CNM365 Chào ngày mới 30 tháng 8. Wikipedia Ngày này năm xưa. Ngày Hiến pháp tại Kazakhstan, ngày Quốc tế người mất tích. Năm 1835 – Một nhóm người định cư gốc châu Âu thành lập một khu định cư là tiền thân của Melbourne (hình) bên bờ sông Yarra. Năm 1917 – Lính khố xanh người Việt tại Thái Nguyên, Đông Dương thuộc Pháp do Trịnh Văn Cấn chỉ huy bắt đầu tiến hành nổi dậy chống lại chính quyền thực dân. Năm 1984 – Chương trình tàu con thoi: Tàu con thoi Discovery khởi hành chuyến đi đầu tiên của nó từ Trung tâm vũ trụ Kennedy, Florida. Năm 1992 – Tay đua người Đức Michael Schumacher giành chiến thắng trong cuộc đua công thức 1 đầu tiên của ông tại giải Grand Prix Bỉ.
Kazakhstan
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Cộng hoà Kazakhstan | |||||
---|---|---|---|---|---|
Қазақстан Республикасы (tiếng Kazakh) Qazaqstan Respublïkası (tiếng Kazakh) Республика Казахстан (tiếng Nga) Respublika Kazakhstan |
|||||
|
|||||
Khẩu hiệu | |||||
không có | |||||
Quốc ca | |||||
Kazakhstan của tôi | |||||
Hành chính | |||||
Chính phủ | Cộng hòa bán tổng thống | ||||
Tổng thống Thủ tướng |
Nursultan Nazarbayev Daniyal Akhmetov |
||||
Ngôn ngữ chính thức | tiếng Kazakh, tiếng Nga | ||||
Thủ đô | Astana |
||||
Thành phố lớn nhất | Almaty | ||||
Địa lý | |||||
Diện tích | 2.725.047 km² (hạng 9) | ||||
Diện tích nước | 1,7% % | ||||
Múi giờ | UTC từ +5 đến +6; mùa hè: UTC từ +5 đến +6 | ||||
Lịch sử | |||||
Ngày thành lập | Từ Nga 16 tháng 12 năm 1991 |
||||
Dân cư | |||||
Dân số ước lượng (2005) | 15.185.844 người (hạng 61) | ||||
Mật độ | 5,6 người/km² (hạng 215) | ||||
Kinh tế | |||||
GDP (PPP) (2005) | Tổng số: $132,7 tỷ đô la Mỹ | ||||
HDI (2003) | 0,761 trung bình (hạng 80) | ||||
Đơn vị tiền tệ | Tenge (KZT ) |
||||
Thông tin khác | |||||
Tên miền Internet | .kz |
Kazakhstan giáp Nga về phía bắc, Trung Quốc về phía đông nam, hai nước Trung Á là Uzbekistan và Kyrgyzstan về phía nam. Kazakhstan cũng có đường bờ biển với 2 biển là biển Aral và biển Caspia.
Kazakhstan là quốc gia rộng thứ chín trên thế giới, nhưng về dân số chỉ xếp thứ 62 cho nên Kazakhstan là một trong những quốc gia có mật độ dân cư thưa thớt nhất trên thế giới: trung bình 6 người/km². Dân số theo thống kê năm 2006 của Kazakhstan là 15.300.000 người, giảm xuống từ 16.464.000 người vào năm 1989 do sự di cư của cộng đồng người Nga và người Đức Volga. Đại bộ phần địa hình của Kazakhstan là bán hoang mạc.
Trong hầu hết lịch sử lãnh thổ của Kazakhstan hiện đại từng là nơi sinh sống của các bộ tộc du mục. Tới thế kỷ 16 người Kazakh xuất hiện như một nhóm riêng biệt, được phân chia thành ba hãn quốc. Người Nga bắt đầu tiến vào thảo nguyên Kazakh ở thế kỷ 18, và tới giữa thế kỷ 19 toàn bộ Kazakhstan là một phần của Đế chế Nga. Sau cuộc cách mạng tháng 10 Nga năm 1917, và cuộc nội chiến sau đó, lãnh thổ Kazakhstan được tổ chức lại nhiều lần trở thành Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Xô viết Kazakh năm 1936, một phần của Liên bang Xô viết. Trong thế kỷ 20, Kazakhstan là nơi diễn ra nhiều dự án lớn của Liên xô, gồm cả chiến dịch Đất chưa Khai phá của Khrushchev, Sân bay vũ trụ Baikonur, và Semipalatinsk "Polygon", địa điểm thử nghiệm vũ khí hạt nhân chính của Liên xô.
Kazakhstan tuyên bố độc lập ngày 16 tháng 12 năm 1991, nước cộng hoà cuối cùng của Liên xô thực hiện điều này. Lãnh đạo thời cộng sản của họ, Nursultan Nazarbayev, trở thành tổng thống mới. Từ khi độc lập, Kazakhstan đã theo đuổi một chính sách đối ngoại cân bằng và nỗ lực phát triển nền kinh tế, đặc biệt là công nghiệp hydrocarbon. Tuy triển vọng kinh tế đang được cải thiện, Tổng thống Nazarbayev vẫn duy trì sự kiểm soát chặt chẽ với nền chính trị trong nước. Tuy vậy, danh tiếng quốc gia của Kazakhstan vẫn đang được tạo lập.[1] Hiện Kazakhstan được coi là quốc gia có ưu thế tại vùng Trung Á.[2] Nước này là thành viên của nhiều tổ chức quốc tế, gồm cả Liên hiệp quốc, Đối tác vì hoà bình của NATO, Cộng đồng các quốc gia độc lập, và Tổ chức Hợp tác Thượng Hải. Năm 2010, Kazakhstan làm chủ tịch Tổ chức An ninh và Hợp tác châu Âu.
Kazakhstan đa dạng về sắc tộc và văn hoá, một phần bởi những cuộc trục xuất hàng loạt nhiều nhóm sắc tộc tới nước này trong thời kỳ cầm quyền của Stalin. Người Kazakh là nhóm lớn nhất. Kazakhstan cho phép tự do tôn giáo, và nhiều đức tin khác nhau có hiện diện tại nước này. Hồi giáo là tôn giáo chính. Tiếng Kazakh là ngôn ngữ quốc gia, trong khi tiếng Nga cũng được chính thức sử dụng như một ngôn ngữ "tương đương" (với tiếng Kazakh) trong các định chế của Kazakhstan.[3][4]
Mục lục
Lịch sử
Thời kỳ cổ-trung đại
Kazakhstan bắt đầu có dân cư từ thời kỳ đồ đá, điều kiện đất đai và khí hậu thích hợp đã tạo điều kiện cho những người dân du mục đến đây sinh sống. Vào thập niên 1000 TCN, có một tộc du mục chăn cừu là người Scythia đến định cư tại xứ Kazakhstan. Từ "người Scythia" chỉ một dân tộc sinh sống trong một vùng đất rộng lớn, trong số đó có những phần đất của xứ Ukraina ngày nay ở phía bắc Hắc Hải, phía đông đến dãy Altai. Một nhà sử học dùng gọi người Scythia ở phía đông là người Saka, và trong số đó có cả người Scythia xứ Kazakhstan. Tuy nhiên, theo những nguồn khác thì các từ "người Saka" và "người Scythia" có thể được thay cho nhau, tức Scythia là theo tiếng Hy Lạp còn Saka là theo tiếng Ba Tư. Người Saka dùng ngựa vừa để làm phương tiện đi lại mà vừa để làm thức ăn.[5]Những tộc người khác cũng nói tiếng Đông Iran như người Scythia, và cũng giống y chang như người Scythia là người Sarmatian và người Massagetae, dù nhiều nhà sử học xem đây là những dân tộc khác. Người Massagetae trở nên nổi tiếng tại xứ Kazakhstan và một số nơi khác ở vùng Trung Á vì những chiến công của Nữ vương Tomyris. Theo sử cũ, sau khi vua Cyrus Đại Đế xua đại quân tinh nhuệ Ba Tư đánh tan tác người Massagetae và giết chết con trai của Nữ vương Tomyris là Spargapises, bà đã trả thù qua việc xua quân đập tan quân Ba Tư (530 TCN),[6] và chặt đầu vua Cyrus Đại Đế. Không những thế bà còn bỏ cái đầu ông vào một chiếc túi da chứa đầy máu người, để ông được tha hồ uống máu - một việc mà ông luôn thèm khát. Chiến thắng của Nữ vương Tomyris trước quân Ba Tư trở thành một khoảnh khắc huy hoàng trong lịch sử xứ Kazakhstan.[7] Do đó, nhiều nhà hàng ở xứ Kazakhstan có tên là "Tomyris".[8]
Vị vua kế tục nổi tiếng nhất của Cyrus Đại Đế là Darius I cầm binh đi đánh người Scythia ở phía đông Kazakhstan vào năm 519 TCN.[9] Một vị vua tàn bạo của xứ Macedonia - Hy Lạp là Alexandros Đại Đế lên nối ngôi vào năm 336 TCN, diệt được Đế quốc Ba Tư, và mở rộng Vương quốc Macedonia đến tận Kazakhstan và Pakistan ở phía đông. Vào năm 329 TCN, ông kéo quân đến sông Jaxartes ở biên giới phía bắc của Ba Tư (nay là sông Syr Darya tại các xứ Kazakhstan, Uzbekistan và Tadzhikistan). Trong một trận đánh tại đây, ông đại phá tộc người hùng mạnh Scythia và đánh đuổi họ về phía bắc.[10][11] Cùng với sự xâm chiếm của đế chế Mông Cổ vào đầu thế kỉ 13, cấc quận hành chính đầu tiên đã được thành lập dưới đế chế Mông Cổ, thậm chí về sau trở thành các lãnh thổ độc lập của Khả hãn quốc Kazakh (hay còn gọi là Ak Horde). Những thành thị trung cổ đầu tiên là Alie-Ata và Turkestan đã được phát hiện phía bắc con đường tơ lụa nổi tiếng, nơi ngày nay chính là Kazakhstan.
Cuộc sống du mục truyền thống trên các thảo nguyên rộng lớn và bán hoang mạc đã tạo nên những cuộc tìm kiếm không ngớt các đồng cỏ có giá trị vô cùng to lớn đối vời nền kinh tế dựa trên chăn nuôi. Dân tộc Kazakh hình thành trên cơ sở nhiều bộ lạc sống trong khu vực vào khoảng thế kỉ 15. Khoảng giữa thế kỉ 16, người Kazakh bắt đầ phát triển ngôn ngữ, văn hóa và nền kinh tế riêng của đất nước mình. Đầu thế kỉ 17, Khả hãn quốc Kazakh phân rã thành ba cộng đồng Lớn, Vừa và Nhỏ, liên kết trên cơ sở mối quan hệ huyết thống. Tuy nhiên những bất hòa về chính trị, sự liên kết lỏng lẻo về kinh tế và những cuộc chiến giữa các cộng đồng với nhau đã nhanh chóng làm suy sụp Khả hãn quốc Kazakh. Những cuộc chiến tranh giành lãnh thổ giữa các tiểu vương Kazakh và vua Ba Tư đã nổ ra trong nhiều thế kỉ.
Thời kỳ cận đại
Đầu thế kỉ 19, đế chế Nga bắt đầu mở rộng tới vùng Trung Á. Đế chế Nga đã xây dựng hệ thống hành chính, quân đội và các pháo đài tại vùng Trung Á để tranh giành quyền lợi và ảnh hưởng với đế chế Anh trong Trò chơi lớn (tiếng Anh: Great Game) tại vùng Trung Á. Tiếng Nga trở thành thứ tiếng chính thức tại mọi trường học và các cấp chính quyền. Người Nga nỗ lực áp đặt hệ thống chính quyền của mình lên trên sự giận dữ của người Kazakh. Những cuộc vận động dân tộc của người Kazakh đã nổ ra vào những năm 1860 kêu gọi bảo vệ văn hóa và truyền thống dân tộc trước sự Nga hóa của người Nga. Từ thập kỉ 1890, một bộ phận người Slavơ đến Trung Á đã thành lập thuộc địa tại vùng đất ngày nay là Kazakhstan. Họ đã xây dựng tuyến đường sắt xuyên dãy Ural từ Orenburg đến Tashkent, hoàn thành vào năm 1906. Tuyến đường sắt được giám sát và nhận được sự ủng hộ đặc biệt từ phía Chính quyền Nhập cư ở St. Petersburg. Cuộc chiến tranh giành đất đai và nguồn nước giữa người Kazakh và những người Slavơ mới đến đã nổ ra. Sự oán giận của người Kazakh dưới ách áp bức bóc lột của chế độ Nga hoàng đã làm bùng nổ cuộc Khởi nghĩa Trung Á năm 1916.Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Xô viết Kazakh
Nền nông nghiệp tập thể hóa cuối những năm 1920-1930 đã gây ra nạn đói trầm trọng ở Kazakhstan. Nhưng chính quyền Xô viết đã xây dựng một hệ thống chính quyền cộng sản vững mạnh để hội nhập Kazakhstan vào Liên bang Xô viết. Thập kỉ 1930, rất nhiều người dân đến từ các vùng khác của Liên Xô đã đến Kazakhstan.
Giai đoạn Chiến tranh thế giới thứ hai đã đánh dấu giai đoạn công nghiệp hóa ở Kazkahstan, nhưng chủ yếu tập trung khai thác khoáng sản để phục vụ cho chiến tranh. Đến khi Stalin qua đời, Kazakhstan vẫn là một nước nông nghiệp lạc hậu. Năm 1953, lãnh đạo Xô viết Nikita Khrushchev đã đề xướng kế hoạch Virgin Lands với mục tiêu biến những đồng cỏ ở Kazakhstan thành những vùng trồng cây lương thực cho Liên bang Xô viết. Chính sách Virgin Lands sau này được hiện đại hóa và phát triển dưới thời Leonid Brezhnev.
Tình trạng căng thẳng trong xã hội Xô viết đã dẫn tới những yêu cầu phải cải cách chính trị và kinh tế, lên tới đỉnh điểm vào những năm 1980. Tháng 12 năm 1986, những cuộc tuần hành lớn của các thanh niên sắc tộc Kazakh, sau này được gọi là cuộc nổi dậy Jeltoqsan, diễn ra ở Almaty để phản đối sự thay thế Thư ký thứ nhất của Đảng Cộng sản Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Xô viết Kazakh Dinmukhamed Konayev bằng Gennady Kolbin từ Liên bang Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Xô viết Nga. Quân đội chính phủ đàn áp cuộc biểu tình, nhiều người đã bị giết hại và bỏ tù. Trong những ngày cai trị cuối cùng của Liên xô, sự bất mãn tiếp tục gia tăng và được thể hiện nhờ chính sách glasnost của lãnh tụ Liên xô Mikhail Gorbachev.
Độc lập
Cùng với làn sóng các nước cộng hoà thuộc Liên xô tìm kiếm sự tự trị lớn hơn nữa, Kazakhstan tuyên bố chủ quyền như một nước cộng hoà bên trong Liên xô tháng 10 năm 1990. Sau cuộc đảo chính bất thành tại Moskva tháng 8 năm 1991 và sự giải tán Liên xô, Kazakhstan tuyên bố độc lập ngày 16 tháng 12 năm 1991. Đây là nước cộng hoà cuối cùng thuộc Liên xô tuyên bố độc lập.Những năm sau độc lập được đánh dấu bởi những cải cách to lớn với nền kinh tế kiểu Xô viết và sự độc quyền quyền lực chính trị. Dưới sự cai trị của Nursultan Nazarbayev, người đã lên nắm quyền lực năm 1989 với tư cách lãnh đạo Đảng Cộng sản Kazakhstan và sau đó được bầu làm Tổng thống năm 1991, Kazakhstan đã có những bước tiến to lớn trong việc phát triển một nền kinh tế thị trường. Nước này đã có tăng trưởng kinh tế mạnh từ năm 2000, một phần nhờ các trữ lượng dầu mỏ, khí đốt, và khoáng sản to lớn.
