CNM365. Chào ngày mới 19 tháng 8. Wikipedia Ngày này năm xưa. Ngày Nhân đạo thế giới; ngày Độc lập tại Afghanistan (1919). Năm 43 TCN – Augustus được bầu là quan chấp chính La Mã cùng với người họ hàng là Quintus Pedius sau khi gây sức ép lên Viện nguyên lão. Năm 1588 – Nữ hoàng Elizabeth đọc diễn văn chiến thắng trước Hạm đội Tây Ban Nha, khởi điểm cho thế thượng phong của Anh Quốc trên các đại dương. Năm 1945 – Cách mạng tháng Tám: Nhân dân Hà Nội dưới sự lãnh đạo của Việt Minh giành được chính quyền trong Tổng khởi nghĩa Hà Nội (hình). Năm 1991 – Bắt đầu đảo chính tại Liên Xô khi nhóm Ủy ban Khẩn cấp Nhà nước toan tính nắm quyền lực tại Moskva, quản thúc Tổng thống Gorbachyov.
Tổng khởi nghĩa Hà Nội
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Tổng khởi nghĩa Hà Nội 1945 là sự kiện nhân dân Hà Nội dưới sự lãnh đạo của Việt Minh đã giành chính quyền từ tay phát xít Nhật và chính phủ Đế quốc Việt Nam vào ngày 19 tháng 8 năm 1945. Đây là một sự kiện lịch sử quan trọng mở đầu cho Cách mạng tháng Tám và sự ra đời của nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.
Chiều 15 tháng 8, khi có tin Nhật chính thức đầu hàng Đồng Minh, hai ông Trần Tử Bình và Nguyễn Khang, hai đại diện của Xứ ủy Bắc Kỳ được giao nhiệm vụ ở lại Hà Nội, đã cấp tốc bàn bạc và đi tới quyết định thành lập Uỷ ban Quân sự Cách mạng Hà Nội (Ủy ban khởi nghĩa) của Mặt trận Việt Minh - do ông Khang làm chủ tịch và bốn ủy viên: Trần Quang Huy, Nguyễn Duy Thân, Lê Trọng Nghĩa và Nguyễn Quyết cùng cố vấn Trần Đình Long - để gấp rút chuẩn bị vũ trang khởi nghĩa giành chính quyền. Ủy ban khởi nghĩa sẽ trực tiếp tổ chức các cuộc mít tinh, tuần hành, biểu dương lực lượng gây hoang mang cho chính phủ Trần Trọng Kim trước khi đi tới việc giành chính quyền. Đồng thời gia tăng vận động để ông Phan Kế Toại nhanh chóng có quyết định từ chức và giao chính quyền cho Việt Minh, qua đó hạn chế những sự cố gây đổ máu cho lực lượng cách mạng. Khâm sai Phan Kế Toại đã gặp Nguyễn Khang, người do Xứ Ủy Bắc Kỳ cử đến. Ông đề nghị Việt Minh tham gia Chính phủ Đế quốc Việt Nam và ngừng các hoạt động chống Nhật nhưng Nguyễn Khang bác bỏ.[1]
Ngay sau đó, chính quyền thân Nhật Đế quốc Việt Nam thành lập Uỷ ban Chính trị để đàm phán với Việt Minh. Ủy ban này đề nghị Việt Minh: "Đằng nào các ông cũng thắng, nhưng để điều đình với Đồng Minh sẽ vào Đông Dương giải giáp quân Nhật, đề nghị vùng nông thôn cách thành phố 15km là thuộc quyền các ông, còn thành phố cần có nhân sĩ, trí thức đứng ra giao dịch với Đồng Minh". Đại biểu Việt Minh đã trả lời dứt khoát: "giao dịch với Đồng Minh lúc này, ngoài Việt Minh không ai có thể có lực lượng và danh nghĩa cả".
Sau cuộc họp cuối cùng của Hội đồng Tư vấn ngày 16/8/1945, Phan Kế Toại và hầu hết các phụ tá của ông cùng với các quan chức cấp cao của chính quyền Đế quốc Việt Nam tại miền Bắc chạy trốn vào kinh đô Huế.[2]
Ngày 17 tháng 8, cuộc mít tinh của Tổng hội công chức chính quyền Trần Trọng Kim tại quảng trường Nhà hát Lớn thành phố để ủng hộ chính phủ thu hồi chủ quyền. Hàng vạn người đứng đầy đường Paulbert (nay là phố Tràng Tiền), người đi xem rất đông, trên bao lơn nhà hát lớn, cờ quẻ ly được kéo lên, mọi người hát vang bài Tiếng Gọi Thanh Niên và hoan hô chính phủ Trần Trọng Kim thu hồi độc lập, họ hô to "Việt Nam độc lập muôn năm", nhưng sau đó đã biến thành cuộc tuần hành thị uy của quần chúng cách mạng do Việt Minh điều khiển. Nhiều lính bảo an cũng khoát súng đi theo. Sau cuộc biểu tình Việt Minh phân phát cờ đỏ cho dân chúng để đón quân giải phóng sắp ở chiến khu về. Hàng trăm, hàng ngàn người vào Bắc bộ phủ hô đả đảo phát xít, hoan hô giải phóng, hô hào dân chúng đi chiếm các công sở.
Chiều ngày 17 tháng 8, tại làng Vạn Phúc - An toàn khu của Xứ uỷ tại Hà Đông, ông Nguyễn Khang sau khi trực tiếp khảo sát tình hình Hà Nội trở về đã trao đổi với ông Trần Tử Bình và đi tới quyết định: Dựa trên chỉ thị "Nhật, Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta" tiến hành cho Hà Nội khởi nghĩa mà không cần chờ tới lệnh của Trung ương. Quyết định quan trọng này được đưa ra chỉ 2 ngày sau khi có tin Nhật đầu hàng Đồng Minh và Pháp còn đang lúng túng trong chính sách cụ thể đối với Việt Nam và Đông Dương.
Việc chớp thời cơ này thật táo bạo vì lúc đó Ủy ban khởi nghĩa chỉ dựa hoàn toàn vào sức mạnh của chính nhân dân thủ đô, với các tổ tự vệ chiến đấu mà chưa có sự hỗ trợ của đội quân giải phóng từ Trung ương và các chiến khu.
Tinh mơ sáng ngày 19 tháng 8, hàng chục vạn người dân ở Hà Nội và các tỉnh lân cận theo các ngả đường kéo về quảng trường Nhà hát Lớn Hà Nội. Khoảng 10 giờ rưỡi, cuộc mít tinh lớn chưa từng có của quần chúng cách mạng được sự bảo vệ của Thanh niên tự vệ, của tổ chức Việt Minh Hoàng Diệu Hà Nội đã diễn ra. Đại diện Việt Minh tuyên bố: Tổng khởi nghĩa! Sau đó một cánh tiến thẳng tới Phủ Khâm Sai, cơ quan đầu não của chính phủ, và nhanh chóng làm chủ toàn bộ khu vực này. Lính bảo vệ Phủ đã hạ vũ khí mà không có bất kỳ hành động kháng cự nào trước sức mạnh của nhân dân Hà thành. Khâm sai Bắc kỳ Nguyễn Xuân Chữ (người mới đứng ra thay thế ông Phan Kế Toại) bị bắt giữ và đưa về An toàn khu tại Hà Đông.
Cùng thời gian đó, ông Nguyễn Quyết đã chỉ huy nhân dân chiếm Trại Bảo an binh. Nhưng quân đội Nhật đã can thiệp, đưa xe tăng cùng binh lính bao vây quanh trại, đòi tước vũ khí của lực lượng cách mạng. Ông Nguyễn Khang và ông Trần Tử Bình đã quyết định tiến hành đàm phán với quân đội Nhật vì theo phân tích thì quân Nhật đã rất rệu rã, không còn tinh thần chiến đấu cao và muốn bảo toàn lực lượng khi rút về nước. Hơn nữa nếu quân đội Nhật cố ngăn cản thì cũng không được lợi ích gì vì bản thân chính quyền do họ dựng lên quá yếu ớt, không thể đối trọng với sức mạnh của Việt Minh. Đúng như dự đoán, sau khi tiếp nhận đề nghị của Ủy ban Khởi nghĩa, Nhật đã đồng ý rút quân nhưng yêu cầu phải có một cuộc đàm phán chính thức với cấp chỉ huy tối cao của họ.
Chiều tối 19 tháng 8, phái đoàn của đàm phán của Việt Minh do ông Lê Trọng Nghĩa và cố vấn Trần Đình Long dẫn đầu đã trực tiếp gặp gỡ và đàm phán với tướng Tsuchihashi - Tổng tư lệnh kiêm Toàn quyền Nhật - ngay tại Tổng hành dinh quân đội Nhật (nay là 33 Phạm Ngũ Lão). Cuộc đàm phán diễn ra khá gay go nhưng cuối cùng phía Nhật, đúng như đã được dự đoán, đã chấp nhận án binh bất động, không can thiệp vào công việc của Việt Minh; đổi lại binh lính của họ sẽ được bảo đảm an toàn, không bị Việt Minh tấn công. Họ đã chấp nhận chính quyền cách mạng. Kết quả đàm phán với Nhật mang ý nghĩa quyết định cho thắng lợi của cuộc tổng khởi nghĩa Hà Nội bởi phe Việt Minh đã không chỉ tránh được cuộc đối đầu trực tiếp với lực lượng vũ trang của Nhật mà còn loại trừ mọi hy vọng của các lực lượng chính trị khác vào khả năng đảo ngược tình thế tại thủ đô vào thời điểm đó.
Cũng trong đêm 19 tháng 8, Xứ ủy quyết định thành lập Uỷ ban Nhân dân Cách mạng Bắc bộ và Uỷ ban Nhân dân Cách mạng Hà Nội, chính thức hoá vai trò của chính quyền cách mạng với nhân dân và cộng đồng quốc tế.
Ngày 20 tháng 8, khoảng 10 giờ 30 sáng, Ủy ban Nhân dân Cách mạng Bắc Bộ, đại diện cho chính quyền cách mạng lâm thời, đã chính thức ra mắt quốc dân đồng bào tại Vườn hoa Con Cóc trước Bắc Bộ phủ.
Ngày 21 tháng 8 tại Huế phong trào Việt Minh bừng nổi dậy. Tướng tư lệnh Nhật đã nhận được chỉ thị của Đông Kinh phải giữ ngôi cho Hoàng đế Bảo Đại, đã bàn với Thủ Tướng Trần Trọng Kim như sau: "Mặc dù nước Nhật đã đầu hàng nhưng quân đội Nhật tại đây vẫn có nhiệm vụ giữ gìn an ninh trật tự cho tới khi quân đội Đồng minh đến tiếp thu. Xin ngài hãy làm văn thư yêu cầu để chúng tôi tái lập trật tự." nhưng Thủ Tướng đã từ chối sự giúp đỡ của họ.
Đại tướng Nhật cũng vào yết kiến vua Bảo Đại xin tái lập trật tự để bảo vệ ngai vàng nhưng cũng bị từ chối.
Thắng lợi ở Hà Nội lập tức kéo theo một sự rung động và làm tan vỡ hệ thống chính quyền thân Nhật ở toàn vùng. Các tỉnh trưởng, thị trưởng Hải Phòng, Nam Định, Bắc Ninh, Thái Nguyên... đang ngóng trông tin từ Hà Nội, phải vội vàng chuyển sang tìm gặp và theo Việt Minh ở địa phương. Ngày 23 tháng 8, chính quyền cách mạng ở Hải Phòng được thành lập.
Mục lục
Ngày 17 tháng 8 năm 1945: Quyết định lịch sử
Vào những ngày đầu tháng 8 năm 1945, tình hình chính sự Hà Nội ngày càng trở nên nóng bỏng hơn do những biến động của Thế chiến thứ hai. Quân đội Nhật liên tiếp chịu hết thất bại này tới thất bại khác trên các mặt trận trước quân đội Đồng Minh. Trong thời điểm đó, lãnh đạo Việt Minh đã chỉ thị tiến hành các cuộc tiếp xúc bí mật với Khâm sai Phan Kế Toại, người đại diện cho triều đình nhà Nguyễn tại miền Bắc, đề nghị ông đứng về phía Việt Minh. Ông Toại đang phân vân trước lời mời Việt Minh tham chính.Chiều 15 tháng 8, khi có tin Nhật chính thức đầu hàng Đồng Minh, hai ông Trần Tử Bình và Nguyễn Khang, hai đại diện của Xứ ủy Bắc Kỳ được giao nhiệm vụ ở lại Hà Nội, đã cấp tốc bàn bạc và đi tới quyết định thành lập Uỷ ban Quân sự Cách mạng Hà Nội (Ủy ban khởi nghĩa) của Mặt trận Việt Minh - do ông Khang làm chủ tịch và bốn ủy viên: Trần Quang Huy, Nguyễn Duy Thân, Lê Trọng Nghĩa và Nguyễn Quyết cùng cố vấn Trần Đình Long - để gấp rút chuẩn bị vũ trang khởi nghĩa giành chính quyền. Ủy ban khởi nghĩa sẽ trực tiếp tổ chức các cuộc mít tinh, tuần hành, biểu dương lực lượng gây hoang mang cho chính phủ Trần Trọng Kim trước khi đi tới việc giành chính quyền. Đồng thời gia tăng vận động để ông Phan Kế Toại nhanh chóng có quyết định từ chức và giao chính quyền cho Việt Minh, qua đó hạn chế những sự cố gây đổ máu cho lực lượng cách mạng. Khâm sai Phan Kế Toại đã gặp Nguyễn Khang, người do Xứ Ủy Bắc Kỳ cử đến. Ông đề nghị Việt Minh tham gia Chính phủ Đế quốc Việt Nam và ngừng các hoạt động chống Nhật nhưng Nguyễn Khang bác bỏ.[1]
Ngay sau đó, chính quyền thân Nhật Đế quốc Việt Nam thành lập Uỷ ban Chính trị để đàm phán với Việt Minh. Ủy ban này đề nghị Việt Minh: "Đằng nào các ông cũng thắng, nhưng để điều đình với Đồng Minh sẽ vào Đông Dương giải giáp quân Nhật, đề nghị vùng nông thôn cách thành phố 15km là thuộc quyền các ông, còn thành phố cần có nhân sĩ, trí thức đứng ra giao dịch với Đồng Minh". Đại biểu Việt Minh đã trả lời dứt khoát: "giao dịch với Đồng Minh lúc này, ngoài Việt Minh không ai có thể có lực lượng và danh nghĩa cả".
Sau cuộc họp cuối cùng của Hội đồng Tư vấn ngày 16/8/1945, Phan Kế Toại và hầu hết các phụ tá của ông cùng với các quan chức cấp cao của chính quyền Đế quốc Việt Nam tại miền Bắc chạy trốn vào kinh đô Huế.[2]
Ngày 17 tháng 8, cuộc mít tinh của Tổng hội công chức chính quyền Trần Trọng Kim tại quảng trường Nhà hát Lớn thành phố để ủng hộ chính phủ thu hồi chủ quyền. Hàng vạn người đứng đầy đường Paulbert (nay là phố Tràng Tiền), người đi xem rất đông, trên bao lơn nhà hát lớn, cờ quẻ ly được kéo lên, mọi người hát vang bài Tiếng Gọi Thanh Niên và hoan hô chính phủ Trần Trọng Kim thu hồi độc lập, họ hô to "Việt Nam độc lập muôn năm", nhưng sau đó đã biến thành cuộc tuần hành thị uy của quần chúng cách mạng do Việt Minh điều khiển. Nhiều lính bảo an cũng khoát súng đi theo. Sau cuộc biểu tình Việt Minh phân phát cờ đỏ cho dân chúng để đón quân giải phóng sắp ở chiến khu về. Hàng trăm, hàng ngàn người vào Bắc bộ phủ hô đả đảo phát xít, hoan hô giải phóng, hô hào dân chúng đi chiếm các công sở.
Chiều ngày 17 tháng 8, tại làng Vạn Phúc - An toàn khu của Xứ uỷ tại Hà Đông, ông Nguyễn Khang sau khi trực tiếp khảo sát tình hình Hà Nội trở về đã trao đổi với ông Trần Tử Bình và đi tới quyết định: Dựa trên chỉ thị "Nhật, Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta" tiến hành cho Hà Nội khởi nghĩa mà không cần chờ tới lệnh của Trung ương. Quyết định quan trọng này được đưa ra chỉ 2 ngày sau khi có tin Nhật đầu hàng Đồng Minh và Pháp còn đang lúng túng trong chính sách cụ thể đối với Việt Nam và Đông Dương.
Việc chớp thời cơ này thật táo bạo vì lúc đó Ủy ban khởi nghĩa chỉ dựa hoàn toàn vào sức mạnh của chính nhân dân thủ đô, với các tổ tự vệ chiến đấu mà chưa có sự hỗ trợ của đội quân giải phóng từ Trung ương và các chiến khu.
Tổng khởi nghĩa Hà Nội
Sáng ngày 18 tháng 8, Uỷ ban khởi nghĩa Hà Nội chuyển trụ sở làm việc về số nhà 101 Gambetta (nay là phố Trần Hưng Đạo). Các uỷ viên tích cực chuẩn bị cho công việc sáng hôm sau.Tinh mơ sáng ngày 19 tháng 8, hàng chục vạn người dân ở Hà Nội và các tỉnh lân cận theo các ngả đường kéo về quảng trường Nhà hát Lớn Hà Nội. Khoảng 10 giờ rưỡi, cuộc mít tinh lớn chưa từng có của quần chúng cách mạng được sự bảo vệ của Thanh niên tự vệ, của tổ chức Việt Minh Hoàng Diệu Hà Nội đã diễn ra. Đại diện Việt Minh tuyên bố: Tổng khởi nghĩa! Sau đó một cánh tiến thẳng tới Phủ Khâm Sai, cơ quan đầu não của chính phủ, và nhanh chóng làm chủ toàn bộ khu vực này. Lính bảo vệ Phủ đã hạ vũ khí mà không có bất kỳ hành động kháng cự nào trước sức mạnh của nhân dân Hà thành. Khâm sai Bắc kỳ Nguyễn Xuân Chữ (người mới đứng ra thay thế ông Phan Kế Toại) bị bắt giữ và đưa về An toàn khu tại Hà Đông.
Cùng thời gian đó, ông Nguyễn Quyết đã chỉ huy nhân dân chiếm Trại Bảo an binh. Nhưng quân đội Nhật đã can thiệp, đưa xe tăng cùng binh lính bao vây quanh trại, đòi tước vũ khí của lực lượng cách mạng. Ông Nguyễn Khang và ông Trần Tử Bình đã quyết định tiến hành đàm phán với quân đội Nhật vì theo phân tích thì quân Nhật đã rất rệu rã, không còn tinh thần chiến đấu cao và muốn bảo toàn lực lượng khi rút về nước. Hơn nữa nếu quân đội Nhật cố ngăn cản thì cũng không được lợi ích gì vì bản thân chính quyền do họ dựng lên quá yếu ớt, không thể đối trọng với sức mạnh của Việt Minh. Đúng như dự đoán, sau khi tiếp nhận đề nghị của Ủy ban Khởi nghĩa, Nhật đã đồng ý rút quân nhưng yêu cầu phải có một cuộc đàm phán chính thức với cấp chỉ huy tối cao của họ.
Chiều tối 19 tháng 8, phái đoàn của đàm phán của Việt Minh do ông Lê Trọng Nghĩa và cố vấn Trần Đình Long dẫn đầu đã trực tiếp gặp gỡ và đàm phán với tướng Tsuchihashi - Tổng tư lệnh kiêm Toàn quyền Nhật - ngay tại Tổng hành dinh quân đội Nhật (nay là 33 Phạm Ngũ Lão). Cuộc đàm phán diễn ra khá gay go nhưng cuối cùng phía Nhật, đúng như đã được dự đoán, đã chấp nhận án binh bất động, không can thiệp vào công việc của Việt Minh; đổi lại binh lính của họ sẽ được bảo đảm an toàn, không bị Việt Minh tấn công. Họ đã chấp nhận chính quyền cách mạng. Kết quả đàm phán với Nhật mang ý nghĩa quyết định cho thắng lợi của cuộc tổng khởi nghĩa Hà Nội bởi phe Việt Minh đã không chỉ tránh được cuộc đối đầu trực tiếp với lực lượng vũ trang của Nhật mà còn loại trừ mọi hy vọng của các lực lượng chính trị khác vào khả năng đảo ngược tình thế tại thủ đô vào thời điểm đó.
Cũng trong đêm 19 tháng 8, Xứ ủy quyết định thành lập Uỷ ban Nhân dân Cách mạng Bắc bộ và Uỷ ban Nhân dân Cách mạng Hà Nội, chính thức hoá vai trò của chính quyền cách mạng với nhân dân và cộng đồng quốc tế.
Ngày 20 tháng 8, khoảng 10 giờ 30 sáng, Ủy ban Nhân dân Cách mạng Bắc Bộ, đại diện cho chính quyền cách mạng lâm thời, đã chính thức ra mắt quốc dân đồng bào tại Vườn hoa Con Cóc trước Bắc Bộ phủ.
Ngày 21 tháng 8 tại Huế phong trào Việt Minh bừng nổi dậy. Tướng tư lệnh Nhật đã nhận được chỉ thị của Đông Kinh phải giữ ngôi cho Hoàng đế Bảo Đại, đã bàn với Thủ Tướng Trần Trọng Kim như sau: "Mặc dù nước Nhật đã đầu hàng nhưng quân đội Nhật tại đây vẫn có nhiệm vụ giữ gìn an ninh trật tự cho tới khi quân đội Đồng minh đến tiếp thu. Xin ngài hãy làm văn thư yêu cầu để chúng tôi tái lập trật tự." nhưng Thủ Tướng đã từ chối sự giúp đỡ của họ.
Đại tướng Nhật cũng vào yết kiến vua Bảo Đại xin tái lập trật tự để bảo vệ ngai vàng nhưng cũng bị từ chối.
Thắng lợi ở Hà Nội lập tức kéo theo một sự rung động và làm tan vỡ hệ thống chính quyền thân Nhật ở toàn vùng. Các tỉnh trưởng, thị trưởng Hải Phòng, Nam Định, Bắc Ninh, Thái Nguyên... đang ngóng trông tin từ Hà Nội, phải vội vàng chuyển sang tìm gặp và theo Việt Minh ở địa phương. Ngày 23 tháng 8, chính quyền cách mạng ở Hải Phòng được thành lập.
Xem thêm
Tham khảo
- ^ Lê Trọng Nghĩa, "Nhớ anh Nguyễn Khang", báo Tiền Phong Chủ Nhật, (13/8/2005)
- ^ Trần Tử Bình, "Sống lại những giờ phút lịch sử" (hồi ký), Hà Nội, 1965
- ^ Lê Trọng Nghĩa, "Nhớ anh Trần Tử Bình trong Tổng khởi nghĩa Cách mạng Tháng Tám", Tạp chí Xưa và Nay (số 217) (8/2004)
- ^ Ngày 19-8-1945: Khởi nghĩa giành chính quyền ở Hà Nội, PGS, TS Lê Duy Chương, Báo điện tử Quân đội Nhân dân, 15/08/2010
Liên kết ngoài
Thể loại:
Elizabeth khởi sự cai trị đất nước bằng cách tìm kiếm những lời tư vấn khôn ngoan và thích đáng[2], những quyết định chính trị của nữ hoàng thường dựa vào một nhóm các cố vấn đáng tin cậy được đặt dưới sự dẫn dắt của William Cecil, Nam tước Burghley. Một trong những quyết định quan trọng đầu tiên của Elizabeth là quay sang ủng hộ việc xác lập giáo hội theo khuynh hướng Kháng Cách cho nước Anh, với nữ hoàng là Thống đốc Tối cao của Giáo hội. Từ đây hình thành và phát triển Anh giáo. Trái với sự mong đợi của thần dân cũng như của Quốc hội, Elizabeth không hề kết hôn. Mặc dù luôn cẩn trọng trong đối ngoại và dè dặt khi ủng hộ các chiến dịch quân sự tại Hà Lan, Pháp và Ireland, chiến tích nước Anh đánh bại hạm đội của Tây Ban Nha (Armada ) năm 1588 được nối kết với tên tuổi của nữ hoàng và thường được xem là một trong những chiến thắng lừng lẫy nhất trong lịch sử nước Anh.
Giai đoạn này thường được nhắc đến như là Thời kỳ Elizabeth hoặc Thời Hoàng kim Elizabeth. Các nhà viết kịch William Shakespeare, Christopher Marlowe và Ben Johnson đã tạo nên thanh danh cho mình trong thời kỳ này; Francis Drake trở thành người Anh đầu tiên thực hiện một chuyến hải hành vòng quanh Trái Đất; Francis Bacon thiết lập quan điểm chính trị và triết học; Bắc Mỹ trở thành thuộc địa của Anh do công của Walter Raleigh và Sir Humphrey Gilbert.
Elizabeth là một quân vương điềm tĩnh, quyết đoán và tỏ ra bảo thủ hơn vua cha và vua em[3]. Câu nói được bà yêu thích là "video et taceo" (Tôi quan sát và tôi im lặng)[4]. Chính phẩm hạnh này đã nhiều lần cứu nữ hoàng khỏi bị trói buộc vào những liên minh sai lầm trong chính trị và hôn nhân. Giống vua cha Henry VIII, bà thích viết lách và làm thơ. Nữ hoàng đã ban Chứng thực Hoàng gia (Royal Charter) cho những định chế nổi tiếng như Đại học Trinity ở Dublin (năm 1592) và Công ty Đông Ấn Anh Quốc (1600).
Virginia, một trong 13 khu thuộc địa, về sau hợp nhất để trở nên Hợp chúng quốc Hoa Kỳ, được đặt tên theo một danh hiệu của Elizabeth, "Nữ hoàng Đồng trinh" (Virgin Queen).
Tuy nhiên, các sử gia tỏ ra nghiêm khắc hơn, họ thường miêu tả Elizabeth là người nóng tính[5], đôi khi thiếu quyết đoán[6] và cho rằng bà thành công là nhờ may mắn. Những năm cuối triều đại Elizabeth, một loạt những khó khăn về kinh tế và quân sự đã làm giảm sút uy tín của nữ hoàng đến mức khi bà qua đời nhiều người đã thở phào nhẹ nhõm.
Dù vậy, Elizabeth vẫn được các sử gia xem là một nhà cai trị có sức thu hút cá nhân và biết cách vượt qua mọi trở ngại để tồn tại trong một thời kỳ mà chính quyền thường hạn chế và thiếu hiệu quả, và khi vua chúa các vương quốc láng giềng luôn phải đối phó với các khó khăn trong nước với nguy cơ vương quyền có thể bị tổn hại nghiêm trọng, như trường hợp của các đối thủ của Elizabeth như Nữ hoàng Mary của Scotland, bị tống giam năm 1568 rồi xử tử hình năm 1587.
Sau thời trị vì ngắn ngủi của em trai và chị, triều đại kéo dài 45 năm của Elizabeth đã cống hiến một giai đoạn ổn định rất quí báu cho nước Anh và là nhân tố chủ chốt giúp hình thành ý thức dân tộc cho người dân Anh[3].
Henry mong chờ sự ra đời của một con trai để bảo đảm sự kế tục của triều đại Tudor, nhưng sau khi sinh hạ Elizabeth, Hoàng hậu Anne bị sẩy thai hai lần trong năm 1534 và đầu năm 1536, rồi nhà vua bắt đầu có quan hệ với nhiều phụ nữ khác.
Vẫn còn nhiều tranh luận về nguyên nhân Anne bị thất sủng, nhưng các sử gia đồng ý với nhau về sự vô tội của Anne đối với các cáo buộc chống lại bà, họ tin rằng cái chết của bà đã được sắp đặt bởi những đối thủ chính trị. Anne bị bắt ngày 2 tháng 5 năm 1536 và bị cầm tù. Mười bảy ngày sau bà bị hành quyết với các tội danh phản quốc, loạn luân với anh/em trai, George Boleyn, và tội phù thủy[10][11].
Elizabeth, mới lên ba, bị tuyên bố là con bất hợp pháp và bị mất tước hiệu công chúa, cũng không được hưởng tài sản của người mẹ[12]. Cô chỉ còn là Lady Elizabeth và không được sống gần cha khi ông kết hôn với Jane Seymour[12]. Năm 1537, người vợ thứ ba của Henry, Jane Seymour, sinh con trai, Hoàng tử Edward; theo Đạo luật Kế vị năm 1544, Edward là người kế thừa ngai báu nước Anh.
Người bảo hộ đầu tiên của Elizabeth là Lady Margaret Bryan, một nữ hầu tước cô gọi là "Muggie". Lúc bốn tuổi, Elizabeth có người bảo hộ mới, Katherine Champernowne, mà cô thường gọi là "Kat". Champernowne tạo lập một mối quan hệ thân thiết với Elizabeth và trở nên người bạn tốt và thân tín suốt cuộc đời cô. Champernowne đóng góp nhiều cho học vấn của Elizabeth, với sự kèm cặp của William Grindal, cô có thể viết tiếng Anh, tiếng Latin và tiếng Ý, sau đó đạt nhiều tiến bộ trong việc học tiếng Pháp và tiếng Hy Lạp[13]. Khi Grindal từ trần năm 1548, Roger Ascham thay thế Grindal hướng dẫn cô trong học thuật theo phương pháp mới, biến học tập thành một công việc thú vị[14]. Matthew Parker, mục sư của mẹ cô, dành một mối quan tâm đặc biệt đến cuộc sống và quyền lợi của Elizabeth do Anne, khi ấy đang sống trong kinh hãi trước khi bị hành quyết, ủy thác Parker chăm sóc đời sống tâm linh cho con gái. Về sau Parker trở thành Tổng Giám mục thành Canterbury sau khi Elizabeth đăng quang năm 1558. Một người bạn thân tình khác mà Elizabeth thường nhắc đến với nhiều tình cảm là một người Ireland, Thomas Butler, về sau là Bá tước xứ Ormonde (mất năm 1615).
