm vua của Quang Tự gắn lền với công cuộc biến pháp năm Mậu Tuất (1898). Về sau khi nghiên cứu lịch sử Trung Quốc ở giai đoạn này, nhà sử học Will Durant đã tiếc rằng:
- Tuy Từ Hi thái hậu và các cận thần của bà cực lực chống đối phong trào ấy (duy tân), nhưng nó vẫn ngầm lôi cuốn được ông vua trẻ là Quang Tự. Rồi đột nhiên, nhà vua không hỏi ý kiến "Phật bà" (Từ Hi), ban hành một loạt lệnh sắc táo bạo. Nếu những sắc lệnh này thực hành được thì Trung Hoa đã yên ổn nhảy một bước lớn lao theo con đường Âu hóa, nhà Thanh không bị sụp đổ, mà Trung Hoa cũng không bị khốn cùng[1].
Câu nói lưu danh
Sợ mất lộc vị, phái thủ cựu (Hậu đảng) mà người đứng đầu là Thái hậu Từ Hi, đã chống đối việc cải cách rất quyết liệt[2]. Thế nhưng, Hoàng đế Quang Tự cương quyết, bảo:“ | Không cho ta biến pháp thì giết ta còn hơn[3] | ” |
Xem thêm
Chú thích
Sách tham khảo
- Nguyễn Hiến Lê, Sử Trung Quốc (Tập 2 và Tập 3 in chung). Nhà xuất bản Văn hóa, 1997.
- Will Durant, Lịch sử văn minh Trung Quốc (Nguyễn Hiến Lê dịch). Đại học sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh xuất bản, 1980.
- Phổ Nghi, Nửa đời đã qua (hồi ký). Nhà xuất bản Thanh Niên, 2009.
- Vũ Dương Ninh - Nguyễn Văn Bồng, Lịch sử thế giới cận đại. Nhà xuất bản Giáo dục, 2008.
- Nguyễn Khắc Thuần, Các đời đế vương Trung Quốc. Nhà xuất bản Giáo dục, 2005. Các tên phiên âm ở trong bài đều ghi theo sách này.
Liên kết ngoài
Phương tiện liên quan tới Guangxu Emperor tại Wikimedia Commons
|
Phong trào Nghĩa Hòa Đoàn
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
|
Những người nổi dậy xông vào các nhà thờ ở khắp miền Bắc Trung Quốc giết hại các nhà truyền giáo mà họ gọi là "những kẻ đi gieo rắc tội ác". Quân Nghĩa Hòa Đoàn thắt khăn đỏ ở cổ tay hay chân dùng dao hoặc giáo mác chặt đầu những người bị hành hình rồi bêu đầu lên ngọn giáo. Tại Sơn Tây họ đã giết tới 200 người nước ngoài, chủ yếu là những nhà truyền giáo và thân nhân của họ. Chỉ trong vòng 1 ngày có tới 45 người bị giết[4]. Tháng 6 năm 1900, quân Nghĩa Hòa chiếm đóng Bắc Kinh và giết 230 người ngoại quốc. Hàng chục nghìn tín đồ Cơ Đốc giáo Trung Hoa, gồm Công giáo và Tin Lành đều bị giết phần lớn tại hai tỉnh Sơn Đông và Sơn Tây như là một phần của cuộc nổi dậy. Chính quyền của Từ Hi Thái Hậu tỏ ra bất lực khi các nhà ngoại giao và binh sĩ cũng như thường dân nước ngoài và một vài tín đồ Cơ Đốc giáo người Hoa phải rút lui tới các tòa công sứ và cầm cự 55 ngày cho đến khi liên quân 8 nước gửi 20.000 quân tới giải cứu. Liên quân đánh bại quân chính qui nhà Thanh, chiếm đóng Bắc Kinh ngày 14 tháng 8, giải vây khu lãnh sự. Tiếp đó Liên quân cướp phá Bắc Kinh và các khu vực lân cận, hành quyết các tù binh tình nghi là thành viên Nghĩa Hòa bị bắt.
Chính quyền Trung Hoa bị ép phải bồi thường cho các nạn nhân và thực hiện thêm các nhượng bộ bổ sung. Hòa ước 7 tháng 9 năm 1901 buộc nhà Thanh phải xử tử các quan lại ủng hộ Nghĩa Hòa đoàn, cung cấp cho binh lính ngoại quốc đóng tại Bắc Kinh, bồi thường chiến phí 67 triệu bảng Anh (tương đương với 450 triệu lạng bạc), tức nhiều hơn tiền thuế của triều đình trong một năm, trả trong 39 năm cho liên minh 8 nước[5] Cuộc cải tổ được thi hành sau những chỉ trích năm 1900 đã đặt nền tảng cho dấu chấm hết của triều đại Mãn Thanh và mở đầu cho sự thành lập Trung Hoa Dân Quốc.
