Uruguay
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
República Oriental del Uruguay Cộng hòa Đông Uruguay Oriental Republic of Uruguay |
|||||
---|---|---|---|---|---|
|
|||||
Khẩu hiệu | |||||
Libertad o Muerte (tiếng Tây Ban Nha: "Tự do hoặc Chết") |
|||||
Quốc ca | |||||
Orientales, la Patria o la tumba | |||||
Hành chính | |||||
Chính phủ | Cộng hoà dân chủ | ||||
Tổng thống • Phó tổng thống |
José Mujica Danilo Astori |
||||
Ngôn ngữ chính thức | tiếng Tây Ban Nha | ||||
Thủ đô | Montevideo |
||||
Thành phố lớn nhất | Montevideo | ||||
Địa lý | |||||
Diện tích | 176.220 km² (hạng 90) | ||||
Diện tích nước | 1,5% % | ||||
Múi giờ | UTC-3; mùa hè: - (UTC-2) | ||||
Lịch sử | |||||
Dân cư | |||||
Dân số ước lượng (2006) | 3.431.932 người (hạng 131) | ||||
Dân số (2002) | 3.399.237 người | ||||
Mật độ | 19 người/km² (hạng 156) | ||||
Kinh tế | |||||
GDP (PPP) (2005) | Tổng số: 54,58 tỷ đô la Mỹ | ||||
HDI (2003) | 0,840 cao (hạng 46) | ||||
Đơn vị tiền tệ | Peso Uruguay (UYU ) |
||||
Thông tin khác | |||||
Tên miền Internet | .uy |
Colonia del Sacramento, một trong số những khu định cư châu Âu lâu đời nhất ở Uruguay được thành lập bởi Bồ Đào Nha. Tây Ban Nha chiếm Montevideo vào đầu thế kỉ 18 và họ dựng lên thành phố ở đó. Uruguay nổi dậy dành độc lập vào những năm 1811–1828 từ ba nước Tây Ban Nha, Argentina, Brasil. Đó là một nền dân chủ lập hiến, nơi tổng thống giữ cả hai vai trò đứng đầu nhà nước và chính phủ.
Uruguay là một trong số những nền kinh tế phát triển ở Nam Mĩ, với GDP cao, đứng hàng thứ 50 về chất lượng sống tên thế giới. Nền kinh tế dựa vào nông nghiệp (chiếm 10% GDP và đứng thứ nhất về xuất khẩu).Theo Tổ chức Minh bạch quốc tế, Uruguay là nước ít tham nhũng nhất châu Mĩ Latin (cùng với Chile).[1]
Năm 2007, Uruguay là nước đầu tiên ở châu Mĩ Latin thực hiện kết hợp dân sự giữa những người đồng tính.
Mục lục
- 1 Từ nguyên
- 2 Lịch sử
- 2.1 Sự thực dân hóa
- 2.2 Đấu tranh giành độc lập khỏi Tây Ban Nha những năm 1811-1814
- 2.3 Liên bang Liga 1814-1820
- 2.4 Sự chiếm đóng của Brasil 1821 - 1830
- 2.5 "Guerra Grande" 1839–1852
- 2.6 Chiến tranh giữa liên minh Triple
- 2.7 Xã hội và sự phát triển kinh tế đến năm 1890
- 2.8 Thế kỉ 20
- 2.9 Kỉ nguyên hiện đại
- 3 Địa lí
- 4 Khí hậu
- 5 Tỉnh thành
- 6 Kinh tế
- 7 Nông nghiệp
- 8 Chính trị
- 9 Giao thông vận tải
- 10 Tôn giáo
- 11 Externi liên kết
- 12 Tham khảo
Từ nguyên
Từ tiếng Tây Ban Nha República Oriental del Uruguay dịch sang tiếng Việt là Cộng hoà Đông Uruguay. Đó là do nước này có vị trí địa lí ở phía đông sông Uruguay. Từ Uruguay trong tiếng Guaraní nghĩa là con sông nơi mà loài chim đang sống.Lịch sử
Sự thực dân hóa
Người Tây Ban Nha khám phá ra Uruguay vào đầu thế kỷ 16 nhưng gặp phải sự kháng cự của thổ dân rồi lại bị người Bồ Đào Nha gây khó dễ khiến Uruguay trở thành chiến trường giữa hai đế quốc, Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha. Trong những năm 1669 - 1671, Bồ Đào Nha lập đồn lũy ở Colonia del Sacramento hầu kiểm soát khu vực này. Trong khi đó Tây Ban Nha cũng tìm đưa dân đến lập nghiệp, chống lại dân Bồ Đào Nha từ Brasil lấn xuống.Triều đình Tây Ban Nha cho thành lập Montevideo vào đầu thế kỷ 18 làm căn cứ quân sự rồi sau thị trấn này phát triển thành một hải cảng quan trọng cạnh tranh với Buenos Aires bên Argentina. Vào những năm 1806 - 1807, trong khi bên Âu châu Anh và Pháp lâm chiến thì ở Nam Mỹ cuộc chiến chống Napoleon cũng cuốn Anh, Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha vào vòng binh lửa nhằm khống chế hai thị trấn chính là Montevideo và Buenos Aires. Quân Anh chiếm được Montevideo vào năm 1807 nhưng không bao lâu thì quân Tây Ban Nha tái chiếm được.
Đấu tranh giành độc lập khỏi Tây Ban Nha những năm 1811-1814
Năm 1811, José Gervasio Artigas, anh hùng dân tộc của Uruguay, đứng đầu một cuộc cách mạng chống lại Tây Ban Nha, đánh bại họ vào ngày 18 tháng 5 tại trận Las Piedras và ông tuyên bố thành lập liên bang Liga vào năm 1814.Liên bang Liga 1814-1820
Từ năm 1815 - 1820, Uruguay là trung tâm chính trị của Liên bang Liga hay Liên bang của những người tự do. Tuy nhiên, sự tăng trưởng và uy tín của nó làm cho Đế quốc Bồ Đào Nha ở Brasil sợ hãi (vì chính thể cộng hòa của nó). Tháng 8 năm 1816, Bồ Đào Nha tấn công các tỉnh miền Đông (Uruguay) với ý định tiêu diệt nền cộng hòa ở đây. Nhờ ưu thế về quân sự, quân Bồ Đào Nha chiếm Montevideo vào ngày 20 tháng 1 năm 1817. Quân của Artigas rút về đấu tranh ở nông thôn đấu tranh trong ba năm tiếp theo. Cuối cùng, quân Bồ Đào Nha đánh bại Artigas trong trận Tacuarembó.Sự chiếm đóng của Brasil 1821 - 1830
Năm 1821, các tỉnh miền Đông (Uruguay) bị sáp nhập vào Brasil (như là một phần của Vương quốc Bồ Đào Nha). Đế chế Brasil được độc lập từ 1822. Ba năm sau, ba mươi ba tỉnh do Juan Antonio Lavalleja đứng đầu tuyên bố độc lập ngày 25 tháng 8 năm 1825 dưới sự bảo trợ của Liên hiệp các tỉnh Rio de la Plata (nay là Argentina).Điều này đã dẫn đến cuộc chiến tranh Brasil-Argentina kéo dài 500 ngày. Nhưng không bên nào đạt được thế thượng phong, do vậy, hai nước Brasil, Argentina kí kết Hiệp ước Montevideo theo đó công nhận nhà nước Uruguay độc lập. Hiến pháp đầu tiên được thông qua ngày 18 tháng 7 năm 1830.
"Guerra Grande" 1839–1852
Bài này là một bản dịch thô từ ngôn ngữ khác. Đây có thể là kết quả của máy tính hoặc của người chưa thông thạo cả ngôn ngữ. Xin hãy giúp tăng chất lượng bản dịch. |
Garibaldi cũng làm người đứng đầu của hải quân Uruguay. Ông đã tham gia vào nhiều hành động nổi tiếng trong chiến tranh, đặc biệt là trong trận San Antonio, trong đó giành cho ông một danh tiếng trên toàn thế giới như là một nhà lãnh đạo du kích dữ dội. Cuộc phong tỏa của Argentina với Montevideo không hiệu quả như Rosas thường cố gắng không can thiệp với vận chuyển quốc tế về mảng sông. Nhưng năm 1845, khi vào Paraguay đã bị chặn, Anh và Pháp liên minh chống lại Rosas, thu giữ hạm đội của mình và bắt đầu một cuộc phong tỏa của Buenos Aires, trong khi Brasil tham gia chống lại Argentina.
Rosas đạt thỏa thuận hòa bình với Anh và Pháp vào năm 1849 và 1850. Người Pháp đã đồng ý rút quân đoàn của mình nếu Rosas di tản quân đội Argentina từ Uruguay. Oribe vẫn duy trì một cuộc bao vây lỏng lẻo với thủ đô. Năm 1851, những người Argentina Caudillo Justo José de Urquiza quay lưng lại với Rosas và ký kết một hiệp ước với Unitarios lưu đày, các Colorados Uruguay và Brazil chống lại ông. Urquiza vượt qua thành Uruguay, đánh bại Oribe và dỡ bỏ cuộc bao vây với Montevideo. Ông sau đó đã lật đổ Rosas ở trận Caseros ngày 3 tháng hai năm 1852. Với thất bại này, Rosas sống lưu vong, Guarra Grande cuối cùng đã kết thúc.
Chiến tranh giữa liên minh Triple
Năm 1855, cuộc xung đột mới nổ ra giữa các bên. Nó đạt đỉnh cao trong thời gian chiến tranh của Liên minh Triple. Năm 1863, Colorado chung Venancio Flores tổ chức một cuộc nổi dậy vũ trang chống lại tổng thống Blanco, Bernardo Prudencio Berro. Flores đã giành sự ủng hộ từ Brasil và, thời gian này, Argentina đã cung cấp ông với quân đội và vũ khí, trong khi Berro thực hiện một liên minh với các nhà lãnh đạo Paraguay Francisco Solano López. Khi chính phủ của Berro bị lật đổ trong năm 1864 với sự giúp đỡ của Brazil, López sử dụng nó như là một lý do để tuyên chiến với Uruguay. Kết quả là cuộc chiến tranh của Liên minh Triple, một cuộc xung đột năm năm, trong đó Uruguay, quân đội Brasil và Argentina, Paraguay đã chiến đấu, và đó Flores cuối cùng thắng, nhưng chỉ ở mức giá của sự mất 95% quân của riêng mình. Flores đã không tận hưởng của mình chiến thắng Pyrrhic cho lâu dài. Năm 1868, ông bị giết trong cùng một ngày như là đối thủ của ông Berro.Cả hai bên đã mệt mỏi của sự hỗn loạn này. Năm 1870, họ đã đi đến một thỏa thuận để xác định các lĩnh vực ảnh hưởng: các Colorados sẽ kiểm soát Montevideo và khu vực ven biển, các Blancos sẽ cai trị nội địa với bất động sản nông nghiệp của mình. Ngoài ra, Blancos đã được trả nửa triệu đô la để bồi thường cho họ mất cổ phần của họ ở Montevideo. Nhưng Caudillo tâm lý rất khó để xóa từ Uruguay và tiếp tục hoạt động chính trị mà đỉnh cao là cuộc cách mạng của Lances (Revolución de las Lanzas) (1870-1872), và sau này với các cuộc nổi dậy của Aparicio Saravia, người đã bị thương tại trận Masoller (1904).
Xã hội và sự phát triển kinh tế đến năm 1890
Sau khi kết thúc Guerra Grande có một sự gia tăng mạnh số lượng người nhập cư, nhiều nhất là từ Italy và Tây Ban Nha. Số lượng người nhập cư đã tăng từ 48% dân số trong 1860 lên 68% năm 1868. Trong thập niên 1870, một 100,000 người châu Âu tiếp tục đến, để đến năm 1879 khoảng 438.000 người đã sống ở Uruguay, một phần tư trong số họ trong Montevideo. Năm 1857, ngân hàng đầu tiên đã được mở cửa, ba năm sau đó, một hệ thống kênh đào đã được bắt đầu xây dựng, dòng điện tín đầu tiên được thành lập, và các liên kết đường sắt được xây dựng giữa các thành phố và nông thôn.Nền kinh tế nhìn thấy sự tăng trưởng mạnh sau khi "Guerra Grande" kết thúc, trên tất cả trong chăn nuôi và xuất khẩu. Giữa năm 1860 và 1868, số lượng cừu tăng 3-17.000.000. Lý do cho sự gia tăng này nằm ở trên tất cả trong các phương pháp cải tiến chăn nuôi của những người nhập cư châu Âu.
Montevideo đã trở thành một trung tâm kinh tế lớn của khu vực. Nhờ bến cảng tự nhiên của nó, nó trở thành một nơi trung chuyển hàng hóa từ Argentina, Brasil và Paraguay. Các thị xã Paysandú và Salto, cả trên sông Uruguay, cũng có kinh nghiệm phát triển tương tự.
Thế kỉ 20
Uruguay phát triển tăng tốc trong phần sau của thế kỷ 19 cũng như số ngày càng tăng của người nhập cư thành lập doanh nghiệp và mua đất. Một phần thông qua nỗ lực của họ, cừu đã được giới thiệu để gặm cỏ cùng với gia súc, trang trại được rào, và những con bò và cừu được nhập khẩu để cải thiện chăn nuôi. Thu nhập từ len (mà đã trở thành việc xuất khẩu hàng đầu vào năm 1884), da, và thịt bò khô khuyến khích người Anh đầu tư xây dựng đường sắt và cũng đã giúp hiện đại hóa Montevideo, đáng chú ý trong các tiện ích công cộng và hệ thống giao thông vận tải, mà qua đó khuyến khích nhập cư bổ sung.Năm 1876, các lực lượng vũ trang Uruguay đã qua của chính phủ, và hỗ trợ bởi thông tin liên lạc được cải thiện, bắt đầu thiết lập vững chắc hơn trong kiểm soát đất nước. Tuy nhiên, công cuộc hỗ trợ cho chế độ dần dần phai nhạt vì sự tàn bạo và tham nhũng của một số nhà lãnh đạo của nó, và một chính phủ dân sự Colorado trở lại cầm quyền vào năm 1890.
Blanco nhu cầu của một vai trò lớn hơn trong chính phủ leo thang thành cuộc Cách mạng năm 1897, do Aparicio Saravia, kết thúc khi tổng thống Colorado, Juan Idiarte Borda, đã bị giết bởi một sát thủ không liên kết với các Blancos. Mặc dù các cuộc xung đột giữa Colorados và Blancos vẫn tiếp tục cản trở sự phát triển kinh tế, theo dân số của Uruguay năm 1900 đã lên đến một triệu tăng 13 lần so với mức của năm 1830. Các nhà lãnh đạo Colorado José Batlle y Ordóñez được bầu làm tổng thống năm 1903. Năm sau các Blancos đã dẫn đầu một cuộc nổi dậy nông thôn, và tám tháng chiến đấu đẫm máu xảy ra sau đó trước khi Saravia bị giết chết trong trận chiến và lực lượng chính phủ đã nổi lên giành chiến thắng. Năm 1905 các Colorados thắng cuộc bầu cử lập pháp lần đầu tiên trong suốt phần lớn trong 30 năm qua, và sự ổn định trong nước cuối cùng đã đạt được.
Batlle, người đã trở thành một anh hùng Colorado, đã dùng sự ổn định của quốc gia và phát triển thịnh vượng kinh tế để viện cải cách lớn, bao gồm gia tăng sự can thiệp của nhà nước trong các vấn đề kinh tế. Chính quyền của ông đã giúp mở rộng chăn thả gia súc, giảm sự phụ thuộc của quốc gia nhập khẩu và vốn nước ngoài, cải thiện điều kiện lao động thông qua những cải cách sâu rộng đến xã hội, và mở rộng giáo dục. Ngoài ra Batlle bãi bỏ án tử hình, cho phép phụ nữ để tiến hành thủ tục ly dị, tăng cường các quyền của trẻ em sinh ra ngoài giá thú, và giảm các ảnh hưởng chính trị của Giáo hội Công giáo La Mã, phản ánh xu hướng phát triển theo hướng tự do hóa xã hội và thế tục tại Uruguay.
Batlle đã có hai nhiệm kỳ (1903-1907 và 1911-1915), trong đó để bắt đầu chính sách của ông, nhưng ông nhận ra rằng chương trình của mình có thể bị đảo ngược bởi một tổng thống trong tương lai hoặc độc tài, ông đã thúc đẩy một cuộc cải cách hiến pháp để kết thúc nhiệm kỳ tổng thống và thay thế bằng một số nhiều điều hành, các colegiado. kế hoạch táo bạo của Batlle chia Colorados và hồi sinh Blanco phe đối lập, và năm 1916 các colegiado bị đánh bại trong cuộc bầu cử đầu tiên của nước bằng cách bỏ phiếu kín. Batlle giữ lại một số lượng đáng kể uy tín và hỗ trợ, tuy nhiên, trong đó cho phép ông ta tấn công một thỏa hiệp là một phần giải cứu các colegiado, do đó, trong hiến pháp ban hành vào năm 1918, trách nhiệm điều hành được phân chia giữa tổng thống và một Hội đồng Hành chính Quốc gia.
Một chính quyền đồng thuận nổi lên với các chính sách đã được thận trọng hơn so với sáng tạo, ngoại trừ trong pháp luật về xã hội. mức sống cao hơn được hỗ trợ bởi một nền kinh tế nông trại đó đã ngừng phát triển, một tiến thoái lưỡng nan ẩn do giá xuất khẩu cao của cuối thập niên 1920. Năm 1930, Uruguay được chọn là nơi tổ chức đầu tiên của bóng đá World Cup. Mặc dù qui mô của giải nhỏ hơn rất nhiều so với các cuộc thi của ngày hôm nay, sự kiện cung cấp niềm tự hào quốc gia khi đội chủ nhà đã giành giải đấu trên nước láng giềng Argentina.
Trong cuối thập niên 1950, một phần vì làm giảm nhu cầu tại các thị trường thế giới cho các sản phẩm nông nghiệp, Uruguay đã bắt đầu gặp phải vấn đề kinh tế, bao gồm lạm phát, thất nghiệp hàng loạt, và dốc thả một trong mức sống cho người lao động Uruguay. Điều này dẫn đến tình trạng bất ổn quân sự cho sinh viên và lao động.
Năm 1950 cũng chứng kiến Uruguay giành chiến thắng thứ hai World Cup, đánh bại Brazil 2-1 trong trận chung kết của cuộc thi để có vị trí trong nhóm vô địch, một sự kiện được gọi là Maracanazo. Một phong trào du kích đô thị được gọi là Tupamaros hình thành trong đầu những năm 1960, lần đầu tiên tham gia vào các hoạt động phản đối Robin Hood loại, như cướp ngân hàng và phân phối tiền cho người nghèo, và cố gắng đối thoại chính trị. Theo chính quyền cấm hoạt động chính trị của họ và cảnh sát trở nên ngột ngạt, các Tupamaros đã lên công khai đấu tranh vũ trang, tham gia vào cuộc xung đột trực tiếp với cảnh sát và bắt cóc các quan chức tham nhũng và nhận thức kẻ thù. [11] Hoa Kỳ Văn phòng An Toàn Công Cộng (OPS) đã bắt đầu hoạt động tại Uruguay vào năm 1965. Văn phòng Mỹ An Toàn Công Cộng cảnh sát Uruguay đào tạo và thông minh trong lập chính sách và kỹ thuật interrogration.
Tổng thống Jorge Pacheco tuyên bố tình trạng khẩn cấp vào năm 1968, tiếp theo là tiếp tục đình chỉ quyền tự do dân sự vào năm 1972 bởi người kế nhiệm ông, Tổng thống Juan María Bordaberry, người mang trong quân đội để chống lại các du kích MLN, do Raúl Sendic. Sau khi đánh bại các Tupamaros, việc thu giữ quyền lực quân sự năm 1973. Một nhà nước quân luật được hiệu quả sử dụng để tiêu diệt các MLN (Phong trào giải phóng quốc gia). Thủ trưởng MLN đã bị cô lập trong nhà tù. Bordaberry cuối cùng đã được gỡ bỏ từ chủ tịch phụ trách "của mình" trong năm 1976. Ông là thành công đầu tiên của Alberto Demicheli. Sau đó một hội đồng quốc gia được lựa chọn bởi chính phủ quân sự được bầu Aparicio Méndez.
Năm 1980, lực lượng quân đội đề xuất một sự thay đổi trong hiến pháp sẽ được thông qua với một trưng cầu dân ý. Các "Không" cho những cải cách hiến pháp đã giành được bỏ phiếu với 57,2% số phiếu, hiển thị các unpopularity của chính phủ trên thực tế, mà sau này được tăng tốc bởi một cuộc khủng hoảng kinh tế. Năm 1981, Tổng Gregorio Álvarez nắm chức tổng thống.
Năm 1984, cuộc biểu tình lớn chống lại quyền quân sự nổ ra. Sau một cuộc tổng đình công 24 giờ, cuộc đàm phán đã bắt đầu và lực lượng vũ trang công bố một kế hoạch quay trở lại quy luật dân sự. cuộc bầu cử quốc gia đã được tổ chức vào năm 1984; Colorado Đảng lãnh đạo Julio María Sanguinetti thắng cử tổng thống và, sau khi tạm ngắn gọn của Tổng thống Rafael Addiego Bruno, phục vụ 1985-1990. Các Sanguinetti đầu tiên chính quyền triển khai thực hiện cải cách kinh tế và dân chủ hợp nhất các năm tiếp theo của đất nước dưới sự cai trị quân sự. Tuy nhiên, Sanguinetti không bao giờ ủng hộ những tuyên bố nhân quyền, và chính phủ của ông đã không truy tố các phiến quân, khủng bố, các nhà lãnh đạo quân sự hoặc những người đã bị buộc tội giết người và tra tấn. Thay vào đó, ông chọn cho một lựa chọn hòa bình hơn, ký kết một hiệp ước ân xá gọi là tiếng Tây Ban Nha "Ley de Amnistia".
Kỉ nguyên hiện đại
Sanguinetti cải cách kinh tế, tập trung vào việc thu hút thương mại và vốn nước ngoài, đạt được một số thành công và ổn định nền kinh tế. Để thúc đẩy hòa giải dân tộc và tạo điều kiện cho sự trở lại của luật dân sự dân chủ, bảo đảm Sanguinetti phê duyệt công cộng bằng phổ thông đầu phiếu của một cuộc đại xá gây tranh cãi cho các nhà lãnh đạo quân sự bị cáo buộc vi phạm nhân quyền dưới chế độ quân sự và tăng tốc việc phát hành các cựu du kích.Đảng Quốc gia của Luis Alberto Lacalle thắng cuộc bầu cử tổng thống năm 1989 và phục vụ 1990-1995. Tổng thống Lacalle thực hiện kết cấu chính và cải cách kinh tế theo đuổi tự do hóa hơn nữa các chế độ thương mại, bao gồm bao gồm nội dung của Uruguay trong Khối thị trường chung Nam Mỹ(MERCOSUR) trong năm 1991. Mặc dù tăng trưởng kinh tế trong nhiệm kỳ của Lacalle, điều chỉnh và nỗ lực tư nhân kích động chống đối chính trị, và một số cải cách đã được đảo ngược bằng cách trưng cầu dân ý.
Trong cuộc bầu cử năm 1994, cựu Tổng thống Sanguinetti giành một thuật ngữ mới, mà chạy từ năm 1995 đến tháng 3 năm 2000. Vì không có đảng duy nhất có đa số tại Đại hội, Đảng Quốc gia đã tham gia với Sanguinetti của Đảng Colorado trong một chính phủ liên minh. Chính phủ tiếp tục cải cách kinh tế Sanguinetti của Uruguay và hội nhập MERCOSUR. cải cách quan trọng khác là nhằm cải thiện hệ thống bầu cử, an sinh xã hội, giáo dục, và an toàn công cộng. Nền kinh tế tăng trưởng ổn định cho hầu hết các kỳ hạn của Sanguinetti cho đến khi giá cả hàng hóa thấp và khó khăn kinh tế tại các thị trường xuất khẩu chính của nó gây ra một cuộc suy thoái vào năm 1999, trong đó có tiếp tục vào năm 2002. Các cuộc bầu cử quốc gia năm 1999 đã được tổ chức theo một hệ thống bầu cử mới được thành lập theo một sửa đổi hiến pháp năm 1996. Bầu cử sơ bộ trong tháng tư đã quyết định ứng cử viên tổng thống duy nhất cho mỗi bên, và cuộc bầu cử quốc gia ngày 31 tháng 10 xác định đại diện trong cơ quan lập pháp. Vì không có ứng cử viên tổng thống đã nhận được một đa số trong cuộc bầu cử tháng mười, một dòng chảy đã được tổ chức trong tháng mười một. Trong dòng chảy này, ứng cử viên Đảng Colorado Jorge Batlle, hỗ trợ bởi sự hỗ trợ của Đảng Quốc gia, đánh bại Mặt trận Rộng ứng cử viên Tabare Vázquez.
Các Colorado và Quốc gia thành viên liên minh tiếp tục lập pháp của họ, không bên nào giành tự như nhiều chỗ ngồi là 40% của mỗi nhà giành chiến thắng liên minh Mặt trận rộng. Các liên minh chính thức kết thúc vào tháng mười một năm 2002, khi Bộ trưởng Blancos rút khỏi nội các, mặc dù Blancos tiếp tục hỗ trợ trên hầu hết các vấn đề Colorados.
Các năm nhiệm kỳ của Batlle được đánh dấu bởi tình trạng suy thoái kinh tế và sự không chắc chắn, đầu tiên với sự mất giá năm 1999 của Brazil thực sự, sau đó với các dịch lở mồm long móng (aftosa) trong thịt bò khu vực trọng điểm của Uruguay vào năm 2001, và cuối cùng với các chính trị và kinh tế sụp đổ của Argentina. Thất nghiệp tăng lên gần hai mươi phần trăm, tiền lương thực giảm, đồng peso đã mất giá và tỷ lệ đói nghèo của Uruguay đạt gần bốn mươi phần trăm. Những điều kiện kinh tế xấu đi góp phần vào chuyển ý kiến công chúng đối với thị trường tự do đã thông qua chính sách kinh tế của chính quyền và người tiền nhiệm của nó Batlle, dẫn đến từ chối phổ biến thông qua các đề xuất để tư nhân hoá của công ty dầu khí nhà nước trong năm 2003 và của công ty nhà nước trong nước năm 2004.
Năm 2004 Uruguayans được bầu làm tổng thống Tabaré Vázquez, trong khi cho Mặt trận Rộng (liên minh của chủ nghĩa xã hội, cộng sản, Tupamaros, cựu cộng sản và dân chủ xã hội) một đa số tại cả hai viện của Quốc hội. Chính phủ mới được bầu, trong khi cam kết tiếp tục thanh toán nợ nước ngoài của Uruguay, cũng đã hứa sẽ thực hiện một vụ tai nạn công ăn việc làm chương trình để tấn công những vấn đề phổ biến rộng rãi của nghèo đói và thất nghiệp. Trong thời chính quyền cựu Tổng thống Vazquez Juan Maria Bordaberry và Tổng Gregorio Alzarez sẽ được tống giam đối với vi phạm nhân quyền cam kết trong thập niên 1970 '. Điều tra bắt đầu sau khi xuất bản cuốn sách "Los Años Oscuros 1967-1987" của Northamerican sử Scott Myers.
Trong năm 2009 Mặt trận Rộng giành cho cuộc bầu cử lần thứ hai. Còn lại liên minh duy trì phần lớn trong cả hai ngôi nhà của Nghị viện và José Mujica nổi lên làm Tổng thống mới của Uruguay. Được gọi là "El Pepe", (sinh ngày 20 tháng năm 1935) Mujica là một chính trị gia Uruguay và cựu du kích chiến đấu, một thành viên của Mặt trận Rộng (liên minh cánh tả) và Tổng thống Uruguay hiện hành. Ông đã sống khắc khổ trên một trang trại ở ngoại ô Montevideo, thủ đô của đất nước. Mujica đã được Bộ trưởng Bộ Chăn nuôi, Nông nghiệp, Thủy sản và 2005-2008 và một Thượng nghị sĩ sau đó. Ông đã giành được cuộc bầu cử tổng thống và nhậm chức làm Tổng thống vào ngày 01 tháng 3 năm 2010.
Địa lí
Khí hậu
Tỉnh thành
Sở | Diện tích (km2) | Dân số | Thủ phủ |
---|---|---|---|
- 1Artigas | 11,928 | 79,317 | Artigas |
- 2Canelones | 4,536 | 509,095 | Canelones |
- 3Cerro Largo | 13,648 | 89,383 | Melo |
- 4Colonia | 6,106 | 120,855 | Colonia del Sacramento |
- 5Durazno | 11,643 | 60,926 | Durazno |
- 6Flores | 5,144 | 25,609 | Trinidad |
- 7Florida | 10,417 | 69,968 | Florida |
- 8Lavalleja | 10,016 | 61,883 | Minas |
-9 Maldonado | 4,793 | 147,391 | Maldonado |
- 10Montevideo | 530 | 1,342,474 | Montevideo |
-11 Paysandú | 13,922 | 115,623 | Paysandú |
-12 Río Negro | 9,282 | 55,657 | Fray Bentos |
- 13Rivera | 9,370 | 109,267 | Rivera |
-14 Rocha | 10,551 | 70,614 | Rocha |
-15 Salto | 14,163 | 126,745 | Salto |
-16 San José | 4,992 | 107,644 | San José de Mayo |
-17 Soriano | 9,008 | 87,073 | Mercedes |
-18 Tacuarembó | 15,438 | 94,613 | Tacuarembó |
-19 Treinta y Tres | 9,676 | 49,769 | Treinta y Tres |
* 2007 |
Kinh tế
Chăn nuôi bò, cừu trở thành ngành kinh tế chủ yếu thúc đẩy phát triển các ngành công nghiệp chế biến để xuất khẩu (len, hàng dệt, thịt và ngành da thú). Ngành trồng trọt gồm có: ngũ cốc, mía, cây ăn quả.
Kinh tế gặp nhiều khó khăn do nợ nước ngoài chồng chất. Là nước thành viên của tổ chức Mercosur, Uruguay bị lấn át bởi hai nước láng giềng khổng lồ Brasil và Argentina. Thâm hụt cán cân mậu dịch gia tăng.
Mặc dù nông nghiệp chỉ chiếm 9% GDP, nhưng nông phẩm chiếm hơn 50% hàng xuất khẩu. Urugoay đứng đầu Mỹ Latinh và thứ 6 thế giới về xuất khẩu lúa gạo. Công nghiệp chủ yếu là chế biến nông sản (thịt, sản phẩm da thuộc, len…). Từ giữa thập kỷ 80 của thế kỷ 20, Urugoay theo mô hình kinh tế tự do mới, giảm được lạm phát và thâm hụt ngân sách, cân đối xuất nhập khẩu. Urugoay là một trong những nước có điều kiện và chính sách lao động tự do nhất ở châu Mỹ.
Từ năm 1999, kinh tế Urugoay suy thoái, một nguyên nhân lớn là do tác động của việc phá giá tiền tệ của Brasil làm giảm sức cạnh tranh của hàng hoá Urugoay và ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế Argentina. Tháng 6 năm 2002, chính phủ quyết định thả nổi đồng pê xô, đồng đô la Mỹ tăng giá 60% so với nội tệ, giúp cho hàng hoá xuất khẩu của Urugoay tăng sức cạnh tranh nhưng cũng gây ra đổ vỡ tín dụng, khủng hoảng hệ thống ngân hàng, làm giảm sức mua của người tiêu dùng và tăng lạm phát từ 4% (2001) lên tới 26% (2002).
Urugoay có môi trường đầu tư tốt, hệ thống pháp lý mạnh và thị trường tài chính mở cửa. Chiến lược của chính phủ hiện nay là kích thích tăng trưởng dựa trên việc đẩy mạnh xuất khẩu sang các nước bạn hàng truyền thống trong khối Mercosur, EU và Bắc Mỹ. Với châu Á, Urugoay có quan hệ thương mại với Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc, Singapore, Malaysia và Indonesia... Urugoay xuất hàng truyền thống như thịt bò, lúa gạo, len, cá, da thuộc và đồ da; nhập khẩu máy móc, hoá chất, nhiên liệu, hàng tiêu dùng, quần áo...
Nông nghiệp
Nông nghiệp đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế của Uruguay. Hiện nay, nông nghiệp đóng góp 11% GDP của Uruguay và là nguồn thu ngoại hối chính, đưa Uruguay lên ngang tầm các nước có số lượng nông sản xuất khẩu khác như Brasil, Argentina, New Zealand.Chính trị
Uruguay là một nền cộng hòa dân chủ. Tổng thống giữ cả hai vai trò đứng đầu nhà nước và chính phủ. Tổng thống giữ quyền hành pháp. Quốc hội, gòm thượng viện và hạ viện giữ quyền lập pháp. Bộ tư pháp nắm quyền tư pháp.Đảng Colorado và các bên khác đã đấu tranh giành quyền lực trong suốt phần lớn lịch sử Uruguay. Tuy nhiên, vào cuộc bầu cử năm 2004, một mặt trận rộng đã được thành lập gồm liên minh của Tupamaros, cộng sản, Đảng Dân chủ Thiên chúa giáo trong số những người được bầu vào quốc hội. Tabare Vazquez được bầu làm Tổng thống.
Hiến pháp đầu tiên của Uruguay được thông qua vào năm 1830, sau Hiệp ước Montevideo theo đó thành lập nhà nước Uruguay.
Uruguay là nước đứng thứ 25 trong Chỉ số nhận thức tham nhũng.
Hiến pháp Uruguay cho phép sử dụng trưng cầu dân ý để thay đổi luật pháp và hiến pháp.
Giao thông vận tải
Đường bộ
Đường quốc lộ kết nối Montevideo và các thành phố lớn khác trong nước. Đường cao tốc chính dẫn tới những vùng biên giới. Những con đường nhỏ khác không được trải nhựa nối các trang trại và thị trấn nhỏ. Đường sá phát triển mạnh sau khi Khối thị trường chung Nam Mỹ được thành lập vào những năm 1990. Hầu hết hàng hóa vận chuyển trong nước được chuyên chở bằng đường bộ chứ không phải đường sắt.Đường sắt
Mạng lưới đường sắt hầu hết đều đã cũ (mua của Anh từ Chiến tranh thế giới thứ nhất) trừ một đường nhỏ chạy từ Montevideo đi San José, qua các thành phố Las Piedras và Canelones.Đường thủy
Cảng biển chủ yếu ở Montevideo, Tàu thuyền di chuyển trong nội địa có các kích thước khác nhau, một dịch vụ tàu cánh ngầm kết nối Buenos Aires với Montevideo và Colonia del Sacramento qua Rio de Plata.Hàng không
Một sân bay quốc tế nằm gần khu nghỉ mát bãi biển Carrasco một khoảng 21 km từ trung tâm thành phố Montevideo. Các hãng hàng không thuộc sở hữu của chính phủ, Primeras Líneas Uruguayas de Navegación Aérea (PLUNA), liên kết các điểm đến Montevideo với một số sân bay quốc tế.Tôn giáo
Uruguay không có tôn giáo chính thức của nhà nước, nhà thờ và nhà nước được chính thức tách ra, và tự do tôn giáo được đảm bảo.[2] Một cuộc khảo sát năm 2008 của Viện Nacional de Estadística của Uruguay cho thấy Công giáo Rôma là tôn giáo chính, với 45,7% dân số tin theo, 9,0% là Kitô hữu khác ngoài Công giáo, 0,6% là Thuyết duy linh hoặc Umbandists (một tôn giáo bản địa), và 0,4% là người Do Thái giáo, 30,1% cho biết họ có tin tưởng vào một vị thần, nhưng không thuộc tôn giáo nào, trong khi 14% là người vô thần hoặc bất khả tri.[3]Giới quan sát chính trị xem Uruguay quốc gia thế tục nhất ở châu Mỹ.[4] Uruguay thế tục hóa bắt đầu với vai trò tương đối nhỏ của nhà thờ trong thời kỳ thuộc địa, so với các bộ phận khác của đế quốc Tây Ban Nha. Sau khi độc lập, ý tưởng chống đối ảnh hưởng của tôn giáo đối với chính quyền lan rộng tới Uruguay, đặc biệt là từ Pháp, tiếp tục làm xói mòn ảnh hưởng của nhà thờ đối với chính phủ.[5] Năm 1837, hôn nhân dân sự đã được công nhận và năm 1861 nhà nước tiếp quản các hoạt động của các nghĩa trang nhân dân vốn do nhà thờ đảm trách. Trong năm 1907, ly hôn đã được hợp pháp hóa và năm 1909, tất cả các chương trình giáo dục giảng dạy tôn giáo đã bị cấm tại tất cả các trường công lập nhà nước. Dưới ảnh hưởng của các cải cách tự do, do nhà lãnh đạo Colorado José Batlle y Ordóñez (1903-1911) đề xướng, một bản Hiến pháp mới đã được ban hành năm 1997 đã tách hoàn toàn ảnh hưởng của nhà thờ đối với nhà nước.[6]
Theo khảo sát chính thức gần đây nhất khoảng 58,1% dân số Uruguay xác định mình là Kitô giáo (47% Công giáo La Mã, Tin Lành 11,1%), và khoảng 40,89% dân số không xưng tôn giáo (23,2% "tin vào Thiên Chúa nhưng không có tôn giáo", 17,2% là người vô thần), 0,6% là tín đồ của các tôn giáo châu Phi khác, 0,5% là người Do Thái giáo, và 0,4% theo tôn giáo khác.[7]
Có khoảng 2,3 triệu người Công giáo Rôma trong cả nước. Có 9 giáo phận trực thuộc tổng giáo phận Montevideo; Chủ tịch Hội Đồng Giám Mục Uruguay hiện nay lag Tổng giám mục Nicolas Cotugno Fanizzi, người được bổ nhiệm vào tháng 12 năm 1998. Các vị thánh bảo trợ của Uruguay là Maria, hiện được tôn kính tại Vương Cung Thánh Đường Nhà thờ Florida.[8]
Hồi giáo ở Uruguay ước tính có từ 300 đến 400 người, đại diện cho 0,01 phần trăm dân số. Có hai trung tâm Hồi giáo, tại Montevideo.[9]
Hiện nay, có từ 20.000-25.000 người Do Thái giáo sống ở Uruguay, với 95% cư trú tại Montevideo. Có một cộng đồng nhỏ ở Paysandú. Khoảng 75% trong số đó là nhánh Do Thái giáo Ashkenazi và 11% thuộc nhánh Sephardi. Đến năm 2003, có 20 giáo đường Do Thái, nhưng chỉ có sáu trong số đó tổ chức các buổi lễ Shabbat hàng tuần.
Đức tin Bahá'í được truyền bá đến Uruguay bởi Abdu'l-Baha, một trong những người đứng đầu tôn giáo này trong năm 1916.[10] Hội đồng tin thần Bahá'í địa phương đầu tiên tại Montevideo được bầu vào năm 1942. Năm 1961, Hội đồng tinh thần Bahá'í Uruguay được thiết lập và tới năm 1963 đã có ba Hội đồng tinh thần Bahá'í địa phương. Năm 2001 có khoảng 4.000 tín đồ Baha'is tại Uruguay và đến năm 2005, đã tăng lên 7.300 người.[11]
Externi liên kết
|
Tham khảo
- ^ Transparency.org
- ^ Bureau of Western Hemisphere Affairs. "Background Note: Uruguay". US Department of State. Retrieved 23 February 2011.
- ^ http://www3.ine.gub.uy/anda4/ddibrowser/
- ^ http://www.morris.umn.edu/academics/laas/
- ^ http://www.explore-uruguay.com/uruguay-government.html#.UcP-0DuBkhs
- ^ http://countrystudies.us/uruguay/43.htm
- ^ "Extended National Household Survey, 2006: Religion" (PDF) (in Spanish). National Institute of Statistics.
- ^ http://www.catholic-hierarchy.org/diocese/dmovi.html
- ^ http://www.state.gov/j/drl/rls/irf/2007/90270.htm
- ^ http://reference.bahai.org/en/t/ab/TDP/tdp-6.html
- ^ http://www.state.gov/j/drl/rls/irf/2001/5721.htm
Galileo Galilei
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Galileo Galilei | |
---|---|
Chân dung của Galileo Galilei,
do Giusto Sustermans vẽ |
|
Sinh | 15 tháng 2, 1564[1] Pisa,[1] Công quốc Firenze |
Mất | 8 tháng 1, 1642 (77 tuổi)[1] Arcetri,[1] Tuscany |
Nơi cư trú | Đại công quốc Tuscany |
Tôn giáo | Công giáo Rôma |
Ngành | Thiên văn, Vật lý và Toán học |
Alma mater | Đại học Pisa |
Người hướng dẫn luận án tiến sĩ | Ostilio Ricci[2] |
Các sinh viên nổi tiếng | Benedetto Castelli Mario Guiducci Vincenzio Viviani[3] |
Nổi tiếng vì | Động lực học Chuyển động học Các khám phá thiên văn bằng kính viễn vọng Thuyết nhật tâm |
Chữ ký |
Sự chuyển động của các vật thể tăng tốc đều, được dạy ở hầu hết trong các khóa học về vật lý của các trường trung học và cao đẳng, đã được Galileo nghiên cứu trong chủ đề về chuyển động học. Những đóng góp của ông trong thiên văn học quan sát gồm vệc xác nhận các tuần của Sao Kim bằng kính thiên văn, phát hiện bốn vệ tinh lớn nhất của Sao Mộc, được đặt tên là các vệ tinh Galileo để vinh danh ông, và sự quan sát và phân tích vết đen Mặt Trời. Galileo cũng làm việc trong khoa học và công nghệ ứng dụng, cải tiến thiết kế la bàn.
Sự bênh vực của Galileo dành cho Chủ nghĩa Copernicus đã gây tranh cãi trong đời ông. Quan điểm địa tâm đã là thống trị từ thời Aristotle, và sự tranh cãi nảy sinh sau khi Galileo trình bày thuyết nhật tâm như một minh chứng khiến giáo hội Công giáo Rôma cấm tuyên truyền nó như một sự thực đã được chứng minh, vì nó chưa được chứng minh theo kinh nghiệm ở thời điểm ấy và trái ngược với ý nghĩa của Kinh Thánh.[10] Galileo cuối cùng buộc phải từ bỏ thuyết nhật tâm của mình và sống những ngày cuối đời trong cảnh bị quản thúc tại gia theo lệnh của Toà án dị giáo La Mã.