Elizabeth là người đa tài, kiên định và cực kỳ thông minh. Cô ham thích học hỏi vì khao khát hiểu biết. Giống song thân, cô là một cô gái lãng mạn và quyến rũ.
Henry VIII qua đời năm 1547, truyền ngôi cho Edward VI. Catherine Parr, người vợ cuối của Henry, kết hôn với Thomas Seymour, cậu của Edward VI. Seymour đem Elizabeth về nhà mình. Người ta tin rằng Seymour muốn tạo lập quan hệ thân tình với Elizabeth khi cô sống trong nhà ông. Ở đây, cô nhận lãnh giáo huấn từ Roger Ascham. Dưới ảnh hưởng của Catherine Parr và Ascham, Elizabeth được trưởng dưỡng trong đức tin Kháng Cách (Protestant).
Khi vua em Edward là người Kháng Cách sùng tín, còn trị vì, địa vị của Elizabeth vẫn còn an toàn. Đến năm 1553, Edward qua đời ở tuổi mười lăm vì bệnh tật từ khi còn nhỏ. Edward để lại một di chúc thay thế di chúc của Henry. Bất kể Đạo luật Kế vị 1544, di chúc này loại bỏ Mary và Elizabeth khỏi quyền kế thừa và công bố Lady Jane Grey, người được Thomas Seymour bảo hộ, là người kế vị[16]. Một sự hợp tác giữa Thomas và John Dudley, Công tức xứ Northumberland, con trai của John, Guilford Dudley, đã kết hôn với Jane. Lady Jane lên ngai, nhưng bị phế truất chỉ hai tuần lễ sau đó. Trong sự tung hô của dân chúng, Mary chiến thắng tiến vào Luân Đôn, với cô em cùng cha khác mẹ, Elizabeth, ở bên cạnh[17].
Mối liên kết giữa hai chị em không kéo dài. Mary quyết tâm đàn áp đức tin Kháng Cách mà Elizabeth tiếp nhận từ khi còn bé, và buộc mọi người phải dự lễ Misa. Elizabeth không có sự lựa chọn nào khác phải tỏ ra phục tùng nữ hoàng[18]. Song uy tín của Mary sút giảm khi dân chúng biết dự định kết hôn với Hoàng tử Felipe của Tây Ban Nha (về sau là vua Felipe II của Tây Ban Nha)[19] nhằm tìm kiếm sự hậu thuẫn cho phe Công giáo bên trong nước Anh. Sau cuộc nổi dậy của Wyatt năm 1554 tìm cách ngăn cản cuộc hôn nhân giữa Mary và Felipe nhưng thất bại, Elizabeth bị cầm giữ trong Tháp Luân Đôn vì bị cho là có dính líu đến cuộc nổi dậy[20]. Có những sự đòi hỏi xử tử hình Elizabeth, nhưng đa số dân Anh không muốn nhìn thấy một thành viên thuộc dòng họ Tudor rất được lòng dân bị sát hại. Quan Chưởng ấn Stephen Gardiner muốn rút tên Elizabeth khỏi danh sách kế vị, nhưng cả Mary lẫn Quốc hội đều không đồng ý. Sau hai tháng bị giam giữ, Elizabeth được trả tự do vào đúng ngày mẹ cô bị hành quyết mười tám năm trước. Ngày 22 tháng 5, khi Elizabeth được đưa đến Woodstock để bị quản thúc tại gia dưới sự giám sát của Sir Henry Bedingfield, dân chúng đứng hai bên đường hoan hô cô[21][22].
Sau một thời gian trị vì ôn hòa, Mary, một người Công giáo sùng tín, khởi sự theo đuổi chính sách ngược đãi người Kháng Cách mà nữ hoàng xem là những kẻ dị giáo và là mối de dọa cho thẩm quyền của bà. Do những cuộc bách hại chống phe Kháng Cách được tiến hành dưới thời trị vì của mình, nữ hoàng bị gán cho biệt danh "Mary khát máu". Dù bị Mary thuyết phục cải đạo theo Công giáo La Mã, Elizabeth khôn khéo duy trì lòng trung thành với lương tâm và khát vọng của mình. Cuối năm ấy, khi có những lời đồn đại về việc Mary có thai, Elizabeth được phép trở lại triều đình theo lời yêu cầu của Felipe. Do lo ngại nữ hoàng có thể chết khi sinh con, Felipe muốn Elizabeth, dưới sự bảo hộ của ông, sẽ là người kế vị, thay vì người có huyết thống gần Elizabeth nhất, Nữ hoàng Mary của Scotland. Mary lớn lên trong hoàng cung Pháp và có hôn ước với Thái tử Pháp, mặc dù là người Công giáo, Felipe không muốn Mary kế thừa ngai báu nước Anh vì sợ ảnh hưởng của người Pháp trên chính trường Anh qua Mary.
Elizabeth lên ngai lúc 25 tuổi. Suốt trong lễ đăng quang ngày 15 tháng 1 năm 1559, Elizabeth được dân chúng chào đón tung hô, họ diễn kịch và đọc thơ tán tụng nhan sắc và trí tuệ của nữ hoàng[23]. Lúc ấy chức Tổng Giám mục thành Canterbury (đứng đầu chức sắc Giáo hội Anh) đang khuyết; Hồng y Reginald Pole vừa qua đời. Các Giám mục có thế lực từ chối tham dự lễ đăng quang vì chiếu theo giáo luật Công giáo, Elizabeth, một tín hữu Kháng Cách, bị xem là bất hợp pháp. Chỉ có một chức sắc ít tiếng tăm Owen Oglethorpe, Giám mục thành Carlisle, đến tham dự và trao vương miện cho nữ hoàng. Lễ Tiệc Thánh được cử hành bởi tuyên úy của nữ hoàng.
Lễ đăng quang của Elizabeth I là lần cuối cùng được cử hành theo nghi thức Latin; từ đó, các lễ đăng quang, ngoại trừ của George I, đều được cử hành theo nghi thức Anh. Elizabeth thuyết phục Matthew Parker nhận lãnh chức vụ Tổng Giám mục Canterbury.
Ngày 20 tháng 11 năm 1558, Elizabeth nói chuyện với Hội đồng Tư vấn và các nhà quý tộc tụ họp về Hatfield để tuyên thệ trung thành với nữ hoàng, trong đó lần đầu tiên bà đề cập đến ẩn dụ "hai định chế" thường được sử dụng sau này: định chế thiên nhiên và định chế chính trị.
Trước đó, trong cuộc diễu hành chiến thắng đi qua khắp thành phố ngay
vào ngày trước lễ đăng quang, Elizabeth được thần dân hết lòng chào đón
với những bài diễn văn cùng những lễ hội tung hô tân vương, hầu hết
diễn ra theo khuynh hướng Kháng Cách. Sự duyên dáng và thái độ cởi mở
của Elizabeth làm thần dân càng thêm thêm yêu mến bà.[23]
Hôm sau, tại Điện Westminster, Owen Oglethorpe, Giám mục Carlise, đội
vương miện cho Elizabeth. Lễ đăng quang được xem như là một sự kiện thể
hiện sự đồng thuận của thần dân, trong âm thanh ồn ả của các loại nhạc
cụ như đàn organ, sáo, kèn, trống, và chuông.[25]
Đạo luật Quyền Tối thượng năm 1559 buộc tất cả viên chức công phải chấp nhận quyền kiểm soát của nhà vua trên giáo hội. Nhiều Giám mục từ chối ủng hộ lập trường của Elizabeth bị bãi chức và được thay thế bởi những chức sắc ủng hộ nữ hoàng. Bà bổ nhiệm Hội đồng Tư vấn mới, không còn có sự hiện diện của các thành viên Công giáo. Dưới triều Elizabeth, tình trạng chia rẽ và tranh chấp do bè phái giảm thiểu đáng kể. Cố vấn trưởng của nữ hoàng, Sir William Cecil, đảm nhiệm chức Bộ trưởng Ngoại giao, và Sir Nicholas Bacon làm Quan Chưởng ấn.
Nhiều tín hữu Công giáo, nhất là ở châu Âu đại lục, xem Elizabeth là dị giáo. Ngày 25 tháng 3 năm 1570, Giáo hoàng Pius V ra chỉ dụ Regnans in Excelsis phạt vạ tuyệt thông Elizabeth và gọi là bà là "nữ hoàng tiếm vị".[31] Chỉ dụ này, trên lý thuyết giải phóng người Công giáo tại Anh khỏi nghĩa vụ trung thành với Elizabeth, lại khiến giáo hội Anh liên kết chặt chẽ với vương quyền và đặt người Công giáo tại Anh vào tình huống khó khăn[32]
Nhiều người muốn kết hôn với Elizabeth, nhưng nữ hoàng chỉ xem xét ba hoặc bốn trường hợp. Người bạn từ thuở thiếu thời, Robert Dudley, có lẽ là người có nhiều cơ may nhất. Nhưng Dudley đã kết hôn và William Cecil, cố vấn thân tín nhất của Elizabeth, phản đối mối quan hệ này. Năm 1560, cái chết không rõ nguyên nhân của Amy Robstart, vợ của Dudley, đã gây ra nhiều lời đồn đoán[34]. Cuối cùng nữ hoàng đặt bổn phận cao hơn tình cảm, phong Dudley làm Bá tước xứ Leicester và bổ nhiệm ông vào Hội đồng Cơ mật, hai người vẫn duy trì tình bạn lâu dài.
Sau Dudley, Elizabeth xem hôn nhân như là một phần trong chính sách đối ngoại[35], xem đây là nghĩa vụ hơn là tình cảm cá nhân. Quốc hội nhiều lần khẩn khoản nữ hoàng kết hôn, nhưng bà cứ lẩn tránh[36]. Khi Elizabeth mắc bệnh đậu mùa trong năm 1563, Quốc hội khẩn nài nữ hoàng kết hôn hoặc chỉ định người kế nhiệm nhằm tránh một cuộc nội chiến có thể xảy ra khi bà băng hà, nhưng bị từ chối. Năm 1570, khi các nhân vật chủ chốt trong triều nhận biết nữ hoàng không chịu kết hôn, cũng không chỉ định người kế nhiệm, William Cecil ra sức tìm kiếm giải pháp cho vấn đề thừa kế[35]. Nhưng chính sự im lặng của Elizabeth đã củng cố sự an toàn chính trị cho bà: nữ hoàng biết rằng nếu chỉ định người thừa kế có thể xảy ra một cuộc đảo chính[37]. Trong khi đó, tình trạng độc thân của Elizabeth dấy lên trong dân chúng lòng sùng bái dành cho một nữ hoàng đồng trinh. Trong thi ca cũng như trong hội họa, nữ hoàng được miêu tả như là một nữ thần, không phải một phụ nữ bình thường[38].
Elizabeth phê chuẩn Hiệp ước Cateau-Cambresis năm 1559, mang lại hòa bình cho hai nước Anh và Pháp. Bà ủng hộ nguyên tắc "Nước Anh của người Anh". Tuy nhiên, một lãnh thổ dưới quyền cai trị của bà là Ireland không chấp nhận nguyên tắc này.
Năm 1565, Mary kết hôn với Huân tước Darnley, người tuyên bố quyền kế thừa ngai vàng nước Anh. Tuy vậy, cuộc hôn nhân là điểm khởi đầu một chuỗi những sai lầm khiến Mary mất quyền kiểm soát vào tay những người Kháng Cách Scotland và Elizabeth. Darnley bị mất lòng dân và mang tiếng xấu khi xử lý vụ án mạng David Rizzio, một thư ký người Ý của Mary. Tháng 2 năm 1567, Darnley bị James Hepburn, Bá tước xứ Bothwell giết chết. Tháng 5 năm 1657, Mary kết hôn với Bothwell, dấy lên những nghi ngờ cho rằng nữ hoàng đồng mưu giết chồng.
Những sự kiện này mau chóng làm sụp đổ uy tín chính trị của Mary và dẫn đến việc bà bị giam cầm tại Lâu đài Loch Leven. Giới quý tộc Scotland buộc Mary thoái vị và lập con trai của bà, James, kế vị. James sinh năm 1566, được giáo dưỡng trong niềm tin Kháng Cách. Mary trốn thoát khỏi Loch Leven năm 1568, băng qua biên giới để vào nước Anh. Mary bị giam giữ tại đây trong 19 năm[50].
Năm 1569, những người chủ mưu vụ Nổi dậy ở phương Bắc âm mưu giải thoát Mary và lập kế hoạch cho bà kết hôn với Thomas Howard, Công tước xứ Norfork. Elizabeth cho bắt giam Howard. Năm 1570, xảy ra vụ mưu phản do Ridolfi cầm đầu nhằm ám sát Elizabeth để tôn Mary lên ngôi. Đến năm 1586 xảy ra vụ mưu phản Babington. Lúc đầu, Elizabeth chống lại chủ trương xử tử hình Mary, nhưng đến cuối năm nữ hoàng chịu nhượng bộ trước áp lực của triều thần. Ngày 8 tháng 2 năm 1587, Mary bị chém đầu tại Lâu đài Fotheringhay, Northamptonshire[51].
Năm 1586, Sir Francis Drake bắt đầu tập kích các tàu buôn Tây Ban Nha trên Thái Bình Dương và vùng biển Caribbean, và mở một cuộc tấn công dữ dội vào cảng Cadiz.
Cuộc viễn chính dưới quyền chỉ huy của Robert Dudley, Bá tước xứ Leicester, là một thất bại[52]. Thiếu hụt tiền và binh lính cộng với sự bất tài của Dudley đã làm hỏng chiến dịch. Đến tháng 12 năm 1587, Dudley phải từ nhiệm và vua Felipe II quyết định tiến chiếm nước Anh[53]
Ngày 12 tháng 7 năm 1588, Armada Tây Ban Nha, hạm đội lừng danh và là sức mạnh thống trị trên mặt biển của Đế quốc Tây Ban Nha, giong buồm đến eo biển, chuẩn bị cho cuộc xâm lăng trong kế hoạch phối hợp với đạo quân tinh nhuệ của Công tước xứ Parma, từ Hà Lan tiến đánh vào bờ biển đông nam nước Anh. Nhờ thời tiết thuận lợi, với các tàu chiến nhỏ nhưng cơ động, cùng những tin tức tình báo gởi đi từ Hà Lan, hải quân Anh chuẩn bị sẵn sàng đối đầu Armada Tây Ban Nha với các tàu chiến lớn và trang bị hỏa lực mạnh. Do tính toán sai[54], thiếu may mắn và bị những con tàu lửa (những chiếc thuyền chất đầy vật liệu bắt lửa, phóng hỏa và lao vào hạm đội địch) của Anh tấn công. Mặt khác, vào ngày 1 tháng 8, các tàu chiến của Tây Ban Nha cắm neo trong hải cảng Graville bị đánh bạt lên phía đông bắc, Armada bị đánh bại. Hạm đội bị đánh tan tác quay về Tây Ban Nha sau khi gánh chịu những thiệt hại nặng nề gây ra bởi những cơn bão dữ trên biển Ireland[55].
Ngày 9 tháng 8 lịch Julius (tức ngày 19 tháng 8 theo lịch Gregory)[56], Elizabeth đến thị sát quân binh trú đóng tại Tilbury ở Essex. Mang một áo giáp che ngực bằng bạc bên ngoài chiếc áo dài màu trắng, nữ hoàng đã đọc một trong những bài diễn văn nổi tiếng nhất của mình[57]:
Khi thoát nạn ngoại xâm, cả nước vui mừng. Buổi lễ Tạ ơn ở Đại giáo đường Thánh Phao-lô được tổ chức long trọng không kém lễ đăng quang[55].
Việc đánh bại hạm đội lừng danh của Tây Ban Nha là một chiến thắng vang
dội, cho Elizabeth và cho những người Kháng Cách tại Anh. Người dân Anh
xem sự kiện này như là dấu chỉ về sự phù trợ của Thiên Chúa, và về sự bất khả xâm phạm của vương quốc dưới quyền cai trị của một nữ hoàng đồng trinh[42].
Tuy nhiên, chiến thắng này không thay đổi toàn cục cuộc chiến. Chiến
tranh vẫn tiếp diễn, Tây Ban Nha tiếp tục kiểm soát Hà Lan, và hiểm họa
xâm lăng vẫn còn đó[53].
Trong các cuộc viễn chinh, Elizabeth không muốn đáp ứng yêu cầu của các tư lệnh mặt trận khi họ cần thêm quân dụng và viện binh. Norreys phải đích thân về Luân Đôn để cầu viện, khi ấy quân đội của Liên minh Công giáo tiến đến tàn sát binh lính của ông tại Craon, phía tây bắc nước Pháp, vào tháng 5 năm 1591. Tháng 7, Elizabeth gởi một đạo quân khác dưới quyền chỉ huy của Robert Devereux, Bá tước xứ Essex, đến giúp Henri IV vây hãm thành Rouen. Lại thêm một thất bại: Devereux chẳng làm được gì và phải trở về vào tháng 1 năm 1592[62]. Thông thường, Elizabeth không kiểm soát được các tư lệnh một khi họ đem quân ra nước ngoài. "Ông ta ở đâu, làm gì, hoặc sẽ làm gì, trẫm không hề hay biết." Elizabeth viết như thế về Devereux[63].
Từ năm 1594 đến 1603 là giai đoạn khó khăn nhất khi xảy ra cuộc nổi dậy gọi là Loạn Tyrone, hay Cuộc chiến Chín năm do Hugh O’Neill, Bá tước xứ Tyrone lãnh đạo với sự hậu thuẫn của Tây Ban Nha[65]. Mùa xuân năm 1599, Elizabeth sai Robert Devereux, Bá tước xứ Essex, đến dẹp loạn, nhưng ông này không làm được gì mà còn tự ý bỏ về. Charles Blount, Huân tước Mountjoy, được cử đến thay thế Devereux, phải mất ba năm mới đánh bại quân phiến loạn. Năm 1603, O’Neill chịu đầu hàng, chỉ ít ngày sau khi Elizabeth qua đời[66].
Giai đoạn sau chiến thắng Armada năm 1588 là những năm khó khăn kéo dài cho đến lúc kết thúc triều đại Elizabeth[69]. Tranh chấp với Tây Ban Nha và Ireland cứ dai dẳng, gánh nặng thuế má càng nặng hơn, thêm vào đó là thất mùa và chi phí chiến tranh. Vật giá càng leo thang mức sống càng xuống thấp[70][71]. Trong khi đó, các biện pháp trấn áp người Công giáo được tăng cường, đến năm 1591, Elizabeth cho phép thẩm vấn và lục soát nhà ở người Công giáo[72]. Elizabeth ngày càng phụ thuộc vào các phương tiện tuyên truyền để nuôi dưỡng trong dân chúng ảo tưởng về một đất nước an bình và thịnh vượng[70]. Trong những năm cuối, sự chỉ trích gia tăng phản ánh sự bất bình của thần dân đối với nữ hoàng[73].
Tuy nhiên, đây chính là thời kỳ hoàng kim của văn học Anh[74]. Những dấu hiệu đầu tiên của phong trào văn học mới khởi phát vào cuối thập niên thứ hai của triều đại Elizabeth với "Euphues" của John Lyly, và "The Shepheardes Calender" của Edmund Spencer trong năm 1578. Trong thập niên 1590, một số trong những tài năng lớn nhất của nền văn học Anh đến độ chín mùi, trong đó có William Shakespeare và Christopher Marlowe. Cùng với thời kỳ Jacobe kế tiếp, nền kịch nghệ Anh đạt đến đỉnh điểm của mình[75]. Khái niệm về thời đại Elizabeth huy hoàng được xây dựng bởi những tên tuổi trong các lãnh vực kiến trúc, kịch nghệ, thi ca và âm nhạc.
Ngày 4 tháng 8 năm 1598, cố vấn thân cận nhất của Elizabeth, Nam tước Burghley, từ trần. Con trai của ông, Robert Cecil, được chọn làm người thay thế, sau đó trở thành người lãnh đạo chính phủ[76]. Một trong những nhiệm vụ của Cecil là chuẩn bị cho một tiến trình chuyển giao quyền lực êm thắm. Do Elizabeth không công khai chọn người kế nhiệm nên Cecil phải làm việc trong bí mật[77]. Cecil thương thảo riêng với vua James VI của Scotland, người thừa kế hợp pháp nhưng không được công nhận. Theo lời khuyên của Cecil, James cố làm Elizabeth khuây khỏa và "chiếm được cảm tình của bậc chí tôn". Theo sử gia J. E. Neale, dù không công khai tuyên bố truyền ngôi cho James, quần thần đều biết ý định này của nữ hoàng[78].
Sức khỏe của Elizabeth vẫn tốt cho đến mùa thu năm 1602, một loạt những cái chết của bạn hữu khiến nữ hoàng rơi vào tình trạng trầm cảm nghiêm trọng. Tháng 2 năm 1603, cô em họ cũng là người bạn thân tín, Catherine Carey, Nữ Công tước xứ Nottingham, qua đời; đây là cú sốc đối với nữ hoàng. Tháng 3, Elizabeth ngã bệnh và vùi mình trong "nỗi sầu khổ khôn nguôi"[79]. Elizabeth mất ngày 24 tháng 3 năm 1603 tại Lâu đài Richmond, khoảng giữa hai giờ và ba giờ sáng. Vài giờ sau, Cecil và hội đồng công bố James Stuart của Scotland trở thành vua James I của Anh[80].
Quan tài của Elizabeth được mang đi ngay trong đêm trên thuyền rồng đến Lâu đài Whitehall. Trong tang lễ tổ chức vào ngày 28 tháng 4, quan tài của nữ hoàng, phủ bằng nhung tím, được đưa đến Điện Westminster trên xe tang bốn ngựa kéo. Ghi chép của nhà viết sử John Stow:
Hình tượng của Elizabeth được miêu tả bởi những người Kháng Cách ngưỡng mộ bà từ thế kỷ 17 gây nhiều ảnh hưởng và có giá trị lâu dài.[87] Ký ức về nữ hoàng trở nên sống động khi xảy ra chiến tranh chống Napoleon, lúc ấy nước Anh đang cận kề họa ngoại xâm.[88] Trong thời kỳ Victoria, huyền thoại Elizabeth hội nhập dễ dàng vào ý thức hệ của đế chế.[82][89] Đến giữa thế kỷ 20, Elizabeth trở nên biểu tượng lãng mạn cho tinh thần dân tộc chống lại hiểm họa ngoại bang.[90][91] Các sử gia trong giai đoạn này như J. E. Neale (1934), và A. L. Rowse (1950) xem triều đại Elizabeth là thời kỳ hoàng kim của sự tiến bộ.[92]
Tuy nhiên, các sử gia hiện đại có quan điểm nghiêm khắc hơn về Elizabeth.[93]. Sự kiện nổi bật nhất trong thời trị vì của bà là chiến tích đánh bại Armada, và những cuộc tập kích nhắm vào người Tây Ban Nha như vụ Cádiz trong năm 1578 và 1596, song một số sử gia cũng chỉ ra những thất bại quân sự trên bờ cũng như trên mặt biển như vụ "Island voyage" năm 1597.[60] Cung cách Elizabeth giải quyết các vấn đề ở Ireland là một vết ố trên bảng thành tích của bà.[94] Do thiếu quyết đoán trong chính sách đối ngoại, khó có thể xem Elizabeth là một quân vương dũng cảm đứng ra bảo vệ các quốc gia Kháng Cách chống lại Tây Ban Nha và nhà Habsburg. Thường khi nữ hoàng chỉ cung ứng sự trợ giúp tối thiểu cho các lân bang Kháng Cách, và không chịu cấp tiền đầy đủ cho các tướng lĩnh hầu có thể thay đổi tình hình ở hải ngoại.[95]
Việc Elizabeth thiết lập giáo hội Anh đã giúp định hình bản sắc dân tộc cho nước Anh cho đến ngày nay.[96][97][98] Song, những người tôn vinh bà như là người anh hùng của chính nghĩa Kháng Cách đã bỏ qua sự kiện nữ hoàng từ chối bác bỏ tất cả nghi thức Công giáo.[99][100] Các sử gia cũng ghi nhận rằng lúc ấy các tín hữu Kháng Cách sùng tín xem Đạo luật Settlement and Uniformity năm 1559 của nữ hoàng là một sự thỏa hiệp.[101][102][103] Thật vậy, Elizabeth xem đức tin là một vấn đề cá nhân, và không muốn, theo cách nói của Francis Bacon, "thâm nhập vào lòng và tư tưởng thầm kín của người khác".[104][105]
Dù chủ trương phòng thủ trong chính sách ngoại giao, triều đại Elizabeth chứng kiến sự thăng tiến vượt bật của nước Anh trên trường quốc tế. Giáo hoàng Sixtus V nhận xét về bà với sự kinh ngạc, "[Elizabeth] chỉ là một phụ nữ, bà chủ trên một nửa hòn đảo, nhưng đã làm Tây Ban Nha, Pháp, [Thánh chế La Mã], và mọi người khiếp sợ".[106] Trong thời trị vì của nữ hoàng, nước Anh giành được lòng tự tin và quyền tự quyết trong khi cả thế giới Cơ Đốc giáo đang bị phân hóa.[84][107][108] Elizabeth là người đầu tiên trong dòng họ Tudor thừa nhận rằng một quân vương chỉ có thể cai trị đất nước với sự đồng thuận của người dân.[109] Do đó, nữ hoàng luôn hợp tác với quốc hội và các cố vấn là những người bà tin là dám nói lên sự thật – nghệ thuật trị nước mà những quân vương thuộc dòng họ Stuart đã không chịu học hỏi. Trong khi một số sử gia cho rằng bà là người may mắn,[106] Elizabeth tin rằng bà được Thiên Chúa phù trợ.[110] Tự hào là một người Anh,[111] Nữ hoàng tin rằng Thiên Chúa, những lời khuyên chân tình, và tình yêu thần dân dành cho bà là những nhân tố xây đắp sự thành công của triều đại Elizabeth.[112] Trong một lần cầu nguyện, Elizabeth dâng lời tạ ơn Thiên Chúa:
Augustus ( /ɔːˈɡʌstəs/;[1] tiếng Latinh: Imperator Gaius Julius Caesar Augustus;[2] 23 tháng 9 năm 63 TCN – 19 tháng 8 năm 14, tên lúc khai sinh là Gaius Octavius và được biết đến với cái tên Gaius Julius Caesar Octavianus (tiếng Latinh cổ: GAIVS•IVLIVS•CAESAR•OCTAVIANVS) giai đoạn sau năm 27, là Hoàng đế đầu tiên của Đế quốc La Mã, trị vì La Mã từ 27 TCN đến khi qua đời năm 14. Octavian được người ông cậu của mình, Julius Caesar nhận làm con nuôi và thừa hưởng mọi di sản của Caesar sau khi ông bị ám sát năm 44 TCN. Những năm tiếp theo, Octavian tham gia Liên minh tam hùng lần thứ 2 cùng với Marcus Antonius và Marcus Aemilius Lepidus. Như là một thành viên của Tam đầu chế, Octavius cai trị La Mã và hầu như toàn bộ các vùng thuộc địa Châu Âu của nó một cách chuyên quyền, chiếm giữ cả quyền chấp chính tối cao sau khi hai chấp chính Aulus Hirtius và Gaius Vibius Pansa Caetronianus
qua đời và đảm bảo khả năng tái cử bất biến của mình. Tam đầu chế tan
rã sau khi hoàn thành mục tiêu của những kẻ lập ra nó: Lepidus bị buộc
lưu vong và Antonius buộc phải tự sát sau khi bại trận tại Actium trước Octavian năm 31 TCN.
Sau khi Tam đầu chế thứ Hai tan rã, Octavius vẻ bên ngoài là khôi phục lại Cộng hoà La Mã, với quyền lực tối cao là của Viện nguyên lão nhưng thực chất là vẫn nằm trong tay ông. Phải mất sáu hay bảy năm để tìm ra được một khuôn mẫu chính xác để một nước chính thức vẫn theo thể chế Cộng hòa nhưng bây giờ được lãnh đạo bởi một lãnh tụ duy nhất; kết quả là thể chế được biết đến như là Đế quốc La Mã. Chức vụ hoàng đế không bao giờ giống như độc tài La Mã mà Caesar và Sulla đã từng nắm giữ trước đó; thật vậy, ông đã khước từ khi đại đa số dân La Mã muốn "đưa ông lên chức vụ độc tài" [3] Theo pháp luật, Augustus có một tập hợp các quyền lực ông có suốt đời do Viện nguyên lão giao cho ông, bao gồm cả quyền lên diễn đàn để diễn thuyết, quyền kiểm duyệt, và quyền lãnh đạo, mà không cần phải được bầu vào những cơ quan tương ứng với các chức vụ đó, gồm quan bảo dân, quan giám sát, và Chấp chính tối cao. Quyền lực áp đảo của ông có được từ những thành công về tài chính và những nguồn lợi thu được từ các cuộc chinh phạt, sự xây dựng các mối quan hệ bảo trợ trong suốt toàn lãnh thổ Đế quốc, sự trung thành của binh sĩ và những cựu chiến binh, quyền lực từ những vinh dự được phong cho bởi Viện Nguyên lão[4], và sự kính trọng, ỵêu mến của dân chúng. Sự nắm giữ đa số các sư đoàn lê dương có thể tạo thành mối đe dọa quân sự đối với Viện Nguyên lão, cho phép ông áp đặt các quyết định mà không cần thông qua ý kiến của Viện Nguyên lão. Với khả năng loại bỏ những Nguyên lão đối lập với biện pháp quân sự, Viện Nguyên lão trở nên ngoan ngoãn dưới sự lãnh đạo tuyệt đối của ông.