Tuy nhiên dân chủ vẫn chưa được cải thiện nhiều từ năm 1991. "Tháng 6 năm 2007, nghị viện Kazakhstan đã thông qua một điều luật trao cho Tổng thống Nursultan Nazarbayev quyền lực và quyền ưu tiên trọn đời, gồm cả quyền tham vấn các tổng thống tương lai, miễn trừ bị truy tố, và ảnh hưởng với chính sách đối nội và đối ngoại. Những lời chỉ trích nói rằng trên thực tế ông đã trở thành "tổng thống trọn đời."[12][13]
Trong mười năm nắm quyền, Nazarbayev đã liên tục kiểm duyệt báo chí thông qua việc sử dụng độc đoán các điều luật về "phỉ báng",[14] ngăn cản truy cập vào các web site đối lập (9 tháng 11 năm 1999), cấm giáo phái tôn giáo Wahhabi (5 tháng 9 năm 1998), và từ chối yêu cầu đòi thống đốc của 14 tỉnh thuộc Kazakhstan phải được bầu lên chứ không phải do tổng thống chỉ định (7 tháng 4 năm 2000)."
Chính phủ và chính trị
Hệ thống chính trị
Kazakhstan là một nước cộng hoà tổng thống. Tổng thống là Nursultan Nazarbayev. Tổng thống cũng là tổng tư lệnh các lực lượng vũ trang và có quyền phủ quyết luật. Có ba phó thủ tướng và 16 bộ trưởng. Karim Massimov đã giữa chức thủ tướng từ ngày 10 tháng 1 năm 2007.Kazakhstan có một Nghị viện lưỡng viện, gồm hạ viện (Majilis) và thượng viện (Thượng viện Kazakhstan). Các quận bầu cử riêng biệt bầu ra 67 ghế trong Majilis; cũng có 10 thành viên được bầu theo danh sách bầu cử đảng phái chứ không phải qua các quận bầu cử riêng biệt. Thượng viện có 39 thành viên. Hai thượng nghị sĩ được lựa chọn bởi mỗi nhóm bầu cử (Maslikhats) thuộc 16 đơn vị hành chính chính của Kazakhstan (14 tỉnh, cộng thêm hai thành phố Astana và Almaty). Tổng thống chỉ định bảy thượng nghị sĩ còn lại. Các đại biểu Majilis và chính phủ đều có quyền đề xuất luật pháp, dù chính phủ đề xuất hầu hết luật pháp được Nghị viện xem xét.
Bầu cử
Năm 1999, Kazakhstan đã đề nghị tư cách quan sát viên tại Hội đồng Nghị viện châu Âu. Câu trả lời chính thức của Nghị viện là Kazakhstan chỉ có thể đề nghị tư cách thành viên đầy đủ, bởi họ nằm một phần ở châu Âu, nhưng họ sẽ không được trao bất kỳ một tư cách nào tại Hội đồng trừ khi các thành tích dân chủ và nhân quyền của nước này được cải thiện.
Ngày 4 tháng 12 năm 2005, Nursultan Nazarbayev tái cử với một chiến thắng long trời lở đất. Uỷ ban bầu cử thông báo rằng ông đã giành được hơn 90% số phiếu. Tổ chức An ninh và Hợp tác châu Âu (OSCE) kết luận cuộc bầu cử không đạt các tiêu chuẩn quốc tế dù có một số cải thiện trong cách quản lý bầu cử. Tân Hoa Xã thông báo rằng các quan sát viên từ Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa, chịu trách nhiệm giám sát 25 điểm bỏ phiếu ở Astana, thấy rằng việc bỏ phiếu tại đó được tiến hành "minh bạch và công bằng" manner.[15]
Ngày 17 tháng 8 năm 2007, cuộc bầu cử hạ viện được tiến hành với việc Đảng Otan cầm quyền giành mọi ghế với 88% số phiếu. Không đảng đối lập nào giành đủ mức tối thiểu 7% để có ghế. Điều này đã khiến truyền thông địa phương đưa ra câu hỏi về khả năng và tuy tín của lãnh đạo các đảng đối lập. Các đảng đối lập đã đưa ra những cáo buộc gian lận nghiêm trọng trong cuộc bầu cử.[16][17]
Cơ quan mật vụ
Uỷ ban An ninh Quốc gia Kazakhstan (KNB) được thành lập ngày 13 tháng 6 năm 1992. Nó bao gồm Cơ quan An ninh Nội địa, Cơ quan Phản gián Quân sự, Biên phòng, nhiều đơn vị Commando, và Tình báo Nước ngoài (Barlau). Barlau được coi là thành phần quan trọng nhất của KNB. Giám đốc của nó là Thiếu tướng Omirtai Bitimov.Địa lý
Với diện tích khoảng 2.725.047 triệu km², Kazakhstan là quốc gia rộng thứ chín trên thế giới và là quốc gia không giáp biển có diện tích lớn nhất. Diện tích của Kazakhstan tương đương với diện tích của vùng Tây Âu. Nước này chia sẻ đường biên giới với các nước Nga (6648 km), Uzbekistan (2203 km), Trung Quốc (1533 km), Kyrgyzstan (1051 km), Turkmenistan (379 km). Các thành phố chính gồm Astana (thủ đô từ năm 1997), Almaty (thủ đô cũ), Karaganda, Shymkent, Semey và Turkestan.Địa hình từ tây sang đông trải dài từ bờ biển Caspian đến dãy núi Altay, từ phía bắc là đồng bằng Tây Siberia đến phía nam là các hoang mạc khô cằn của vùng Trung Á. Thảo nguyên Kazakhstan có diện tích khoảng 804.500 km², chiếm một phần ba diện tích đất nước và là vùng thảo nguyên lớn nhất trên thế giới. Trong các thảo nguyên có nhiều đòng cỏ và các hoang mạc cát. Các sông và hồ quan trọng ở Kazakhstan bao gồm: biển Aran, sông Ili, sông Irtysh, sông Ural, hồ Balkhash và hồ Zaysan.
Do có khí hậu lục địa nên biên độ nhiệt trong năm của Kazakhstan rất lớn. Mùa hạ nhiêt độ lên cao, trung bình đạt hơn 25 °C, nhưng đến mùa đông nhiệt độ lại xuống rất thấp, có lúc xuống hơn -20 °C. Chênh lệch nhiệt độ giữa ngày và đêm cũng rất lớn. Lượng mưa ít và tập trung chủ yếu vào mùa hạ.
Các tỉnh
- Taldy-Korgan
- Aqmola
- Aqtobe
- Atyrau
- Batys Qazaqstan (Oral)
- Mangghystau
- Ongtustik Qazaqstan (Shymkent)
- Pavlodar
- Qaraghandy
- Qostanay
- Qyzylorda
- Shyghys Qazaqstan (Oskemen)
- Soltustik Qazaqstan (Petropavl)
- Zhambyl (Taraz)
Các thành phố
- Astana
- Almaty
- Bayquogyr
Kinh tế
Thách thức chủ yếu của Kazakhstan từ năm 2002 là quản lý dòng ngoại tệ mạnh đổ vào từ bên ngoài mà không làm gia tăng lạm phát. Từ thời điểm đó, lạm phát vẫn chưa được quản lý chặt chẽ, ở mức 6.6% năm 2002, 6.8% năm 2003, và 6.4% năm 2004.
Năm 2000 Kazakhstan trở thành nước cộng hoà cũ đầu tiên của Liên xô trả lại toàn bộ khoản vay của mình cho Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), 7 năm trước thời hạn. Tháng 3 năm 2002, Bộ Thương mại Hoa Kỳ đã trao quy chế kinh tế thị trường cho Kazakhstan theo luật thương mại Hoa Kỳ. Sự thay đổi quy chế này công nhận những cải cách kinh tế thị trường thực sự trong các lĩnh vực chuyển đổi tiền tệ, quyết định mức lương, tính mở với đầu tư nước ngoài, và sự kiểm soát của chính phủ với các phương tiện sản xuất và phân phối tài nguyên.
Tháng 9 năm 2002 Kazakhstan trở thành quốc gia đầu tiên trong CIS nhận được sự đánh giá mức độ tín nhiệm cấp đầu tư từ một cơ quan đánh giá mức độ tín nhiệm lớn của thế giới. Ở thời điểm cuối tháng 12 năm 2003, tổng nợ nước ngoài của Kazakhstan là khoảng $22.9 tỷ. Tổng nợ chính phủ là $4.2 tỷ. Con số này chiếm 14% GDP. Đã có sự sụt giảm đáng kể trong tỷ lệ nợ trên GDP trong những năm vừa qua; tỷ lệ tổng nợ chính phủ trên GDP năm 2000 là 21.7%, năm 2001 là 17.5%, và năm 2002 là 15.4%.
Đà tăng trưởng kinh tế, cộng với những kết quả từ những cuộc cải cách lĩnh vực thuế và tài chính trước đó, đã cải thiện đáng kể tình hình tài chính chính phủ. Từ năm 1999 mức thâm hụt ngân sách 3.5% GDP xuống mức thâm hụt 1.2% năm GDP năm 2003. Nguồn thu chính phủ đã tăng từ 19.8% GDP năm 1999 lên 22.6% GDP năm 2001, nhưng đã giảm xuống 16.2% GDP năm 2003. Năm 2000, Kazakhstan đã thông qua một luật thuế mới trong một nỗ lực nhằm củng cố những thành quả đó.
Ngày 29 tháng 11 năm 2003 Luật về những Thay đổi Luật Thuế được thông qua, giảm các tỷ suất thuế. Thuế giá trị gia tăng giảm từ 16% xuống còn 15%, thuế xã hội từ 21% xuống 20%, và thuế thu nhập từ 30% còn 20%. (Ngày 7 tháng 7 năm 2006 thuế thu nhập cá nhân thậm chí còn giảm nữa xuống mức 5% cho thu nhập cá nhân dưới hình thức các cổ phần và 10% cho thu nhập cá nhân khác.) Kazakhstan còn tiến hành những cải cách xa hơn nữa bằng việc thông qua một luật thuế đất đai ngày 20 tháng 6 năm 2003, và một luật thuế nhập khẩu mới ngày 5 tháng 4 năm 2003.
Năng lượng là lĩnh vực kinh tế chủ chốt. Sản lượng dầu mỏ và khí tự nhiên cô đặc ở Kazakhstan lên tới 51.2 triệu tấn năm 2003, lớn hơn 8.6% năm 2002. Kazakhstan đã tăng xuất khẩu dầu và khí tự nhiên cô đặc lên 44.3 triệu tấn năm 2003, 13% cao hơn mức năm 2002. Sản xuất khí đốt tại Kazakhstan năm 2003 lên tới 13.9 mét khối (491 tỷ cu. ft), tăng 22.7% so với năm 2002, gồm cả sản lượng khí tự nhiên 7.3 tỷ mét khối (258 tỷ cu. ft);
Kazakhstan có trữ lượng khoảng 4 tỷ tấn dầu đã được chứng minh và có thể khai thác cộng thêm 2,000 kilômét khối (480 cu mi) khí đốt. Những phân tích công nghiệp cho rằng kế hoạch mở rộng sản xuất dầu mỏ, cộng với sự phát triển những giếng dầu mới, sẽ cho phép nước này đạt sản lượng 3 triệu barrel (477,000 m³) mỗi ngày vào năm 2015, đưa YO MAMMA vào hàng 10 quốc gia sản xuất dầu mỏ lớn nhất thế giới. Xuất khẩu dầu mỏ năm 2003 của Kazakhstan được đánh giá ở mức hơn 7 tỷ dollar, chiếm 65% tổng giá trị xuất khẩu và 24% GDP. Các giếng dầu và mỏ khí với trữ lượng lớn gồm Tengiz với 7 tỷ barrel (1.1 km³); Karachaganak với 8 tỷ barrel (1.3 km³) và 1,350 km³ khí tự nhiên); và Kashagan với 7 tới 9 tỷ barrel (1.1 tới 1.4 km³).
Kazakhstan đã đưa ra một chương trình cải cách lương hưu đầy tham vọng vào năm 1998. Ở thời điểm 1 tháng 1 năm 2005, số tiền hưu trí là khoảng $4.1 tỷ. Có 16 quỹ tiết kiệm hưu trí trong nước cộng hoà. Quỹ Tích tụ Hưu trí Nhà nước, quỹ duy nhất thuộc sở hữu nhà nước, có thể được tư nhân hoá ngay từ năm 2006. Cơ quan quản lý tài chính thống nhất của quốc gia giám sát và điều hành các quỹ hưu trí. Các nhu cầu ngày càng gia tăng về việc đầu tư một cách hiệu quả các quỹ hưu trí tạo ra sự phát triển nhanh chóng của thị trường nợ thế chấp. Nguồn vốn quỹ hưu trí đang được đầu tư hầu như toàn bộ vào các tập đoàn và các trái phiếu chính phủ, gồm cả Eurobond của chính phủ Kazakhstan.
Hệ thống ngân hàng Kazakhstan đang phát triển nhanh chóng. Tư bản hoá của hệ thống ngân hàng hiện tại vượt hơn 1 tỷ $1. Ngân hàng Quốc gia đã đưa ra các khoản đảm bảo ký quỹ trong chiến dịch của họ nhằm tăng cường sức mạnh lĩnh vực ngân hàng. Nhiều ngân hàng lớn nước ngoài đã có chi nhánh tại Kazakhstan, gồm cả RBS, Citibank, và HSBC. Raiffeisen Zentralbank và UniCredit gần đây đều đã thâm nhập vào thị trường dịch vụ tài chính Kazakhstan qua việc mua lại và góp vốn.
Dù sức mạnh kinh tế của Kazakhstan đã xuất hiện trong hầu hết thập kỷ đầu tiên của thế kỷ 21, cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008-2009 đã phơi bày một số sự yếu kém trung tâm trong nền kinh tế quốc gia. Tăng trưởng GDP hàng năm của Kazakhstan đã giảm 19.81% năm 2008. Bốn ngân hàng chính đã phải viện tới sự trợ giúp của chính phủ vào cuối năm 2008 và giá trị tài sản thực đã giảm mạnh.
Nông nghiệp
Các sản phẩm gia súc chính gồm các sản phẩm sữa, da, thịt, và len. Các mặt hàng lương thực chính của nước này gồm bột mì, lúa mạch, bông, và gạô. Xuất khẩu bột mì, một nguồn thu ngoại tệ lớn, đứng trong tốp các mặt hàng xuất khẩu hàng đẩu của Kazakhstan. Năm 2003 Kazakhstan thu hoạch tổng cộng 17.6 triệu tấn ngũ cốc, tăng 2.8% so với năm 2002. Nông nghiệp Kazakhstan vẫn có nhiều vấn đề môi trường từ sự quản lý kém trong những năm thời Liên xô. Một số loại rượu Kazakh được sản xuất ở những vùng núi non phía đông đất nước tại Almaty.
Kazakhstan được cho là một trong những quê hương gốc của táo, đặc biệt là tổ tiên hoang dã của Malus domestica, Malus sieversii. Ở Kazakhstan, quê hương của nó, nó được gọi là 'alma'. Trên thực tế, vùng được cho là quê hương của nó là Almaty, hay 'nhiều táo'.[19] Loài cây này vẫn mọc hoang dã tại các vùng núi Trung Á phía nam Kazakhstan, Kyrgyzstan, Tajikistan, và Tân Cương, Trung Quốc.
Tài nguyên thiên nhiên
Tông cộng, có 160 trầm tích với hơn 2.7 tỷ tấn dầu mỏ. Những cuộc thám hiểm dầu mỏ đã cho thấy trầm tích trên bờ biển Caspian chỉ là một phần của một trầm tích lớn hơn. Có tin cho rằng 3.5 tỷ tấn dầu và 2.5 nghìn tỷ mét khối khí có thể được khai thác từ khu vực này. Tổng tước tính trầm tích dầu mỏ của Kazakhstan là 6.1 tỷ tấn. Tuy nhiên, chỉ có 3 nhà máy lọc dầu tại nước này, nằm ở Atyrau, Pavlodar, và Shymkent. Chúng không đủ năng lực xử lý tổng sản lượng dầu thô khai thác vì thế đa phần dầu thô được xuất khẩu sang Nga. Năm 2006, Kazakhstan sản xuất xấp xỉ 1426 m3 dầu và 23.5 tỷ mét khối khí tự nhiên.[22]
Quan hệ ngoại giao và các lực lượng vũ trang
Kazakhstan cũng là một thành viên của Cộng đồng các quốc gia độc lập, Tổ chức Hợp tác Kinh tế và Tổ chức Hợp tác Thượng Hải. Các nước Kazakhstan, Nga, Belarus, Kyrgyzstan và Tajikistan đã thành lập Cộng đồng Kinh tế Âu Á năm 2000 để tái thúc đẩy những nỗ lực trước đó nhằm cân đối các sắc thuế thương mại và tạo lập một vùng thương mại tự do với một hệ thống thuế quan duy nhất. Ngày 1 tháng 12 năm 2007, có thông báo rằng Kazakhstan đã được lựa chọn làm chủ tịch OSCE năm 2010.