Mục lục
Cuộc đời
Galileo sinh tại Pisa (khi ấy là một phần của Lãnh địa công tước Florence), Italia, con cả trong số sáu người con của Vincenzo Galilei, một người chơi đàn luýt và nhà lý luận âm nhạc nổi tiếng, và Giulia Ammannati. Bốn trong số sáu người con sống qua tuổi sơ sinh, và người con út Michelangelo (hay Michelagnolo) trở thành một người chơi đàn luýt và nhà soạn nhạc nổi tiếng.Tên đầy đủ của Galileo là Galileo di Vincenzo Bonaiuti de' Galilei. Khi ông lên 8, gia đình ông chuyển tới Florence, nhưng ông ở lại cùng Jacopo Borghini trong hai năm.[1] Sau đó ông đi học tại Tu viện Camaldolese ở Vallombrosa, 35 km phía đông nam Florence.[1] Dù khi còn trẻ ông nghiêm túc đi theo con đường tu sĩ, nhưng ông cũng theo học y tại Đại học Pisa theo yêu cầu của cha mình. Ông không hoàn thành khoá học, mà thay vào đó nghiên cứu toán học.[11] Năm 1589, ông được chỉ định làm giáo sư toán tại Pisa. Năm 1591 cha ông mất và ông được giao phó việc chăm lo người em trai Michelagnolo. Năm 1592, ông tới Đại học Padua, dạy địa lý, cơ khí, và thiên văn học cho tới năm 1610.[12] Trong giai đoạn này Galileo đã thực hiện những khám phá quan trọng trong cả khoa học lý thuyết (ví dụ, động học của chuyển động và thiên văn học) và khoa học ứng dụng (ví dụ, sức bền vật liệu, cải tiến kính thiên văn). Các quan tâm của ông gồm nghiên cứu chiêm tinh, mà ở thời tiền hiện đại được xem là liên quan với việc nghiên cứu toán học và thiên văn học.[13]
Dù là một tín đồ sùng đạo của Giáo hội Công giáo Rôma[14], Galileo có ba đứa con ngoài giá thú với Marina Gamba. Họ có hai con gái, Virginia sinh năm 1600 và Livia sinh năm 1601, và một con trai, Vincenzo, sinh năm 1606. Vì là con ngoài giá thú, ông cho rằng các cô con gái của mình không thể lập gia đình. Tương lai duy nhất của họ là tôn giáo. Cả hai cô gái đều được gửi tới nhà dòng kín San Matteo ở Arcetri và sống trọn đời ở đó.[15] Virginia lấy tên Maria Celeste khi vào nhà tu. Bà mất ngày 2 tháng 4 năm 1634, và được chôn cất cùng Galileo tại Basilica di Santa Croce di Firenze. Livia lấy tên Sister Arcangela và ốm đau trong suốt cuộc đời. Vincenzo sau này được hợp pháp hoá và cưới Sestilia Bocchineri.[16]
Năm 1610 Galileo xuất bản một cuốn sách về các quan sát thiên văn của mình với các Mặt Trăng của Sao Mộc, sử dụng quan sát này để ủng hộ lý thuyết nhật tâm của vũ trụ của Copernicus chống lại thuyết địa tâm Ptolemy và các lý thuyết của Aristote. Năm sau đó, Galileo tới thăm Rome để chứng minh kính viễn vọng của mình trước các nhà triết học và toán học của Học viện Dòng Tên Rôma (Jesuit Collegio Romano), và để họ tự thấy bằng mắt mình sự thực về bốn Mặt Trăng của Sao Mộc.[17] Khi ở Rome ông cũng trở thành một thành viên của Accademia dei Lincei.[18]
Năm 1612, xuất hiện sự chống đối thuyết nhật tâm của vũ trụ đang được Galileo ủng hộ. Năm 1614, từ bục giảng kinh của Vương cung thánh đường Santa Maria Novella, linh mục Tommaso Caccini (1574–1648) lên án các ý kiến của Galileo về sự chuyển động của Trái Đất, cho rằng chúng là nguy hiểm và gần với sự dị giáo. Galileo tới Roma để bảo vệ mình trước những cáo buộc đó, nhưng, vào năm 1616, hồng y Robert Bellarmine đích thân khiển trách Galileo bắt ông không được ủng hộ cũng như giảng dạy thiên văn học Copernicus.[19] Trong năm 1621 và 1622, Galileo đã viết cuốn sách đầu tiên của mình, Người thí nghiệm (Il Saggiatore), được phê duyệt và cho phát hành năm 1623. Năm 1630, ông quay lại Roma để xin giấy phép in cuốn Đối thoại về hai Hệ thống Thế giới, được xuất bản tại Florence năm 1632. Tuy nhiên, vào tháng 10 năm ấy, ông bị bắt phải ra trước Thánh bộ Giáo lý Đức tin ở Roma.
Sau một phiên xử của Giáo hoàng, theo đó ông bị nghi ngờ mạnh mẽ là dị giáo, Galileo bị quản thúc tại gia và các hoạt động của ông bị Giáo hoàng kiểm soát. Từ năm 1634 trở về sau, ông sống tại ngôi nhà thôn quê ở Arcetri, bên ngoài Florence. Ông bị mù hoàn toàn năm 1638 và bị chứng thoát vị và mất ngủ đầy đau đớn, vì thế ông được cho phép tới Florence chữa bệnh. Ông tiếp tục tiếp khách cho tới năm 1642, sau khi qua đời vì sốt và chứng tim đập nhanh.[20][21]
Các phương pháp khoa học
Galileo đã có những đóng góp cơ bản cho khoa học về chuyển động bằng cách kết hợp một cách sáng tạo giữa toán học và thực nghiệm.[22]. Một đặc trưng nữa của khoa học thời bấy giờ là các nghiên cứu định tính của William Gilbert về điện và từ tính. Cha của Galileo, Vincenzo Galilei, một nghệ sĩ đàn luýt kiêm nhà lý luận âm nhạc, đã tiến hành các thực nghiệm thiết lập nên hệ thức phi tuyến tính có thể được xem là cổ xưa nhất trong vật lý học: đối với một dây đàn dược kéo căng, cao độ sẽ biến thiên theo căn bặc hai của độ căng.[23] Những quan sát này dựa trên nền tảng trước đó của Pythagore và những người theo thuyết của ông trong lĩnh vực âm nhạc, họ cũng đồng thời là những người chế tạo nhạc cụ, đó là: chia nhỏ dây đàn theo một số nguyên thì sẽ tạo ra một thang âm hài hoà. Như vậy, trong một chừng mực nào đó, toán học đã có một mối quan hệ lâu đời với vật lý và âm nhạc, và Galileo trẻ tuổi đã nhận thấy những quan sát của cha mình được khai triển dựa trên truyền thống đó.[24].Có lẽ Galileo là người đầu tiên phát biểu một cách rõ ràng rằng các quy luật của tự nhiên đều liên quan đến toán học. Trong cuốn The Assayer (Người Thí nghiệm) ông viết "Triết học được viết trong cuốn sách lớn này, vũ trụ... Nó được viết bằng ngôn ngữ của toán học, ký tự của nó là những hình tam giác, hình tròn, và các đường hình học khác...".[25] Những phân tích toán học của ông là sự phát triển của một truyền thống đã được các nhà triết học tự nhiên kinh viện sử dụng từ trước, Galileo đã học lý luận đó khi ông nghiên cứu triết học.[26] Bất chấp việc ông nỗ lực trung thành với Giáo hội Công giáo, giữ vững lập trường của mình với các kết quả thực nghiệm, và cả những giải nghĩa chân thực nhất mà những thực nghiệm đó đưa ra, kết quả vẫn là sự bác bỏ của những nhà cầm quyền với sự trung thành mù quáng với giáo lý và cả triết học khi xem xét các vấn đề khoa học. Xét trên diện rộng, điều này đã thúc đẩy việc tách khoa học ra khỏi triết học và tôn giáo; một bước ngoặt trong tư duy của nhân loại.
Với những tiêu chuẩn thời đó, Galileo vẫn luôn sẵn sàng thay đổi quan điểm theo những quan sát đạt được của mình. Nhà triết học đồng thời cũng là một nhà khoa học hiện đại, Paul Feyerabend, cũng từng lưu ý đến những khía cạnh được cho là sai trong phương pháp luận của Galileo nhưng ông cũng chỉ ra rằng phương pháp của Galileo, với những kết quả đã đưa ra, vẫn có thể đúng so với khoa học thời kì trước. Phần lớn công việc chính của Feyerabend, Against Method (1975), được dành cho những phân tích của Galileo, ông sử dụng nghiên cứu thiên văn của Galileo như một mẫu nghiên cứu để hỗ trợ cho nghiên cứu của ông về sự hỗn loạn trong các phương pháp nghiên cứu khoa học. Ông viết: 'Những người theo thuyết của Aristote... đòi hỏi sự hỗ trợ của kinh nghiệm trước đó trong khi những người theo thuyết của Galileo thì lại bằng lòng với những lý thuyết đa chiều, không chắc chắn và bị bác bỏ một phần. Tôi không phê phán họ nhưng tôi vẫn ủng hộ câu nói của Niels Bohr "Chỉ điên thì không đủ" '.[27] Để công bố những thực nghiệm của mình, Galileo đã phải thiết lập các tiêu chuẩn về độ dài và thời gian, để các phép đo vào những ngày khác nhau và trong các phòng thí nghiệm khác nhau có thể được so sánh trong cùng một khuôn mẫu.
Galileo thể hiện một sự đánh giá tiến bộ phi thường vế mối quan hệ đúng đắn giữa toán học, vật lý lý thuyết và vật lý thực nghiệm. Ông hiểu biết về các parabol, về mặt tiết diện conic lẫn về mặt toạ độ. Galileo xác định thêm rằng parabol là quỹ đạo lý thuyết lý tưởng đối với những vật được bắn ra, chuyển động nhanh dần đều mà không có ma sát hay bất cứ lực cản nào. Galileo thừa nhận rằng lý thuyết này chỉ có giá trị giới hạn, về mặt lý thuyết thì quỹ đạo phóng một vật phóng có kích thước tương tự với Trái Đất không thể là parabol,[28] nhưng ông vẫn cho rằng đối với khoảng cách lên tới phạm vi của tầm pháo trong thời của ông, quỹ đạo parabol của một phóng bị lệch không đáng kể.[29]. Thứ ba, ông nhận ra rằng dữ liệu thực nghiệm của ông sẽ không bao giờ giống một cách chính xác với bất kỳ biểu thức lý thuyết hoặc toán học nào vì sự thiếu chính xác của các phép đo, sự ma sát, và các yếu tố khác.
Theo Stephen Hawking, Galileo là người ảnh hưởng nhiều nhất đối với sự ra đời của khoa học hiện đại hơn bất kỳ người nào khác.,[30] Albert Einstein gọi ông là cha đẻ của khoa học hiện đại.[31]
Thiên văn học
Đóng góp
Chỉ dựa vào một số miêu tả không chính xác về chiếc kính viễn vọng thực tế đầu tiên, do Hans Lippershey người Hà Lan phát minh năm 1608, Galileo, trong năm sau đó, đã làm một chiếc kính viễn vọng có độ phóng đại 3x, và sau này làm những chiếc khác có độ phóng đại lên tới 30x.[32] Với thiết bị đã được cải tiến này ông có thể thấy các hình ảnh phóng đại, thẳng đứng trên Trái Đất – cái mà hiện được biết là kính viễn vọng Trái Đất, hay kính thiên văn nhỏ. Ông cũng có thể sử dụng nó để quan sát bầu trời; trong một thời gian ông là một trong những người chế tạo các kính thiên văn đủ tốt cho mục đích đó. Ngày 25 tháng 8 năm 1609, ông trưng bày chiếc kính viễn vọng đầu tiên của mình trước những nhà lập pháp Venice. Công việc chế tạo kính thiên văn của ông còn có tác dụng phụ mang lại khá nhiều tiền khi các lái buôn thấy nó hữu ích cho các chuyến đi biển và đi buôn của họ. Ông đã xuất bản các quan sát thiên văn học bằng kính viễn vọng đầu tiên của mình vào tháng 3 năm 1610 trong một chuyên luận ngắn có nhan đề Sidereus Nuncius (Sứ giả sao).[33]Ngày 7 tháng 1 năm 1610, Galileo quan sát bằng kính viễn vọng của mình cái ông miêu tả ở thời gian đó là "ba định tinh, hoàn toàn không nhìn thấy được bởi chúng quá nhỏ", tất cả nằm gần Sao Mộc và thẳng hàng qua nó.[34] Những quan sát vào các đêm sau đó cho thấy các vị trí của các "ngôi sao" đó liên quan tới Sao Mộc đang thay đổi theo một cách khiến chúng có thể là không giải thích được nếu đó thực sự là các định tinh. Ngày 10 tháng 1, Galileo ghi chú rằng một trong số chúng đã biến mất, một quan sát mà ông cho rằng nó đã bị Sao Mộc che khuất. Trong vài ngày ông đã kết luận rằng chúng quay quanh Sao Mộc:[35] Ông đã khám phá ra bốn vệ tinh (Mặt Trăng) lớn nhất của Sao Mộc: Io, Europa, và Callisto. Ông phát hiện ra vệ tinh thứ tư, Ganymede, ngày 13 tháng 1. Galileo đặt tinh cho bốn vệ tinh ông đã phát hiện ra là những ngôi sao Medici, để vinh danh người bảo trợ tương lai của ông, Cosimo II de' Medici, Đại Công tước Tuscany, và ba người anh em của Cosimo.[36] Tuy nhiên, các nhà thiên văn học sau này đổi tên chúng thành các vệ tinh Galileo để vinh danh ông.
Một hành tinh với các hành tinh nhỏ hơn quay quanh nó không thích hợp với các nguyên tắc của Thiên văn học Aristotle, cho rằng mọi thiên thể phải quay quanh Trái Đất,[37] và nhiều nhà thiên văn học và triết học ban đầu đã từ chối tin rằng Galileo đã phát hiện ra một vật như thế.[38]
Galileo tiếp tục quan sát các vệ tinh trong mười tám tháng sau đó, và tới giữa năm 1611 ông đã có nhiều ước tính chính xác về các chu kỳ của chúng—một kỳ công mà Kepler đã cho rằng không thể thực hiện.[39]
Từ tháng 9 năm 1610, Galileo quan sát thấy Sao Kim có đủ các tuần tương tự như Mặt Trăng. Mô hình nhật tâm của hệ mặt trời được Nicolaus Copernicus phát triển tiên đoán rằng tất cả các pha phải được quan sát thấy bởi Sao Kim quay quanh Mặt trời sẽ khiến phần được chiếu sáng của nó quay về phía Trái Đất khi nó ở phía đối diện của Mặt trời và quay đi khi nó ở cùng phía với Trái Đất. Trái lại, mô hình địa tâm của Ptolemy dự đoán rằng chỉ trăng lưỡi liềm và các tuần mới mới có thể được quan sát, bởi Sao Kim được cho là nằm giữa Mặt Trời và Trái Đất khi nó quay quanh Trái Đất. Các quan sát của Galileo về các tuần của Sao Kim chứng minh rằng nó quay quanh Mặt trời và là bằng chứng ủng hộ (nhưng không chứng minh cho) mô hình nhật tâm. Tuy nhiên, bởi nó bác bỏ mô hình hành tinh hoàn toàn địa tâm của Ptolemy, dường như nó là quan sát có tính quyết định khiến đa số cộng đồng khoa học thế kỷ 17 quay sang ủng hộ các mô hình nhật-địa tâm (tất cả các hành tinh chuyển động xung quanh Mặt trời nhưng Mặt trời quay quanh Trái Đất)[40] và địa tâm như các mô hình Tycho và Capella,[41] và vì thế được cho là quan sát thiên văn quan trọng nhất của Galileo.
Galileo cũng quan sát Sao Thổ, và ban đầu nhầm lẫn các vành đai của nó là các hành tinh, cho rằng nó là hệ ba vật thể. Khi ông quan sát hành tinh ở thời điểm sau này, các vành đai của Sao Thổ hướng trực tiếp về phía Trái Đất, khiến ông cho rằng hai vật thể đã biến mất. Các vành đai tái xuất hiện khi ông quan sát hành tinh năm 1616, càng khiến ông bối rối.[42]
Galileo là một trong những người Châu Âu đầu tiên quan sát các đốm mặt trời, dù Kepler đã không chủ tâm quan sát một đốm năm 1607, nhưng nhầm lẫn cho rằng đó là một sự lướt qua của Sao Thuỷ. Ông cũng tái giải thích một quan sát đốm mặt trời từ thời Charlemagne, mà trước kia được gán cho (không có khả năng) một lần lướt qua của Sao Thuỷ. Sự tồn tại của các đốm mặt trời cho thấy một khó khăn khác trong sự hoàn hảo không thể thay đổi của các tầng trời do vật lý thiên thể chính thống Aristotle đặt ra, nhưng những lần lướt qua có chu kỳ đều của nó cũng xác nhận dự đoán trong cơ học thiên thể Aristotle của Kepler trong tác phẩm Astronomia Nova (Thiên văn Mới) năm 1609 của ông rằng mặt trời quay, đây là tiên đoán đúng đầu tiên của vật lý thiên thể thời hậu mặt cầu.[43] Và những biến đổi hàng năm trong các chuyển động của các đốm mặt trời, do Francesco Sizzi và những người khác khám phá năm 1612–1613,[44] cung cấp một bằng chứng mạnh chống lại cả hệ Ptolemy và hệ địa-nhật tâm của Tycho Brahe.[45] Vì các biến đổi theo mùa bác bỏ mọi mô hình hành tinh địa tĩnh không chuyển động địa chất như mô hình địa tâm hoàn toàn của Ptolemy và mô hình địa-nhật tâm của Tycho theo đó Mặt trời quay quanh Trái Đất hàng ngày, vì thế sự thay đổi phải xuất hiện hàng ngày. Nhưng nó có thể giải thích được bằng các hệ thống quay địa chất như mô hình địa-nhật tâm bán Tycho của Longomontanus, các mô hình địa-nhật tâm của Capella và mở rộng của Capella với một sự chuyển động quay hàng ngày của Trái Đất, và mô hình nhật tâm hoàn toàn. Một cuộc tranh cãi về sự ưu tiên trong việc khám phá các đốm mặt trời, và sự giải thích chúng, khiến Galileo rơi vào một sự thù hằn kéo dài và cay đắng với thầy tu dòng Tên Christoph Scheiner; trên thực tế, có ít nghi ngờ rằng cả hai người trong số họ đã bị đánh bại bởi David Fabricius và con trai ông Johannes, tìm kiếm việc xác nhận tiên đoán của Kepler về chuyển động của Mặt trời.[46] Scheiner nhanh chóng chấp nhận đề xuất năm 1615 của Kepler về thiết kế kính thiến văn hiện đại, cho độ phóng đại lớn hơn nhưng hình ảnh bị lộn ngược; Galileo rõ ràng không thay đổi thiết kế của Kepler.
Galileo là người đầu tiên thông báo về các ngọn núi và hố va chạm trên Mặt Trăng, mà ông cho sự hiện diện của nó bởi các kiểu mẫu sáng và tối trên bề mặt Mặt Trăng. Thậm chí ông còn ước tính chiều cao của các ngọn núi từ các quan sát đó. Điều này dẫn ông tới kết luận rằng Mặt Trăng là "xù xì và không bằng phẳng, và giống như chính bề mặt của Trái Đất," chứ không phải là một mặt cầu hoàn hảo như Aristotle đã tuyên bố. Galileo quan sát Ngân hà, trước đó được cho là một tinh vân, và thấy rằng nó là tập hợp những ngôi sao trong một vùng quá đặc khiến nó trông như một đám mây từ Trái Đất. Ông định vị nhiều ngôi sao khác quá xa để có thể thấy bằng mắt thường. Galileo cũng quan sát Sao Hải Vương năm 1612, nhưng không nhận thấy rằng nó là một hành tinh và không có chú ý đặc biệt đến nó. Trong cuốn sổ ghi chép của ông nó xuất hiện như một ngôi sao tối không đáng chú ý.[47]
Tranh cãi về các sao chổi và Người thí nghiệm
Đầu năm 1619, linh mục Grassi ẩn danh xuất bản một cuốn sách mỏng, An Astronomical Disputation on the Three Comets of the Year 1618 (Một tranh cãi thiên văn về ba sao chổi của năm 1618),[49] bàn cãi về trạng thái của một sao chổi đã xuất hiện hồi cuối tháng 11 năm trước. Grassi đã kết luận rằng sao chổi là một vật thể bùng cháy chuyển động dọc theo một đoạn của một vòng tròn lớn ở một khoảng cách xa từ Trái Đất,[50] và rằng nó nằm ở ngoài xa Mặt Trăng.
Những lý lẽ và kết luận của Grassi đã bị chỉ trích trong một bài viết sau đó, Discourse on the Comets (Bài thuyết trình về các sao chổi),[51] được xuất bản dưới cái tên của một trong những học trò của Galileo, một luật sư người Florence tên là Mario Guiducci, dù phần lớn nó do chính Galileo viết.[52] Galileo và Guiducci không đưa ra lý thuyết xác định của họ về trạng thái của các sao chổi,[53] dù họ quả thực có trình bày một số phỏng đoán không quả quyết mà hiện chúng ta biết là không chính xác.
Trong đoạn mở đầu Bài thuyết trình, Galileo và Guiducci vô cớ xúc phạm thày tu dòng Tên Christoph Scheiner,[54] và có nhiều lưu ý xúc phạm tới các giáo sư của Học viện Roma trong cả tác phẩm.[55] Những tu sĩ Dòng Tên bị xúc phạm,[56] và Grassi nhanh chóng trả lời bằng một luận văn ngắn có tính luận chiến của mình, The Astronomical and Philosophical Balance (Sự cân bằng Thiên văn và Triết học),[57] dưới bút danh Lothario Sarsio Sigensano,[58] ngụ ý là một trong những học sinh của ông.
The Assayer là câu trả lời có tính bác bỏ của Galileo với Cân bằng thiên văn.[59] Nó được mọi người coi là một kiệt tác của văn học luận chiến,[60] trong đó những lý lẽ của "Sarsi" là đối tượng bị khinh thường.[61] Nó được đón chào với nhiều sự ca ngợi, và đặc biệt làm hài lòng vị Giáo hoàng mới là Urban VIII, người được đề tặng cho cuốn sách này.[62]
Cuộc tranh cãi của Galileo với Grassi đã khiến nhiều tu sĩ Dòng Tên từng có thiện cảm với các ý tưởng của ông trở nên xa lánh,[63] và Galileo cùng những người bạn của mình tin rằng những tu sĩ Dòng Tên đó chịu trách nhiệm gây ra cuộc kết tội ông sau này.[64] Tuy nhiên, bằng chứng cho điều này là đáng nghi ngờ.[65]
Galileo, Kepler và các giả thiết thuỷ triều
Năm 1615, hồng y Bellarmine đã viết rằng hệ thống Copernicus không thể được bảo vệ nếu không có "một minh chứng vật lý thực sự rằng Mặt Trời không quay quanh Trái Đất mà là Trái Đất quay quanh Mặt Trời".[66] Galileo xem xét lý thuyết của ông về thủy triều để cung cấp bằng chứng vật lý cần thiết cho chuyển động của Trái Đất. Lý thuyết này quá quan trọng với Galileo tới mức ban đầu ông dự định đặt tên cuốn Dialogue on the Two Chief World Systems (Đối thoại về hai hệ thống thế giới chính) là Dialogue on the Ebb and Flow of the Sea (Đối thoại về thuỷ triều và dòng chảy của biển).[67] Với Galileo, thuỷ triều được gây ra bởi sự chuyển động tiến lùi của nước trong các biển khi một điểm trên bề mặt Trái Đất tăng tốc và giảm tốc vì chuyển động quay của Trái Đất quanh trục của nó và chuyển động xung quanh Mặt Trời. Galileo đã cho truyền bá những quan sát đầu tiên của mình về thuỷ triều năm 1616, chuyển tới hồng y Orsini.[68]Nếu lý thuyết này là đúng, thì chỉ có một lần thủy triều cao trong ngày. Galileo và những người đương thời với ông biết về sự không chính xác này bởi có hai lần thuỷ triều cao hàng ngày tại Venice chứ không phải một, khoảng 12 tiếng một lần. Galileo cho sự bất thường này như kết quả của nhiều nguyên nhân thứ hai, gồm hình dạng của biển, độ sâu, và các yếu tố khác.[69] Chống lại sự quyết đoán rằng Galileo dối trá khi đưa ra những lý lẽ đó, Albert Einstein đã đưa ra quan điểm rằng Galileo đã phát triển "các lý lẽ mê hoặc" của mình và chấp nhận chúng mà không phê phán chỉ là vì ý muốn có bằng chứng vật lý cho chuyển động của Trái Đất.[70]
Galileo đã coi ý tưởng của một người cùng thời với ông là Johannes Kepler rằng Mặt Trăng gây ra thuỷ triều là "điều tưởng tượng vô nghĩa".[71] Galileo cũng từ chối chấp nhận các quỹ đạo elíp của các hành tinh do Kepler đưa ra,[72] coi vòng tròn là hình dạng "hoàn hảo" cho quỹ đạo chuyển động của các hành tinh.
Công nghệ
Galileo đã có những đóng góp vào cái hiện nay được gọi là công nghệ, phân biệt rõ khỏi vật lý thuần tuý, và đề xuất nhiều thứ khác. Điều này không giống với sự phân biệt của Aristotle, ông coi mọi vật lý của Galileo là techne hay tri thức hữu ích, trái ngược với episteme, hay sự xem xét theo quan điểm triết học đối với các những nguyên nhân của sự vật. Trong giai đoạn 1595–1598, Galileo sáng chế và cải tiến một La bàn Địa lý và Quân sự thích hợp sử dụng cho các pháo thủ và những người vẽ bản đồ. Đây là việc cải tiến các thiết bị đã được thiết kế trước đó của Niccolò Tartaglia và Guidobaldo del Monte. Với các pháo thủ, ngoài một cách mới và an toàn hơn để nâng độ chính xác của pháo, nó còn cung cấp một cách tính toán nhanh chóng lượng thuốc súng cho các viên đạn pháo ở các kích thước và vật liệu khác nhau. Như một công cụ địa lý, nó cho phép xây dựng một hình đa giác đều bất kỳ, tính toán diện tích bất kỳ phần nào của hình đa giác hay hình tròn, và thực hiện nhiều tính toán khác. Năm 1593, Galileo chế tạo một nhiệt kế, sử dụng sự giãn nở và co lại của không khí trong một bóng đèn để di chuyển nước vào trong một ống gắn bên cạnh.Năm 1609, Galileo cùng với Thomas Harriot người Anh và những người khác, là những người đầu tiên sử dụng một kính viễn vọng khúc xạ như dụng cụ để quan sát các ngôi sao, hành tinh hay các Mặt Trăng. Cái tên "kính viễn vọng" (telescope) được đặt cho dụng cụ của Galileo bởi một nhà toán học Hy Lạp, Giovanni Demisiani,[73] tại một bữa ăn được tổ chức năm 1611 bởi Hoàng tử Federico Cesi biến Galileo thành một thành viên trong Accademia dei Lincei của ông.[74] Cái tên xuất phát từ từ tiếng Hy Lạp tele = 'xa' và skopein = 'nhìn'. Năm 1610, ông đã sử dụng một kính viễn vọng ở cự ly gần để phóng đại các phần của những con côn trùng.[75] Tới năm 1624 ông đã hoàn thiện[76] một kính hiển vi phức hợp. Ông trao một thiết bị đó cho hồng y Zollern vào tháng 5 năm ấy để giới thiệu với Công tước Bavaria,[77] và vào tháng 9 ông gửi một chiếc khác cho Hoàng tử Cesi.[78] Những thành viên của Accademia dei Lincei lại đóng một vai trò trong việc đặt tên "kính hiển vi" (microscopea) một năm sau đó khi một thành viên của viện Giovanni Faber đặt tên cho sáng chế của Galileo từ từ tiếng Hy Lạp μικρόν (micron) có nghĩa "nhỏ", và σκοπεῖν (skopein) có nghĩa "để nhìn vào". Từ này được dự định cho giống với "kính viễn vọng".[79][80] Những hình vẽ các côn trùng được thực hiện nhờ một trong những kính hiển vi của Galileo, và được xuất bản năm 1625, dường như là tài liệu rõ ràng đầu tiên về việc sử dụng một kính hiển vi phức hợp.[81]
Năm 1612, sau khi đã xác định được các chu kỳ quỹ đạo của các vệ tinh Sao Mộc, Galileo đề xuất rằng với sự hiểu biết đủ chính xác về quỹ đạo của chúng một người có thể sử dụng các vị trí của chúng như một chiếc đồng hồ vũ trụ, và điều này có thể xác định kinh độ. Ông đã bỏ nhiều thời gian làm việc về vấn đề này trong phần còn lại cuộc đời mình; nhưng các vấn đề thực tế rất khó giải quyết. Phương pháp lần đầu áp dụng thành công là của Giovanni Domenico Cassini năm 1681 và sau đó được sử dụng nhiều trong các cuộc điều tra đất đai lớn; ví dụ, phương pháp này đã được Lewis and Clark sử dụng cho hoa tiêu trên biển, nơi mà các quan sát thiên văn bằng kính viễn vọng khó đạt được độ chính xác, vấn đề kinh độ cuối cùng đòi hỏi sự phát triển một đồng hồ hàng hải mang theo được, như thiết bị của John Harrison.
Trong năm cuối đời mình, khi đã mù hoàn toàn, ông thiết kế một cơ cấu hồi cho một chiếc đồng hồ quả lắc, một mô hình véctơ của nó có thể được thấy tại đây. Chiếc đồng hồ quả lắc thực tế hoạt động đầu tiên do Christiaan Huygens chế tạo thập niên 1650. Galilei đã phác thảo nhiều phát minh, như một ngọn nến và một chiếc gương để phản chiếu ánh sáng xuyên quan một ngôi nhà, một máy nhặt khoai tây tự động, một chiếc lược bỏ túi gấp lại được như một đồ ăn, và một thứ dường như là một chiếc bút bi.
Vật lý
Công trình lý thuyết và thực nghiệm của Galileo về chuyển động của các thiên thể, cùng với công trình phần lớn độc lập của Kepler và René Descartes, là sự khởi đầu của cơ học cổ điển được Isaac Newton phát triển.Một tiểu sử do học trò của Galileo Vincenzo Viviani nói rằng Galileo đã thả những quả bóng bằng cùng vật liệu, nhưng có trọng lượng khác nhau, từ Tháp nghiêng Pisa để chứng minh rằng thời gian rơi của chúng không phụ thuộc vào trọng lượng.[82] Điều này trái ngược với điều Aristotle đã dạy: rằng các vật thể nặng rơi nhanh hơn các vật thể nhẹ, liên quan trực tiếp tới trọng lượng.[83] Tuy câu chuyện đã được kể lại nhiều lần, không có lời nào nói rằng chính Galileo đã làm một thực nghiệm như vậy, và nói chung các nhà sử học tin rằng nó hầu như chỉ là một thực nghiệm ý tưởng không diễn ra trong thực tế.[84]
Trong cuốn Discorsi năm 1638 của mình nhân vật Salviati của Galileo được mọi người coi là người phát ngôn của ông, đã cho rằng mọi trọng lượng khác biệt, sẽ rơi với cùng tốc độ tuyệt đối trong chân không. Nhưng điều này trước đó đã được Lucretius đề cập tới[85] và cả Simon Stevin.[86] Salviati cũng cho rằng có thể chứng minh bằng thực nghiệm điều này bằng cách so sánh các chuyển động đu đưa trong không khí với những quả lắc chì hay bần có trọng lượng khác nhau nhưng có kích thước tương tự nhau.
Galileo đã đề xuất rằng một vật thể rơi sẽ rơi với gia tốc đồng nhất, khi sức cản của môi trường mà nó đang rơi trong đó là không đáng kể, hay trong trường hợp giới hạn sự rơi của nó xuyên qua chân không.[87] Ông cũng xuất phát từ định luật động học chính xác cho khoảng cách đã được đi qua trong một gia tốc đồng nhất bắt đầu từ sự nghỉ, có nghĩa nó tỷ lệ với bình phương của thời gian ( d ∝ t 2 ).[88] Tuy nhiên, cả hai trường hợp những khám phá đó mới hoàn toàn ở mức sơ khởi. Định luật bình phương thời gian cho sự thay đổi gia tốc đồng nhất đã được Nicole Oresme biết tới từ thế kỷ 14,[89] và Domingo de Soto, ở thế kỷ 16, cho rằng các vật thể rơi qua một môi trường đồng nhất sẽ có gia tốc đồng nhất[90] Galileo đã thể hiện định luật bình phương thời gian bằng các giải thích hình học và các từ toán học chính xác, so với các tiêu chuẩn của thời ấy. (Những người khác thể hiện lại định luật theo các thuật ngữ đại số). Ông cũng kết luận rằng các vật thể duy trì chuyển động của chúng trừ khi một lực — thường là ma sát — tác động vào chúng, bác bỏ lý thuyết nói chung được chấp nhận của Aristotele rằng các vật thể "tất nhiên" giảm tốc độ và dừng lại trừ khi một lực tác động vào chúng (các ý tưởng triết học liên quan tới quán tính đã được Ibn al-Haytham và Jean Buridan đề xuất từ nhiều thế kỷ trước, và Joseph Needham, Mo Tzu đã đề xuất nó từ nhiều thế kỷ trước nữa, nhưng đây là lần đầu tiên nó được trình bày ở dạng toán học, được kiểm chứng trong thực tế, và đưa ra ý tưởng lực ma sát, sự đột phá quan trọng trong đánh giá quán tính). Nguyên tắc quán tính của Galileo nói: "Một vật thể chuyển động trên một bề mặt phẳng sẽ tiếp tục duy trì hướng và tốc độ trừ khi bị tác động." Nguyên tắc này đã được tích hợp vào trong Các định về luật chuyển động của Newton (định luật thứ nhất).
Galileo cũng tuyên bố (không chính xác) rằng một sự đu đưa của con lắc luôn mất cùng khoảng thời gian, độc lập với biên độ. Có nghĩa, một con lắc đơn giản là đẳng thời. Nói chung mọi người tin rằng ông đi đến kết luận này khi quan sát sự đua đưa của ngọn đèn chùm trong thánh đường Pisa, đo thời gian của nó theo mạch của mình. Tuy nhiên dường như ông không tiến hành thực nghiệm bởi tuyên bố là đúng chỉ với những sự đu đưa rất nhỏ như Christian Huygens đã khám phá ra. Con trai của Galileo, Vincenzo, đã phác thảo một chiếc đồng hồ dựa trên các lý thuyết của cha mình năm 1642. Chiếc đồng hồ này không bao giờ được chế tạo bởi những sự đu đưa lớn bởi cái hồi nghiêng của nó, sẽ là một chiếc đồng hồ tồi. (Xem Kỹ thuật bên trên.)
Năm 1638 Galileo đã miêu tả một phương pháp thực nghiệm để đo vận tốc ánh sáng bằng cách bố trí hai người quan sát, mỗi người cầm một đèn lồng có cửa che, quan sát đèn của nhau ở một khoảng cách. Người quan sát đầu tiên mở cửa sập ở cây đèn của mình, và người thứ hai, ngay khi thấy ánh sáng, lập tức mở cửa sập ở cây đèn của mình. Thời gian giữa lúc người quan sát đầu tiên mở cửa sập và quan sát thấy ánh sáng từ cây đèn của người quan sát thứ hai cho thấy khoảng thời gian ánh sáng cần để đi tiến lùi giữa hai người quan sát. Galileo đã thông báo rằng khi ông thử nó ở một khoảng cách chưa tới một dặm, ông không thể xác định liệu ánh sáng có xuất hiện đồng thời hay không.[91] Trong một khoảng thời gian giữa khi Galileo qua đời và năm 1667, các thành viên của Accademia del Cimento Florence đã lặp lại thực nghiệm ở khoảng cách khoảng một dặm và có được kết quả tương tự.[92]
Galileo ít được biết tới về, nhưng vẫn được quy cho là, một trong những người đầu tiên hiểu được tần số âm thanh. Bằng cách cào một cái đục ở những tốc độ khác nhau, ông kết nối độ cao thấp của âm thanh tạo ra do chiếc đục, một cách đo tần số.
Trong cuốn Đối thoại năm 1632 của mình Galileo đã trình bày một lý thuyết vật lý về thuỷ triều, dựa trên chuyển động của Trái Đất. Nếu chính xác, nó sẽ là một lý lẽ mạnh cho sự chuyển động thực tế của Trái Đất. Trên thực tế, cái tên ban đầu của cuốn sách miêu tả nó như một cuộc đối thoại về thuỷ triều; đoạn nói về thuỷ triều đã bị loại bỏ theo lệnh của Toà án dị giáo. Lý thuyết của ông là cái nhìn đầu tiên vào tầm quan trọng của các hình dạng vịnh biển ảnh hưởng trên kích cỡ và thời gian thuỷ triều; ví dụ, ông đã tính toán chính xác các đợt thuỷ triều nhỏ ở giữa dọc theo Biển Adriatic so với các đợt thuỷ triều ở hai đầu cuối. Tuy nhiên, nếu là một sự tính toán tổng thể về nguyên nhân thuỷ triều, lý thuyết của ông là sai lầm. Kepler và những người khác đã chính xác khi liên kết Mặt Trăng với những ảnh hưởng trên thuỷ triều, dựa trên dữ liệu kinh nghiệm, tuy nhiên một lý thuyết vật lý thực sự về thuỷ triều chỉ xuất hiện với Newton.
Galileo cũng đưa ra nguyên tắc căn bản của tương đối, rằng các định luật của vật lý là như nhau trong bất kỳ hệ thống nào đang chuyển động ở một tốc độ không đổi theo một đường thẳng, không cần biết tới tốc độ và hướng. Vì thế, không có chuyển động tuyệt đối hay sự nghỉ tuyệt đối. Nguyên tắc này cung cấp nền tảng căn bản cho các định luật về chuyển động của Newton và là trung tâm của thuyết tương đối của Einstein.
Toán học
Trong khi việc áp dụng toán học vào vật lý thực nghiệm của Galileo có tính đột phá, các phương pháp toán học của ông là phương pháp tiêu chuẩn của thời kỳ ấy. Sự phân tích và các bằng chứng dựa nhiều trên lý thuyết về tỷ lệ của Eudoxus, như đã được trình bày trong cuốn sách thứ năm của Các nguyên lý Euclid. Lý thuyết này chỉ có được một thế kỷ trước đó, nhờ các bản dịch chính xác của Tartaglia và những người khác; nhưng cuối đời Galileo nó trở thành lạc hậu bởi các phương pháp đại số của Descartes.Galileo đã tạo ra một phần nguyên thuỷ và thậm chí một công trình mang tính tiên tri trong toán học: nghịch lý Galileo, thể hiện rằng có nhiều bình phương hoàn hảo khi có tổng thể các con số, thậm chí đa số các con số không phải là những bình phương hoàn hảo. Điều dường như trái ngược này đã được giải quyết 250 năm sau trong công trình của Georg Cantor.
Tranh cãi với Giáo hội
Galileo đã bảo vệ thuyết nhật tâm, và tuyên bố rằng nó không trái ngược với các đoạn Kinh Thánh đó. Ông lấy quan điểm của Augustine về Kinh Thánh: không hiểu mọi đoạn theo nghĩa đen, đặc biệt khi Kinh Thánh bị nghi ngờ là cuốn sách về thơ và các bài hát, chứ không phải là một cuốn sách chỉ dẫn hay lịch sử. Những người viết Kinh Thánh đã viết từ quan điểm của thế giới Trái Đất, và từ quan điểm đó mặt trời mọc và lặn. Tuy nhiên Galileo đã công khai đặt nghi vấn sự đáng tin cậy trong đoạn Sách Giôsua 10:13 nói: "Mặt Trời liền dừng lại, Mặt Trăng lập tức đứng lại, cho đến khi dân đã trị tội các địch thù", có nghĩa là Mặt Trời và Mặt Trăng đã bị ra lệnh ngừng chuyển động để cho phép người Israel giành chiến thắng.
Tới năm 1616 những cuộc tấn công vào Galileo đã lên tới đỉnh điểm, và ông tới Roma để tìm cách thuyết phục Giáo hội không ngăn cấm các ý tưởng của ông. Cuối cùng, hồng y Bellarmine, theo các chỉ thị của Toà án dị giáo, ra lệnh cho ông "không tin hay bảo vệ" ý tưởng rằng Trái Đất di chuyển và Mặt Trời đứng yên ở trung tâm. Chỉ thị không ngăn cản Galileo thảo luận các lý thuyết nhật tâm (vì thế duy trì một sự chia rẽ bên ngoài giữa khoa học và giáo hội). Trong nhiều năm tiếp theo Galileo đứng ngoài cuộc tranh cãi. Ông tiếp tục dự án của mình khi viết một cuốn sách về chủ đề này, được khuyến khích bởi sự lên ngôi của hồng y Barberini khi ông trở thành Giáo hoàng Urbanô VIII năm 1623. Barberini là một người bạn và là người hâm mộ Galileo, và đã phản đối cuộc kết án Galileo năm 1616. Cuốn sách, Đối thoại về Hai Hệ thống Thế giới Chính, được xuất bản năm 1632, với sự cho phép chính thức của Toà án dị giáo và Giáo hoàng.
Đích thân Giáo hoàng Urbanô VIII yêu cầu Galileo đưa ra những lý lẽ ủng hộ và chống thuyết nhật tâm trong cuốn sách, và cẩn thận không ủng hộ thuyết nhật tâm. Ông lại có một yêu cầu khác, rằng các quan điểm của riêng mình về vấn đề sẽ được đưa vào trong cuốn sách của Galileo. Chỉ yêu cầu sau cùng này được Galileo thực hiện. Không biết vô tình hay hữu ý, Simplicio, người bảo vệ quan điểm Địa tâm của Aristotele trong Đối thoại về Hai Hệ thống Thế giới Chính, thường tự mắc vào các lỗi của chính mình và thỉnh thoảng có vẻ như một người thiểu năng. Điều này khiến Đối thoại về Hai Hệ thống Thế giới Chính có vẻ là một cuốn sách cổ vũ; một cuộc tấn công vào hệ nhật tâm của Aristotele và bảo vệ lý thuyết của Copernicus. Nguy hại hơn, Galileo đã đặt các lời lẽ của Giáo hoàng Urbanô VIII vào miệng Simplicio. Đa số các nhà sử học đồng ý rằng Galileo hành động một cách không chủ ý và bị cô lập trước phản ứng với cuốn sách của mình.[94] Tuy nhiên, Giáo hoàng không xem nhẹ sự nhạo báng bị nghi ngờ đó. Galileo đã mất một trong những người ủng hộ lớn và quyền uy nhất của mình, và bị gọi tới Rôma để bảo vệ những điều ông đã viết.