Triều đại của Augustus đã mở ra một thời đại tương đối hòa bình được biết đến như là Pax Augusta, hay là hòa bình của Augustus. Mặc dù các cuộc chiến tranh liên tục nổ ra ở biên giới, và một năm nội chiến về việc nối ngôi Hoàng đế, vùng Địa Trung Hải là hòa bình trong hơn hai thế kỉ. Augustus mở rộng lãnh thổ của Đế quốc La Mã, bảo vệ được biên giới của Đế quốc với nhiều nước chư hầu, và thiết lập hòa bình với Parthia thông qua các biện pháp ngoại giao. Ông đã cải cách lại hệ thống thuế của La Mã, phát triển một mạng lưới đường sá với hệ thống liên lạc chính thức, thiết lập quân đội thường trực (và một lực lượng hải quân nhỏ), thiết lập lực lượng Vệ binh Praetorian, và tạo ra hệ thống bảo an và lính cứu hỏa cho thành Roma. Nhiều thành phố được xây dựng lại dưới thời của Augustus; và ông viết lại những thành tựu mà chính ông đã làm được, được biết đến như là Res Gestae Divi Augusti, tồn tại tới nay. Khi ông chết vào năm 14, Augustus được phong là một vị thần bởi Viện Nguyên lão, được thờ phụng bởi dân La Mã. Tên của ông Augustus và của Caesar được lấy làm đế hiệu của các hoàng đế sau này, và tháng Tám (August) được chính thức đặt tên theo tên ông. Sau khi ông mất, con rể ông là Tiberius nối ngôi.
Do sự chật chội của thành Roma vào thời điểm đó, ông được đưa về quê nội Velletri và lớn lên tại đây. Octavius chỉ đề cập đến một thời gian ngắn trong khoảng thời gian sinh sống tại quê cha. Ông cụ nội của ông là một quan bảo dân thời Chiến tranh Punic lần thứ hai. Ông nội của ông cũng đã giữ vài chức vụ địa phương. Cha của ông, cũng có tên là Gaius Octavius đã từng là Thống đốc của Macedonia.[7][8]. Mẹ ông, Atia, là cháu gái của Julius Caesar.[9]
Năm 59 trước Công nguyên, khi ông lên bốn tuổi, cha ông qua đời. Mẹ của ông sau đó tái hôn với cựu thống đốc của Syria, Lucius Marcius Philippus[10].Bản thân Philippus thì lại tuyên bố ông ta là hậu duệ của Alexandros Đại đế, và được bầu làm chấp chính quan trong năm 56 trước Công nguyên. Philippus cũng chưa bao giờ có nhiều quan tâm đối với Octavius khi còn nhỏ. Bởi vì điều này, Octavius đã được nuôi dưỡng bởi bà ngoại của mình (và là chị gái của Julius Caesar), Julia Caesaris.
Năm 52 hay 51 trước Công nguyên, Octavius đã đọc điếu văn tại đám tang của bà ngoại. Từ thời điểm này, mẹ và cha dượng của ông đã đóng một vai trò tích cực hơn trong việc nuôi dạy ông. Ông đủ tuổi mặc áo choàng La Mã bốn năm sau đó,[11] thời điểm mà ông được bầu vào Giáo đoàn Pontificum năm 47 trước Công nguyên.[12][13] Năm tiếp theo ông đảm đương trọng trách về Đại hội Thể Thao Hy Lạp cổ nhằm tôn vinh Đền thờ Venus Genetrix, ngôi đền mà Julius Caesar xây dựng. Theo Nicolaus Damascus, Octavius muốn được theo đoàn tùy tùng của Caesar trong chiến dịch ở Phi Châu nhưng bị mẹ ông phản đối[14]. Năm 46 trước CN, bà tán thành cho ông tới chỗ Caesar ở Hispania, nơi ông ta dự định tiến đánh tàn quân của Pompeius, kẻ thù cũ của Caesar, nhưng Octavius bị bệnh và không thể đi được.
Sau khi bình phục, ông đi đường biển đến với nơi Caesar đang ở, nhưng bị đắm tàu; sau khi cập bờ với một số tùy tùng, ông vượt qua lãnh thổ thù địch để đến nơi Caesar đóng quân, và gây một ấn tượng mạnh mẽ cho người bác[11]. Velleius Paterculus về sau cho biết Caesar sau đó đã cho phép Octavius cùng dùng chung xe ngựa với mình. Khi trở về Roma, Caesar gửi gắm ý định với Các Trinh nữ Vestal, rằng Octavius là người kế thừa thứ nhất[15].
Do không còn người con hợp pháp nào còn sống (con gái của ông Julia đã qua đời năm 54 TCN), Caesar đã nhận người cháu của mình, chính là Octavian, làm con trai và người thừa kế thứ nhất[18]. Nhờ vào việc được Caesar nhận làm con nuôi, Octavian đã đổi tên thành Gaius Julius Caesar. Dã sử La Mã nói rằng ông còn thêm vào họ của mình Octavianus (Octavian) để chỉ đến gia đình mình; tuy vậy, chẳng có chứng cớ nào cho hay ông đã sử dụng cái tên này (nó sẽ chỉ đến gia đình gốc của ông quá rõ ràng, điều này sẽ không có lợi cho ông khi mà ông đã là Con trai của Gaius Julius Caesar trong mắt người La Mã lúc bấy giờ)[19][20]. Marcus Antonius về sau nói rằng Octavian được nhận làm con nuôi vì mối quan hệ đồng tính của mình với Caesar, theo Tiểu sử 12 hoàng đế của Suetonius Antonius đã vu cáo Octavian vì mục đích chính trị[21].
Muốn tham gia chính trị ở La Mã, Octavian không thể dựa vào số ngân sách hạn chế của mình[22]. Sau khi được binh lính của Caesar chào đón nồng nhiệt tại Brundisium[23], Octavian yêu cầu một phần trong số ngân quỹ mà Caesar đã định dùng để tiến hành chiến tranh với Parthia ở Trung Đông[22]. Số ngân quỹ này gồm khoảng chừng bảy trăm triệu sestertius (tiền La Mã thời bấy giờ) hiện đang được cất giữ tại Brundisium, vốn là trạm chỉ huy những chiến dịch quân sự tại phương Đông của La Mã[24]. Về sau, Viện Nguyên lão cũng mở cuộc điều tra về sự "biến mất" của số ngân quỹ này, nhưng không làm gì được Octavian, vì Octavian sử dụng chính số tiền này để chiêu mộ một lực lượng chống lại chính kẻ thù của Viện, Marcus Antonius[23]. Octavian còn thực hiện một bước đi táo bạo trong năm 44 TCN khi chiếm đoạt các cống phẩm hàng năm được gửi từ tỉnh Cận Đông thuộc La Mã đến Ý mà chưa nhận được sự cho phép chính thức nào cả[20][25].
Octavian bắt đầu tạo dựng đạo quân riêng của mình từ các cựu lính lê dương và đội quân mà Caesar vốn dĩ định dùng để đánh nhau với Parthia; và nhằm tạo sự ủng hộ, Octavian nhấn mạnh vào địa vị người thừa kế Caesar của mình[16][26]. Trên đường về Roma, Octavian và ngân quỹ của ông đã thu hút rất nhiều những cựu binh từng tham gia quân đội của Caesar và đang đóng tại Campania[20]. Tới tháng 6, ông đã tuyển được 3.000 cựu binh trung thành với mình, mức lương ông trả cho mỗi người là 500 denarius[27][28][29].
Tới Roma vào ngày 6 tháng 5 năm 44 TCN[20], Octavian thấy rằng quan chấp chính Marcus Antonius, đồng sự trước đây của Caesar, đang ở trong tình thế thỏa hiệp khó xử với những kẻ ám sát nhà độc tài; họ đã được đại ân xá vào 17 tháng 3, thế nhưng Antonius đã thành công trong việc đuổi họ ra khỏi thành Roma[20]. Việc này là do điếu văn "đầy xúc động" được đọc tại lễ tang của Caesar, đã làm công chúng chống lại những kẻ ám sát[20].
Mặc dù Marcus Antonius đang tập trung được sự ủng hộ về chính trị, Octavian vẫn có cơ hội tranh đấu với ông ta như là thành viên đứng đầu trong nhóm ủng hộ Caesar. Marcus Antonius đã mất sự ủng hộ từ nhiều công dân La Mã và những người ủng hộ Caesar khi ông ta là người đầu tiên chống lại việc tôn Caesar lên địa vị thần thánh[30]. Octavian đã không thành công trong việc thuyết phục Antonius trao lại số tiền của Caesar cho mình, nhưng đã có được sự ủng hộ từ những người ủng hộ Caesar vào mùa hè năm đó[31]. Vào tháng 9, nhà hùng biện phe Optimates Marcus Tullius Cicero bắt đầu tấn công Antonius trong một chuỗi các bài diễn thuyết, miêu tả rằng Antonius chính là mối nguy lớn nhất đối với trật tự của Viện nguyên lão[32][33]. Với việc dư luận của Roma quay lưng trở lại chống mình và năm chấp chính bản thân ông ta đã gần chấm dứt, Antonius đã cố gắng để thông qua những đạo luật nhằm giúp cho ông ta có thể nắm quyền xứ Cisalpine Gaul, đã được giao lại như là một phần của tỉnh của ông ta, từ tay Decimus Junius Brutus Albinus, một trong những kẻ ám sát Caesar[34][35]. Trong khi đó Octavian xây dựng một lực lượng quân đội riêng ở Ý bằng cách tuyển chọn những cựu binh của Caesar, và vào 28 tháng 11 đã lôi kéo được hai quân đoàn của Antonius bằng cách mua chuộc họ[36][37][38]. Với lực lượng lớn mạnh và được trang bị đầy đủ của Octavian, Antonius thấy rằng ở lại Roma là nguy hiểm, và viện nguyên lão đã thở phào khi ông ta bỏ chạy về Cisalpine Gaul, xứ đó được trao cho ông ta vào 1 tháng 1[38].
Điều này là một phần trong sự bác bỏ quan điểm của Antonius đối với Octavian, khi Cicero dẫn lời Antonius và nói với Octavian, "Cậu có tất cả mọi thứ từ cái tên của cậu".[41][42] Dưới sự dàn xếp của Cicero, Viện Nguyên lão đã phong chức nguyên lão cho Octavian vào 1 tháng 1, 43 TCN, không những thế ông còn được phép bỏ phiếu cùng với các cựu chấp chính quan.[37][38] Thêm vào đó, Octavian được ban cho tước hiệu imperium (quyền tư lệnh), khiến cho việc chỉ huy quân đội của ông trở thành hợp pháp, và ông sau đó được lệnh phá vòng vây cùng với Hirtius và Pansa (các quan chấp chính của năm 43 TCN).[37][43] Vào tháng 4 năm 43 TCN, lực lượng của Antonius bị đánh bại tại Trận đánh Forum Gallorum và Mutina, buộc Antonius phải lui quân về Transalpine Gaul. Tuy vậy, cả hai quan chấp chính đều tử trận, khiến cho Octavian trở thành viên chỉ huy duy nhất của đạo quân.[44][45]
Sau khi ban tặng rất nhiều tặng thưởng cho Decimus Brutus thay vì Octavian cho việc đánh bại Antonius, Viện Nguyên lão có ý định trao các binh đoàn lính lê dương của quan chấp chính cho Decimus Brutus, thế nhưng Octavian quyết định không hợp tác.[46] Thay vào đó, Octavian ở lại trong thung lũng Po và từ chối bất cứ trợ giúp nào cho các cuộc tấn công sau đó chống lại Antonius.[47] Vào tháng 7, một sứ giả của các centurion đã được Octavian phái đến thành Roma và yêu cầu rằng ông phải được nhận chức quan chấp chính đã bị bỏ trống của Hirtius và Pansa.[48]
Octavian cũng yêu cầu sắc lệnh mà tuyên bố rằng Antonius là kẻ thù của công chúng phải được bãi bỏ.[47] Khi điều này bị từ chối, ông tiến quân vào thành phố với tám quân đoàn.[47] Ông không gặp lại chống cự quân sự nào ở Roma, và vào 19 tháng 8 năm 43 CN,ông được bầu là quan chấp chính cùng với người họ hàng là Quintus Pedius.[49][50] Trong khi đó, Antonius đã thành lập một liên minh mới với Marcus Aemilius Lepidus, một nhà lãnh đạo khác thuộc phe ủng hộ Caesar.[51]
Sắc lệnh ban ra bởi bộ ba tam đầu chế này bắt nguồn một phần từ nhu cầu huy động tiền bạc để trả lương cho binh lính trong các trận đánh sắp diễn ra với những người đã ám sát Caesar, Marcus Junius Brutus và Gaius Cassius Longinus.[56] Phần thưởng được đưa ra để làm động lực cho lính La Mã bắt những kẻ đã bị đặt ra ngoài vòng pháp luật, trong khi tài sản và đất đai những kẻ đó bị tịch thu bởi tam đầu chế.[55] Việc làm này của tam đầu chế đã vượt xa một cuộc thanh trừng đơn giản đối với những kẻ liên minh với những người ám sát Ceasar. Octavian ban đầu phản đối việc thi hành đặt ngoài vòng pháp luật số người này bởi vì ông muốn cứu sống Marcus Tullius Cicero (người có tên trong danh sách bị đặt ngoài vòng pháp luật).[55] Tuy nhiên, sự căm ghét của Antony đối với Cicero không khoan nhượng, và Cicero trở thành nạn nhân trong vụ này.[55] Cái chết của quá nhiều nguyên lão cộng hòa đã cho phép tam đầu chế đặt vào các vị trí trống những người ủng hộ họ. Sự kiện này được gọi là "Cách mạng La Mã" bởi các sử gia của thế kỉ 20; đã tạo ra hiệu quả sâu rộng trong việc quét sạch trật tự cũ và thiết lập một nền tảng chính trị vững chắc cho sự lãnh đạo của Augustus trong tương lai.[57]
Sau trận Philippi, một thỏa thuận mới về lãnh thổ được xếp đặt giữa các thành viên của Đệ nhị Tam đầu chế. Trong khi Antonius phải giao lại Gaul, các tỉnh của Hispania, và Italia vào tay Octavian, Antonius di chuyển về phía đông tới Ai Cập và liên minh với Nữ hoàng Cleopatra VII, người tình trước đây của Julius Caesar và là thân mẫu của người con trai giữa bà với Caesar, Caesarion. Lepidus chỉ còn lại tỉnh Africa, bị đặt vào thế khó xử bởi Antony đã nhường Hispania cho Octavian thay vì ông ta.[60]
Octavian đã được trao quyền phải quyết định xem nơi nào ở Italia để dành cho cho hàng vạn cựu quân nhân của chiến dịch Macedonia định cư, họ vốn đã được tam đầu chế hứa cho giải ngũ. Và cùng với đo là hàng vạn quân khác đã chiến đấu cho nền cộng hòa sát cánh cùng Brutus và Cassius, lực lượng này sẽ dễ dàng liên minh chính trị với bất cứ phe nào chống lại Octavian nếu không được xoa dịu, cũng cần đất định cư.[60] Không còn vùng đất nào của nhà nước mà có thể được dùng như là đất định cư cho quân lính, do vậy Octavian phải chọn một trong hai cách: khiến cho nhiều công dân La Mã xa lánh mình bằng cách tịch thu đất của họ, hay là làm mất lòng nhiều binh sỹ La Mã có thể dễ dàng tập trung nổi dậy chống lại ông ngay giữa trung tâm La Mã; Octavian đã chọn cách thứ nhất.[61] Có khoảng 18 thành phố La Mã đã bị ảnh hưởng bởi chính sách định cư mới này, với toàn bộ dân số bị đuổi đi hoặc ít nhất là bị trục xuất một phần.[62]
Sextus Pompeius, con trai của một trong ba vị tam hùng thứ nhất, Pompey và vẫn là một vị tướng phản bội sau chiến thắng của Julius Caesar trước cha mình, đã được giao cho Sicilia và Sardegna như là một phần của thỏa thuận đạt được với chế độ tam hùng lần thứ hai trong năm 39 TCN [65]. Cả Antonius và Octavian đã ganh đua nhằm thiết lập một liên minh với Pompeius, mỉa mai thay ông ta là một thành viên của phe cộng hòa, chứ không phải là phe Caesar[64]. Octavian đã thành công với việc thiết lập một liên minh tạm thời trong năm 40 trước Công nguyên, ông kết hôn với Scribonia, con gái của Lucius Scribonius Libo, một người ủng hộ của Pompeius cũng là cha vợ ông ta[64]. Scribonia đã sinh cho Octavian một người con duy nhất, Julia, người đã sinh ra vào cùng ngày mà ông đã ly dị Scribonia để kết hôn với Livia Drusilla, chỉ chưa đầy một năm sau cuộc hôn nhân của mình.[64]
Trong khi ở Ai Cập, Antonius đã dính vào một cuộc tình với Cleopatra và đã là cha của ba đứa con với bà.[66] Nhận thức được mối quan hệ xấu đi của ông với Octavian, Antonius rời khỏi Cleopatra, ông vượt biển về Ý trong năm 40 TCN với một đạo quân lớn nhằm phản đối Octavian, và bao vây Brundisium. Tuy nhiên, cuộc xung đột này không có cơ sở chứng minh gì mới cho cả Octavian và Antonius. Các đội trưởng của họ, những người đã trở thành nhân vật quan trọng về mặt chính trị, từ chối chiến đấu vì họ đều là những người ủng hộ Caesar, trong khi các quân đoàn dưới sự chỉ huy của họ làm theo.[67][68] Trong khi đó tại Sicyon, vợ của Antonius,Fulvia, qua đời vì một căn bệnh đột ngột trong khi Antonius đang trên đường đến gặp bà. Cái chết của Fulvia và cuộc binh biến của các đội trưởng của họ cho phép cả hai thành viên tam hùng một cơ hội để thực sự hòa giải.[67][68] Mùa thu năm 40TCN, Octavian và Antonius phê duyệt Hiệp ước Brundisium, theo đó Lepidus sẽ vẫn ở châu Phi, Antonius ở phương Đông, Octavian ở phương Tây. Bán đảo Ý để mở cho tất cả dùng cho việc tuyển dụng binh sĩ, nhưng trong thực tế, điều khoản này là vô ích cho Antonius ở phía Đông. Để tiếp tục xây dựng liên minh với Marcus Antonius, Octavian đã cho chị gái mình, Octavia Nhỏ, kết hôn với Antonius vào cuối năm 40 TCN. Trong suốt cuộc hôn nhân của họ.[67] Octavia đã sinh ra hai con gái (được gọi là Antonia Lớn và Antonia Nhỏ).
Cả Octavian và Lepidus đều tham gia chống lại Pompeius tại Sicilia năm 36 TCN.[74] Mặc dù thất bại cho Octavian nhưng hạm đội hải quân của Sextus Pompeius đã gần như hoàn toàn bị phá hủy ngày 03 tháng 9 bởi tướng quân Agrippa trong trận hải chiến Naulochus.[75] Sextus chạy trốn với lực lượng còn lại của ông về phía Đông, nơi ông bị bắt và bị hành quyết ở Miletus bởi một trong các tướng lĩnh của Antony năm sau đó.[75] Cả Octavian và Lepidus đều ra sức thu nhận tàn quân của Pompeius về phía mình nhưng Lepidus cảm thấy chưa đủ sức để chiếm lấy Sicilia cho chính mình, đuổi Octavian rút đi.[75] Tuy nhiên, binh linh của Lepidus đã từ bỏ ông ta và theo phe Octavian vì họ đã mệt mỏi vì các cuộc chiến và nghe được những lời hứa về tiền bạc hấp dẫn của Octavius..[75] Lepidus đã đầu hàng Octavian và được giữ lại trong chính quyền với chức vụ là chủ tế tối cao (pontifex maximus), nhưng đã bị loại bỏ khỏi chế độ tam hùng, sự nghiệp chính trị của Lepidus kết thúc ở đây, và bị bố trí đến một biệt thự ở Cape Circei của Ý.[75][76] Các lãnh địa La Mã đã được phân chia giữa Octavian bây giờ ở phương Tây và Antonius ở phía Đông. Để duy trì hòa bình ổn định phần của đế chế của mình, Octavian bảo đảm cho công dân Roma về quyền lợi của mình. Thời gian này, ông đã định cư cho những binh sĩ đã giải ngũ của mình ở bên ngoài Ý và trả lại 30000 nô lệ cho cựu chủ nô La Mã, mà trước đó đã chạy trốn đến chỗ Pompeius để gia nhập quân đội và hải quân của ông ta.[77]
Sau khi Quân đội La Mã chiếm được Armenia trong năm 34 TCN, Antonius đưa con trai của ông ta là Alexander Helios lên làm vua của Armenia, ông cũng tặng danh hiệu "Nữ hoàng của các vị vua" cho Cleopatra, hành vi đó được Octavian sử dụng để thuyết phục viện nguyên lão La Mã rằng Antonius có thái độ phản quốc.[80]
Những người đào ngũ, Munatius Plancus và Marcus Titius, mang đến cho Octavian những thông tin ông cần phải xác nhận với viện nguyên lão rằng tất cả các cáo buộc ông đã chống lại Antony. Bằng việc tấn công nơi thờ cúng của các Trinh nữ Vestal, Octavian đã buộc nữ tu tối cao của họ giao cho ông bí mật của Antonius, là sẽ giao những vùng lãnh thổ La Mã đã chinh phục cho vương quốc của con trai của ông để cai trị, cùng với kế hoạch xây dựng một ngôi mộ ở Alexandria cho ông và nữ hoàng của mình sau khi họ qua đời.[82][83] Cuối năm 32 trước Công nguyên, viện nguyên lão chính thức thu hồi quyền hạn của Antonius như là chấp chính quan và tuyên chiến với triều đình Nữ hoàng Cleopatra ở Vương quốc Ai Cập.[84][85]
Vào đầu năm 31 trước Công nguyên, trong khi Antonius và Cleopatra đã tạm thời đóng quân ở Hy Lạp, Octavian đã đạt được một chiến thắng sơ bộ khi các lực lượng hải quân dưới sự chỉ huy của Agrippa thành công khi mang quân vượt qua biển Adriatic.[86] Trong khi Agrippa chia cắt Antony và lực lượng chính của Cleopatra khỏi các tuyến đường cung cấp trên biển của họ.[86] Octavian đổ bộ trên vùng đất đối diện với hòn đảo Corcyra (hiện nay là Corfu) và hành quân về phía nam [86] bị bao vây cả trên đất liền và trên biển, lính đào ngũ từ quân đội của Antonius chạy trốn về phía Octavian mỗi ngày trong khi lực lượng Octavian đủ thoải mái để chuẩn bị.[86] Trong một cố gắng tuyệt vọng để phá vỡ sự phong tỏa trên biển, hạm đội của Antonius tiến qua vịnh Actium ở bờ biển phía Nam Hy Lạp. Chắc chắn rằng hạm đội của Antonius đã phải đối mặt với một hạm đội lớn hơn và tàu nhỏ hơn, nhưng linh hoạt nhiều hơn dưới sự chỉ huy của Agrippa và Gaius Sosius trong trận Actium vào ngày 02 Tháng 9 năm 31 TCN [87] Antonius và lực lượng còn lại của ông đã không giao chiến đến cùng bởi hạm đội của Cleopatra đang chờ đợi gần đó[88] Octavian truy đuổi họ, và sau một thất bại ở Alexandria vào ngày 1 tháng Tám 30 trước Công nguyên, Antonius và Cleopatra đã buộc phải tự tử;. Antonius đã ngã vào thanh kiếm của riêng mình và trong vòng tay của Cleopatra, trong khi bà cho một con rắn độc cắn mình[89]. Để bảo vệ vị trí của mình là người thừa kế của Caesar và để tiếp tục sự nghiệp chính trị của mình, Octavian nhận thức được sự nguy hiểm trong việc cho phép người khác cũng làm như vậy và đã đáp rằng "hai Caesars cho một là quá nhiều", ông ra lệnh giết Caesarion - con trai của Julius Caesar và Cleopatra, trong khi tha mạng cho con cái của Cleopatra với Antonius, ngoại trừ con trai cả của Antonius[90][91]
Octavian trước đó đã ít thể hiện lòng thương xót đối với binh lính tham chiến và hành động theo những cách đã được chứng minh là không được lòng dân La Mã, nhưng ông được công nhận là đã tha thứ cho nhiều đối thủ của ông sau trận Actium [92].
Những năm nội chiến đã để lại cho Roma một nhà nước trong tình trạng gần như vô luật lệ, nhưng mà nền Cộng hòa cũng đã không được chuẩn bị để chấp nhận sự kiểm soát của Octavianus như là một vị vua chuyên chế. Đồng thời, Octavianus có thể không chỉ đơn giản là từ bỏ quyền lực của mình mà không có rủi ro tiếp tục cuộc chiến tranh dân sự giữa các tướng La Mã, và ngay cả khi ông mong muốn không có vị trí của cơ quan nào, vị trí của mình bắt ông phải coi trọng đến phúc lợi của nhân dân thành phố Roma và các tỉnh khác của La Mã. Mục tiêu của Octavianus từ thời điểm này là phải luôn luôn về phía trước để quay trở lại Roma, đến một nơi có một nhà nước ổn định, có truyền thống hợp pháp, văn minh bằng cách nâng cao áp lực chính trị công khai trên quần thần và đảm bảo các cuộc bầu cử tự do ít nhất có chút danh nghĩa.[97]
Augustus đã nhận thấy được rằng với những công trình công cộng trên
một phạm vị rộng lớn cần có sẵn nguồn lực tài chính dồi dào Augustus chỉ
huy. Khi ông thất bại trong việc vận động đủ số nguyên lão nhằm tài trợ
cho việc xây dựng và duy trì mạng lưới đường giao thông ở Ý, ông đã
nhận trách nhiệm trực tiếp thay cho họ trong năm 20 trước Công nguyên.[99]
Điều này đã được công bố công khai trên các đồng tiền La Mã ban hành
trong năm 16 trước Công nguyên, sau khi ông đã tặng một lượng lớn tiền
cho aerarium Saturni, công quỹ La Mã.[99]
Viện nguyên lão cũng đã đề xuất với Octavian, người chiến thắng trong các cuộc nội chiến của Roma, rằng ông nên một lần nữa đảm đương quyền cai quản các tỉnh. Lời đề xuất của Viện nguyên lão là một sự phê chuẩn đối với quyền lực ngoài hiến pháp của Octavian. Giả vờ miễn cưỡng, ông chấp nhận gánh vác trách nhiệm giám sát các tỉnh được coi là hỗn loạn trong mười năm. [111] [100][101]
Các tỉnh được nhượng lại cho Octavian, mà ông đã hứa hẹn là có thể bình định chúng trong khoảng thời gian mười năm, bao gồm phần lớn thế giới bị La Mã chinh phục, bao gồm toàn bộ Hispania và Gaul, Syria, Cilicia, Síp, và Ai Cập.[100][102] Hơn nữa, với việc nắm quyền chỉ huy của các tỉnh này giúp cho Octavian kiểm soát phần lớn các quân đoàn La Mã.[102][103]
Trong khi Octavian giữ vai trò là chấp chính quan tại Roma, ông đã sai phái các nguyên lão tới những tỉnh nằm dưới sự chỉ huy của mình như là người đại diện của ông để quản lý công việc ở tỉnh và đảm bảo mệnh lệnh của ông được thực hiện.[103] Mặt khác, những tỉnh không nằm dưới sự kiểm soát của Octavian đã được giám sát bởi các thống đốc được lựa chọn bởi viện nguyên lão La Mã.[103] Octavian đã trở thành nhân vật chính trị quyền lực nhất trong thành Roma và ở hầu hết các tỉnh của nó, nhưng lại không nắm giữ quyền lực chính trị và quân sự một cách đơn độc[104].
Viện nguyên lão vẫn còn kiểm soát Bắc Phi, một vùng đất sản xuát ngũ cốc quan trọng, cũng như Illyria và Macedonia, hai khu vực có tầm chiến lược về mặt quân sự với một số quân đoàn.[104] Tuy nhiên, với việc chỉ kiểm soát chỉ năm hay sáu quân đoàn được phân bổ giữa ba thống đốc tỉnh thuộc hàng nguyên lão, so với hai mươi quân đoàn dưới sự kiểm soát của Augustus, sự kiểm soát các vùng đất này của viện nguyên lão chung quy lại cũng không phải là thách thức chính trị hoặc quân sự đối với Octavian[94][105].
Sự kiểm soát của Viện nguyên lão đối với một số tỉnh La Mã giúp duy trì lớp vỏ bọc Cộng hòa cho chế độ Nguyên thủ.[94] Ngoài ra, sự kiểm soát toàn diện các tỉnh của Octavian cũng đảm bảo hòa bình và tạo ra sự ổn định tiếp nối những tiền lệ của thời kì Cộng hòa, trong đó những người La Mã nổi tiếng như Pompey đã được cung cấp sức mạnh quân sự tương tự trong thời gian khủng hoảng và bất ổn.