Chú thích
- ^ a ă Singer, Joel David, The Wages of War. 1816–1965 (1972)
- ^ Hammond Atlas of the 20th century (1996)
- ^ a ă Rummel, Rudolph J.: China's Bloody Century: Genocide and Mass Murder Since 1900 (1991); Lethal Politics: Soviet Genocide and Mass Murder Since 1917 (1990); Democide: Nazi Genocide and Mass Murder (1992); Death By Government (1994), http://www2.hawaii.edu/~rummel/welcome.html.
- ^ a ă Văn minh Nhân loại - Những bước ngoặt lịch sử, NXB Văn hóa Thông tin, trang 282
- ^ Summary accounts can be found in Spence, In Search of Modern China, pp. 230–235; Keith Schoppa, Revolution and Its Past, pp. 118–123; and Immanuel Hsu, Ch 16, "The Boxer Uprising," The Rise of Modern China (1990).
Liên kết ngoài
Wikimedia Commons có thêm thể loại hình ảnh và phương tiện truyền tải về Phong trào Nghĩa Hòa Đoàn |
Cộng hòa Nhân dân Tuva
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Bài viết này cần thêm chú thích để kiểm tra được tính xác thực. Hãy giúp hoàn thiện bài này bằng cách bổ sung các nguồn tham khảo tin cậy. Các nội dung không rõ nguồn có thể bị nghi ngờ và xóa bỏ. (August 2011) |
|
Mục lục
Lịch sử
Thủ tướng đầu tiên của Cộng hòa Nhân dân Tuva là Donduk Kuular thuộc Đảng Cách mạng Nhân dân Tuva. Kuular chọn Phật giáo làm quốc giáo và cố gắng giới hạn số người định cư và sự tuyên truyền đến từ Nga. Ông cũng cố gắng thiết lập các mối quan hệ với Mông Cổ. Liên Xô ngày càng trở nên lo lắng trước những hành động này và đến năm 1929, Thủ tướng Kuular đã bị bắt giữ và sau đó bị hành quyết. Trong lúc ấy (năm 1930), tại Liên Xô, năm thành viên của Trường Đại học Lao động Cộng sản Phương Đông (KUTV), cũng chính là nhóm đã hành quyết Kuular, đã được bổ nhiệm "các chính ủy đặc mệnh" của Tuva. Những người này đặc biệt trung thành với chính phủ Joseph Stalin, họ đã tiến hành thanh trừng một phần ba số thành viên trong Đảng Cách mạng Nhân dân Tuva và thúc đẩy tập thể hóa tại một quốc gia có kinh tế dựa vào chăn nuôi gia súc du mục truyền thống. Chính phủ mới bắt đầu các hành động nhằm tiêu diệt Phật giáo và Shaman giáo tại Tuva, một chính sách được Stalin khuyến khích. Bằng chứng về sự thành công của các hành động này thể hiện trong việc suy giảm số lượng các vị Lạt-ma tại quốc gia này: vào năm 1929 có 25 tu viện Lạt-ma với khoảng 4.000 lạt-ma và pháp sư; vào năm 1931 chỉ còn 1 tu viện Lạt-ma, 15 lạt-ma, và khoảng 725 pháp sư. Những nỗ lực xóa bỏ chăn nuôi du mục thì khó khăn hơn. Một cuộc điều tra dân số vào năm 1931 cho thấy 82,2% người Tuva vẫn tham gia chăn nuôi gia súc du mục. Salchak Toka, một trong số các chính ủy đặc mệnh đã đề cập ở trên, đã được lập làm Tổng bí thư của Đảng Cách mạng Nhân dân Tuva vào năm 1932. Ông vẫn nắm giữ quyền lực tại Tuva cho đến khi qua đời vào năm 1973.
Tuva bước vào Thế chiến II cùng với Liên Xô vào ngày 25 tháng 6 năm 1941, ba ngày sau khi Đức tấn công vào Liên Xô. Ngày 11 tháng 10 năm 1944, theo yêu cầu của Tiểu Khural Nhân dân Tuva (nghị viện), Tuva trở thành một phần của Liên Xô và được tổ chức thành tỉnh tự trị Tuva của CHXHCNXV Liên bang Nga theo quyết định của Đoàn chủ tịch Xô viết Tối cao Liên Xô. Tiểu Khural Nhân dân đã chính thức hóa việc sáp nhập tại phiên họp cuối cùng của nó vào ngày 1 tháng 11 năm 1944. Salchak Toka trở thành Bí thư thứ nhất của Đảng Cộng sản Tuva. Tuva duy trì vị thế là cộng hòa tự trị (CHXHCNXVTT Tuva trong thành phần CHXHCNXV Liên bang Nga) từ ngày 10 tháng 10 năm 1961 cho đến năm 1992.