Từ khi giành độc lập năm 1991, Kazakhstan đã theo đuổi cái được gọi là chính sách đối ngoại đa chiều (многовекторная внешняя политика), tìm kiếm các mối quan hệ tốt và cân bằng với các nước láng giềng, Nga và Trung Quốc, và Hoa Kỳ và phương Tây nói chung.[23][24] Chính sách này đã mang lại những kết quả trong lĩnh vực dầu mỏ và khí đốt, nơi các công ty Mỹ, Nga, Trung Quốc và châu Âu đều hiện diện ở mọi giếng dầu lớn, và trong nhưntgx phát triển đa hướng của các đường ống dẫn dầu xuất khẩu từ Kazakhstan. Kazakhstan cũng có những quan hệ kinh tế, chính trị mạnh và đang phát triển nhanh chóng với Thổ Nhĩ Kỳ. Năm 2011, và có thể ngay từ năm 2010, Kazakhstan có kế hoạch thành lập một liên minh thuế quan với Nga và Belarus.[25]
Nga hiện thuê xấp xỉ 6,000 km² (2,300 mi²) lãnh thổ bao gồm cả Sân bay Vũ trụ Baikonur ở phía nam trung Kazakhstan, nơi con người đầu tiên cũng như tàu con thoi đầu tiên của Liên xô Buran và trạm vũ trụ đầu tiên Mir đã được phóng lên quỹ đạo.
Đa phần lực lượng quân đội Kazakhstan được kế thừa từ Quân đội Quận Turkestan của Các lực lượng Vũ trang Liên xô. Các đơn vị này đã trở thành cốt lõi của quân đội mới của Kazakhstan với toàn bộ các đơn vị của Quân đoàn số 40 (Quân đoàn số 32 cũ) và một phần của Quân đoàn số 17, gồm sáu sư đoàn lục quân, các căn cứ quân nhu, các lữ đoàn đổ bộ số 14 và 35, 2 lữ đoàn tên lửa, 2 trung đoàn pháo binh và một lượng lớn trang thiết bị đã được rút khỏi Ural sau khi ký kết Hiệp ước về Các lực lượng Vũ trang Thông thường ở châu Âu. Đợt mở rộng lớn nhất của Quân đội Kazakhstan gần đây nhấn mạnh trên các đơn vị thiết giáp. Từ năm 1990, các đơn vị thiết giáp đã mở rộng từ 500 lên 1,613 năm 2005.
Không quân Kazakhstan gồm hầu hết là các máy bay thời Liên xô, gồm 41 MiG-29, 44 MiG-31, 37 Su-24 và 60 Su-27. Một lực lượng hải quân nhỏ cũng được duy trì tại Biển Caspian.
Kazakhstan đã gửi 49 kỹ sư quân sự tới Iraq để hỗ trợ phi vụ hậu chiến của Hoa Kỳ tại Iraq.
Nhân khẩu
Sắc tộc Kazakh chiếm 67% dân cư và sắc tộc Nga chiếm 21%,[27] với một số lượng đáng kể các nhóm khác, gồm Tatar, Ukraina, Uzbek, Belarusia, Uyghur, Azerbaijan, Ba Lan[28], và Litva. Một số cộng đồng thiểu số như người Đức trước kia từng định cư tại Nga (đặc biệt là người Đức Volga), Ukrainia, Triều Tiên, Kurd, Chechen,[29] Meskhetian Turk, và các thành phần đối lập chính trị với chính quyền Nga từng bị trục xuất tới Kazakhstan trong thập niên 1930 và 1940 bởi Stalin; một số trại lao động (Gulag) lớn của Liên xô từng tồn tại ở nước này.[30]
Cuộc di cư đáng chú ý của người Nga cũng liên quan tới Chiến dịch Virgin Lands và chương trình vũ trụ Liên xô trong thời Khrushchev.[31] Cũng có một cộng đồng Do Thái nhỏ nhưng khá mạnh. Trước năm 1991 có một triệu người Đức tại Kazakhstan; đa số họ đã di cư về Đức sau sự tan rã của Liên bang Xô viết.[32] Đa số các thành viên của cộng đồng người Hy Lạp Pontian đã di cư về Hy Lạp. Hồi cuối thập niên 1930 hàng ngàn người Triều Tiên ở Liên xô đã bị trục xuất tới Trung Á. Những người này được gọi là Koryo-saram.
Kazakhstan là một quốc gia song ngữ: tiếng Kazakh, được 64.4% dân số sử dụng, có vị thế ngôn ngữ "nhà nước", trong khi tiếng Nga, được hầu hết người Kazakhstan sử dụng, được tuyên bố là ngôn ngữ "chính thức", và hiện nó được sử dụng trong giao dịch kinh tế hàng ngày. Tiếng Anh cũng phổ biến trong giới trẻ từ khi Liên bang Xô viết sụp đổ và 30% người dân thành thị, đặc biệt là các thế hệ trẻ nói thông thạo tiếng Anh, các ngoại ngữ khác cũng được sử dụng ở một số mức độ trong cộng đồng người Kazakhstan là tiếng Thổ Nhĩ Kỳ, bởi sự tương đồng của nó với ngôn ngữ nhà nước của Kazakhstan, tiếng Kazakh.
Thập niên 1990 được đánh dấu bởi cuộc di cư của nhiều người Nga và người Đức Volga khỏi Kazakhstan, một quá trình đã bắt đầu từ thập niên 1970; đây là một yếu tố chính khiến những người bản địa Kazakh trở thành một cộng đồng đa số cùng với một tỷ lệ sinh của người Kazakh lớn hơn và sắc tộc Kazakh nhập cư từ Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa, Mông Cổ, và Nga.
Đầu thế kỷ 21, Kazakhstan đã trở thành quốc gia đứng hàng đầu về nhận con nuôi quốc tế. Gần đây điều này đã gây ra một số sự chỉ trích trong nghị viện Kazakhstan, vì những lo ngại về độ an toàn và sự đối xử với trẻ em nước ngoài và những câu hỏi liên quan tới mức độ dân số thấp tại Kazakhstan.
Thuật ngữ
Thuật ngữ Kazakhstani (tiếng Kazakh: қазақстандықтар, Qazaqstandıqtar; tiếng Nga: казахстанцы, kazakhstantsy') được đặt ra để miêu tả tất cả người dân Kazakhstan, gồm cả người phi Kazakh.[33] Từ "Kazakh" nói chung được sử dụng để chỉ người thực tế có dòng dõi Kazakh (gồm cả những người sống ở Trung Quốc, Afghanistan, Thổ Nhĩ Kỳ, Uzbekistan và các quốc gia khác).Từ Kazakh xuất xứ từ một từ Thổ cổ có nghĩa "độc lập, một tinh thần tự do". Nó là kết quả của nền văn hoá du mục trên lưng ngựa của người Kazakh. Từ Avestan/Tiếng Ba Tư Cổ (Xem Các ngôn ngữ Ấn-Âu) "-stan" có nghĩa "vùng đất" hay "nơi của", vì thế "Kazakhstan" là "vùng đất của người Kazakh".
Tôn giáo
Xấp xỉ 65% dân số là tín đồ Hồi giáo,[35] chủ yếu là người thuộc sắc tộc Kazakh, chiếm hơn một nửa dân số, cũng như các sắc tộc Uzbek, Uighur, và Tatar. Đa số theo dòng Hồi giáo Sunni của trường phái Hanafi.[36] Chưa tới 1% thuộc trường phái Shafi'i Sunni (chủ yếu là người Chechen). Vùng phía nam đất nước có mức độ tập trung đông nhất số người tự coi mình là tín đồ Hồi giáo. Tổng cộng có 2,300 nhà thờ Hồi giáo,[34] tất cả đều thuộc "Hiệp hội Tôn gáo của người Hồi giáo Kazakhstan", đứng đầu là một mufti tối cao.[37] Eid al-Adha được công nhận là một ngày lễ quốc gia.[34]
Một phần ba dân số là người Nga, gồm cả sắc tộc Ukrainia và Belarusia, và theo truyền thống theo đạo chính thống Nga. Các nhóm Thiên chúa giáo khác gồm Cơ đốc giáo La mã, Nhà thờ Chính thống Hy Lạp, Baptist và các phái Tin lành khác.[36] Tổng cộng có 258 nhà thờ Chính thống, 93 nhà thờ Cơ đốc, và hơn 500 nhà thờ Tin lành và các nhà cầu nguyện. Lễ Noel của Nhà thờ Chính thống Nga được công nhận là một ngày lễ quốc gia tại Kazakhstan.[34] Các nhóm tôn giáo khác gồm Do Thái (chưa tới 1%), và một số Hare Krishna và Phật giáo.[36]
Giáo dục
Giáo dục là phổ thông và bắt buộc cho tới cấp hai và tỷ lệ biết chữ ở người trưởng thành là 99.5%. Giáo dục gồm ba giai đoạn chính: giáo dục tiểu học (lớp 1–4), giáo dục cơ bản chung (lớp 5–9) và giáo dục trung học (lớp 10–11 hay 12) được chia thành các cấp giáo dục tiếp nối chung và giáo dục chuyên nghiệp. (Giáo dục tiểu học có một năm chuẩn bị.) Các cấp giáo dục này có thể được theo ở một hay nhiều các cơ sở khác biệt (ví dụ trường tiểu học, sau đó là trường cấp hai). Gần đây, nhiều trường cấp hai, trường chuyên nghiệp, magnet school, trường thể dục, lyceum, ngôn ngữ và thể dục kỹ thuật đã được thành lập. Giáo dục chuyên nghiệp cấp hai được cung cấp tại các cơ sở chuyên nghiệp đặc biệt hay các trường kỹ thuật, lyceum hay cao đẳng và trường dạy nghề.Hiện tại, có các trường đại học, viện hàn lâm, và viện, nhạc viện, trường cao học và cao đẳng. Chúng có ba cấp chính: giáo dục cao học căn bản cung cấp những kiến thức nền tảng của lĩnh vực học tập lựa chọn và người tốt nghiệp sẽ được cấp bằng đại học; giáo dục cao học chuyên nghiệp theo đó sinh viên sẽ được trao Bằng chuyên viên; và giáo dục sư phạm khoa học với Bằng Master. Giáo dục sau đại học với Kandidat nauk (Candidate of Sciences) và Tiến sĩ Khoa học. Với việc thông qua Luật về Giáo dục và Giáo dục Cao học, một lĩnh vực tư nhân đã được thành lập và nhiều định chế tư nhân đã được cấp phép hoạt động.
Bộ Giáo dục Kazakhstan điều hành một chương trình học bổng Bolashak rất thành công, hàng năm trao xấp xỉ 3000 suất học bổng cho các sinh viên. Quỹ cung cấp học bổng cho việc theo học ở các trường nước ngoài, gồm cả các trường đại học danh tiếng ở University College London, Oxford và Ivy League. Các điều khoản của chương trình gồm việc bắt buộc quay trở về Kazakhstan để làm việc trong ít nhất năm năm.
Thể thao
- Bóng đá là môn thể thao phổ biến nhất tại Kazakhstan. Liên đoàn Bóng đá Kazakhstan (tiếng Kazakh: Қазақстанның Футбол Федерациясы, Qazaqstannıñ fwtbol federacïyası) là cơ quan quản lý quốc gia của bộ môn này. FFK tổ chức các đội bóng đá nam nữ và các đội tuyển futsal quốc gia.
- Hockey trên băng - Đội tuyển hockey trên băng Kazakhstani đã tham gia tranh tài tại các Olympic mùa đông năm 1998 và 2006 cũng như Giải vô địch Hockey trên Băng Thế giới năm 2006 Kazakhstan có 7 đội tuyển. Các đội là Kaztsink-Torpedo Ust-Kamenogorsk, Kazakhmys Satpayev, Gornyak Rudnyi, Barys Astana, Irtysh Pavlodar, Yenbek Almaty, Sary-Arka Qaragandy.
- Đua xe đạp - Vận động viên đua xe đạp nổi tiếng nhất Kazakhstan là Alexander Vinokourov, và đua xe đạp là hoạt động phổ biến trong cả nước. Vinokourov có thành tích ấn tượng khi thi đấu cho các đội tuyển Telekom/T-Mobile khi bắt đầu sự nghiệp. Anh đã giành huy chương bạc trên đường đua tại Olympic Sydney năm 2000 và về ba tổng thành tích tại Tour de France năm 2003. Sau khi chuyển sang đội Liberty Seguros, Vinokourov đã về thứ 5 tại Tour de France năm 2005, trong khi hai vận động viên trẻ người Kazakhstan khác, Andrej Kashechkin và Maksim Iglinskiy, về thứ 19 và 37. Năm 2006 đội của Vinokourov được đổi tên thành ONC sau một vụ scandal doping buộc đội Liberty Seguros phải rời Tour de France năm 2006. Vinokourov sau đó đã góp sức thành lập một đội mới, Astana, lấy theo tên thành phố thủ đô Kazakhstan và được một nhóm các doanh nghiệp Kazakhstan tài trợ, họ sử dụng màu lá cờ Kazakhstan làm màu chính cho trang phục của đội. Cùng năm ấy Vinokourov và Kashechkin về nhất và thứ ba tổng sắp tại Vuelta a España năm 2006 ở Tây Ban Nha.
Đội đua xe đạp Astana tiếp tục hoạt động dưới bộ máy quản lý mới và tiếp tục gồm các vận động viên đua xe Kazakhstan tham gia vào Grand Tours, dù vị trí lãnh đạo đội đã được chuyển cho Alberto Contador người Tây Ban Nha và Lance Armstrong và Levi Leipheimer người Mỹ. Tuy nhiên, tháng 9 năm 2008, Vinokourov thông báo ý định quay trở lại thi đấu năm 2009, và anh đã quay trở lại vào tháng 8 năm 2009, dù vẫn không được phép tái gia nhập Astana.
- Đấm bốc - Từ khi giành độc lập năm 1991, các vận động viên đấm bốc Kazakhstan đã giành nhiều huy chương. Nhờ thế Kazakhstan nhanh chóng có số lượng huy chương lớn chưa từng có nhờ môn đấm bốc tại các kỳ Olympic, nơi nước này đã nhảy từ những hạng cuối cùng lên vị trí thứ 11 hiện tại trong số các quốc gia tham dự. Hiện tại, 2 vận động viên đấm bốc Kazakhstan (Bakhtiyar Artayev, Vassiliy Jirov) đã giành được Val Barker Trophy, đưa Kazakhstan lên đứng thứ hai với chỉ 3 huy chương phía sau Hoa Kỳ.
- Các môn thể thao trên lưng ngựa cũng rất phổ biến ở Kazakhstan. Từ năm 1993 Liên đoàn Đua ngựa của Cộng hoà Kazakhstan đã tổ chức các sự kiện cấp Quốc gia và Quốc tế các môn Cưới ngựa vượt chướng ngại vật, Dạy ngựa, Thể thao có dùng ngựa và Việt dã.[cần dẫn nguồn]
- Khúc côn cầu - Đội tuyển quốc gia nằm trong số những đội tuyển mạnh nhất và đã hai lần giành huy chương đồng tại Bandy World Championships. Trong thời Liên xô, Dynamo Alma-Ata đã giành chức vô địch quốc gia năm 1977 và 1990.
- Đại hội Thể thao châu Á Mùa đông năm 2011 được tổ chức tại nước này.