Với việc để mất nhiều người ủng hộ tại Rôma vì cuốn Đối thoại về Hai Hệ thống Thế giới Chính, Galileo bị gọi ra trước toà vì nghi ngờ dị giáo năm 1633. Phán quyết của Toà án dị giáo nằm trong ba phần chính:
- Galileo bị xác định "rất nghi ngờ về dị giáo", nói rõ là đã tin vào các ý kiến rằng Mặt Trời nằm im ở trung tâm vũ trụ, rằng Trái Đất không phải trung tâm vũ trụ và chuyển động, rằng một người có thể tin vào và bảo vệ một ý kiến coi nó là đúng sau khi nó đã bị tuyên bố là trái ngược với Kinh Thánh linh thiêng. Ông bị yêu cầu "từ bỏ, nguyền rủa và ghê tởm" các ý kiến đó.[95]
- Ông bị ra lệnh bỏ tù; phán quyết này sau đó được đổi thành quản thúc tại gia.
- Cuốn Đối thoại của ông bị cấm; và trong một hành động không được công bố tại phiên xử, việc xuất bản mọi tác phẩm của ông bị cấm, gồm cả những tác phẩm ông có thể viết trong tương lai.[96]
Sau một giai đoạn thân thiết với Ascanio Piccolomini (Tổng giám mục Siena), Galileo được cho phép quay trở lại ngôi nhà của ông tại Arcetri gần Florence, nơi ông sống nốt phần đời trong tình trạng bị quản thúc, và nơi ông cuối cùng bị mù hoàn toàn. Chính khi bị quản thúc Galileo đã dành trọn thời gian cho một trong những tác phẩm tốt nhất của ông, Hai Khoa học Mới. Ở đây ông đã tóm tắt công việc mà mình đã làm trong khoảng bốn mươi năm, về hai khoa học hiện được gọi là động học và sức bền vật liệu. Cuốn sách này nhận được sự đánh giá cao từ Albert Einstein.[98] Nhờ tác phẩm này, Galileo thường được gọi là "người cha của vật lý hiện đại".
Galileo mất ngày 8 tháng 1 năm 1642 ở tuổi 77. Đại Công tước Tuscany, Ferdinando II, muốn chôn cất ông trong tòa nhà chính của Vương cung thánh đường Santa Croce di Firenze, gần lăng mộ của cha ông và các tổ tiên khác, và dựng một lăng mộ bằng đá mable để vinh danh ông.[99] Tuy nhiên, các kế hoạch này đã bị loại bỏ, sau khi Giáo hoàng Urban VIII và cháu của mình hồng y Francesco Barberini phản đối.[100] Thay vào đó ông được chôn cất trong một căn phòng nhỏ bên cạnh nhà nguyện của những tu sĩ mới ngay cuối một hành lang từ gian bên phía nam của vương cung thánh đường tới phòng để đồ thờ.[101] Ông được chôn lại trong phòng chính của vương cung thánh đường năm 1737 sau khi một đài kỷ niệm đã được dựng ở đó để vinh danh ông.[102]
Lệnh cấm in lại các tác phẩm của Galileo của Toà án dị dáo được dỡ bỏ năm 1718 khi có giấy phép cho phép xuất bản các tác phẩm của ông (ngoại trừ cuốn Đối thoại đã bị lên án) tại Florence.[103] Năm 1741 Giáo hoàng Biển Đức XIV cho phép xuất bản một bộ hoàn chỉnh các tác phẩm khoa học của Galileo[104] gồm một phiên bản không bị kiểm duyệt nhiều của Đối thoại.[105] Năm 1758 lệnh cấm chung với các tác phẩm ủng hộ thuyết nhật tâm của ông bị dỡ bỏ trong Danh mục sách cấm xuất bản, dù lệnh cấm rõ ràng về các phiên bản chưa được kiểm duyệt của cuốn Đối thoại và cuốn Về chuyển động quay của Copernicus vẫn còn lại.[106] Tất cả dấu vết về sự phản đối chính thức với hệ nhật tâm của Giáo hội biến mất năm 1835 khi các tác phẩm này cuối cùng được loại khỏi danh mục.[107]
Năm 1939, trong bài nói chuyện đầu tiên trước Viện hàn lâm Khoa học Giáo hoàng được một vài tháng sau khi được bầu lên vị trí Giáo hoàng, Giáo hoàng Piô XII đã miêu tả Galileo là một trong số "các anh hùng táo bạo nhất trong nghiên cứu ... không sợ hãi trước những trở ngại và nguy hiểm khi thực hiện công việc, cũng không mù quáng tuân theo những vĩ nhân thời trước"[108] Cố vấn thân cận của ông trong 40 năm, Giáo sư Robert Leiber đã viết: "Piô XII đã rất cẩn thận để không đóng bất kỳ cánh cửa nào một cách vội vã (với khoa học). Ông là người nhiệt tâm về vấn đề này và đã hối tiếc về nó trường hợp của Galileo."[109]
Ngày 15 tháng 2 năm 1990, trong một bài phát biểu tại Đại học Sapienza Roma,[110] Hồng y Ratzinger (sau này trở thành Giáo hoàng Benedict XVI) đã dẫn ra một số quan điểm hiện tại về vụ Galileo như nguyên nhân hình thành cái mà ông gọi là "một trường hợp có tính triệu chứng cho phép chúng ta thấy sự tự nghi ngờ của thời đại hiện đại, của khoa học và công nghệ ngày nay đi sâu tới mức nào."[111] Một số quan điểm ông trích dẫn là các quan điểm của nhà triết học Paul Feyerabend, người mà ông cho rằng đã nói "Giáo hội ở thời điểm của Galileo tuân theo lý lẽ mạnh hơn chính Galileo, và giáo hội cũng xem xét các hậu quả đạo đức và xã hội của các bài giảng của Galileo. Tuyên bố của giáo hội chống lại Galileo là dựa trên lý trí và chính xác và việc xem xét lại phán quyết đó chỉ công bằng khi dựa trên nền tảng của thời điểm chính trị."[111] Hồng y không nói rõ liệu ông đồng ý hay không đồng ý với các ý kiến của Feyerabend. Tuy nhiên, ông đã nói: "Sẽ là điên rồ khi thực hiện một lời xin lỗi bốc đồng trên cơ sở của những quan diểm đó".[111]
Ngày 31 tháng 11 năm 1992, Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã thể hiện sự hối tiếc về cách vụ Galileo được phán xét, và chính thức công nhận rằng Trái Đất không đứng yên, như kết quả của một cuộc nghiên cứu do Viện Văn hoá Giáo hoàng tiến hành.[112][113] Tháng 3 năm 2008, Vatican đề nghị hoàn thành việc phục hồi cho Galileo bằng cách dựng một bức tượng ông bên trong những bức tường thành Vatican.[114] Tháng 12 cùng năm, trong các sự kiện kỷ niệm lần thứ 400 những quan sát thiên văn bằng kính viễn vọng sớm nhất của Galileo, Giáo hoàng Benedict XVI đã ca ngợi những đóng góp của ông cho thiên văn học.[115]
Các tác phẩm
Các tác phẩm đầu tiên của Galileo miêu tả các thiết bị khoa học gồm tiểu luận năm 1586 với tiêu đề Chiếc Cân Nhỏ (La Billancetta) miêu tả một chiếc cân chính xác để cân các vật thể trong không khí hay trong nước[116] và cuốn sách giáo khoa in năm 1606 Le Operazioni del Compasso Geometrico et Militare về hoạt động của một compa hình học và quân sự.[117]Các tác phẩm đầu tiên của ông về động lực, khoa học chuyển động và các cơ cấu là cuốn De Motu (Về Chuyển động) năm 1590 và Le Meccaniche (Cơ học) khoảng năm 1600. Cuốn đầu dựa trên động lực chất lỏng của Aristotele-Archimede và cho rằng tốc độ rơi hấp dẫn trong một môi trường chất lỏng tỷ lệ với số dôi của trọng lượng riêng của vật thể trong môi trường đó, theo đó trong một chân không các vật thể sẽ rơi với các tốc độ tỷ lệ với trọng lượng riêng của chúng. Nó cũng tán thành lực đẩy động lực Hipparchan-Philoponan theo đó lực đẩy là tự tiêu hao và rơi tự do trong chân không sẽ có một tính chất tốc độ cuối cùng theo trọng lượng riêng sau một giai đoạn gia tốc ban đầu.
Cuốn Sứ giả Sao (Sidereus Nuncius) năm 1610 của Galileo là chuyên luận khoa học đầu tiên được xuất bản dựa trên các quan sát được thực hiện bằng kính viễn vọng và gồm cả sự khám phá các vệ tinh Galileo. Galileo xuất bản một cuốn sách miêu tả các đốm mặt trời năm 1613 với tiêu đề Những bức thư về các Đốm mặt trời[118] cho rằng Mặt trời và các tầng trời là không hoàn hảo. Cũng trong năm 1610 qua các quan sát bằng kính viễn vọng ông thông báo về các bướu và các pha đầy đủ của Sao Kim bác bỏ hệ địa tâm và ủng hộ sự chuyển đổi từ thiên văn học địa tâm của Ptolemy sang thiên văn học địa nhật tâm ở thế kỷ 17 như các mô hình hành tinh của Tycho và Capella.[119] Năm 1615 Galileo chuẩn bị một bản viết tay được gọi là Thư gửi Đại Công tước Christina mãi tới năm 1636 mới được in. Bức thư này là một phiên bản sửa đổi của Thư gửi Castelli, bị Toà án dị giáo cho là một sự xúc phạm tới tín ngưỡng khi ủng hộ thuyết Copernicus là đúng đắn về vật lý và cho rằng nó thích hợp với Kinh thánh.[120] Năm 1616, sau lệnh của Toà án dị giáo cấm Galileo tin vào hay bảo vệ quan điểm của Copernicus, Galileo đã viết Bài thuyết trình về thuỷ triều (Discorso sul flusso e il reflusso del mare) dựa trên mô hình Trái Đất của Copernicus, dưới hình thức một bức thư riêng gửi Giáo hoàng Orsini.[121] Năm 1619, Mario Guiducci, một học sinh của Galileo, xuất bản một bài viết với hầu hết nội dung do Galileo thực hiện với tiêu đề Bài thuyết trình về các Sao chổi (Discorso Delle Comete), đưa ra lý lẽ chống lãi cách diễn giải về Sao chổi của Dòng Tên.[122]
Năm 1623, Galileo xuất bản Người thí nghiệm – Il Saggiatore, tấn công các lý thuyết dựa trên mô hình của Aristotle và ủng hộ việc thành lập các ý tưởng khoa học dựa trên thực nghiệm và toán học. Cuốn sách rất thành công và thậm chí còn có được sự ủng hộ từ các giới chức cao cấp bên trong Giáo hội Công giáo.[123] Sau thành công của Người thí nghiệm, Galileo xuất bản Đối thoại về Hai Hệ thống Thế giới Chính (Dialogo sopra i due massimi sistemi del mondo) năm 1632. Dù đã thận trọng để tránh vi phạm vào các điều cấm của Toà án dị giáo năm 1616, những tuyên bố trong cuốn sách ủn hộ lý thuyết Copernicus và một mô hình hệ mặt trời phi địa tâm khiến Galileo bị đưa ra xét xử và cấm xuất bản. Dù có lệnh cấm xuất bản, Galileo vẫn xuất bản cuốn Những bài thuyết trình về các Chứng minh Toán học Liên quan tới Hai Khoa học Mới (Discorsi e Dimostrazioni Matematiche, intorno a due nuove scienze) năm 1638 tại Hà Lan, bên ngoài tầm tài phán của Toà án dị giáo.
- Chiếc Cân nhỏ (1586)
- Về chuyển động (1590) [124]
- Cơ học (khoảng 1600)
- Sứ giả Sao (1610; bằng tiếng Latinh, Sidereus Nuncius)
- Những bức thư về các Đốm mặt trời (1613)
- Thư gửi Đại Công tước Christina (1615; xuất bản năm 1636)
- Thuyết trình về Thuỷ triều (1616; tiếng Italia, Discorso del flusso e reflusso del mare)
- Thuyết trình về Sao chổi (1619; tiếng Italia, Discorso Delle Comete)
- Người thí nghiệm (1623; tiếng Italia, Il Saggiatore)
- Đối thoại về Hai Hệ thống Thế giới Chính (1632; tiếng Italia Dialogo dei due massimi sistemi del mondo)
- Những bài Thuyết trình về các Chứng minh Toán học Liên quan tới Hai Khoa học Mới (1638; tiếng Italia, Discorsi e Dimostrazioni Matematiche, intorno a due nuove scienze)
Di sản
Những khám phá thiên văn học và nghiên cứu trong lý thuyết của Copernicus của Galileo để lại một di sản trường cửu gồm việc phân loại bốn Mặt Trăng lớn của Sao Mộc do Galileo phát hiện (Io, Europa, Ganymede và Callisto) và được gọi là các vệ tinh Galileo. Các nỗ lực và nguyên tắc khoa học khác được đặt theo tên Galileo gồm tàu vũ trụ Galileo,[125] tàu vũ trụ đầu tiên đi vào quỹ đạo quanh Sao Mộc, hệ thống vệ tinh hoa tiêu toàn cầu Galileo đã được đề xuất,[126] sự biến đổi giữa các hệ thống quán tính trong cơ học cổ điển bao hàm sự biến đổi Galileo và Gal là một đơn vị của gia tốc không thuộc hệ SI.[127][128][129]Để trùng một phần với những quan sát thiên văn đầu tiên được ghi lại của Galileo bằng kính viễn vọng, Liên hiệp quốc đã coi năm 2009 là Năm Thiên văn học Quốc tế.[130] Một kế hoạch toàn cầu do Hiệp hội Thiên văn Quốc tế (IAU) đặt ra, nó cũng được UNESCO — cơ quan Liên hiệp quốc chịu trách nhiệm về các vấn đề Giáo dục, Khoa học và Văn hóa, tán thành. Năm Thiên văn học Quốc tế 2009 được dự định là một ngày hội toàn cầu của thiên văn học và những đóng góp của nó vào xã hội và văn hoá, thu hút sự chú ý toàn thế giới không chỉ về thiên văn học mà còn về khoa học nói chung, với ưu tiên hướng về những người trẻ tuổi.
Nhà viết kịch Đức thế kỷ 20 Bertolt Brecht đã ghi lại cuộc đời Galileo trong tác phẩm Cuộc đời Galileo của ông (1943). Cũng có một vở kịch thế kỷ 21 về cuộc đời ông.[131]
Galileo Galilei gần đây được chọn như một motif chính cho đồng xu sưu tập có giá trị rất cao: đồng €25 đồng xu kỷ niệm Năm Thiên văn học Quốc tế, được đúc năm 2009. Đồng xu này cũng kỷ niệm sinh lần thứ 400 phát minh kính viễn vọng của Galileo. Hình trên đồng xu thể hiện một phần chân dung ông và chiếc kính viễn vọng. Phía sau là một trong những hình vẽ đầu tiên của ông về bề mặt Mặt Trăng.[132] Trong đồng xu bạc những chiếc kính viễn vọng khác cũng được thể hiện: Kính viễn vọng Isaac Newton, đài quan sát thiên văn tại Kremsmünster Abbey, một kính viễn vọng hiện đại, một kính viễn vọng radio và một kính viễn vọng không gian. Trong năm 2009, kính viễn vọng Galileo đường kính 50 mm cũng được bán ra với chi phí thấp và chất lượng tương đối cao phục vụ cho mục đích giáo dục.[133]
Ghi chú
- ^ a ă â b c d đ O'Connor, J. J.; Robertson, E. F. “Galileo Galilei”. The MacTutor History of Mathematics archive. Đại học St Andrews, Scotland. Truy cập ngày 24 tháng 7 năm 2007.
- ^ F. Vinci, Ostilio Ricci da Fermo, Maestro di Galileo Galilei, Fermo, 1929.
- ^ “Vincenzio Viviani”. Truy cập ngày 15 tháng 12 năm 2009.
- ^ Drake (1978, tr.1). Ngày sinh của Galileo theo lịch Julius, lịch sau này có hiệu lực trên tất cả các quốc gia theo Kitô giáo. Năm 1582 nó được thay thế bằng lịch Gregory ở Ý và một số nước theo Công giáo khác. Trừ khi có trích dẫn khác, ngày đề cập trong bài viết này được lấy theo lịch Gregory.
- ^ Galileo Galilei trong bản Catholic Encyclopedia năm 1913 của John Gerard
- ^ Singer, Charles (1941), A Short History of Science to the Nineteenth Century, Clarendon Press, tr. 217
- ^ a ă Weidhorn, Manfred (2005). The Person of the Millennium: The Unique Impact of Galileo on World History. iUniverse. tr. 155. ISBN 0-595-36877-8.
- ^ Finocchiaro 2007.
- ^ "Galileo and the Birth of Modern Science, by Stephen Hawking, American Heritage's Invention & Technology, Spring 2009, quyển 24, Số 1, tr. 36
- ^ Sharratt 1994, tr. 127–131, McMullin 2005a
- ^ Reston 2000, tr. 3–14
- ^ Sharratt 1994, tr. 45–66
- ^ Rutkin, H. Darrel. “Galileo, Astrology, and the Scientific Revolution: Another Look”. Program in History & Philosophy of Science & Technology, Đại học Stanford. Truy cập ngày 15 tháng 4 năm 2007.
- ^ Sharratt 1994, tr. 17, 213
- ^ Sobel 2000, tr. 5 Chương 1. "Nhưng do ông chưa từng cưới mẹ của Virginia, ông xem chính cô ấy không thể kết hôn. Không lâu sau sinh nhật thứ 13 của ô ấy, ông đưa cô ấy đến tu viện San Matteo ở Arcetri."
- ^ Pedersen, O. (24 May–27, 1984). “Galileo's Religion”. Proceedings of the Cracow Conference, The Galileo affair: A meeting of faith and science. Cracow: Dordrecht, D. Reidel Publishing Co. tr. 75–102. Truy cập ngày 9 tháng 6 năm 2008.
- ^ Gebler 1879, tr. 22–35.
- ^ Anonymous (2007). “History”. Accademia Nazionale dei Lincei. Truy cập ngày 10 tháng 6 năm 2008.
- ^ Finocchiaro 1989, tr. 147–149, 153, Có các tài liệu mâu thuẫn nhau miêu tả bản chất của sự cảnh cáo này và hoàn cảnh phổ biến chúng.
- ^ Carney, Jo Eldridge (2000). Renaissance and Reformation, 1500-1620: a. Greenwood Publishing Group. ISBN 0-313-30574-9.
- ^ Allan-Olney 1870
- ^ Sharratt 1994, tr. 204-205
- ^ Cohen, H. F. (1984). Quantifying Music: The Science of Music at. Springer. tr. 78–84. ISBN 90-277-1637-4.
- ^ Field, Judith Veronica (2005). Piero Della Francesca: A Mathematician's Art. Yale University Press. tr. 317–320. ISBN 0-300-10342-5.
- ^ Drake 1957, tr. 237−238.
- ^ Wallace 1984.
- ^ Feyerabend, Paul (1993). Against Method . London: Verso. tr. 129. ISBN 0-86091-646-4.
- ^ Sharratt 1994, tr. 202–04, Galileo 1954, tr. 250–52, Favaro 1890 8:274–75) (tiếng Ý)
- ^ Sharratt 1994, tr. 202–04, Galileo 1954, tr. 252, Favaro 1890 8:275) (tiếng Ý)
- ^ Hawking 1988, tr. 179
- ^ Einstein 1954, tr. 271. "Propositions arrived at by purely logical metans are completely empty as regards reality. Because Galileo realised this, and particularly because he drummed it into the scientific world, he is the father of modern physics—indeed, of modern science altogether."
- ^ Drake 1990, tr. 133–34
- ^ “Sidereus Nuncius”. Rare Book Room. 1610. Truy cập ngày 15 tháng 12 năm 2009.
- ^ Drake 1978, tr. 146
- ^ Trong Sidereus Nuncius Favaro 1890 1892, 3:81Bản mẫu:Latin) Galileo nói rằng ông đi tới kết luận này ngày 11 tháng 1. Drake 1978, tr. 152, tuy nhiên, sau khi nghiên cứu các bản viết tay chưa xuất bản về các quan sát của Galileo, kết luận rằng mãi tới ngày 15 tháng 1 ông mới kết luận như vậy.
- ^ Sharratt 1994, tr. 17
- ^ Linton 2004, tr. 98,205, Drake 1978, tr. 157
- ^ Drake 1978, tr. 158–168, Sharratt 1994, tr. 18–19
- ^ Drake 1978, tr. 168, Sharratt 1994, tr. 93
- ^ Thoren 1989, tr. 8; Hoskin 1999, tr. 117
- ^ Trong mô hình của Capellan chỉ có Sao Thủy và Sao Kim là quay quanh Mặt Trời, trong khi ở phiên bản mở rộng do Riccioli phát triển thì Sao Hỏa cũng quay quanh Mặt Trời, nhưng quỹ đạo của Sao Mộc và Sao Thổ thì có trọng tâm trên Trái Đất
- ^ Baalke, Ron. “Historical Background of Saturn's Rings”. Jet Propulsion Laboratory, California Institute of Technology, NASA. Truy cập ngày 11 tháng 3 năm 2007.
- ^ Trong biến thể 'quán tính' Thomist của Kepler về động lực kiểu Aristotle trái ngược với biến thể động lực quán tính của Galileo mọi vật thể vũ trụ đều có một sự kháng cự cố hữu với mọi chuyển động và khuynh hướng nghỉ, vốn được gọi là 'quán tính'. Khái niệm này về quán tính ban đầu được Averroes đưa ra ở thế kỷ 12 chỉ dành cho các thiên thể để giải thích tại sao chúng không chuyển động với tốc độ vô hạn theo động lực học học Aristotle, như chúng phải thế nếu không có lực nào tác động tới những chuyển động của chúng. Và trong các cơ cấu vũ trụ trong cuốn Astronomia Nova (Thiên văn Mới) của ông quán tính của các hành tinh lớn hơn chuyển động quỹ đạo mặt trời của chúng bởi chúng buộc phải chuyển động quanh một mặt trời trời đang tự quay như những chiếc nan hoa của một chiếc bánh xe đang quay. Và nói chung hơn nó dự đoán tất cả nhưng chỉ những hành tinh có vệ tinh chuyển động quanh, ví dụ như Sao Mộc, cũng quay để đẩy chúng bay xung quanh, theo đó, ví dụ, Mặt Trăng, không quay, vì thế luôn quay một phía về Trái Đất, bởi nó không có vệ tinh để đẩy quanh. Đây dường như là những dự đoán lý thuyết đúng đắn đầu tiên về độc lực ‘quán tính’ Thomist Aristotle cũng như về vật lý hậu thiên thể. Trong cuốn Epitome (Toát yếu) (Xem tr. 514 on p896 của Encyclopædia Britannica 1952 ấn bản Great Books of the Western World) năm 1630 của mình Kepler mạnh mẽ nhấn mạnh rằng ông đã chứng minh chuyển động trục của Mặt trời từ các chuyển động hành tinh trong Commentaries on Mars (Bình luận về sao Hoả) Ch 34 từ lâu trước khi nó được phát hiện nhờ quan sát chuyển động của đốm mặt trời bằng kính thiên văn.
- ^ Drake 1978, tr. 209. Sizzi đã báo cáo rằng các quan sát của ông và những người bạn đã thực hiện trong một năm đến Orazio Morandi trong lá thư ghi ngày 10 tháng 4 năm 1613 Favaro 1890 1901, 11:491 (tiếng Ý)). Morandi sau đó chuyển tiếp một bản sao tới Galileo.
- ^ Trong các hệ địa tĩnh sự biến đổi hàng năm thể hiện trong sự chuyển động của các vệt đen mặt trời chỉ có thể được giải thích đó là kết quả của tuế sai phức tạp một khó hình dung của trục quay của Mặt Trời Linton 2004, tr. 212, Sharratt 1994, tr. 166, Drake 1970, tr. 191–196. Tuy nhiên, trong bản tranh luận của Drake về vấn đề phức tạp này trong chương chương 9 năm 1970 thì không không phải như thế, nó không bác bỏ các mô hình địa tâm không phải hệ địa tĩnh. Đối với các biến thiên thành năm theo quỹ đạo tháng của vết đen mặt trời đối với mặt phẳng hoàng đạo chỉ chứng minh phải có vài chuyển động của các hành tinh thuộc đất, nhưng không cần thiết vì sự chuyển động trên quỹ đạo quỹ đạo hàng năm quanh mặt trời của nó ngượci lại với chuyển động quay hàng ngày theo hệ địa tâm, và vì vậy không thể chứng minh học thuyết nhật tâm do chối bỏ thuyết địa tâm. Điều này có thể được giải thích trong mô hình bán địa tâm Tycho mà Trái Đất xoay hàng ngày. Đặc biệt trang 190 và 196 trong sách của Drake. Vì thế, dựa trên sự phân tích này nó chỉ bác bỏ mô hình địa tâm địa tĩnh Ptolema, mô hình của ông đề xuất rằng quỹ đạo địa tâm hàng ngày của Mặt Trời có thể dự đoán sự thay đổi hàng năm dựa trên các quan sát hàng ngày, và nó không hoạt động như thế.
- ^ Julian Barbour (1991). http://books.google.co.jp/books?id=j__QMcwHGqcC&pg=RA1-PA325&lpg=RA1-PA325&dq=Kepler%27s+prediction+of+the+sun%27s+rotation&source=bl&ots=-AeMajYi6q&sig=dA7ZrkXwNpMkaxr3f5ZiNwQmTJ8&hl=ja&ei=TyoXS4fjK8uTkAWwoaznCA&sa=X&oi=book_result&ct=result&resnum=2&ved=0CBYQ6AEwAQ#v=onepage&q=Kepler%27s%20prediction%20of%20the%20sun%27s%20rotation&f=false
|tựa đề=
trống hay bị thiếu (trợ giúp). The discovery of dynamics 1. Nhà in Đại học Oxford. tr. 325. ISBN 0-19-513202-5. Truy cập ngày 3 tháng 12 năm 2009. - ^ Ondra 2004, tr. 72-73
- ^ Drake 1960, tr. vii,xxiii–xxiv, Sharratt 1994, tr. 139–140
- ^ Grassi 1960a
- ^ Drake 1978, tr. 268, Grassi 1960a, tr. 16.
- ^ Galileo & Guiducci 1960
- ^ Drake 1957, tr. 222, Drake 1960, tr. xvii.
- ^ Sharratt 1994, tr. 135, Drake 1960, tr. xii, Galileo & Guiducci 1960, tr. 24.
- ^ Sharratt 1994, tr. 135
- ^ Sharratt 1994, tr. 135, Drake 1960, tr. xvii.
- ^ Grassi 1960b.
- ^ Drake 1978, tr. 494, Favaro 1890 (1896, 6:111). The pseudonym was a slightly imperfect anagram of Oratio Grasio Savonensis, a latinized version of his name and home town.
- ^ Galileo 1960.
- ^ Sharratt 1994, tr. 137, Drake 1957, tr. 227.
- ^ Sharratt 1994, tr. 138–142.
- ^ Drake 1960, tr. xix.
- ^ Drake 1960, tr. vii.
- ^ Sharratt 1994, tr. 175.
- ^ Sharratt 1994, tr. 175–178, Blackwell 2006, tr. 30.
- ^ Finocchiaro 1989, tr. 67–69.
- ^ Finocchiaro 1989, tr. 354, n. 52
- ^ Finocchiaro 1989, tr. 119–133
- ^ Finocchiaro 1989, tr. 127–131 và Drake 1953, tr. 432–436
- ^ Einstein 1952, tr. xvii
- ^ Finocchiaro 1989, tr. 128
- ^ Kusukawa, Sachiko. “Starry Messenger. The Telescope”. Department of History and Philosophy of Science of the University of Cambridge. Truy cập ngày 10 tháng 3 năm 2007.
- ^ Sobel 2000, tr. 43, Drake 1978, tr. 196. Trong Starry Messenger (Sứ giả Sao), được viết bằng tiếng Latinh, Galileo đã sử dụng thuật ngữ "perspicillum".
- ^ “Bản dự trữ của omni-optical.com "A Very Short History of the Telescope"”.[[]][liên kết hỏng]
- ^ Drake 1978, tr. 163–164, Favaro 1890 (1892, 3:163–164)(tiếng Latinh)
- ^ Có thể vào năm 1623, theo Drake 1978, tr. 286.
- ^ Drake 1978, tr. 289, Favaro 1890 (1903, 13:177) (tiếng Ý).
- ^ Drake 1978, tr. 286, Favaro 1890 (1903, 13:208)(tiếng Ý). The actual inventors of the telescope and microscope remain debatable. A general view on this can be found in the article Hans Lippershey (cập nhật lần cuối 2003-08-01), © 1995–2007 by Davidson, Michael W. and the Florida State University.
- ^ “brunelleschi.imss.fi.it "Il microscopio di Galileo"” (PDF).
- ^ Van Helden, Al. “Galileo Timeline”. Truy cập ngày 15 tháng 12 năm 2009. trong Galileo Project. Xem thêm Lịch sử công nghệ kính hiển vi.
- ^ Drake 1978, tr. 286.
- ^ Drake 1978, tr. 19,20. Ở thời điểm khi Viviani cho rằng cuộc thực nghiệm diễn ra, Galileo vẫn chưa hoàn thành phiên bản cuối cùng của định luật rơi tự do của ông. Tuy nhiên, ông đã hoàn thành một phiên bản trước đó dự đoán rằng các vật thể bằng cùng vật liệu rơi qua cùng môi trường sẽ có tốc độ như nhau (Drake 1978, tr. 20).
- ^ Drake 1978, tr. 9; Sharratt 1994, tr. 31.
- ^ Groleau, Rick. “Galileo's Battle for the Heavens. tháng 7/2002”. Ball, Phil. “Science history: setting the record straight. 30 tháng 6/2005”. Một ngoại lệ mà Drake 1978, tr. 19–21, 414–416, cho rằng những tranh cãi đã xảy ra, ít nhiều như Viviani đã miêu tả nó.
- ^ Lucretius. De rerum natura II. Còn đề cập trong Lane Cooper (1935). Aristotle, Galileo, and the Tower of Pisa. Ithaca, N.Y.: Nhà in Đại học Cornell. tr. 49.. tr. 225–229..
- ^ Simon Stevin (1586). Trong Christoffel Plantijn. De Beghinselen des Waterwichts, Anvang der Waterwichtdaet, en de Anhang komen na de Beghinselen der Weeghconst en de Weeghdaet [[The Elements of Hydrostatics, Preamble to the Practice of Hydrostatics, and Appendix to The Elements of the Statics and The Practice of Weighing]]. Christoffel Plantijn báo cáo thí nghiệm của Stevin và Jan Cornets de Groot khi họ thả một quả cầu bằng chì từ tháp chuông nhà thờ ở Delft; thông tin liên quan trong quyển: C. V. Swets & Zeitlinger (1955). Trong E. J. Dijksterhuis. The Principal Works of Simon Stevin 1. Amsterdam, Netherlands. tr. 509, 511.. Leiden, Netherlands.
- ^ Sharratt 1994, tr. 203, Galileo 1954 (1954, tr.251–54).
- ^ Sharratt 1994, tr. 198, Galileo 1954 (1954, tr.174).
- ^ Clagett 1968, tr. 561.
- ^ Sharratt 1994, tr. 198, Wallace 2004, tr. II 384, II 400, III 272, tuy nhiên Soto đã không nhận thấy được các nguyên tắc và tinh hoa trong các học thuyết của Galileo về vật thể rơi. Ví dụ, Ông đã không nhận ra được như Galileo đã làm như một vật thể chỉ có thể rơi với cùng một gia tốc trong chân không, và nói cách khác thì nó có thể đạt đến vận tốc không đổi ở đoạn cuối.
- ^ Galileo Galilei (1974). Two New Sciences. Madison: Nhà in Đại học Wisconsin. tr. 50..
- ^ I. Bernard Cohen (1940). Roemer and the First Determination of the Velocity of Light. tr. 332–333. Đã bỏ qua tham số không rõ
|punlisher=
(trợ giúp) - ^ Brodrick 1965, tr. 95 quoting Cardinal Bellarmine's letter to Foscarini, dated 12 tháng 4 năm 1615. Translated from Favaro 1890 (1902, 12:171–172) (tiếng Ý).
- ^ Xem Langford 1998, tr. 133–134 và Seeger 1966, tr. 30.Drake 1978, tr. 355, asserts that Simplicio's character is modelled on the Aristotelian philosophers, Lodovico delle Colombe and Cesare Cremonini, rather than Urban. He also considers that the demand for Galileo to include the Pope's argument in the Dialogue left him with no option but to put it in the mouth of Simplicio (Drake 1953, tr. 491). Even Arthur Koestler, who is generally quite harsh on Galileo in The Sleepwalkers (Koestler 1990), after noting that Urban suspected Galileo of having intended Simplicio to be a caricature of him, says "this of course is untrue" (Koestler 1990, tr. 483).
- ^ Fantoli 2005, tr. 139, Finocchiaro 1989, tr. 288–293. Bản dịch của Finocchiaro về bản án của Tòa thánh đối với Galileo có thể xem tại đây (tiếng Anh). "Vehemently suspect of heresy" was a technical term of canon law and did not necessarily imply that the Inquisition considered the opinions giving rise to the verdict to be heretical. The same verdict would have been possible even if the opinions had been subject only to the less serious censure of "erroneous in faith" (Fantoli 2005, tr. 140; Heilbron 2005, tr. 282-284).
- ^ (Drake 1978, tr. 367, Sharratt 1994, tr. 184, Favaro 1890) (1905, 16:209, 230)(tiếng Ý). Xem vụ Galileo để biết thêm chi tiết.
- ^ Drake 1978, tr. 356. Tuy nhiên dòng chữ "Eppur si muove" đã xuất hiện trên bức tranh của họa sỹ Tây Ban Nha Bartolomé Esteban Murillo hay các học trò của ông vào thập niên 1640. Bức tranh mô tả Galileo bị giam giữ đang chỉ đến một bản sao của cụm từ được viết trên tường của phòng giam ông (Drake 1978, tr. 357).
- ^ Stephen Hawking. tr. 397, 398. “Galileo... is the father of modern physics -- indeed of modern science - Albert Einstein”
|tựa đề=
trống hay bị thiếu (trợ giúp). - ^ Shea & Artigas 2003, tr. 199; Sobel 2000, tr. 378.
- ^ Shea & Artigas 2003, tr. 199; Sobel 2000, tr. 378; Sharratt 1994, tr. 207; Favaro 1890 (1906,18:378–80) (tiếng Ý).
- ^ Shea & Artigas 2003, tr. 199; Sobel 2000, tr. 380.
- ^ Shea & Artigas 2003, tr. 200; Sobel 2000, tr. 380–384.
- ^ Heilbron 2005, tr. 299.
- ^ Hai tác phẩm không phải khoa học của ông là các lá thử gởi Castelli và Grand Duchess Christina không được cho phép nằm trong đó (Coyne 2005, tr. 347).
- ^ Heilbron 2005, tr. 303–304; Coyne 2005, tr. 347. Phiên bản không bị kiểm duyệt của Dialogue vẫn còn trong danh mục các sách bị cấm (Heilbron 2005, tr. 279).
- ^ Heilbron 2005, tr. 307; Coyne 2005, tr. 347, The practical effect of the ban in its later years seems to have been that clergy could publish discussions of heliocentric physics with a formal disclaimer assuring its hypothetical character and their obedience to the church decrees against motion of the earth: see for example the commented edition (1742) of Newton's 'Principia' by Fathers Le Seur and Jacquier, which contains such a disclaimer ('Declaratio') before the third book (Propositions 25 onwards) dealing with the lunar theory.
- ^ McMullin 2005, tr. 6; Coyne 2005, tr. 346. In fact, the Church's opposition had effectively ended in 1820 when a Catholic canon, Giuseppe Settele, was given permission to publish a work which treated heliocentism as a physical fact rather than a mathematical fiction. The 1835 edition of the Index was the first to be issued after that year.
- ^ Discourse of His Holiness Pope Pius XII given on 3 tháng 12 năm 1939 at the Solemn Audience granted to the Plenary Session of the Academy, Discourses of the Popes from Pius XI to John Paul II to the Pontifical Academy of the Sciences 1939-1986, Vatican City, tr.34
- ^ Robert Leiber (1959). Pius XII Stimmen der Zeit. Pius XII. 1959. Sagt, Frankfurt. tr. 411..
- ^ Phiên bản trước được phát hành vào 16 tháng 12 năm 1989 ở Rieti, và phiên bản sau phát hành vào ngày 24 tháng 2 năm 1990 ở Madrid (Ratzinger 1994, tr. 81). Theo Feyerabend, Ratzinger cũng đã đề cập đến việc hỗ trợ quan điểm của ông trong một bài diễn văn ở Parma cũng vào cùng thời điểm đó (Feyerabend 1995, tr. 178).
- ^ a ă â Ratzinger 1994, tr. 98.
- ^ “Vatican admits Galileo was right”. New Scientist. 7 tháng 11 năm 1992. Truy cập ngày 9 tháng 8 năm 2007..
- ^ “Papal visit scuppered by scholars”. BBC News. 15 tháng 1 năm 2008. Truy cập ngày 16 tháng 1 năm 2008.
- ^ “Vatican recants with a statue of Galileo”. TimesOnline News. 4 tháng 3 năm 2008. Truy cập ngày 2 tháng 3 năm 2009.
- ^ “Pope praises Galileo's astronomy”. BBC News. 21 tháng 12 năm 2008. Truy cập ngày 22 tháng 12 năm 2008.
- ^ Hydrostatic balance, The Galileo Project, truy cập ngày 17 tháng 7 năm 2008
- ^ The Works of Galileo, The University of Oklahoma, College of Arts and Sciences, truy cập ngày 17 tháng 7 năm 2008
- ^ Sunspots and Floating Bodies, The University of Oklahoma, College of Arts and Sciences, truy cập ngày 17 tháng 7 năm 2008
- ^ The 17th century conversion to geo-heliocentrism is referenced in such as the following claims: (1) "But the title [of Galileo's 1632 Dialogo] was seriously misleading: by that time the Ptolemaic system had been largely abandoned by believers in a central Earth, and astronomers who could not accept the Sun-centred system - the great majority - were opting for the Tychonic or one of the other Earth-centred compromises on offer." p117, The Cambridge Concise History of Astronomy Michael Hoskin, CUP 1999.(2) "In 1691 Ignace Gaston Pardies declared that the Tychonic was still the commonly accepted system, while Francesco Blanchinus reiterated this as late as 1728." The Tychonic and semi-Tychonic world systems Christine Schofield, p41 Taton & Wilson The General History of Astronomy 2A 1989
- ^ Galileo, Letter to the Grand Duchess Christina, The University of Oklahoma, College of Arts and Sciences, truy cập ngày 17 tháng 7 năm 2008
- ^ Galileo's Theory of the Tides, The Galileo Project, truy cập ngày 17 tháng 7 năm 2008
- ^ “Galileo Timeline”. The Galileo Project. Truy cập ngày 17 tháng 7 năm 2008.
- ^ “Galileo Galilei”. Tel-Aviv University, Science and Technology Education Center. Truy cập ngày 17 tháng 7 năm 2008.
- ^ title=galileo http://echo.mpiwg-berlin.mpg.de/content/scientific_revolution/ title=galileo. Truy cập ngày 16 tháng 12 năm 2009.
|tựa đề=
trống hay bị thiếu (trợ giúp) - ^ Fischer, Daniel (2001). Mission Jupiter: The Spectacular Journey of the Galileo Spacecraft. Springer. tr. v. ISBN 0-387-98764-9.
- ^ “'Unanimous backing' for Galileo”. BBC NEWS. Truy cập ngày 14 tháng 12 năm 2009.
- ^ Barry N. Taylor (1995). Appendix B “Guide for the Use of the International System of Units (SI)”. NIST Special Publication 811. Truy cập ngày 16 tháng 12 năm 2009..
- ^ “SI brochure, Table 9: Non-SI units associated with the CGS and the CGS-Gaussian system of units”. BIPM. 2006. Truy cập ngày 16 tháng 12 năm 2009..
- ^ Một số nguồn như Đại học North Carolina, Cơ quan Vũ trụ châu Âu, và ConversionTables.com cho rằng đơn vị này được đặt theo tên "galileo". NIST và BIPM ở trên được xem là những nguồn có uy tín hơn đề cập đến tên đơn vị chính xác.
- ^ United Nations Educational, Scientific and Cultural Organization (11 tháng 8 năm 2005). “Proclamation of 2009 as International year of Astronomy” (PDF). UNESCO. Truy cập ngày 10 tháng 6 năm 2008.
- ^ “Galileo Galilei/Vesalius and Servetus”. Truy cập ngày 3 tháng 12 năm 2009.
- ^ “200th Anniversiary of the Death of Joseph Haydn Commemorative Coin”. Austrian Mint. Truy cập ngày 16 tháng 12 năm 2008.
- ^ “The Galileoscope™: An IYA2009 Cornerstone Project”. Truy cập ngày 14 tháng 12 năm 2009.
Danh mục
” (trợ giúp)
|
” (trợ giúp)
|
Liên kết ngoài
Wikimedia Commons có thêm thể loại hình ảnh và phương tiện truyền tải về Galileo Galilei |
Tìm thêm về Galileo Galilei tại những đồng dự án của Wikipedia: | |
Từ điển ở Wiktionary | |
Sách ở Wikibooks | |
Cẩm nang du lịch ở Wikivoyage | |
Hồ sơ ở Wikiquote | |
Văn kiện ở Wikisource | |
Hình ảnh và phương tiện ở Commons | |
Tin tức ở Wikinews | |
Tài liệu giáo dục ở Wikiversity |
- (tiếng Anh)
- Chân dung Galileo
- Original documents on the trial of Galileo Galilei trong các tài liệu lưu trữ mật của Vatican
- Galileo Affair catholic.net
- The Galileo Project ở Đại học Rice
- PBS Nova Online: Galileo's Battle for the Heavens
- Stanford Encyclopedia of Philosophy entry on Galileo
- The Galilean Library, trang giáo dục.
- Galileo and the Catholic Church article at Catholic League
- Animated Hero Classics: Galileo (1997) tại Internet Movie Database
- Electronic representation of Galilei's notes on motion (MS. 72)
- Galileo's 1590 De Motu translation [3]
- Works by Galileo Galilei: text with concordances and frequencies.