Sau khi triều đại của vị vua chư hầu Herod Đại Đế (73-4 TCN) kết thúc, xứ Judea đã được thêm vào tỉnh Syria khi Augustus phế truất Herod Archelaus, vị vua kế vị ông ta.[106]
Một lần nữa, đã không cần thiết phải sử dụng các biện pháp quân sự vào 25 trước Công nguyên khi xứ Galatia (Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay) được chuyển đổi sang thành một tỉnh La Mã ngay sau khi Amyntas của Galatia đã bị giết bởi một góa phụ để trả thù của một hoàng tử bị sát hại từ Homonada [106]. Khi các bộ tộc nổi loạn của xứ Cantabria ở Tây Ban Nha ngày nay cuối cùng đã bị dẹp yên trong năm 19 trước Công nguyên, vùng đất này đã được xáp nhập vào tỉnh Hispania và Lusitania.[107]
Mặc dù Parthia luôn là một mối đe dọa đối với La Mã từ phía đông, trận tuyến thực sự của La Mã nằm dọc theo sông Rhine và sông Donau.[108] Trước cuộc chiến cuối cùng với Antonius, những chiến dịch của Octavianus chống lại các bộ lạc ở Dalmatia là bước đầu trong việc mở rộng cương thổ của La Mã tới sông Donau.[109] Chiến thắng trong một trận đánh thường không phải là một thắng lợi tuyệt đối, do các lãnh thổ mới chinh phạt được thường xuyên bị các kẻ thù của La Mã ở Germania giành lại.[108]
Một thất bại quân sự điển hình của người La Mã là trận rừng Teutoburg vào năm 9, khi toàn bộ ba binh đoàn do Publius Quinctilius Varus chỉ huy bị Arminius, thủ lĩnh người Cherusci, một đồng minh thực sự của La Mã tiêu diệt hoàn toàn, với chỉ một số người sống sót.[110]
Rất nhiều người cho rằng Augustus là hoàng đế vĩ đại nhất của La Mã; những chính sách của ông chắn chắn đã kéo dài thêm tuổi thọ của Đế quốc và khởi đầu thời kì Pax Romana hay Pax Augusta được nhiều người ca ngợi.
Những cải cách về hệ thống thu nhập công của Augustus đã có một ảnh hưởng lớn đến những thành công sau này của Đế quốc. Augustus đã thiết lập một hệ thống luật thuế thống nhất trực tiếp từ Roma trên phần lớn của lãnh thổ của Đế quốc, thay vì các cách thức cống nạp thay đổi, không liên tục, đôi khi tùy tiện từ các tỉnh địa phương như dưới thời những người tiền nhiệm của Augustus.[113] Cải cách này đã làm tăng thu nhập đáng kể của Roma từ các vùng lãnh thổ chiếm được, làm ổn định nguồn thu nhập, và điều độ quan hệ tài chính giữa Roma và các tỉnh, thay vì kích động những chống đối mới với các cách cống nạp mới tùy tiện.[113] Cách đo mức thuế dưới thời Augustus được định bởi thống kê dân số, với những hạn ngạch định trước cho từng tỉnh.[114] Công dân của Roma và Ý trả thuế gián tiếp, trong khi thuế trực tiếp được lấy từ các tỉnh.[114] Thuế gián tiếp bao gồm 4% thuế trên giá của nô lệ, 1% thuế trên hàng hóa bán tại đấu giá, và 5% thuế trên thừa kế các bất động sản có giá trị trên 100.000 sesterces bởi những người không phải là thân thuộc.[114]
Một cải cách khác không kém phần quan trọng là sự bãi bỏ của thuế nông nghiệp tư nhân, được thay thế bởi các nhân viên thu thuế được trả lương của nhà nước. Những nhà thầu tư nhân tự ý nâng thuế đã là chuyện bình thường trong thời Cộng hòa, và một số đã trở nên quyền thế đến nỗi gây ảnh hưởng lên số phiếu bầu của các chính trị gia ở Roma.[113] Những nhà thầu tự ý thu thuế đã nổi tiếng với những vụ tham ô lãng phí, cũng như những tài sản riêng kếch xù, nhờ vào việc chiếm quyền đánh thuế một vùng nào đó.[113] Thu nhập của Roma là những khoản tiền từ những vụ đấu giá thành công, và lợi nhuận của những người thu thuế tư nhân bao gồm bất kì khoản thu thêm nào mà họ có thể bòn rút được từ dân thành Roma. Thiếu sự kiểm soát hiệu quả, cùng với lòng tham làm tối la lợi nhuận của những người thu thuế tư nhân, đã tạo ra một hệ thống thuế tùy tiện độc ác đối với người nộp thuế, được công nhận rộng rãi là một bất công xã hội, và rất bất lợi cho kinh tế.
Ông cũng đã xây dựng Đền thờ Caesar, Nhà tắm Agrippa, và Diễn đàn Augustus với Đền thờ Mars Ultor. Các công trình khác hoặc là được khuyến khích bởi ông, như là Nhà hát của Balbus, và việc xây dựng Pantheon của Agrippa, hoặc là được tài trợ bởi ông dưới tên của những người khác, thường là bà con (ví dụ Portico của Octavia, Nhà hát của Marcellus). Ngay cả Lăng của Augustus cũng được xây trước khi ông chết để mai táng những thành viên trong gia đình ông.[117]
Elizabeth I của Anh
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Elizabeth I của Anh | |
---|---|
Nữ hoàng Anh và Ireland(chi tiết...) | |
Tại vị | 17 tháng 11, 1558 – 24 tháng 3, 1603 |
Đăng quang | 15 tháng 1, 1559 |
Tiền nhiệm | Mary I |
Kế nhiệm | James I |
Thông tin chung | |
Hoàng tộc | Nhà Tudor |
Thân phụ | Henry VIII |
Thân mẫu | Anne Boleyn |
Sinh | 7 tháng 9, 1533 Lâu đài Placentia |
Mất | 24 tháng 3, 1603 (69 tuổi) Lâu đài Richmond |
An táng | Điện Westminster |
Tôn giáo | Anh giáo |
Đối với các định nghĩa khác, xem Elizabeth.
Elizabeth I (phát âm: Ê-li-da-bét I; 7 tháng 9 năm 1533 – 24 tháng 3 năm 1603) là Nữ hoàng Anh và Nữ hoàng Ireland từ ngày 17 tháng 11 năm 1558 cho đến khi qua đời. Bà được biết đến với những danh hiệu khác như Nữ hoàng Đồng trinh[1], Gloriana, hoặc Good Queen Bess, và trở nên bất tử với tên Faerie Queene trong thiên sử thi cùng tên của Edmund Spenser. Elizabeth I là người thứ sáu, cũng là người cuối cùng, của Triều đại Tudor (những người khác thuộc dòng Tudor đã từng lên ngôi báu là ông nội Henry VII, cha Henry VIII, em trai cùng cha khác mẹ Edward VI, em gái đồng đường Jane và chị cùng cha khác mẹ Mary I). Thời trị vì của Elizabeth I kéo dài 45 năm, nổi bật với hai sự kiện: Vương quốc Anh trở nên một thế lực có ảnh hưởng toàn cầu, và những tranh chấp tôn giáo luôn sục sôi trong nước.Elizabeth khởi sự cai trị đất nước bằng cách tìm kiếm những lời tư vấn khôn ngoan và thích đáng[2], những quyết định chính trị của nữ hoàng thường dựa vào một nhóm các cố vấn đáng tin cậy được đặt dưới sự dẫn dắt của William Cecil, Nam tước Burghley. Một trong những quyết định quan trọng đầu tiên của Elizabeth là quay sang ủng hộ việc xác lập giáo hội theo khuynh hướng Kháng Cách cho nước Anh, với nữ hoàng là Thống đốc Tối cao của Giáo hội. Từ đây hình thành và phát triển Anh giáo. Trái với sự mong đợi của thần dân cũng như của Quốc hội, Elizabeth không hề kết hôn. Mặc dù luôn cẩn trọng trong đối ngoại và dè dặt khi ủng hộ các chiến dịch quân sự tại Hà Lan, Pháp và Ireland, chiến tích nước Anh đánh bại hạm đội của Tây Ban Nha (Armada ) năm 1588 được nối kết với tên tuổi của nữ hoàng và thường được xem là một trong những chiến thắng lừng lẫy nhất trong lịch sử nước Anh.
Giai đoạn này thường được nhắc đến như là Thời kỳ Elizabeth hoặc Thời Hoàng kim Elizabeth. Các nhà viết kịch William Shakespeare, Christopher Marlowe và Ben Johnson đã tạo nên thanh danh cho mình trong thời kỳ này; Francis Drake trở thành người Anh đầu tiên thực hiện một chuyến hải hành vòng quanh Trái Đất; Francis Bacon thiết lập quan điểm chính trị và triết học; Bắc Mỹ trở thành thuộc địa của Anh do công của Walter Raleigh và Sir Humphrey Gilbert.
Elizabeth là một quân vương điềm tĩnh, quyết đoán và tỏ ra bảo thủ hơn vua cha và vua em[3]. Câu nói được bà yêu thích là "video et taceo" (Tôi quan sát và tôi im lặng)[4]. Chính phẩm hạnh này đã nhiều lần cứu nữ hoàng khỏi bị trói buộc vào những liên minh sai lầm trong chính trị và hôn nhân. Giống vua cha Henry VIII, bà thích viết lách và làm thơ. Nữ hoàng đã ban Chứng thực Hoàng gia (Royal Charter) cho những định chế nổi tiếng như Đại học Trinity ở Dublin (năm 1592) và Công ty Đông Ấn Anh Quốc (1600).
Virginia, một trong 13 khu thuộc địa, về sau hợp nhất để trở nên Hợp chúng quốc Hoa Kỳ, được đặt tên theo một danh hiệu của Elizabeth, "Nữ hoàng Đồng trinh" (Virgin Queen).
Tuy nhiên, các sử gia tỏ ra nghiêm khắc hơn, họ thường miêu tả Elizabeth là người nóng tính[5], đôi khi thiếu quyết đoán[6] và cho rằng bà thành công là nhờ may mắn. Những năm cuối triều đại Elizabeth, một loạt những khó khăn về kinh tế và quân sự đã làm giảm sút uy tín của nữ hoàng đến mức khi bà qua đời nhiều người đã thở phào nhẹ nhõm.
Dù vậy, Elizabeth vẫn được các sử gia xem là một nhà cai trị có sức thu hút cá nhân và biết cách vượt qua mọi trở ngại để tồn tại trong một thời kỳ mà chính quyền thường hạn chế và thiếu hiệu quả, và khi vua chúa các vương quốc láng giềng luôn phải đối phó với các khó khăn trong nước với nguy cơ vương quyền có thể bị tổn hại nghiêm trọng, như trường hợp của các đối thủ của Elizabeth như Nữ hoàng Mary của Scotland, bị tống giam năm 1568 rồi xử tử hình năm 1587.
Sau thời trị vì ngắn ngủi của em trai và chị, triều đại kéo dài 45 năm của Elizabeth đã cống hiến một giai đoạn ổn định rất quí báu cho nước Anh và là nhân tố chủ chốt giúp hình thành ý thức dân tộc cho người dân Anh[3].
Mục lục
Thiếu thời
Elizabeth là con duy nhất của Vua Henry VIII và Anne Boleyn, Nữ hầu tước xứ Prembroke. Hai người bí mật kết hôn vào một thời điểm giữa mùa đông năm 1532 và cuối tháng 1 năm 1533. Elizabeth chào đời tại Lâu đài Placentia ở Greenwich ngày 7 tháng 9 năm 1533, và được đặt tên theo bà nội, Elizabeth xứ York[7]. Ngay khi ra đời, Elizabeth được ban quyền kế thừa ngai báu mặc dù Henry VIII đã có một con gái, Mary; Mary không được cha công nhận là người thừa kế hợp pháp vì nhà vua đã hủy bỏ hôn ước với người mẹ, Catherine xứ Aragon, công chúa nước Tây Ban Nha[8][9].Henry mong chờ sự ra đời của một con trai để bảo đảm sự kế tục của triều đại Tudor, nhưng sau khi sinh hạ Elizabeth, Hoàng hậu Anne bị sẩy thai hai lần trong năm 1534 và đầu năm 1536, rồi nhà vua bắt đầu có quan hệ với nhiều phụ nữ khác.
Vẫn còn nhiều tranh luận về nguyên nhân Anne bị thất sủng, nhưng các sử gia đồng ý với nhau về sự vô tội của Anne đối với các cáo buộc chống lại bà, họ tin rằng cái chết của bà đã được sắp đặt bởi những đối thủ chính trị. Anne bị bắt ngày 2 tháng 5 năm 1536 và bị cầm tù. Mười bảy ngày sau bà bị hành quyết với các tội danh phản quốc, loạn luân với anh/em trai, George Boleyn, và tội phù thủy[10][11].
Elizabeth, mới lên ba, bị tuyên bố là con bất hợp pháp và bị mất tước hiệu công chúa, cũng không được hưởng tài sản của người mẹ[12]. Cô chỉ còn là Lady Elizabeth và không được sống gần cha khi ông kết hôn với Jane Seymour[12]. Năm 1537, người vợ thứ ba của Henry, Jane Seymour, sinh con trai, Hoàng tử Edward; theo Đạo luật Kế vị năm 1544, Edward là người kế thừa ngai báu nước Anh.
Người bảo hộ đầu tiên của Elizabeth là Lady Margaret Bryan, một nữ hầu tước cô gọi là "Muggie". Lúc bốn tuổi, Elizabeth có người bảo hộ mới, Katherine Champernowne, mà cô thường gọi là "Kat". Champernowne tạo lập một mối quan hệ thân thiết với Elizabeth và trở nên người bạn tốt và thân tín suốt cuộc đời cô. Champernowne đóng góp nhiều cho học vấn của Elizabeth, với sự kèm cặp của William Grindal, cô có thể viết tiếng Anh, tiếng Latin và tiếng Ý, sau đó đạt nhiều tiến bộ trong việc học tiếng Pháp và tiếng Hy Lạp[13]. Khi Grindal từ trần năm 1548, Roger Ascham thay thế Grindal hướng dẫn cô trong học thuật theo phương pháp mới, biến học tập thành một công việc thú vị[14]. Matthew Parker, mục sư của mẹ cô, dành một mối quan tâm đặc biệt đến cuộc sống và quyền lợi của Elizabeth do Anne, khi ấy đang sống trong kinh hãi trước khi bị hành quyết, ủy thác Parker chăm sóc đời sống tâm linh cho con gái. Về sau Parker trở thành Tổng Giám mục thành Canterbury sau khi Elizabeth đăng quang năm 1558. Một người bạn thân tình khác mà Elizabeth thường nhắc đến với nhiều tình cảm là một người Ireland, Thomas Butler, về sau là Bá tước xứ Ormonde (mất năm 1615).
Elizabeth là người đa tài, kiên định và cực kỳ thông minh. Cô ham thích học hỏi vì khao khát hiểu biết. Giống song thân, cô là một cô gái lãng mạn và quyến rũ.
Henry VIII qua đời năm 1547, truyền ngôi cho Edward VI. Catherine Parr, người vợ cuối của Henry, kết hôn với Thomas Seymour, cậu của Edward VI. Seymour đem Elizabeth về nhà mình. Người ta tin rằng Seymour muốn tạo lập quan hệ thân tình với Elizabeth khi cô sống trong nhà ông. Ở đây, cô nhận lãnh giáo huấn từ Roger Ascham. Dưới ảnh hưởng của Catherine Parr và Ascham, Elizabeth được trưởng dưỡng trong đức tin Kháng Cách (Protestant).
Khi vua em Edward là người Kháng Cách sùng tín, còn trị vì, địa vị của Elizabeth vẫn còn an toàn. Đến năm 1553, Edward qua đời ở tuổi mười lăm vì bệnh tật từ khi còn nhỏ. Edward để lại một di chúc thay thế di chúc của Henry. Bất kể Đạo luật Kế vị 1544, di chúc này loại bỏ Mary và Elizabeth khỏi quyền kế thừa và công bố Lady Jane Grey, người được Thomas Seymour bảo hộ, là người kế vị[16]. Một sự hợp tác giữa Thomas và John Dudley, Công tức xứ Northumberland, con trai của John, Guilford Dudley, đã kết hôn với Jane. Lady Jane lên ngai, nhưng bị phế truất chỉ hai tuần lễ sau đó. Trong sự tung hô của dân chúng, Mary chiến thắng tiến vào Luân Đôn, với cô em cùng cha khác mẹ, Elizabeth, ở bên cạnh[17].
Mối liên kết giữa hai chị em không kéo dài. Mary quyết tâm đàn áp đức tin Kháng Cách mà Elizabeth tiếp nhận từ khi còn bé, và buộc mọi người phải dự lễ Misa. Elizabeth không có sự lựa chọn nào khác phải tỏ ra phục tùng nữ hoàng[18]. Song uy tín của Mary sút giảm khi dân chúng biết dự định kết hôn với Hoàng tử Felipe của Tây Ban Nha (về sau là vua Felipe II của Tây Ban Nha)[19] nhằm tìm kiếm sự hậu thuẫn cho phe Công giáo bên trong nước Anh. Sau cuộc nổi dậy của Wyatt năm 1554 tìm cách ngăn cản cuộc hôn nhân giữa Mary và Felipe nhưng thất bại, Elizabeth bị cầm giữ trong Tháp Luân Đôn vì bị cho là có dính líu đến cuộc nổi dậy[20]. Có những sự đòi hỏi xử tử hình Elizabeth, nhưng đa số dân Anh không muốn nhìn thấy một thành viên thuộc dòng họ Tudor rất được lòng dân bị sát hại. Quan Chưởng ấn Stephen Gardiner muốn rút tên Elizabeth khỏi danh sách kế vị, nhưng cả Mary lẫn Quốc hội đều không đồng ý. Sau hai tháng bị giam giữ, Elizabeth được trả tự do vào đúng ngày mẹ cô bị hành quyết mười tám năm trước. Ngày 22 tháng 5, khi Elizabeth được đưa đến Woodstock để bị quản thúc tại gia dưới sự giám sát của Sir Henry Bedingfield, dân chúng đứng hai bên đường hoan hô cô[21][22].
Sau một thời gian trị vì ôn hòa, Mary, một người Công giáo sùng tín, khởi sự theo đuổi chính sách ngược đãi người Kháng Cách mà nữ hoàng xem là những kẻ dị giáo và là mối de dọa cho thẩm quyền của bà. Do những cuộc bách hại chống phe Kháng Cách được tiến hành dưới thời trị vì của mình, nữ hoàng bị gán cho biệt danh "Mary khát máu". Dù bị Mary thuyết phục cải đạo theo Công giáo La Mã, Elizabeth khôn khéo duy trì lòng trung thành với lương tâm và khát vọng của mình. Cuối năm ấy, khi có những lời đồn đại về việc Mary có thai, Elizabeth được phép trở lại triều đình theo lời yêu cầu của Felipe. Do lo ngại nữ hoàng có thể chết khi sinh con, Felipe muốn Elizabeth, dưới sự bảo hộ của ông, sẽ là người kế vị, thay vì người có huyết thống gần Elizabeth nhất, Nữ hoàng Mary của Scotland. Mary lớn lên trong hoàng cung Pháp và có hôn ước với Thái tử Pháp, mặc dù là người Công giáo, Felipe không muốn Mary kế thừa ngai báu nước Anh vì sợ ảnh hưởng của người Pháp trên chính trường Anh qua Mary.
Lên ngôi
Tháng 11 năm 1558, sau cái chết của Mary, Elizabeth I lên ngôi báu nước Anh. So với Mary, nữ hoàng mới rất được lòng dân, người ta thuật lại rằng khi Mary qua đời dân chúng đổ ra đường reo mừng. Theo truyền thuyết, Elizabeth được báo tin kế vị khi đang ngồi dưới gốc cây sồi ở Hatfield đọc Kinh Thánh Hi văn, một người hầu đến gần và háo hức nói "Hoàng thượng...". Elizabeth thốt lên một câu Kinh Thánh từ Thi thiên (Thánh vịnh) 118: 23, "Ấy là công việc của Chúa, một sự diệu kỳ trong mắt chúng ta".Elizabeth lên ngai lúc 25 tuổi. Suốt trong lễ đăng quang ngày 15 tháng 1 năm 1559, Elizabeth được dân chúng chào đón tung hô, họ diễn kịch và đọc thơ tán tụng nhan sắc và trí tuệ của nữ hoàng[23]. Lúc ấy chức Tổng Giám mục thành Canterbury (đứng đầu chức sắc Giáo hội Anh) đang khuyết; Hồng y Reginald Pole vừa qua đời. Các Giám mục có thế lực từ chối tham dự lễ đăng quang vì chiếu theo giáo luật Công giáo, Elizabeth, một tín hữu Kháng Cách, bị xem là bất hợp pháp. Chỉ có một chức sắc ít tiếng tăm Owen Oglethorpe, Giám mục thành Carlisle, đến tham dự và trao vương miện cho nữ hoàng. Lễ Tiệc Thánh được cử hành bởi tuyên úy của nữ hoàng.
Lễ đăng quang của Elizabeth I là lần cuối cùng được cử hành theo nghi thức Latin; từ đó, các lễ đăng quang, ngoại trừ của George I, đều được cử hành theo nghi thức Anh. Elizabeth thuyết phục Matthew Parker nhận lãnh chức vụ Tổng Giám mục Canterbury.
Ngày 20 tháng 11 năm 1558, Elizabeth nói chuyện với Hội đồng Tư vấn và các nhà quý tộc tụ họp về Hatfield để tuyên thệ trung thành với nữ hoàng, trong đó lần đầu tiên bà đề cập đến ẩn dụ "hai định chế" thường được sử dụng sau này: định chế thiên nhiên và định chế chính trị.
“ |
...trọng trách đặt nặng trên vai làm trẫm kinh hãi, nhưng khi nhận
biết mình là một tạo vật của Thiên Chúa, được dựng nên để vâng phục ý
chỉ của Ngài, từ đáy lòng trẫm khao khát được thêm sức bởi ân điển của
Ngài, để ý Chúa được nên trong nhiệm vụ Ngài giao phó. Dù là một người
như mọi người khác, bởi ý Chúa, trẫm được đặt vào vị trí đứng đầu một
định chế chính trị, vì vậy trẫm mong mọi người... sẽ chung tay giúp sức
để triều đại này với sự phục vụ của thần dân sẽ hoàn thành tốt nhiệm vụ
đối với Thiên Chúa toàn năng, và để lại cho hậu thế nhiều điều tốt lành.
Trẫm hứa sẽ hành động theo những lời khuyên và tư vấn khôn ngoan và
đúng đắn.[24] |
” |
Tôn giáo
Một trong những mối quan tâm hàng đầu của Elizabeth I khi bắt đầu trị vì là các vấn đề tôn giáo. Nhận biết thần dân muốn nữ hoàng khước từ quyền lực của Giáo hoàng và ảnh hưởng của Tây Ban Nha, điều này phù hợp với ước nguyện của bà và những quyết sách được đề nghị bởi Sir William Cecil. Elizabeth cũng biết Giáo hoàng sẽ không chịu công nhận bà là con hợp pháp của Henry VIII và là quân vương của nước Anh[26]. Vì vậy, nữ hoàng quyết định thành lập một giáo hội Kháng Cách phù hợp với nguyện vọng người dân Anh[27]. Năm 1559, Quốc hội làm luật thành lập giáo hội theo mô hình của Edward VI, với nhà vua là người đứng đầu giáo hội[27]. Dự luật nhận được sự ủng hộ mạnh mẽ tại Viện Thứ dân, nhưng gặp chống đối tại Viện Quý tộc, đặc biệt là từ các Giám mục. Tuy nhiên, may mắn cho Elizabeth, nhiều vị trí Giám mục đang khuyết, kể cả chức vụ Tổng Giám mục thành Canterbury[28][29]. Điều này giúp các thành viên Viện Quý tộc ủng hộ Kháng Cách chiếm đa số phiếu khi biểu quyết. Đạo luật Đồng nhất (Act of Uniformity) được nữ hoàng phê chuẩn năm 1559, qui định việc sử dụng Sách Cầu nguyện chung theo đức tin Kháng Cách trong các nhà thờ[30]. Bí tích Thánh thể của Giáo hội Công giáo bị bác bỏ. Nữ hoàng nhận danh hiệu "Thống đốc Tối cao của Giáo hội Anh" thay vì "Đầu của Giáo hội".Đạo luật Quyền Tối thượng năm 1559 buộc tất cả viên chức công phải chấp nhận quyền kiểm soát của nhà vua trên giáo hội. Nhiều Giám mục từ chối ủng hộ lập trường của Elizabeth bị bãi chức và được thay thế bởi những chức sắc ủng hộ nữ hoàng. Bà bổ nhiệm Hội đồng Tư vấn mới, không còn có sự hiện diện của các thành viên Công giáo. Dưới triều Elizabeth, tình trạng chia rẽ và tranh chấp do bè phái giảm thiểu đáng kể. Cố vấn trưởng của nữ hoàng, Sir William Cecil, đảm nhiệm chức Bộ trưởng Ngoại giao, và Sir Nicholas Bacon làm Quan Chưởng ấn.
Nhiều tín hữu Công giáo, nhất là ở châu Âu đại lục, xem Elizabeth là dị giáo. Ngày 25 tháng 3 năm 1570, Giáo hoàng Pius V ra chỉ dụ Regnans in Excelsis phạt vạ tuyệt thông Elizabeth và gọi là bà là "nữ hoàng tiếm vị".[31] Chỉ dụ này, trên lý thuyết giải phóng người Công giáo tại Anh khỏi nghĩa vụ trung thành với Elizabeth, lại khiến giáo hội Anh liên kết chặt chẽ với vương quyền và đặt người Công giáo tại Anh vào tình huống khó khăn[32]
Hôn nhân
Ngay từ lúc mới lên ngôi, chuyện hôn nhân của nữ hoàng là vấn đề được mọi người quan tâm. Trong thực tế, Elizabeth chưa bao giờ kết hôn mà không ai biết rõ nguyên nhân. Nữ hoàng cũng từng tính đến việc chọn người phối ngẫu, trong đó có François, Công tước xứ Anjou. Tuy vậy, Elizabeth không thấy cần có một người đàn ông giúp đỡ để trị nước, và một cuộc hôn nhân có thể khiến nữ hoàng vướng vào nguy cơ bị ngoại bang can thiệp vào nội tình nước Anh, như trường hợp của Mary. Mặt khác, hôn nhân có thể cho nữ hoàng cơ hội có con nối dõi[33].Nhiều người muốn kết hôn với Elizabeth, nhưng nữ hoàng chỉ xem xét ba hoặc bốn trường hợp. Người bạn từ thuở thiếu thời, Robert Dudley, có lẽ là người có nhiều cơ may nhất. Nhưng Dudley đã kết hôn và William Cecil, cố vấn thân tín nhất của Elizabeth, phản đối mối quan hệ này. Năm 1560, cái chết không rõ nguyên nhân của Amy Robstart, vợ của Dudley, đã gây ra nhiều lời đồn đoán[34]. Cuối cùng nữ hoàng đặt bổn phận cao hơn tình cảm, phong Dudley làm Bá tước xứ Leicester và bổ nhiệm ông vào Hội đồng Cơ mật, hai người vẫn duy trì tình bạn lâu dài.
Sau Dudley, Elizabeth xem hôn nhân như là một phần trong chính sách đối ngoại[35], xem đây là nghĩa vụ hơn là tình cảm cá nhân. Quốc hội nhiều lần khẩn khoản nữ hoàng kết hôn, nhưng bà cứ lẩn tránh[36]. Khi Elizabeth mắc bệnh đậu mùa trong năm 1563, Quốc hội khẩn nài nữ hoàng kết hôn hoặc chỉ định người kế nhiệm nhằm tránh một cuộc nội chiến có thể xảy ra khi bà băng hà, nhưng bị từ chối. Năm 1570, khi các nhân vật chủ chốt trong triều nhận biết nữ hoàng không chịu kết hôn, cũng không chỉ định người kế nhiệm, William Cecil ra sức tìm kiếm giải pháp cho vấn đề thừa kế[35]. Nhưng chính sự im lặng của Elizabeth đã củng cố sự an toàn chính trị cho bà: nữ hoàng biết rằng nếu chỉ định người thừa kế có thể xảy ra một cuộc đảo chính[37]. Trong khi đó, tình trạng độc thân của Elizabeth dấy lên trong dân chúng lòng sùng bái dành cho một nữ hoàng đồng trinh. Trong thi ca cũng như trong hội họa, nữ hoàng được miêu tả như là một nữ thần, không phải một phụ nữ bình thường[38].
Đối ngoại
Chính sách đối ngoại của Elizabeth chủ yếu là phòng thủ, với một ngoại lệ là cuộc chiếm đóng Le Havre kéo dài từ tháng 10 năm 1562 đến tháng 6 năm 1563, khi phe Huguenot đồng minh với Elizabeth liên kết với phe Công giáo Pháp tái chiếm bến cảng này. Elizabeth định ý trao đổi Le Havre để lấy Calais mà người Pháp đã chiếm lại vào tháng 1 năm 1558[39]. Năm 1560, bà gởi quân đến Scotland để ngăn cản ý định của người Pháp sử dụng đất nước này như một hậu cứ để tấn công nước Anh[40]. Năm 1585, Elizabeth ký Hiệp ước Nonsuch với Hà Lan nhằm ngăn chặn hiểm họa từ Tây Ban Nha[41]. Dựa vào sức mạnh của các hạm đội Anh Quốc mà Elizabeth có thể theo đuổi chính sách đối ngoại mạnh mẽ hơn. Khi tranh chấp với Tây Ban Nha, 80% cuộc chiến diễn ra trên mặt biển[42]. Nữ hoàng phong tước cho Francis Drake sau chuyến thám hiểm vòng quanh thế giới từ năm 1577 đến 1580, và sau những cuộc đột kích của ông nhắm vào những hải cảng và hạm đội của Tây Ban Nha. Triều đại của bà cũng chứng kiến việc thành lập những đồn điền đầu tiên trên những vùng đất mới ở châu Mỹ, và khu thuộc địa Virginia được đặt tên để vinh danh nữ hoàng. Dù vậy, những vụ cướp biển và những vụ làm ăn bất chính của những tay phiêu lưu trên biển vẫn diễn ra ngoài vòng kiểm soát của triều đình[43][44].Elizabeth phê chuẩn Hiệp ước Cateau-Cambresis năm 1559, mang lại hòa bình cho hai nước Anh và Pháp. Bà ủng hộ nguyên tắc "Nước Anh của người Anh". Tuy nhiên, một lãnh thổ dưới quyền cai trị của bà là Ireland không chấp nhận nguyên tắc này.