Văn hoá
Đức tin truyền thống Kazakh cho rằng các linh hồn riêng biệt sinh sống và vận động trên Trái Đất, bầu trời, nước và lửa, cũng như các loài thú nuôi. Tới ngày nay, các buổi lễ dành cho những vị khách đặc biệt tại các vùng nông thôn thường diễn ra như một ngày lễ giết cừu sống. Những vị khách đó thỉnh thoảng được yêu cầu cắt tiết cừu và xin linh hồn của nó cho phép tham dự bữa tiệc bằng thịt của nó. Bên cạnh cừu, nhiều loại thực phẩm truyền thống khác vẫn giữ giá trị biểu tượng trong văn hoá Kazakh.
Trong ẩm thực quốc gia, thịt gia súc có thể được nấu theo nhiều cách và thường được dùng với nhiều loại bánh mì truyền thống. Thức uống thường gồm chè đen và các loại đồ uống từ sửa truyền thống như ayran, shubat và kymyz. Một bữa tối truyền thống của người Kazakh thường gồm nhiều món khai vị trên bàn, tiếp đó là một bát súp và một hay hai món chính như cơm thập cẩm và beshbarmak. Họ cũng uống loại đồ uống truyền thống của mình, từ sửa ngựa lên men.
Vì gia súc là yếu tố trung tâm của phong cách sống truyền thống của người Kazakhs, đa số các lễ nghi, phong tục du mục của họ đều liên quan ở một số mặt tới gia súc. Người Kazakh trong truyền thống rất chuộng môn cưỡi ngựa. Những lời nguyền rủa và chúc phúc truyền thống đều liên quan tới bệnh dịch hay một sự mắn đẻ của các loài gia súc, và cách xử sự tốt là một người đầu tiên hỏi về sức khoẻ của gia súc của một người khác khi chào đón anh ta và chỉ sau đó mới hỏi về cuộc sống của nhau. Thậm chí ngày nay, nhiều người Kazakh vẫn thể hiện sự quan tâm tới truyền thống cưỡi ngựa và đua ngựa.
Kazakhstan là quê hương của nhiều nhân vật có đóng góp to lớn vào văn học, khoa học và triết học: Abay Qunanbayuli, Al-Farabi, Mukhtar Auezov, Gabit Musirepov, Kanysh Satpayev, Mukhtar Shakhanov, Saken Seyfullin, Jambyl Jabayev, cùng nhiều người khác.
Kazakhstan đã phát triển như một thế lực đáng chú ý về thể thao trên trường quốc tế ở những môn sau: đấm bốc, cờ vua, kickbox, trượt tuyết, thể dục, water-polo, đua xe đạp, võ thuật, điền kinh hạng nặng, cưỡi ngựa, ba môn phối hợp, chạy vượt rào, sambo, vật kiểu Hy Lạp-La Mã và billiards. Sau đây là những vận động viên thể thao Kazakhstani nổi tiếng và những người từng đạt huy chương thế giới: Bekzat Sattarkhanov, Vassiliy Jirov, Alexander Vinokourov, Bulat Jumadilov, Mukhtarkhan Dildabekov, Olga Shishigina, Andrey Kashechkin, Aliya Yussupova, Dmitriy Karpov, Darmen Sadvakasov, Yeldos Ikhsangaliyev, Aidar Kabimollayev, Yermakhan Ibraimov, Vladimir Smirnov, và những người khác.
Kazakhstan có một nền âm nhạc sôi động, bằng chứng là sự nổi tiếng của SuperStar KZ, một phiên bản địa phương của Pop Idol của Simon Fuller. Almaty được coi là thủ đô âm nhạc Trung Á, gần đây đã tổ chức những buổi biểu diễn của các nghệ sĩ nổi tiếng như Deep Purple, Tokio Hotel, Atomic Kitten, Dima Bilan, Loon, Craig David, The Black Eyed Peas, Eros Ramazzotti, Jose Carreras, Ace of Base, và những người khác.
Trong những năm gần đây, Kazakhstan đã trải qua cái có thể gọi là một sự phục hồi của ngôn ngữ Kazakh,[39] quay lại với việc sử dụng ngôn ngữ Kazakh trong chính thống cả trong truyền thông, pháp luật và kinh doanh, cũng như trong xã hội nói chung. Điều này được người dân Kazakh và các tổ chức quốc tế ủng hộ mạnh mẽ, coi đó là một sự bảo tồn bản sắc và văn hoá quốc gia, nhưng trong một số trường hợp đã gây ra sự lo ngại của những người Nga-Kazakhstanis, Các nhóm quyền lợi đặc biệt được Nga hậu thuẫn ở Kazakhstan và một số quan chức chính trị cao cấp ở Nga.
Nghị viện đang xem xét việc đưa bảng chữ cái Kazakh dựa trên tiếng Latinh vào thay thế bảng chữ cái ký tự Cyrill. Các lý do thường được đưa ra là những sự cân nhắc về văn hoá và bản sắc tự nhiên Turkic của ngôn ngữ Kazakh. Các ngôn ngữ Turkic như tiếng Thổ Nhĩ Kỳ và tiếng Uzbek sử dụng bảng chữ cái Latinh. Tuy nhiên, việc đưa bảng chữ cái Latinh vào sử dụng ở Kazakhstan sẽ dẫn tới những khoản chi phí rất lớn cho việc chuyển tự và thay thế số lượng to lớn của nền văn học Kazakh.
Ngày nghỉ lễ
Ngày | Tên tiếng Anh | Tên địa phương | Ghi chú |
---|---|---|---|
1 tháng 1 | Năm mới | Жаңа жыл / Новый Год | |
7 tháng 1 | Giáng sinh Chính thống giáo phía đông | Рождество Христово | từ năm 2007 ngày lễ chính thức |
Ngày cuối cùng của Hajj | Qurban Ayt* | Құрбан айт | |
8 tháng 3 | Ngày Quốc tế Phụ nữ | Халықаралық әйелдер күні / Международный женский день | |
22 tháng 3 | Nauryz Meyramy | Наурыз мейрамы | Theo truyền thống là một ngày lễ vào mùa xuân đánh dấu sự bắt đầu một năm mới, thỉnh thoảng diễn ra muộn tận ngày 21 tháng 4. |
1 tháng 5 | Ngày Thống nhất của Nhân dân Kazakhstan | Қазақстан халқының бірлігі мерекесі / Праздник единства народа Казахстана | |
9 tháng 5 | Ngày Chiến thắng Chủ nghĩa Phát xít trong Cuộc chiến tranh Giữ nước Vĩ đại | Жеңіс күні / День Победы | Một ngày lễ ở Liên xô cũ vẫn được đón chào hiện nay ở Kazakhstan và các nước cộng hoà cũ (Ngoại trừ các Quốc gia vùng Baltic). |
6 tháng 7 | Ngày Thành phố Thủ đô | Астана күні / День столицы | Ngày sinh Tổng thống Đầu tiên |
30 tháng 8 | Ngày Hiến pháp | Қазақстан Республикасының Конституциясы күні / День Конституции Республики Казахстан | |
16 tháng 12 | Ngày Độc lập | Тәуелсіздік күні / День независимости |
Xem thêm
- .kz
- Internet tại Kazakhstan
- Kazpost
- Truyền thông Kazakhstan
- Ga đường sắt tại Kazakhstan
- Viễn thông Kazakhstan
- Vận tải Kazakhstan
Thư mục
|
|
Tham khảo
- ^ Zarakhovich, Yuri (27 tháng 9, 2006). "Kazakhstan Comes on Strong", Time Magazine.
- ^ Medvedev Visit Underscores Kazakh Victory Over Uzbekistan For Regional Dominance Radio Free Europe/Radio Liberty
- ^ CIA, The Word Factbook. Available at https://www.cia.gov/library/publications/the-world-factbook/geos/kz.html
- ^ Hiến pháp Kazakhstan: 1. Ngôn ngữ nhà nước của Cộng hoà Kazakhstan là tiếng Kazakh. 2. Trong các định chế nhà nước và các cơ quan tự quản địa phương tiếng Nga cũng được chính thức sử dụng trên những cơ sở bình đẳng với tiếng Kazakh. Có tại http://www.kazakhstan.orexca.com/kazakhstan_constitution.shtml
- ^ Paul Brummell, Bradt Kazakhstan, trang 6
- ^ Barry Strauss, The Battle of Salamis: The Naval Encounter That Saved Greece -- and Western Civilization, trang 46
- ^ Paul Brummell, Bradt Kazakhstan, trang 30
- ^ Paul Brummell, Bradt Kazakhstan, trang 7
- ^ Esther Jacobson, The art of the Scythians: the interpenetration of cultures at the edge of the Hellenic world, trang 314
- ^ Avner Falk, A psychoanalytic history of the Jews, trang 209
- ^ Nobel, Thomas F. X. Noble, Western Civilization: To 1715, trang 121
- ^ World War 3 web site.
- ^ Central Asia-Caucasus Institute briefing, 5 tháng 7, 2000.
- ^ RFE Newsline, 12 tháng 4, 1996.
- ^ Kazakhstan's Nazarbayev Wins Re-election With 91% of Vote
- ^ BBC NEWS World|Asia-Pacific|Kazakh poll fairness questioned
- ^ BBC NEWS World|Asia-Pacific|Q&A: Kazakhstan parliamentary election
- ^ Background Note: Kazakhstan
- ^ The official site of Almaty city: History
- ^ Mineral Wealth.
- ^ International Crisis Group. 2007. Central Asia’s Energy Risks, Asia Report No. 133. May. Available on-line at http://www.crisisgroup.org/
- ^ British Petroleum (BP). 2006. World Oil Production. Database on-line. Available at http://www.bp.com/
- ^ Blank, Stephen (27 tháng 4, 2005). “Kazakhstan's Foreign Policy in a Time of Turmoil”. EurasiaNet.
- ^ Cohen, Ariel (7 tháng 10, 2008). “Kazakh foreign minister insists balanced foreign policy remains intact”. Business News Europe.
- ^ “Customs Union of Kazakhstan, Russia and Belarus to begin work in 2010”. Kazakhstan Today. 7 tháng 4, 2009.
- ^ Kazakhstan Today: 16 million 402 ngàn 861 people registered in Kazakhstan
- ^ Kazakhstan's News Bulletin, 20 tháng 4, 2007
- ^ Kazakhstan's `forgotten Poles' long to return
- ^ Remembering Stalin's deportations, BBC News, 23 tháng 2, 2004
- ^ Politics, economics and time bury memories of the Kazakh gulag, International Herald Tribune, 1 tháng 1, 2007
- ^ Robert Greenall, Russians left behind in Central Asia, BBC, 23 tháng 11, 2005
- ^ Kazakhstan: Special report on ethnic Germans, IRIN Asia, 1 tháng 2, 2005
- ^ Surucu, Cengiz (December năm 2002). “Modernity, Nationalism, Resistance: Identity Politics in Post-Soviet Kazakhstan”. Central Asian Survey 21: 385–402. doi:10.1080/0263493032000053208.
- ^ a ă â b Religious Situation Review in Kazakhstan Congress of World Religions. Truy cập 2009-09-07.
- ^ International Religious Freedom Report 2009 - Kazakhstan U.S. Department of State. 2009-10-26. Truy cập 2009-11-05.
- ^ a ă â Kazakhstan - International Religious Freedom Report 2008 U.S. Department of State. Truy cập 2009-09-07.
- ^ Islam in Kazakhstan Truy cập 2009-09-07.
- ^ The Customs and Traditions of the Kazakh By Betsy Wagenhauser
- ^ Kazakhstan officials adopt low-key language policy EnerPub - Energy Publisher
Liên kết ngoài
Tìm thêm về Kazakhstan tại những đồng dự án của Wikipedia: | |
Từ điển ở Wiktionary | |
Sách ở Wikibooks | |
Cẩm nang du lịch ở Wikivoyage | |
Hồ sơ ở Wikiquote | |
Văn kiện ở Wikisource | |
Hình ảnh và phương tiện ở Commons | |
Tin tức ở Wikinews | |
Tài liệu giáo dục ở Wikiversity |
- Chính phủ
- Bộ Ngoại giao Cộng hòa Kazakhstan
- E-Government của Cộng hòa Kazakhstan
- Chính phủ Kazakhstan
- Chủ tịch nước Cộng hòa Kazakhstan
- Chief of State and Cabinet Members
- Thông tin chung
- 2008 Human Rights Report: Kazakhstan. Department of State; Bureau of Democracy, Human Rights and Labor
- Country Profile trên BBC News
- Mục “Kazakhstan” trên trang của CIA World Factbook.
- Thông tin về Kazakhstan từ Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ
- Portals to the World từ Thư viện Quốc hội Mỹ
- Kazakhstan tại UCB Libraries GovPubs
- Kazakhstan tại Dự án thư viện mở (trang đề nghị)
- Wikimedia Atlas của Kazakhstan, có một số bản đồ liên quan đến Kazakhstan.
Wikivoyage có chỉ dẫn du lịch về Kazakhstan |
Bản mẫu:Chủ đề Kazakhstan
|
|
|
Thể loại:
Người Việt tại Úc còn Việt hóa địa danh này thành Mai Bình.[2]
Thành phố được đặt tên theo Thủ tướng Anh, William Lamb, Tử tước Melbourne, người sống gần Melbourne ở Derbyshire, Anh. Melbourne có gốc từ Mylla Burne trong tiếng Anh cổ và có nghĩa là "Mill Stream".
Melbourne đã hai lần được bầu chọn bởi The Economist là "Thành phố dễ sống nhất thế giới" dựa vào các tiêu chí như văn hóa, thời tiết, giá cả sinh hoạt, điều kiện xã hội, lần đầu vào năm 2002[1], và lần sau vào năm 2004. Năm 2005, nó xuống hàng thứ 2, sau Vancouver của Canada. Tạp chí Utne Reader viết: "Với một truyền thống lâu đời đáng tự hào, một cộng đồng nhập cư từ khắp nơi trên thế giới, và các món ăn ngon nhất Úc, bạn đã có một công thức cho cái mà nhiều người gọi là thành phố tuyệt nhất Nam bán cầu" (2001).
Theo tiêu chuẩn về "dịch vụ cao cấp", Melbourne được nhóm nghiên cứu GaWC xếp vào loại hai ("các thành phố nhỏ của thế giới") đằng sau các thành phố như Montréal, Osaka hay Praha. Thành phố này có số lượng sinh viên quốc tế thuộc loại đông nhất trên thế giới, sau London, New York và Paris.
Vào ngày 1 tháng 1 năm 1901, Melbourne đã trở thành Thủ đô của Liên bang Úc. Quốc hội Liên bang đầu tiên được thành lập vào ngày 9 tháng 5 ở Tòa nhà Triển lãm Hoàng gia. Trụ sở chính phủ và thủ đô của quốc gia được đặt ở Melbourne cho đến năm 1927, khi nó được chuyển đến Canberra. Melbourne tiếp tục phát triển trong suốt nửa đầu thế kỷ 20, đặc biệt với các dân di cư sau Thế chiến thứ hai và uy tín trong việc tổ chức Thế vận hội mùa hè 1956 vào năm 1956. Ngay cả sau khi thủ đô chính trị được dời đến Canberra, Melbourne vẫn tiếp tục là trung tâm kinh doanh và tài chính cho đến thập niên 1970, khi nó bắt đầu đánh mất vị trí dẫn đầu vào tay Sydney. Thêm vào đó, Melbourne cũng là một trung tâm phát triển của các loại hình nghệ thuật.
Vào thập niên 1980, Melbourne trải qua một cuộc khủng hoảng do nạn chảy máu nhân lực cho New South Wales và Queensland. Vào thập niên 1990, chính phủ của Thủ hiến Jeff Kennett thuộc Đảng Tự do tìm cách thay đổi xu hướng trên bằng sự phát triển các tòa cao ốc công cộng mới (như Viện bảo tàng Melbourne, Trung tâm Triển lãm và Hội nghị Melbourne, Crown Casino), và việc quảng bá những sự kiện, thành tựu xuất sắc của Melbourne ra bên ngoài và cộng đồng cư dân Melbourne. Việc làm này được tiếp tục dưới chính phủ của thủ hiến đương nhiệm, Steve Bracks, thuộc Đảng Lao động.