- CCD Images through a Galilean Telescope Modern recreation of what Galileo might have seen
- Galilei, Galileo. Le Operazioni del Compasso Geometrico et Militare 1610 Rome. From Rare Book Room. Scanned first edition.
- Galilei, Galileo. Istoria e Dimostrazioni Intorno Alle Macchie Solar 1613 Rome. From Rare Book Room. Scanned first edition.
- O'Connor, John J.; Robertson, Edmund F., “Galileo Galilei”, Bộ lưu trữ lịch sử toán học MacTutor
- Linda Hall Library features a first edition of Sidereus Nuncius Magna as well as a pirated edition from the same year, both fully digitized.
Thể loại:
Trận Zorndorf, còn gọi là trận Sarbinowo[17] hay viết là Trận Zordoff[18], là một trận chiến tàn khốc trong cuộc Chiến tranh Bảy Năm, diễn ra từ ngày 25 tháng 8 cho đến ngày 27 tháng 8 năm 1758. Đây là trận đánh khốc liệt nhất trong cuộc chiến tranh
tàn khốc này. Trận huyết chiến này đã kết thúc với chiến thắng vinh
quang của nhà vua nước Phổ là Friedrich II Đại Đế trước đại quân Nga
đông hơn nhiều, buộc Tổng tư lệnh quân Nga là Wilhelm von Fermor phải rút quân.[10] Quân Nga xâm lược lãnh địa Brandenburg giữa lúc vị vua - chiến binh Friedrich II Đại Đế nước Phổ
đang thân chinh kéo quân đánh Áo ở phương xa, và ông phải quay về để
chống chọi với người Nga trong một cuộc Bắc tiến hiển hách.[19][20]
Suốt những ngày hành binh, các chiến binh Phổ đói khát, trời thì nóng
nực, nhưng nhà vua Friedrich II Đại Đế vẫn hành động thật nhanh,[10] do ông quyết tâm phải đánh tan tác quân Nga[9]. Zorndorf lúc bấy giờ là một ngôi làng của Vương quốc Phổ.[21] Thắng trận này, ông đã gây ra thiệt hại đáng kể cho quân Nga.[19] Với đại thắng này, vị vua-chiến binh nước Phổ vẫn đứng vững khiến sự kiên dũng của đại quân Nga không làm gì được [12] (dù đây là một thắng lợi đắt giá của ông[22]), và quân Nga thua chạy khỏi Brandenburg mà về Ba Lan.[23][24][25]
Chiến thắng đẫm máu của quân Phổ trong trận đánh này được xem là sự
kiện tiêu biểu nhất của chiến cuộc năm 1758 của chiến tranh.[26] Trước trận thắng vẻ vang này, ông đã toàn thắng, đánh đuổi quân Pháp và quân Áo vào cuối năm 1757, nên sau ba chiến thắng huy hoàng liên tiếp tiêu diệt ba kình địch chỉ trong vòng một thời gian ngắn (chưa đầy một năm[11]), ông đã mở đầu thắng lợi cho giai đoạn mới của cuộc binh lửa, tạo thêm danh thơm và trở nên bất khả chiến bại trong mắt thiên hạ và cả châu Âu đều phải công nhận ông là một trong những vị tướng giỏi nhất thế giới.[27][28][29][30][31]
Dù thua trận này, người Nga đã thể hiện khả năng phòng vệ tuyệt đỉnh của họ[32]. Song, thắng lợi định đoạt này cùng với chiến thắng của quân Phổ trước quân xâm lấn Thụy Điển đã bảo tồn xứ Brandenburg.[33][34] Sau đại thắng của ông ở trận Leuthen, trận thắng này cũng như cả chiến dịch một lần nữa nhấn mạnh thiên tài chiến lược hiếm có của vua Phổ và sức chiến đấu mạnh mẽ của các chiến binh dưới ngọn cờ của ông, góp phần làm nên danh sách hàng loạt thắng lợi vẻ vang của ông kể từ đầu cuộc chiến.[18][35] Ngoài ra, không những là đại thắng góp phần thể hiện đại tài thao lược của vua Phổ,[36] chiến công vẻ vang này cũng góp phần lớn cho việc khẳng định niềm tin của ông vào đội Kỵ binh hùng hậu của ông (thực chất có ý kiến xem rằng nhờ sự giúp rập của một danh tướng Kỵ binh mà ông đã thoát khỏi chiến bại trong trận thắng lớn này).[37][38][39]
Cả Vương quốc Phổ đều bị bừng cháy bởi sự vô cùng hung bạo của quân đội hai bên trong trận chiến Zorndorf kịch liệt.[20] Khi đó đến cả nhà vua Friedrich II Đại Đế, trên một mặt trận hoàn toàn đảo lộn[32], cũng phải chiến đấu hết sức gian khổ ở giữa toàn quân, nhưng rồi tinh thần kỷ cương - kết hợp với sức chiến đấu dũng mãnh quyết không tha thứ cho kẻ địch[48] - đã mang lại thế thượng phong cho các chiến binh Phổ tinh nhuệ, đẩy quân Nga vào cảnh hỗn loạn.[1] Quân Nga trở nên tơi tả, bị xé tan nát,[46] bị tối tăm mặt mũi đến mức có khi họ còn bắn vào cả tướng sĩ của chính họ.[50] Những chiến binh Nga dũng mãnh tuy đã phòng thủ vững chắc, đã tiêu diệt được nhiều quân Phổ, nhưng rồi tổn thất của quân Nga là quá ư lớn lao đến mức họ trở nên bất động[46] và quân Phổ thắng trận, làm chủ được bãi chiến trường và sau hai ngày thì hoàn toàn đánh đuổi được quân Nga ra khỏi xứ Brandenburg (hai bại tướng dưới tay vua Phổ trong trận này đều là người có dòng doĩ Scotland).[1][25][42][51] Nhà vua đã loại trừ hoàn toàn được một kình địch trong một thắng lợi hoàn hảo dù cho quân họ đông hơn quân ông[11][46], biên cương phía Bắc được ổn định.[6] Nhuệ khí của người Nga đã bị suy sụp hoàn toàn do thảm bại,[52] và đại thắng này đã mang lại tột đỉnh vinh quang cho Friedrich II Đại Đế.[2][53] Với chiến thắng của ông, chiến thuật "đánh xiên" một lần nữa thắng lợi.[54] Chiến thắng này còn được xem là nhờ có lòng quả cảm của danh tướng Seydlitz với hai đợt tấn công đẹp mắt và quyết định cho đại thắng của Quốc vương[46][55], người Phổ không những triệt hạ được biết bao nhiêu là kẻ địch mà còn có được nhiều chiến lợi phẩm nữa.[21] Tuy tiêu diệt được biết bao quân lính Nga và đuổi được họa xâm lược nhưng Friedrich II Đại Đế không còn khinh bỉ người Nga như trước trận đánh này được nữa.[5] Từ đây, ông đã phải nhận ra rằng Đế quốc phong kiến Nga là kẻ thù khủng khiếp nhất của Vương quốc Phổ, không thể chủ quan được.[56] Dẫu sao thì chiến thắng to lớn này cũng cho thấy tầm quan trọng của lực lượng Thiết Kỵ binh Phổ hùng hậu, quyết định cho lợi thế của nước Phổ.[42][57] Và, giữa các đoàn binh Phổ trăm thắng, không những quân Thiết Kỵ binh của F. V. Von Seydlitz mà quân Long Kỵ binh Phổ cũng trở nên vinh quang trong cuộc chinh chiến tàn khốc này.[58][59] Là một trận ác chiến điển hình trong thời kỳ Friedrich II Đại đế, trận Zorndorf đã gây ra 28 nghìn thương vong cho khoảng 76 nghìn quân tham chiến, và trở thành một trận đánh tiêu biểu cho tổn thất to lớn của Quân đội Nga buổi ấy.[60][61]
Sức chiến đấu hùng dũng của quân Kỵ binh Phổ trong trận thắng này - tiếp nối đại thắng Leuthen - đã chứng nhận là vị Đại Đế nước Phổ đang nắm giữ đội Kỵ binh tinh nhuệ nhất cả Âu châu.[62][63] Với chiến thắng lừng lẫy phá Nga[30] và cứu nguy nước Phổ này, hiệu quả cao của những chuyển động bước ngoặt của vua Friedrich II Đại Đế đã được biểu lộ, khiến cho ông bao bọc và xé nát Quân đội Nga.[46] Đồng thời, chiến thắng to lớn tại Zorndorf cũng thể hiện tài thao lược, sự quyết đoán và dũng cảm của ông trong cuộc chiến đấu và chiến thắng kẻ thù.[48][64] Ông luôn khích lệ ba quân đánh địch,[48] và sau khi đánh thắng quân Nga, ông cũng không hề chậm chân trong việc tổ chức hành binh đánh quân Áo - đồng minh của người Nga trong cuộc Chiến tranh Bảy Năm.[65] Ông để lại một đội quân đủ mạnh do Tướng Dohna chỉ huy để ngăn chặn đoàn bại binh của Fermor mà ông thường hay gọi là "quân man tộc".[7][10] Với chiến bại trong trận chiến đẫm máu này thì Nga mất hoàn toàn cơ hội họp quân với Áo trong năm 1758.[66] Trong khi đó, sau chiến thắng tại Zorndorf phá Nga, cả châu Âu phải khâm phục vị Đại Đế nước Phổ như người lãnh đạo giỏi nhất của châu lục này vào thời kỳ ấy.[28][67]
Tại Crossen, nhà vua nghe được nhiều về những thảm kịch mà quân Nga gây ra với nhân dân Phổ. Quân Nga cướp phá, đốt rụi làng mạc, tàn sát phụ nữ và trẻ em. Ông tiếp tục hành quân đến Frankfurt trên sông Oder và tại đây ông nghe tiếng súng đạn của quân Nga nã vào pháo đài - hòn đảo Cüstrin nằm giữa hai dòng sông Oder và Warthe, đây chính là nơi năm xưa ông bị phụ vương Friedrich Wilhelm I, với nhiều ký ức bi đát. nhà vua Friedrich II Đại Đế cảm thấy rằng trong những ngày nguy cấp này, khi ông và tướng Dohna phải liên tiếp hành binh, do đó phải có cách nào đó ngăn chặn quân Thụy Điển đang dàn binh ở bờ biển phía Bắc để có thể hợp binh với Nga. Đồng thời, ông cũng khó thể quan sát tình hình của Vương đệ thứ hai của mình là Friedrich Heinrich Ludwig đang chỉ huy quân Phổ tại Sachsen. Ông phải chuyển động sao cho cả quân ông và quân Dohna đều không thể đánh trận ở vị trí không thích hợp. Nếu quân Nga và quân Thụy Điển tinh nhuệ nhanh chóng kết hợp với nhau thì hẳn là ông sẽ gặp rắc rối[73]. Vào Chủ Nhật ngày 20 tháng 8 năm 1758, nhà vua cùng 15 nghìn quân tinh nhuệ kéo đến. Ông xem việc này là hệ trọng vì nếu chiếm được pháo đài anh dũng Cüstrin, quân Nga thắng thế sẽ an toàn vượt qua sông Oder, cách kinh đô Berlin chỉ có 50 dặm. Theo kế hoạch cuỉa nhà vua, ông sẽ giải phóng pháo đài anh dũng, họp binh với Dohna và tác chiến với quân Nga ở gần đó.[9] Theo tư liệu mà Thomas Carlyle tham khảo, "Quốc vương ngự tại ngoại ô Lebus, trong nhà góa phụ của một tăng lữ,... và nghe tiếng đạn pháo đang bắn nã tại Cüstrin". Nhà vua luôn quan tâm, lo nghĩ đến việc cứu sống con đỏ của mình.[9] Ông vời Thống chế James Francis Edward Keith bàn việc binh cách. Nhà vua khinh bỉ Quân đội Nga và nói bọn họ là "Tệ hại! Tệ hại!" Là một cựu chiến binh của quân Nga, Keith đáp lễ: "Xin Hoàng thượng không nên có thành kiến. Nếu trận đại chiến sẽ diễn ra, chắc hẳn Hoàng thượng sẽ thay đổi quan điểm của Người". Song, Keith nghĩ dưỡng tại Breslau chứ ông không tham gia gì trong chiến dịch Zorndorf sắp tới.[74] Không lâu sau, giữa lúc quân Nga còn đe dọa thành Cüstrin, lực lượng Khinh Kỵ Binh Phổ đánh thắng địch và bắt giữ một đám lính Cozak Nga. Friedrich II Đại Đế tham kiến đám tù binh, và nói với một viên Sĩ quan Tham mưu: "Và Trẫm phải ngược đãi với bọn chúng như đồ chó má". Vào ngày 21 tháng 8 năm 1758, ông kéo 14 nghìn chiến binh đến trước cổng thành Cüstrin và họp mặt với binh đoàn Dohna tại Gorgast, gần đó.[9] Đó là thành quả của sự đứng vững của Cüstrin không hề suy sụp khi bị địch vây.[71] Quân chính quy của Quốc vương bao gồm một ít Trung đoàn tinh nhuệ nhất của Nhà nước phong kiến quân sự Phổ.[51] Thực chất đây không phải là lần đầu tiên ông tung những Trung đoàn xuất sắc như vậy ra trận tuyến, trước đó đã có trong các trận đánh ác liệt tại Praha và Kolín hồi năm 1757.[75] Ông hỏi Dohna: "Mọi chuyện ra sao? Giặc Nga có đứng vững không?" Dohna tấu: "Quả vậy, thưa Bệ Hạ. Chúng đứng vững như những bức tường!" Vua đáp: "Tốt! Chúng sẽ chết thêm". Đạo quân của Bá Tước Dohna - chỉ gồm 17 nghìn binh sĩ - tiến hành tập dợt ba quân trước sự giám sát của nhà vua. Nhà vua phán: "Các binh sĩ của Khanh thông minh tuyệt vời. Ta có mang theo một đám châu chấu đến đây, nhưng bị họ đánh bại".[69][72] Đạo quân của Dohna rất tuyệt hảo: xe ngựa thì tốt, binh lính thì kỷ cương, với mái tóc còn rắc thuốc súng. Tuy nhiên, nhà vua không thể dấu thái độ bất mãn của ông với Dohna.[9] Ông rất phẫn nộ trước quân Nga và quyết tâm phải báo thù cho nhân dân. Ông nhìn đống đổ nát của thị trấn Cüstrin, và sự hủy diệt do những đạo quân man rợ gây ra cho thị trấn này. Khi viên Sĩ quan chỉ huy ở đây, dù đã đấu tranh rất anh dũng, vẫn không hài lòng trước chiến thắng của mình, đến tạ tội với nhà vua, ông phán: "Đừng có nói nữa; đó không phải là lỗi của Ngươi, nhưng làm lỗi của Trẫm đã cử Ngươi làm nhiệm vụ này".[72] Đồng thời, dân chúng ở đây thấy nhà vua đến cũng vui sướng khôn xiết: "Thiên Chúa phải thưởng công cho Ngài Ngự, đã đến đây với chúng con!", và kể cho ông nghe về những tội ác gớm ghiếc của địch quân, để giải cứu họ khỏi nỗi đau buồn. Ông nhân từ động viên tinh thần toàn dân ở đây, và sau từng giây phút tĩ mĩ nghe lời kể của nhân dân, ông nói:[69][71]
Quốc vương nói thế, và ông cũng không hề dối trá chút nào cả. Ông lập tức ban chiếu chỉ lệnh phát 20 vạn đồng thaler
cho toàn thể nhân dân tại đây, để họ có thể làm được những điều mà họ
cần thiết nhất, để ngay lập tức tái thiết thành Cüstrin. Đồng thời, ông
vẫn bình tĩnh, quyết tâm giáng một đòn sấm sét và nhanh chóng vào quân
Nga dã man.[69][76]
Ông liền cho đặt những khẩu đại pháo chuẩn bị tấn công vào các chiến
hào của quân Nga tại Cüstrin, và toàn dân đều có thể suy đoán rằng Quốc
vương đang chuẩn bị giáng một đòn khốc liệt vào quân thù. Một lần nữa,
nhà vua dong ngựa giữa các tuyến quân, vẫy chào các chiến binh lão luyện và dũng mãnh của ông, và hiệu triệu họ bằng lời lẽ thân thiện:
Toàn thể ba quân đồng lòng, đáp:[69]
Một người lính còn nói: "Nếu chúng ta có thêm những con ngựa thồ Nga, mọi chuyện sẽ sớm xong xuôi!" Nhà vua mỉm cười: "Chúng ta sẽ bắt lấy chúng sớm".
Theo Christopher Duffy, nhà vua cho quân nghỉ ngơi tại Frankfurt để lấy
lại sức sau những ngày hành binh mệt nghỉ dưới những hạt cát, và dưới
cái nắng Mùa Hạ chói chang. Vào ngày 22 tháng 8 năm 1758, vua tôi gặp nhau tại Manschnow - ở phía Tây pháo đài Cüstrin[73], với 37 nghìn chiến binh. Theo đại tướng - nhà sử học quân sự Anh Quốc là David William Fraser,
nhà vua đã hành binh trong suốt 8 ngày, trên 160 dặm. Dĩ nhiên là quân
Nga áp đảo Phổ về quân số, nhưng Friedrich II Đại Đế không muốn kêu thêm
viện binh, và cũng không muốn để cho người Áo biết rằng ông đã rời khỏi
miền Nam Đức.[73]
Quân Phổ lúc này thèm muốn đánh trận một cách không thể tưởng tượng
nổi. Xem ra "con quỷ chiến tranh" đã bắt được toàn thể ba quân. Nhà vua
vẫn giữ một loạt súng đại bác ở tận bên kia bờ sông Oder, gần Cüstrin,
nhưng đồng thời nhà vua cũng quyết tâm vượt con sông gần 20 dặm xuôi
dòng tại Alt-Güstebiese. Trung tướng Kanitz dẫn đầu, mang một dãy cầu
phao và 2 Tiểu đoàn Bộ Binh[9] Và giờ đây, Friedrich II Đại Đế với tư cách là một "Theseus" hào hùng của nhân dân nước Phổ, chuẩn bị chạm trán với những "Minotaur" khủng khiếp là quân Nga. Theo Thomas Carlyle, đêm ngày 22 tháng 8
năm 1758, ông cho xây một chiếc cầu mà người Nga không hề hay biết. Một
số người lính Khinh Kỵ Binh và đội Tiền Vệ được ông ban phát thuyền cho
mà qua sông, và dựng nên khu vực chiếm đóng của quân Phổ bên sông phía
địch. Vào ngày 23 tháng 8
năm 1758, sĩ khí cao trào, quân Phổ rời khỏi pháo đài, buổi trưa và
vượt cầu và tiến thẳng đến một doanh trại giữa Zellin và Clossow.[9]
Theo Franz Kugler, nhà vua cùng đại binh vượt vũng lầy, và ông quyết
định cho quân đi đường vòng để đánh tạt sườn đại binh Nga. Toàn thể đại
quân đều căm phẫn cao độ trước những hành vì bạo ngược của người Nga.
Càng hành quân, họ chỉ càng thấy những ngôi làng bị thiêu rụi. Những
người dân đáng thương phải ẩn náu dưới đống rơm sâu, bị quân thù dồn vào
thế tận cùng. Các chiến binh Phổ nhân đạo luôn cảm thông sâu sắc với
họ, rắp tâm phải báo thù cho họ. Nông dân Phổ thấy vậy cũng cung cấp
nước cho các chiến binh uống vì họ đang khát đến nghiêm trọng. Dân chúng
cũng đặt những thùng và bình nước lớn trên đường hành binh để tiện thể
cho ba quân khỏi khát.[69]
Theo Christopher Duffy, thời tiết quá là oi bức, quân Phổ không những
uống thùng nước trên đường hành quân mà còn phải ăn bánh mì. Theo tác
giả Prittwitz thì 1/3 quân tinh nhuệ Phổ đã bị đánh quỵ và suy sụp.[9]
Nhà vua Friedrich II Đại Đế và đại binh đã băng được qua sông, mà không
hứng chịu sự kháng trả của quân Nga. Họ lập trại tại phía Đông làng
Darmietzel (phía Nam khu vực Alt-Güstebiesel), ở bờ phải sông Mützel. Sông này nằm ở phía Nam Darmietzel, chảy về sông Oder vài dặm cách pháo đài Küstrin về hướng Bắc.[71][73] Như vậy là Tướng Pyotr Aleksandrovich Rumyantsev
- viên chỉ huy đoàn Kỵ binh Nga tại Schwedt - với Binh đoàn gồm 12
nghìn binh lính bị mất liên lạc với quân chủ lực Nga, mang lại lợi thế
lớn cho quân Phổ.[9] Theo Carlyle, đêm ngày 23 tháng 8
năm 1758, tại Klossow, quân Khinh Kỵ binh Phổ bắt sống một nhóm lính
Cozak Nga nữa và dâng lên cho nhà vua, tăng thêm niềm tin chiến thắng
cho ông.[71]
Ông này không hề biết gì về cuộc hành quân của người Phổ, và vào ngày
24 tháng 8 thì ông ta nhận được hung tin. Ông ta hoàn toàn bị cô lập.
Như vậy là vị vua nước Phổ đã hoàn thành điều mà Fermor sợ nhất.
Friedrich II Đại Đế đã có được thắng lợi ban đầu.[9][77]
Thấy vậy, Fermor bỏ thành Cüstrin, để đánh trận tại Quartschen và Zorndorf - nằm ở phía Bắc pháo đài Cüstrin. Ngày 24 tháng 8 cũng là một ngày oi bức như ngày hôm trước, và Friedrich II Đại Đế truyền lệnh cho ba quân nghỉ ngơi một chút trước khi hình thành bốn đội hình hàng dọc đi truy lùng giặc vào lúc 2 giờ chiều. Từ trên một Tháp chuông Giáo đường có chàng trai nhìn vào đoàn quân tiến bước: "hay chúng ta nên suy đoán quân địch theo đường ánh sáng Mặt Trời chiếu vào những khẩu súng hỏa mai. Bỗng đống bụi mù nổi lên và che khuất tầm nhần của chúng ta. Người ta cũng kể rằng trên đường đi Friedrich liên tục ra huấn lệnh cho lực lượng Bộ Binh đảo ngược các khẩu súng hỏa mai của họ, và mang nó cũng với các bia bắn ở phía dưới, để che khuất cuộc hành binh khỏi các toán trinh sát của Nga".[9] Vào hôm trước trận huyết chiến tại Zorndorf, Trung tướng Forcade de Biaix cũng nhận quân lệnh về đêm của Nhà vua và tuân lệnh một cách hùng hồn:[78]
Theo Duffy, buổi chiều ngày 24 ấy nhà vua Friedrich II Đại Đế phát
hiện ra đại quân Nga ở phía Nam con sông Mützel nhỏ bé. Đây là hiểu biết
duy nhất của ông về quân Nga lúc này (do địa hình đầy gỗ che khuất
người Nga), và toàn thể quân Nga đều ở phía Đông dòng sông Oder.[73]
Dòng sông này cũng không được quân Nga yểm trợ, và ông cho đội Tiền Vệ
vượt qua chiếc cầu còn nguyên vẹn tại Neudammer Mühle và dàn quân tại vị
trí chiếm đóng bên sông phía địch. Quân chính quy đóng ở bờ phía Bắc,
và một chiếc cầu nữa được xây dựng để hai thành phần của toàn quân có
thể liên lạc, tiếp tế cho nhau. Đây là một thành công vang dội của ông,
dễ dàng giúp ông ngự tại bờ tận bên kia sông Mützel - con sông nằm giữa
những cái bờ đầy vũng lầy và một hàng gỗ ngày càng ẩm nước. Một đống gỗ
như vậy khiến cho ông khó phát hiện ra cứ điểm của quân Nga, và cuối
cùng trong Khẩu Lệnh về đêm của ông, ông ít có thể nói thêm gì
với ba quân ngoài những nét phác về trận đánh mà ông dự định mở ra trong
ngày hôm sau. Có người tin rằng ông muốn thẳng tay tận diệt quân Nga
một cách không thương tiếc, nhưng theo Duffy thì điều này không hẳn là
đúng mà chỉ là ước nguyện của ba quân - họ cho rằng nhà vua muốn thế.
Trước đây, tình trạng đã diễn ra trong trận kịch chiến tại Hohenfriedberg. Lúc bây giờ ông cho ba quân nghỉ ngơi để chuẩn bị cho cuộc hành binh đánh địch sắp tới[79].
Trong khoảng hai tiếng đồng hồ, nhà vua rút vào một căn phòng nhỏ tại
Neudammer Mühle, người thư lại là Henri Alexandre de Catt đến hầu vào
nửa đêm và nhận thấy nhà vua đã cầm sẵn một ly cà phê. Theo lời kể của
Catt:[9]
Cũng theo Duffy, hai vị thổ quan hiện diện ở cối xay gió, dưới sự chỉ
huy của Quốc vương. Một trong số họ được lệnh sẽ dẫn đường lực lượng Kỵ
Binh tiến quân ngược qua dòng sông Mützel tại Kerstenbrück. Viên thổ
quan thứ hai, có tên là Zöllner, được lệnh sẽ dẫn đường đích thân nhà
vua Friedrich II Đại Đế băng qua đống gỗ Zicherer-Heide trên một hình
cung rộng quanh cánh phía Đông của cứ điểm người Nga. Song khi nhận báo
cáo cuối cùng thì một người trinh sát thì ông không thể nào chần chừ
được nữa. Ông bỏ mão xuống, dắt gươm vào lưng và ra khỏi cối xay gió mà
triệu tập các quan tướng đang chờ ngoài: "Chào buổi sáng, hỡi các tướng sĩ!" Ông hô lên: "Những lời khen ngợi của Ta - là chúng ta đã thắng trận" (ý ông động viên ba quân rằng lúc chưa giáp chiến nhưng lực lượng Quân đội Phổ đã thừa thắng trận[80]). Ông lên lưng chiến mã, và Zöllner chỉ đường cho ông, đúng như lời dặn của ông với viên thổ quan này.[9]
Theo ghi chép của David Fraser, nhờ có các thổ quan mà nhà vua hiểu rõ
được địa hình khó khăn này. Không những thế, có nhẽ ông cũng đã nắm được
tình hình đất đai ở đây thông qua chuyến viếng thăm của ông năm xưa, có
thể còn trước cả khi ông siêng năng học tập về tổ chức chính quyền địa
phương, khi còn là vị Thái tử - tù nhân của pháo đài Küstrin.[73]
David Fraser có ghi nhận kế hoạch chiến trận của ông như sau: Nhà vua
đã chia năm Trung đoàn cho Bá tước Dohna chỉ huy, nhưng phần lớn đoàn Kỵ
binh nằm trong tay Seydlitz (đây sẽ được xem là lực lượng quyết định
cho thắng lợi nổi bật tại Zorndorf của nhà vua). Seydlitz có nhiệm vụ
vượt qua Zabern-Grund giữa cuộc hành quân đường vòng của ba quân và Bắc
tiến, song song với quân Bộ binh của Manteuffel nhưng nằm ở phía kia các
khu đất ẩm ướt, và sẽ yểm trợ cho đội tả quân của Quân vương.[55][79]
Bá tước Dohna được lệnh chỉ huy quân cánh hữu (cánh "chùn bước"), được
57 khẩu đại bác hỗ trợ, sẽ tấn công trung quân và tả quân của Fermor.[81]
Nhà vua còn cho thiết lập hai Khẩu đội pháo gồm 60 súng đại bác ở hướng
Bắc và Tây Bắc Zorndorf, nhằm đánh úp tuyến quân Nga tại đó - tuyến này
có lẽ là hữu quân hướng về phía Đông nhưng thực sự là hữu quân hướng về
phía Nam - cái này sẽ bị đại binh Phổ diệt sạch. Cuộc hành binh trên 8
dặm sẽ xuất phát từ khu vựa tập trung về phía Đông Bắc Batzlow. Vượt qua
cả Đông lẫn Tây Batzlow, ba quân sẽ chuyển qua một góc phải về phía Tây
Nam và quyết tâm kéo về Wilkersdorf. Giữa Wilkesdorf và Zorndorf, nhà
vua dự định cho ba quân tập hợp hướng về phía Bắc, trong khi Seydlitz sẽ
nắm giữ cánh hữu đoàn Kỵ binh phía bên kia Zabern-Grund.[79]
Do nhà vua Friedrich II Đại Đế thưở thiếu thời bị tiên quân giam cầm
trong pháo đài Küstrin nên ông dựa vào hiểu biết ở đây để mà hành binh
đánh địch: những kiến thức của ông về địa hình ở đây hoàn toàn là có giá
trị to lớn, bất chấp cứ điểm kiên cố của quân Nga.[83] Thomas Campbell thì ghi nhận răng vào buổi sáng Thứ Sáu ngày 25 tháng 8 năm 1758, ông dẫn đại binh băng qua sông Mützel[72]. Song theo Duffy và Showalter, thì lúc ba giờ sáng[80]
ngày 25 tháng 8 ấy, nhà vua lên đường với sự hướng dẫn của thổ quan như
đã nêu trên, các đội hình hàng dọc của ba quân thẳng tiến trong khi ông
đi cùng với đội Tiền Vệ[9]. Tướng Manteuffel là người dẫn đầu đội Tiền Vệ.[79]
Theo các tác giả Thomas Campbell và Franz Kugler, ông hoàn toàn kéo
quân về vị trí phòng ngự của người Nga, để tấn công vào điểm yếu nhất
của nó. Quân đội Phổ hành binh im lặng nhưng rất dũng mãnh.[72]
Một đồng bằng rộng lớn tạo điều kiện cho ông dễ dàng phát động tiến
công, trong khi những cánh đồng khô cằn ở hậu binh và bên sườn của quân
Nga, cùng với một nhánh sông Oder, khiến cho bọn họ bị vây quanh[69]. Đại tướng David Fraser có ghi nhận:[73]
Franz Kugler ghi nhận rằng theo huấn dụ của nhà vua, người Phổ phá
hủy hết những cây cầu gần đấy để quân địch không còn đường rút. Ông muốn
tiêu diệt hoàn toàn quân Nga, bằng một đòn giáng sấm sét quyết định phá
sạch quân thù (như đã nêu thực chất điều ko chắc là có thật[9]).
Ông không thể trễ nãi, vì ông biết rằng quân Áo sẽ thừa cơ ông vắng mặt
mà tấn công bất ngờ vào tỉnh Schliesen. Do đó, ông không cho quân cướp
bóc trang bị cầm tay của quân địch - đống đồ này được yểm trợ bởi một mớ
xe ngựa ở cách quân Phổ khá xa, dù ông không khó gì trong việc làm chủ
cái đống hành lý đó và cứ thế dễ dàng hất cẳng quân Nga ra khỏi vùng đất
này mà chẳng phải đổ máu gì - do quân Nga rất cần có đống hành lý ấy.