Mary của Scotland
Elizabeth có một đối thủ nguy hiểm là một người em họ, một giáo dân Công giáo, Mary Stuart, Nữ hoàng Scotland và là vợ của Vua nước Pháp, François II. Năm 1559, với sự ủng hộ của nước Pháp, Mary tuyên bố là Nữ hoàng Anh. Chính sách ban đầu của Elizabeth đối với Scotland là chống lại sự hiện diện của người Pháp ở đây[45] do lo ngại âm mưu của người Pháp xâm lăng nước Anh và đặt Mary, Nữ hoàng Scotland lên ngai báu Anh Quốc[46]. Elizabeth gởi quân đến Scotland hỗ trợ những người Kháng Cách chống đối. Tháng 7 năm 1560, Hiệp ước Edinburg được ký kết giúp giải tỏa mối đe dọa của người Pháp từ phía bắc[47]. Năm 1561, khi Mary quay trở lại Scotland để cầm quyền thì giáo hội Kháng Cách đã có vị trí vững chắc ở đây, và đất nước được cai trị bởi một hội đồng các nhà quý tộc Kháng Cách được Elizabeth hậu thuẫn[48]. Mary từ chối phê chuẩn hiệp ước[49].Năm 1565, Mary kết hôn với Huân tước Darnley, người tuyên bố quyền kế thừa ngai vàng nước Anh. Tuy vậy, cuộc hôn nhân là điểm khởi đầu một chuỗi những sai lầm khiến Mary mất quyền kiểm soát vào tay những người Kháng Cách Scotland và Elizabeth. Darnley bị mất lòng dân và mang tiếng xấu khi xử lý vụ án mạng David Rizzio, một thư ký người Ý của Mary. Tháng 2 năm 1567, Darnley bị James Hepburn, Bá tước xứ Bothwell giết chết. Tháng 5 năm 1657, Mary kết hôn với Bothwell, dấy lên những nghi ngờ cho rằng nữ hoàng đồng mưu giết chồng.
Những sự kiện này mau chóng làm sụp đổ uy tín chính trị của Mary và dẫn đến việc bà bị giam cầm tại Lâu đài Loch Leven. Giới quý tộc Scotland buộc Mary thoái vị và lập con trai của bà, James, kế vị. James sinh năm 1566, được giáo dưỡng trong niềm tin Kháng Cách. Mary trốn thoát khỏi Loch Leven năm 1568, băng qua biên giới để vào nước Anh. Mary bị giam giữ tại đây trong 19 năm[50].
Năm 1569, những người chủ mưu vụ Nổi dậy ở phương Bắc âm mưu giải thoát Mary và lập kế hoạch cho bà kết hôn với Thomas Howard, Công tước xứ Norfork. Elizabeth cho bắt giam Howard. Năm 1570, xảy ra vụ mưu phản do Ridolfi cầm đầu nhằm ám sát Elizabeth để tôn Mary lên ngôi. Đến năm 1586 xảy ra vụ mưu phản Babington. Lúc đầu, Elizabeth chống lại chủ trương xử tử hình Mary, nhưng đến cuối năm nữ hoàng chịu nhượng bộ trước áp lực của triều thần. Ngày 8 tháng 2 năm 1587, Mary bị chém đầu tại Lâu đài Fotheringhay, Northamptonshire[51].
Tây Ban Nha
Sau những thất bại thảm hại trong vụ Le Havre từ năm 1562-1563, Elizabeth chống lại việc mở các cuộc viễn chinh nhắm vào lục địa Âu châu mãi cho đến năm 1585, khi nữ hoàng cử một đạo quân đến hỗ trợ lực lượng phiến quân Kháng Cách tại Hà Lan đang chống lại vua Tây Ban Nha Felipe II. Sau khi những đồng minh của Elizabeth, Hoàng thân Guillaume I của Orange-Nassau, và François (Công tước Anjou) từ trần, và một loạt các thị trấn Hà Lan chịu thần phục Alexander Farnese Công tước xứ Parma, Thống đốc Hà Lan thuộc Tây Ban Nha. Tháng 12 năm 1584, liên minh giữa Felipe II và Liên đoàn Công giáo Pháp tại Joinville làm xói mòn sức mạnh của Henri III của Pháp, em của Anjou, trong nỗ lực chống lại quyền thống trị của Tây Ban Nha tại Hà Lan. Nó cũng mở rộng ảnh hưởng của Tây Ban Nha dọc theo Eo biển Manche trên đất Pháp và trở thành mối đe dọa đối với nước Anh[41]. Tháng 8 năm 1585, Anh và Hà Lan phản ứng bằng cách ký kết Hiệp ước Nonsuch, theo đó Elizabeth cam kết hỗ trợ quân sự cho Hà Lan. Hiệp ước này đánh dấu sự bùng nổ Chiến tranh Anh-Tây Ban Nha, kéo dài đến năm 1604 khi Hiệp ước Luân Đôn được ký kết.Năm 1586, Sir Francis Drake bắt đầu tập kích các tàu buôn Tây Ban Nha trên Thái Bình Dương và vùng biển Caribbean, và mở một cuộc tấn công dữ dội vào cảng Cadiz.
Cuộc viễn chính dưới quyền chỉ huy của Robert Dudley, Bá tước xứ Leicester, là một thất bại[52]. Thiếu hụt tiền và binh lính cộng với sự bất tài của Dudley đã làm hỏng chiến dịch. Đến tháng 12 năm 1587, Dudley phải từ nhiệm và vua Felipe II quyết định tiến chiếm nước Anh[53]
Ngày 12 tháng 7 năm 1588, Armada Tây Ban Nha, hạm đội lừng danh và là sức mạnh thống trị trên mặt biển của Đế quốc Tây Ban Nha, giong buồm đến eo biển, chuẩn bị cho cuộc xâm lăng trong kế hoạch phối hợp với đạo quân tinh nhuệ của Công tước xứ Parma, từ Hà Lan tiến đánh vào bờ biển đông nam nước Anh. Nhờ thời tiết thuận lợi, với các tàu chiến nhỏ nhưng cơ động, cùng những tin tức tình báo gởi đi từ Hà Lan, hải quân Anh chuẩn bị sẵn sàng đối đầu Armada Tây Ban Nha với các tàu chiến lớn và trang bị hỏa lực mạnh. Do tính toán sai[54], thiếu may mắn và bị những con tàu lửa (những chiếc thuyền chất đầy vật liệu bắt lửa, phóng hỏa và lao vào hạm đội địch) của Anh tấn công. Mặt khác, vào ngày 1 tháng 8, các tàu chiến của Tây Ban Nha cắm neo trong hải cảng Graville bị đánh bạt lên phía đông bắc, Armada bị đánh bại. Hạm đội bị đánh tan tác quay về Tây Ban Nha sau khi gánh chịu những thiệt hại nặng nề gây ra bởi những cơn bão dữ trên biển Ireland[55].
Ngày 9 tháng 8 lịch Julius (tức ngày 19 tháng 8 theo lịch Gregory)[56], Elizabeth đến thị sát quân binh trú đóng tại Tilbury ở Essex. Mang một áo giáp che ngực bằng bạc bên ngoài chiếc áo dài màu trắng, nữ hoàng đã đọc một trong những bài diễn văn nổi tiếng nhất của mình[57]:
“ |
Trẫm vẫn thường được khuyến cáo hãy cẩn thận giữ mình khi đến giữa
hàng quân có vũ trang, vì e ngại những âm mưu bội phản; nhưng trẫm đảm
bảo rằng trẫm không hề muốn sống mà không tin tưởng thần dân trung thành
và đáng yêu của trẫm. Chỉ có những bạo chúa mới lo sợ như thế... Trẫm biết rằng mình chỉ là một phụ nữ yếu đuối; nhưng là một phụ nữ có trái tim và lòng gan dạ của một quân vương, của một vua chúa nước Anh, dám coi thường cả Parma[58] và Tây Ban Nha, hoặc bất kỳ vua chúa châu Âu nào muốn xâm lăng bờ cõi của trẫm...[59] |
” |
Pháp
Khi Henri IV, một tín hữu Kháng Cách, lên ngôi báu năm 1589, Elizabeth điều quân đến hỗ trợ tân vương. Quyền kế thừa của Henri bị thách thức bởi Liên minh Công giáo và Felipe II, do đó Elizabeth e rằng Tây Ban Nha sẽ chiếm đóng các hải cảng dọc eo biển, song các chiến dịch của Anh tiến hành trên đất Pháp lại tổ chức kém và thiếu hiệu quả[60]. Huân tước Willoughby, hầu như chẳng quan tâm đến các mệnh lệnh của nữ hoàng, xua 4.000 quân lên phương bắc mà chẳng thu được kết quả nào. Tháng 12 năm 1589, quân Anh phải triệt thoái trong hỗn loạn, thiệt hại một nửa quân số. Năm 1591, John Norreys dẫn 3.000 quân tiến đến Bretagne để chuốc lấy thất bại thảm hại[61].Trong các cuộc viễn chinh, Elizabeth không muốn đáp ứng yêu cầu của các tư lệnh mặt trận khi họ cần thêm quân dụng và viện binh. Norreys phải đích thân về Luân Đôn để cầu viện, khi ấy quân đội của Liên minh Công giáo tiến đến tàn sát binh lính của ông tại Craon, phía tây bắc nước Pháp, vào tháng 5 năm 1591. Tháng 7, Elizabeth gởi một đạo quân khác dưới quyền chỉ huy của Robert Devereux, Bá tước xứ Essex, đến giúp Henri IV vây hãm thành Rouen. Lại thêm một thất bại: Devereux chẳng làm được gì và phải trở về vào tháng 1 năm 1592[62]. Thông thường, Elizabeth không kiểm soát được các tư lệnh một khi họ đem quân ra nước ngoài. "Ông ta ở đâu, làm gì, hoặc sẽ làm gì, trẫm không hề hay biết." Elizabeth viết như thế về Devereux[63].
Ireland
Mặc dù Ireland là một trong hai vương quốc của Elizabeth, bà phải đối diện với sự thù nghịch ở đây – trong những khu vực được dành quyền tự trị - [64] ở đó cư dân Công giáo ủng hộ kẻ thù của nữ hoàng. Chính sách của Elizabeth là ban đất cho các cận thần và ngăn chặn những người chống đối thiết lập hậu cứ cho Tây Ban Nha tấn công nước Anh[40]. Để đáp trả các cuộc nổi dậy liên tiếp, quân Anh áp dụng chiến thuật đốt phá và tàn sát đàn ông, phụ nữ và trẻ em. Năm 1582, trong cuộc nổi dậy ở Munster của Gerald FitzGerald, Bá tước xứ Desmond, ước tính có khoảng 30.000 người Ireland bị bỏ đói cho đến chết.Từ năm 1594 đến 1603 là giai đoạn khó khăn nhất khi xảy ra cuộc nổi dậy gọi là Loạn Tyrone, hay Cuộc chiến Chín năm do Hugh O’Neill, Bá tước xứ Tyrone lãnh đạo với sự hậu thuẫn của Tây Ban Nha[65]. Mùa xuân năm 1599, Elizabeth sai Robert Devereux, Bá tước xứ Essex, đến dẹp loạn, nhưng ông này không làm được gì mà còn tự ý bỏ về. Charles Blount, Huân tước Mountjoy, được cử đến thay thế Devereux, phải mất ba năm mới đánh bại quân phiến loạn. Năm 1603, O’Neill chịu đầu hàng, chỉ ít ngày sau khi Elizabeth qua đời[66].
Cuối đời
Hình ảnh của Elizabeth thay đổi theo tuổi tác và khi cuộc sống độc thân được khẳng định. Nữ hoàng được miêu tả như là Belphoebe hay Astraea, sau chiến thắng Armada, là Gloriana, còn trong thi ca của Edmund Spencer, là Faerie Queene, nữ hoàng muôn đời tươi trẻ. Các bức họa chân dung của nữ hoàng ngày càng trở nên siêu thực và nữ hoàng trở thành một hình tượng bí ẩn trông trẻ trung hơn thực tế rất nhiều. Trong thực tế, da mặt nữ hoàng bị rỗ hoa do mắc bệnh đậu mùa năm 1562, bà bị hói đầu nên phụ thuộc vào tóc giả và mỹ phẩm[67][68].Giai đoạn sau chiến thắng Armada năm 1588 là những năm khó khăn kéo dài cho đến lúc kết thúc triều đại Elizabeth[69]. Tranh chấp với Tây Ban Nha và Ireland cứ dai dẳng, gánh nặng thuế má càng nặng hơn, thêm vào đó là thất mùa và chi phí chiến tranh. Vật giá càng leo thang mức sống càng xuống thấp[70][71]. Trong khi đó, các biện pháp trấn áp người Công giáo được tăng cường, đến năm 1591, Elizabeth cho phép thẩm vấn và lục soát nhà ở người Công giáo[72]. Elizabeth ngày càng phụ thuộc vào các phương tiện tuyên truyền để nuôi dưỡng trong dân chúng ảo tưởng về một đất nước an bình và thịnh vượng[70]. Trong những năm cuối, sự chỉ trích gia tăng phản ánh sự bất bình của thần dân đối với nữ hoàng[73].
Tuy nhiên, đây chính là thời kỳ hoàng kim của văn học Anh[74]. Những dấu hiệu đầu tiên của phong trào văn học mới khởi phát vào cuối thập niên thứ hai của triều đại Elizabeth với "Euphues" của John Lyly, và "The Shepheardes Calender" của Edmund Spencer trong năm 1578. Trong thập niên 1590, một số trong những tài năng lớn nhất của nền văn học Anh đến độ chín mùi, trong đó có William Shakespeare và Christopher Marlowe. Cùng với thời kỳ Jacobe kế tiếp, nền kịch nghệ Anh đạt đến đỉnh điểm của mình[75]. Khái niệm về thời đại Elizabeth huy hoàng được xây dựng bởi những tên tuổi trong các lãnh vực kiến trúc, kịch nghệ, thi ca và âm nhạc.
Ngày 4 tháng 8 năm 1598, cố vấn thân cận nhất của Elizabeth, Nam tước Burghley, từ trần. Con trai của ông, Robert Cecil, được chọn làm người thay thế, sau đó trở thành người lãnh đạo chính phủ[76]. Một trong những nhiệm vụ của Cecil là chuẩn bị cho một tiến trình chuyển giao quyền lực êm thắm. Do Elizabeth không công khai chọn người kế nhiệm nên Cecil phải làm việc trong bí mật[77]. Cecil thương thảo riêng với vua James VI của Scotland, người thừa kế hợp pháp nhưng không được công nhận. Theo lời khuyên của Cecil, James cố làm Elizabeth khuây khỏa và "chiếm được cảm tình của bậc chí tôn". Theo sử gia J. E. Neale, dù không công khai tuyên bố truyền ngôi cho James, quần thần đều biết ý định này của nữ hoàng[78].
Sức khỏe của Elizabeth vẫn tốt cho đến mùa thu năm 1602, một loạt những cái chết của bạn hữu khiến nữ hoàng rơi vào tình trạng trầm cảm nghiêm trọng. Tháng 2 năm 1603, cô em họ cũng là người bạn thân tín, Catherine Carey, Nữ Công tước xứ Nottingham, qua đời; đây là cú sốc đối với nữ hoàng. Tháng 3, Elizabeth ngã bệnh và vùi mình trong "nỗi sầu khổ khôn nguôi"[79]. Elizabeth mất ngày 24 tháng 3 năm 1603 tại Lâu đài Richmond, khoảng giữa hai giờ và ba giờ sáng. Vài giờ sau, Cecil và hội đồng công bố James Stuart của Scotland trở thành vua James I của Anh[80].
Quan tài của Elizabeth được mang đi ngay trong đêm trên thuyền rồng đến Lâu đài Whitehall. Trong tang lễ tổ chức vào ngày 28 tháng 4, quan tài của nữ hoàng, phủ bằng nhung tím, được đưa đến Điện Westminster trên xe tang bốn ngựa kéo. Ghi chép của nhà viết sử John Stow:
“ | Westminster bao phủ đầy người thuộc mọi tầng lớp, tràn ngập đường phố, các ngôi nhà, mọi cửa sổ, trên mái nhà, tập hợp tại đây để dự tang lễ. Khi đám đông nhìn thấy tượng nữ hoàng trên quan tài, liền vang lên tiếng thở dài, rên rỉ, than khóc như chưa từng xảy ra bao giờ[81] | ” |
Di sản
Dù than khóc tiếc thương, dân chúng cảm thấy nhẹ nhõm khi nữ hoàng qua đời.[82] Sự xuất hiện một thế hệ lãnh đạo mới mang đến những tín hiệu tốt ban đầu với nỗ lực kết thúc cuộc chiến chống Tây Ban Nha năm 1604 và cắt giảm thuế. Mãi cho đến năm 1612 khi Robert Cecil qua đời, chính sách của triều đình không có nhiều thay đổi so với trước đây.[83] Tuy vậy, triều đại James I không được lòng dân khi nhà vua giao trọng trách cho những người thân tín; đến thập niên 1620, dân chúng bắt đầu nhớ về Elizabeth với sự tiếc nuối.[84] Nữ hoàng được tôn vinh như là một nữ anh hùng đấu tranh cho chính nghĩa Kháng Cách và là nhà lãnh đạo một thời kỳ hoàng kim, trong khi họ xem James là người ủng hộ Công giáo, dưới tay là đám triều thần thối nát.[85] Trong những năm cuối đời, hình ảnh huy hoàng của Elizabeth được tô điểm rực rỡ hơn, những khó khăn kinh tế, quân sự và tình trạng phân hóa được xem là những vấn nạn nhất thời và thanh danh của nữ hoàng càng lên cao. Triều đại Elizabeth được lý tưởng hóa để trở thành một thời kỳ mà hoàng gia, giáo hội và quốc hội hoạt động hài hòa trong sự cân bằng quyền lực được qui định bởi hiến pháp.[86]Hình tượng của Elizabeth được miêu tả bởi những người Kháng Cách ngưỡng mộ bà từ thế kỷ 17 gây nhiều ảnh hưởng và có giá trị lâu dài.[87] Ký ức về nữ hoàng trở nên sống động khi xảy ra chiến tranh chống Napoleon, lúc ấy nước Anh đang cận kề họa ngoại xâm.[88] Trong thời kỳ Victoria, huyền thoại Elizabeth hội nhập dễ dàng vào ý thức hệ của đế chế.[82][89] Đến giữa thế kỷ 20, Elizabeth trở nên biểu tượng lãng mạn cho tinh thần dân tộc chống lại hiểm họa ngoại bang.[90][91] Các sử gia trong giai đoạn này như J. E. Neale (1934), và A. L. Rowse (1950) xem triều đại Elizabeth là thời kỳ hoàng kim của sự tiến bộ.[92]
Tuy nhiên, các sử gia hiện đại có quan điểm nghiêm khắc hơn về Elizabeth.[93]. Sự kiện nổi bật nhất trong thời trị vì của bà là chiến tích đánh bại Armada, và những cuộc tập kích nhắm vào người Tây Ban Nha như vụ Cádiz trong năm 1578 và 1596, song một số sử gia cũng chỉ ra những thất bại quân sự trên bờ cũng như trên mặt biển như vụ "Island voyage" năm 1597.[60] Cung cách Elizabeth giải quyết các vấn đề ở Ireland là một vết ố trên bảng thành tích của bà.[94] Do thiếu quyết đoán trong chính sách đối ngoại, khó có thể xem Elizabeth là một quân vương dũng cảm đứng ra bảo vệ các quốc gia Kháng Cách chống lại Tây Ban Nha và nhà Habsburg. Thường khi nữ hoàng chỉ cung ứng sự trợ giúp tối thiểu cho các lân bang Kháng Cách, và không chịu cấp tiền đầy đủ cho các tướng lĩnh hầu có thể thay đổi tình hình ở hải ngoại.[95]
Việc Elizabeth thiết lập giáo hội Anh đã giúp định hình bản sắc dân tộc cho nước Anh cho đến ngày nay.[96][97][98] Song, những người tôn vinh bà như là người anh hùng của chính nghĩa Kháng Cách đã bỏ qua sự kiện nữ hoàng từ chối bác bỏ tất cả nghi thức Công giáo.[99][100] Các sử gia cũng ghi nhận rằng lúc ấy các tín hữu Kháng Cách sùng tín xem Đạo luật Settlement and Uniformity năm 1559 của nữ hoàng là một sự thỏa hiệp.[101][102][103] Thật vậy, Elizabeth xem đức tin là một vấn đề cá nhân, và không muốn, theo cách nói của Francis Bacon, "thâm nhập vào lòng và tư tưởng thầm kín của người khác".[104][105]
Dù chủ trương phòng thủ trong chính sách ngoại giao, triều đại Elizabeth chứng kiến sự thăng tiến vượt bật của nước Anh trên trường quốc tế. Giáo hoàng Sixtus V nhận xét về bà với sự kinh ngạc, "[Elizabeth] chỉ là một phụ nữ, bà chủ trên một nửa hòn đảo, nhưng đã làm Tây Ban Nha, Pháp, [Thánh chế La Mã], và mọi người khiếp sợ".[106] Trong thời trị vì của nữ hoàng, nước Anh giành được lòng tự tin và quyền tự quyết trong khi cả thế giới Cơ Đốc giáo đang bị phân hóa.[84][107][108] Elizabeth là người đầu tiên trong dòng họ Tudor thừa nhận rằng một quân vương chỉ có thể cai trị đất nước với sự đồng thuận của người dân.[109] Do đó, nữ hoàng luôn hợp tác với quốc hội và các cố vấn là những người bà tin là dám nói lên sự thật – nghệ thuật trị nước mà những quân vương thuộc dòng họ Stuart đã không chịu học hỏi. Trong khi một số sử gia cho rằng bà là người may mắn,[106] Elizabeth tin rằng bà được Thiên Chúa phù trợ.[110] Tự hào là một người Anh,[111] Nữ hoàng tin rằng Thiên Chúa, những lời khuyên chân tình, và tình yêu thần dân dành cho bà là những nhân tố xây đắp sự thành công của triều đại Elizabeth.[112] Trong một lần cầu nguyện, Elizabeth dâng lời tạ ơn Thiên Chúa:
“ |
Trong lúc chiến tranh và bạo loạn cùng sự ngược đãi luôn quấy nhiễu
các vua chúa và các lân bang, thì triều đại tôi vui hưởng thái bình, và
bờ cõi tôi là nơi ẩn náu cho hội thánh của Chúa. Tình yêu sắt son thần
dân dành cho tôi khiến kẻ thù của tôi vỡ mộng.[106] |
” |
Hình ảnh Elizabeth I trong văn hóa
Trải qua bốn thế kỷ, Nữ hoàng Elizabeth I là nguồn cảm hứng cho nhiều tác phẩm văn học nghệ thuật.Hội họa, văn học, kịch nghệ, và âm nhạc
- Những bài viết của chính Elizabeth với số lượng đáng kể, được Nhà xuất bản Đại học Chicago sưu tập và ấn hành dưới tựa đề Elizabeth I: Collected Works.
- Trong Portraiture of Elizabeth I, những bức chân dung của nữ hoàng với trang phục sang trọng.
- Trong vở King Henry VIII của William Shakespeare có cảnh thông báo sự ra đời của Elizabeth cũng như cảnh cô chịu lễ rửa tội.
- Biệt danh "The Faerie Queen" của Elizabeth đến từ thiên sử thi cùng tên của Edmund Spenser.
- Elizabeth là nhân vật chnhs trong vở kịch Mary Stuart của Friedrich Schiller (1800).
- Elizabeth cũng xuất hiện trong cuốn tiểu thuyết Kenilworth của Sir Walter Scott.
- Cô thiếu nữ Elizabeth có mặt trong The Prince and the Pauper của Mark Twain.
- Nhà soạn kịch người Mỹ và là khôi nguyên Giải Pulitzer Maxwell Anderson trình bày cuộc đời Elizabeth trong hai vở kịch nổi tiếng nhất của ông, Elizabeth the Queen (1930), và Mary of Scotland (1933).
- Margaret Irwin viết ba cuốn tiểu thuyết về tuổi trẻ của Elizabeth: Young Bess (1945), Elizabeth, Captive Princess (1950), và Elizabeth and the Prince of Spain (1953).
- Mary M. Luke cũng viết một ba cuốn về Nhà Tudor: Catherine the Queen (1968), A Crown for Elizabeth (1970), và Gloriana: The Years of Elizabeth I (1973).
- All the Queen’s Men của Evelyn Anthony (1960).
- No Great Magi của Fritz Leiber (1963).
- Vivat! Vivat Regina! của Robert Bolt (1970)
- The Queen and the Gypsy của Constance Heaven (1977)
- My Enemy the Queen của Victoria Holt (1978)
- Queen of This Realm của Jean Plaidy (1984)
- Legacy của Susan Kay (1985)
- Much Suspected of Me của Maureen Peters (1991)
- I, Elizabeth của Rosalind Miles (1994).
- To Shield the Queen, một bộ tám cuốn nói về Ursula Blanchard, một tùy tùng của Elizabeth, của Fiona Buckley (1997–2006).
- Elizabeth I, Red Rose of the House of Tudor của Kathryn Lasky, viết cho thiếu nhi (1999).
- Một bộ chín cuốn tiểu thuyết: The Poyson Garden (2000), The Tidal Poole (2000), The Twylight Tower (2002), The Queene's Cure (2003), The Thorne Maze (2003), The Queene's Christmas (2004), The Fyre Mirror (2006), The Fatal Fashione (2006), và The Hooded Hawke (2007) của Karen Harper.
- Beware, Princess Elizabeth, tiểu thuyết cho trẻ em của Carolyn Meyer (2001).
- Robin Maxwell viết ba cuốn tiểu thuyết về Elizabeth: Virgin: Prelude to the Throne (2001), The Secret Diary of Anne Boleyn, và The Queen's Bastard (1999).
- Trong sáu cuốn sách của Philippa Gregory viết về Nhà Tudor, có năm cuốn viết về Elizabeth: The Other Boleyn Girl (2001), The Boleyn Inheritance (2006), The Queen's Fool (2003), The Virgin's Lover (2004), và "The Other Queen" (2008).
- Queen Elizabeth I: A Children's Picture Book của Richard Brassey (2005)
- Queen Elizabeth I and Her Conquests của Margret Simpson (2006)
- The Lady Elizabeth (2008) của Alison Weir.
- Elizabeth the Queen, kịch của Maxwell Anderson
- Elizabeth Rex, kịch của Timothy Findley (2000)
- Elizabeth I (2011) tiểu thuyết của Margaret George.
Opera
- Henry Purcell wrote a 1692 semi-opera The Fairy-Queen, an adaptation of Shakespeare's A Midsummer Night's Dream. One of Elizabeth's nicknames was "The Faerie Queen", after the poem in her honour by Edmund Spenser.
- Gioacchino Rossini wrote his first Neapolitan opera on the subject of Elizabeth I, Elisabetta, regina d'Inghilterra, in 1814–15, ultimately based on a three-volume Gothic romance novel, The Recess, by Sophia Lee.
- Elizabeth appears in three operas by Gaetano Donizetti, Il castello di Kenilworth (1829) after Walter Scott, Maria Stuarda (1834), based loosely on Schiller's play; and Roberto Devereux (1837) about her affair with the Earl of Essex.
- Benjamin Britten wrote an opera, Gloriana, about the relationship between Elizabeth and Essex, composed for the 1953 coronation of Elizabeth II.
Kịch, Điện ảnh, và Truyền hình
Hình tượng Elizabeth xuất hiện nhiều trên sân khấu kịch, trong phim điện ảnh và truyền hình. Thật vậy, bà là quân vương nước Anh được làm phim nhiều nhất.[113][114] George MacDonald Fraser wrote "no historic figure has been represented more honestly in the cinema, or better served by her players".[115]Kịch
- Lynn Fontanne trong Elizabeth the Queen, - 1930; kịch của Maxwell Anderson
- Diane D'Aquila trong Elizabeth Rex, - 2000 kịch của Timothy Findley
- Stephanie Barton-Farcas trong Elizabeth Rex, - 2008;[116]
Điện ảnh
Trong điện ảnh, các diễn viên sau từng đóng vai Elizabeth:- Sarah Bernhardt trong phim câm của Pháp Les Amours de la reine Élisabeth (1912), về mối tình của Elizabeth với Bá tước Essex
- Gladys Ffolliott trong phim câm của Anh, Old Bill Through the Ages (1924)
- Athene Seyler trong Drake of England (1935)
- Florence Eldridge trong Mary of Scotland (1936), chuyển thể từ một vở kịch của Maxwell Anderson với Katharine Hepburn trong vai Mary, Nữ hoàng Scots
- Gwendolyn Jones trong The Prince and the Pauper (1937)
- Yvette Pienne trong phim Pháp Pearls of the Crown (1937)
- Flora Robson trong Fire Over England (1937) và The Sea Hawk (1940)
- Bette Davis trong The Private Lives of Elizabeth and Essex (1939) và The Virgin Queen (1955)
- Maria Koppenhöfer trong phim Đức Das Herz der Königin (1940), về Mary, Nữ hoàng Scots
- Olga Lindo trong phim Anh Time Flies (1944)
- Jean Simmons trong Young Bess (1953)
- Agnes Moorehead trong The Story of Mankind (1957)
- Irene Worth trong Seven Seas to Calais (1962)
- Catherine Lacey trong The Fighting Prince of Donegal (1966)
- Glenda Jackson trong bộ phim Elizabeth R (1971) của BBC, và trong Mary, Nữ hoàng Scotland (1971), với Vanessa Redgrave trong vai Mary
- Jenny Runacre trong phim Jubilee của Derek Jarman (1977)
- Lalla Ward trong phim Crossed Swords (1977), chuyển thể từ The Prince and the Pauper
- Quentin Crisp trong phim Orlando (1992)
- Cate Blanchett trong phim Elizabeth (1998) và Elizabeth: The Golden Age (2007), với cả hai phim này, Cate Blanchett đều được đề cử Giải Oscar cho diễn viên chính hay nhất.