Vào thập niên 1890, sự suy sụp kinh tế sâu sắc đã hạ gục Melbourne. Dân số Melbourne sụt giảm một lượng lớn trong những năm 1890 là kết quả của làn sóng những người thất nghiệp di cư về phía tây để tìm vàng hoặc việc làm trong những ngành công nghiệp mới mẻ được kích thích bởi thứ kim loại quý giá này.
Nhu cầu về dân số tăng lên và lực lượng lao động đã tiếp nhận nhiều người Anh, Nam Tư, Hà Lan, Đức, Ả Rập và Maltese di cư đến sau năm 1945. Một số lớn người Ý và Hy Lạp cũng đã đến vào những thập niên 1950 và 1960, trở thành những cộng đồng lớn nhất bên cạnh những cộng đồng khác từ Anh và Ireland. Melbourne là nơi có cộng đồng người Hy Lạp có tổ tiên sinh sống ngoài đất nước Hy Lạp đông nhất thế giới.
Trong những thập niên 1970 và 1980, những người tị nạn từ Campuchia và Việt Nam đã chọn Melbourne làm quê hương cùng với người Ấn Độ, Philippines và Malaysia. Làn sóng dân di cư gần đây nhất đến từ Nam Phi.
Mặc dù Brisbane và Perth là những thành phố phát triển nhanh hơn (chỉ trong một vài giai đoạn) và sự di cư nội bộ trong mạng lưới các tiểu bang của Victoria thay đổi bất thường, thống kê cho thấy dân số Melbourne tăng xấp xỉ 50.000 người một năm kể từ năm 2003, nhiều hơn bất kỳ thành phố nào khác ở Úc.
Sự thu hút một tỉ lệ lớn những người di cư từ hải ngoại và di cư trong nội bộ các tiểu bang từ Sydney có nguyên nhân chủ yếu từ việc "dễ dàng" được cấp nhà.
Trong những năm gần đây, ở Melton, Wyndham và Casey các thống kê đã ghi nhận tỉ lệ tăng trưởng cao nhất trong tất cả các chính quyền địa phương ở Úc.
Dân số Melbourne theo năm:
Mật độ dân số nội thành (người/ha) theo năm:
Phần còn lại của thủ phủ được chia làm 30 đô thị tự trị, tất cả đều được gọi là những thành phố (city), ngoại trừ 5 đô thị ở vùng ven của Thành phố được gọi là quận (shire). Những đô thị này đều có hội đồng được cử ra để chịu trách nhiệm về những chức năng được ủy thác cho họ bởi chính phủ bang Victoria. Những chức năng này bao gồm quy hoạch, thu gom rác, làm vệ sinh các bãi tắm, công viên và vườn tược, chăm sóc trẻ em và nhà trẻ, các lễ hội địa phương và các hoạt động văn hóa, chăm sóc người cao tuổi, giám sát sức khỏe cộng đồng, hệ thống vệ sinh và những vấn đề tương tự. Tiền thuế thu được từ người dân được chi tiêu cho các hoạt động này. Hội đồng được đại diện chung bởi Hiệp hội chính phủ địa phương bang Victoria (Local Government Association of Victoria).
Phần lớn những hoạt động của chính quyền thành phố được chính quyền bang Victoria kiểm soát. Những hoạt động này bao gồm vận tải, quản lý các đường chính, điều khiển giao thông, các chính sách, giáo dục trên mức mẫu giáo, việc hoạch định các dự án lớn. Bởi vì ba phần tư dân số của bang Victoria sống ở Melbourne, chính quyền bang đã có truyền thống miễn cưỡng trong việc cho phép phát triển hệ thống chính quyền thành phố, vì đây là việc ảnh hưởng đến sự sống còn của chính quyền bang. Vì lý do trên, Ban việc làm Melbourne và Vùng thủ phủ được thành lập năm 1992 đã trở nên một cơ quan quyền lực tự trị hùng mạnh.
Melbourne là nơi có hải cảng lớn nhất của Úc và có nhiều ngành công nghiệp tự động (kể cả nhà máy sản xuất động cơ Holden, Ford và Toyota), và nhiều ngành công nghệ sản xuất khác. Các đại hội thể thao cũng mang lại nhiều dự án xây dựng hạ tầng cơ sở.
Melbourne đã là cảnh cho nhiều tiểu thuyết, nhiều vở kịch truyền hình và phim. Mystery of a Hansom Cab, tác phẩm bán chạy nhất thế giới của Fergus Hume, mà đã vượt qua cả truyện Sherlock Holmes lúc bấy giờ, được lấy bối cảnh trong thời đại tìm vàng tại Melbourne. Quyển Power Without Glory (Quyền lực không vinh quang) của Frank Hardy kể về một thương gia Melbourne tên là John West và lấy bối cảnh tại Collingwood, một vùng ngoại ô của tầng lớp lao động Melbourne. Có lẽ tác phẩm được thế giới biết đến nhiều nhất là quyển On the Beach (Trên bãi biển) của Nevil Shute. Vào năm 1959, nó được chuyển thành phim với sự tham gia diễn xuất của Gregory Peck, Ava Gardner và được Stanley Kramer đạo diễn. Bộ phim miêu tả các cư dân Melbourne lặng lẽ trượt vào cõi vĩnh hằng như những nạn nhân cuối cùng của vụ thảm sát hạt nhân toàn cầu. Được quay tại Melbourne và các vùng phụ cận (một sự lạ thường cho Melbourne lúc đó), bộ phim có lẽ được nhớ nhất về lời bình luận mà Ava Gardner không bao giờ nói ra – mô tả Melbourne như một nơi hoàn hảo để làm một bộ phim về sự tận thế, nhận xét về chủ nghĩa bảo thủ ảm đạm của Melbourne vào cuối thập niên 1950. Câu trích dẫn ngụ ý được nhà báo Neil Jillett tìm ra. Những phim tương tự được sản xuất khi sự phê bình về các phim truyền hình năm 2000 diễn ra.
Trong những năm gần đây, có thêm nhiều bộ phim được làm tại Melbourne. Một số phim nổi tiếng bao gồm Mad Max, Chopper, Romper Stomper, Mr. Nice Guy và The Castle.
Có lẽ nhiều thính giả đương thời đều biết đến vở kịch truyền hình hàng ngày Neighbours (Những người hàng xóm), dựng tại vùng ngoại ô hư cấu phía đông của Erinsborough, đại diện cho thế giới "bánh mì trắng" của đời sống người Úc vùng ngoại ô. Những chương trình truyền hình hiện thời khác được dựng tại Melbourne gồm Stingers (một vở kịch về cảnh sát), The Secret Life Of Us (Cuộc sống bí mật của chúng ta) và MDA.
Ca sĩ Paul Kelly đã viết vài bài hát nổi tiếng về các khía cạnh của thành phố gần gũi với lòng của nhiều người dân Melbourne, đáng chú ý là "Leaps And Bounds" và "From St Kilda To King's Cross".
Nhà văn châm biếm gốc Malbourne Barry Humphries đã xây dựng nhân vật chính Dame Edna Everage như một phiên bản hài kịch của một bà nội trợ vùng ngoại ô. Qua nhân vật này ông đã trình diễn những bài thơ chua cay về tập tục của Melbourne và tầng lớp trung lưu thành thị ở Moonee Ponds và Highett, giữa vòng những vùng khác. Mặc dầu không lấy bối cảnh tại Melbourne, nhưng bộ phim Queen Of The Damned được quay trong và xung quanh thành phố. Carols by Candlelight (Những bài thánh nhạc bên ánh nến), lần đầu tổ chức vào năm 1938, là một lễ Giáng sinh truyền thống tổ chức hàng năm tại Sân khấu Ca nhạc Myer Sidney.
Nhạc pop và nhạc rock của Melbourne được xem là sống động nhất nước Úc (đặc biệt là đối với người Melbourne), và đã nuôi dưỡng nhiều nhạc sĩ, nghệ sĩ tiếng tăm trên thế giới như AC/DC, Nick Cave, Crowded House, John Farnham, Graeme Bell, Kylie Minogue và Jet. Melbourne cũng là quê nhà của những ban nhạc hip hop Úc lớn nhất, thường được biết đến với tên "Melburn" hoặc "The Burn" qua những phong cách văn hóa độc nhất. Obese Records, nhãn hiệu thâu băng hip hop Úc dẫn đầu, được thành lập năm 1995 tại Melbourne và được tọa lạc tại Prahran, phía dưới đường Chapel Street nổi tiếng. Melbourne là nhà của một phong cách cứng cỏi của hip hop trong nhà và cũng là quê nhà của những nghệ sĩ Lyrical Commission, Muphin, Reason và Pegz. Những buổi trình diễn thường tổ chức trong thành phố với những cuộc thi và những cuộc triển lãm do những nghệ sĩ có triển vọng tổ chức suốt tuần tại nhiều địa điểm khác nhau.
Nhạc khiêu vũ ở Melbourne là một dòng nhạc lớn nhất và sống động nhất tại Úc. Có nhiều buổi tiệc khiêu vũ diễn ra hầu như mọi đêm trong năm, thường xuyên thu hút những người dẫn chương trình hay nhất thế giới đến thành phố. Melbourne Shuffle được sinh ra tại đây, và đã tiến triển từ lúc đó.
Melbourne Storm, chơi ở Liên đoàn Bóng bầu dục Quốc gia, được đặt tại Olympic Park. Olympic Park cũng là sân nhà của đội bóng Melbourne Victory, chơi ở giải bóng đá dạng mới của Úc, giải A-League.
Melbourne cũng là đồng tổ chức Cúp Bóng bầu dục Thế giới 2003, gồm nhiều trận đấu vòng tròn và cả các trận bán kết - tất cả các trận đều thi đấu Etihad Stadium. Melbourne cũng là thành phố đầu tiên không thuộc Mỹ đăng cai Giải Bắn súng Cảnh sát Thế giới 1995 và Cúp President 1999 cho golf; cũng là thành phố đầu tiên ở Nam bán cầu tổ chức giải vô địch thế giới Cup Polo (2001). Sự kiện thể thao lớn mới nhất tại thành phố là Đại hội thể thao của Khối thịnh vượng chung 2006 (Commonwealth Games).
Vào 2007, Melbourne sẽ là chủ nhà của Giải vô địch Thế giới các môn Thể thao dưới nước.
Khởi nghĩa Thái Nguyên hay Binh biến Thái Nguyên là tên gọi cuộc nổi dậy ở tỉnh lỵ Thái Nguyên vào năm 1917 do Trịnh Văn Cấn chỉ huy, chống lại chính quyền Bảo hộ của Pháp để giành độc lập cho người Việt.
Trong số các binh lính được Lương Ngọc Quyến cảm hóa, có đội trưởng lính khố xanh Trịnh Văn Cấn (Đội Cấn). Đội Cấn là một người rất khâm phục cuộc khởi nghĩa Yên Thế của Hoàng Hoa Thám, đồng thời phẫn nỗ trước sự khinh miệt của chỉ huy Pháp với binh lính người Việt. Thông qua Lương Ngọc Quyến, Đội Cấn đã biết tới đường lối đấu tranh của Việt Nam Quang phục Hội và tình nguyện gia nhập tổ chức. Sau đó Đội Cấn đã cùng với Đội Giá, Đội Xuyên, Đội Nam... bàn bạc quyết định tổ chức một cuộc nổi dậy chiếm tỉnh Thái Nguyên với lực lượng binh lính ở tỉnh lỵ và các đồn xung quanh cùng với số tù chính trị trong nhà lao.
Tuy nhiên, những sĩ quan Pháp đã nhận biết được ý định khởi nghĩa của binh lính nên đã tìm cách đảo lộn hàng ngũ binh lính, liên tục điều chuyển đồng thời ra sức đề phòng. Cuộc khởi nghĩa do đó bị trì hoãn nhiều lần. Đến tháng 8 năm 1917, được tin sắp có cuộc thuyên chuyển, Đội Cấn quyết định khởi nghĩa vào đến 30 tháng 8 năm 1917.
Trịnh Văn Cấn, viên cai đội (caporal) lính khố xanh ở Thái Nguyên cầm đầu cuộc nổi dậy vào đêm 30 Tháng Tám
năm 1917. Ông chỉ huy lực lượng 175 người lính giết giám binh người
Pháp, Noël, đoạt khí giới đạn dược, rồi phá ngục, giết cai ngục Loew,
giải cứu Lương Ngọc Quyến cùng 203 tù nhân. Nghĩa quân sau đó cướp kho bạc và làm chủ toàn tỉnh lỵ, trừ đồn lính khố đỏ cố thủ ở bên bờ sông Cầu.
Trong sáu ngày từ đêm 30 Tháng Tám đến ngày 5 Tháng Chín, quân của Đội Cấn trấn giữ thành Thái Nguyên, lại thu nạp thêm các dân phu mỏ và dân địa phương nâng quân số lên khoảng hơn 600 người. Thành phần lực lượng khởi nghĩa gồm khoảng 130 lính vệ binh, hơn 200 tù nhân, 300 dân phu và dân địa phương.[1] Theo gợi ý của Lương Ngọc Quyến, Đội Cấn chia lực lượng khởi nghĩa thành hai tiểu đoàn, tiểu đoàn thứ nhất gồm các lính vệ binh cũ, tiểu thứ hai gồm tù nhân và dân quân, chỉ huy là Ba Chi. Trang bị của đội quân này gồm 92 súng hỏa mai và 75 súng trường mà quân nổi dậy thu được từ kho vũ khí của Pháp.
Họ truyền hịch, đợi các nơi hưởng ứng nổi dậy cùng ngoại viện từ bên Tàu và Nhật đến vì tin rằng Việt Nam Quang phục Hội có lực lượng đợi sẵn để trợ lực. Lãnh tụ cuộc khởi nghĩa cũng tuyên bố độc lập, lấy quốc hiệu là "Đại Hùng". Họ trương cờ Ngũ tinh liên châu của Việt Nam Quang phục Hội trên cửa thành.
Vào ngày 2 Tháng Chín năm 1917 thì quân Pháp bắt đầu phản công với đội quân 2.700 người[2] và đến ngày 5 Tháng Chín thì đánh vào tỉnh lỵ. Lương Ngọc Quyến trúng đạn ở đầu chết.[3] Đội Cấn phải triệt thoái khỏi Thái Nguyên chạy về phía bắc. Đến trưa ngày mồng 5 thì Pháp tái chiếm được thành. Số thương vong bên nghĩa quân là 56 người; quân Pháp thiệt mạng 107 người.[4]
Đội Cấn sau đó dẫn quân chạy lên Đại Từ, Tam Đảo rồi xuống Vĩnh Yên, trước khi trở lại vùng Thái Nguyên nhưng lực lượng hao mòn dần. Bị truy nã, ông rút về núi Pháo rồi để không bị bắt ông tự tử bằng súng, bắn vào bụng. Đó là ngày 11 Tháng Giêng năm 1918; cuộc khởi nghĩa chấm dứt. Theo các tài liệu chính thức của Pháp, một vệ sỹ của ông giết ông để lấy thưởng. Người này dẫn quân Pháp đến nơi được coi là mộ của Đội Cấn. Tuy nhiên dù người Pháp không tỏ vẻ nghi ngờ đương sự, họ vẫn cho là Đội Cấn do bị thương nặng, đã yêu cầu thuộc hạ kết liễu đời mình để khỏi rơi vào tay quân Pháp.[5]
Quân Pháp tiếp tục càn quét tàn quân của cuộc khởi nghĩa tới tháng 3 thì xong, với một chiến thuật mà họ sử dụng rất hiệu quả là bắt giữ thân nhân của quân khởi nghĩa để buộc họ phải ra hàng. Một số người bị bắt bị kết án tử hình, những người khác bị kết án và đày ra Côn Đảo.
Tàu con thoi Discovery (tiếng Anh của "khám phá"; mã số: OV-103) là một trong số những con tàu con thoi thuộc về Cục Quản trị Hàng không và Không gian Quốc gia Hoa Kỳ (NASA). Cất cánh lần đầu tiên vào năm 1984, Discovery là tàu con thoi thứ ba được đưa vào hoạt động. Tàu Discovery vừa phục vụ nghiên cứu, vừa phục vụ cho việc lắp đặt Trạm Vũ trụ Quốc tế (ISS).