Lãnh đạo
Nguyên thủ quốc gia
- Chủ tịch Khural Lập hiến
- Mongush Buyan-Badyrgy (14 tháng 8 năm 1921 - 15 tháng 8 năm 1921)
- Chủ tịch Đoàn chủ tịch Tiểu Khural
- Nimachyan (Nimazhav) (18 tháng 9 năm 1924 - 4 tháng 2 năm 1929)
- Chuldum Lopsakovi (5 tháng 2 năm 1929 - 5 tháng 11 năm 1936)
- Adyg-Tulush Khemchik-ool (6 tháng 11 năm 1936 - tháng 2 năm 1938)
- Oyun Polat (2 tháng 3 năm 1938 - 4 tháng 4 năm 1940)
- Khertek Anchimaa-Toka (6 tháng 4 năm 1940 - 11 tháng 10 năm 1944)
Đứng đầu chính phủ
- Chủ tịch Hội đồng Trung ương
- Sodnam Balchir Ambyn-noyon (15 tháng 8 năm 1921 - 28 tháng 2 năm 1922)
- Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng
- Lobsang-Osur (1 tháng 3 năm 1922 - 15 tháng 8 năm 1922)
- Idam-Syurun (Sürun) (15 tháng 8 năm 1922 - 19 tháng 9 năm 1923)
- Mongush Buyan-Badyrgy (20 tháng 9 năm 1923 - 18 tháng 9 năm 1924)
- Soyan Oruygu (18 tháng 9 năm 1924 - 1925)
- Donduk Kuular (1925 - tháng 1 năm 1929)
- Adyg-Tulush Khemchik-ool (tháng 1 năm 1929 - 6 tháng 11 năm 1936)
- Sat Churmit-Dazhi (6 tháng 11 năm 1936 - tháng 2 năm 1938)
- Bair Ondar (Aleksey Shirinmeyevich Bair) (1938 - 1940)
- Saryg-Dongak Chymba (Aleksandr Mangeyevich Chimba) (6 tháng 4 năm 1940 - 11 tháng 10 năm 1944)
Đứng đầu đảng
- Tổng bí thư
- Nimachyan (Nimazhav, Nimazhap) (1921 - 1923)
- Lobsang-Osur (1923)
- Chủ tịch
- Oyun Kursedy (9 tháng 7 năm 1923 - 15 tháng 3 năm 1924)
- Tổng bí thư
- Shagdyr (thấng 4 năm 1924 - tháng 1 năm 1926)
- Bí thư thứ nhất
- Mongush Buyan-Badyrgy (tháng 1 năm 1926 - tháng 2 năm 1927)
- Sodnam Balchir Ambyn-noyon (tháng 2 năm 1927 - tháng 1 năm 1929)
- Irgit Shagdyrzhap (tháng 1 năm 1929 - tháng 3 năm 1932)
- Tổng bí thư
- Salchak Toka (6 tháng 3 năm 1932 - 11 tháng 10 năm 1944)
Dân số
1918 | 1931 | 1944 | 1958 | |
---|---|---|---|---|
Người Tuva | 48.000 | 64.900 | 81.100 | 98.000 |
Người Nga và các dân tộc khác | 12.000 | 17.300 | 14.300a | 73.900 |
Tổng | 60.000 | 82.200 | 95.400 | 171.900 |
Tham khảo
Nguồn
- Toomas Alatalu. "Tuva: A State Reawakens." Soviet Studies. 44. 5 (1992); 881-895.
Liên kết ngoài
Wikimedia Commons có thêm thể loại hình ảnh và phương tiện truyền tải về Cộng hòa Nhân dân Tuva |
http://www.youtube.com/user/hoangkimvietnam
Trở về trang chính
Hoàng Kim, hoangkim, hoangkimvietnam, Ngọc Phương Nam, Chào ngày mới Thung dung, Dạy và học, Cây Lương thực, Tin Nông nghiệp Việt Nam, Food Crops, Cassava in Vietnam, VietnamAfricaCassavaRice, Khát khao xanh, Dayvahoc,Học mỗi ngày, Danh nhân Việt , Food Crops News, Điểm chính, CNM365, Kim LinkedIn, KimTwitter, KimFaceBook Đọc lại và suy ngẫm, Việt Nam tổ quốc tôi, Tình yêu cuộc sống, Thơ cho con
No comments:
Post a Comment