Tuy nhiên, theo Kugler, điều khiến nhà vua không thực thi là do công
việc này đòi hỏi đến 2 tuần lận.[69]
Christopher Duffy ghi nhận rằng khi trời sáng, các đội hình hàng dọc Phổ kéo về một ngôi làng trồng trọt xung quanh Batzlow. Nhà vua Friedrich II Đại Đế không thể nhìn thấy quân Nga trên đường hành binh của ông, dù rằng đám cháy từ các ngôi làng cho biết "tác phẩm" đầu tay của người Cozak). Bất ngờ, ông nhìn thấy kho quân lương to lớn của quân Nga, nằm tựa vào đường chân trời tại rìa của những cái dốc đứng đầy cát mà từ trên đó dễ nhìn thấy những cái đầm lầy Klein-Cammin. Tướng Retzow là một trong những võ quan đặt ra câu hỏi rằng nhà vua có nên ngừng tấn công quân Nga, và thay vì đó ông cướp phá Wagenburg được phòng vệ yếu kém này, sẽ làm cho cứ điểm của Fermor yếu đi. Nhà vua cũng nảy ra ý định này về cuối trận chiến, nhưng lúc này ông chưa thực biết về sức mạnh quân sự của người Nga nên quyết tâm đánh họ một đòn đau chí mạng. Các đội hình Phổ dũng mãnh hướng về bên phải mà Nam tiến, và họ làm nên một dốc không nghiêng làm qua việc vượt qua và xung quanh Wilkersdorf. Lúc bấy giờ nhà vua vẫn chưa rõ cứ điểm quân Nga ở đâu, nên ông cứ hành quân cho đến khi truyền lệnh cho ba quân dừng chân ở phía Nam Zorndorf và hợp thành tuyến quân. Trong khi ấy, Fermor đã hoàn thành đội quânn hoành tráng, với những hàng ngũ hùng mạnh và rất nhiều tuyến quân Dự bị, của ông ta.[9] Nhà văn quân sự nổi tiếng Antoine-Henri Jomini người Pháp cho rằng Friedrich II Đại Đế quyết định tung quân đánh vào chỗ quân địch phân bố nhiều nhất trong các tuyến của họ, ông mong muốn phá vỡ đạo quân khổng lồ này bằng một đòn giáng chí tử vào góc xó của bọn họ, và từ đó các chiến sĩ Phổ sẽ thả sức bắn giết, thảm sát những chiến binh Nga tàn bạo nhưng vô kỷ luật. Nếu thua, ông sẽ kéo đại binh rút về thành Cüstrin cố thủ.[84] Duffy cũng ghi nhận rằng nhà vua bấy giờ đã thừa có ý tưởng áp dụng chiến thuật "Đánh xiên" vẻ vang của ông: theo đó, ông cho quân cánh tả của mình tấn công địch. Đồng với những người không có kiến thức, cánh đồng này "là một đồng bằng rộng mở, có gỗ bao quanh". Trên thực tế, cánh đồng này bị phân ra thành từng khúc bởi những điểm đặc trưng thú vị, và nhà vua chọn mục tiêu của ông là đội hữu quân Nga ở phía Tây, lực lượng này được bố trí thiếu cẩn trọng ở phía trước phần còn lại của đại quân Nga, nằm giữa những cái ao và đồng cỏ ẩm ướt của Zabern-Grund sâu hoắm về phía Tây, và chỗ lồi lõm vừa dài vừa nông Galgen-Grund - là một trong những thung lũng nhỏ kỳ quái nhất đã đẩy trung tâm của đồng bằng từ hướng Đông - Nam về hướng Tây - Bắc.[9] David Fraser cũng viết rằng trong trận chiến sắp tới, bãi chiến trường sẽ gồ ghề trong hình chữ nhật Quartschen - Zicher - Wilkersdorf - Zorndorf, và phần lớn bãi chiến trường là phần đất giữa Zabern và Langer Grund. Nhà vua nước Phổ đặt giả thiết rất đúng đắn rằng quân Nga dàn quân bên ngoài các khu rừng, và ông không muốn tấn công trực diện từ hướng Bắc. Dù hàng ngũ và tuyến quân Nga có thể nào chăng nữa, ông không muốn hành quân qua các cánh rừng để đánh quân Nga trong tình trạng khá tăm tối. Ông cần phải có chỗ mà triển khai ba quân. Tuyến quân mà Fermor thành lập dựa vào những gì ông này biết về chuyển động của người Phổ, nhưng có lẽ ông ta hướng quân về phía Đông: bởi lẽ nhà vua có kế hoạch hành binh qua hướng Đông của khu vực chung mà có mặt người Nga.[85]
Nhà vua dù nghe lời khuyên can của Thống chế Keith nhưng hãy còn khinh rẻ người Nga, cho rằng bọn họ chẳng thể làm gì được khi chống chọi với một đội quân được huấn luyện tốt[86]. Do đó, người Phổ thiết lập một tuyến dài theo chiến thuật "đánh xiên" - một đường lối chiến thuật từ thời Hy Lạp cổ đại đã được hồi sinh mạnh mẽ với đại thắng của vua Friedrich II Đại Đế trong trận thư hùng ác liệt ở Leuthen[87]. Những binh sĩ đánh trống Phổ cũng gõ nhịp trống và các đội nhạc binh hừng hực khí thế trình diễn bài ca: "Ich bin ja Herrin deine Macht" ("Hỡi Đức Thiên Chúa cao sang của con, con đang nằm trong bàn tay Người"). Giọng hát ca của các chiến binh giữa đống gỗ khô làm cho nhà vua trở nên khó chịu, khi ông nghe được.[8] Khi ông hỏi tên bài hát này thì đội nhạc binh bẩm rằng đây là một bài Thánh ca của đạo Luther và nhà vua cũng vừa lặp lại lời ca khúc, vừa tiến quân. Toàn quân đều sẵn sàng chiến đấu trong một trong những trận chiến tàn khốc nhất trong suốt triều đại Friedrich II Đại Đế.[88] Nhà vua dứt khoát ban quân lệnh "hoặc là chiến thắng hoặc là hy sinh".[53] Trước trận đánh, nhà vua ngự trên một chiếc ghế gần một cối xay gió để quan sát ba quân. Cái ghế này dần trở thành hình ảnh gắn bó giữa người chủ cối xay gió ấy với vị Quân vương lẫy lừng của mình.[89] Khi đó, trước nửa đêm ngày 24 tháng 8 năm 1758, hay tin nhà vua Friedrich II Đại Đế đang hừng hực khí thế hành binh đến, quân Nga thành lập trận tuyến. Đại quân Phổ bao gồm 32.760 chiến binh (sách của nhà sử học Giles MacDonogh thì chép là 37 nghìn quân, còn sách của tác giả Amos Dean thì chép là 32 nghìn quân sĩ), trong khi đó người Nga có đến 52 nghìn đại binh (Giles MacDonogh thì cho rằng người Nga có 43 nghìn quân[8][11], trong khi tác giả R. Van Bergen trong tác phẩm The Story of Russia thì ghi là quân Nga có đến 89 nghìn người [12]). Nhà sử học người Anh là Christopher Duffy cũng cho rằng nước Phổ có 37 nghìn quân, Nga có 45 nghìn quân trong sách Frederick the Great: A Military Life, và trong sách khác ông viết rằng tổng cổng hai bên có khoảng 8 vạn tinh binh.[9][90] Theo tác giả C. T. Atkinson thì người Phổ có 38 Tiểu đoàn, với 12 nghìn Kỵ Binh và 25 nghìn Bộ Binh, trong khi người Nga có tới 42 nghìn quân sĩ.[10] Người Phổ có sáu Trung đoàn Thiết Kỵ Binh, năm Trung đoàn Long Kỵ Binh và ba Trung đoàn Khinh Kỵ Binh. Một Trung đoàn Khinh Kỵ Binh được chia đôi.[91]
Quân Nga làm nên một đội hình bốn cạnh, trong đó đoàn Kỵ binh được phân bố ở giữa. Một ít quân trang của Nga cũng đặt giữa đội hình ấy. Trong khi đó, quân trang đầy đủ hơn thì phân bố ở Klein Kamin và được 8 nghìn lính kiểm soát. Trong các cuộc chiến tranh chống Đế quốc Ottoman, kiểu đội hình này rất có hiệu lực, giúp quân Nga đánh tan tác những cuộc công kích vô tổ chức của đại binh Ottoman, nhưng nó không thật giá trị khi chạm trán với một lực lượng Quân đội có kỷ cương của người Âu châu.[69][72] Quân Nga cũng có đội Kỵ Binh hùng hậu do Tướng T. Demiku chỉ huy.[92] Ban đầu, quân Nga hướng về phía Bắc, hướng về khu vực tập trung của quân Phổ phía Đông làng Darmietzel. Điều đó là dễ hiểu, và hậu quân Nga cũng được bố trí có lô-gíc.[48] Tuy nhiên, khi nhận thấy cuộc hành binh của Friedrich II Đại Đế, Fermor nghĩ rằng người Phổ sẽ tiến đánh quân ông ta từ phương Nam, và ông ta cho quân hướng về phía Nam. Theo đó, quân Nga được củng cố ở mặt chính diện bên trái.[48] Theo nhà sử học quân sự Robert B. Asprey người Mỹ thì việc thiết lập đội hình là một lỗi làm về chiến thuật của Fermor: vũng lầy ở hậu quân ngăn cản quân Nga bỏ chạy một khi bại trận. Để yểm trợ hữu quân Nga, ông ta chỉ huy các Trung đoàn từ Zorndorf và kéo dài tuyến của ông ta đến tận Zabern-Grund - khoảng đất lõm về phía Nam Quartschen. Đây lại là một lỗi lầm về chiến thuật, do quá nhiều Trung đoàn cùng phòng thủ. Chỗ đất thì ít mà Trung đoàn thì hàng đống, thành thử tuyến quân Nga chẳng hề vững chắc.[81] Khi quân Phổ càng tiến gần đến, Fermor đã tiến quân đến làng Zorndorf và Wilkersdorf, và cho quân bắn phá ngôi làng Zorndorf. Quân Cozak tuân theo, liền nổ súng. Tuy nhiên, trò man rợ này lại làm hại cho chính ông ta. Đám lửa, cùng với khói bụi do vó ngựa gây ra, bị gió thổi về phương Nam, đã che lấp những đợt hành binh của vua Phổ. Đây là một sai lầm mang tính chiến thuật của Đại tướng Fermor.[81] Khi các chiến binh Nga có nhiệm vụ cầm chân quân Phổ giữa ánh sáng Mặt Trời lóe rạng đông hô lên dữ dội: "Giặc Phổ đã tiến đến!" Vị Giáo trưởng Nga nghe vậy, liền cùng với các thầy tu phụ tá của ông ta và nhiều lính hầu, dơ lên lá quốc kỳ Đế quốc Nga, hát vang lên đồng thời ban phước cho binh lính. Sau cái nghi lễ này, mỗi người lính lại rót một cốc rượu nhỏ từ trong một cái túi da đeo ở túi của Giáo trưởng, và bọn họ cùng thề vang lên rằng sẵn sàng chặn đánh cuộc tiến công của quân Phổ.[69][72] Nhà vua Friedrich II Đại Đế đôi khi đặt giả thiết, với chứng cớ rõ ràng - rằng ông ban đầu sẽ phát hiện Fermor hướng về phía Đông, và khi tiến đại quân vào Zorndorf thì ông sẽ ở đâu đó gần đội hữu quân Nga. Lúc ấy hai bên sẽ đánh nhau dữ dội.[48]
Khi đội hữu quân Phổ tiến vào làng Zorndorf thì đội nhạc binh trở nên khó thể nhìn thấy, theo lời kể của người lính cầm cờ Prittwitz xứ Alt-Bevern.[9] Vào lúc 9 giờ sáng, các chiến binh Phổ đã sẵn sàng và bắt đầu tiến công[48]; đội Cấm Vệ Quân xông lên, cùng với quân cánh tả của ba quân đánh thẳng vào đội hữu quân Nga. Viên Đại tá là Moller pháo kích rầm trời, nhằm vào trung quân và hữu quân của Fermor. Quân Pháo binh còn cách xa quân Nga do đó Moller chuyển họ sang 600 km về phương Bắc, quân Pháo binh Nga cũng chống trả lại. Đây có lẽ là một trong những trận đấu súng đại bác khốc liệt nhất trong suốt cuộc Chiến tranh Bảy Năm. Quân Pháo binh Phổ gây thiệt hại chưa từng thấy xuyên suốt các tuyến quân Nga chỉ trong vìng 2 tiếng đồng hồ. Đây là hậu quả của việc Fermor đốt làng Zorndorf làm che khuất binh lính Nga.[81] Người ta kể rằng chỉ một viên đạn đã hạ sát được 42 quân Nga. Binh lính theo dõi trại của người Nga ở trung quân đều hoảng loạn. Những cái xe cùng những con ngựa thồ đều bị bùng cháy ở cả hai bên, các tuyến bị vỡ, và người Nga phải rất khó khăn trong việc bố trí lại các xe ngựa của họ ở hậu quân. Quân Nga tuyệt vọng.[93] Tuy nhiên, xem ra họ vẫn không bị hủy diệt trước sức mạnh của hỏa pháo của người Phổ và có lẽ vẫn đứng vững. Song, quân Pháo binh Nga không thể phản pháo do trước mặt bọn họ là cái dốc rất nhỏ, và đồng thời dĩ nhiên là khói bụi của đám cháy mà Fermor gây ra đã ngăn cách bọn họ.[9] Những cư dân cách đó vài dặm bị rung chuyển trước những đợt "sấm rền" liên tục này, cửa sổ các nhà dân bị lung lay, và từ những ngôi làng cháy rụi và bãi chiến trường khói bụi bốc lên làm cho bầu trời đen tối hết cả. Cảnh tượng người Cozak và Kalmykian đốt cháy các ngôi làng xung quanh, cùng với một đống xe goòng lớn của quân Nga bị quân Phổ hất đổ vào các bó rơm làm cho bãi chiến trường trở nên khủng khiếp đến mức bạt vía.[9]
Moller đã thắng cuộc và ông truyền lệnh cho thu các khẩu đại bác và thay bằng các khẩu súng thường[81]. Thừa thắng, vào lúc 11 giờ sáng lực lượng Bộ Binh Phổ do Trung tướng Manteuffel chỉ huy tiến lên, khi nhận được thời cơ thông qua Trung đoàn Súng hỏa mai số hai. Một khẩu đội pháo gồm 20 súng đại bác được đẩy về phía trước cùng với lực lượng Bộ Binh dũng mãnh, và đến Fuchsberg thì nã đạn tới tấp gây tổn hại nghiêm trọng cho các đội Bộ Binh lựu đạn số một và số ba của người Nga. Nhưng khi quân Bộ binh Phổ tiến về thì quân Pháo binh Nga đã làm điều tương tự với họ. Dần dần lực lượng Bộ Binh Phổ biến mất khỏi tầm nhìn, dưới làn đạn của quân Pháo binh Nga, nhưng vào khoảng 11 giờ 15 phút thì họ lại hiện ra và chỉ còn các các tuyến quân đỏ của Nga có 40 bước đi. Quân Bộ binh hai bên bắn nhau kịch liệt, gây tổn thất to lớn. Quân Nga hết đạn, đành dùng lưỡi lê. Cả hai bên đều tổn thất nặng nề, nhưng quân Phổ thắng trận. Song, hỏa lực của các đội Bộ Binh ném lựu đạn số một và số ba của Nga đã gây thương vong lớn cho quân Manteuffel, và ông khó thể tự mình tiến công được nữa[94]. Ông sẽ phải kết hợp với quân cánh tả của đại quân do Trung tướng Kanitz chỉ huy; Manteuffel dùng khoảng đất lõm Zabern-Grund để yểm trợ cho cánh quân của ông.[44][48] Kanit thì đã 65 tuổi và ông có 9 Tiểu đoàn ở tuyến thứ nhất, 6 Tiểu đoàn ở tuyến thứ hai và ở màn sườn[81]. Với hy vọng của nhà vua rằng cuộc tiến công ban đầu này sẽ là một đòn giáng chí mạng vào người Nga thì Zabern-Grund trở thành điểm hỗ trợ tốt của quân Bộ.[9] Theo kế hoạch trận đánh thì Kanitz sẽ tấn công và đánh lùi tuyến thứ nhất của Nga và tuyến quân thứ hai cùng với các xe goòng chở lương thực. Tuy nhiên, quân Nga ra tay trước và Trung đoàn từ tuyến quân thứ hai là Novgorod, Ryazan và Voronezh, cùng với Trung đoàn Sankt-Peterburg xung phong và tái lập tuyến quân thứ nhất. Đây là thảm kịch đối với các Tiểu đoàn của Manteuffel: các Tiểu đoàn quân phục xanh kiệt quệ bắt đầu rệu rã trước sức tấn công dồn dập của người Nga, nhưng nhờ có tinh thần kỷ cương cao mà họ giữ vững được tuyến quân. Tổn thất gia tăng, tuyến quân các mất dần, các hàng quân càng khó thể che lấp khoảng trống: một lỗ hổng mở ra giữa Đại đội số 2 và Zabern-Grund. Các Trung đoàn Novgorod và Sankt-Peterburg chấp lấy thời cơ, bèn đánh thốc vào tả quân Phổ. Manteuffel đại bại, giờ đây ông rất cần có Kanitz:[94]
Vốn từ đầu Trung tướng Kanitz đã tiến về hướng Bắc theo kế hoạch của Quốc vương. Tuy nhiên, Kanitz cứ càng tiến quân thì hiện ra một khoảng trống giữa ông và Dohna. Ông nghĩ rằng Dohna sẽ tung quân yểm trợ cánh hữu của quân ông - giờ đây càng dễ bị trung quân Nga tấn công. Kanitz nhận thấy rằng nếu quân Nga đánh vào hữu quân của ông thì đội quân của Dohna sẽ không thể cứu viện ông được và vì thế, trái lệnh của nhà vua, ông kéo hữu quân của ông về phía Stein-Busch.[44] Chỗ đó tiếp giáp với tả quân Nga vốn ít bị tổn thất trong cuộc não pháo của quân Phổ.[48] Một khi tuyến quân thứ nhất của Kanitz tiến về hướng Bắc, tuyến quân thứ hai của ông phải tiến về phía trước để lấp lại lỗ hổng. Giờ đây, Manteuffel và các Tiểu đoàn của ông không thể có quân cứu viện. Kế hoạch tấn công hữu quân yếu ớt của quân Nga đã biến chuyển thành một cuộc tấn công trực diện yếu ớt, trải dài từ Stein-Busch ở trung quân Nga cho đến Zabern-Grund, và càng đuối dần đi. Dohna đáng lẽ phải theo chân lực lượng tấn công của Kanitz và che lấp cánh được phơi bày ra của ông đồng thời cung cấp quân dự bị. Ban đầu, khi quân Bộ binh Phổ rút đi từ Zorndorf, ông làm theo kế hoạch nhưng vì một lý do nào đó, chắc là do không hiểu mệnh lệnh cuả Quốc vương, nên hướng quân về phía Đông để khỏi tấn công. Thảm họa đã đến với quân của Manteufell, khi tuyến quân của ông lộ ra một khoảng trống giữa tả quân của ông và Zabern-Grund. Viên chỉ huy quân Nga là Gaugreben liền chớp lấy thời cơ: ông cho ba Trung đoàn Kỵ Binh của mình là Trung đoàn Kỵ Binh ném lựu đạn Kargopol, Trung đoàn Tobolsk và Trung đoàn Novotroisk, kết hợp lực lượng Khinh Kỵ Binh Serbia đánh vào tuyến bị hổng của người Phổ, vừa bọc hậu, đánh lấn vào sườn mà cũng vừa đánh trực diện vào tuyến quân Phổ.[94] Bộ Chỉ huy Quân đội Nga lúc ấy không những cho Kỵ Binh mà cũng cho Bộ Binh và Kỵ binh cùng xông lên đánh úp Quân đội Phổ, và hô vang lên: "Arra! Arra" (Thắng rồi! Thắng rồi). Quân Bộ binh Phổ do Tướng Manteuffel và Kanitz chỉ huy đều hoảng sợ, phải rút lui trong tình thế hỗn loạn.[72] Dù là chỉ huy của Trung đoàn Đông Phổ lừng danh nhưng đích thân Trung tướng Kanitz cũng thua chạy, mất đến 60% quân tinh nhuệ nhất của ông.[9] Có 26 khẩu Đại bác của nước Phổ bị quân Nga cướp lấy. Từ khẩu đội pháo của Moller ở trung quân, nhà vua Friedrich II Đại Đế nhận được hung tin.[81] Ông trở nên bất ngờ trước sự dũng mãnh của quân Nga trên trận tuyến.[95]
Bấy giờ, ông vẫn thể hiện lòng can trường và quyết đoán của ông. Ông xuống ngựa, giành lấy lá hiệu kỳ của Trung đoàn tinh nhuệ Below và nỗ lực xông ra ngăn cản các chiến binh bỏ chạy khỏi trận tiến. Ông kêu gọi: "Hỡi lũ chó! Quân bay có muốn sống mãi chứ". Ông thân chinh tiến thẳng về đánh nhau với quân Nga phía trước ông.[96] Nhưng rồi, binh lính của ông vẫn cứ bỏ chạy, khiến nhà vua tức giận quát rằng họ chạy như những con đĩ thỏa.[44][97] Lực lượng Thiết Kỵ binh của Trung Tướng đại tài Seydlitz - bấy giờ vẫn thận trọng tiến quân ở phía bên kia Zabern-Grund, và không ra trận tiền. Nếu bây giờ Quân đội Phổ có thể chuyển bại thành thắng, đó hoàn toàn là nhờ đại công của ông: nhưng theo một câu chuyện, kể lần đầu bởi Blanckenburg vào năm 1797, Nhà vua liên tục ban chỉ dụ cho Seydlitz tấn công địch quân, nhưng ông cãi lệnh. Theo suy xét của ông thì lực lượng Thiết Kỵ Binh của ông khó thể hành binh, nên phải thận trọng; trong khi nhà vua muốn Seydlitz tấn công trực diện thì ông đã nung nấu ý định đánh tạt sườn quân Nga.[98] Nhà vua lại ban huấn lệnh xuống đe dọa hành quyết ông, nếu ông không có xông pha vào trận mạc.[58] Ông sai một bộ tướng đến yết kiến nhà vua: "Bẩm với Đức Vua rằng sau trận đánh Ngài sẽ tùy tiện xử lý cái đầu cuả Ta, nhưng hiện giờ Ta mong Ngài sẽ chấp nhận nó còn tồn tại để còn phục vụ Ngài". Có lẽ Friedrich II Đại Đế lo lắng khi nghe tâu vậy. Seydlitz vốn là một vị chủ tướng sáng suốt và ông biết rằng quân Phổ chỉ chiến thắng khi tấn công lúc thuận lợi, tại địa điểm thích hợp và với mưu lược đúng đắn.[48] Tuy nhiên, vua trở nên mất kiên nhẫn với ông. Thế là vua truyền lệnh cho ba Trung đoàn Long Kỵ Binh của Biberstein: Plettenberg, Alt-Platen và một Trung đoàn nữa cách xa về phía Đông là Schorlermer. Song, Marschall cũng cảm thấy khó thể ra trận lúc này nên ông không tuân lệnh. Thế là Thống chế Moritz - Vương công xứ Anhalt-Dessau thay mặt Marschall chỉ huy các lực lượng này. Dưới sự thống lĩnh của ông, Trung đoàn Plettenberg tiên phong, đánh thẳng vào quân Kỵ binh Nga - nhận thấy quân Nga quá vô tổ chức. Quân địch bị đánh lùi, và ít nhất là không thể truy kích quân Bộ binh Phổ được. Nhờ có chiến thắng này, tình hình trở nên hỗn loạn và quân Nga mất hẳn lợi thế[44].
Và, cùng lúc với chiến thắng ấy, quân Phổ có thêm viện binh từ phía Tây: đó chính là đoàn Kỵ binh của Seydlitz.[58] Số là, đến lúc này thì tình hình khiến Seydlitz rất khó có thể không vào trận.[9] Thấy quân Nga càng trở nên nhốn nháo bởi lẽ vừa phải chú tâm đến quân Bộ binh Phổ đang tháo chạy mà vừa bị các đợt tiến công của Moritz đánh tan tác,[44] Seydlitz lấy ngay thế thượng phong. Theo Thomas Carlyle, thì có lẽ nhà vua đã hối thúc: "Seydlitz đâu! Ngay bây giờ!", hoặc cũng có thể do ông tự ý xung trận. Carlyle cũng so sánh quân Nga lúc bấy giờ với một đám bò tót đang chạy toán loạn. Seydlitz ra dấu hiệu cho tấn công, và ngay lập tức 5 nghìn chiến binh tinh nhuệ của ông xung phong vượt qua như long trời lở đất.[48][93] từ ba điểm xuất phát, và cứ thể dẫn quân băng qua những cái dốc để đánh thốc vào hàng ngũ của đám quân Nga nhốn nháo. Trong cuộc tiến quân này, lực lượng Kỵ Binh Phổ gặp phải nhiều chướng ngại vật hơn là những gì cản trở họ trong trận Soor đại thắng quân Áo hồi năm 1745. Các chiến sĩ Long Kỵ Binh Dự Bị cũng đều vào trận tiền.[46] Một trận đánh kịch liệt đã diễn ra, gần như độc nhất vô nhị trong lịch sử châu Âu. Có lẽ Seydlitz đích thân thống lĩnh ba trong số các Trung đoàn (C 8, H 2, H 3). Theo mệnh lệnh của ông, các Trung đoàn thiết lập những đội hình mà tấn công ào ạt dũng mãnh theo ba hướng vào "đám bò nhốn nháo" kinh khủng kia, quân Nga đại bại và còn bị đánh lùi ra xa. Không những các lực lượng Thiết Kỵ Binh như quân Thiết Kỵ binh thứ 8 (Seydlitz), quân Thiết Kỵ binh thứ 10 (Hiến binh) và Thiết Kỵ binh thứ 13 (Cấm Vệ Quân) mà các lực lượng Khinh Kỵ Binh Zieten và Malachowsky đều do Seydlitz cầm đầu cũng góp phần không nhỏ đến thắng lợi. Lực lượng Khinh Kỵ Binh, đã được bố trí trước quân Kỵ binh của địch liền dàn lại hàng ngũ và tiến công thẳng vào những Tiểu đòan bên sườn quân Nga và đánh lùi chúng, tiêu diệt biết bao nhiêu là lính Bộ binh Nga. Lực lượng Khinh Kỵ Binh Zieten không ít lần hành binh qua các Tiểu đoàn Nga mà họ đánh bại và bao vây.[44][84] Vốn các lực lượng của Gaugreben đã bị Moritz đánh cho khánh kiệt, bọn họ cùng với Trung đoàn Khinh Kỵ Binh số 2 của Nga bị lực lượng của Seydltiz đánh từ phía sau, đều tan tác. Các Lữ đoàn hữu quân của Nga như Uvarov, Liubomirski, Leontyev, Panin và Sievers mất đến 18 trong số 20 Tiểu đoàn. Những Trung đoàn này cùng nằm dưới quyền Trung tướng Pyotr Semonoyvich Saltykov - một người có nhân cách quý phái dù khá vô danh trong hàng ngũ quân Nga.[99][100] Quân Kỵ binh của Gaugreben bị tan rã.[44] Một tài liệu cho biết rằng 20 Sư đoàn Phổ đập tan quân Nga ở trực diện, trong khi 18 Sư đoàn còn lại thìd đánh tan địch ở cánh và hậu quân. Đồng thời, lực lượng Pháo Binh Phổ cũng xéo nát quân Nga.[46] Quân Nga phải hứng chịu tổn hại kinh hoàng, không những thế đội hữu quân của Fermor đã bị vỡ tan, phải tìm cách vươt sông bỏ trốn.[9][82][93] Quân Kỵ binh Nga bỏ chạy về Kuztdorf, Fermor cũng tháo lui cho đến tận khi trời tối, chứ không dám quan sát chiến trận nữa. Nếu Quân đội Phổ không phá các cây cầu đi, thì hẳn Quân đội Nga sẽ có đường chạy, Fermor sẽ không bao giờ quay lại và trận đánh Zorndorf sẽ hoàn toàn kết thúc.[93] Nhưng cho dù những hàng tiền quân Nga đều bị triệt hạ, các tuyến quân Nga vẫn dũng mãnh không lui bước. Các Tiểu đoàn Nga lần lượt bị hủy diệt, những đám quân mới tập hợp lại với nhau, và cùng với đống thây tử sĩ họ đã gây khó khăn cho cuộc tấn công của người Phổ, khiến cho Quân đội Phổ phải thảm sát quân Nga rất kịch liệt. Người Nga đã dùng hết đạn dược của bọn họ, họ vẫn quyết không nhân nhượng chỉ đến khi nào quân Phổ quét sạch hết bọn họ. Cuộc tàn sát kéo dài trong hàng tiếng đồng hồ.[69] Nhà sử học Carlyle gọi cuộc giao tranh này là một bãi tắm máu. Cả nửa quân Nga bị tiêu diệt, và phần đầu của trận ác chiến tại Zorndorf đã chấm dứt. Nhà vua Friedrich II Đại Đế từng lâm vào hiểm nguy trong trận này, nhưng giờ đây ông đã xoay chuyển được tình hình nhờ có quân Kỵ binh và Moritz và Seydlitz.[44][93] Seydlitz - vị chỉ huy Kỵ Binh kiệt xuất nhất của Quân đội Phổ - đã can thiệp đúng lúc làm động viên sức chiến đấu của ba quân.[101]
Các binh lính Nga đều đổ dồn vào quân trang của họ, lục tung các xe
goòng trang bị. Họ cũng lấy các thùng rượu nặng ra uống, để thỏa mãn cơn
nghiện rượu của họ. Các Sĩ quan Nga đã uống sạch các thùng rượu nặng.
Một số Sĩ quan không thể uống sạch sành sanh đã đổ hết rượu ra mặt đất
và chúi mỏ xuống uống sạch rượu ngay trên đất cát. Không những thế, một
số binh lính Nga, do bị say rượu đến mức thậm tệ, quay sang đánh lại Bộ Tư lệnh
quân Nga, lại còn giết sạch những quân sĩ khác vì cho rằng những người
này đã đổ rượu ra làm cho bị xỉn. Nhiều Sĩ quan Nga ăn mặc kiểu Phổ cũng
bị hạ sát trong vụ ẩu đả ghê gớm này.[102]
Tuy nhiên, có lẽ chính lượng rượu này khiến cho những người lính Bộ
Binh Nga sẽ còn chiến đấu mãnh liệt hơn nữa, mà nhà vua Friedrich II Đại
Đế khó thể tưởng nổi.[83]
Cuối cùng, đến lúc trưa, cả hai đoàn quân đều ngưng chiến. Tàn binh Nga
bị đẩy vào vũng lầy, và, từ phía trước quân Pháo binh Phổ, danh tướng
Seydlitz kéo các dũng binh của ông về vị trí cũ sau chiến thắng của họ,
giữa lúc quân Pháo binh Nga đang chuẩn bị nã pháo vào quân của ông.
Trong quân phục lực lượng Khinh Kỵ Binh số 8 của ông, ông bái kiến nhà
vua, mang theo một đám tù binh Nga. Chiến thắng vang lừng của ông đã
khiến cho đội tả quân của Phổ được hồi phục.[44]
Những chiếc xe goòng của người Nga vẫn bất động gần Quartschen. Trong
lúc chiến bại như thế thì Bộ Tư lệnh của Nga lại mắc vấn đề. Ngay từ
những đợt tiến công đầu của quân Bộ binh Phổ, Fermor đã không thể làm
chủ tình hình. Theo lời kể của Fermor sau khi bại trận thì ông ta khi đó
ở Quartschen để chữa vết thường, nhưng có người nói ông ta ở Kutzdorf
hoặc là Furstenfelde, đều cách Quartschen vài dặm, nơi ông ta có thể tổ
chức tấn công - dù ông ta chẳng phải bận tâm gì với việc này. Nói chung,
hẳn lá lúc thấy quân Nga bại trận Fermor đã phải tháo lui như vậy vì sợ
bị người Phổ bắt sống.[81]
Quân đội Nga đã tập hợp lại. Những phần khác của quân đội hai bên chưa
hề tham chiến. Tuy nhiên, Friedrich II Đại Đế vốn thân chinh thống lĩnh
đội hữu quân của Quân đội Phổ, giờ đây ban huấn lệnh cho các đội hình
của ông sẵn sàng, và xung phong. Quân Pháo binh Phổ tiếp tục lâm trận,
sẵn sàng bắn giết các đơn vị quân Nga.[103]
Theo Carlyle thì có lẽ lúc đó là khoảng 2 giờ chiều. Có tư liệu cho
rằng đó là khoảng 1.30 sáng. Nhà vua tức giận do tả quân chịu vài khó
khăn, bèn dừng bước trước Trung đoàn Hoàng thân nước Phổ (Prinz von Preussen) (18) và hô lên để cỗ võ tinh thần ba quân: "Có lẽ Thiên Chúa sẽ ban phúc cho chúng ta". Tuy nhiên:[9]
Ban đầu, quân Bộ binh do Dohna chỉ huy đánh thắng quân Nga, tạo thuận lợi.[103]
Song, cuộc tiến công có vẻ gặp trắc trở do viên Trung Tướng Nga là T.
Demiku cùng với 36 Sư đoàn ở bên trái Zicher tiến đánh các Tiểu đoàn ở
giữa và bên tay phải của Dohna tại hướng Nam Langer Grund.[48]
Trước mặt vua có một Khẩu đội pháo Phổ, giữa khoảng trống khá lớn giữa
Khẩu đội pháo này và các tuyến quân thì có một Tiểu đoàn đặc biệt. Phần
lớn quân Kỵ binh Nga xông vô đánh, trong khi ấy quân pháo thủ Phổ chưa
hề nổ súng.[102]
Quân Nga bắt sống cả Khẩu đội pháo lẫn Tiểu đoàn này. Một số binh sĩ
Phổ bỏ chạy do làn bụi mù bốc lên từ phía Nam đám cây Stein-Busch, tuy
nhiên các Trung đoàn Long Kỵ Binh Plettenberg và Alt-Platen được tung
vào trận mạc. Chính nhà vua đã triệu tập họ từng bên trái và sau đó
Seydlitz sai họ vào trận. Nhờ đó Tiểu đoàn vừa rơi vào tay giặc mừng rỡ.
Sau đó, quân Nga liền kéo lên đánh thốc vào quân chủ lực Phổ, nhưng đạn
pháo của người Phổ bắn rát đến mức người Nga nhanh chóng bỏ chạy. Lực
lượng Long Kỵ Binh Phổ đã chiến đấu thật mãnh liệt, gây đến độ "cả Trái Đất"
đều rung chuyển, nhờ đó quân Phổ thắng lớn. Cùng với họ, Trung đoàn
Hoàng thân nước Phổ cùng với lực lượng Khinh Kỵ Binh của Ruesch cũng
xung phong ào lên đánh lui địch, góp phần không nhỏ trong việc mang lại
chiến thắng vẻ vang cho người Phổ.[84] Liền đó, Tiểu đoàn kia thoát khỏi tay giặc, họ liền kéo nhau về phía Phổ và hô vang lên: "Thắng rồi! Đức Vua vạn tuế".[9] Friedrich II Đại Đế tiến đến tiếp kiến họ, ông nói: "Hỡi các con, không được tuyên bố chiến thắng ngay bây giờ! Trẫm sẽ tuyên bố với các con khi nào toàn thắng!".[69] Trong khi ấy, quân Nga đã đại bại do phải hứng chịu sự tấn công mãnh liệt của hùng binh Phổ,[48] bèn tháo chạy về một cái đầm và không ít lính Nga bị lấm bùn nhem nhuốc.[84]
Dù dòng nước bùn lầy gần Zicher đã nhuốm màu máu của xiết báo binh sĩ
Nga, quân Nga đã quá đói khát nên chạy về đó hết sức lề mề.[104]
Ở một khoảng cách không xa lắm, những đạo quân Kỵ binh Nga hùng mạnh khác lại đánh thẳng vào tả quân của người Phổ - bao gồm những Trung đoàn của Bá tước Dohna, trong số đó có vài chiến binh đã bỏ chạy ngay từ đợt tấn công lần thứ nhất của người Nga vào đội tả quân. Một lần nữa, trận giao chiến kịch liệt diễn ra và quân cánh tả Phổ lại phải tháo chạy ra khỏi trận tiền. Đúng lúc đó, Seydlitz - vị anh hùng của ngày hôm ấy - lại phải kéo quân lên để phá vỡ mối hiểm họa lớn từ quân Nga. Ông bấy giờ thống lĩnh 36 Sư đoàn hùng mạnh. Nhà sử học người Anh là Thomas Carlyle có nghi vấn rằng không rõ ông tiến đánh theo quân lệnh của nhà vua Friedrich II Đại Đế hay là do tinh thần tự chủ của ông. Cùng với những chiến binh tinh nhuệ của mình, ông mãnh liệt xung phong đánh thốc vào quân Nga, đánh tan nát quân Kỵ binh Nga khiến cho họ phải bỏ chạy trong tình cảnh hỗn loạn, nhốn nháo. Quân Bộ binh Nga do Thiếu tướng Manteuffel (chớ lộn với viên tướng Manteuffel của Phổ) và Trung tướng T. Browne chỉ huy bị đánh bại trước sức tấn công mãnh liệt của đoàn Kỵ binh Phổ (Browne và Fermor - hai bại tướng dưới tay vua Phổ ở Zorndorf, đều có dòng máu Scotland)[25].[103]. Đợt tấn công này của quân Kỵ binh Phổ thật là một chiến thắng thần kỳ, chẳng khác gì một cơn bão dồn dập tiêu diệt địch quân. Quân Kỵ binh Nga đã bị đánh lùi ra xa, và không còn là mối đe dọa đối với quân Phổ nữa.[102] Và, bất chấp đạn pháo dồn dập của Nga, danh tướng Seydlitz đánh thẳng vào các tuyến quân Nga tiếp theo. Lực lượng Bộ Binh Phổ giờ đây đã có thể làm chủ lại tình hình.[102] Thế rồi, đích thân nhà vua Friedrich II Đại Đế cũng dẫn các Tiểu đoàn Bộ binh lão luyện của ông đến tiếp sức; và một cuộc xáp chiến khốc liệt khác lại bùng nổ, chẳng kém gì cuộc giao tranh ác liệt đã hủy diệt tả quân Nga. Hai bên xung phong lên đánh giáp lá cà, và đều khó thể giữ vững được hàng ngũ của mình. Quân pháo thủ cả hai bên cũng bắn phá dữ dội, và các chiến binh hai bên còn đánh nhau bằng lưỡi lê.[102] Cả quân Phổ và quân Nga, cả lực lượng Bộ Binh và Kỵ Binh đều trở thành một đám quân dày đặc. Trận đánh đã đến mức khủng khiếp, và quân Nga dùng sức mạnh kinh khủng của họ để kháng cự lại đợt tấn công dồn dập của quân Phổ. Các chiến binh Phổ vẫn uy dũng xông lên để chống chọi với đại quân Nga.[101] Giữa trận đánh có tiếng kêu gọi: "Không thể có sự tha thứ" - "Đương nhiên, không thể nào cả!".[102] Đó là do sự thù hằn quá cao độ giữa người German và người Scythia.[2] Người Nga đều đã tuyệt vọng vì thảm bại trong khi người Phổ bắn giết dữ dội vì coi đây là thời cơ để trả thù những hành vi man rợ của quân Nga khi đến xâm phạm xứ Brandenburg. Những người lính Phổ vốn đã vào sinh ra tử liên miên với chiến tranh và lần này trở nên vô cùng hung dữ.[48] Ngay trong lúc sắp qua đời mà các thương binh cũng có những cơn giẫy chết rất điên cuồng. Một thương binh Nga nằm gần một chiến binh Phổ đang hấp hối, mà người lính Nga này tàn tật thê thảm đến mức ông ta dùng những giây phút cuối cùng của mình để xé thịt người lính Phổ kia ra. Các chiến binh Phổ thấy vậy liền thẳng tay giết ngay kẻ ăn thịt người ấy, để người đồng đội của họ được bình thản qua đời.[106] Cũng có một số trường hợp toan ăn thị người khác bị hỏa pháo của người Phổ giệt sạch chẳng còn sót một tên.[107] Những người lính Phổ cũng vồ lấy những cái hộp đạn của tử sĩ Nga.[102] Friedrich II Đại Đế cũng vũ dũng chinh chiến giữa bãi chiến trường đẫm máu, và các lính hầu của ông đều bị địch bắt, hoặc là đều ngã xuống hy sinh bên cạnh vị Đại Đế của họ. Đống tử thi các liệt sỹ trong cái ngày bừng cháy ấy, cùng với đạn pháo của hai bên mà chủ yếu là do các khẩu đại bác bắn ra, đã khiến cho các chiến binh khó thể phân biệt đâu là bạn đâu là thù. Người Phổ chỉ có thể nhận ra nhà vua qua giọng nói của ông. Về lòng dũng cảm thì cả quân Nga và quân Phổ đều tương đương nhau, nhưng nhờ có tinh thần kỷ cương và linh động mà quân Phổ đã chiến thắng được kẻ thù. Cuối cùng, Bộ Tư lệnh Quân đội của nước Phổ đã đẩy được ba quân thoát khỏi tình cảnh hỗn loạn, và khi màn đêm buông xuống, tàn quân Nga bại trận và bị đánh đuổi ra khỏi bãi chiến trường.[84][108]
Sau khoảng bốn tiếng, hai đoàn quân đã thấm mệt nên chấm dứt trận xáp chiến.[102] Đêm hôm đó, nhà vua Friedrich II Đại Đế triệu tập ba quân, người Nga cũng kéo nhau bỏ chạy về nơi an toàn. Đại binh Nga đã bị tan tác thành từng mảnh. Nhưng tất cả những cây cầu đều đã bị phá hủy, quân Nga không hoàn toàn bị tan rã. Họ đã cùng đường.[102] Bộ Tư lệnh Quân đội Nga nỗ lực tập hợp lại ba quân. Quân Nga bấy giờ chẳng khác gì một con linh vật đã chết, mà một nhà sử học quân sự Phổ phải than rằng đạn dược cũng khó thể giết được họ. Nhưng dĩ nhiên, quân Phổ vẫn luôn luôn làm chủ chiến trường[102]. Khoảng vài nghìn quân Nga lại một lần nữa tiến vào bãi chiến trường, và nhà vua kéo đại quân Phổ xông lên đánh. Tướng Forcade - thay cho Tướng Dohna vừa bị thương[46] - chỉ huy tiền quân (gồm 2 Tiểu đoàn) sẽ xung phong trước, còn Tướng Rauter thì sẽ triệu tập lại những binh sĩ của Bá tước Dohna và đánh tạt sườn người Nga.[102] Dohna dù đã mệt nhưng xông lên nhờ có sự khích lệ của nhà vua và vị Thống chế tài năng là Moritz xứ Anhalt-Dessau.[48] Nhưng cuộc tấn công này hoàn toàn không quan trọng gì, và hai bên cứ đánh nhau dữ dội mà không ai lại ai[9]. Số là vì các chiến binh Phổ bấy giờ đã đói khát, và do một sự thật là họ đều là đội tả quân Phổ đã từng không chống nổi quân Nga trước đó, một lần nữa phải tháo lui trước đạn pháo của quân Nga. Nhà vua Friedrich II Đại Đế phải nhìn với thái độ nghi ngờ vào các chiến binh này - bởi lẽ chính họ từng chiến đấu dũng mãnh chống quân Nga trong trận đánh kịch liệt tại Gross-Jägersdorf hồi năm 1757.[102] Đây rõ ràng là một cuộc phòng thủ tầm thường, vô hiệu của người Nga.[108] Lúc khoảng 8 giờ 30 tối, những chiến sĩ Phổ (không rõ số lượng là bao nhiêu người) đã chiếm lĩnh được khoảng đất từ Quartschen và Zicher, nơi lúc sáng quân Nga lập tuyến.[48] Quân Nga hoàn toàn bị hỗn loạn trong khi quân Phổ đã cầm chắc chiến thắng trong tay mình.[106] Dù những người chiến thắng đã thấm mệt làm nhà vua không đánh thêm một trận nữa như ông mong muốn, quân Nga đã bị hủy hoại nặng nề, và họ không thể bò đi đâu hết, không thể tiến lên hoặc lùi bước, họ đã bị thiếu thốn đạn dược và lương thực đến mức trầm trọng. Kế hoạch ban đầu của nhà vua nước Phổ là bao bọc và đánh tan quân Nga đã thành công.[46]
Cảnh tượng thật ác liệt với những thương binh, tử sĩ cùng với không ít người lính Nga bị say rượu.[48] Không còn một Tiểu đoàn với chả Trung đoàn Nga nào nữa do cả đoàn quân bị nhốn nháo, và trong suốt cuộc đời mình Fermor chưa bao giờ chứng kiến một trận kịch chiến kinh hoàng đến thế. Đến đêm này ông ta mới dám quay lại bãi chiến trường để chỉ huy ba quân.[102] Rõ ràng, quân Phổ đã chiếm lĩnh được khoản đất mà địch chiếm cứ trước khi trận đánh khốc liệt bùng nổ, và do đó họ đã đại thắng. Lúc trời tối mịt mù, quân Nga phòng thủ kiên cố.[109] Các đạo quân Cozak đi truy lùng trên khắp bãi chiến trường. Bọn họ đâm xác những tử sĩ, sát hại các thương binh, thậm chí còn đốt phá nữa. Thậm chí họ còn tìm cách cướp lấy các khẩu đại pháo Phổ ở phía sau, điều này khiến cho lực lượng Khinh Kỵ binh Phổ phải ra tay. Lúc một đám lính Cozak đang tàn phá thôn Zicher, quân Khinh Kỵ binh Phổ vây quanh địch quân. Quân Cozak kéo nhau ra những cái chuồng, nhà vệ sinh ở nơi đây, ngồi xuống, rồi lại chạy và tìm cách nhờ lửa - người bạn vĩnh cửu của họ - hỗ trợ. Thế rồi. hơn 400 lính Cozak đang ở trong những cái chuồng bò lớn, hoặc là những đống rơm, và châm lửa đốt chúng, tuy nhiên quân Khinh Kỵ binh Phổ vẫn cương quyết không lùi bước. Họ đều kéo đến lối ra các chuồng xí ấy. Họ reo hò lên: "Quyết phải đuổi lũ quỷ sứ nhà bây!", và xông vô bắn hạ, bóp cổ chết hoặc là thiêu rụi những tên lính Cozak ấy. Cả đội quân Cozak này chẳng còn một ai sống sót cả. Người Phổ đã thành công vang dội trong việc báo thù những tên man rợ này.[84] Trong khi một anh lính Phổ viết: "Sự kinh hoàng mà quân thù gây ra cho chúng ta là khó thể tả nổi. Phần lớn quân ta không thể bình tĩnh khi nói về tình trạng đáng sợ này", thì quân Phổ cũng tàn nhẫn không thua gì: những thương binh Phổ bắn giết xối xả lính Nga.[9] Trong khi ấy, nhà vua Friedrich II Đại Đế vời đoàn tùy tùng của ông đến. Toàn quân dựng đại bản doanh trong hai tuyến lớn, xuyên suốt Bắc Nam, đối diện thẳng vào quân Nga. Nhà vua đóng ở phía trước ba quân, thể hiện ông là vị vua - chiến binh đã chiến đấu hết mình vì ba quân trong cả ngày hôm ấy. Mọi người đã phải trải qua những trải nghiệm kinh hoàng, giờ vẫn chưa phai. Xa xa ngôi làng, người ta vẫn còn thấy các đốm lửa. Khoảng 8 giờ tối, Quân vương triệu sứ thần Anh là Andrew Mitchell vào chầu, cùng với Trung tướng Seydlitz và các võ tướng khác. Mitchell - người đã phò tá nhà vua trong suốt cả ngày hôm đó - ca ngợi:[102][108]
Quốc vương trỏ tay vào Friedrich Wilhelm von Seydlitz, và phán:[108]
Ông luôn nghĩ rằng chính hai cuộc tiến công đúng lúc của Seydlitz đã mang lại đại thắng cho ông.[110] Tuy nhiên, vị danh tướng khiêm tốn liền tâu Quốc vương: "Hừm,
không thể ạ, chính lực lượng Kỵ Binh của Bệ Hạ đã thực hiện trách nhiệm
của họ - nhưng Wakenitz (cận tướng của Hạ Thần), xứng đáng được trọng
thưởng". Wakenitz là vị bộ tướng đã đắc lực hỗ trợ Seydlitz trong trận thắng vang dội này. Đồng thời, Quốc vương cũng khuyên Mitchell: "Mitchell thân yêu của Ta, Khanh không nên có ở đây!" vì sợ sứ thần gặp hiểm nguy, tuy nhiên sứ thần đáp: "Muôn
tâu Thánh thượng, Ngài đã phải hiện diện tại đây. Hạ Thần được gửi đến
cho Ngài ngự, vì lẽ đó Người có ở đâu là Hạ Thần cũng phải hiện diện tại
đấy".[107]
Đêm hôm ấy, người thư lại Henri Alexandre de Catt cũng đến chầu Quốc
vương, bàn luận với ông về sự kinh hồn bạt vía của trận đánh.[9]
Đêm hôm đó, Wilhelm von Fermor cuộn mình trong đống cỏ dại và rơm, để
bảo vệ chính bản thân mình. Ông ta đã được an toàn nhờ đóng ở vị trí
thuận lợi.[102]
Trong khi đó, lúc còn chưa rõ tổn thất của hai bên, Nhà vua Phổ ngự bút
lá thư gửi cho Vương đệ Friedrich Heinrich Ludwig để mà báo tin đại
thắng: "Vĩnh biệt, Vương đệ yêu mến! Trẫm đã hoàn thành, và Trẫm vinh danh em bằng cả Trái Tim của Trẫm". (ít ngày sau, ông sẽ còn viết thêm một bức thư nữa: "Em hãy hát lên bài ca khải hoàn").[111]
Quân Khinh Kỵ binh của Friedrich II Đại Đế hiểu được quân nhu của Nga (Wagenburg), đang ở Klein Kamin vào lúc này. Tối qua, họ đã lục soát dữ dội vào đống quân nhu này, có khi một cách tùy tiện. Rất nhiều tiền của và chiến lợi phẩm của đối phương bị quân Khinh Kỵ binh Phổ lấy sạch về. Nhà vua Phổ đóng quân cách đó không xa nhưng không rõ tại sao mà ông không hề để ý đến nó ? Nửa đêm Thứ Bảy - Chủ Nhật, quân Pháo binh Nga lại một lần nữa nã đạn, lần này cách không xa quân Phổ lắm - một viên đạn bắn trúng xe ngựa của nhà vua Phổ và làm nó bị vỡ. Thậm chí theo như sứ thần Mitchell thì nhà vua cũng súy bị một viên đạn hạ sát.[81] Quân Phổ cũng phải chịu thêm chút tổn thất.[9] Tuy nhiên, quân Nga hoàn toàn kiệt quệ, và không còn quân số đông đảo để tiếp tục tham chiến nữa.[109] Có tài liệu cho biết rằng quân Nga do mát mát quá bi thương nên đã bị mất hoàn toàn lợi thế về quân số: 23 nghìn chiến binh Phổ và 14 nghìn tàn binh Nga.[46] Quân Khinh Kỵ binh Phổ đã đánh nhiều trận xáp chiến với quân Cozak Nga trong ngày hôm đấy, và quân Cozak đã thất bại thảm hại trước sự dũng mãnh của người Phổ.[21] Chỉ sau một thời gian ngắn, quân Nga tuyên bố thoái lui, trước khi nhà vua có thể tìm cách đánh phá xe goòng chở quân nhu của bọn họ[81]. Mặc dù rất có khả năng quân Nga sẽ tấn công trở lại, tổn thất quá nặng nề đã khiến cho bọn họ phải rút quân. Và sau lần này thì trong suốt cả năm 1758 quân Nga sẽ không còn quay trở lại nữa.[48] Bọn họ rút khỏi làng Zorndorf và theo đường tiến về Klein Kamin, rồi từ đó lại tiến quân đến Landsberg, trong đêm mưa tầm tã ngày 27 tháng 8 năm 1758. Vua Phổ thắng rồi cũng không tấn công gì thêm để bảo toàn binh lực của mình và ông hiệu triệu cho ba quân phòng thủ tại Tamsel.[64].[46] Ông cũng rút đoàn Kỵ binh của ông về Langer-Grund để cho họ đỡ phải giao chiến với lính Cozak Nga[9]. Tầng lớp nông dân cùng nhau đắp mộ các tử sĩ, trong khi đó các chi đội cũng dọn dẹp sạch bãi chiến trường. Hay tin quân Áo của Nam tước Ernst Gideon von Laudon tiến vào vùng Hạ Lusatia, nhà vua xuống quân lệnh cho Trung Tướng Hans Joachim von Zieten chặn đứng Laudon. Đồng thời, ông còn phái một biệt đội Khinh Kỵ Binh đến khu vực Frankfurt để đánh đuổi lính du kích Áo.[81] Như vậy là trong ngày thứ ba của trận chiến kịch liệt - tức là ngày 27 tháng 8 - trận huyết chiến tại Zorndorf đã kết thúc. Vua nước Phổ - một "Theseus" anh dũng - đã đại thắng được quân Nga - những "Minotaur" khổng lồ.[102] Ông rất hài lòng trước sự rút lui của quân Nga, quân ông vẫn vững tồn, mà lòng kiên dũng của đại binh Nga đã không thể nào hạ gục được họ.[12][110] Số lượng tù binh của trận đánh kịch liệt này không đáng kể, do hai đoàn quân đều không hề có bất kỳ một sự khoan dung nào cho nhau cả. Nhưng vào ngày 27 tháng 8 thì một mớ những tên bại binh Nga rơi vào tay người Phổ. Cả hai đoàn quân đều phải hứng chịu tổn thất nặng nề. Friedrich II Đại Đế mất đến trên 11 nghìn chiến binh trong trận chiến được xem là thắng lợi đắt giá của ông[22], và tổn thất của quân Nga còn tệ hại hơn nhiều, gấp đôi quân Phổ. Dù cho quân Nga tuyên bố rằng họ chỉ bị mất 30 cỗ pháo[64], quân Phổ cũng chiếm lĩnh được 103 khẩu đại pháo, cùng với 27 quân kỳ và hiệu kỳ của kẻ thù bại trận.[81][108] Sách khác chép rằng quân Phổ hy sinh 13 nghìn binh sĩ trong khi quân Nga thương vong đến 18 nghìn binh lính.[13] Nhà sử học quân sự Trevor Nevitt Dupuy (người Mỹ) cho hay quân Nga mất mát đến gần nửa quân số của mình.[112] Sách Austria của các tác giả Sidney Whitman, John Robert McIlraith cũng ghi nhận rằng trong trận tấn công của vua Phổ ở Zorndorf, quân Nga bại trận và mất đến 19 nghìn binh sĩ.[16] Trong khi 324 viên Sĩ quan Phổ tổn thất thì có đến 941 Sĩ quan Nga thương vong, trong số đó có 5 viên tướng.[72] Theo Christopher Duffy thì Phổ mất đến 12800 chiến binh - tức là khoảng 1/3 Quân đội của Friedrich II Đại Đế trong khi Nga mất đến 18 nghìn chiến binh (khoảng 2/5 quân số cuả họ theo ghi nhận của Hamish M. Scott[15])[9]. Sau khi toàn thắng một người lính Phổ nhìn đám thương binh Nga và có lời bình luận rằng bọn họ "bò bằng những cánh tay và bàn tay, số khác đi khập khiễng trên súng hỏa mai, với những chiếc bia bắn kẹp bên nách để chống đỡ".[113]
Theo người lính này, khi quân Nga bại trận rồi thì "những tàn tích của các xe goòng tiếp tế và xe ngựa chở thuốc súng đều bị nghiền nát, và một mớ lính Pháo Binh bị nướng cháy nửa người đều phải chịu gửi cái mùi thịt cháy thật khó chịu". Cũng theo người lính này, động vật cũng chịu thiệt hại, "toàn bộ đoàn xe ngựa hai bánh Nga, với những con ngựa trúng đạn ở dây cương của chúng, và trong khắp trận tiền những con ngựa bị thương chạy lung tung, trong khi ruột của chúng lết trên đất hoặc là cố chống đỡ trên ba chân".[113] Phải đến ngày thứ bốn - tức ngày 31 tháng 8 năm 1758, viên Đại tá Wendessen và toàn lính của ông lập kế hoạch phá tan kho lương của quân Nga tại Landsberg, nhưng bất khả thi.[9] Hôm ấy, quân Nga chiếm cứ Klein Kamin. Sau đó, họ cũng rời khỏi đây để đi theo đường Landsberg và rút về miền Đông Phổ. Rumyantsev - viên Sĩ quan đã thực hiện tinh thần kỷ luật cao trong trận thua này - lui quân từ Schwedt và Stargard về Ba Lan, đánh dấu hậu quả của chiến bại ở Zorndorf là sự đổ vỡ của cuộc xâm lược của quân Nga vào vùng Brandenburg[17][72]. Trong ngày hôm ấy, Nhà vua Phổ thắng trận lập đại bản doanh tại Blumenberg, và từ đây nhà vua truyền Trung Tướng Manteuffel mang 10 Tiểu đoàn và 20 Sư đoàn truy kích địch quân.[25][84] Tuy nhiên, vào ngày 2 tháng 9 năm 1758, Nhà vua có quyết định sáng suốt khi ông giao cho Bá tước Von Dohna nhiệm vụ canh chừng đám bại binh Nga, còn ông thì thân chinh dẫn đại quân về xứ Sachsen để giúp cho Hoàng thân Friedrich Heinrich Ludwig chiến đấu với quân Áo. Fermor, trên đường tháo lui (ngày thứ ba họ vẫn chưa lui về, và phải đến thứ bảy thì mới hoàn thành), đầu tiên tuyên bố thắng trận. Ông ta nói: "Ta đã ở lại bãi chiến trường trong suốt đêm (thực chất là không xa đó, bởi lẽ các cây cầu đã bị phá hủy), tại sao Ta không được nhiệt liệt hoan nghênh là kẻ chiến thắng? Đây Ta có 26 khẩu đại pháo, lấy được khi Ta mừng rỡ hô vang lên: Thắng rồi" (Arah).[102] Theo như lá thư của Fermor gửi về cho Nga hoàng: "Hạ thần không mất nhiều thời gian để báo cáo cho Hoàng Thượng, rằng, sau một cuộc giao tranh đẫm máu kéo dài đến 10 tiếng đồng hồ, chúng ta vẫn làm chủ chiến trường, và chiếm lĩnh được nhiều tù binh, quân kỳ và hiệu kỳ của quân thù".[109] Do đó, sau này họ sẽ tự tin đến yết kiến các bậc đế vương này, với niềm vui sướng nhưng điều đó gây cho các đế vương này những hy vọng lệch lạc.[108] Tại các kinh kỳ Sankt-Peterburg, Viên và Paris, lễ ăn mừng thắng trận được tổ chức trong suốt ba tuần lễ, họ đã nhầm to.[102]
Dĩ nhiên, sau thắng lợi hoàn hảo ở Zorndorf, ca khúc khải hoàn vang lên tại đế đô Berlin.[11][109] Theo lệnh của nhà vua, trên khắp Vương quốc Phổ các Thánh đường vang lên bài ca khải hoàn.[114] Friedrich II Đại Đế rất khoái chí, sẵn sàng báo tin dữ cho Thống chế Áo là Bá tước Leopold Joseph von Daun về đại bại của quân Nga trong trận đánh Zorndorf tàn khốc. Ông tóm lấy được một lá thư của Daun gửi cho Fermor, và trong bức thư này vị Thống chế Áo khuyên Fermor không nên quá hung hãn trong việc tấn công một kẻ thù xảo trá mà ông ta hoàn toàn không quen biết. Nhà vua liền ngự bút thư gửi cho Daun, thế nhưng ông lại ký tên của Fermor: "Đại Nhân rất đúng khi khuyên Tôi không nên tấn công một tên địch xảo quyết và tinh khôn, mà Hắn không hiểu rõ bằng Ngài, quả thật Hắn đã ban cho Tôi một trận chiến và đánh Tôi đại bại. Ngài thật bất hạnh". Thực ra, trước đó thì những phần tử chống Nga trong quân đội của Daun cũng đã hiểu được cái "chiến thắng" của Fermor thực chất là thảm bại.[71][108] Lại nói đến bãi chiến trường Zorndorf đẫm máu, sau khi chiến thắng quân Nga,[115] các chiến binh Phổ cùng với những người nông dân do quá căm thù trước những tội ác của quân Nga trước trận này: thành thử lòng căm hờn địch của họ trở nên hòa quyện với nhau. Giờ đây họ đã đại thắng được quân thù, vậy để cho hả hê, thấy những thương binh Nga nằm la liệt và kêu cứu trên trận tiền thì họ mang cả thảy các thương binh Nga vứt vào hố chôn các tử sĩ, và dĩ nhiên là chôn sống luôn các thương binh Nga. Những lính Nga xấu số đều cố gắng bò lên, nhưng do bị nằm dưới hàng đống thây đồng đội nên bọn họ đều chẳng thể làm gì được và tất nhiên là chết.[107]
Với những đợt giáp lá cà ghê rợn, kịch liệt, đây có lẽ là trận đánh
tiêu biểu, đẫm máu nhất, ác liệt nhất trong cuộc Chiến tranh Bảy Năm, và
là một trong những cuộc giao chiến ác liệt nhất trong lịch sử thế giới.[83][86][117]
Với những đợt tấn công dồn dập của quân Phổ, đây là một trận đánh đẫm
máu điển hình trong các cuộc chiến tranh thế kỷ thứ XVIII, và thậm chí
là khốc liệt nhất trong thời kỳ Tân Cổ điển trong lịch sử chiến tranh (1725 - 1789),
và cũng là một trận đẫm máu điển hình trong thời kỳ Friedrich II Đại
Đế, với 28 nghìn thương vong trong 76 nghìn quân tham chiến.[60][118][119]
Điều đáng ngờ rằng những người lính Phổ đánh bại quân Nga trong trận
long hổ tranh hùng ác liệt ở Zorndorf chỉ là để thắng lợi một cuộc
"chiến tranh hạn chế".[120] Có thể so sánh trận chiến này với các trận Eylau, Borodino và Gettysburg khi cuộc giao tranh diễn ra kinh hoàng và chỉ chấm dứt khi cả hai bên đều bị kiệt quệ nghiêm trọng.[121] Thương vong của trận này (nhất là với quân Nga[118]) thậm chí cao hơn cả những trận đánh khốc liệt của nhà vua Friedrich II Đại Đế tại Leuthen và Praha hồi năm 1757, và ngang bằng với tổn thất trong trận Malplaquet trong cuộc Chiến tranh Kế vị Tây Ban Nha hồi năm 1709.[101]
Sự chết chóc quá vô kể của kẻ chiến bại thê lương - quân Nga là tiêu
biểu cuả một cuộc đọ sức nảy lửa đến khủng khiếp vào thời ấy,[52][96]
nhưng cho thấy nếu dựa theo tiêu chuẩn của một trận huyết chiến vào thế
kỷ thứ 18, thì tổn thất của họ trong trận huyết chiến tại Zorndorf vẫn
là một cú sốc.[58]
Tuy trận này là thảm bại của quân Nga, không phải là họ đã bị tàn sát
mà không thể chống cự gì trong trận quyết chiến chỉ kéo dài một ngày ấy,
vậy mà họ vẫn phải chịu tổn thất chừng 50% quân số, do đó thiệt hại của
quân Nga trong thất bại ở Zorndorf được xem là đáng ghi nhận.[122][123] Cả hai đoàn quân đều chiến đấu như những người anh hùng.[72] Mặc dù trước trận quân Phổ đã mỏi mệt với cuộc hành binh cấp tốc và thậm chí hiện tượng đào ngũ đã diễn ra khi ấy,[124]
trong cuộc chiến đấu đẫm máu này, Friedrich II Đại Đế giành được chiến
thắng, ghi dấu một trong những trận đánh lớn nhất của ông trong cuộc Đại
chiến Bảy Năm, một trong những thắng lợi khốc liệt nhất trong đời ông,
một trong những trận chiến kinh hoàng bạt vía nhất trong thế kỷ vì thương vong lớn lao của hai đoàn quân.[125][126][127]
Một nhà sử học đương thời có lời bàn về tuyên bố thắng trận của quân
Nga sau khi chiến sự kết thúc (thoạt đầu Fermor cho làm lễ "mừng chiến
thắng" tại đại bản doanh Gross-Kamin[128]): "Không lúc nào người ta làm nên những thông cáo dối trá nhiều hơn là cuộc Đại chiến Bảy Năm".