- Judi Dench trong phim Shakespeare in Love (1998), Judi Dench được trao giải Oscar cho vai phụ hay nhất.
- Helen Mirren trong bộ phim truyền hình Elizabeth I (2005).
- Vanessa Redgrave và Joely Richardson đóng vai Elizabeth trong phim Anonymous (2011)
Truyền hình
Trên truyền hình, vai Elizabeth được giao cho:- Dorothy Black trong The Dark Lady of the Sonnets (1946) trên đài BBC.
- Mildred Natwick trong Mary of Scotland (1951), chuyển thể từ một vở kịch của Maxwell Anderson
- Maxine Audley trong bộ phim Kenilworth (1957) của BBC, chuyển thể từ tiểu thuyết của Scott
- Peggy Thorpe-Bates bộ phim Queen's Champion (1958) của BBC.
- Mecha Ortiz trong Elizabeth Is Dead (1960)
- Jane Wenham trong bộ phim An Age of Kings (1960) của BBC,
- Jean Kent trong bộ phim phiêu lưu của Anh Sir Francis Drake (1961)
- Katya Douglas trong The Prince and the Pauper (1962),
- Susan Engel trong bộ phim The Queen's Traitor (1967) của BBC, về âm mưu của Ridolfi
- Judith Anderson trong phim Elizabeth the Queen (1968), chuyển thể từ một vở kịch của Maxwell Anderson. Judith Anderson được đề cử Giải Emmy nhờ phim này.
- Gemma Jones trong bộ phim Kenilworth (1968) của BBC, chuyể thể từ tiểu thuyết của Scott
- Glenda Jackson trong bộ phim Elizabeth R (1971) của BBC, Glenda Jackson đoạt hai Giải Emmy nhờ bộ phim này.
- Josephine Barstow trong Gloriana (2000)
- Imogen Slaughter trong phim tài liệu Elizabeth (2000)
- Lorna Lacey trong bộ phim Henry VIII (2003) của Granada Television
- Catherine McCormack trong bộ phim Gunpowder, Treason & Plot (2004) của BBC
- Anne-Marie Duff trong bộ phim The Virgin Queen (2005) của BBC
- Helen Mirren trong bộ phim Elizabeth I (2005), Helen Mirren được trao giải Emmy
Phả hệ
[hiện]Phả hệ của Elizabeth I |
---|
Xem thêm
Chú thích
- ^ Elizabeth I chưa bao giờ kết hôn
- ^ "I mean to direct all my actions by good advice and counsel." Elizabeth's first speech as queen, Hatfield House, 20 November 1558. Loades, 35.
- ^ a ă Starkey, 5.
- ^ Neale, 386.
- ^ In 1593, the French ambassador confessed: "When I see her enraged against any person whatever, I wish myself in Calcutta, fearing her anger like death itself". Somerset, 731–32.
- ^ Somerset, 729.
- ^ Somerset, 4.
- ^ Loades, 3–5
- ^ Somerset, 4–5.
- ^ Loades, 6–7.
- ^ Haigh, 1–3.
- ^ a ă In the act of July 1536, it was stated that Elizabeth was "illegitimate... and utterly foreclosed, excluded and banned to claim, challenge, or demand any inheritance as lawful heir...to [the King] by lineal descent". Somerset, 10.
- ^ Our knowledge of Elizabeth’s schooling and precocity comes largely from the memoirs of Roger Ascham, also the tutor of Prince Edward. Loades, 8–10.
- ^ Somerset, 25.
- ^ Davenport, 32.
- ^ Loades, 24–25.
- ^ Elizabeth had assembled 2,000 horsemen, "a remarkable tribute to the size of her affinity". Loades 25.
- ^ Loades, 26.
- ^ Loades, 27.
- ^ Somerset, 49.
- ^ Loades, 29.
- ^ "The wives of Wycombe passed cake and wafers to her until her litter became so burdened that she had to beg them to stop." Neale, 49.
- ^ a ă Somerset, 89–90. The "Festival Book" account, from the British Library
- ^ Full document reproduced by Loades, 36–37.
- ^ Neale, 70.
- ^ Somerset, 92.
- ^ a ă Loades, 46.
- ^ "It was fortunate that ten out of twenty-six bishoprics were vacant, for of late there had been a high rate of mortality among the episcopate, and a fever had conveniently carried off Mary's Archbishop of Canterbury, Reginald Pole, less than twenty-four hours after her own death". Somerset, 98.
- ^ "There were no less than ten sees unrepresented through death or illness and the carelessness of 'the accursed cardinal' [Pole]". Black, 10.
- ^ Somerset, 101–103.
- ^ POPE PIUS V'S BULL AGAINST ELIZABETH (1570)
- ^ Hogge, 46–47.
- ^ Loades, 39.
- ^ Trong tháng 4 năm 1559, có báo cáo là Amy bị "một căn bệnh trong một bộ ngực của cô" và được phỏng đoán là bà bị ung thư. Vào thời điểm đó, nhiều người tin rằng Dudley đã bỏ bà để kết hôn với nữ hoàng (In April 1559, Amy had been reported as suffering from a "malady in one of her breasts", and it is now presumed that she had cancer. At the time, it was widely believed that Dudley had done away with her in order to marry the queen). Somerset, 166–167.
- ^ a ă Haigh, 17.
- ^ Loades, 40.
- ^ Khi vào năm 1566 một ủy ban quốc hội kêu gọi Elizabeth chỉ định một người thừa kế, bà đề cập đến việc "một người thứ hai, như là tôi trước đây" đã được sử dụng như là trọng điểm của âm mưu chống lại chị gái mình, nữ hoàng Mary I (When in 1566 a parliamentary commission urged Elizabeth to name an heir, she referred to the way "a second person, as I have been" had been used as the focus of plots against her sister, Queen Mary). Haigh, 22–23.
- ^ Haigh, 23.
- ^ Frieda, 191.
- ^ a ă Loades, 55.
- ^ a ă Haigh, 135.
- ^ a ă Loades, 61.
- ^ Flynn and Spence, 126–128.
- ^ Somerset, 607–611.
- ^ Haigh, 131.
- ^ Mary's position as heir derived from her great grandfather Henry VII, through Henry VIII's sister Margaret Tudor. In her own words, "I am the nearest kinswoman she hath, being both of us of one house and stock, the Queen my good sister coming of the brother, and I of the sister". Guy, 115.
- ^ Theo điều khoản của Hiệp ước, cả Anh và Pháp đều rút quân khỏi Scotland. Haigh, 132.
- ^ Loades, 67.
- ^ Loades, 68.
- ^ Loades, 72–73.
- ^ Guy, 1–11.
- ^ Haigh, 134
- ^ a ă Haigh, 138.
- ^ Khi đô đốc hải quân Tây Ban Nha, Công tước Medina Sidonia, đến bờ biển gần Calais mới biết đạo quân của Công tước xứ Parma chưa sẵn sàng nên buộc phải hoãn binh, do đó tạo cơ hội cho quân Anh triển khai tấn công. Loades, 64.
- ^ a ă Neale, 300.
- ^ Diễn văn
- ^ Though most historians accept that Elizabeth gave such a speech, its authenticity has been questioned (Frye, The Myth of Elizabeth at Tilbury, 1992), since it was not published until 1654. Doran, 235–236.
- ^ Alexander Farnese (1545 – 1592), là Công tước xứ Parma và Piacenza từ 1586-1592, và Thống đốc Hà Lan thuộc Tây Ban Nha từ 1578 -1592. Parma thống lĩnh đạo quân tinh nhuệ trú đóng tại Hà Lan dự định phối hợp với Armada Tây Ban Nha tiến chiếm nước Anh trong kế hoạch xâm lăng Vương quốc Anh của Vua Felipe II trong năm 1588, nhưng thất bại.
- ^ Somerset, 591.
• Neale, 297–98. - ^ a ă Haigh, 142.
- ^ Haigh, 143.
- ^ Henry abandoned the siege in April. Haigh, 143.
- ^ Haigh, 143–144.
- ^ One observer wrote that Ulster, for example, was "as unknown to the English here as the most inland part of Virginia". Somerset, 667.
- ^ Loades, 98.
- ^ Loades, 98–99.
- ^ Loades, 92.
- ^ Gaunt, 37.
- ^ Black, 353.
- ^ a ă Haigh, 155.
- ^ Black, 355–356.
- ^ Black, 355.
- ^ This criticism of Elizabeth was noted by Elizabeth's early biographers William Camden and John Clapham. For a detailed account of such criticisms and of Elizabeth's "government by illusion", see chapter 8, "The Queen and the People", Haigh, 149–169.
- ^ Black, 239.
- ^ Black, 239–245.
- ^ After Essex's downfall, James VI of Scotland referred to Cecil as "king there in effect". Croft, 48.
- ^ Cecil wrote to James, "The subject itself is so perilous to touch amongst us as it setteth a mark upon his head forever that hatcheth such a bird". Willson, 154.
- ^ Neale, 385.
- ^ Black, 411.
- ^ Black, 410–411.
- ^ Weir, 486.
- ^ a ă Loades, 100.
- ^ Willson, 333.
- ^ a ă Somerset, 726.
- ^ Strong, 164.
- ^ Dobson and Watson, 257.
- ^ Haigh, 175, 182.
- ^ Dobson and Watson, 258.
- ^ The age of Elizabeth was redrawn as one of chivalry, epitomised by courtly encounters between the queen and sea-dog "heroes" such as Drake and Raleigh. Some Victorian narratives, such as Raleigh laying his cloak before the queen or presenting her with a potato, remain part of the myth. Dobson and Watson, 258.
- ^ Haigh, 175.
- ^ In his preface to the 1952 reprint of Queen Elizabeth I, J. E. Neale observed: "The book was written before such words as "ideological", "fifth column", and "cold war" became current; and it is perhaps as well that they are not there. But the ideas are present, as is the idea of romantic leadership of a nation in peril, because they were present in Elizabethan times".
- ^ Haigh, 182.
- ^ Haigh, 183.
- ^ Black, 408–409.
- ^ Haigh, 142–147, 174–177.
- ^ Loades, 46–50.
- ^ Weir, 487.
- ^ Hogge, 9–10.
- ^ The new state religion was condemned at the time in such terms as "a cloaked papistry, or mingle mangle". Somerset, 102.
- ^ "The problem with the 'Protestant heroine' image was that Elizabeth did not always live up to it. London Protestants were horrified in 1561 when they heard of the plan to get Spanish support for a Dudley marriage by offering concessions on religion, and it took Elizabeth almost a decade to re-establish her Protestant credentials." Haigh, 165.
- ^ Haigh, 45–46, 177.
- ^ Black, 14–15.
- ^ Collinson, 28–29.
- ^ Williams, 50.
- ^ Haigh, 42.
- ^ a ă â Somerset, 727.
- ^ Hogge, 9n.
- ^ Loades, 1.
- ^ As Elizabeth's Lord Keeper, Sir Nicholas Bacon, put it on her behalf to parliament in 1559, the queen "is not, nor ever meaneth to be, so wedded to her own will and fantasy that for the satisfaction thereof she will do anything...to bring any bondage or servitude to her people, or give any just occasion to them of any inward grudge whereby any tumults or stirs might arise as hath done of late days". Starkey, 7.
- ^ Somerset, 75–76.
- ^ Edwards, 205.
- ^ Starkey, 6–7.
- ^ FilmCrunch: Cate Blanchett to Reprise Royal Role
- ^ Famous People and their Lives: Queen Elizabeth I
- ^ Fraser, George MacDonald: The Hollywood History of the World, Fawcett, 1989, p. 69–70
- ^ Neil Genzlinger, NY Times review.Retrieved January 17, 2009
Tham khảo
- Black, J. B. The Reign of Elizabeth: 1558–1603. Oxford: Clarendon, (1936) 1945. OCLC 5077207
- Brimacombe, Peter. All the Queen's Men: The World of Elizabeth I. New York: St Martin's Press, 2000. ISBN 0312232519.
- Camden, William. History of the Most Renowned and Victorious Princess Elizabeth. Wallace T. MacCaffrey (ed). Chicago: University of Chicago Press, selected chapters, 1970 edition. OCLC 59210072.
- Clapham, John. Elizabeth of England. E. P. Read and Conyers Read (eds). Philadelphia: University of Pennsylvania Press, 1951. OCLC 1350639.
- Collinson, Patrick. "The Mongrel Religion of Elizabethan England." Elizabeth: The Exhibition at the National Maritime Museum. Susan Doran (ed.). London: Chatto and Windus, 2003. ISBN 0701174765.
- Croft, Pauline. King James. Basingstoke and New York: Palgrave Macmillan, 2003. ISBN 0333613953.
- Davenport, Cyril. English Embroidered Bookbindings. Alfred Pollard (ed.). London: Kegan Paul, Trench, Trübner and Co., 1899. OCLC 705685.
- Dobson, Michael; and Nicola Watson. "Elizabeth's Legacy". Elizabeth: The Exhibition at the National Maritime Museum. Susan Doran (ed.). London: Chatto and Windus, 2003. ISBN 0701174765.
- Doran, Susan. "The Queen's Suitors and the Problem of the Succession." Elizabeth: The Exhibition at the National Maritime Museum. Susan Doran (ed.). London: Chatto and Windus, 2003. ISBN 0701174765.
- Edwards, Philip. The Making of the Modern English State: 1460–1660. Basingstoke and New York: Palgrave Macmillan, 2004. ISBN 031223614X.
- Elizabeth I: The Collected Works Leah S. Marcus, Mary Beth Rose & Janel Mueller (eds.). Chicago: Chicago University Press, 2002. ISBN 0226504654.
- Elton, G.R. England under the Tudors. London: Routledge, 1991. ISBN 041506533X.
- Flynn, Sian; and David Spence. "Elizabeth's Adventurers". Elizabeth: The Exhibition at the National Maritime Museum. Susan Doran (ed.). London: Chatto and Windus, 2003. ISBN 0701174765.
- Frieda, Leonie. Catherine de Medici. London: Phoenix, 2005. ISBN 0173820390.
- Gaunt, William. Court Painting in England from Tudor to Victorian Times. London: Constable, 1980. ISBN 0094618704.
- Graves, Michael A. R. Elizabethan Parliaments: 1559–1601. London and New York: Longman, 1987. ISBN 0582355168.
- Guy, John. My Heart is My Own: The Life of Mary Queen of Scots. London and New York: Fourth Estate, 2004. ISBN 184115752X.
- Haigh, Christopher. Elizabeth I. Harlow (UK): Longman Pearson, (1988) 1998 edition. ISBN 0582437547.
- Hasler. P. W (ed). History of Parliament. House of Commons 1558–1603 (3 vols). London: Published for the History of Parliament Trust by H.M.S.O., 1981. ISBN 0118875019.
- Hogge, Alice. God's Secret Agents: Queen Elizabeth's Forbidden Priests and the Hatching of the Gunpowder Plot. London: HarperCollins, 2005. ISBN 0007156375.
- Loades, David. Elizabeth I: The Golden Reign of Gloriana. London: The National Archives, 2003. ISBN 1903365430.
- Neale, J.E. Queen Elizabeth I: A Biography. London: Jonathan Cape, (1934) 1954 reprint. OCLC 220518.
- Ridley, Jasper. Elizabeth I: The Shrewdness of Virtue. New York: Fromm International, 1989. ISBN 088064110X.
- Rowse, A. L. The England of Elizabeth. London: Macmillan, 1950. OCLC 181656553.
- Russell, Conrad. The Crisis of Parliaments: English History, 1509–1660. Oxford: Oxford University Press, 1971. ISBN 0199130345.
- Somerset, Anne. Elizabeth I. London: Phoenix, (1991) 1997 edition. ISBN 0385721579.
- Starkey, David. "Elizabeth: Woman, Monarch, Mission." Elizabeth: The Exhibition at the National Maritime Museum. Susan Doran (ed.). London: Chatto and Windus, 2003. ISBN 0701174765.
- Strong, Roy. Gloriana: The Portraits of Queen Elizabeth I. London: Pimlico, (1987) 2003. ISBN 071260944X.
- Waller, Maureen, "Sovereign Ladies: Sex, Sacrifice, and Power. The Six Reigning Queens of England." St. Martin's Press, New York, 2006. ISBN 0-312-33801-5
- Weir, Alison. Elizabeth the Queen. London: Pimlico, (1998) 1999 edition. ISBN 0712673121.
- Williams, Neville. The Life and Times of Elizabeth I. London: Weidenfeld & Nicolson, 1972. ISBN 0297831682.
- Willson, David Harris. King James VI & I. London: Jonathan Cape, (1956) 1963. ISBN 0224605720.
- Wilson, Charles H. Queen Elizabeth and the Revolt of the Netherlands. Berkeley: University of California Press, 1970. ISBN 0520017447.
- "Nữ hoàng băng giá" và những cuộc cầu hôn bất thành
- Nữ hoàng Elizabeth Đệ nhất: Để giữ mãi vị trí độc tôn
Xem thêm
Liên kết ngoài
Wikimedia Commons có thêm thể loại hình ảnh và phương tiện truyền tải về Elizabeth I của Anh |
Wikisource có văn bản gốc Anh ngữ liên quan với bài: |
- William Camden. Annales Rerum Gestarum Angliae et Hiberniae Regnante Elizabetha. (1615 and 1625.) Hypertext edition, with English translation. Dana F. Sutton (ed.), 2000. Retrieved 7 December 2007.
- Tudor and Elizabeth Portraits. Tudor and Elizabethan portraits and other works of art, provided for research and education. Retrieved 15 December 2007.
Elizabeth I của Anh
Sinh: 7 Tháng 9 1533 Mất: 24 Tháng 3 1603 |
||
Tước hiệu | ||
---|---|---|
Tiền vị: Mary I |
Nữ hoàng Anh Nữ hoàng Ireland 17 Tháng 11, 1558 – 24 tháng 3, 1603 |
Kế vị James I |
Hoàng gia Anh | ||
Tiền vị: Lady Mary Tudor |
Người thừa kế ngai vàng nước Anh như người kế thừa không chắc chắn Tháng 3, 1534 – 1536 |
Kế vị Edward, hoàng tử xứ Wales |
Tiền vị: Lady Catherine Grey |
Người thừa kế ngai vàng nước Anh và Ireland như là người kế thừa không chắc chắn 19 tháng 7, 1553 – 17 tháng 11, 1558 |
Trống ngôi
Không bao giờ chỉ định người thừa kế¹
Danh hiệu được kế thừa bởi
Henry Frederick, hoàng tử xứ Wales |
Chú thích | ||
1. Người thừa kế gần nhất của bà là Lady Frances Brandon theo sắc luật kế vị thứ Ba và Mary I của Scotland theo luật truyền thống cognatic primogeniture |
|
Augustus
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Mục từ khác có tên tương tự tại Augustus (định hướng) và Octavian (định hướng)
Augustus | ||
---|---|---|
Hoàng đế đầu tiên của Đế quốc La Mã | ||
Tượng của Caesar Augustus. |
||
Tại vị | 16 tháng 1 năm 27 TCN – 19 tháng 8 năm 14 | |
Tiền nhiệm | không (Đế quốc được thành lập) | |
Kế nhiệm | Tiberius | |
Thông tin chung | ||
Phối ngẫu |
|
|
Hậu duệ |
|
|
Tên đầy đủ | Gaius Julius Caesar Octavianus | |
Hoàng tộc | Julia-Claudia | |
Thân phụ | Gaius Octavius; được Julius Caesar nhận làm còn nuôi |
|
Thân mẫu | Atia Balba Caesonia | |
Sinh | 23 tháng 9, 63 TCN Roma, Cộng hòa La Mã |
|
Mất | 19 tháng 8, 14 (ở tuổi 77) Roma, Đế quốc La Mã |
|
An táng | Lăng Augustus |
Sau khi Tam đầu chế thứ Hai tan rã, Octavius vẻ bên ngoài là khôi phục lại Cộng hoà La Mã, với quyền lực tối cao là của Viện nguyên lão nhưng thực chất là vẫn nằm trong tay ông. Phải mất sáu hay bảy năm để tìm ra được một khuôn mẫu chính xác để một nước chính thức vẫn theo thể chế Cộng hòa nhưng bây giờ được lãnh đạo bởi một lãnh tụ duy nhất; kết quả là thể chế được biết đến như là Đế quốc La Mã. Chức vụ hoàng đế không bao giờ giống như độc tài La Mã mà Caesar và Sulla đã từng nắm giữ trước đó; thật vậy, ông đã khước từ khi đại đa số dân La Mã muốn "đưa ông lên chức vụ độc tài" [3] Theo pháp luật, Augustus có một tập hợp các quyền lực ông có suốt đời do Viện nguyên lão giao cho ông, bao gồm cả quyền lên diễn đàn để diễn thuyết, quyền kiểm duyệt, và quyền lãnh đạo, mà không cần phải được bầu vào những cơ quan tương ứng với các chức vụ đó, gồm quan bảo dân, quan giám sát, và Chấp chính tối cao. Quyền lực áp đảo của ông có được từ những thành công về tài chính và những nguồn lợi thu được từ các cuộc chinh phạt, sự xây dựng các mối quan hệ bảo trợ trong suốt toàn lãnh thổ Đế quốc, sự trung thành của binh sĩ và những cựu chiến binh, quyền lực từ những vinh dự được phong cho bởi Viện Nguyên lão[4], và sự kính trọng, ỵêu mến của dân chúng. Sự nắm giữ đa số các sư đoàn lê dương có thể tạo thành mối đe dọa quân sự đối với Viện Nguyên lão, cho phép ông áp đặt các quyết định mà không cần thông qua ý kiến của Viện Nguyên lão. Với khả năng loại bỏ những Nguyên lão đối lập với biện pháp quân sự, Viện Nguyên lão trở nên ngoan ngoãn dưới sự lãnh đạo tuyệt đối của ông.
Triều đại của Augustus đã mở ra một thời đại tương đối hòa bình được biết đến như là Pax Augusta, hay là hòa bình của Augustus. Mặc dù các cuộc chiến tranh liên tục nổ ra ở biên giới, và một năm nội chiến về việc nối ngôi Hoàng đế, vùng Địa Trung Hải là hòa bình trong hơn hai thế kỉ. Augustus mở rộng lãnh thổ của Đế quốc La Mã, bảo vệ được biên giới của Đế quốc với nhiều nước chư hầu, và thiết lập hòa bình với Parthia thông qua các biện pháp ngoại giao. Ông đã cải cách lại hệ thống thuế của La Mã, phát triển một mạng lưới đường sá với hệ thống liên lạc chính thức, thiết lập quân đội thường trực (và một lực lượng hải quân nhỏ), thiết lập lực lượng Vệ binh Praetorian, và tạo ra hệ thống bảo an và lính cứu hỏa cho thành Roma. Nhiều thành phố được xây dựng lại dưới thời của Augustus; và ông viết lại những thành tựu mà chính ông đã làm được, được biết đến như là Res Gestae Divi Augusti, tồn tại tới nay. Khi ông chết vào năm 14, Augustus được phong là một vị thần bởi Viện Nguyên lão, được thờ phụng bởi dân La Mã. Tên của ông Augustus và của Caesar được lấy làm đế hiệu của các hoàng đế sau này, và tháng Tám (August) được chính thức đặt tên theo tên ông. Sau khi ông mất, con rể ông là Tiberius nối ngôi.
Mục lục
Tuổi trẻ
|
Do sự chật chội của thành Roma vào thời điểm đó, ông được đưa về quê nội Velletri và lớn lên tại đây. Octavius chỉ đề cập đến một thời gian ngắn trong khoảng thời gian sinh sống tại quê cha. Ông cụ nội của ông là một quan bảo dân thời Chiến tranh Punic lần thứ hai. Ông nội của ông cũng đã giữ vài chức vụ địa phương. Cha của ông, cũng có tên là Gaius Octavius đã từng là Thống đốc của Macedonia.[7][8]. Mẹ ông, Atia, là cháu gái của Julius Caesar.[9]
Năm 59 trước Công nguyên, khi ông lên bốn tuổi, cha ông qua đời. Mẹ của ông sau đó tái hôn với cựu thống đốc của Syria, Lucius Marcius Philippus[10].Bản thân Philippus thì lại tuyên bố ông ta là hậu duệ của Alexandros Đại đế, và được bầu làm chấp chính quan trong năm 56 trước Công nguyên. Philippus cũng chưa bao giờ có nhiều quan tâm đối với Octavius khi còn nhỏ. Bởi vì điều này, Octavius đã được nuôi dưỡng bởi bà ngoại của mình (và là chị gái của Julius Caesar), Julia Caesaris.
Năm 52 hay 51 trước Công nguyên, Octavius đã đọc điếu văn tại đám tang của bà ngoại. Từ thời điểm này, mẹ và cha dượng của ông đã đóng một vai trò tích cực hơn trong việc nuôi dạy ông. Ông đủ tuổi mặc áo choàng La Mã bốn năm sau đó,[11] thời điểm mà ông được bầu vào Giáo đoàn Pontificum năm 47 trước Công nguyên.[12][13] Năm tiếp theo ông đảm đương trọng trách về Đại hội Thể Thao Hy Lạp cổ nhằm tôn vinh Đền thờ Venus Genetrix, ngôi đền mà Julius Caesar xây dựng. Theo Nicolaus Damascus, Octavius muốn được theo đoàn tùy tùng của Caesar trong chiến dịch ở Phi Châu nhưng bị mẹ ông phản đối[14]. Năm 46 trước CN, bà tán thành cho ông tới chỗ Caesar ở Hispania, nơi ông ta dự định tiến đánh tàn quân của Pompeius, kẻ thù cũ của Caesar, nhưng Octavius bị bệnh và không thể đi được.
Sau khi bình phục, ông đi đường biển đến với nơi Caesar đang ở, nhưng bị đắm tàu; sau khi cập bờ với một số tùy tùng, ông vượt qua lãnh thổ thù địch để đến nơi Caesar đóng quân, và gây một ấn tượng mạnh mẽ cho người bác[11]. Velleius Paterculus về sau cho biết Caesar sau đó đã cho phép Octavius cùng dùng chung xe ngựa với mình. Khi trở về Roma, Caesar gửi gắm ý định với Các Trinh nữ Vestal, rằng Octavius là người kế thừa thứ nhất[15].
Vươn lên nắm quyền lực
Người thừa kế của Caesar
Khi Caesar bị mưu sát vào ngày 15 tháng 3 năm 44 TCN, Octavian đang học và trải qua huấn luyện quân sự tại Apollonia, Illyria. Từ chối lời khuyên của một vài sỹ quan quân đội là ở lại dưới sự bảo vệ của quân đội ở Macedonia, ông đi đường biển về Italia để thử xem liệu là mình còn có tương lai chính trị hay đảm bảo về an ninh nào không.[16] Sau khi đến Lupiae gần Brundisium, ông biết được nội dung của di chúc của Caesar, và chỉ lúc đó ông mới quyết định trở thành người thừa kế về mặt chính trị của Caesar, cũng như là người thừa kế toàn bộ di sản khác mà Caesar để lại[13][16][17].Do không còn người con hợp pháp nào còn sống (con gái của ông Julia đã qua đời năm 54 TCN), Caesar đã nhận người cháu của mình, chính là Octavian, làm con trai và người thừa kế thứ nhất[18]. Nhờ vào việc được Caesar nhận làm con nuôi, Octavian đã đổi tên thành Gaius Julius Caesar. Dã sử La Mã nói rằng ông còn thêm vào họ của mình Octavianus (Octavian) để chỉ đến gia đình mình; tuy vậy, chẳng có chứng cớ nào cho hay ông đã sử dụng cái tên này (nó sẽ chỉ đến gia đình gốc của ông quá rõ ràng, điều này sẽ không có lợi cho ông khi mà ông đã là Con trai của Gaius Julius Caesar trong mắt người La Mã lúc bấy giờ)[19][20]. Marcus Antonius về sau nói rằng Octavian được nhận làm con nuôi vì mối quan hệ đồng tính của mình với Caesar, theo Tiểu sử 12 hoàng đế của Suetonius Antonius đã vu cáo Octavian vì mục đích chính trị[21].
Muốn tham gia chính trị ở La Mã, Octavian không thể dựa vào số ngân sách hạn chế của mình[22]. Sau khi được binh lính của Caesar chào đón nồng nhiệt tại Brundisium[23], Octavian yêu cầu một phần trong số ngân quỹ mà Caesar đã định dùng để tiến hành chiến tranh với Parthia ở Trung Đông[22]. Số ngân quỹ này gồm khoảng chừng bảy trăm triệu sestertius (tiền La Mã thời bấy giờ) hiện đang được cất giữ tại Brundisium, vốn là trạm chỉ huy những chiến dịch quân sự tại phương Đông của La Mã[24]. Về sau, Viện Nguyên lão cũng mở cuộc điều tra về sự "biến mất" của số ngân quỹ này, nhưng không làm gì được Octavian, vì Octavian sử dụng chính số tiền này để chiêu mộ một lực lượng chống lại chính kẻ thù của Viện, Marcus Antonius[23]. Octavian còn thực hiện một bước đi táo bạo trong năm 44 TCN khi chiếm đoạt các cống phẩm hàng năm được gửi từ tỉnh Cận Đông thuộc La Mã đến Ý mà chưa nhận được sự cho phép chính thức nào cả[20][25].