Tàu được lấy tên từ những con tàu thám hiểm tên Discovery. Đầu tiên là HMS Discovery, một con tàu biển đã đưa thuyền trưởng James Cook trên chuyến đi lớn thứ ba và cũng là cuối cùng của ông ta. Ngoài ra, còn có con tàu Discovery của Henry Hudson, được sử dụng trong năm 1610–1611 để đi tìm Tuyến đường biển Tây Bắc (Northwest Passage), và RRS Discovery, một con tàu được sử dụng bởi Scott và Shackleton cho những cuộc thám hiểm tới châu Nam Cực năm 1901–1904 (và vẫn còn đang được gìn giữ làm bảo tàng). Tàu con thoi này cũng trùng tên với Discovery One, con tàu trong phim 2001: A Space Odyssey.
Discovery là tàu con thoi đã phóng Kính viễn vọng Hubble. Phi vụ sửa chữa lần thứ hai và lần ba của Hubble cũng được thực hiện bởi Discovery. Tàu này cũng đã phóng vệ tinh thám hiểm Ulysses và 3 vệ tinh TDRS. Discovery đã được chọn hai lần trong việc trở lại các chuyến bay lên quỹ đạo, lần thứ nhất là chuyến bay trong năm 1988, sau thảm họa Challenger, và lần thứ hai là vào tháng 7 năm 2005, sau thảm họa Columbia. Discovery cũng đã đưa phi hành gia John Glenn của Chương trình Mercury, 77 tuổi vào lúc đó, trở lại không gian trong STS-95 vào ngày 29 tháng 10 năm 1998, làm ông trở thành người cao tuổi nhất du hành vào không gian.
‡ Phi vụ có thời gian lâu nhất của Discovery
– Phi vụ có thời gian ngắn nhất của Discovery
Video yêu thích
http://www.youtube.com/user/hoangkimvietnam
Trở về trang chính
Hoàng Kim, hoangkim, hoangkimvietnam, Ngọc Phương Nam, Chào ngày mới Thung dung, Dạy và học, Cây Lương thực, Tin Nông nghiệp Việt Nam, Food Crops, Cassava in Vietnam, VietnamAfricaCassavaRice, Khát khao xanh, Dayvahoc,Học mỗi ngày, Danh nhân Việt , Food Crops News, Điểm chính, CNM365, Kim LinkedIn, KimTwitter, KimFaceBook Đọc lại và suy ngẫm, Việt Nam tổ quốc tôi, Tình yêu cuộc sống, Thơ cho con
- Kazakhstan
- Quốc gia Trung Á
- Quốc gia Turkic hiện đại
- Âu Á
- Thảo nguyên Âu Á
- Quốc gia và vùng lãnh thổ nói tiếng Nga
- Quốc gia và vùng lãnh thổ thành lập năm 1991
- Thành viên Tổ chức Hội nghị Hồi giáo
- Cộng hòa
Melbourne
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Thành phố Melbourne Khu vực chính phủ địa phương |
||
---|---|---|
Bang | Victoria | |
Thị trưởng | John So (từ 2001) |
|
Diện tích | 36 km² | |
Dân số (2001) | 57.960 | |
Mật độ | 1,601/km² (1999) | |
Melbourne Lớn | ||
Diện tích | 7.694 km² (1999) | |
Dân số 2001 census |
(đông thứ 2 ở Úc) 3.555.321 |
|
Mật độ | 462,1/km² (1999) | |
Múi giờ Quy ước giờ mùa hè |
AEST (UTC+10) AEDT (UTC+11) |
Đối với các định nghĩa khác, xem Melbourne (định hướng).
Melbourne (phát âm như "Meo-bờn")"[1]), là thủ phủ và thành phố lớn nhất bang Victoria, và là thành phố lớn thứ hai ở Úc (sau Sydney), với dân số khoảng 3,6 triệu (2001) bao gồm cả ngoại ô và 69.670 trong Thành phố Melbourne (phần trung tâm nội ô). Khẩu hiệu thành phố là "Vires acquirit eundo" nghĩa là "chúng ta mạnh hơn khi chúng ta đi tới." Melbourne đã từng là thủ đô của Úc từ 1901 đến 1927.Người Việt tại Úc còn Việt hóa địa danh này thành Mai Bình.[2]
Thành phố được đặt tên theo Thủ tướng Anh, William Lamb, Tử tước Melbourne, người sống gần Melbourne ở Derbyshire, Anh. Melbourne có gốc từ Mylla Burne trong tiếng Anh cổ và có nghĩa là "Mill Stream".
Melbourne đã hai lần được bầu chọn bởi The Economist là "Thành phố dễ sống nhất thế giới" dựa vào các tiêu chí như văn hóa, thời tiết, giá cả sinh hoạt, điều kiện xã hội, lần đầu vào năm 2002[1], và lần sau vào năm 2004. Năm 2005, nó xuống hàng thứ 2, sau Vancouver của Canada. Tạp chí Utne Reader viết: "Với một truyền thống lâu đời đáng tự hào, một cộng đồng nhập cư từ khắp nơi trên thế giới, và các món ăn ngon nhất Úc, bạn đã có một công thức cho cái mà nhiều người gọi là thành phố tuyệt nhất Nam bán cầu" (2001).
Theo tiêu chuẩn về "dịch vụ cao cấp", Melbourne được nhóm nghiên cứu GaWC xếp vào loại hai ("các thành phố nhỏ của thế giới") đằng sau các thành phố như Montréal, Osaka hay Praha. Thành phố này có số lượng sinh viên quốc tế thuộc loại đông nhất trên thế giới, sau London, New York và Paris.
Mục lục
Địa lý
Melbourne nằm ở góc đông-nam lục địa châu Úc, và là thành phố nằm ở cực nam lục địa. Về mặt địa chất, thành phố được xây dựng trên nơi hợp dòng của dòng dung nham Quaternary chảy về hướng tây và vùng trầm tích cát Holocene theo hướng đông-nam dọc cảng Phillip. Vùng ngoại ô của thành phố vươn ra theo hướng đông, hướng con sông Yarra đến dãy núi Yarra và dãy Dandenong phía đông-nam của cửa vịnh và dọc theo sông Maribyrnong và các nhánh sông hướng tây và hướng bắc của nó đến các vùng đồng bằng. Khu trung tâm kinh doanh (thành phố gốc ban đầu) thì nằm trên trên khu nổi tiếng Hoddle Grid, bờ phía nam của nó đối diện với Yarra.Lịch sử
Vào ngày 1 tháng 1 năm 1901, Melbourne đã trở thành Thủ đô của Liên bang Úc. Quốc hội Liên bang đầu tiên được thành lập vào ngày 9 tháng 5 ở Tòa nhà Triển lãm Hoàng gia. Trụ sở chính phủ và thủ đô của quốc gia được đặt ở Melbourne cho đến năm 1927, khi nó được chuyển đến Canberra. Melbourne tiếp tục phát triển trong suốt nửa đầu thế kỷ 20, đặc biệt với các dân di cư sau Thế chiến thứ hai và uy tín trong việc tổ chức Thế vận hội mùa hè 1956 vào năm 1956. Ngay cả sau khi thủ đô chính trị được dời đến Canberra, Melbourne vẫn tiếp tục là trung tâm kinh doanh và tài chính cho đến thập niên 1970, khi nó bắt đầu đánh mất vị trí dẫn đầu vào tay Sydney. Thêm vào đó, Melbourne cũng là một trung tâm phát triển của các loại hình nghệ thuật.
Vào thập niên 1980, Melbourne trải qua một cuộc khủng hoảng do nạn chảy máu nhân lực cho New South Wales và Queensland. Vào thập niên 1990, chính phủ của Thủ hiến Jeff Kennett thuộc Đảng Tự do tìm cách thay đổi xu hướng trên bằng sự phát triển các tòa cao ốc công cộng mới (như Viện bảo tàng Melbourne, Trung tâm Triển lãm và Hội nghị Melbourne, Crown Casino), và việc quảng bá những sự kiện, thành tựu xuất sắc của Melbourne ra bên ngoài và cộng đồng cư dân Melbourne. Việc làm này được tiếp tục dưới chính phủ của thủ hiến đương nhiệm, Steve Bracks, thuộc Đảng Lao động.
Con người
Dân số
Dân số Melbourne tăng một cách đột ngột vào thời kỳ mọi người đổ xô đi tìm vàng. Gần 125,000 người từ khắp nơi trên thế giới đã đến đây chỉ trong một năm. Trong 2 thập niên sau đó, 1870 và 1880, Melbourne là thành phố đông dân nhất Úc.Vào thập niên 1890, sự suy sụp kinh tế sâu sắc đã hạ gục Melbourne. Dân số Melbourne sụt giảm một lượng lớn trong những năm 1890 là kết quả của làn sóng những người thất nghiệp di cư về phía tây để tìm vàng hoặc việc làm trong những ngành công nghiệp mới mẻ được kích thích bởi thứ kim loại quý giá này.
Nhu cầu về dân số tăng lên và lực lượng lao động đã tiếp nhận nhiều người Anh, Nam Tư, Hà Lan, Đức, Ả Rập và Maltese di cư đến sau năm 1945. Một số lớn người Ý và Hy Lạp cũng đã đến vào những thập niên 1950 và 1960, trở thành những cộng đồng lớn nhất bên cạnh những cộng đồng khác từ Anh và Ireland. Melbourne là nơi có cộng đồng người Hy Lạp có tổ tiên sinh sống ngoài đất nước Hy Lạp đông nhất thế giới.
Trong những thập niên 1970 và 1980, những người tị nạn từ Campuchia và Việt Nam đã chọn Melbourne làm quê hương cùng với người Ấn Độ, Philippines và Malaysia. Làn sóng dân di cư gần đây nhất đến từ Nam Phi.
Mặc dù Brisbane và Perth là những thành phố phát triển nhanh hơn (chỉ trong một vài giai đoạn) và sự di cư nội bộ trong mạng lưới các tiểu bang của Victoria thay đổi bất thường, thống kê cho thấy dân số Melbourne tăng xấp xỉ 50.000 người một năm kể từ năm 2003, nhiều hơn bất kỳ thành phố nào khác ở Úc.
Sự thu hút một tỉ lệ lớn những người di cư từ hải ngoại và di cư trong nội bộ các tiểu bang từ Sydney có nguyên nhân chủ yếu từ việc "dễ dàng" được cấp nhà.
Trong những năm gần đây, ở Melton, Wyndham và Casey các thống kê đã ghi nhận tỉ lệ tăng trưởng cao nhất trong tất cả các chính quyền địa phương ở Úc.
Dân số Melbourne theo năm:
Mật độ dân số
Melbourne là một thủ phủ trải dài. Mật độ dân số của Melbourne đã giảm đi sau Thế chiến thứ hai, cùng với những xe hơi riêng và sự quyến rũ của việc mở rộng nhà cửa và đất đai ra ngoại ô, chủ yếu là về hướng Đông. Sau nhiều cuộc tranh luận vào thập niên 1980 (thường là rất mãnh liệt, trên công chúng rộng rãi cũng như trong giới chuyên môn quy hoạch), sự suy giảm trên đã thật sự được đảo lại vào những năm đầu thập niên 1990. Lúc đó Melbourne trở nên nóng bỏng bởi sự suy sụp của thị trường bất động sản, và thành phố đã có sự gia tăng mật độ ở nội ô cũng như các vùng ngoại ô phía Đông.Mật độ dân số nội thành (người/ha) theo năm:
- 1951 23,4 Melb. Metro. Planning Scheme 1954, p. 23
- 1961 21,4 Australian Bureau of Statistics
- 1971 18,1 A.B.S.
- 1976 16,75 Melbourne Social Atlas, 1976 (A.B.S.)
- 1981 15,9 Social Atlas, 1981
- 1986 16,05 Soc. Atlas/"Supermap" Census Data, 1986
- 1991 16,8 Social Atlas/Supermap, 1991
- 1996 17,9 Department of Infrastructure, 1998
Chính phủ
Vùng thủ phủ Melbourne không có một cơ quan chính phủ cai trị toàn bộ. Người dân trực tiếp bầu ra một thị trưởng của Melbourne, hiện tại là ông John So, và cũng chọn bầu ra Hội đồng thành phố Melbourne, nhưng những người này chỉ chịu trách nhiệm cho Thành phố Melbourne, bao gồm vùng thương mại trung tâm và vài vùng ngoại ô phía trong. Tuy nhiên ông thị trưởng thường được xem là đại diện của toàn bộ thành phố.Phần còn lại của thủ phủ được chia làm 30 đô thị tự trị, tất cả đều được gọi là những thành phố (city), ngoại trừ 5 đô thị ở vùng ven của Thành phố được gọi là quận (shire). Những đô thị này đều có hội đồng được cử ra để chịu trách nhiệm về những chức năng được ủy thác cho họ bởi chính phủ bang Victoria. Những chức năng này bao gồm quy hoạch, thu gom rác, làm vệ sinh các bãi tắm, công viên và vườn tược, chăm sóc trẻ em và nhà trẻ, các lễ hội địa phương và các hoạt động văn hóa, chăm sóc người cao tuổi, giám sát sức khỏe cộng đồng, hệ thống vệ sinh và những vấn đề tương tự. Tiền thuế thu được từ người dân được chi tiêu cho các hoạt động này. Hội đồng được đại diện chung bởi Hiệp hội chính phủ địa phương bang Victoria (Local Government Association of Victoria).
Phần lớn những hoạt động của chính quyền thành phố được chính quyền bang Victoria kiểm soát. Những hoạt động này bao gồm vận tải, quản lý các đường chính, điều khiển giao thông, các chính sách, giáo dục trên mức mẫu giáo, việc hoạch định các dự án lớn. Bởi vì ba phần tư dân số của bang Victoria sống ở Melbourne, chính quyền bang đã có truyền thống miễn cưỡng trong việc cho phép phát triển hệ thống chính quyền thành phố, vì đây là việc ảnh hưởng đến sự sống còn của chính quyền bang. Vì lý do trên, Ban việc làm Melbourne và Vùng thủ phủ được thành lập năm 1992 đã trở nên một cơ quan quyền lực tự trị hùng mạnh.
Giáo dục
Một số đại học được đặt ở Melbourne, bao gồm các trường như Đại học Deakin, Đại học La Trobe, Đại học Monash, Đại học RMIT, Đại học Kỹ thuật Swinburne, Đại học Melbourne và Đại học Kỹ thuật Victoria.Trường học
Kinh tế
Melbourne là một trung tâm công nghiệp và thương mại rộng lớn. Nhiều công ty lớn của Úc, và nhiều liên doanh đa quốc gia đã đặt trụ sở tại đây (khoảng một phần ba các công ty đa quốc gia lớn nhất tại Úc vào năm 1992). Cơ quan đầu não đại diện cho công nhân Úc cũng đặt trụ sở tại Melbourne.Melbourne là nơi có hải cảng lớn nhất của Úc và có nhiều ngành công nghiệp tự động (kể cả nhà máy sản xuất động cơ Holden, Ford và Toyota), và nhiều ngành công nghệ sản xuất khác. Các đại hội thể thao cũng mang lại nhiều dự án xây dựng hạ tầng cơ sở.