Có lẽ, trong suốt cuộc chiến tranh này, duy chỉ có người Phổ là không
nói láo. Nếu thua, họ chấp nhận chiến bại, rồi đợi thời cơ hồi phục.[21] Vả lại, dù sao thì có lá thư của Fermor gửi lên Elizaveta đã viết trận đánh Zorndorf là "biến cố rủi ro",
và theo đó ông ta cho rằng kỷ luật tồi tệ của quân Nga đã khiến ông ta
không thể giành được chiến thắng trước Quân đội Phổ dũng mãnh.[129] Người ta cũng thường coi thất bại ê chề của người Nga trong trận chiến kinh khiếp này là do thiếu kiểm soát và kỷ cương.[130]
Bên cạnh đó, vị vua - chiến binh đại tài Friedrich II Đại Đế vẫn có sự
dấu diếm về những tổn thất lớn lao của quân Phổ trong trận đánh này[114] - vốn cũng có tính chất của một thắng lợi đắt đỏ.[131] Theo như sách The world's history and its makers,
Tập 5, trận đánh tàn khốc này là thắng lợi toàn diện của ông và cũng là
trận chiến đẫm máu nhất trong đời ông, bất chấp sự "ca khúc khải hoàn",
ăn mừng chiến thắng của Hoàng hậu Maria Theresia (sách có chép rằng khi
ấy người Phổ đang rất gấp rút vì tình hình Sachsen).[132]
Trước trận chiến ác liệt này, do ông nhận thấy quân Nga đóng cứ thật
kiên cố, và do đó ông quyết định dùng chiến thuật "đánh xiên" là chiến
thuật kinh điển của ông trong trận đại thắng tại Leuthen. Nhưng quân Nga
đã hoán đổi vị trí của mình. Do đó, khi ông hành binh vòng từ phương
Bắc để đánh thốc vào tả quân Nga, ông nhận thấy quân địch đang sẵn sàng
đối đầu với quân ông. Hành động này dẫn đến thương vong to lớn cho quân
Phổ, song tổn thất của quân Nga còn ghê gớm hơn nhiều và -thực chất các
chiến sĩ Phổ của ông đã gần như hoàn toàn hình thành được vòng vây quân
Nga[133].[13][85][101][134]
Song sức kháng cự của người Nga cũng cho thấy điểm yếu của một cơ cấu
chỉ huy hoàn toàn phụ thuộc vào một vị lãnh đạo tối cao: khi chiến thuật
'đánh xiên' theo kiểu trận huyết chiến Leuthen trở nên khó thể thực
hiện thì ông cũng không thể là tất cả mọi người để điều chỉnh tình hình.[80] Lực lượng Kỵ Binh Nga cũng thể hiện rõ sư cải thiện sức mạnh của họ với trận quyết chiến này.[130]
Thực chất kế hoạch "đánh xiên" của ông được cho là rất tuyệt vời, nhưng
không được thực hiện thật hoàn hảo do ngày thì nóng, địch thì mạnh còn
lực lượng Bộ Binh đã bị kiệt quệ sau cuộc hành binh cấp tốc về Zorndorf.
Sai lầm của ông trong trận này cũng là việc ông không chớp thời cơ đánh
pháp kho quân lương của Nga lúc đầu trận chiến, vì nếu phá nó ông sẽ
giành được một chiến thắng không phải đổ máu.[6]
Qua các trận đánh trước, các Trung đoàn Đông Phổ của Dohna đã tàn sức
và sau khi Đông Phổ quê hương họ bị xâm lược thì họ trở nên nản chí hơn[114]
Để rồi chiến thuật "đánh xiên" dần phân hóa thành cuộc tấn công trực
diện thiếu kỷ luật vào quân Nga, cho dù quân Phổ đã chiến thắng và tiêu
diệt được xiết bao địch quân, và kế hoạch bao bọc quân Nga của ông cuối
cùng cũng đã thắng lợi.[6][41][46][135]
Cũng giống như chiến thắng quyết định của đội Kỵ Binh Hasdrubal trong trận quyết chiến ở Cannae, hoặc là chiến thắng chính Quân đội Phổ dưới thời Friedrich II Đại Đế trong trận thư hùng khốc liệt ở Torgau vào năm 1760, nhà vua nước Phổ trong trận tranh hùng này đã thành công trong việc bao bọc hậu binh và các cánh quân địch, đánh tan tác địch.[46] Sau đại thắng lừng vang, ông ngự bút thư gửi cho Hoàng tỷ của mình là Công chúa Wilhelmina (làm vợ Bá tước xứ Bayreuth), rằng ông "chìm ngập trong niềm hân hoan sau khi đã giành được một chiến thắng vĩ đại vào ngày 25 tháng 8, khi 3 vạn giặc Nga bị tiêu diệt". Tuy nhiên, trận này cũng đem lại mối lo sợ cho ông. Tuy ông hãy còn "dị ứng" với người Nga. Rõ ràng, ông bắt đầu lo lắng về "những tên cướp ác độc và khét tiếng" mà ông đã giao chiến.[128] Chiến thắng oanh liệt của ông thể hiện hiệu quả rất cao của những 'chuyển động bước ngoặt khiến cho đội quân hùng dũng của ông bao bọc và xé nát quân Nga thành trăm mảnh, tiếp nối những chiến thắng rực rỡ như Praha (1757) và Leuthen (1757) của phương thức cơ động này và còn giúp cho vua Phổ loại trừ hoàn toàn được nước Nga khỏi chiến dịch năm 1758. Thậm chí trong trận thắng lớn ở Zorndorf, chuyển động bước ngoặt còn mạnh mẽ hơn ở trận đại thắng Leuthen trước kia.[46] Vị Đại Đế nước Phổ, với chiến thắng tại Zorndorf đánh tan quân Nga, đã giữ vững non sông.[23] Cả châu Âu khi ấy vô vàn ngưỡng mộ, vì ông là người lãnh đạo tài năng nhất của cả châu lục này trong suốt thời kỳ ấy.[28]
Thậm chí nhà sử học Liên Xô có tinh thần dân tộc là Frumenkov lại còn coi trận huyết chiến Zorndorf là một "chiến thắng của người Nga", trong khi nhà sử học người Anh là Christopher Duffy thì có quan điểm rằng trận này là bế tắc.[136] Cuốn Warfare: A Chronological History tuy ghi hai trận Zorndorf và Hochkirch - hai trận chiến lớn nhất của chiến cuộc năm 1758 - là hai trận tàn sát bế tắc, nhưng đã củng cố uy thế cho vua Phổ tiếp tục chiến tranh.[137] Nhà sử học Christopher M. Clark (người Úc) cũng có phân vân về kết quả của trận đánh[13], bất chấp Friedrich II Đại Đế đã thắng trận,[138] đánh lui được quân Nga và chấm dứt cuộc xâm lược Brandenburg của bọn họ (thắng lợi này cùng với trận quân Phổ đánh tan quân Thụy Điển trong năm ấy đã giữ yên vùng này).[33][139][140] Điều đó khiến người Nga bắt đầu trở nên nổi trội hơn hai đồng minh của họ là Áo và Pháp sau trận chiến kinh hoàng này: họ chiến đấu dũng mãnh, kiên cường hơn cả Quân đội Áo lẫn Pháp. Quân đội Nga đã nói chung cũng tàn nhẫn, hung bạo chẳng khác gì chế độ phong kiến Nga hoàng thời bấy giờ.[101] Do đó, trận huyết chiến Zorndorf có ý nghĩa to lớn hơn bất kỳ một trận đánh nào khác vào thế kỷ thứ 18 về mặt thể hiện sức chiến đấu dũng mãnh của quân Nga gây cho cả châu Âu phaỉ nể phục.[80] Thực chất, thấy quân Nga đại bại trong trận Zorndorf thì người Áo và Pháp không hề buồn đau gì vì họ không muốn nước Nga ngày một lớn mạnh sẽ làm ảnh hưởng đến quyền lợi riêng của họ tại Trung Âu.[141] Khi Friedrich II Đại Đế hỏi Seydlitz rằng có nên coi "giặc Nga" là lũ vô dụng không thì Seydlitz liền thẳng thừng chối bỏ quan điểm ấy, vì không một đội quân nào gây khó khăn cho quân Phổ bằng quân Nga trong cuộc Chiến tranh Bảy Năm.[80] Seydlitz - người anh hùng của chiến thắng Roßbach trước đó, hẳn là đã phải trải qua bao hy sinh xương máu trước khi đè bẹp quân Nga ở Zorndorf.[142] Bản thân Quốc vương sau khi thắng trận thì có lời bàn:[143] (câu nói này đã trở thành minh chứng trong trận huyết chiến ở Borodino vào năm 1812 khi quân Pháp của Hoàng đế Napoléon Bonaparte tiêu diệt vô số quân Nga nhưng không thể đánh cho Quân đội Nga ngã quỵ[144])
Giờ đây thì ông không thể xem nhẹ lực lượng Pháo Binh và Pháo Thủ
Nga, hoặc là nguồn nguyên liệu đầy ắp đối với Bộ Tư lệnh của quân Nga.
Những cuộc tấn công của Kỵ Binh Nga vào các cánh quân Phổ cũng cho thấy
người Nga có sự chủ động chiến thuật ở một mức độ khá cao - điều này
được người đương thời rất ấn tượng.[80] Không những thế, nhà vua cũng ngự bút thư gửi Hoàng thân Heinrich rằng: "Trong bọn giặc, giặc Áo thâm sâu binh thư nhất, giặc Pháp yếu hèn nhất và giặc Nga ghê tởm nhất". Điều này báo trước cho biết rằng người Đức sẽ còn phải chịu nhiều vất vả để đối đầu với quân Nga hùng mạnh.[101] Rốt cuộc, cho dù ông đã bẻ gãy cuộc xâm lược của quân Nga ở Zorndorf, trận chiến này cùng với các trận Borodino, Sevastopol cũng như những cuộc giao tranh đẫm máu ở Mãn Châu trong cuộc Chiến tranh Nga-Nhật được xem là những minh chứng cho tinh thần kiên dũng của Quân đội Nga hoàng[145].[146] Ông cũng ban huấn dụ cho Bộ trưởng Bộ Ngoại giao là Bá tước Karl-Wilhelm Finck von Finckenstein
truy tìm tài liệu kể về những vụ thảm sát thường dân của quân Nga, được
xuất bản nhiều ở Pháp và Đức. Khi thăm viếng một nhà dân tại Tamsel
(chính nơi đây khi xưa gia đình Wreech trọng đãi Friedrich lúc ông bị
phụ vương Friedrich Wilhelm I ruồng bỏ) vào ngày 27 tháng 8,nhà vua cũng
nhìn thấy xác của một người phụ nữ đã bị quân Cozak Nga giết dã man
trong mấy ngày binh lửa. Trong suốt trận chiến, có thể thấy những trò
bạo ngược của quân Cozak nói riêng cũng như quân Nga nói chung đã bị
quân Phổ báo thù đích đáng bằng những cuộc tàn sát của họ, và việc họ
chôn sống thương binh Nga.[72][107]
Mặt khác, ngay cả trước trận chiến đẫm máu này tuy nhà vua thể hiện
thái độ khinh bỉ quân Nga của mình lúc đàm luận với Thống chế James
Francis Edward Keith, ông vẫn tuyên bố: "Trẫm xét cho cùng rằng sau khi Trẫm thăng, hãy đừng làm lễ táng xa hoa cho Trẫm. Trẫm... muốn... được mang về cung điện Sanssouci trong tĩnh lặng, và táng ở khu vườn Ngự Uyển", và thực sự rất có thể là ông không có lệnh giết người Nga không thương tiếc mà người ta tưởng.[147][148]
Tổn thất khủng khiếp của quân Nga trong trận đánh kịch liệt này cũng
cho thấy Bộ Chỉ huy của họ sẵn sàng mua chiến thắng bằng xương máu của
người lính. Và đây không phải là lần duy nhất có điều này: trong trận
đánh ác liệt tại Kunersdorf vào năm sau tức là năm 1759, họ vẫn tiếp tục hứng chịu thương vong ghê gớm.[143]
Đồng thời, khó khăn của người Nga về tiếp tế cũng khiến cho họ hoàn
toàn thất bại, mặc dù cả trận thua ở Zorndorf lẫn trận thắng ở
Kunersdorf đều chứng tỏ bản lĩnh kiên cường của người Nga và báo hiệu
cho Friedrich II Đại Đế biết về cái gọi là sức mạnh quân sự của Nga mà
ông từng khinh suất.[113][149][150]
Trận huyết chiến Zorndorf này đã thể hiện một trong những sai lầm
nghiêm trọng nhất của quân đội Nga hoàng: kinh nghiệm trong cuộc chiến
tranh chống Đế quốc Thổ Ottoman đã khiến cho họ đưa cái đuôi lô-gíc,
đống xe goòng chứa quân trang, kho lương vào trận, làm tổn hại bước tiến
quân của họ.[151] Ngoài ra, quân Nga đã tập trung 60 cỗ đại bác trong trận chiến Zorndorf này nhưng hỏa lực của họ đã bị phân tán, chứng tỏ việc tập trung hỏa pháo vào trận địa không phải là lúc nào cũng hiệu quả bất chấp đây là một biện pháp để sử dụng đại bác thuận lợi hơn.[152]
Về phía Phổ, trận thắng này cũng cho thấy tinh thần táo bạo của
Friedrich II Đại Đế ngay cả khi quân thù phòng thủ kiên cố. Đây quả là
một chiến thắng hiển hách, dù với tổn thất lớn ở cả hai đoàn quân.[3][153] Sau những đợt giao tranh khốc liệt của hai bên, ông đã dám thân chinh xung phong vào đánh địch[117].
Nhà vua viết đây là một đại thắng, với lời lẽ tự hào. Khi Mitchell -
vốn tận mắt chứng kiến trận đánh - hội kiến với các quan viên Anh Quốc
thì vị sứ thần cũng rất mực ca ngợi Đức Vua nước Phổ, với lòng dũng cảm
đáng nể, đã dật lấy cờ của một Tiểu đoàn và kêu gọi họ tiến lên:[48]
Sau một cuộc Bắc chinh hiển hách, bằng cuộc tiến công huy hoàng vào
địch quân được coi là góp phần thể hiện đại tài thao lược của ông, ông
giành chiến thắng to tát, đã xóa bỏ áp lực cho người Phổ ở phương Đông,
đồng thời tiêu diệt gần như cả nửa quân Nga, trên một mặt trận hoàn toàn
đảo lộn.[19][32][36][54][70]
Quân của Fermor đã không bị hủy diệt hoàn toàn, nhưng mà bị đập nát,
loại trừ khỏi vòng chiến của năm 1758 và cũng bị thiệt hại đáng kể, dù
trận thua này đã cho thấy khả năng phòng vệ rất tốt của quân ông và trở
thành một trong những chiến thắng khó nhọc hơn cả của Friedrich II Đại
Đế.[19][32][154][155][156]
Dẫu sao đây nữa thì chiến thuật 'đánh xiên' (thực ra ở dạng hơi khác
với chiến thắng Leuthen trước đây) cuối cùng đã mang lại thắng lợi cho
ông trong trận này,[157]
ông đã cho quân bao bọc lần lượt đánh thắng cả hai đội hữu quân và tả
quân Nga, và việc ông tung được đội hữu quân tinh nhuệ vào trận tiền đã
quyết định trận chiến.[154][158] Trận Leuthen, trận Zorndorf cùng với trận Torgau (1760) trở thành những chiến thắng của chiến thuật 'đánh xiên' của ông, khác với thảm họa ở Kunersdorf (1759)[54].
Chỉ có điều là quân Phổ đã mỏi mệt nên không thể tổ chức một cuộc tấn
công cuối cùng quét sạch hoàn toàn địch quân, nhưng trong lúc ấy quân
Phổ đã toàn thắng trận thư hùng đẫm máu này.[154] Ngoài ra, chiến thắng của quân Phổ trong trận này cũng phần lớn là nhờ chút am hiểu của ông về địa hình chiến trận.[157]
Việc ông dày công huấn lệnh lực lượng Kỵ Binh đã mang lại nhiều thành
quả chói lọi cho ông, và trong đó có cả chiến thắng lừng lẫy tại
Zorndorf này: họ sẵn sàng đánh bại kẻ cường địch phía trước họ.[159] Những chiến công vang dội như thế đã khẳng định niềm tin của Quân vương vào đội Kỵ binh hùng mạnh của ông.[37][39][160]
Lòng can trường và tài nghệ chiến đấu tuyệt vời của lực lượng Kỵ Binh
Phổ trong trận đánh vang danh này khiến nó trở thành một kỳ tích rạng rỡ
của họ - theo như Bộ Tổng Tham mưu Đức
sau này nhận định. Họ - dưới sự lãnh đạo quyết đoán của vị kiệt tướng
Seydlitz - đã hoàn toàn khiến trận ác chiến không thể là một thất bại
của người Phổ. Và, không lâu sau, ông sẽ tiếp tục lập đại công trong trận Hochkirch tàn khốc cũng vào năm 1758.[161] Lời từ chối quân lệnh của ông ("...Ngài sẽ tùy tiện xử lý cái đầu của Ta..."),
thể hiện sự bất tuân phục đầy sáng suốt, tinh thần điềm tĩnh sẵn sàng
chủ động của vị tướng soái giữa lúc thời thế không thuận lợi.[47][98]
Seydlitz qua trận đánh này cũng cho chúng ta thấy một trường hợp lịch
sử trong đó một vị bộ tướng không thể tuân theo mệnh lệnh được ban cho
ông, vì ông có ý tưởng đúng đắn hơn. Nếu thua trận, ông không thể nào
tuyên bố rằng thất bại là do ông phải thực thi trách nhiệm của mình với
"Đức Vua" thay vì ý nghĩ của chính mình. Trong trường hợp ấy ông chỉ có
thể bị bắt tội "bất tuân" và thậm chí là có thể bị "chém đầu", và điều
này chứng tỏ rằng thành công phụ thuộc vào độ chuẩn xác của một quyết định.[162]
Thành thử, sự không tuân thủ đúng đắn của vị tướng lĩnh Kỵ binh Phổ
trước lệnh vua ở trận Zorndorf được xem là một tấm gương sáng để đời sau
noi theo.[163] Có ý kiến coi rằng trong thắng lợi lớn này, vị Đại đế nước Phổ nhờ có Seydlitz giúp rập mà may mắn thoát khỏi chiến bại.[38]
Ngay từ đợt tấn công mãnh liệt lần đầu tiên của ông vào quân Nga,
Seydlitz - người đã nhấn mạnh tầm quan trọng của cơ cấu chiến tranh "Kỵ
binh" Auftragstaktik[98]
- đã thể hiện tài năng chỉ huy độc đáo của ông, sẵn sàng chiến đấu vì
Quân vương. Kỳ tích hiển hách của ông trong trận chiến Zorndorf đáng
được so sánh với những chiến công của Oliver Cromwell trong trận Marston Manor thời Nội chiến Anh và Hadrusbal trong trận Cannae thời Chiến tranh Punic lần thứ hai
thưở xa xưa mơ hồ. Không có Seydlitz, lực lượng Kỵ Binh Phổ cũng không
lập nên được những chiến tích tuyệt diệu, làm chấn động cả thế gian, mà
điển hình là trận Zorndorf nơi vua Phổ đánh tan quân Nga.[164][165]
Sức chiến đấu dũng mãnh của họ trong trận thắng này đã chứng tỏ với vị
Đại Đê nước Phổ rằng ông đang nắm giữ một đội Kỵ binh tinh nhuệ nhất
trời Âu.[62] Những chiến công hiển hách ở Hohenfriedberg, Kesselsdorf,
Roßbach, Leuthen và Zorndorf đã làm nên một giai đoạn huy hoàng nhất
trong lịch sử của lực lượng Kỵ binh Phổ, đó là thời đại của Friedrich II
Đại Đế.[166]
Các trận đánh tại Hohenfriedberg và Zorndorf thể hiện rằng, tuy các lực
lượng Bộ binh thời đó thường vững tin vào súng đạn của mình và chống
lại được các đợt tấn công của Kỵ binh, một khi quân Kỵ binh đã chọc phá
được đối phương thì họ thừa sức gây ra đại thảm họa.[167] Hai chiến tích hiển hách này được xem là sự minh chứng tuyệt vời cho khẩu hiệu cuả lực lượng Kỵ binh Phổ: "Wenn alles wankt und scliwauk't / Dann wage nicht und zahle nicht, dann d'ranf !"[168].