Octavian bắt đầu tạo dựng đạo quân riêng của mình từ các cựu lính lê dương và đội quân mà Caesar vốn dĩ định dùng để đánh nhau với Parthia; và nhằm tạo sự ủng hộ, Octavian nhấn mạnh vào địa vị người thừa kế Caesar của mình[16][26]. Trên đường về Roma, Octavian và ngân quỹ của ông đã thu hút rất nhiều những cựu binh từng tham gia quân đội của Caesar và đang đóng tại Campania[20]. Tới tháng 6, ông đã tuyển được 3.000 cựu binh trung thành với mình, mức lương ông trả cho mỗi người là 500 denarius[27][28][29].
Tới Roma vào ngày 6 tháng 5 năm 44 TCN[20], Octavian thấy rằng quan chấp chính Marcus Antonius, đồng sự trước đây của Caesar, đang ở trong tình thế thỏa hiệp khó xử với những kẻ ám sát nhà độc tài; họ đã được đại ân xá vào 17 tháng 3, thế nhưng Antonius đã thành công trong việc đuổi họ ra khỏi thành Roma[20]. Việc này là do điếu văn "đầy xúc động" được đọc tại lễ tang của Caesar, đã làm công chúng chống lại những kẻ ám sát[20].
Mặc dù Marcus Antonius đang tập trung được sự ủng hộ về chính trị, Octavian vẫn có cơ hội tranh đấu với ông ta như là thành viên đứng đầu trong nhóm ủng hộ Caesar. Marcus Antonius đã mất sự ủng hộ từ nhiều công dân La Mã và những người ủng hộ Caesar khi ông ta là người đầu tiên chống lại việc tôn Caesar lên địa vị thần thánh[30]. Octavian đã không thành công trong việc thuyết phục Antonius trao lại số tiền của Caesar cho mình, nhưng đã có được sự ủng hộ từ những người ủng hộ Caesar vào mùa hè năm đó[31]. Vào tháng 9, nhà hùng biện phe Optimates Marcus Tullius Cicero bắt đầu tấn công Antonius trong một chuỗi các bài diễn thuyết, miêu tả rằng Antonius chính là mối nguy lớn nhất đối với trật tự của Viện nguyên lão[32][33]. Với việc dư luận của Roma quay lưng trở lại chống mình và năm chấp chính bản thân ông ta đã gần chấm dứt, Antonius đã cố gắng để thông qua những đạo luật nhằm giúp cho ông ta có thể nắm quyền xứ Cisalpine Gaul, đã được giao lại như là một phần của tỉnh của ông ta, từ tay Decimus Junius Brutus Albinus, một trong những kẻ ám sát Caesar[34][35]. Trong khi đó Octavian xây dựng một lực lượng quân đội riêng ở Ý bằng cách tuyển chọn những cựu binh của Caesar, và vào 28 tháng 11 đã lôi kéo được hai quân đoàn của Antonius bằng cách mua chuộc họ[36][37][38]. Với lực lượng lớn mạnh và được trang bị đầy đủ của Octavian, Antonius thấy rằng ở lại Roma là nguy hiểm, và viện nguyên lão đã thở phào khi ông ta bỏ chạy về Cisalpine Gaul, xứ đó được trao cho ông ta vào 1 tháng 1[38].
Chiến tranh lần thứ nhất với Antonius
Sau khi Decimus Brutus từ chối trao trả Cisalpine Gaul, Antonius bao vây ông ta tại Mutina.[39] Những nghị quyết được Viện Nguyên lão thông quan nhằm để chấm dứt bạo lực đã bị Antonius bác bỏ, bởi vì Viện Nguyên lão không có quân đội riêng để đối phó với ông ta; điều này đã đem lại một cơ hội cho Octavian, vốn được biết là đang nắm giữ một lực lượng vũ trang.[37] Cicero cũng bảo vệ Octavian khỏi lời chế nhạo của Antonius về việc Octavian thiếu dòng dõi cao quý; ông ta nói rằng "chúng ta không còn có ví dụ sáng chói nào về lòng trung thành với đất nước giữa thế hệ trẻ của chúng ta."[40]Điều này là một phần trong sự bác bỏ quan điểm của Antonius đối với Octavian, khi Cicero dẫn lời Antonius và nói với Octavian, "Cậu có tất cả mọi thứ từ cái tên của cậu".[41][42] Dưới sự dàn xếp của Cicero, Viện Nguyên lão đã phong chức nguyên lão cho Octavian vào 1 tháng 1, 43 TCN, không những thế ông còn được phép bỏ phiếu cùng với các cựu chấp chính quan.[37][38] Thêm vào đó, Octavian được ban cho tước hiệu imperium (quyền tư lệnh), khiến cho việc chỉ huy quân đội của ông trở thành hợp pháp, và ông sau đó được lệnh phá vòng vây cùng với Hirtius và Pansa (các quan chấp chính của năm 43 TCN).[37][43] Vào tháng 4 năm 43 TCN, lực lượng của Antonius bị đánh bại tại Trận đánh Forum Gallorum và Mutina, buộc Antonius phải lui quân về Transalpine Gaul. Tuy vậy, cả hai quan chấp chính đều tử trận, khiến cho Octavian trở thành viên chỉ huy duy nhất của đạo quân.[44][45]
Sau khi ban tặng rất nhiều tặng thưởng cho Decimus Brutus thay vì Octavian cho việc đánh bại Antonius, Viện Nguyên lão có ý định trao các binh đoàn lính lê dương của quan chấp chính cho Decimus Brutus, thế nhưng Octavian quyết định không hợp tác.[46] Thay vào đó, Octavian ở lại trong thung lũng Po và từ chối bất cứ trợ giúp nào cho các cuộc tấn công sau đó chống lại Antonius.[47] Vào tháng 7, một sứ giả của các centurion đã được Octavian phái đến thành Roma và yêu cầu rằng ông phải được nhận chức quan chấp chính đã bị bỏ trống của Hirtius và Pansa.[48]
Octavian cũng yêu cầu sắc lệnh mà tuyên bố rằng Antonius là kẻ thù của công chúng phải được bãi bỏ.[47] Khi điều này bị từ chối, ông tiến quân vào thành phố với tám quân đoàn.[47] Ông không gặp lại chống cự quân sự nào ở Roma, và vào 19 tháng 8 năm 43 CN,ông được bầu là quan chấp chính cùng với người họ hàng là Quintus Pedius.[49][50] Trong khi đó, Antonius đã thành lập một liên minh mới với Marcus Aemilius Lepidus, một nhà lãnh đạo khác thuộc phe ủng hộ Caesar.[51]
Đệ nhị Tam đầu chế
Cách mạng La Mã
Trong một cuộc gặp gỡ gần Bologna vào tháng 10 năm 43 TCN, Octavian, Antonius, và Lepidus đã thành lập một liên minh quân sự gọi là Liên minh tam hùng lần thứ 2.[53] Liên minh quyền lực đặc biệt ngang ngược này kéo dài trong 5 năm và sau đó được ủng hộ bởi luật thông qua bởi những người bình dân La Mã, không giống như Liên minh tam hùng lần thứ nhất không chính thức được thành lập bởi Gnaeus Pompeius Magnus, Julius Caesar và Marcus Licinius Crassus.[53][54] Tam đầu chế sau đó bắt đầu khởi động việc đặt ra ngoài vòng pháp luật (proscription) 300 nguyên lão và 2.000 kỵ sỹ được cho là tội phạm và bị tịch thu tài sản, và những người không chạy thoát được sẽ bị mất mạng.[55]Sắc lệnh ban ra bởi bộ ba tam đầu chế này bắt nguồn một phần từ nhu cầu huy động tiền bạc để trả lương cho binh lính trong các trận đánh sắp diễn ra với những người đã ám sát Caesar, Marcus Junius Brutus và Gaius Cassius Longinus.[56] Phần thưởng được đưa ra để làm động lực cho lính La Mã bắt những kẻ đã bị đặt ra ngoài vòng pháp luật, trong khi tài sản và đất đai những kẻ đó bị tịch thu bởi tam đầu chế.[55] Việc làm này của tam đầu chế đã vượt xa một cuộc thanh trừng đơn giản đối với những kẻ liên minh với những người ám sát Ceasar. Octavian ban đầu phản đối việc thi hành đặt ngoài vòng pháp luật số người này bởi vì ông muốn cứu sống Marcus Tullius Cicero (người có tên trong danh sách bị đặt ngoài vòng pháp luật).[55] Tuy nhiên, sự căm ghét của Antony đối với Cicero không khoan nhượng, và Cicero trở thành nạn nhân trong vụ này.[55] Cái chết của quá nhiều nguyên lão cộng hòa đã cho phép tam đầu chế đặt vào các vị trí trống những người ủng hộ họ. Sự kiện này được gọi là "Cách mạng La Mã" bởi các sử gia của thế kỉ 20; đã tạo ra hiệu quả sâu rộng trong việc quét sạch trật tự cũ và thiết lập một nền tảng chính trị vững chắc cho sự lãnh đạo của Augustus trong tương lai.[57]
Trận Philipii và sự phân chia lãnh thổ
Sau trận Philippi, một thỏa thuận mới về lãnh thổ được xếp đặt giữa các thành viên của Đệ nhị Tam đầu chế. Trong khi Antonius phải giao lại Gaul, các tỉnh của Hispania, và Italia vào tay Octavian, Antonius di chuyển về phía đông tới Ai Cập và liên minh với Nữ hoàng Cleopatra VII, người tình trước đây của Julius Caesar và là thân mẫu của người con trai giữa bà với Caesar, Caesarion. Lepidus chỉ còn lại tỉnh Africa, bị đặt vào thế khó xử bởi Antony đã nhường Hispania cho Octavian thay vì ông ta.[60]
Octavian đã được trao quyền phải quyết định xem nơi nào ở Italia để dành cho cho hàng vạn cựu quân nhân của chiến dịch Macedonia định cư, họ vốn đã được tam đầu chế hứa cho giải ngũ. Và cùng với đo là hàng vạn quân khác đã chiến đấu cho nền cộng hòa sát cánh cùng Brutus và Cassius, lực lượng này sẽ dễ dàng liên minh chính trị với bất cứ phe nào chống lại Octavian nếu không được xoa dịu, cũng cần đất định cư.[60] Không còn vùng đất nào của nhà nước mà có thể được dùng như là đất định cư cho quân lính, do vậy Octavian phải chọn một trong hai cách: khiến cho nhiều công dân La Mã xa lánh mình bằng cách tịch thu đất của họ, hay là làm mất lòng nhiều binh sỹ La Mã có thể dễ dàng tập trung nổi dậy chống lại ông ngay giữa trung tâm La Mã; Octavian đã chọn cách thứ nhất.[61] Có khoảng 18 thành phố La Mã đã bị ảnh hưởng bởi chính sách định cư mới này, với toàn bộ dân số bị đuổi đi hoặc ít nhất là bị trục xuất một phần.[62]
Bạo loạn và quan hệ hôn nhân
Sự bất mãn đối với Octavian lan rộng trong binh lính, nhiều người vì thế đã bỏ sang hàng ngũ của Lucius Antonius, em trai của Marcus Antonius và là người được số đông Nguyên lão ủng hộ.[62] Khi này, Octavian đề nghị ly dị với Clodia Pulchra, con gái của Fulvia và người chồng đầu tiên Publius Clodius Pulcher. Octavian tuyên bố cuộc hôn nhân của mình với Clodia chưa bao giờ trọn vẹn, rồi ông gửi Clodia về với mẹ mình là Fulvia, vợ của Marcus Antonius. Fulvia đã quyết định hành động. Cùng với Lucius Antonius, bà ta tuyển mộ quân đội ở Ý để giao chiến với Octavian trên danh nghĩa của Marcus Antonius. Tuy vậy, việc chống lại Octavian của Lucius và Fulvia thực sự là một cuộc phiêu lưu quân sự và chính trị vì các lực lượng quân đội của La Mã vẫn phải phụ thuộc nhiều vào Tam Đầu chế vì vấn đề tiền lương.[62] Lucius và đồng minh của mình rốt cục bị bao vây tại Perugia và bị Octavian buộc phải đầu hàng đầu năm 40 TCN.[62] Lucius và binh lính của ông ta được tha thứ vì mối quan hệ của Lucius với Antonius, khi này vẫn đang là một thế lực rất mạnh ở phương Đông, còn Fulvia thì bị buộc phải sống lưu vong ở Sicyon.[63] Tuy vậy, Octavian không nhân nhượng với những đồng minh ủng hộ Lucius, và ngày 15 tháng 3, nhân kỷ niệm ngày Caesar bị mưu sát, Octavian xử chết 300 nguyên lão và kỵ sỹ La Mã vì mối quan hệ đồng minh của họ với Lucius.[64] Perusia thì bị cướp bóc rồi đốt phá như là một cảnh báo đến các nơi khác.[63] Sự kiện đẫm máu này đã bôi bẩn đôi chút sự nghiệp của Octavian và bị nhiều người chỉ trích, như là nhà thơ thời Octavian cai trị Sextus Propertius.[64]Sextus Pompeius, con trai của một trong ba vị tam hùng thứ nhất, Pompey và vẫn là một vị tướng phản bội sau chiến thắng của Julius Caesar trước cha mình, đã được giao cho Sicilia và Sardegna như là một phần của thỏa thuận đạt được với chế độ tam hùng lần thứ hai trong năm 39 TCN [65]. Cả Antonius và Octavian đã ganh đua nhằm thiết lập một liên minh với Pompeius, mỉa mai thay ông ta là một thành viên của phe cộng hòa, chứ không phải là phe Caesar[64]. Octavian đã thành công với việc thiết lập một liên minh tạm thời trong năm 40 trước Công nguyên, ông kết hôn với Scribonia, con gái của Lucius Scribonius Libo, một người ủng hộ của Pompeius cũng là cha vợ ông ta[64]. Scribonia đã sinh cho Octavian một người con duy nhất, Julia, người đã sinh ra vào cùng ngày mà ông đã ly dị Scribonia để kết hôn với Livia Drusilla, chỉ chưa đầy một năm sau cuộc hôn nhân của mình.[64]
Trong khi ở Ai Cập, Antonius đã dính vào một cuộc tình với Cleopatra và đã là cha của ba đứa con với bà.[66] Nhận thức được mối quan hệ xấu đi của ông với Octavian, Antonius rời khỏi Cleopatra, ông vượt biển về Ý trong năm 40 TCN với một đạo quân lớn nhằm phản đối Octavian, và bao vây Brundisium. Tuy nhiên, cuộc xung đột này không có cơ sở chứng minh gì mới cho cả Octavian và Antonius. Các đội trưởng của họ, những người đã trở thành nhân vật quan trọng về mặt chính trị, từ chối chiến đấu vì họ đều là những người ủng hộ Caesar, trong khi các quân đoàn dưới sự chỉ huy của họ làm theo.[67][68] Trong khi đó tại Sicyon, vợ của Antonius,Fulvia, qua đời vì một căn bệnh đột ngột trong khi Antonius đang trên đường đến gặp bà. Cái chết của Fulvia và cuộc binh biến của các đội trưởng của họ cho phép cả hai thành viên tam hùng một cơ hội để thực sự hòa giải.[67][68] Mùa thu năm 40TCN, Octavian và Antonius phê duyệt Hiệp ước Brundisium, theo đó Lepidus sẽ vẫn ở châu Phi, Antonius ở phương Đông, Octavian ở phương Tây. Bán đảo Ý để mở cho tất cả dùng cho việc tuyển dụng binh sĩ, nhưng trong thực tế, điều khoản này là vô ích cho Antonius ở phía Đông. Để tiếp tục xây dựng liên minh với Marcus Antonius, Octavian đã cho chị gái mình, Octavia Nhỏ, kết hôn với Antonius vào cuối năm 40 TCN. Trong suốt cuộc hôn nhân của họ.[67] Octavia đã sinh ra hai con gái (được gọi là Antonia Lớn và Antonia Nhỏ).
Chiến tranh với Pompeius
Cả Octavian và Lepidus đều tham gia chống lại Pompeius tại Sicilia năm 36 TCN.[74] Mặc dù thất bại cho Octavian nhưng hạm đội hải quân của Sextus Pompeius đã gần như hoàn toàn bị phá hủy ngày 03 tháng 9 bởi tướng quân Agrippa trong trận hải chiến Naulochus.[75] Sextus chạy trốn với lực lượng còn lại của ông về phía Đông, nơi ông bị bắt và bị hành quyết ở Miletus bởi một trong các tướng lĩnh của Antony năm sau đó.[75] Cả Octavian và Lepidus đều ra sức thu nhận tàn quân của Pompeius về phía mình nhưng Lepidus cảm thấy chưa đủ sức để chiếm lấy Sicilia cho chính mình, đuổi Octavian rút đi.[75] Tuy nhiên, binh linh của Lepidus đã từ bỏ ông ta và theo phe Octavian vì họ đã mệt mỏi vì các cuộc chiến và nghe được những lời hứa về tiền bạc hấp dẫn của Octavius..[75] Lepidus đã đầu hàng Octavian và được giữ lại trong chính quyền với chức vụ là chủ tế tối cao (pontifex maximus), nhưng đã bị loại bỏ khỏi chế độ tam hùng, sự nghiệp chính trị của Lepidus kết thúc ở đây, và bị bố trí đến một biệt thự ở Cape Circei của Ý.[75][76] Các lãnh địa La Mã đã được phân chia giữa Octavian bây giờ ở phương Tây và Antonius ở phía Đông. Để duy trì hòa bình ổn định phần của đế chế của mình, Octavian bảo đảm cho công dân Roma về quyền lợi của mình. Thời gian này, ông đã định cư cho những binh sĩ đã giải ngũ của mình ở bên ngoài Ý và trả lại 30000 nô lệ cho cựu chủ nô La Mã, mà trước đó đã chạy trốn đến chỗ Pompeius để gia nhập quân đội và hải quân của ông ta.[77]
Chiến tranh với Antonius
Sau khi Quân đội La Mã chiếm được Armenia trong năm 34 TCN, Antonius đưa con trai của ông ta là Alexander Helios lên làm vua của Armenia, ông cũng tặng danh hiệu "Nữ hoàng của các vị vua" cho Cleopatra, hành vi đó được Octavian sử dụng để thuyết phục viện nguyên lão La Mã rằng Antonius có thái độ phản quốc.[80]
Những người đào ngũ, Munatius Plancus và Marcus Titius, mang đến cho Octavian những thông tin ông cần phải xác nhận với viện nguyên lão rằng tất cả các cáo buộc ông đã chống lại Antony. Bằng việc tấn công nơi thờ cúng của các Trinh nữ Vestal, Octavian đã buộc nữ tu tối cao của họ giao cho ông bí mật của Antonius, là sẽ giao những vùng lãnh thổ La Mã đã chinh phục cho vương quốc của con trai của ông để cai trị, cùng với kế hoạch xây dựng một ngôi mộ ở Alexandria cho ông và nữ hoàng của mình sau khi họ qua đời.[82][83] Cuối năm 32 trước Công nguyên, viện nguyên lão chính thức thu hồi quyền hạn của Antonius như là chấp chính quan và tuyên chiến với triều đình Nữ hoàng Cleopatra ở Vương quốc Ai Cập.[84][85]
Vào đầu năm 31 trước Công nguyên, trong khi Antonius và Cleopatra đã tạm thời đóng quân ở Hy Lạp, Octavian đã đạt được một chiến thắng sơ bộ khi các lực lượng hải quân dưới sự chỉ huy của Agrippa thành công khi mang quân vượt qua biển Adriatic.[86] Trong khi Agrippa chia cắt Antony và lực lượng chính của Cleopatra khỏi các tuyến đường cung cấp trên biển của họ.[86] Octavian đổ bộ trên vùng đất đối diện với hòn đảo Corcyra (hiện nay là Corfu) và hành quân về phía nam [86] bị bao vây cả trên đất liền và trên biển, lính đào ngũ từ quân đội của Antonius chạy trốn về phía Octavian mỗi ngày trong khi lực lượng Octavian đủ thoải mái để chuẩn bị.[86] Trong một cố gắng tuyệt vọng để phá vỡ sự phong tỏa trên biển, hạm đội của Antonius tiến qua vịnh Actium ở bờ biển phía Nam Hy Lạp. Chắc chắn rằng hạm đội của Antonius đã phải đối mặt với một hạm đội lớn hơn và tàu nhỏ hơn, nhưng linh hoạt nhiều hơn dưới sự chỉ huy của Agrippa và Gaius Sosius trong trận Actium vào ngày 02 Tháng 9 năm 31 TCN [87] Antonius và lực lượng còn lại của ông đã không giao chiến đến cùng bởi hạm đội của Cleopatra đang chờ đợi gần đó[88] Octavian truy đuổi họ, và sau một thất bại ở Alexandria vào ngày 1 tháng Tám 30 trước Công nguyên, Antonius và Cleopatra đã buộc phải tự tử;. Antonius đã ngã vào thanh kiếm của riêng mình và trong vòng tay của Cleopatra, trong khi bà cho một con rắn độc cắn mình[89]. Để bảo vệ vị trí của mình là người thừa kế của Caesar và để tiếp tục sự nghiệp chính trị của mình, Octavian nhận thức được sự nguy hiểm trong việc cho phép người khác cũng làm như vậy và đã đáp rằng "hai Caesars cho một là quá nhiều", ông ra lệnh giết Caesarion - con trai của Julius Caesar và Cleopatra, trong khi tha mạng cho con cái của Cleopatra với Antonius, ngoại trừ con trai cả của Antonius[90][91]
Octavian trước đó đã ít thể hiện lòng thương xót đối với binh lính tham chiến và hành động theo những cách đã được chứng minh là không được lòng dân La Mã, nhưng ông được công nhận là đã tha thứ cho nhiều đối thủ của ông sau trận Actium [92].
Lên ngôi
Những năm nội chiến đã để lại cho Roma một nhà nước trong tình trạng gần như vô luật lệ, nhưng mà nền Cộng hòa cũng đã không được chuẩn bị để chấp nhận sự kiểm soát của Octavianus như là một vị vua chuyên chế. Đồng thời, Octavianus có thể không chỉ đơn giản là từ bỏ quyền lực của mình mà không có rủi ro tiếp tục cuộc chiến tranh dân sự giữa các tướng La Mã, và ngay cả khi ông mong muốn không có vị trí của cơ quan nào, vị trí của mình bắt ông phải coi trọng đến phúc lợi của nhân dân thành phố Roma và các tỉnh khác của La Mã. Mục tiêu của Octavianus từ thời điểm này là phải luôn luôn về phía trước để quay trở lại Roma, đến một nơi có một nhà nước ổn định, có truyền thống hợp pháp, văn minh bằng cách nâng cao áp lực chính trị công khai trên quần thần và đảm bảo các cuộc bầu cử tự do ít nhất có chút danh nghĩa.[97]
Những giải quyết đầu tiên
“ | Tổng thể quyền lực của ông [Augustus] có được đầu tiên là từ nhiều quyền của các chức vụ ông được Viện nguyên lão và nhân dân ủy thác, thứ hai là từ gia tài cá nhân cực kỳ to lớn và thứ ba là từ nhiều mối quan hệ bảo trợ ông tạo dựng với các cá nhân và nhóm người trên khắp Đế chế. Tất cả những thứ này tập hợp lại tạo nên nền tảng quyền lực của Augustus, cái mà chính ông đã nhấn mạnh là cơ sở cho các hành động chính trị của mình | ” |
Viện nguyên lão cũng đã đề xuất với Octavian, người chiến thắng trong các cuộc nội chiến của Roma, rằng ông nên một lần nữa đảm đương quyền cai quản các tỉnh. Lời đề xuất của Viện nguyên lão là một sự phê chuẩn đối với quyền lực ngoài hiến pháp của Octavian. Giả vờ miễn cưỡng, ông chấp nhận gánh vác trách nhiệm giám sát các tỉnh được coi là hỗn loạn trong mười năm. [111] [100][101]
Các tỉnh được nhượng lại cho Octavian, mà ông đã hứa hẹn là có thể bình định chúng trong khoảng thời gian mười năm, bao gồm phần lớn thế giới bị La Mã chinh phục, bao gồm toàn bộ Hispania và Gaul, Syria, Cilicia, Síp, và Ai Cập.[100][102] Hơn nữa, với việc nắm quyền chỉ huy của các tỉnh này giúp cho Octavian kiểm soát phần lớn các quân đoàn La Mã.[102][103]
Trong khi Octavian giữ vai trò là chấp chính quan tại Roma, ông đã sai phái các nguyên lão tới những tỉnh nằm dưới sự chỉ huy của mình như là người đại diện của ông để quản lý công việc ở tỉnh và đảm bảo mệnh lệnh của ông được thực hiện.[103] Mặt khác, những tỉnh không nằm dưới sự kiểm soát của Octavian đã được giám sát bởi các thống đốc được lựa chọn bởi viện nguyên lão La Mã.[103] Octavian đã trở thành nhân vật chính trị quyền lực nhất trong thành Roma và ở hầu hết các tỉnh của nó, nhưng lại không nắm giữ quyền lực chính trị và quân sự một cách đơn độc[104].
Viện nguyên lão vẫn còn kiểm soát Bắc Phi, một vùng đất sản xuát ngũ cốc quan trọng, cũng như Illyria và Macedonia, hai khu vực có tầm chiến lược về mặt quân sự với một số quân đoàn.[104] Tuy nhiên, với việc chỉ kiểm soát chỉ năm hay sáu quân đoàn được phân bổ giữa ba thống đốc tỉnh thuộc hàng nguyên lão, so với hai mươi quân đoàn dưới sự kiểm soát của Augustus, sự kiểm soát các vùng đất này của viện nguyên lão chung quy lại cũng không phải là thách thức chính trị hoặc quân sự đối với Octavian[94][105].
Sự kiểm soát của Viện nguyên lão đối với một số tỉnh La Mã giúp duy trì lớp vỏ bọc Cộng hòa cho chế độ Nguyên thủ.[94] Ngoài ra, sự kiểm soát toàn diện các tỉnh của Octavian cũng đảm bảo hòa bình và tạo ra sự ổn định tiếp nối những tiền lệ của thời kì Cộng hòa, trong đó những người La Mã nổi tiếng như Pompey đã được cung cấp sức mạnh quân sự tương tự trong thời gian khủng hoảng và bất ổn.
Chiến tranh và sự mở rộng
Sau khi triều đại của vị vua chư hầu Herod Đại Đế (73-4 TCN) kết thúc, xứ Judea đã được thêm vào tỉnh Syria khi Augustus phế truất Herod Archelaus, vị vua kế vị ông ta.[106]
Một lần nữa, đã không cần thiết phải sử dụng các biện pháp quân sự vào 25 trước Công nguyên khi xứ Galatia (Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay) được chuyển đổi sang thành một tỉnh La Mã ngay sau khi Amyntas của Galatia đã bị giết bởi một góa phụ để trả thù của một hoàng tử bị sát hại từ Homonada [106]. Khi các bộ tộc nổi loạn của xứ Cantabria ở Tây Ban Nha ngày nay cuối cùng đã bị dẹp yên trong năm 19 trước Công nguyên, vùng đất này đã được xáp nhập vào tỉnh Hispania và Lusitania.[107]
Mặc dù Parthia luôn là một mối đe dọa đối với La Mã từ phía đông, trận tuyến thực sự của La Mã nằm dọc theo sông Rhine và sông Donau.[108] Trước cuộc chiến cuối cùng với Antonius, những chiến dịch của Octavianus chống lại các bộ lạc ở Dalmatia là bước đầu trong việc mở rộng cương thổ của La Mã tới sông Donau.[109] Chiến thắng trong một trận đánh thường không phải là một thắng lợi tuyệt đối, do các lãnh thổ mới chinh phạt được thường xuyên bị các kẻ thù của La Mã ở Germania giành lại.[108]
Một thất bại quân sự điển hình của người La Mã là trận rừng Teutoburg vào năm 9, khi toàn bộ ba binh đoàn do Publius Quinctilius Varus chỉ huy bị Arminius, thủ lĩnh người Cherusci, một đồng minh thực sự của La Mã tiêu diệt hoàn toàn, với chỉ một số người sống sót.[110]
Di sản
[[Tập tin:Statue-Augustus.jpg|phải|nhỏ|200px|Bức tượng nổi tiếng Augustus của Prima Porta] Triều đại của Augustus đã đặt những nền tảng cho một chế độ kéo dài hàng trăm năm cho đến những ngày cuối cùng của sự suy tàn của Đế quốc La Mã. Cả họ mượn của ông, Caesar, và tên hiệu của ông Augustus đã trở thành những danh hiệu vĩnh viễn của các hoàng đế của Đế quốc La Mã trong 14 thế kỉ sau khi ông mất, được sử dụng ở cả Roma cũ và Roma mới. Trong nhiều ngôn ngữ, caesar trở thành danh từ để chỉ hoàng đế, như là trong tiếng Đức Kaiser và trong tiếng Nga Tsar. Tôn giáo Divus Augustus tiếp tục cho đến khi quốc giáo của Đế quốc được chuyển sang Thiên chúa giáo vào thế kỉ thứ 4 theo sau Sắc lệnh Milan. Do đó, có rất nhiều tượng rất trung thực của vị hoàng đế đầu tiên. Ông đã viết lại những điều mà ông đã đạt được, với tựa là Res Gestae Divi Augusti, được khắc vào bản đồng trước lăng mộ của ông.[111] Nhiều bản sao của văn bản này được khắc khắp Đế quốc sau khi ông chết.[112]Rất nhiều người cho rằng Augustus là hoàng đế vĩ đại nhất của La Mã; những chính sách của ông chắn chắn đã kéo dài thêm tuổi thọ của Đế quốc và khởi đầu thời kì Pax Romana hay Pax Augusta được nhiều người ca ngợi.