Giao thông
Truyền thông
Melbourne trong văn hóa
Melbourne có mối liên hệ mật thiết với sự thiết lập nền nghệ thuật hình ảnh của nước Úc. Trường phái Heidelberg, được xem là phong trào nghệ thuật thuần Úc đầu tiên, (ít nhất là về những tác phẩm phương Tây kinh điển), phần lớn là các tác phẩm của các nghệ sĩ Melbourne, và nhiều tác phẩm đang được trưng bày tại Viện bảo tàng Nghệ thuật bang Victoria.Melbourne đã là cảnh cho nhiều tiểu thuyết, nhiều vở kịch truyền hình và phim. Mystery of a Hansom Cab, tác phẩm bán chạy nhất thế giới của Fergus Hume, mà đã vượt qua cả truyện Sherlock Holmes lúc bấy giờ, được lấy bối cảnh trong thời đại tìm vàng tại Melbourne. Quyển Power Without Glory (Quyền lực không vinh quang) của Frank Hardy kể về một thương gia Melbourne tên là John West và lấy bối cảnh tại Collingwood, một vùng ngoại ô của tầng lớp lao động Melbourne. Có lẽ tác phẩm được thế giới biết đến nhiều nhất là quyển On the Beach (Trên bãi biển) của Nevil Shute. Vào năm 1959, nó được chuyển thành phim với sự tham gia diễn xuất của Gregory Peck, Ava Gardner và được Stanley Kramer đạo diễn. Bộ phim miêu tả các cư dân Melbourne lặng lẽ trượt vào cõi vĩnh hằng như những nạn nhân cuối cùng của vụ thảm sát hạt nhân toàn cầu. Được quay tại Melbourne và các vùng phụ cận (một sự lạ thường cho Melbourne lúc đó), bộ phim có lẽ được nhớ nhất về lời bình luận mà Ava Gardner không bao giờ nói ra – mô tả Melbourne như một nơi hoàn hảo để làm một bộ phim về sự tận thế, nhận xét về chủ nghĩa bảo thủ ảm đạm của Melbourne vào cuối thập niên 1950. Câu trích dẫn ngụ ý được nhà báo Neil Jillett tìm ra. Những phim tương tự được sản xuất khi sự phê bình về các phim truyền hình năm 2000 diễn ra.
Trong những năm gần đây, có thêm nhiều bộ phim được làm tại Melbourne. Một số phim nổi tiếng bao gồm Mad Max, Chopper, Romper Stomper, Mr. Nice Guy và The Castle.
Có lẽ nhiều thính giả đương thời đều biết đến vở kịch truyền hình hàng ngày Neighbours (Những người hàng xóm), dựng tại vùng ngoại ô hư cấu phía đông của Erinsborough, đại diện cho thế giới "bánh mì trắng" của đời sống người Úc vùng ngoại ô. Những chương trình truyền hình hiện thời khác được dựng tại Melbourne gồm Stingers (một vở kịch về cảnh sát), The Secret Life Of Us (Cuộc sống bí mật của chúng ta) và MDA.
Ca sĩ Paul Kelly đã viết vài bài hát nổi tiếng về các khía cạnh của thành phố gần gũi với lòng của nhiều người dân Melbourne, đáng chú ý là "Leaps And Bounds" và "From St Kilda To King's Cross".
Nhà văn châm biếm gốc Malbourne Barry Humphries đã xây dựng nhân vật chính Dame Edna Everage như một phiên bản hài kịch của một bà nội trợ vùng ngoại ô. Qua nhân vật này ông đã trình diễn những bài thơ chua cay về tập tục của Melbourne và tầng lớp trung lưu thành thị ở Moonee Ponds và Highett, giữa vòng những vùng khác. Mặc dầu không lấy bối cảnh tại Melbourne, nhưng bộ phim Queen Of The Damned được quay trong và xung quanh thành phố. Carols by Candlelight (Những bài thánh nhạc bên ánh nến), lần đầu tổ chức vào năm 1938, là một lễ Giáng sinh truyền thống tổ chức hàng năm tại Sân khấu Ca nhạc Myer Sidney.
Văn hóa và thể thao
Trong khi có một cuộc sống văn hóa và có nền nghệ thuật, đáng kể là Đại hội Hài kịch Quốc tế Melbourne và Liên hoan phim Quốc tế Melbourne hàng năm, Melbourne có lẽ được biết đến như một thành phố thể thao.Văn hóa
Melbourne là nhà của Balê Úc và là ngôi nhà thứ hai của Opera Úc. Nhà hát Giao hưởng Melbourne được cả quê nhà và thế giới đánh giá rất cao. Melbourne cũng là nơi sinh của nghệ thuật phương Tây tại Úc qua trường phái Heidelberg (đang tranh cãi). Viện bảo tàng quốc gia Victoria có những tác phẩm nghệ thuật đẹp nhất nước Úc, đạc biệt là những tác phẩm Úc thời kỳ đầu mang truyền thống phương Tây. Một số đoàn hát chuyên nghiệp hoạt động tại Melbourne, trong đó Đoàn hát Melbourne là đoàn được tổ chức quy mô nhất, và một hệ thống những đoàn hát nhỏ khác.Nhạc pop và nhạc rock của Melbourne được xem là sống động nhất nước Úc (đặc biệt là đối với người Melbourne), và đã nuôi dưỡng nhiều nhạc sĩ, nghệ sĩ tiếng tăm trên thế giới như AC/DC, Nick Cave, Crowded House, John Farnham, Graeme Bell, Kylie Minogue và Jet. Melbourne cũng là quê nhà của những ban nhạc hip hop Úc lớn nhất, thường được biết đến với tên "Melburn" hoặc "The Burn" qua những phong cách văn hóa độc nhất. Obese Records, nhãn hiệu thâu băng hip hop Úc dẫn đầu, được thành lập năm 1995 tại Melbourne và được tọa lạc tại Prahran, phía dưới đường Chapel Street nổi tiếng. Melbourne là nhà của một phong cách cứng cỏi của hip hop trong nhà và cũng là quê nhà của những nghệ sĩ Lyrical Commission, Muphin, Reason và Pegz. Những buổi trình diễn thường tổ chức trong thành phố với những cuộc thi và những cuộc triển lãm do những nghệ sĩ có triển vọng tổ chức suốt tuần tại nhiều địa điểm khác nhau.
Nhạc khiêu vũ ở Melbourne là một dòng nhạc lớn nhất và sống động nhất tại Úc. Có nhiều buổi tiệc khiêu vũ diễn ra hầu như mọi đêm trong năm, thường xuyên thu hút những người dẫn chương trình hay nhất thế giới đến thành phố. Melbourne Shuffle được sinh ra tại đây, và đã tiến triển từ lúc đó.
Thể thao
Melbourne là quê hương của mười trong mười sáu đội bóng của Liên đoàn bóng đá Úc. Mỗi tuần các đội này thi đấu năm trận với số khán giả trung bình mỗi trận khoảng 35.000 người. Melbourne là nơi khai sinh bóng bầu dục Úc và môn thể thao này vẫn là môn thể thao phổ biến nhất tại bang Victoria. Vòng chung kết Lớn (một trong những sự kiện thể thao lớn nhất nước Úc) được tổ chức vào tuần cuối của tháng 9 tại Sân vận động Cricket Melbourne (một khu vực rộng có thể chứa đến 100.000 khán giả). Melbourne là nơi đăng cai Giải quần vợt Úc Mở rộng (là một trong bốn giải Grand Slam); Melbourne Cup – một giải đua ngựa uy tín nhất thế giới; Giải đấu cricket lớn "Boxing Day" nổi tiếng tổ chức hàng năm từ 26-30 tháng 12 tại Sân vận động Cricket Melbourne; và giải đua xe F1 nước Úc.Melbourne Storm, chơi ở Liên đoàn Bóng bầu dục Quốc gia, được đặt tại Olympic Park. Olympic Park cũng là sân nhà của đội bóng Melbourne Victory, chơi ở giải bóng đá dạng mới của Úc, giải A-League.
Melbourne cũng là đồng tổ chức Cúp Bóng bầu dục Thế giới 2003, gồm nhiều trận đấu vòng tròn và cả các trận bán kết - tất cả các trận đều thi đấu Etihad Stadium. Melbourne cũng là thành phố đầu tiên không thuộc Mỹ đăng cai Giải Bắn súng Cảnh sát Thế giới 1995 và Cúp President 1999 cho golf; cũng là thành phố đầu tiên ở Nam bán cầu tổ chức giải vô địch thế giới Cup Polo (2001). Sự kiện thể thao lớn mới nhất tại thành phố là Đại hội thể thao của Khối thịnh vượng chung 2006 (Commonwealth Games).
Vào 2007, Melbourne sẽ là chủ nhà của Giải vô địch Thế giới các môn Thể thao dưới nước.
Công viên và vườn tược
Du lịch
Thành phố kết nghĩa
Melbourne có nhiều thành phố kết nghĩa:- Osaka, Nhật Bản - 1978
- Tianjin, Trung Quốc - 1980
- Thessaloniki, Hy Lạp - 1984
- Boston, Hoa Kỳ - 1985
- Sankt-Peterburg, Nga - 1989
- Milano, Ý - 2004
- Galle, Sri Lanka - 2005 (Sau cơn sóng thần 2004, Melbourne kết nghĩa Galle để hỗ trợ tiến xây lại sân chơi cricket ở đó)
Xem thêm
- Danh sách các Thị trưởng Melbourne
- Danh sách các người Melbourne nổi tiếng
- Tội phạm ở Melbourne
- Du lịch Melbourne
- Hook turn - một kỹ thuật lái xe của người Melbourne
Chú thích
- ^ Theo cách phiên âm trong Sách giáo khoa Việt Nam
- ^ "Hoan hô..." theo Việt Luận
Liên kết ngoài
Wikimedia Commons có thêm thể loại hình ảnh và phương tiện truyền tải về Melbourne |
- Encyclopedia của Melbourne
- Australian Places - a gazetteer of Australian cities, towns and suburbs, many of which are in Melbourne
- Website chính thức của Melbourne
- Melbourne Accommodation Tourism and Business Directory
- Google Satellite Images
- WalkingMelbourne.com
- MelbournePhotos.net
- Hình ảnh về Melbourne của Bruce Ma
- Flickr: Photos tagged with melbourne
- Batmania: a fun way to explore the people and events surrounding the foundation of Melbourne at the National Museum of Australia.
- Melbourne and Victorian Information and History
|
Thành thị lớn nhất của Úc ước tính của Cục Thống kê Úc năm 2012[1] |
|||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Hạng | Bang | Dân số | Hạng | Tên | Bang | Dân số. | |||
Sydney Melbourne |
1 | Sydney | NSW | 4.667.283 | 11 | Greater Hobart | TAS | 216.959 | Brisbane Perth |
2 | Melbourne | VIC | 4.246.345 | 12 | Geelong | VIC | 179.042 | ||
3 | Brisbane | QLD | 2.189.878 | 13 | Townsville | QLD | 171.971 | ||
4 | Perth | WA | 1.897.548 | 14 | Cairns | QLD | 142.528 | ||
5 | Adelaide | SA | 1.277.174 | 15 | Darwin | NT | 131.678 | ||
6 | Gold Coast–Tweed Heads | QLD/NSW | 590.889 | 16 | Toowoomba | QLD | 110.472 | ||
7 | Newcastle–Maitland | NSW | 418.958 | 17 | Ballarat | VIC | 95.007 | ||
8 | Canberra–Queanbeyan | ACT/NSW | 411.609 | 18 | Bendigo | VIC | 89.666 | ||
9 | Sunshine Coast | QLD | 285.169 | 19 | Launceston | TAS | 86.109 | ||
10 | Wollongong | NSW | 282.099 | 20 | Albury–Wodonga | NSW/VIC | 84.982 |
|
- ^ “3218.0 – Regional Population Growth, Australia. 2011–12”. Cục Thống kê Úc. 30 tháng 4 năm 2013. Truy cập ngày 30 tháng 10 năm 2013.
Khởi nghĩa Thái Nguyên
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
|
Bối cảnh lịch sử
Sau vụ Hà Thành đầu độc năm 1908 vỡ lở và âm mưu đưa vua Duy Tân ra ngoài bưng khởi nghĩa năm 1916 thất bại, xã hội Việt Nam ngày càng sôi động mặc dầu chính quyền Bảo hộ cố dập tắt các phong trào kháng cự và bắt giam nhiều người. Trong số những người phải thụ án giam ở Thái Nguyên là Lương Ngọc Quyến, con cụ Cử Lương Văn Can, hiệu trưởng của Đông Kinh Nghĩa thục. Lương Ngọc Quyến cũng là thành viên của Việt Nam Quang phục Hội và qua ông, trại lính khố xanh canh phòng ở Thái Nguyên hưởng ứng lời kêu gọi nổi dậy chống lại chỉ huy người Pháp. Họ tôn ông là quân sư.Trong số các binh lính được Lương Ngọc Quyến cảm hóa, có đội trưởng lính khố xanh Trịnh Văn Cấn (Đội Cấn). Đội Cấn là một người rất khâm phục cuộc khởi nghĩa Yên Thế của Hoàng Hoa Thám, đồng thời phẫn nỗ trước sự khinh miệt của chỉ huy Pháp với binh lính người Việt. Thông qua Lương Ngọc Quyến, Đội Cấn đã biết tới đường lối đấu tranh của Việt Nam Quang phục Hội và tình nguyện gia nhập tổ chức. Sau đó Đội Cấn đã cùng với Đội Giá, Đội Xuyên, Đội Nam... bàn bạc quyết định tổ chức một cuộc nổi dậy chiếm tỉnh Thái Nguyên với lực lượng binh lính ở tỉnh lỵ và các đồn xung quanh cùng với số tù chính trị trong nhà lao.
Tuy nhiên, những sĩ quan Pháp đã nhận biết được ý định khởi nghĩa của binh lính nên đã tìm cách đảo lộn hàng ngũ binh lính, liên tục điều chuyển đồng thời ra sức đề phòng. Cuộc khởi nghĩa do đó bị trì hoãn nhiều lần. Đến tháng 8 năm 1917, được tin sắp có cuộc thuyên chuyển, Đội Cấn quyết định khởi nghĩa vào đến 30 tháng 8 năm 1917.
Diễn biến
Cảnh báo: Giá trị không được liệt kê cho "tên thông thường" | ||||||||||||||||||||||
|
Trong sáu ngày từ đêm 30 Tháng Tám đến ngày 5 Tháng Chín, quân của Đội Cấn trấn giữ thành Thái Nguyên, lại thu nạp thêm các dân phu mỏ và dân địa phương nâng quân số lên khoảng hơn 600 người. Thành phần lực lượng khởi nghĩa gồm khoảng 130 lính vệ binh, hơn 200 tù nhân, 300 dân phu và dân địa phương.[1] Theo gợi ý của Lương Ngọc Quyến, Đội Cấn chia lực lượng khởi nghĩa thành hai tiểu đoàn, tiểu đoàn thứ nhất gồm các lính vệ binh cũ, tiểu thứ hai gồm tù nhân và dân quân, chỉ huy là Ba Chi. Trang bị của đội quân này gồm 92 súng hỏa mai và 75 súng trường mà quân nổi dậy thu được từ kho vũ khí của Pháp.
Họ truyền hịch, đợi các nơi hưởng ứng nổi dậy cùng ngoại viện từ bên Tàu và Nhật đến vì tin rằng Việt Nam Quang phục Hội có lực lượng đợi sẵn để trợ lực. Lãnh tụ cuộc khởi nghĩa cũng tuyên bố độc lập, lấy quốc hiệu là "Đại Hùng". Họ trương cờ Ngũ tinh liên châu của Việt Nam Quang phục Hội trên cửa thành.
Vào ngày 2 Tháng Chín năm 1917 thì quân Pháp bắt đầu phản công với đội quân 2.700 người[2] và đến ngày 5 Tháng Chín thì đánh vào tỉnh lỵ. Lương Ngọc Quyến trúng đạn ở đầu chết.[3] Đội Cấn phải triệt thoái khỏi Thái Nguyên chạy về phía bắc. Đến trưa ngày mồng 5 thì Pháp tái chiếm được thành. Số thương vong bên nghĩa quân là 56 người; quân Pháp thiệt mạng 107 người.[4]
Đội Cấn sau đó dẫn quân chạy lên Đại Từ, Tam Đảo rồi xuống Vĩnh Yên, trước khi trở lại vùng Thái Nguyên nhưng lực lượng hao mòn dần. Bị truy nã, ông rút về núi Pháo rồi để không bị bắt ông tự tử bằng súng, bắn vào bụng. Đó là ngày 11 Tháng Giêng năm 1918; cuộc khởi nghĩa chấm dứt. Theo các tài liệu chính thức của Pháp, một vệ sỹ của ông giết ông để lấy thưởng. Người này dẫn quân Pháp đến nơi được coi là mộ của Đội Cấn. Tuy nhiên dù người Pháp không tỏ vẻ nghi ngờ đương sự, họ vẫn cho là Đội Cấn do bị thương nặng, đã yêu cầu thuộc hạ kết liễu đời mình để khỏi rơi vào tay quân Pháp.[5]
Quân Pháp tiếp tục càn quét tàn quân của cuộc khởi nghĩa tới tháng 3 thì xong, với một chiến thuật mà họ sử dụng rất hiệu quả là bắt giữ thân nhân của quân khởi nghĩa để buộc họ phải ra hàng. Một số người bị bắt bị kết án tử hình, những người khác bị kết án và đày ra Côn Đảo.