Với chiến công oanh liệt của quân Kỵ binh Phổ đánh tan nát hàng ngũ
quân Nga thì họ đã chứng nhận rằng thất bại của riêng họ trong trận Mollwitz hồi năm 1741 đã hoàn toàn là một quá khứ, mặc dầu họ có điểm yếu là nguồn nguyên liệu thiếu hụt nên khó thể giúp gì thêm cho Bộ Binh.[80]
Biểu dương sức mạnh của lực lượng Kỵ binh và chuyển bại thành thắng cho
toàn quân Phổ, cuộc tiến công của Seydlitz vào Zorndorf đã từng được so
sánh với cuộc công kích của Kỵ binh Pháp dưới quyền tướng François Étienne de Kellermann trong trận Austerlitz vào năm 1805.[169]
Lực lượng Pháo Binh Phổ cũng chiến đấu huy hoàng góp phần lại chiến
thắng lớn lao này, khiến Quốc vương phải thừa nhận rằng hỏa lực là rất
quan trọng và phải triển khai thêm lực lượng Pháo Binh.[9][170]
Trong khi ấy, đại bại của quân Nga ở Zorndorf cũng như nhiều thất bại
khác của họ đã cho thấy sự tấn công thất bại của họ, chứng tỏ quân Nga
có khả năng phòng thủ hơn là tiến công[171]. Trận Zorndorf được xem là một bài học khủng khiếp cho quân đội Nga hoàng về việc rời bỏ địa hình thuận lợi của mình.[172] Song, trận chiến này vẫn được coi là chiến thắng đắt giá nhất của Friedrich II Đại Đế và đoàn quân của ông.[173]
Với các trận đánh tại Zorndorf và Kunersdorf trong các cuộc chiến tranh
của nhà vua nước Phổ và các trận đánh tại Eylau và Borodino trong những cuộc chiến tranh của Napoléon, người Nga đã trở nên gắn liền với những trận chiến đẫm máu nhất trong lịch sử thế giới cận đại.[174]
Chiến thắng rực rỡ ở Zorndorf cùng với những chiến tích vàng son ở Roßbach và Leuthen của Friedrich II Đại Đế đã được các Viện Hàn lâm quân sự lớn trên khắp thế giới học hỏi, như những chiến công huy hoàng và mẫu mực của một bậc đại kiệt tướng.[175][176] Bằng tài thao lược của ông, ông đại thắng quân Nga nối tiếp những trận phá quân Pháp và Áo, khiến ông trở nên bách chiến bách thắng trong mắt người đời, trở nên một "Người thắng trận Roßbach và Zorndorf" nổi danh.[28][64][177] Qua đó, chiến thắng Zorndorf nói riêng - được xem là một trong những thảm họa đúng vào những năm tháng huy hoàng của Quân đội Nga[178] - và cả chiến dịch năm 1758 một lần nữa chứng tỏ thiên tài chiến lược của ông và sức chiến đấu mạnh mẽ của các chiến binh dưới ngọn cờ của ông, sau đại thắng ở Leuthen, và góp phần làm nên danh sách hàng loạt thắng lợi vẻ vang của ông kể từ đầu cuộc chiến.[18][35] Ông đã giành được hàng loạt thắng lợi huy hoàng như ba trận chiến này mặc dù bị áp đảo nghiêm trọng về quân số.[179] Nhìn chung, thắng lợi to lớn và đẫm máu ở Zorndorf kết hợp với hai đại thắng trước được xem là một chiến dịch cầm cự của vua Phổ, chứ không chỉ nêu cao danh tiếng của ông như là một nhà chỉ huy quân sự tài năng.[180] Với đại thắng của ông thì trận chiến Zorndorf phá Nga quả thật là một trận đánh hiếm có trong thời kỳ cận đại, mà quân Kỵ binh chiến đấu dũng mãnh đến mức phi thường.[67][84] Trong khi ba chiến thắng ấy đã trở nên gắn bó với cơ cấu quân sự của Nhà nước phong kiến Phổ thưở đó,[181] sự đứng vững của ông trên bãi chiến trường Zorndorf, sẵn sàng xả thân vì đất nước, đã được xem là một biểu tượng cho tình đoàn kết dân tộc Đức[182]. Bên cạnh ông, một vị cứu tinh không thể thiếu được khác của Quân đội Phổ trong trận đánh này chính là Vương công Moritz, với chiến công đánh lùi cuộc truy kích của người Nga.[44][183] Đây là vị Thống chế kiệt xuất chẳng kém các anh trai của ông, cũng như cha quá cố của ông là Vương công Leopold I xứ Anhalt Dessau; ông có công lớn trong việc khích lệ ba quân chiến đấu, được Quốc vương khen ngợi: "Vương công Moritz, can trường chẳng kém thanh gươm của ông, là một con người lạ thường. Không có ngày nghỉ nào đối với ông ấy tốt hơn một cuộc chiến chinh".[48] Pháo Binh là lực lượng đóng góp cho các cuộc tấn công của quân Phổ hiệu quả hơn, và nếu không có họ thì hẳn là đợt tấn công cuối cùng của Dohna sẽ tiêu tùng luôn. Những Sĩ quan Pháo binh coi nhiệm vụ của họ là một khoa học và họ thường hoán chuyển vị trí liên tục để tránh bị thất vọng những tính toán kỹ lưỡng của họ[80] Song, khi nhận định về chiến thắng vang lừng này thì Seydlitz xét: "Đức Vua! Chính Đức Vua mới là người duy nhất thắng trận này". Ông nói cũng không sai. Nhà vua Friedrich II Đại Đế - với tài mưu lược của mình - đã tổ chức cuộc hành binh tuyệt vời về Zorndorf để đánh Nga. Là một vị vua nhạy bén, ông vượt qua sông Oder ngay cả khi quân Nga chưa thể nắm rõ sự tiến quân của người Phổ.[84] Tuy cuộc hành binh này dài và gian nan, quân Phổ hủy diệt quân thù nhiều hơn là bị tổn thương, mang lại thắng lợi oanh liệt cho nhà vua. Chiến công ấy đã chứng tỏ sự năng động và quyết đoán đến vô song của ông trong suốt tháng 8 năm 1758.[184] Do đó, Nhà vua - có nhẽ là người sáng lập ra chủ nghĩa quân phiệt Phổ[98] - đóng vai trò không thể thiếu đối với thắng lợi vẻ vang này: trận đánh đã ghi dấu ông rất sâu đậm, công lao của ông mang lại chiến thắng cho người Phổ là hoàn toàn không nhỏ.[47][56] Nhờ có năng lực và sự nhanh trí đến phi thường của ông, các Sĩ quan và chiến sĩ dễ dàng nỗ lực lại sau bước đầu không thành, để rồi đánh đuổi cái đội quân mà ông hay gọi là "quân man tộc".[7][80] Nhà vua đau buồn trước những mất mát của ba quân trong trận chiến này, trong số đó một viên sủng thần của ông là phụ tá Von Oppen (giữ chức Flügel-Adjutant) có đến 27 vết thương và hy sinh. Nhà vua từng sai Oppen gửi thông điệp cho Seydlitz nhưng Oppen không thể nào quay trở lại. Oppen được quấn một cái mền lên người và khiêng vào đại ban doanh của nhà vua, trong khi ông phải che giấu nỗi xót xa cho người trung thần xấu số này.[9] Tuy nhiên, vào ngày 28 tháng 8 năm 1758, Quốc vương triệu viên thư lại Henri Alexandre de Catt đến chầu. Ông vẫn điềm nhiên thuật lại trận chiến đấu cho Catt. Vua tôi giao tiếp thân mật với nhau và qua đó nêu lên cái bùi mù ghê rợn của chiến tranh: khi nhà vua hỏi: "Đây là một ngày ghê gớm! Ái Khanh có biết chuyện gì đã xảy ra chứ?" thì viên thư lại tâu: "Khải bẩm Bệ hạ, Hạ Thần thấu hiểu về cuộc hành quân ban đầu, và những kế hoạch đầu tiên cho trận chiến. Nhưng mọi thứ khác đều qua mắt Thần. Thần chẳng thể biết gì về nhiều chuyển động khác". Nhà vua ân cần phán: "Bạn hiền ạ, Khanh không phải là người duy nhất. Hãy bình tĩnh, hẳn Khanh không phải là người duy nhất".[9] Ông đã hứa sẽ kể cho Catt nghe về binh thư và ông hiếm khi quên việc này. Quân vương trêu Catt: "Aí Khanh có thấy bậc đế vương nào chuyên sâu bằng Ta không?" Ông cũng hài lòng với sách lược của mình trong trận thắng tại Zorndorf.[56] Nhưng khi Catt nghi ngờ rằng Nhà vua không bằng lòng với chiến thắng này ông có lý giải:[9]
Dù sao thì với chiến thắng vinh quang và định đoạt này, tiếng tăm lẫy lừng của Friedrich II Đại Đế đã tăng vọt và[30]
lên đến tột đỉnh. Cuộc trò chuyện với người bạn Catt của ông thể hiện
nỗ lực hết mình của ông trong việc làm chủ bản thân và ba quân trên trận
tiền - đây là mộ yếu tố quan trọng khiến cho ông chiến thắng kẻ thù. Có
nhẽ sau khi đàm luận với Catt ông đã tiếp tục đàm luận với mọi vị võ
tướng của Vương quốc Phổ.[9][34] Nhờ tài nghệ quân sự kiệt xuất của mình, ông đã sử dụng chiến lược nội tuyến một cách hiệu lực trong trận Zorndorf phá Nga[30] này, cũng như nhiều trận khác trong cuộc chiến tranh tàn khốc.[113][185]
Trong vài tháng sau đó, không còn có mối nguy hại nào từ phía Đông,
trong khi thần dân nước Phổ hân hoan ăn mừng chiến thắng - nếu chiến
thắng lẫy lừng trong trận thư hùng Leuthen đã giải phóng cho ông khỏi
quân Áo thì chiến thắng to lớn trong trận tranh hùng Zorndorf đã giải
phóng cho ông khỏi quân Nga, buộc họ phải lui binh.[27][46]
Chỉ trong một khoảng thời gian ngắn từ cuối năm 1757 cho đến giữa năm
1758 (chưa đầy một năm), ông đã đánh bại ba nền quân chủ hùng mạnh và
hiếu chiến là Pháp, Áo và Nga trong một loạt các trận đánh vang danh tại
Roßbach, Leuthen, và Zorndorf, bất chấp họ có đông quân hơn ông. Điều
đó thể hiện bản lĩnh kiên cường, quyết đoán của ông, lần lượt hành binh
thần tốc đi đánh các cường địch ấy, và lần lượt lập nên ba chiến công
hiển hách nêu trên khiến cho ông được khen ngợi như một người anh hùng.[11][186][187] Những chiến thắng ấy đã trở nên những "thiên sử ca" ăn sâu vào tâm trí dân tộc Đức, ít nhất là phải đến năm 1945.[188] Nhân dân Anh Quốc - đồng minh của Phổ - khi hay tin thắng trận cũng mừng vui không kém.[2] Ở thủ đô Luân Đôn, nàng Georgiana Caroline Fox, Nữ Nam tước thứ nhất của Holland viết vào tháng 9 năm 1758 về "tin tốt" Friedrich II Đại Đế.[189] Dù quân Nga tuyên bố thắng trận như ngay đến Trung tướng Nikita Ivanovich Panin của bọn họ phải viết: "Những binh sĩ trên bãi chiến trường đều hy sinh, bị thương hoặc là say rượu". Quân Nga cũng hoàn toàn suy sụp với chiến bại thê thảm này, nên mới phải thoái lui.[53]
Ít ra, trận đánh đẫm máu và đắt giá tại Zorndorf cũng giúp cho nhà vua
nước Phổ tồn vững được trên chiến trường phía Đông của cuộc chiến.[190]
Khi nhân dân Phổ ăn mừng đại thắng thì giáo sĩ Sack có bài thuyết giảng
ngợi ca chiến công hào hùng của nhà vua, liền được dịch sang tiếng Anh
tại Luân Đôn. Vị bộ tướng can trường của Seydlitz trong trận chiến này
là Wakenitz cũng được nhà vua thăng chức Trung tá. Người đương thời ai
cũng xem trận này là thắng lợi của ông.[8]
Không những xóa tan mọi ý đồ mở chiến dịch của quân Nga mà chiến thắng
to lớn này còn giúp ông được tự do đối phó với mối hiểm họa từ quân Áo
tại xứ Sachsen.[158] Và, cho đến năm 1826, đài kỷ niệm chiến tích của nhà vua được dựng nên tại Friedrichsberg, với dòng chữ: "Nơi đây Friedrich Đại Đế chiến đấu trong trận đánh ngày 25 tháng 8 nắm 1758".[72]
Rõ ràng, đây là chiến tích hiển hách nhất của ông và các đoàn binh trăm
thắng của mình trong chiến dịch năm 1758 của cuộc Đại chiến Bảy Năm.[59][191] Và, có lẽ là trận đánh ác liệt nhất trong cuộc Chiến tranh Baỷ Năm,[53] trận này cũng thu hút nghiên cứu sử học
quân sự Phổ - Đức hậu thế vì có vai trò quan trọng trong lịch sử quân
sự Phổ - Đức, và theo nhà lý luận quân sự thiên tài Phổ là Karl von Clausewitz, đây là "trận
chiến này rõ ràng là nổi bật nhất cuả cuộc Chiến tranh Bảy Năm, có lẽ
là trong toàn bộ lịch sử quân sự cận đại, vì diễn biến đáng nhớ của nó".[58]
Cũng giống như chiến thắng của Friedrich II Đại Đế ở Torgau về sau
(1760), chiến thắng này nhờ có sự can thiệp của Kỵ Binh lúc lâm nguy.[192]
Vào nửa cuối thế kỷ thứ XIX, sau khi Thủ tướng Đức là Otto von Bismarck bị Hoàng đế (Kaiser) Wilhelm II sa thải, ông từng nói: "Chúng ta hãy hy vọng rằng trong cơn khủng hoảng Hoàng đế sẽ dũng cảm và sẵn sàng hy sinh như Friedrich II Đại Đế ở Zorndorf, Hochkirch và Kunersdorf,".[193] Trong cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất, Quân đội Đức dưới quyền Thống chế Paul von Hindenburg đã đánh bại quân Nga trong nhiều trận vẻ vang hơn hẳn chiến thắng của vua Phổ ở trận Zorndorf - nhưng xét ra thì tình hình của Friedrich II Đại Đế trước trận thắng tại Zorndorf bất lợi hơn nhiều so với tình thế quân Đức trên Mặt trận phía Đông của cuộc Đại chiến.[194] Ngoài ra, dù hai trận thư hùng ác liệt ở Zorndorf (1758) và Kunersdorf (1759) được xem là hai trận đánh khó nhọc nhất trong những trận chiến chứng tỏ thiên tài quân sự của Friedrich II Đại Đế đánh bại cả liên quân chống Phổ (mặc dù đều bộc lộ đại tài dụng binh của ông xét về bối cảnh của thời đại), sau hai trận chiến đó thì quân Nga không bao giờ dám chiến đấu trực tiếp với vua Phổ nữa.[154][195][196]
Trong đám tù binh Nga có năm viên tướng phải đến chầu vua trên bãi chiến trường. Đó là Saltykov, Chernyshyov,
Manteuffel, Tiesenhausen và Sievers. Đồng thời, có nhiều Sĩ quan Nga
khác cũng đến trình diện Bộ Tư lệnh Quân đội Phổ, trong số đó có Vương
công Nga Sulkowski. Dĩ nhiên, Vua Phổ rất căm ghét bọn họ vì sự tàn bạo
của người Nga khi tàn phá đất Brandenburg. Và, vốn đã giáng cho quân Nga
một thất bại toàn diện và thảm hại ở Zorndorf,[198] ông phán quyết: "Trẫm xin lỗi rằng Trẫm không có một Xibia
nào để giam chúng bay vào, để chúng bay có thể bị đối đãi như các Sĩ
quan của Trẫm tại nước bay, vì vậy bọn bay phải bị tống giam vào nhà
ngục tại Cüstrin." Thoạt đầu họ phản đối kịch liệt, nhưng viên Sĩ quan chỉ huy của thành này đã thuyết phục họ chịu tội: "Tôi không còn một căn nhà nào nằm ở thị trấn, ở đó các ông có thể được tha, và do đó các ông phải mãn nguyện với nơi này". Không hề để tâm đến thái độ phản kháng của người Nga, người Phổ dứt khoát đẩy người Nga vào đó.[107]
Sau ba ngày, họ được tha bổng, và ở mướn nhà trọ ở ngoại ô thành trì
Cüstrin mà không hề bị đốt phá gì. Nhà vua cũng không ít lần dong ngựa
quanh khu này, và mọi tù binh Nga đều đổ xô ra xem vị chủ tướng vĩ đại
nhất của thời đại. Nhà vua ít để ý đến họ nhất trong những dịp này. Khi
hay tin tốt rằng các tù binh Phổ được đối xử hậu hĩnh tại đô thành
Sankt-Peterburg, nhà vua lập tức truyền cho các tướng lĩnh Nga về nước,
lại còn tham dự mọi lễ hội cung đình Nga. Trong lúc đó, tù binh của hầu
hết mọi nước Âu châu tuyên thệ trung thành với Hoàng hậu tại kinh thành Berlin.[1][72]
Như đã nói, không lâu sau chiến thắng Vua Phổ lập tức thân hành kéo
binh mã về xứ Sachsen. Điều này cho thấy ông không hề chậm chân trong
việc quét sạch quân thù ra khỏi bờ cõi.[65]
Ông cứ mặc kệ để cho quân thù ăn mừng cái chiến thắng vô hình của bọn
họ, trong khi ông phát huy lợi thế của ông giành được sau chiến thắng vẻ
vang.[107]
Trong khi đó, Fermor đưa quân vào tỉnh Pomerania và công hãm thành
Kolberg cùng quân Thụy Điển. Quân dân Phổ anh dũng chống trả, đánh lùi
địch. Quân Nga tháo lui, một binh đoàn đặc nhiệm Phổ cũng chặn đứng được
quân Thụy Điển.[1]
Như vậy là trận đánh Zorndorf đã tạo lợi thế cho nhà vua: ông đã hoàn
thành sứ mạng của mình với sự rút lui của quân Nga về Ba Lan[83]. Quân Nga đại bại thì biên cương phía Bắc đã ổn định.[6]
Sau đại thắng tại Zorndorf, Friedrich II Đại Đế có lời bàn về việc ông
cứ liên tục phải điều binh đánh dẹp hết nơi này đến nơi khác:
Với trận đánh Zorndorf, thể hiện rằng việc quyết tâm đánh một trận -
là chủ động tấn công một cường địch như vậy thì ông sẽ phải hao binh tổn
tướng đến thế nào, mà vẫn không thể chấm dứt được chiến tranh dù cho
công cuộc phạt Nga của ông đã giành thắng to. Vốn từ trước khi ông chiến
thắng[63][200]
trận này, trận kịch chiến ở Leuthen đã không thể loại bỏ quân Áo ra
khoỉ chiến tranh. Do đó, sau những trận chiến ấy thì cuộc chiến lại trở
thành một loạt những đợt di chuyển. Ông trở nên lệ thuộc hơn vào vị trí
của ông giữa những kẻ thù của mình để đánh lui từng đối thủ một, với lợi
thế của ông là có nội tuyến. Từ điển quân sự xưa và các Trường Sĩ quan cũng đề cập nhiều đến kiểu chiến tranh này.[101]
Do sự suy yếu của lực lượng Bộ Binh của ông trong trận đánh này mà ngay
sau khi chiến thắng ông hơi khẩn cấp viết thư gửi Vương đệ Friedrich
Heinrich Ludwig:[114]
Như vậy là với chiến thắng khốc liệt tại Zorndorf của người Phổ thì quân Đồng minh Nga - Áo đã không thể hợp binh với nhau.[3]
Một lần nữa, những cuộc hành chinh thần tốc dũng mãnh của vua Phổ đã
khiến cho ông phát huy hai chiến thắng Roßbach và Leuthen mà gặt hái
thành công vẻ vang trong mục tiêu này[201]. Cứ theo đó quân Liên minh hoàn toàn mất đi một cơ hội để áp đảo quân Phổ bằng quân số.[117]
Chiến thắng của quân Phổ ở trận đánh đẫm máu này cũng được coi là sự
kiện tiêu biểu nhất của chiến cuộc năm 1758 của chiến tranh.[26] Nhà vua nước Phổ đã đánh bại quân Nga tại Zorndorf chỉ trong vòng 10 ngày sau khi quân Nga vây hãm thành Küstrin.[76] Trong khi khắp trời Âu đều phải thừa nhận ông là một trong những vị tướng giỏi nhất thế giới,[31]
Friedrich II Đại Đế không hề phải bận tâm về sự tập hợp của quân Đồng
minh Nga - Áo nữa trong suốt năm 1758, và điều ông mong muốn đã thành
hiện thực là quân Nga không thể tiến vào miền Mark thuộc lãnh địa Brandenburg do chính ông cai quản, và thua chạy.[24][66]
Trong suốt một thời gian dài sau đó, Triều đình Sankt-Peterburg luôn
cảm thấy nhục nhã bởi lẽ các tướng lĩnh quân Nga thật quá ư là khoác lác
khi công bố thắng trận tại Zorndorf.[202] Phá tan quân Nga, chiến thắng này là một thành công ban đầu của ông trong giai đoạn mới của cơn binh đao,[29][203]
góp phần mang lại thắng lợi cho chiến dịch năm 1758 của Friedrich II
Đại Đế chống quân Liên minh Áo - Nga - Thụy Điển - Pháp, tuy nhiên mất
mát của quân đội ông trong các trận đánh lớn ở Zorndorf và Hochkirch,
cùng với cái chết của Vương tỷ Wilhelmina, khiến cho đây trở thành một
chiến dịch đắt đỏ và bản thân ông cũng cảm thấy rất đau buồn, dù vậy,
sau đó, ông hồi phục lại nhuệ khí chiến đấu.[51][112]
Trước đó, trong khi vua em giành chiến thắng ở Zorndorf nối tiếp các
thắng lợi tại Roßbach, Leuthen, Wilhelmina đã quá ốm yếu đến mức lá thư
của bà nhằm chúc tụng chiến thắng Zorndorf của ông có thể bị lãng quên.[204] Ông vẫn còn có 15 vạn quân sĩ trên trận tiền.[112]
Kể từ trận thắng tại Zorndorf, ông biết rằng người Nga khi xâm phạm đất
Phổ thường hay sát hại cư dân, do đó ông càng để tâm đến "họa Nga" hơn.[205] Vào năm sau tức là năm 1759,
cách phía Nam bãi chiến trường ác liệt Zorndorf không xa, một trận đánh
kịch liệt khác diễn ra giữa người Phổ và quân Đồng minh Nga - Áo tại Kunersdorf.[206]
Dù quân Liên minh Nga - Áo thắng trận này, cũng như trận Zorndorf tình
hình trở nên bế tắc do quân Nga tổn thất quá nhiều lại còn gặp khó khăn
về tiếp tế nên Bộ Tư lệnh của Quân đội Nga nản quá lui quân (trận
Kunersdorf nối tiếp trận Zorndorf như một điển hình về sự tổn thất to
lớn thường thấy của Quân đội Nga buổi ấy).[61][207]
Chiến thắng Zorndorf, cũng như mọi chiến thắng khác của quân Phổ trong
cuộc Chiến tranh Bảy Năm, đều cứu thoái Vương quốc Phổ khỏi nguy cơ thất
bại.[208] Tuy nhiên, một hệ quả của chiến thắng ác liệt tại Zorndorf, thất bại thảm khốc tại Kunersdorf và chiến thắng đắt đỏ tại Torgau (1760)
là thể hiện những điểm không hay của chiến thuật "đánh xiên" lừng danh
của Nhà vua. Sau ba trận đánh kinh hồn bạt vía này, ông sẽ không còn
đánh những trận tương tự và vào năm 1762, sau khi máu người Nga đã đổ xuống ở Zorndorf và Kunersdorf, Nga hoàng Elizaveta qua đời và cháu bà là Pyotr III - một người vô cùng ngưỡng mộ vua nước Phổ - đã lên nối ngôi và chấm dứt chiến tranh với ông.[209] Khi sắp toàn thắng cuộc đại chiến, ông đánh tan nát quân Áo trong trận đánh tại Burkersdorf ở Schliesen trong năm đó, một chiến thắng nhỏ nhoi nhưng lại có tầm quan trọng vô cùng lớn lao.[210][211]
Ngoài ra, chính chiến thuật "đánh xiên" mà ông đã áp dụng trong trận thư hùng long trời lở đất ở Zorndorf,[212] đã gặt hái thành công ở mức độ nhỏ hơn trong trận long hổ tranh hùng ở Kunersdorf, và dần dần gặp phải bao vấn đề trục trặc. Một phần lớn là do quân Áo đã đổi mới chiến thuật của họ, qua đó dễ dàng tiếp cận và đánh bại chiến thuật "đánh xiên".[213] Chính vì thế, trong năm 1762 Friedrich II Đại Đế một lần nữa huy hoàng chiến thắng kẻ thù nhờ có những chiến thuật khác hẳn, chứ không còn là "đánh xiên" nữa.[214] Về sau, trong cuộc Chiến tranh Nga-Thổ Nhĩ Kỳ (1877–1878), có tư liệu gọi chiến thắng của quân Ottoman trong trận Plevna lần thứ ba là thất bại nặng nề nhất của quân Nga kể từ sau khi bị Friedrich II Đại Đế đánh tan tác trong trận Zorndorf này.[215]
Video yêu thích
http://www.youtube.com/user/hoangkimvietnam
Trở về trang chính
Hoàng Kim, hoangkim, hoangkimvietnam, Ngọc Phương Nam, Chào ngày mới Thung dung, Dạy và học, Cây Lương thực, Tin Nông nghiệp Việt Nam, Food Crops, Cassava in Vietnam, VietnamAfricaCassavaRice, Khát khao xanh, Dayvahoc,Học mỗi ngày, Danh nhân Việt , Food Crops News, Điểm chính, CNM365, Kim LinkedIn, KimTwitter, KimFaceBook Đọc lại và suy ngẫm, Việt Nam tổ quốc tôi, Tình yêu cuộc sống, Thơ cho con
- Sinh 1564
- Mất 1642
- Người Pisa
- Người Tuscany
- Galileo Galilei
- Nhà thiên văn Ý
- Nhà toán học Ý
- Nhà vật lý Ý
- Nhà chiêm tinh
- Người Ý thế kỷ 16
- Nhà thiên văn học thế kỷ 17
- Tín hữu Công giáo Ý
- Nhà chiêm tinh Cơ đốc
- Sinh viên Đại học Pisa
- Tôn giáo và khoa học
- Người mù
- Người khám phá vệ tinh
- Nhà vật lý thực nghiệm
- Nhà vật lý lý thuyết
Trận Zorndorf
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
|
|
Dù thua trận này, người Nga đã thể hiện khả năng phòng vệ tuyệt đỉnh của họ[32]. Song, thắng lợi định đoạt này cùng với chiến thắng của quân Phổ trước quân xâm lấn Thụy Điển đã bảo tồn xứ Brandenburg.[33][34] Sau đại thắng của ông ở trận Leuthen, trận thắng này cũng như cả chiến dịch một lần nữa nhấn mạnh thiên tài chiến lược hiếm có của vua Phổ và sức chiến đấu mạnh mẽ của các chiến binh dưới ngọn cờ của ông, góp phần làm nên danh sách hàng loạt thắng lợi vẻ vang của ông kể từ đầu cuộc chiến.[18][35] Ngoài ra, không những là đại thắng góp phần thể hiện đại tài thao lược của vua Phổ,[36] chiến công vẻ vang này cũng góp phần lớn cho việc khẳng định niềm tin của ông vào đội Kỵ binh hùng hậu của ông (thực chất có ý kiến xem rằng nhờ sự giúp rập của một danh tướng Kỵ binh mà ông đã thoát khỏi chiến bại trong trận thắng lớn này).[37][38][39]
Mục lục
Tổng quan
Ban đầu, vào ngày 23 tháng 8 năm 1758, nhà vua tới Klossow làm ngăn cách giữa 42 nghìn quân Nga do Bá tước Wilhelm von Fermorchỉ huy và 12 nghìn quân Nga do Tướng P. A. Rumyantsev chỉ huy, và cũng buộc Fermor phải hủy bỏ cuộc vây hãm Cüstrin. Trong ngày 25 tháng 8 năm ấy, ông tổ chức những bước chuyển động ngoặt hoàn toàn hành binh qua cứ điểm quân Nga,[40] và người Nga xoay chuyển đội hình của mình.[10] Friedrich II Đại Đế đã dùng chiến thuật "dánh dọc sườn"của ông trong các trận thắng vang dội trước đây tại Roßbach và Leuthen.[41]. Mở đầu trận chiến là cuộc pháo kích của lực lượng Pháo Binh Phổ, và Pháo binh Nga không thể chống nổi.[9] Cả hai đoàn quân hùng mạnh này đều tàn sát nhau dữ dội, trận đánh kéo dài đến 10 tiếng đồng hồ. Trong khi quân Nga vốn đã khé tiếng với những tội ác dã man trong cuộc xâm lược xứ Brandenburg. các chiến binh Phổ lại cứ bằng được phải trả thù địch quân, tạo nên tính kinh hoàng của trận đánh này.[42] Họ dù đã quá mệt mỏi nhưng vẫn giai sức chiến đấu, nhờ đó gây cho quân Nga bị hủy hoại nặng nề.[43] Ban đầu, quân Nga đánh lui quân Phổ tuy nhiên khi lực lượng Long Kỵ binh Phổ do Vương công Moritz xứ Anhalt-Dessau cầm đầu đánh lui quân Nga và Thiết Kỵ binh do danh tướng Friedrich Wilhelm von Seydlitz được tung vào chiến trường thì quân Phổ thắng to, đánh tan tác quân Nga và làm chủ tình hình.[44] Sau đó, khi chỉnh đốn lại hàng ngũ họ một lần nữa xung phong đại phá tan tành quân Nga.[45] Quân Nga vẫn chiến đấu dũng mãnh kiên cường, bất chấp thế thượng phong của quân Thiết Kỵ binh của Seydlitz và Pháo binh Phổ bắn nát địch.[46] Nhưng rồi công lao huấn luyện lực lượng Kỵ Binh, cùng với sự quyết đoán của ông, đã mang lại thắng lợi cho Friedrich II Đại Đế.[47][48] Giữa cả ngày chiến trận, vài lực lượng Long Kỵ Binh Phổ khi được tung vào trận tiền cũng lập công lao lớn đại phá quân Nga.[48] Lúc cuối trận đánh, binh lính hai bên lăn xả vào bắn giết nhau đến mức ngoài tầm kiểm soát của các vị chỉ huy.[19] Trận đánh khốc liệt đến mức những con vật mà cả hai đoàn quân mang theo đều bị tổn thất, cùng với biết bao binh sĩ trên trận tiền.[49]Cả Vương quốc Phổ đều bị bừng cháy bởi sự vô cùng hung bạo của quân đội hai bên trong trận chiến Zorndorf kịch liệt.[20] Khi đó đến cả nhà vua Friedrich II Đại Đế, trên một mặt trận hoàn toàn đảo lộn[32], cũng phải chiến đấu hết sức gian khổ ở giữa toàn quân, nhưng rồi tinh thần kỷ cương - kết hợp với sức chiến đấu dũng mãnh quyết không tha thứ cho kẻ địch[48] - đã mang lại thế thượng phong cho các chiến binh Phổ tinh nhuệ, đẩy quân Nga vào cảnh hỗn loạn.[1] Quân Nga trở nên tơi tả, bị xé tan nát,[46] bị tối tăm mặt mũi đến mức có khi họ còn bắn vào cả tướng sĩ của chính họ.[50] Những chiến binh Nga dũng mãnh tuy đã phòng thủ vững chắc, đã tiêu diệt được nhiều quân Phổ, nhưng rồi tổn thất của quân Nga là quá ư lớn lao đến mức họ trở nên bất động[46] và quân Phổ thắng trận, làm chủ được bãi chiến trường và sau hai ngày thì hoàn toàn đánh đuổi được quân Nga ra khỏi xứ Brandenburg (hai bại tướng dưới tay vua Phổ trong trận này đều là người có dòng doĩ Scotland).[1][25][42][51] Nhà vua đã loại trừ hoàn toàn được một kình địch trong một thắng lợi hoàn hảo dù cho quân họ đông hơn quân ông[11][46], biên cương phía Bắc được ổn định.[6] Nhuệ khí của người Nga đã bị suy sụp hoàn toàn do thảm bại,[52] và đại thắng này đã mang lại tột đỉnh vinh quang cho Friedrich II Đại Đế.[2][53] Với chiến thắng của ông, chiến thuật "đánh xiên" một lần nữa thắng lợi.[54] Chiến thắng này còn được xem là nhờ có lòng quả cảm của danh tướng Seydlitz với hai đợt tấn công đẹp mắt và quyết định cho đại thắng của Quốc vương[46][55], người Phổ không những triệt hạ được biết bao nhiêu là kẻ địch mà còn có được nhiều chiến lợi phẩm nữa.[21] Tuy tiêu diệt được biết bao quân lính Nga và đuổi được họa xâm lược nhưng Friedrich II Đại Đế không còn khinh bỉ người Nga như trước trận đánh này được nữa.[5] Từ đây, ông đã phải nhận ra rằng Đế quốc phong kiến Nga là kẻ thù khủng khiếp nhất của Vương quốc Phổ, không thể chủ quan được.[56] Dẫu sao thì chiến thắng to lớn này cũng cho thấy tầm quan trọng của lực lượng Thiết Kỵ binh Phổ hùng hậu, quyết định cho lợi thế của nước Phổ.[42][57] Và, giữa các đoàn binh Phổ trăm thắng, không những quân Thiết Kỵ binh của F. V. Von Seydlitz mà quân Long Kỵ binh Phổ cũng trở nên vinh quang trong cuộc chinh chiến tàn khốc này.[58][59] Là một trận ác chiến điển hình trong thời kỳ Friedrich II Đại đế, trận Zorndorf đã gây ra 28 nghìn thương vong cho khoảng 76 nghìn quân tham chiến, và trở thành một trận đánh tiêu biểu cho tổn thất to lớn của Quân đội Nga buổi ấy.[60][61]
Sức chiến đấu hùng dũng của quân Kỵ binh Phổ trong trận thắng này - tiếp nối đại thắng Leuthen - đã chứng nhận là vị Đại Đế nước Phổ đang nắm giữ đội Kỵ binh tinh nhuệ nhất cả Âu châu.[62][63] Với chiến thắng lừng lẫy phá Nga[30] và cứu nguy nước Phổ này, hiệu quả cao của những chuyển động bước ngoặt của vua Friedrich II Đại Đế đã được biểu lộ, khiến cho ông bao bọc và xé nát Quân đội Nga.[46] Đồng thời, chiến thắng to lớn tại Zorndorf cũng thể hiện tài thao lược, sự quyết đoán và dũng cảm của ông trong cuộc chiến đấu và chiến thắng kẻ thù.[48][64] Ông luôn khích lệ ba quân đánh địch,[48] và sau khi đánh thắng quân Nga, ông cũng không hề chậm chân trong việc tổ chức hành binh đánh quân Áo - đồng minh của người Nga trong cuộc Chiến tranh Bảy Năm.[65] Ông để lại một đội quân đủ mạnh do Tướng Dohna chỉ huy để ngăn chặn đoàn bại binh của Fermor mà ông thường hay gọi là "quân man tộc".[7][10] Với chiến bại trong trận chiến đẫm máu này thì Nga mất hoàn toàn cơ hội họp quân với Áo trong năm 1758.[66] Trong khi đó, sau chiến thắng tại Zorndorf phá Nga, cả châu Âu phải khâm phục vị Đại Đế nước Phổ như người lãnh đạo giỏi nhất của châu lục này vào thời kỳ ấy.[28][67]
Bối cảnh lịch sử
Vào năm 1757, Nữ hoàng Nga là Elizaveta cho quân tham chiến trong cuộc Chiến tranh Bảy Năm (1756 - 1763), liên minh với Nền quân chủ Áo Habsburg của Đại Công nương Maria Theresia (cũng là Hoàng hậu của Đế quốc La Mã Thần thánh dân tộc Đức) và Vương quốc Pháp của Quốc vương Louis XV chống lại Vương quốc Phổ do vị Quốc vương hùng tài đại lược Friedrich II Đại Đế trị vì. Quân Nga xâm lược tỉnh Đông Phổ, nhưng sau trận đánh khốc liệt với đạo quân Phổ nhỏ bé tại Gross-Jägersdorf thì quân Nga phải lui binh, viên chỉ huy quân Nga cũng bị cách chức. Tiếp theo đó Friedrich II Đại Đế cũng thân chinh hành binh nghiền nát quân Đồng minh Pháp - Đức trong trận chiến ở Roßbach và đánh tan nát đại quân Áo trong trận đánh tại Leuthen, đưa tình hình chiến tranh nghiêng về lợi thế cho nước Phổ.[19] Trong những ngày tháng đóng đại bản doanh tại thị trấn Breslau, vị vua - chiến binh kiệt xuất này ví von ông như một thủy thủ phải lướt bao gợn sóng biển dữ dội để về nhà, và người thủy thủ ấy cần có chút thời gian nghỉ ngơi.[68] Đầu năm 1758, Friedrich II Đại Đế tưởng rằng Áo và Pháp sẽ phải giảng hòa với ông, nhưng không ngờ các nước này vẫn tái chiến, cùng với quân Thụy Điển nữa.[68] Chưa kể, Elizaveta - một kẻ thâm thù của nhà vua nước Phổ[26] - hạ lệnh cho Đại tướng Wilhelm von Fermor - một người Đức ở vùng biển Ban Tích - đem đại binh xâm lăng tỉnh Đông Phổ lần thứ hai. Các chiến binh Nga có tinh thần kỷ cương đã nhanh chóng chiếm được vùng này. Do vùng Đông Phổ đã trở thành tỉnh của Đế quốc Nga nên người Nga trọng đãi nhân dân ở đây. Tuy nhiên, đối với nhân dân Phổ ở những vùng đất "thù địch" thì họ lại giết chóc vô cùng dã man, làm nên những tội ác kinh khủng. Đã thế họ còn đốt phá bừa bãi. Khi quân Nga kéo vào miền Newmark - con tim của Vương quốc Phổ - vào ngày 2 tháng 8 năm 1758, mang lại nguy hiểm cho Vương quốc.[69] Nhà vua nước Phổ đã nhận thấy trách nhiệm chính yếu của ông trong chiến dịch năm 1758 này là phải đánh lui cuộc xâm lăng của quân Nga. Bấy giờ, ông triệu tập được 135 nghìn chiến binh, trong số đó bao gồm có nhiều tù binh các nước chống Phổ được tuyển mộ. Vào tháng 4 năm 1758, nước Anh tăng cường viện trợ cho ông và còn cho quân đến Tây Đức để đánh Pháp.[70] Việc chống Pháp đã ổn định khi ở mặt trận phía Tây, một Thống chế kiệt xuất của Nhà nước phong kiến quân sự Phổ là Quận công Ferdinand xứ Brunswick chỉ huy quân Liên minh Hanover, Anh và vài quốc gia Kháng Cách Đức khác đánh tan nát quân Pháp.[68]Quân Nga vây hãm Cüstrin - vua Phổ hành binh về
Vị Trung tướng Phổ là Bá Tước Christoph Burggraf und Graf zu Dohna - sau khi kéo quân từ Pomerania về đánh Nga - thấy đạo quân Phổ của ông quá ít người để có thể địch nổi quân Nga đông như kiến cỏ, do đó ông quyết định phòng thủ vững chắc, lập căn cứ bên sông Oder. Ông bảo vệ được bờ trái của dòng sông và điều này đã làm ông yên tâm, và củng cố lực lượng đồn binh của ông tại pháo đài Cüstrin. Nơi đây có đầm lầy, do đó quân Nga khó bề vây hãm, nhưng Fermor vẫn quyết tâm phải bắn phá được đồn binh của Dohna phải đầu hàng, và khi đó Fermor sẽ có được kho quân nhu bên sông Oder. Thế rồi, quân Nga bắn phá thị trấn Cüstrin ác liệt vào Thứ Ba ngày 15 tháng 8 năm 1758, hủy diệt nhà dân tại đây. Những người nông dân nói riêng và toàn thể nhân dân tại Phổ tại đây nói chung phải trốn dưới bức tường thành Cüstrin trước sự tấn công của quân Nga man rợ, và mọi của cải của họ đều bị thiêu rụi. Đến cả mạng sống của họ cũng khó mà giữ nổi. Tuy nhiên, Fermor đã thất bại: pháo đài Cüstrin vẫn vững chãi, quân Phổ quyết định phải đấu tranh đến người cuối cùng. Quân Pháo binh Nga phải ngừng bắn, trước sự ngạc nhiên của Fermor.[71] Những cuộc bắn phá vô dụng của quân Nga không thể hạ nổi pháo đài anh dũng này.[72] Trong khi ấy, nhà vua Friedrich II Đại Đế quyết định thân hành cầm quân đi đánh xứ Moravia thuộc Áo để hất cẳng quân Áo ra hỏi cuộc chiến tranh, từ đó sẽ khiến cho cuộc tấn công của người Nga bị vô hiệu hóa.[68] Nhưng rồi, cuộc tấn công xứ Moravia chẳng đem lại kết quả gì và đầu Mùa Hè năm 1758 ông lui binh về xứ Böhmen, sau đó kéo quân về tỉnh Schliesen, rồi lại phải thần tốc quân hành về phương Bắc khi hay tin đại quân Nga sang xâm phạm lãnh thổ của mình, để giải vây cho Cüstrin.[19][40][51] Trời thật oi bức không tưởng tượng nỗi, nhưng nhà vua không thể bỏ qua trọng trách hết sức khó khăn của mình. Ông ra chỉ dụ cho các Sĩ quan Quân đội rằng nhất thiết phải bắn bỏ bất kỳ một binh sĩ nào tự ý rời bỏ quân ngũ và đồng đội. Quân ông hành về Liegnitz vào ngày 10 tháng 8, Dalke vào ngày 15 tháng 8 và Crossen trên sông Oder vào ngày 18 tháng 8 năm 1758. Trong suốt cuộc hành binh ấy, ông thường đọc các tác phẩm của nhà văn hào Cicero thời Cộng hòa La Mã. Khi lên xa giá ông vẫn "mọt sách", và gần như tuyệt đối luôn luôn giành thời gian để mà suy ngẫm về thi ca - ông có trí nhớ hết sức siêu việt và có thể đọc lên những dòng thơ dài, làm tất cả mọi người phải kinh ngạc. Cử chỉ của ông trong thời gian này làm cho ai cũng phải mến mộ. Ông đã phải từ bỏ một chiến dịch mà ông khát vọng mạnh mẽ (có nhẽ đây là một sai lầm). Ông đang đối mặt với cuộc xâm lược quê cha đất tổ bởi kẻ thù hùng mạnh hơn hẳn. Ông đã phải tái sắp đặt các kế hoạch của ông, để mà chiến đấu với hiểm nguy mới. Ông liên tục gửi thư cho chị gái là Nữ Bá tước Wilhelmina đang đau yếu ở đất khách quê người, do nỗi đau xót của ông trước thể trạng ốm yếu của người chị xiết bao thân yêu. Trong bối cảnh vô vàn cam go thế mà sự quyết tâm đến sắt đá và lòng thanh thản của ông vẫn rõ rệt, và gây người đời cảm phục. Như thường lệ, khi có dịp thì ông thường làm một việc công bằng và ân đức. Một đêm, khi nhà vua nghỉ tại một nhà nguyện tại Schliesen, ông nghe tiếng xầm xì và phải chú ý tới một cái xà lim, tại đây một tăng lữ do có chút lỗi lầm mà bị giam giữ chặt chẽ, và thường xuyên quất roi trong suốt một năm. Ông đã ân xá cho người tăng lữ này.[73]Tại Crossen, nhà vua nghe được nhiều về những thảm kịch mà quân Nga gây ra với nhân dân Phổ. Quân Nga cướp phá, đốt rụi làng mạc, tàn sát phụ nữ và trẻ em. Ông tiếp tục hành quân đến Frankfurt trên sông Oder và tại đây ông nghe tiếng súng đạn của quân Nga nã vào pháo đài - hòn đảo Cüstrin nằm giữa hai dòng sông Oder và Warthe, đây chính là nơi năm xưa ông bị phụ vương Friedrich Wilhelm I, với nhiều ký ức bi đát. nhà vua Friedrich II Đại Đế cảm thấy rằng trong những ngày nguy cấp này, khi ông và tướng Dohna phải liên tiếp hành binh, do đó phải có cách nào đó ngăn chặn quân Thụy Điển đang dàn binh ở bờ biển phía Bắc để có thể hợp binh với Nga. Đồng thời, ông cũng khó thể quan sát tình hình của Vương đệ thứ hai của mình là Friedrich Heinrich Ludwig đang chỉ huy quân Phổ tại Sachsen. Ông phải chuyển động sao cho cả quân ông và quân Dohna đều không thể đánh trận ở vị trí không thích hợp. Nếu quân Nga và quân Thụy Điển tinh nhuệ nhanh chóng kết hợp với nhau thì hẳn là ông sẽ gặp rắc rối[73]. Vào Chủ Nhật ngày 20 tháng 8 năm 1758, nhà vua cùng 15 nghìn quân tinh nhuệ kéo đến. Ông xem việc này là hệ trọng vì nếu chiếm được pháo đài anh dũng Cüstrin, quân Nga thắng thế sẽ an toàn vượt qua sông Oder, cách kinh đô Berlin chỉ có 50 dặm. Theo kế hoạch cuỉa nhà vua, ông sẽ giải phóng pháo đài anh dũng, họp binh với Dohna và tác chiến với quân Nga ở gần đó.[9] Theo tư liệu mà Thomas Carlyle tham khảo, "Quốc vương ngự tại ngoại ô Lebus, trong nhà góa phụ của một tăng lữ,... và nghe tiếng đạn pháo đang bắn nã tại Cüstrin". Nhà vua luôn quan tâm, lo nghĩ đến việc cứu sống con đỏ của mình.[9] Ông vời Thống chế James Francis Edward Keith bàn việc binh cách. Nhà vua khinh bỉ Quân đội Nga và nói bọn họ là "Tệ hại! Tệ hại!" Là một cựu chiến binh của quân Nga, Keith đáp lễ: "Xin Hoàng thượng không nên có thành kiến. Nếu trận đại chiến sẽ diễn ra, chắc hẳn Hoàng thượng sẽ thay đổi quan điểm của Người". Song, Keith nghĩ dưỡng tại Breslau chứ ông không tham gia gì trong chiến dịch Zorndorf sắp tới.[74] Không lâu sau, giữa lúc quân Nga còn đe dọa thành Cüstrin, lực lượng Khinh Kỵ Binh Phổ đánh thắng địch và bắt giữ một đám lính Cozak Nga. Friedrich II Đại Đế tham kiến đám tù binh, và nói với một viên Sĩ quan Tham mưu: "Và Trẫm phải ngược đãi với bọn chúng như đồ chó má". Vào ngày 21 tháng 8 năm 1758, ông kéo 14 nghìn chiến binh đến trước cổng thành Cüstrin và họp mặt với binh đoàn Dohna tại Gorgast, gần đó.[9] Đó là thành quả của sự đứng vững của Cüstrin không hề suy sụp khi bị địch vây.[71] Quân chính quy của Quốc vương bao gồm một ít Trung đoàn tinh nhuệ nhất của Nhà nước phong kiến quân sự Phổ.[51] Thực chất đây không phải là lần đầu tiên ông tung những Trung đoàn xuất sắc như vậy ra trận tuyến, trước đó đã có trong các trận đánh ác liệt tại Praha và Kolín hồi năm 1757.[75] Ông hỏi Dohna: "Mọi chuyện ra sao? Giặc Nga có đứng vững không?" Dohna tấu: "Quả vậy, thưa Bệ Hạ. Chúng đứng vững như những bức tường!" Vua đáp: "Tốt! Chúng sẽ chết thêm". Đạo quân của Bá Tước Dohna - chỉ gồm 17 nghìn binh sĩ - tiến hành tập dợt ba quân trước sự giám sát của nhà vua. Nhà vua phán: "Các binh sĩ của Khanh thông minh tuyệt vời. Ta có mang theo một đám châu chấu đến đây, nhưng bị họ đánh bại".[69][72] Đạo quân của Dohna rất tuyệt hảo: xe ngựa thì tốt, binh lính thì kỷ cương, với mái tóc còn rắc thuốc súng. Tuy nhiên, nhà vua không thể dấu thái độ bất mãn của ông với Dohna.[9] Ông rất phẫn nộ trước quân Nga và quyết tâm phải báo thù cho nhân dân. Ông nhìn đống đổ nát của thị trấn Cüstrin, và sự hủy diệt do những đạo quân man rợ gây ra cho thị trấn này. Khi viên Sĩ quan chỉ huy ở đây, dù đã đấu tranh rất anh dũng, vẫn không hài lòng trước chiến thắng của mình, đến tạ tội với nhà vua, ông phán: "Đừng có nói nữa; đó không phải là lỗi của Ngươi, nhưng làm lỗi của Trẫm đã cử Ngươi làm nhiệm vụ này".[72] Đồng thời, dân chúng ở đây thấy nhà vua đến cũng vui sướng khôn xiết: "Thiên Chúa phải thưởng công cho Ngài Ngự, đã đến đây với chúng con!", và kể cho ông nghe về những tội ác gớm ghiếc của địch quân, để giải cứu họ khỏi nỗi đau buồn. Ông nhân từ động viên tinh thần toàn dân ở đây, và sau từng giây phút tĩ mĩ nghe lời kể của nhân dân, ông nói:[69][71]