Cải cách về thu nhập
[[Tập tin:AugustusCoinPudukottaiHoardIndia.jpg|nhỏ|150px|Đồng tiền của Augustus tìm thấy tại kho Pudukottai, đông India. Bảo tàng Anh.]]Những cải cách về hệ thống thu nhập công của Augustus đã có một ảnh hưởng lớn đến những thành công sau này của Đế quốc. Augustus đã thiết lập một hệ thống luật thuế thống nhất trực tiếp từ Roma trên phần lớn của lãnh thổ của Đế quốc, thay vì các cách thức cống nạp thay đổi, không liên tục, đôi khi tùy tiện từ các tỉnh địa phương như dưới thời những người tiền nhiệm của Augustus.[113] Cải cách này đã làm tăng thu nhập đáng kể của Roma từ các vùng lãnh thổ chiếm được, làm ổn định nguồn thu nhập, và điều độ quan hệ tài chính giữa Roma và các tỉnh, thay vì kích động những chống đối mới với các cách cống nạp mới tùy tiện.[113] Cách đo mức thuế dưới thời Augustus được định bởi thống kê dân số, với những hạn ngạch định trước cho từng tỉnh.[114] Công dân của Roma và Ý trả thuế gián tiếp, trong khi thuế trực tiếp được lấy từ các tỉnh.[114] Thuế gián tiếp bao gồm 4% thuế trên giá của nô lệ, 1% thuế trên hàng hóa bán tại đấu giá, và 5% thuế trên thừa kế các bất động sản có giá trị trên 100.000 sesterces bởi những người không phải là thân thuộc.[114]
Một cải cách khác không kém phần quan trọng là sự bãi bỏ của thuế nông nghiệp tư nhân, được thay thế bởi các nhân viên thu thuế được trả lương của nhà nước. Những nhà thầu tư nhân tự ý nâng thuế đã là chuyện bình thường trong thời Cộng hòa, và một số đã trở nên quyền thế đến nỗi gây ảnh hưởng lên số phiếu bầu của các chính trị gia ở Roma.[113] Những nhà thầu tự ý thu thuế đã nổi tiếng với những vụ tham ô lãng phí, cũng như những tài sản riêng kếch xù, nhờ vào việc chiếm quyền đánh thuế một vùng nào đó.[113] Thu nhập của Roma là những khoản tiền từ những vụ đấu giá thành công, và lợi nhuận của những người thu thuế tư nhân bao gồm bất kì khoản thu thêm nào mà họ có thể bòn rút được từ dân thành Roma. Thiếu sự kiểm soát hiệu quả, cùng với lòng tham làm tối la lợi nhuận của những người thu thuế tư nhân, đã tạo ra một hệ thống thuế tùy tiện độc ác đối với người nộp thuế, được công nhận rộng rãi là một bất công xã hội, và rất bất lợi cho kinh tế.
Tháng Tám (August)
Tháng tám August (Latin: Augustus) được đặt theo tên của Augustus; cho đến thời của ông nó được gọi là Sextilis (được đặt tên như vậy bởi vì nó là tháng thứ sáu của lịch La Mã và từ Latin chỉ thứ sáu là sex). Chuyện thường được kể là August có 31 ngày bởi vì Augustus muốn tháng của ông phải cùng độ dài với tháng 7 của Julius Caesar, nhưng đó chỉ là ý kiến của vị học giả vào thế kỉ 13 tên là Johannes de Sacrobosco. Sextilis thực ra có 31 ngày trước khi được đổi tên, và nó cũng không phải được chọn vì số ngày trong tháng (xem lịch Julius). Theo một senatus consultum trích dẫn bởi Macrobius, Sextilis được đặt tên lại để vinh danh Augustus bởi vì những sự kiện quan trọng nhất đưa ông ta lên vị trí nắm quyền lực, kết hợp lại sau khi Alexandria sụp đổ, rơi vào tháng đó.[115]Các công trình xây dựng
- Xem thêm thông tin:
Ông cũng đã xây dựng Đền thờ Caesar, Nhà tắm Agrippa, và Diễn đàn Augustus với Đền thờ Mars Ultor. Các công trình khác hoặc là được khuyến khích bởi ông, như là Nhà hát của Balbus, và việc xây dựng Pantheon của Agrippa, hoặc là được tài trợ bởi ông dưới tên của những người khác, thường là bà con (ví dụ Portico của Octavia, Nhà hát của Marcellus). Ngay cả Lăng của Augustus cũng được xây trước khi ông chết để mai táng những thành viên trong gia đình ông.[117]
|
Xin hãy cùng đóng góp cho bài hoặc đoạn này bằng cách phát triển nó. Nếu bài viết đã được phát triển, hãy gỡ bản mẫu này. |
Chú thích
- ^ Wells, John C. (1990). Longman pronunciation dictionary. Harlow, England: Longman. ISBN 0582053838. entry "Augustus"
- ^ In Classical Latin, Augustus' name would be inscribed as IMPERATOR GAIVS IVLIVS CAESAR AVGVSTVS.
- ^ CCAA, Erich S. Gruen, Augustus and the Making of the Principate, 35.
- ^ Eck, 3.
- ^ Suetonius, Augustus 7
- ^ 5–6 on-line text.
- ^ Suetonius, Augustus 1–4.
- ^ Rowell, 14.
- ^ Mobile Reference, Encyclopedia of Roman Empire, tr. 62
- ^ Suetonius, Augustus 4–8; Nicolaus of Damascus, Augustus 3.
- ^ a ă Suetonius, Augustus 8.1
- ^ Nicolaus of Damascus, Augustus 4.
- ^ a ă Rowell, 16.
- ^ Nicolaus of Damascus, Augustus 6.
- ^ Suetonius, Julius 83.
- ^ a ă â Eck, 9.
- ^ Appian, Civil Wars 3.9–11.
- ^ Rowell, 15.
- ^ Mackay, 160.
- ^ a ă â b c d Eck, 10.
- ^ Suetonius, Augustus 68, 71.
- ^ a ă Eck, 9–10.
- ^ a ă Rowell, 19.
- ^ Rowell, 18.
- ^ CCAA, Walter Eder, Augustus and the Power of Tradition, 18.
- ^ Appianus, Civil Wars 3.11–12.
- ^ Chisholm, 24.
- ^ Chisholm, 27.
- ^ Rowell, 20.
- ^ Eck, 11.
- ^ Syme, 114–120.
- ^ Chisholm, 26.
- ^ Rowell, 30.
- ^ Eck, 11–12.
- ^ Rowell, 21.
- ^ Syme, 123–126.
- ^ a ă â b Eck, 12.
- ^ a ă â Rowell, 23.
- ^ Rowell, 24.
- ^ Chisholm, 29.
- ^ Chisholm, 30.
- ^ Rowell, 19–20.
- ^ Syme, 167.
- ^ Syme, 173–174
- ^ Scullard, 157.
- ^ Rowell, 26–27.
- ^ a ă â Rowell, 27.
- ^ Chisholm, 32–33.
- ^ Eck, 14.
- ^ Rowell, 28.
- ^ Syme, 176–186.
- ^ Sear, David R. “Common Legend Abbreviations On Roman Coins”. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2007.
- ^ a ă Eck, 15.
- ^ Scullard, 163.
- ^ a ă â b Eck, 16.
- ^ Scullard, 164.
- ^ a ă Eck, 17.
- ^ Syme, 202.
- ^ a ă Eck, 17–18.
- ^ a ă Eck, 18.
- ^ Eck, 18–19.
- ^ a ă â b Eck, 19.
- ^ a ă Rowell, 32.
- ^ a ă â b c Eck, 20.
- ^ Scullard (1982), 162
- ^ Alexander Helios, Cleopatra Selene II and Ptolemy Philadelphus
- ^ a ă â Eck (2003) 21.
- ^ a ă â b Eder (2005), 19.
- ^ a ă Eck (2003), 22.
- ^ Eck (2003), 23.
- ^ Scullard (1982), 163
- ^ a ă Eck (2003), 24.
- ^ a ă Eck (2003), 25.
- ^ Eck (2003), 25–26.
- ^ a ă â b c Eck (2003), 26.
- ^ Scullard (1982), 164
- ^ Eck (2003), 26–27.
- ^ Eck (2003), 29.
- ^ Eck (2003), 29–30.
- ^ a ă Eck (2003), 30.
- ^ Eder (2005), 20.
- ^ Eck (2003), 34–35
- ^ Eder (2005), 21–22.
- ^ Eck (2003), 35.
- ^ Eder (2005), 22.
- ^ a ă â b Eck (2003), 37.
- ^ Eck (2003), 38.
- ^ Eck (2003), 38–39.
- ^ Eck (2003), 39.
- ^ Green (1990), 697.
- ^ Scullard (1982), 171.
- ^ Lỗi chú thích: Thẻ
<ref>
sai; không có nội dung trong thẻ ref có têneck_49
- ^ Gruen (2005), 34–35.
- ^ a ă â CCAA, 24–25.
- ^ Lỗi chú thích: Thẻ
<ref>
sai; không có nội dung trong thẻ ref có tênccaa_38_39
- ^ a ă â b c Eck (2003), 45.
- ^ Eck (2003), 44–45.
- ^ Eck (2003), 113.
- ^ a ă Eck (2003), 80.
- ^ a ă Eck (2003), 46.
- ^ Scullard (1982), 210.
- ^ a ă Gruen (2005), 34.
- ^ a ă â Eck (2003), 47.
- ^ Lỗi chú thích: Thẻ
<ref>
sai; không có nội dung trong thẻ ref có tênccaa_24
- ^ Lỗi chú thích: Thẻ
<ref>
sai; không có nội dung trong thẻ ref có tênScullard_p211
- ^ a ă â b c d Eck (2003), 94.
- ^ Eck (2003), 97.
- ^ Lỗi chú thích: Thẻ
<ref>
sai; không có nội dung trong thẻ ref có têneck_96
- ^ Rowell (1962), 13.
- ^ Eck (2003), 101–102.
- ^ Suetonius, Augustus 101.4.
- ^ Eck, 1–2
- ^ a ă â b Eck, 83–84.
- ^ a ă â Bunson, 404.
- ^ Macrobius, Saturnalia 1.12.35.
- ^ Dio 56.30.3
- ^ Eck, 118–121
Tài liệu tham khảo
- Bourne, Ella. "Augustus as a Letter-Writer," Transactions and Proceedings of the American Philological Association (Volume 49, 1918): 53–66.
- Bowersock, G. W. (1990). “The Pontificate of Augustus”. Trong Kurt A. Raaflaub and Mark Toher (eds.). Between Republic and Empire: Interpretations of Augustus and his Principate. Berkeley: University of California Press. tr. 380–394. ISBN 0-520-08447-0.
- Bunson, Matthew (1994). Encyclopedia of the Roman Empire. New York: Facts on File Inc. ISBN 0-8160-3182-7
- Chisholm, Kitty and John Ferguson. (1981). Rome: The Augustan Age; A Source Book. Oxford: Oxford University Press, in association with the Open University Press. ISBN 0-19-872108-0.
- Dio Cassius, The Roman History: The Reign of Augustus, London, Penguin Books, 1987, ISBN 0-14-044448-3.
- Eck, Werner; translated by Deborah Lucas Schneider; new material by Sarolta A. Takács. (2003) The Age of Augustus. Oxford: Blackwell Publishing (hardcover, ISBN 0-631-22957-4; paperback, ISBN 0-631-22958-2).
- Eder, Walter. (2005). "Augustus and the Power of Tradition," in The Cambridge Companion to the Age of Augustus (Cambridge Companions to the Ancient World), ed. Karl Galinsky, 13-32. Cambridge, MA; New York: Cambridge University Press (hardcover, ISBN 0-521-80796-4; paperback, ISBN 0-521-00393-8).
- Everitt, Anthony (2006) Augustus: The Life of Rome's First Emperor. Random House Books. ISBN 1400061288.
- Green, Peter (1990). Alexander to Actium: The Historical Evolution of the Hellenistic Age. Hellenistic Culture and Society. Berkeley, CA; Los Angeles; London: University of California Press. ISBN 0-520-05611-6 (hbk.); ISBN 0-520-08349-0 (pbk.).
- Gruen, Erich S. (2005). "Augustus and the Making of the Principate," in The Cambridge Companion to the Age of Augustus (Cambridge Companions to the Ancient World), ed. Karl Galinsky, 33-51. Cambridge, MA; New York: Cambridge University Press (hardcover, ISBN 0-521-80796-4; paperback, ISBN 0-521-00393-8).
- Kelsall, Malcolm. "Augustus and Pope," The Huntington Library Quarterly (Volume 39, Number 2, 1976): 117–131.
- Mackay, Christopher S. (2004). Ancient Rome: A Military and Political History. Cambridge University Press. ISBN 0521809185.
- Scullard, H. H. (1982) [1959]. From the Gracchi to Nero: A History of Rome from 133 TCN to A.D. 68 (ấn bản 5). London; New York: Routledge. ISBN 0-415-02527-3 (pbk.).
- Shaw-Smith, R. "A Letter from Augustus to Tiberius," Greece & Rome (Volume 18, Number 2, 1971): 213–214.
- Shotter, D.C.A. "Tiberius and the Spirit of Augustus," Greece & Rome (Volume 13, Number 2, 1966): 207–212.
- Starr, Chester G., Jr. "The Perfect Democracy of the Roman Empire," The American Historical Review (Volume 58, Number 1, 1952): 1–16.
- Syme, Ronald (1939). The Roman Revolution. Oxford: Oxford University Press. ISBN 0-19-280320-4 (pbk.). The classic revisionist study of Augustus
- Roebuck, C, The World of Ancient Times, New York, Charles Scribner's Sons, 1966
- Rowell, Henry Thompson. (1962). The Centers of Civilization Series: Volume 5; Rome in the Augustan Age. Norman: University of Oklahoma Press. ISBN 0-8061-0956-4
Đọc thêm
- Everitt, Anthony. Augustus: The Life of Rome's First Emperor. New York: Random House, 2006 (hardcover, ISBN 1-4000-6128-8). As The First Emperor: Caesar Augustus and the Triumph of Rome. London: John Murray, 2006 (hardcover, ISBN 0719554942).
- Reviewed by Alex Butterworth in The Guardian, December 23, 2006.
- Galinsky, Karl. Augustan Culture. Princeton, NJ: Princeton University Press, 1998 (paperback, ISBN 0-691-05890-3).
- Lewis, P. R. and G. D. B. Jones, Roman gold-mining in north-west Spain, Journal of Roman Studies 60 (1970): 169-85
- Jones, R. F. J. and Bird, D. G., Roman gold-mining in north-west Spain, II: Workings on the Rio Duerna, Journal of Roman Studies 62 (1972): 59-74.
- Jones, A.H.M. "The Imperium of Augustus", The Journal of Roman Studies, Vol. 41, Parts 1 and 2. (1951), pp. 112–119.
- Jones, A.H.M. Augustus. London: Chatto & Windus, 1970 (paperback, ISBN 0-7011-1626-9).
- Osgood, Josiah. Caesar's Legacy: Civil War and the Emergence of the Roman Empire. New York: Cambridge University Press (USA), 2006 (hardback, ISBN 0-521-85582-9; paperback, ISBN 0-521-67177-9).
- Raaflaub, Kurt A. & Toher, Mark (eds.). Between Republic and Empire: Interpretations of Augustus and His Principate. Berkeley; Los Angeles: University of California Press, 1993 (paperback, ISBN 0-520-08447-0).
- Reinhold, Meyer. The Golden Age of Augustus (Aspects of Antiquity). Toronto, ON: Univ of Toronto Press, 1978 (hardcover, ISBN 0-89522-007-5; paperback, ISBN 0-89522-008-3).
- Southern, Pat. Augustus (Roman Imperial Biographies). New York: Routledge, 1998 (hardcover, ISBN 0-415-16631-4); 2001 (paperback, ISBN 0-415-25855-3).
- Zanker, Paul. The Power of Images in the Age of Augustus (Thomas Spencer Jerome Lectures). Ann Arbor, MI: University of Michigan Press, 1989 (hardcover, ISBN 0-472-10101-3); 1990 (paperback, ISBN 0-472-08124-1).
Liên kết ngoài
Tham khảo chính
Wikimedia Commons có thêm thể loại hình ảnh và phương tiện truyền tải về Augustus |
Wikiquote có sưu tập danh ngôn về: |
- The Res Gestae Divi Augusti (The Deeds of Augustus, his own account: complete Latin and Greek texts with facing English translation)
- Suetonius' biography of Augustus, Latin text with English translation
- Cassius Dio's Roman History: Books 45–56, English translation
- Life of Augustus by Nicolaus of Damascus, English translation
- The Via Iulia Augusta: road built by the Romans; constructed on the orders of Augustus between the 13–12 TCN
- Gallery of the Ancient Art: August
- Humor of Augustus
Nguồn thứ hai
- De Imperatoribus Romanis
- Augustus Caesar and the Pax Romana
- Octavian / Augustus
- Augustus and the Roman army—Mutual Loyalty and Rewards
- Augustus at BBC History
- Anthony Everitt, The First Emperor: Caesar Augustus and the Triumph of Rome (review)
Augustus
Vương triều Julio-Claudia
Sinh: 23 tháng 9, 63 TCN Mất: 19 tháng 8, 14 |
Tiểu sử 12 hoàng đế, hoặc De vita Caesarum của Suetonius |
---|
Julius Caesar • Augustus • Tiberius • Caligula • Claudius • Nero • Galba • Otho • Vitellius • Vespasian • Titus • Domitian |
|
Cuộc đảo chính Xô viết năm 1991
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
|
Mục lục
Bối cảnh
Trong cuộc trưng cầu dân ý trên toàn Liên bang ngày 17 tháng 3, 1991, bị các nước Cộng hòa vùng Baltic và các nước cộng hòa Armenia, Gruzia, và Moldova tẩy chay, đa số công dân của tất cả các nước cộng hòa khác trong Liên bang đều thể hiện mong muốn gìn giữ Liên bang Xô viết. Sau nhiều cuộc đàm phán, tám trong số chín nước cộng hoà (ngoại trừ Ukraina) đã thông qua Hiệp ước Liên bang Mới với một số điều kiện. Hiệp ước sẽ biến Liên bang Xô viết thành một liên bang của những nước cộng hòa độc lập với một vị tổng thống, chính sách đối ngoại và quân đội chung. Liên bang Nga, Kazakhstan, và Uzbekistan dự định sẽ ký kết hiệp ước tại Moskva ngày 20 tháng 8, 1991. Dù hiệp ước ra đời với ý định cứu vãn nhà nước Liên bang, những người theo đường lối cứng rắn sợ rằng hiệp ước này sẽ khuyến khích những nước cộng hòa không tham gia, đặc biệt là Estonia và Latvia, sẽ tạo áp lực đòi được độc lập hoàn toàn và gia nhập với Litva một nước cộng hòa khác đã tuyên bố độc lập ngày 11 tháng 3, 1990.
Cuộc đảo chính tháng 8
Ngày 19 tháng 8, 1991, một ngày trước khi Gorbachev và một nhóm các nhà lãnh đạo các nước cộng hòa dự định ký kết hiệp ước liên bang mới, một nhóm tự gọi mình là Ủy ban Khẩn cấp Nhà nước (Государственный Комитет по Чрезвычайному Положению, ГКЧП) toan tính nắm quyền lực tại Moskva. Nhóm này ra thông báo Gorbachev bị bệnh và đã không còn nắm giữ chức vụ chủ tịch nhà nước. Khi vụ đảo chính nổ ra Gorbachev đang đi nghỉ tại Krym, và ở tại đó trong suốt thời gian cuộc đảo chính. Phó chủ tịch Liên bang Xô viết Gennady Yanayev được chỉ định làm Chủ tịch tạm quyền. Tám thành viên của Ủy ban gồm chủ tịch KGB Vladimir Kryuchkov, Bộ trưởng Nội vụ Boris Pugo, Bộ trưởng Quốc phòng Dmitriy Yazov, và Thủ tướng Valentin Pavlov, tất cả họ đều lên nắm quyền lực dưới thời Gorbachev.Phó Tổng thống Gennady Yanayev cùng các lãnh đạo khác của cuộc đảo chính ngay lập tức lên đài truyền hình và radio đưa ra một tuyên bố buộc tội rất đanh thép chính quyền trước đó, nhưng dáng điệu yếu ớt và giọng điệu run rẩy của ông trong bài phát biểu ngay lập tức khiến mọi người có cảm giác ông không phải là người có thể mang lại trật tự xã hội, điều nhiều người đã nỗ lực tìm kiếm nhưng không hề thành công. Nhiều cuộc biểu tính lớn của quần chúng phản đối các lãnh đạo đảo chính ngay lập tức diễn ra tại Moscow và Leningrad; làm chia rẽ những lực lượng an ninh và quốc phòng trung thành khiến họ không thể được huy động một cách có hiệu quả đàn áp sự đối kháng.
Tổng thống Liên bang Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Nga lúc đó là Boris Yeltsin dẫn lực lượng phản đối từ trụ sở quốc hội Nga, được gọi là Nhà Trắng. Sau tuyên bố của Yanayev, Yeltsin phản đối mãnh liệt cuộc đảo chính. Tại một điểm của cuộc biểu tình, ông đứng trên nóc xe tăng cầm loa kết tội ГКЧП. Màn trình diễn mạnh mẽ của Yeltsin đã tạo ra một hình ảnh tương phản mạnh với sự xuất hiện yếu ớt của Yanayev. Hình ảnh này được truyền đi rộng rãi qua hệ thống phát thanh truyền hình trên toàn thế giới, trở thành một trong những hình ảnh sống mãi của cuộc đảo chính và củng cố mạnh mẽ vị trí của Yeltsin. Một kế họach tấn công vào tòa nhà trụ sở quốc hội của nhóm Alpha, một trong số các lực lượng đặc nhiệm của KGB, bị hủy bỏ khi toàn bộ lính nhất trí từ chối tuân lệnh. Một đơn vị xe tăng rời bỏ hàng ngũ của chính phủ, đến bảo vệ quanh tòa nhà quốc hội, chĩa tháp pháo ra ngoài.
Nhiều vụ xô xát đã xảy ra tại những con phố gần đó, gồm cả một vụ dẫn tới cái chết của ba người phản kháng do không may bị xe tăng húc phải, nhưng tổng cộng số lượng bạo lực lại ít một cách đáng ngạc nhiên. Ngày 21 tháng 8, đại đa số quân đội được gửi tới Moscow công khai đứng về phía những người phản kháng hay đình hoãn việc phong toả. Vụ đảo chính thất bại, và Gorbachev — người đang bị quản thúc tại gia ở ngôi nhà nông thôn của ông tại Krym — quay trở về Moscow dưới sự bảo vệ của các lực lượng trung thành với Yeltsin.
Ngày 22 tháng 8, khi đã về tới Moscow, Gorbachev hành động như không hề biết tới những thay đổi đã diễn ra trong ba ngày trước đó. Ông hứa hẹn trừng trị những người thuộc phe cứng rắn trong Đảng Cộng sản Liên Xô (CPSU) và từ chức Tổng thư ký CPSU, vốn đã bị đình chỉ hoạt động theo một nghị định của Yeltsin, nhưng vẫn giữ chức Tổng thống Liên bang Xô viết. Sự thất bại của cuộc đảo chính dẫn tới một loạt những sự sụp đổ khác trong toàn bộ các định chế liên bang. Boris Yeltsin nắm quyền kiểm soát công ty truyền thông trung ương và các bộ cũng như các cơ quan kinh tế then chốt, và cuối cùng là toàn bộ nước Nga.
Hậu quả
Tới tháng 12 năm 1991, tất cả các nước cộng hòa đã tuyên bố độc lập, và các cuộc thương lượng về một hiệp ước liên bang mới bắt đầu diễn ra. Vào tháng 9, nền độc lập của Estonia, Latvia, và Litva đã được Liên bang Xô viết công nhận, và được Hoa Kỳ và các nước phương Tây khác, vốn trong suốt thời kỳ Chiến tranh lạnh coi việc sáp nhập ba nước vùng Baltic này năm 1940 của Xô viết là bất hợp pháp, "tái công nhận". Trong nhiều tháng sau khi quay trở về Moscow, Gorbachev và những cộng sự của mình đã đưa ra nhiều cố gắng vô vọng nhằm tái lập sự ổn định và tính hợp hiến của các định chế trung ương. Tháng 11, bảy nước cộng hòa đồng ý một hiệp ước liên bang mới dẫn tới việc hình thành một liên bang được gọi là Liên bang các Quốc gia có Chủ quyền. Nhưng Ukraina không tham gia nhóm này, và Yeltsin nhanh chóng rút lui để tìm kiếm lợi thế cho nước Nga. Theo quan điểm của Yeltsin, sự tham gia của nước Nga vào một liên minh khác sẽ là vô nghĩa, bởi hành động này đương nhiên dẫn tới việc Nga nắm trách nhiệm đối với những vấn đề kinh tế đang ngày càng tồi tệ tại các nước cộng hoà.Ngày 1 tháng 12, Ukraina tổ chức một cuộc trưng cầu dân ý, theo đó hơn 90% công dân nước này ủng hộ Luật về Độc lập của Ukraina. Canada, Ba Lan, và Hungary là những nước đầu tiên công nhận nhà nước độc lập này. Ngày 3 tháng 12, Tổng thống Nga Yeltsin ra một bản tuyên bố rằng "ban lãnh đạo nước Nga tuyên bố sự công nhận của mình với nền độc lập của Ukraina theo mong ước dân chủ và nguyện vọng của người dân nước này".
Ngày 8 tháng 12, lãnh đạo các nước Nga, Ukraina, và Belarus (vốn đã lấy danh hiệu này vào tháng 8, 1991) Boris Yeltsin, Leonid Kravchuk và Stanislav Shushkevich, cùng như Thủ tướng các nước cộng hòa gặp gỡ tại Minsk, thủ đô Belarus, nơi họ lập ra Cộng đồng các quốc gia độc lập (CIS) và hủy bỏ hiệp ước liên bang năm 1922 tạo lập lên Liên bang Xô viết. Một buổi lễ ký kết khác được tổ chức tại Alma-Ata ngày 21 tháng 12 để mở rộng CIS bao gồm cả năm nước cộng hòa vùng Trung Á, Armenia, và Azerbaijan. Gruzia mãi tới năm 1993 mới gia nhập; ba nước cộng hòa vùng Baltic không bao giờ tham gia. Ngày 25 tháng 12, 1991, Gorbachev, khi ấy đã hoàn toàn bất lực, tuyên bố từ chức tổng thống Liên xô; lá cờ đỏ búa liềm của Liên bang Xô viết bị hạ xuống khỏi điện Kremlin và bị thay thế bởi lá cờ ba màu của nước Nga; Liên bang Xô viết đã chấm dứt tồn tại. Chính xác sáu năm sau khi Gorbachev chỉ định Boris Yeltsin lãnh đạo ủy ban đảng thành phố Moscow, Yeltsin đã trở thành tổng thống nhà nước kế tục lớn nhất của Liên bang Xô viết.
Tầm quan trọng lịch sử
Sự sụp đổ của Liên bang Xô viết được Tổng thống của nước Nga Vladimir Putin gọi là "thảm họa địa chính trị lớn nhất thế kỷ" [4].Theo cách này hay cách khác, Liên bang Xô viết, một siêu cường đã chấm dứt tồn tại. Cùng lúc đó, một siêu cường khác, Hoa Kỳ, đã mở rộng đáng kể vị thế của mình. Cuộc Chiến tranh Lạnh chấm dứt cùng với sự sụp đổ của Liên bang Xô viết.
Chú thích
- ^ a ă â Ольга Васильева, «Республики во время путча» в сб.статей: «Путч. Хроника тревожных дней». // Издательство «Прогресс», 1991. (tiếng Nga). Truy cập 2009-06-14. Archived 2009-06-17.
- ^ một đảng do chính trị gia theo chủ nghĩa quốc gia Vladimir Zhirinovsky lãnh đạo - http://www.lenta.ru/lib/14159799/full.htm. Truy cập 2009-09-13. Archived 2009-09-16.
- ^ Từ chối trao quyền lực cho Yanayev, nhưng không thể tham gia vào cuộc phản kháng, bởi đang bị quản thúc tại gia
- ^ Putin deplores collapse of USSR
Xem thêm
Liên kết ngoài
- IRC logs: Transcript of internet chat from the time of the coup
- TASS transmissions at the time of the coup (captured from short-wave radio transmissions, contains decoding errors)
- Andrew Coyne: Getting to the Roots of a Deserved Failure
- The St. Petersburg Times #696(63), 17.08.2001 The issue of The St. Petersburg Times devoted to the 10th anniversary of the coup attempt.
Wikimedia Commons có thêm thể loại hình ảnh và phương tiện truyền tải về Cuộc đảo chính Xô viết năm 1991 |
http://www.youtube.com/user/hoangkimvietnam
Trở về trang chính
Hoàng Kim, hoangkim, hoangkimvietnam, Ngọc Phương Nam, Chào ngày mới Thung dung, Dạy và học, Cây Lương thực, Tin Nông nghiệp Việt Nam, Food Crops, Cassava in Vietnam, VietnamAfricaCassavaRice, Khát khao xanh, Dayvahoc,Học mỗi ngày, Danh nhân Việt , Food Crops News, Điểm chính, CNM365, Kim LinkedIn, KimTwitter, KimFaceBook Đọc lại và suy ngẫm, Việt Nam tổ quốc tôi, Tình yêu cuộc sống, Thơ cho con
No comments:
Post a Comment