Chú thích
- ^ Zinoman, trang 166
- ^ theo Zinoman, trang 166, trích Trần Huy Liệu Loạn Thái Nguyên, lực lượng Pháp có hơn 500 quân chính qui được trang bị trọng pháo
- ^ "Những phong trào chống Pháp đầu thế kỷ 20" Theo tài liệu này thì Lương Ngọc Quyến nhờ Trịnh Văn Cấn bắn vào ngực để quyên sinh
- ^ Trần Huy Liệu, trang 111
- ^ Zinoman, trang 167
Tham khảo
- Trần Huy Liệu (1955). Cách mạng cận đại Việt Nam, tập 3. Hà Nội.
- Hoàng Cơ Thụy (2002). Việt sử khảo luận. Paris, Nam Á. ISBN 2907104004.
- Peter Zinoman (2001). The colonial Bastille: a history of imprisonment in Vietnam, 1862-1940. University of California Press. ISBN 0520224124.
Xem thêm
|
Tàu con thoi Discovery
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Discovery | |
---|---|
Tàu con thoi Discovery phóng lên từ bệ phóng 39A trong phi vụ STS-124. |
|
Số hiệu OV | OV-103 |
Nước | Hoa Kỳ |
Hợp đồng đóng | 29 tháng 1, 1979 |
Được đặt tên theo | RRS Discovery |
Hiện trạng | Ngừng hoạt động |
Chuyến bay đầu tiên | STS-41-D 30 tháng 8, 1984 – 5 tháng 9, 1984 |
Chuyến bay cuối cùng | STS-133 24 tháng 2, 2011 - 7 tháng 3, 2011 |
Tổng số phi vụ | 39 |
Phi hành đoàn | 246 |
Thời gian trong không gian | 365 ngày, 5 giờ, 13 phút, 34 giây[1] |
Số lần bay quanh quỹ đạo | 5.830[2] |
Khoảng cách đã du hành | 148.221.675 mi (238.539.663 km)[1] |
Số vệ tinh đã phóng | 31 (bao gồm Hubble Space Telescope) |
số lần nối với Mir | 1 |
Nối với ISS | 13 |
Tàu được lấy tên từ những con tàu thám hiểm tên Discovery. Đầu tiên là HMS Discovery, một con tàu biển đã đưa thuyền trưởng James Cook trên chuyến đi lớn thứ ba và cũng là cuối cùng của ông ta. Ngoài ra, còn có con tàu Discovery của Henry Hudson, được sử dụng trong năm 1610–1611 để đi tìm Tuyến đường biển Tây Bắc (Northwest Passage), và RRS Discovery, một con tàu được sử dụng bởi Scott và Shackleton cho những cuộc thám hiểm tới châu Nam Cực năm 1901–1904 (và vẫn còn đang được gìn giữ làm bảo tàng). Tàu con thoi này cũng trùng tên với Discovery One, con tàu trong phim 2001: A Space Odyssey.
Discovery là tàu con thoi đã phóng Kính viễn vọng Hubble. Phi vụ sửa chữa lần thứ hai và lần ba của Hubble cũng được thực hiện bởi Discovery. Tàu này cũng đã phóng vệ tinh thám hiểm Ulysses và 3 vệ tinh TDRS. Discovery đã được chọn hai lần trong việc trở lại các chuyến bay lên quỹ đạo, lần thứ nhất là chuyến bay trong năm 1988, sau thảm họa Challenger, và lần thứ hai là vào tháng 7 năm 2005, sau thảm họa Columbia. Discovery cũng đã đưa phi hành gia John Glenn của Chương trình Mercury, 77 tuổi vào lúc đó, trở lại không gian trong STS-95 vào ngày 29 tháng 10 năm 1998, làm ông trở thành người cao tuổi nhất du hành vào không gian.
Mục lục
Các phi vụ nổi bật
- STS-41-D: Chuyến bay đầu tiên
- STS-51-D: Đưa thượng nghị sỹ Hoa Kỳ đầu tiên vào không gian, Jake Garn (Cộng Hòa-Utah)
- STS-26: Quay trở lại không gian sau khi thảm họa Challenger (STS-51-L)
- STS-31: Phóng Kính viễn vọng Hubble
- STS-95: Chuyến bay thứ hai của John Glenn, người cao tuổi nhất vào không gian và là nghị viên thứ hai vào không gian.
- STS-114: Quay trở lại không gian sau thảm họa Columbia (STS-107)
- STS-121: Chuyến thứ hai trở lại không gian sau thảm họa Columbia và là lần phóng tàu con thoi đầu tiên nhân dịp Quốc khánh Hoa Kỳ 4 tháng 7.
Danh sách các phi vụ
# | Ngày | Mã hiệu | Ghi chú | Thời gian hành trình |
---|---|---|---|---|
1 | 30 tháng 8, 1984 | STS-41-D | Phi vụ đầu tiên của Discovery: Mang theo 2 vệ tinh viễn thông, gồm LEASAT F2. | 6 ngày, 00 giờ, 56 phút, 04 giây |
2 | 8 tháng 11, 1984 | STS-51-A | Mang 2 và sửa chữa 2 vệ tinh viễn thông bao gồm LEASAT F1. | 7 ngày, 23 giờ, 44 phút, 56 giây |
3 | 24 tháng 1, 1985 | STS-51-C | Phóng lên vệ tinh ELINT Magnum DOD. | 3 ngày, 01 giờ, 33 phút, 23 giây |
4 | 2 tháng 4, 1985 | STS-51-D | Phóng lên 2 vệ tinh viễn thông bao gồm LEASAT F3. | 6 ngày, 23 giờ, 55 phút, 23 giây |
5 | 17 tháng 6, 1985 | STS-51-G | Mang lên 2 vệ tinh thông tin, Sultan Salman al-Saud trở thành vệ tinh đầu tiên của Ả Rập Xê Út. | 7 ngày, 01 giờ, 38 phút, 52 giây |
6 | 27 tháng 8, 1985 | STS-51-I | Mang theo 2 vệ tinh viễn thông gồm LEASAT F4. Khôi phục, sửa chữa và triển khai lại LEASAT F3. | 7 ngày, 02 giờ, 17 phút, 42 giây |
7 | 29 tháng 9, 1988 | STS-26 | Trở lại hoạt động sau vụ thảm họa tàu con thoi Challenger, phóng TDRS. | 4 ngày, 01 giờ, 00 phút, 11 giây |
8 | 13 tháng 3, 1989 | STS-29 | Phóng TDRS. | 4 ngày, 23 giờ, 38 phút, 52 giây |
9 | 22 tháng 11, 1989 | STS-33 | Phóng vệ tinh ELINT Magnum DOD. | 5 ngày, 00 giờ, 06 phút, 49 giây |
10 | 24 tháng 4, 1990 | STS-31 | Phóng Hubble Space Telescope (HST). | 5 ngày, 01 giờ, 16 phút, 06 giây |
11 | 6 tháng 10, 1990 | STS-41 | Phóng tàu thám hiểm Ulysses. | 4 ngày, 02 giờ, 10 phút, 04 giây |
12 | 28 tháng 4, 1991 | STS-39 | Phóng vệ tinh 675 (AFP675)-thuộc chương trình Không lực DOD. | 8 ngày, 07 giờ, 22 phút, 23 giây |
13 | 12 tháng 9, 1991 | STS-48 | Mang lên vệ tinh Upper Atmosphere Research Satellite (UARS). | 5 ngày, 08 giờ, 27 phút, 38 giây |
14 | 22 tháng 1, 1992 | STS-42 | Mang lên International Microgravity Laboratory-1 (IML-1). | 8 ngày, 01 giờ, 14 phút, 44 giây |
15 | 2 tháng 12, 1992 | STS-53 | Mang lên vệ tinh của bộ Quốc phòng Hoa Kỳ. | 7 ngày, 07 giờ, 19 phút, 47 giây |
16 | 8 tháng 4, 1993 | STS-56 | Mang theo Atmospheric Laboratory (ATLAS-2). | 9 ngày, 06 giờ, 08 phút, 24 giây |
17 | 12 tháng 9, 1993 | STS-51 | Mang theo Vệ tinh công nghệ viễn thông tiên tiến (Advanced Communications Technology Satellite-ACTS). | 9 ngày, 20 giờ, 11 phút, 11 giây |
18 | 3 tháng 2, 1994 | STS-60 | Mang theo Wake Shield Facility (WSF). | 7 ngày, 06 giờ, 08 phút, 36 giây |
19 | 9 tháng 9, 1994 | STS-64 | Mang LIDAR In-Space Technology Experiment (LITE). | 10 ngày, 22 giờ, 49 phút, 57 giây |
20 | 3 tháng 2, 1995 | STS-63 | Kết nối vào trạm không gian Mir. | 8 ngày, 06 giờ, 29 phút, 36 giây |
21 | 13 tháng 7, 1995 | STS-70 | Mang lên vệ tinh thứ 7 Tracking and Data Relay Satellite (TDRS). | 8 ngày, 22 giờ, 20 phút, 05 giây |
22 | 11 tháng 2, 1997 | STS-82 | Sửa chữa Hubble Space Telescope (HST) (HSM-2). | 9 ngày, 23 giờ, 38 phút, 09 giây |
23 | 7 tháng 8, 1997 | STS-85 | Mang lên kính Cryogenic Infrared Spectrometers and Telescopes. | 11 ngày, 20 giờ, 28 phút, 07 giây |
24 | 2 tháng 6, 1998 | STS-91 | Phi vụ cuối tàu con thoi kết nối với trạm Mir | 9 ngày, 19 giờ, 55 phút, 01 giây |
25 | 29 tháng 10, 1998 | STS-95 | SPACEHAB, chuyến bay thứ 2 của John Glenn, Pedro Duque trở thành người Tây Ban Nha đầu tiên lên không gian. | 8 ngày, 21 giờ, 44 phút, 56 giây |
26 | 27 tháng 5, 1999 | STS-96 | Phi vụ cung cấp trang thiết bị cho International Space Station. | 9 ngày, 19 giờ, 13 phút, 57 giây |
27 | 19 tháng 12, 1999 | STS-103 | Sửa chữa Hubble Space Telescope (HST) (HSM-3A). | 7 ngày, 23 giờ, 11 phút, 34 giây |
28 | 11 tháng 10, 2000 | STS-92 | Chuyến bay lắp ghép với ISS (mang theo modul Z1 truss); phi vụ thứ 100 của các tàu con thoi. | 12 ngày, 21 giờ, 43 phút, 47 giây |
29 | 8 tháng 3, 2001 | STS-102 | Mang theo các đội bay đến và rời ISS (Expedition 1 và Expedition 2) | 12 ngày, 19 giờ, 51 phút, 57 giây |
30 | 10 tháng 8, 2001 | STS-105 | Mang theo các đội bay đến và rời ISS (Expedition 2 và Expedition 3) | 11 ngày 21 giờ, 13 phút, 52 giây |
31 | 26 tháng 7, 2005 | STS-114 | Trở lại hoạt động sau thảm họa tàu con thoi Columbia; mang trang thiết bị lên Trạm Vũ trụ Quốc tế (ISS), tàu được triển khai những thủ tục kiểm tra an toàn mới, mang lên ISS Multi-Purpose Logistics Module (MPLM) Raffaello. | 13 ngày, 21 giờ, 33 phút, 00 giờ |
32 | 4 tháng 7, 2006 | STS-121 | Mang trang thiết bị lên ISS, kiểm tra kĩ thuật và an toàn theo phương pháp mới cho tàu. | 12 ngày, 18 giờ, 37 phút, 54 giây |
33 | 9 tháng 12, 2006 | STS-116 | Mang đội bay lên ISS (mang và lắp đặt modul P5 truss); Chuyến bay cuối cùng tại bệ phóng 39-B; Chuyến phóng vào ban đêm đầu tiên sau thảm họa tàu Columbia. |
12 ngày, 20 giờ, 44 phút, 16 giây |
34 | 23 tháng 10, 2007 | STS-120 | Mang đội bay lên ISS (mang và lắp đặt modul Harmony). | 15 ngày, 02 giờ, 23 phút, 55 giây |
35 | 31 tháng 5, 2008 | STS-124 | Mang đội bay lên ISS (mang và lắp đặt modul Kibō JEM PM). | 13 ngày, 18 giờ, 13 phút, 07 giây |
36 | 2009 March 15 | STS-119 | Mang đội bay lên ISS và lắp đặt modul (ITS S6) và dãy pin mặt trời và pin. Thay thế một hệ thống chuyển đổi ure thành nước bị hỏng. |
12 ngày, 19 giờ, 29 phút, 33 giây |
37 | 28 tháng 8, 2009 | STS-128 | Mang đội bay lên ISS và bổ sung thiết bị cho modul Leonardo Multi-Purpose Logistics Module. Cũng mang theo máy tập chạy bộ C.O.L.B.E.R.T đặt theo tên của phi hành gia Stephen Colbert | 13 ngày 20 giờ, 54 phút, 40 giây |
38 | 5 tháng 4, 2010 | STS-131 | Bổ sung cho modul Leonardo Multi-Purpose Logistics Module. Phi vụ cũng đánh dấu lần đầu tiên có 4 phụ nữ trong không gian và lần đầu tiên có 2 phi hành gia người Nhật Bản. | 15 ngày 2 giờ, 47 phút, 10 giây‡ |
39 | 24 tháng 2, 2011 | STS-133 | Tàu được phóng vào lúc 4:53 p.m. EST, mang theo modul Pressurized Multipurpose Module (PMM) Leonardo, ELC-4 và Robonaut 2 lên ISS. Đây là phi vụ cuối cùng của Tàu con thoi Discovery.[3] | 11 days |
– Phi vụ có thời gian ngắn nhất của Discovery
Gallery
Tàu con thoi Discovey mở khoang chứa hàng trước khi cập bến ISS. | Phi vụ đầu tiên của Discovery mang tên STS 41-D. | Phi vụ STS-121 của Discovey được thực hiện vào ngày Quốc khánh Hoa Kỳ. | Tàu con thoi Discovey trước ngày thực hiện phi vụ STS-119. |
Tàu con thoi Discovery được kiểm tra năm 1998. | Discovery thực hiện ghép nối với International Space Station. | Tàu con thoi Discovery ngay sau khi hạ cánh xuống Trái Đất. | Discovey trên lưng Boeing 747 của Nasa. |
Huy hiệu các phi vụ của Discovery
Biểu tượng Tàu con thoi Discovey của NASA | |||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|
Huy hiệu các chuyến bay của Discovery | |||||||
Chú thích
- ^ a ă NASA (tháng 10 năm 2010). “NASAfacts Discovery (OV-103)”. Truy cập ngày 21 tháng 10 năm 2010.
- ^ NASA (20 tháng 10 năm 2010). “The Long Voyage of Discovery”. Truy cập ngày 21 tháng 10 năm 2010.
- ^ [1]
Tham khảo
Liên kết ngoài
Wikimedia Commons có thêm thể loại hình ảnh và phương tiện truyền tải về Tàu con thoi Discovery |
http://www.youtube.com/user/hoangkimvietnam
Trở về trang chính
Hoàng Kim, hoangkim, hoangkimvietnam, Ngọc Phương Nam, Chào ngày mới Thung dung, Dạy và học, Cây Lương thực, Tin Nông nghiệp Việt Nam, Food Crops, Cassava in Vietnam, VietnamAfricaCassavaRice, Khát khao xanh, Dayvahoc,Học mỗi ngày, Danh nhân Việt , Food Crops News, Điểm chính, CNM365, Kim LinkedIn, KimTwitter, KimFaceBook Đọc lại và suy ngẫm, Việt Nam tổ quốc tôi, Tình yêu cuộc sống, Thơ cho con
No comments:
Post a Comment