“ | Các con à, Trẫm đã không thể đến đây sớm hơn, nếu Trẫm đến sớm thì những mất mát này đã không thể xảy ra. Trẫm đã suy xét kĩ, và sẽ xây dựng lại tất cả mọi thứ như xưa! | ” |
—Friedrich II Đại Đế
|
“ | Hỡi các con, có theo Trẫm không? | ” |
—Friedrich II Đại Đế
|
“ |
Chúng con sẽ theo! |
” |
—Friedrich II Đại Đế
|
Thấy vậy, Fermor bỏ thành Cüstrin, để đánh trận tại Quartschen và Zorndorf - nằm ở phía Bắc pháo đài Cüstrin. Ngày 24 tháng 8 cũng là một ngày oi bức như ngày hôm trước, và Friedrich II Đại Đế truyền lệnh cho ba quân nghỉ ngơi một chút trước khi hình thành bốn đội hình hàng dọc đi truy lùng giặc vào lúc 2 giờ chiều. Từ trên một Tháp chuông Giáo đường có chàng trai nhìn vào đoàn quân tiến bước: "hay chúng ta nên suy đoán quân địch theo đường ánh sáng Mặt Trời chiếu vào những khẩu súng hỏa mai. Bỗng đống bụi mù nổi lên và che khuất tầm nhần của chúng ta. Người ta cũng kể rằng trên đường đi Friedrich liên tục ra huấn lệnh cho lực lượng Bộ Binh đảo ngược các khẩu súng hỏa mai của họ, và mang nó cũng với các bia bắn ở phía dưới, để che khuất cuộc hành binh khỏi các toán trinh sát của Nga".[9] Vào hôm trước trận huyết chiến tại Zorndorf, Trung tướng Forcade de Biaix cũng nhận quân lệnh về đêm của Nhà vua và tuân lệnh một cách hùng hồn:[78]
“ | Trong giờ đọc kinh cầu nguyện Đức Vua nói chuyện với Seydlitz, người đang ngắm cảnh với vẻ mặt vô tư và điềm nhiên. Đúng lúc đó, Forcade chạy đến tâu: "Ngày mai, trong ân điển của Thiên Chúa, chúng ta sẽ đánh trận. Hẳn Friedrich nghĩ rằng Seydlitz tưởng Người sẽ bàn về chuyện Chúa bị xét xử, và Người thì thầm với ông: "Đó chỉ là chuyện của bọn chở xe goòng!". | ” |
—Kalstein kể lại
|
“ | Tôi triệu kiến một lính hầu đang làm nhiệm vụ, và hỏi anh ta rằng Quốc vương đã từng nghỉ ngơi chưa?. "Nghỉ ư, thưa Ngài? Người (chỉ nhà vua) ngủ say đến mức mà tôi khó đánh thức Người dậy". | ” |
—Catt
|
Diễn biến trận chiến
“ | Người Phổ vô cùng căm phẫn giặc Nga bởi những trò man rợ mà chúng gây nên ở khắp nơi; và nếu một cuộc chinh chiến bùng nổ... đây sẽ là một trận đánh kịch liệt. | ” |
“ | Phía nam sông Mietzel có những cánh rừng rậm rạp cứ kéo dài đến tận ba ngôi làng (từ tây sang đông) Quartschen, Zicher và Below, cứ mỗi làng cách nhau 2 rưỡi dặm. 2 dặm về phía Nam làng Batzlow là làng Gross-Cammin, và một dặm nữa vài cái đầm, những đầm lầy Warthe. Về phía Tây Bắc Batzlow và 2 dặm về phía Tây Gross-Cammin có Wilkersdorf. 2 rưỡi dặm về phía Tây làng Wilkersdorf là cái làng Zorndorf, bản thân nó cách một tuyến đường vạch qua Quartschen, Zicher và Batzlow ba dặm về phía Nam. Có khoảng đất vũng lầy nông, khó đi qua, trải dài từ đến một điểm gần góc phía Tây của Zorndorf. Đó là Zabern-Grund. Một mẫu đất ẩm ướt khác - khoảng Langer Grund - cũng gồ ghề tương tự, 2 dặm về hướng Đông. | ” |
—David Fraser
|
Christopher Duffy ghi nhận rằng khi trời sáng, các đội hình hàng dọc Phổ kéo về một ngôi làng trồng trọt xung quanh Batzlow. Nhà vua Friedrich II Đại Đế không thể nhìn thấy quân Nga trên đường hành binh của ông, dù rằng đám cháy từ các ngôi làng cho biết "tác phẩm" đầu tay của người Cozak). Bất ngờ, ông nhìn thấy kho quân lương to lớn của quân Nga, nằm tựa vào đường chân trời tại rìa của những cái dốc đứng đầy cát mà từ trên đó dễ nhìn thấy những cái đầm lầy Klein-Cammin. Tướng Retzow là một trong những võ quan đặt ra câu hỏi rằng nhà vua có nên ngừng tấn công quân Nga, và thay vì đó ông cướp phá Wagenburg được phòng vệ yếu kém này, sẽ làm cho cứ điểm của Fermor yếu đi. Nhà vua cũng nảy ra ý định này về cuối trận chiến, nhưng lúc này ông chưa thực biết về sức mạnh quân sự của người Nga nên quyết tâm đánh họ một đòn đau chí mạng. Các đội hình Phổ dũng mãnh hướng về bên phải mà Nam tiến, và họ làm nên một dốc không nghiêng làm qua việc vượt qua và xung quanh Wilkersdorf. Lúc bấy giờ nhà vua vẫn chưa rõ cứ điểm quân Nga ở đâu, nên ông cứ hành quân cho đến khi truyền lệnh cho ba quân dừng chân ở phía Nam Zorndorf và hợp thành tuyến quân. Trong khi ấy, Fermor đã hoàn thành đội quânn hoành tráng, với những hàng ngũ hùng mạnh và rất nhiều tuyến quân Dự bị, của ông ta.[9] Nhà văn quân sự nổi tiếng Antoine-Henri Jomini người Pháp cho rằng Friedrich II Đại Đế quyết định tung quân đánh vào chỗ quân địch phân bố nhiều nhất trong các tuyến của họ, ông mong muốn phá vỡ đạo quân khổng lồ này bằng một đòn giáng chí tử vào góc xó của bọn họ, và từ đó các chiến sĩ Phổ sẽ thả sức bắn giết, thảm sát những chiến binh Nga tàn bạo nhưng vô kỷ luật. Nếu thua, ông sẽ kéo đại binh rút về thành Cüstrin cố thủ.[84] Duffy cũng ghi nhận rằng nhà vua bấy giờ đã thừa có ý tưởng áp dụng chiến thuật "Đánh xiên" vẻ vang của ông: theo đó, ông cho quân cánh tả của mình tấn công địch. Đồng với những người không có kiến thức, cánh đồng này "là một đồng bằng rộng mở, có gỗ bao quanh". Trên thực tế, cánh đồng này bị phân ra thành từng khúc bởi những điểm đặc trưng thú vị, và nhà vua chọn mục tiêu của ông là đội hữu quân Nga ở phía Tây, lực lượng này được bố trí thiếu cẩn trọng ở phía trước phần còn lại của đại quân Nga, nằm giữa những cái ao và đồng cỏ ẩm ướt của Zabern-Grund sâu hoắm về phía Tây, và chỗ lồi lõm vừa dài vừa nông Galgen-Grund - là một trong những thung lũng nhỏ kỳ quái nhất đã đẩy trung tâm của đồng bằng từ hướng Đông - Nam về hướng Tây - Bắc.[9] David Fraser cũng viết rằng trong trận chiến sắp tới, bãi chiến trường sẽ gồ ghề trong hình chữ nhật Quartschen - Zicher - Wilkersdorf - Zorndorf, và phần lớn bãi chiến trường là phần đất giữa Zabern và Langer Grund. Nhà vua nước Phổ đặt giả thiết rất đúng đắn rằng quân Nga dàn quân bên ngoài các khu rừng, và ông không muốn tấn công trực diện từ hướng Bắc. Dù hàng ngũ và tuyến quân Nga có thể nào chăng nữa, ông không muốn hành quân qua các cánh rừng để đánh quân Nga trong tình trạng khá tăm tối. Ông cần phải có chỗ mà triển khai ba quân. Tuyến quân mà Fermor thành lập dựa vào những gì ông này biết về chuyển động của người Phổ, nhưng có lẽ ông ta hướng quân về phía Đông: bởi lẽ nhà vua có kế hoạch hành binh qua hướng Đông của khu vực chung mà có mặt người Nga.[85]
Nhà vua dù nghe lời khuyên can của Thống chế Keith nhưng hãy còn khinh rẻ người Nga, cho rằng bọn họ chẳng thể làm gì được khi chống chọi với một đội quân được huấn luyện tốt[86]. Do đó, người Phổ thiết lập một tuyến dài theo chiến thuật "đánh xiên" - một đường lối chiến thuật từ thời Hy Lạp cổ đại đã được hồi sinh mạnh mẽ với đại thắng của vua Friedrich II Đại Đế trong trận thư hùng ác liệt ở Leuthen[87]. Những binh sĩ đánh trống Phổ cũng gõ nhịp trống và các đội nhạc binh hừng hực khí thế trình diễn bài ca: "Ich bin ja Herrin deine Macht" ("Hỡi Đức Thiên Chúa cao sang của con, con đang nằm trong bàn tay Người"). Giọng hát ca của các chiến binh giữa đống gỗ khô làm cho nhà vua trở nên khó chịu, khi ông nghe được.[8] Khi ông hỏi tên bài hát này thì đội nhạc binh bẩm rằng đây là một bài Thánh ca của đạo Luther và nhà vua cũng vừa lặp lại lời ca khúc, vừa tiến quân. Toàn quân đều sẵn sàng chiến đấu trong một trong những trận chiến tàn khốc nhất trong suốt triều đại Friedrich II Đại Đế.[88] Nhà vua dứt khoát ban quân lệnh "hoặc là chiến thắng hoặc là hy sinh".[53] Trước trận đánh, nhà vua ngự trên một chiếc ghế gần một cối xay gió để quan sát ba quân. Cái ghế này dần trở thành hình ảnh gắn bó giữa người chủ cối xay gió ấy với vị Quân vương lẫy lừng của mình.[89] Khi đó, trước nửa đêm ngày 24 tháng 8 năm 1758, hay tin nhà vua Friedrich II Đại Đế đang hừng hực khí thế hành binh đến, quân Nga thành lập trận tuyến. Đại quân Phổ bao gồm 32.760 chiến binh (sách của nhà sử học Giles MacDonogh thì chép là 37 nghìn quân, còn sách của tác giả Amos Dean thì chép là 32 nghìn quân sĩ), trong khi đó người Nga có đến 52 nghìn đại binh (Giles MacDonogh thì cho rằng người Nga có 43 nghìn quân[8][11], trong khi tác giả R. Van Bergen trong tác phẩm The Story of Russia thì ghi là quân Nga có đến 89 nghìn người [12]). Nhà sử học người Anh là Christopher Duffy cũng cho rằng nước Phổ có 37 nghìn quân, Nga có 45 nghìn quân trong sách Frederick the Great: A Military Life, và trong sách khác ông viết rằng tổng cổng hai bên có khoảng 8 vạn tinh binh.[9][90] Theo tác giả C. T. Atkinson thì người Phổ có 38 Tiểu đoàn, với 12 nghìn Kỵ Binh và 25 nghìn Bộ Binh, trong khi người Nga có tới 42 nghìn quân sĩ.[10] Người Phổ có sáu Trung đoàn Thiết Kỵ Binh, năm Trung đoàn Long Kỵ Binh và ba Trung đoàn Khinh Kỵ Binh. Một Trung đoàn Khinh Kỵ Binh được chia đôi.[91]
Quân Nga làm nên một đội hình bốn cạnh, trong đó đoàn Kỵ binh được phân bố ở giữa. Một ít quân trang của Nga cũng đặt giữa đội hình ấy. Trong khi đó, quân trang đầy đủ hơn thì phân bố ở Klein Kamin và được 8 nghìn lính kiểm soát. Trong các cuộc chiến tranh chống Đế quốc Ottoman, kiểu đội hình này rất có hiệu lực, giúp quân Nga đánh tan tác những cuộc công kích vô tổ chức của đại binh Ottoman, nhưng nó không thật giá trị khi chạm trán với một lực lượng Quân đội có kỷ cương của người Âu châu.[69][72] Quân Nga cũng có đội Kỵ Binh hùng hậu do Tướng T. Demiku chỉ huy.[92] Ban đầu, quân Nga hướng về phía Bắc, hướng về khu vực tập trung của quân Phổ phía Đông làng Darmietzel. Điều đó là dễ hiểu, và hậu quân Nga cũng được bố trí có lô-gíc.[48] Tuy nhiên, khi nhận thấy cuộc hành binh của Friedrich II Đại Đế, Fermor nghĩ rằng người Phổ sẽ tiến đánh quân ông ta từ phương Nam, và ông ta cho quân hướng về phía Nam. Theo đó, quân Nga được củng cố ở mặt chính diện bên trái.[48] Theo nhà sử học quân sự Robert B. Asprey người Mỹ thì việc thiết lập đội hình là một lỗi làm về chiến thuật của Fermor: vũng lầy ở hậu quân ngăn cản quân Nga bỏ chạy một khi bại trận. Để yểm trợ hữu quân Nga, ông ta chỉ huy các Trung đoàn từ Zorndorf và kéo dài tuyến của ông ta đến tận Zabern-Grund - khoảng đất lõm về phía Nam Quartschen. Đây lại là một lỗi lầm về chiến thuật, do quá nhiều Trung đoàn cùng phòng thủ. Chỗ đất thì ít mà Trung đoàn thì hàng đống, thành thử tuyến quân Nga chẳng hề vững chắc.[81] Khi quân Phổ càng tiến gần đến, Fermor đã tiến quân đến làng Zorndorf và Wilkersdorf, và cho quân bắn phá ngôi làng Zorndorf. Quân Cozak tuân theo, liền nổ súng. Tuy nhiên, trò man rợ này lại làm hại cho chính ông ta. Đám lửa, cùng với khói bụi do vó ngựa gây ra, bị gió thổi về phương Nam, đã che lấp những đợt hành binh của vua Phổ. Đây là một sai lầm mang tính chiến thuật của Đại tướng Fermor.[81] Khi các chiến binh Nga có nhiệm vụ cầm chân quân Phổ giữa ánh sáng Mặt Trời lóe rạng đông hô lên dữ dội: "Giặc Phổ đã tiến đến!" Vị Giáo trưởng Nga nghe vậy, liền cùng với các thầy tu phụ tá của ông ta và nhiều lính hầu, dơ lên lá quốc kỳ Đế quốc Nga, hát vang lên đồng thời ban phước cho binh lính. Sau cái nghi lễ này, mỗi người lính lại rót một cốc rượu nhỏ từ trong một cái túi da đeo ở túi của Giáo trưởng, và bọn họ cùng thề vang lên rằng sẵn sàng chặn đánh cuộc tiến công của quân Phổ.[69][72] Nhà vua Friedrich II Đại Đế đôi khi đặt giả thiết, với chứng cớ rõ ràng - rằng ông ban đầu sẽ phát hiện Fermor hướng về phía Đông, và khi tiến đại quân vào Zorndorf thì ông sẽ ở đâu đó gần đội hữu quân Nga. Lúc ấy hai bên sẽ đánh nhau dữ dội.[48]
Ngày thứ nhất: đánh nhau kịch liệt
Theo David Fraser, có lúc một người lính Khinh Kỵ Binh Phổ thấy có một Khẩu đội pháo Nga đang di chuyển và chạy đến có lẽ để trình tấu với Nhà vua. Nhà vua vẫn điềm nhiên: "Trẫm đã nghe biết bao câu chuyện về các Khẩu đội pháo" và người lính này chạy đi, than: "Đây là bài học để lần sau tôi không bao giờ báo tin này nọ nữa". Seydlitz đến gặp nhà vua và bẩm rằng ông biết rõ về người lính kia - "một người số một". Nhà vua truyền lệnh: "Gọi anh ta trở lại" và khi người lính ấy trở lại thì nhà vua phán: "Ta không hiểu rõ báo cáo của con, hỡi con trai của Ta". Sau đó, nhà vua khen với các quan tướng: "Thật là một người lính Khinh Kỵ Binh nhanh trí. Anh ta sẽ còn đi xa thêm nữa".[48] Quân Nga chờ vị vua nước Phổ tiến công một cách bất động và hết sức im lặng.[72] Vào lúc 8 giờ sáng, quân Phổ đã vượt qua Zorndorf. Nhà vua dong ngựa đi qua mọi ngọn đồi, mà chỉ có thể nhìn lướt qua quân Nga. Cuối cùng, trên một đỉnh đồi ông nhìn thấy hữu quân Nga. Các thổ quan có miêu tả về những bờ đất cực dốc ở các chỗ lõm bên phải và trái, điều đó chiến thuật "đánh xiên" khó thể thực hiện. Do đó, nhà vua chỉ cố thể tấn công trực diện vào hữu quân Nga trên địa hình một phần bị chia cắt bởi chỗ đất lõm Zabern-Grund, và một phần bị chia cắt bởi khoảng đất lõm khác là Galgen-Grund. Nhà vua ban quân lệnh: Đại pháo của Đại tá Moller sẽ nã tới tấp hạt sen vào quân địch, sau đó Trung tướng Manteuffel xông lên với sự hỗ trợ của Trung tướng Kanitz. Nam tước Marschall von Biberstein có nhiệm vụ chỉ huy 20 Sư đoàn Kỵ Binh phòng bị phía sau làng Zorndorf, còn Trung tướng Friedrich Wilhelm von Seydlitz thì cai quản 36 Sư đoàn Kỵ Binh hùng mạnh ở đống rơm phía Tây làng. Bá tước Dohna được lệnh chỉ huy đội hữu quân, được 57 khẩu đại bác hỗ trợ, sẽ tấn công trung quân và tả quân của Fermor.[81]Khi đội hữu quân Phổ tiến vào làng Zorndorf thì đội nhạc binh trở nên khó thể nhìn thấy, theo lời kể của người lính cầm cờ Prittwitz xứ Alt-Bevern.[9] Vào lúc 9 giờ sáng, các chiến binh Phổ đã sẵn sàng và bắt đầu tiến công[48]; đội Cấm Vệ Quân xông lên, cùng với quân cánh tả của ba quân đánh thẳng vào đội hữu quân Nga. Viên Đại tá là Moller pháo kích rầm trời, nhằm vào trung quân và hữu quân của Fermor. Quân Pháo binh còn cách xa quân Nga do đó Moller chuyển họ sang 600 km về phương Bắc, quân Pháo binh Nga cũng chống trả lại. Đây có lẽ là một trong những trận đấu súng đại bác khốc liệt nhất trong suốt cuộc Chiến tranh Bảy Năm. Quân Pháo binh Phổ gây thiệt hại chưa từng thấy xuyên suốt các tuyến quân Nga chỉ trong vìng 2 tiếng đồng hồ. Đây là hậu quả của việc Fermor đốt làng Zorndorf làm che khuất binh lính Nga.[81] Người ta kể rằng chỉ một viên đạn đã hạ sát được 42 quân Nga. Binh lính theo dõi trại của người Nga ở trung quân đều hoảng loạn. Những cái xe cùng những con ngựa thồ đều bị bùng cháy ở cả hai bên, các tuyến bị vỡ, và người Nga phải rất khó khăn trong việc bố trí lại các xe ngựa của họ ở hậu quân. Quân Nga tuyệt vọng.[93] Tuy nhiên, xem ra họ vẫn không bị hủy diệt trước sức mạnh của hỏa pháo của người Phổ và có lẽ vẫn đứng vững. Song, quân Pháo binh Nga không thể phản pháo do trước mặt bọn họ là cái dốc rất nhỏ, và đồng thời dĩ nhiên là khói bụi của đám cháy mà Fermor gây ra đã ngăn cách bọn họ.[9] Những cư dân cách đó vài dặm bị rung chuyển trước những đợt "sấm rền" liên tục này, cửa sổ các nhà dân bị lung lay, và từ những ngôi làng cháy rụi và bãi chiến trường khói bụi bốc lên làm cho bầu trời đen tối hết cả. Cảnh tượng người Cozak và Kalmykian đốt cháy các ngôi làng xung quanh, cùng với một đống xe goòng lớn của quân Nga bị quân Phổ hất đổ vào các bó rơm làm cho bãi chiến trường trở nên khủng khiếp đến mức bạt vía.[9]
Moller đã thắng cuộc và ông truyền lệnh cho thu các khẩu đại bác và thay bằng các khẩu súng thường[81]. Thừa thắng, vào lúc 11 giờ sáng lực lượng Bộ Binh Phổ do Trung tướng Manteuffel chỉ huy tiến lên, khi nhận được thời cơ thông qua Trung đoàn Súng hỏa mai số hai. Một khẩu đội pháo gồm 20 súng đại bác được đẩy về phía trước cùng với lực lượng Bộ Binh dũng mãnh, và đến Fuchsberg thì nã đạn tới tấp gây tổn hại nghiêm trọng cho các đội Bộ Binh lựu đạn số một và số ba của người Nga. Nhưng khi quân Bộ binh Phổ tiến về thì quân Pháo binh Nga đã làm điều tương tự với họ. Dần dần lực lượng Bộ Binh Phổ biến mất khỏi tầm nhìn, dưới làn đạn của quân Pháo binh Nga, nhưng vào khoảng 11 giờ 15 phút thì họ lại hiện ra và chỉ còn các các tuyến quân đỏ của Nga có 40 bước đi. Quân Bộ binh hai bên bắn nhau kịch liệt, gây tổn thất to lớn. Quân Nga hết đạn, đành dùng lưỡi lê. Cả hai bên đều tổn thất nặng nề, nhưng quân Phổ thắng trận. Song, hỏa lực của các đội Bộ Binh ném lựu đạn số một và số ba của Nga đã gây thương vong lớn cho quân Manteuffel, và ông khó thể tự mình tiến công được nữa[94]. Ông sẽ phải kết hợp với quân cánh tả của đại quân do Trung tướng Kanitz chỉ huy; Manteuffel dùng khoảng đất lõm Zabern-Grund để yểm trợ cho cánh quân của ông.[44][48] Kanit thì đã 65 tuổi và ông có 9 Tiểu đoàn ở tuyến thứ nhất, 6 Tiểu đoàn ở tuyến thứ hai và ở màn sườn[81]. Với hy vọng của nhà vua rằng cuộc tiến công ban đầu này sẽ là một đòn giáng chí mạng vào người Nga thì Zabern-Grund trở thành điểm hỗ trợ tốt của quân Bộ.[9] Theo kế hoạch trận đánh thì Kanitz sẽ tấn công và đánh lùi tuyến thứ nhất của Nga và tuyến quân thứ hai cùng với các xe goòng chở lương thực. Tuy nhiên, quân Nga ra tay trước và Trung đoàn từ tuyến quân thứ hai là Novgorod, Ryazan và Voronezh, cùng với Trung đoàn Sankt-Peterburg xung phong và tái lập tuyến quân thứ nhất. Đây là thảm kịch đối với các Tiểu đoàn của Manteuffel: các Tiểu đoàn quân phục xanh kiệt quệ bắt đầu rệu rã trước sức tấn công dồn dập của người Nga, nhưng nhờ có tinh thần kỷ cương cao mà họ giữ vững được tuyến quân. Tổn thất gia tăng, tuyến quân các mất dần, các hàng quân càng khó thể che lấp khoảng trống: một lỗ hổng mở ra giữa Đại đội số 2 và Zabern-Grund. Các Trung đoàn Novgorod và Sankt-Peterburg chấp lấy thời cơ, bèn đánh thốc vào tả quân Phổ. Manteuffel đại bại, giờ đây ông rất cần có Kanitz:[94]
Vốn từ đầu Trung tướng Kanitz đã tiến về hướng Bắc theo kế hoạch của Quốc vương. Tuy nhiên, Kanitz cứ càng tiến quân thì hiện ra một khoảng trống giữa ông và Dohna. Ông nghĩ rằng Dohna sẽ tung quân yểm trợ cánh hữu của quân ông - giờ đây càng dễ bị trung quân Nga tấn công. Kanitz nhận thấy rằng nếu quân Nga đánh vào hữu quân của ông thì đội quân của Dohna sẽ không thể cứu viện ông được và vì thế, trái lệnh của nhà vua, ông kéo hữu quân của ông về phía Stein-Busch.[44] Chỗ đó tiếp giáp với tả quân Nga vốn ít bị tổn thất trong cuộc não pháo của quân Phổ.[48] Một khi tuyến quân thứ nhất của Kanitz tiến về hướng Bắc, tuyến quân thứ hai của ông phải tiến về phía trước để lấp lại lỗ hổng. Giờ đây, Manteuffel và các Tiểu đoàn của ông không thể có quân cứu viện. Kế hoạch tấn công hữu quân yếu ớt của quân Nga đã biến chuyển thành một cuộc tấn công trực diện yếu ớt, trải dài từ Stein-Busch ở trung quân Nga cho đến Zabern-Grund, và càng đuối dần đi. Dohna đáng lẽ phải theo chân lực lượng tấn công của Kanitz và che lấp cánh được phơi bày ra của ông đồng thời cung cấp quân dự bị. Ban đầu, khi quân Bộ binh Phổ rút đi từ Zorndorf, ông làm theo kế hoạch nhưng vì một lý do nào đó, chắc là do không hiểu mệnh lệnh cuả Quốc vương, nên hướng quân về phía Đông để khỏi tấn công. Thảm họa đã đến với quân của Manteufell, khi tuyến quân của ông lộ ra một khoảng trống giữa tả quân của ông và Zabern-Grund. Viên chỉ huy quân Nga là Gaugreben liền chớp lấy thời cơ: ông cho ba Trung đoàn Kỵ Binh của mình là Trung đoàn Kỵ Binh ném lựu đạn Kargopol, Trung đoàn Tobolsk và Trung đoàn Novotroisk, kết hợp lực lượng Khinh Kỵ Binh Serbia đánh vào tuyến bị hổng của người Phổ, vừa bọc hậu, đánh lấn vào sườn mà cũng vừa đánh trực diện vào tuyến quân Phổ.[94] Bộ Chỉ huy Quân đội Nga lúc ấy không những cho Kỵ Binh mà cũng cho Bộ Binh và Kỵ binh cùng xông lên đánh úp Quân đội Phổ, và hô vang lên: "Arra! Arra" (Thắng rồi! Thắng rồi). Quân Bộ binh Phổ do Tướng Manteuffel và Kanitz chỉ huy đều hoảng sợ, phải rút lui trong tình thế hỗn loạn.[72] Dù là chỉ huy của Trung đoàn Đông Phổ lừng danh nhưng đích thân Trung tướng Kanitz cũng thua chạy, mất đến 60% quân tinh nhuệ nhất của ông.[9] Có 26 khẩu Đại bác của nước Phổ bị quân Nga cướp lấy. Từ khẩu đội pháo của Moller ở trung quân, nhà vua Friedrich II Đại Đế nhận được hung tin.[81] Ông trở nên bất ngờ trước sự dũng mãnh của quân Nga trên trận tuyến.[95]
Bấy giờ, ông vẫn thể hiện lòng can trường và quyết đoán của ông. Ông xuống ngựa, giành lấy lá hiệu kỳ của Trung đoàn tinh nhuệ Below và nỗ lực xông ra ngăn cản các chiến binh bỏ chạy khỏi trận tiến. Ông kêu gọi: "Hỡi lũ chó! Quân bay có muốn sống mãi chứ". Ông thân chinh tiến thẳng về đánh nhau với quân Nga phía trước ông.[96] Nhưng rồi, binh lính của ông vẫn cứ bỏ chạy, khiến nhà vua tức giận quát rằng họ chạy như những con đĩ thỏa.[44][97] Lực lượng Thiết Kỵ binh của Trung Tướng đại tài Seydlitz - bấy giờ vẫn thận trọng tiến quân ở phía bên kia Zabern-Grund, và không ra trận tiền. Nếu bây giờ Quân đội Phổ có thể chuyển bại thành thắng, đó hoàn toàn là nhờ đại công của ông: nhưng theo một câu chuyện, kể lần đầu bởi Blanckenburg vào năm 1797, Nhà vua liên tục ban chỉ dụ cho Seydlitz tấn công địch quân, nhưng ông cãi lệnh. Theo suy xét của ông thì lực lượng Thiết Kỵ Binh của ông khó thể hành binh, nên phải thận trọng; trong khi nhà vua muốn Seydlitz tấn công trực diện thì ông đã nung nấu ý định đánh tạt sườn quân Nga.[98] Nhà vua lại ban huấn lệnh xuống đe dọa hành quyết ông, nếu ông không có xông pha vào trận mạc.[58] Ông sai một bộ tướng đến yết kiến nhà vua: "Bẩm với Đức Vua rằng sau trận đánh Ngài sẽ tùy tiện xử lý cái đầu cuả Ta, nhưng hiện giờ Ta mong Ngài sẽ chấp nhận nó còn tồn tại để còn phục vụ Ngài". Có lẽ Friedrich II Đại Đế lo lắng khi nghe tâu vậy. Seydlitz vốn là một vị chủ tướng sáng suốt và ông biết rằng quân Phổ chỉ chiến thắng khi tấn công lúc thuận lợi, tại địa điểm thích hợp và với mưu lược đúng đắn.[48] Tuy nhiên, vua trở nên mất kiên nhẫn với ông. Thế là vua truyền lệnh cho ba Trung đoàn Long Kỵ Binh của Biberstein: Plettenberg, Alt-Platen và một Trung đoàn nữa cách xa về phía Đông là Schorlermer. Song, Marschall cũng cảm thấy khó thể ra trận lúc này nên ông không tuân lệnh. Thế là Thống chế Moritz - Vương công xứ Anhalt-Dessau thay mặt Marschall chỉ huy các lực lượng này. Dưới sự thống lĩnh của ông, Trung đoàn Plettenberg tiên phong, đánh thẳng vào quân Kỵ binh Nga - nhận thấy quân Nga quá vô tổ chức. Quân địch bị đánh lùi, và ít nhất là không thể truy kích quân Bộ binh Phổ được. Nhờ có chiến thắng này, tình hình trở nên hỗn loạn và quân Nga mất hẳn lợi thế[44].
Và, cùng lúc với chiến thắng ấy, quân Phổ có thêm viện binh từ phía Tây: đó chính là đoàn Kỵ binh của Seydlitz.[58] Số là, đến lúc này thì tình hình khiến Seydlitz rất khó có thể không vào trận.[9] Thấy quân Nga càng trở nên nhốn nháo bởi lẽ vừa phải chú tâm đến quân Bộ binh Phổ đang tháo chạy mà vừa bị các đợt tiến công của Moritz đánh tan tác,[44] Seydlitz lấy ngay thế thượng phong. Theo Thomas Carlyle, thì có lẽ nhà vua đã hối thúc: "Seydlitz đâu! Ngay bây giờ!", hoặc cũng có thể do ông tự ý xung trận. Carlyle cũng so sánh quân Nga lúc bấy giờ với một đám bò tót đang chạy toán loạn. Seydlitz ra dấu hiệu cho tấn công, và ngay lập tức 5 nghìn chiến binh tinh nhuệ của ông xung phong vượt qua như long trời lở đất.[48][93] từ ba điểm xuất phát, và cứ thể dẫn quân băng qua những cái dốc để đánh thốc vào hàng ngũ của đám quân Nga nhốn nháo. Trong cuộc tiến quân này, lực lượng Kỵ Binh Phổ gặp phải nhiều chướng ngại vật hơn là những gì cản trở họ trong trận Soor đại thắng quân Áo hồi năm 1745. Các chiến sĩ Long Kỵ Binh Dự Bị cũng đều vào trận tiền.[46] Một trận đánh kịch liệt đã diễn ra, gần như độc nhất vô nhị trong lịch sử châu Âu. Có lẽ Seydlitz đích thân thống lĩnh ba trong số các Trung đoàn (C 8, H 2, H 3). Theo mệnh lệnh của ông, các Trung đoàn thiết lập những đội hình mà tấn công ào ạt dũng mãnh theo ba hướng vào "đám bò nhốn nháo" kinh khủng kia, quân Nga đại bại và còn bị đánh lùi ra xa. Không những các lực lượng Thiết Kỵ Binh như quân Thiết Kỵ binh thứ 8 (Seydlitz), quân Thiết Kỵ binh thứ 10 (Hiến binh) và Thiết Kỵ binh thứ 13 (Cấm Vệ Quân) mà các lực lượng Khinh Kỵ Binh Zieten và Malachowsky đều do Seydlitz cầm đầu cũng góp phần không nhỏ đến thắng lợi. Lực lượng Khinh Kỵ Binh, đã được bố trí trước quân Kỵ binh của địch liền dàn lại hàng ngũ và tiến công thẳng vào những Tiểu đòan bên sườn quân Nga và đánh lùi chúng, tiêu diệt biết bao nhiêu là lính Bộ binh Nga. Lực lượng Khinh Kỵ Binh Zieten không ít lần hành binh qua các Tiểu đoàn Nga mà họ đánh bại và bao vây.[44][84] Vốn các lực lượng của Gaugreben đã bị Moritz đánh cho khánh kiệt, bọn họ cùng với Trung đoàn Khinh Kỵ Binh số 2 của Nga bị lực lượng của Seydltiz đánh từ phía sau, đều tan tác. Các Lữ đoàn hữu quân của Nga như Uvarov, Liubomirski, Leontyev, Panin và Sievers mất đến 18 trong số 20 Tiểu đoàn. Những Trung đoàn này cùng nằm dưới quyền Trung tướng Pyotr Semonoyvich Saltykov - một người có nhân cách quý phái dù khá vô danh trong hàng ngũ quân Nga.[99][100] Quân Kỵ binh của Gaugreben bị tan rã.[44] Một tài liệu cho biết rằng 20 Sư đoàn Phổ đập tan quân Nga ở trực diện, trong khi 18 Sư đoàn còn lại thìd đánh tan địch ở cánh và hậu quân. Đồng thời, lực lượng Pháo Binh Phổ cũng xéo nát quân Nga.[46] Quân Nga phải hứng chịu tổn hại kinh hoàng, không những thế đội hữu quân của Fermor đã bị vỡ tan, phải tìm cách vươt sông bỏ trốn.[9][82][93] Quân Kỵ binh Nga bỏ chạy về Kuztdorf, Fermor cũng tháo lui cho đến tận khi trời tối, chứ không dám quan sát chiến trận nữa. Nếu Quân đội Phổ không phá các cây cầu đi, thì hẳn Quân đội Nga sẽ có đường chạy, Fermor sẽ không bao giờ quay lại và trận đánh Zorndorf sẽ hoàn toàn kết thúc.[93] Nhưng cho dù những hàng tiền quân Nga đều bị triệt hạ, các tuyến quân Nga vẫn dũng mãnh không lui bước. Các Tiểu đoàn Nga lần lượt bị hủy diệt, những đám quân mới tập hợp lại với nhau, và cùng với đống thây tử sĩ họ đã gây khó khăn cho cuộc tấn công của người Phổ, khiến cho Quân đội Phổ phải thảm sát quân Nga rất kịch liệt. Người Nga đã dùng hết đạn dược của bọn họ, họ vẫn quyết không nhân nhượng chỉ đến khi nào quân Phổ quét sạch hết bọn họ. Cuộc tàn sát kéo dài trong hàng tiếng đồng hồ.[69] Nhà sử học Carlyle gọi cuộc giao tranh này là một bãi tắm máu. Cả nửa quân Nga bị tiêu diệt, và phần đầu của trận ác chiến tại Zorndorf đã chấm dứt. Nhà vua Friedrich II Đại Đế từng lâm vào hiểm nguy trong trận này, nhưng giờ đây ông đã xoay chuyển được tình hình nhờ có quân Kỵ binh và Moritz và Seydlitz.[44][93] Seydlitz - vị chỉ huy Kỵ Binh kiệt xuất nhất của Quân đội Phổ - đã can thiệp đúng lúc làm động viên sức chiến đấu của ba quân.[101]
“ | Không ai tha thứ cho ai, điều này đẩy chúng [quân Nga] đến nước đường cùng khiến cho chúng chiến đấu như một lũ quỷ. | ” |
—Andrew Mitchell[82]
|
“ | Vương công Moritz quan ngại trước những sự kiện rủi ro, và mọi sự sẽ tồi tệ thế nào. Xem chừng ông không hề lấy làm vui với tuyên cáo của Đức Vua. Ông bỏ mão xuống, ném nó lên Trời cao, với giọng nói sâu sắc và giáng vẻ kiên quyết, ông tung hô: "Đức Vua vạn tuế, chúng ta đã thắng trận!" Cả tuyến quân cũng đều đồng thanh: "Đức Vua vạn tuế", và xem chừng Đức Hoàng thượng cười thoáng qua. Vương công Moritz và Tướng Below nói với quân sĩ: "Hỡi các chàng trai, có thấy bọn người chạy qua đây không? Chúng là đám tù binh địch bị giải đi. Xung phong!" | ” |
—Thư lại của Nhà vua Phổ Henri Alexandre de Catt
|
Ở một khoảng cách không xa lắm, những đạo quân Kỵ binh Nga hùng mạnh khác lại đánh thẳng vào tả quân của người Phổ - bao gồm những Trung đoàn của Bá tước Dohna, trong số đó có vài chiến binh đã bỏ chạy ngay từ đợt tấn công lần thứ nhất của người Nga vào đội tả quân. Một lần nữa, trận giao chiến kịch liệt diễn ra và quân cánh tả Phổ lại phải tháo chạy ra khỏi trận tiền. Đúng lúc đó, Seydlitz - vị anh hùng của ngày hôm ấy - lại phải kéo quân lên để phá vỡ mối hiểm họa lớn từ quân Nga. Ông bấy giờ thống lĩnh 36 Sư đoàn hùng mạnh. Nhà sử học người Anh là Thomas Carlyle có nghi vấn rằng không rõ ông tiến đánh theo quân lệnh của nhà vua Friedrich II Đại Đế hay là do tinh thần tự chủ của ông. Cùng với những chiến binh tinh nhuệ của mình, ông mãnh liệt xung phong đánh thốc vào quân Nga, đánh tan nát quân Kỵ binh Nga khiến cho họ phải bỏ chạy trong tình cảnh hỗn loạn, nhốn nháo. Quân Bộ binh Nga do Thiếu tướng Manteuffel (chớ lộn với viên tướng Manteuffel của Phổ) và Trung tướng T. Browne chỉ huy bị đánh bại trước sức tấn công mãnh liệt của đoàn Kỵ binh Phổ (Browne và Fermor - hai bại tướng dưới tay vua Phổ ở Zorndorf, đều có dòng máu Scotland)[25].[103]. Đợt tấn công này của quân Kỵ binh Phổ thật là một chiến thắng thần kỳ, chẳng khác gì một cơn bão dồn dập tiêu diệt địch quân. Quân Kỵ binh Nga đã bị đánh lùi ra xa, và không còn là mối đe dọa đối với quân Phổ nữa.[102] Và, bất chấp đạn pháo dồn dập của Nga, danh tướng Seydlitz đánh thẳng vào các tuyến quân Nga tiếp theo. Lực lượng Bộ Binh Phổ giờ đây đã có thể làm chủ lại tình hình.[102] Thế rồi, đích thân nhà vua Friedrich II Đại Đế cũng dẫn các Tiểu đoàn Bộ binh lão luyện của ông đến tiếp sức; và một cuộc xáp chiến khốc liệt khác lại bùng nổ, chẳng kém gì cuộc giao tranh ác liệt đã hủy diệt tả quân Nga. Hai bên xung phong lên đánh giáp lá cà, và đều khó thể giữ vững được hàng ngũ của mình. Quân pháo thủ cả hai bên cũng bắn phá dữ dội, và các chiến binh hai bên còn đánh nhau bằng lưỡi lê.[102] Cả quân Phổ và quân Nga, cả lực lượng Bộ Binh và Kỵ Binh đều trở thành một đám quân dày đặc. Trận đánh đã đến mức khủng khiếp, và quân Nga dùng sức mạnh kinh khủng của họ để kháng cự lại đợt tấn công dồn dập của quân Phổ. Các chiến binh Phổ vẫn uy dũng xông lên để chống chọi với đại quân Nga.[101] Giữa trận đánh có tiếng kêu gọi: "Không thể có sự tha thứ" - "Đương nhiên, không thể nào cả!".[102] Đó là do sự thù hằn quá cao độ giữa người German và người Scythia.[2] Người Nga đều đã tuyệt vọng vì thảm bại trong khi người Phổ bắn giết dữ dội vì coi đây là thời cơ để trả thù những hành vi man rợ của quân Nga khi đến xâm phạm xứ Brandenburg. Những người lính Phổ vốn đã vào sinh ra tử liên miên với chiến tranh và lần này trở nên vô cùng hung dữ.[48] Ngay trong lúc sắp qua đời mà các thương binh cũng có những cơn giẫy chết rất điên cuồng. Một thương binh Nga nằm gần một chiến binh Phổ đang hấp hối, mà người lính Nga này tàn tật thê thảm đến mức ông ta dùng những giây phút cuối cùng của mình để xé thịt người lính Phổ kia ra. Các chiến binh Phổ thấy vậy liền thẳng tay giết ngay kẻ ăn thịt người ấy, để người đồng đội của họ được bình thản qua đời.[106] Cũng có một số trường hợp toan ăn thị người khác bị hỏa pháo của người Phổ giệt sạch chẳng còn sót một tên.[107] Những người lính Phổ cũng vồ lấy những cái hộp đạn của tử sĩ Nga.[102] Friedrich II Đại Đế cũng vũ dũng chinh chiến giữa bãi chiến trường đẫm máu, và các lính hầu của ông đều bị địch bắt, hoặc là đều ngã xuống hy sinh bên cạnh vị Đại Đế của họ. Đống tử thi các liệt sỹ trong cái ngày bừng cháy ấy, cùng với đạn pháo của hai bên mà chủ yếu là do các khẩu đại bác bắn ra, đã khiến cho các chiến binh khó thể phân biệt đâu là bạn đâu là thù. Người Phổ chỉ có thể nhận ra nhà vua qua giọng nói của ông. Về lòng dũng cảm thì cả quân Nga và quân Phổ đều tương đương nhau, nhưng nhờ có tinh thần kỷ cương và linh động mà quân Phổ đã chiến thắng được kẻ thù. Cuối cùng, Bộ Tư lệnh Quân đội của nước Phổ đã đẩy được ba quân thoát khỏi tình cảnh hỗn loạn, và khi màn đêm buông xuống, tàn quân Nga bại trận và bị đánh đuổi ra khỏi bãi chiến trường.[84][108]
Sau khoảng bốn tiếng, hai đoàn quân đã thấm mệt nên chấm dứt trận xáp chiến.[102] Đêm hôm đó, nhà vua Friedrich II Đại Đế triệu tập ba quân, người Nga cũng kéo nhau bỏ chạy về nơi an toàn. Đại binh Nga đã bị tan tác thành từng mảnh. Nhưng tất cả những cây cầu đều đã bị phá hủy, quân Nga không hoàn toàn bị tan rã. Họ đã cùng đường.[102] Bộ Tư lệnh Quân đội Nga nỗ lực tập hợp lại ba quân. Quân Nga bấy giờ chẳng khác gì một con linh vật đã chết, mà một nhà sử học quân sự Phổ phải than rằng đạn dược cũng khó thể giết được họ. Nhưng dĩ nhiên, quân Phổ vẫn luôn luôn làm chủ chiến trường[102]. Khoảng vài nghìn quân Nga lại một lần nữa tiến vào bãi chiến trường, và nhà vua kéo đại quân Phổ xông lên đánh. Tướng Forcade - thay cho Tướng Dohna vừa bị thương[46] - chỉ huy tiền quân (gồm 2 Tiểu đoàn) sẽ xung phong trước, còn Tướng Rauter thì sẽ triệu tập lại những binh sĩ của Bá tước Dohna và đánh tạt sườn người Nga.[102] Dohna dù đã mệt nhưng xông lên nhờ có sự khích lệ của nhà vua và vị Thống chế tài năng là Moritz xứ Anhalt-Dessau.[48] Nhưng cuộc tấn công này hoàn toàn không quan trọng gì, và hai bên cứ đánh nhau dữ dội mà không ai lại ai[9]. Số là vì các chiến binh Phổ bấy giờ đã đói khát, và do một sự thật là họ đều là đội tả quân Phổ đã từng không chống nổi quân Nga trước đó, một lần nữa phải tháo lui trước đạn pháo của quân Nga. Nhà vua Friedrich II Đại Đế phải nhìn với thái độ nghi ngờ vào các chiến binh này - bởi lẽ chính họ từng chiến đấu dũng mãnh chống quân Nga trong trận đánh kịch liệt tại Gross-Jägersdorf hồi năm 1757.[102] Đây rõ ràng là một cuộc phòng thủ tầm thường, vô hiệu của người Nga.[108] Lúc khoảng 8 giờ 30 tối, những chiến sĩ Phổ (không rõ số lượng là bao nhiêu người) đã chiếm lĩnh được khoảng đất từ Quartschen và Zicher, nơi lúc sáng quân Nga lập tuyến.[48] Quân Nga hoàn toàn bị hỗn loạn trong khi quân Phổ đã cầm chắc chiến thắng trong tay mình.[106] Dù những người chiến thắng đã thấm mệt làm nhà vua không đánh thêm một trận nữa như ông mong muốn, quân Nga đã bị hủy hoại nặng nề, và họ không thể bò đi đâu hết, không thể tiến lên hoặc lùi bước, họ đã bị thiếu thốn đạn dược và lương thực đến mức trầm trọng. Kế hoạch ban đầu của nhà vua nước Phổ là bao bọc và đánh tan quân Nga đã thành công.[46]
Cảnh tượng thật ác liệt với những thương binh, tử sĩ cùng với không ít người lính Nga bị say rượu.[48] Không còn một Tiểu đoàn với chả Trung đoàn Nga nào nữa do cả đoàn quân bị nhốn nháo, và trong suốt cuộc đời mình Fermor chưa bao giờ chứng kiến một trận kịch chiến kinh hoàng đến thế. Đến đêm này ông ta mới dám quay lại bãi chiến trường để chỉ huy ba quân.[102] Rõ ràng, quân Phổ đã chiếm lĩnh được khoản đất mà địch chiếm cứ trước khi trận đánh khốc liệt bùng nổ, và do đó họ đã đại thắng. Lúc trời tối mịt mù, quân Nga phòng thủ kiên cố.[109] Các đạo quân Cozak đi truy lùng trên khắp bãi chiến trường. Bọn họ đâm xác những tử sĩ, sát hại các thương binh, thậm chí còn đốt phá nữa. Thậm chí họ còn tìm cách cướp lấy các khẩu đại pháo Phổ ở phía sau, điều này khiến cho lực lượng Khinh Kỵ binh Phổ phải ra tay. Lúc một đám lính Cozak đang tàn phá thôn Zicher, quân Khinh Kỵ binh Phổ vây quanh địch quân. Quân Cozak kéo nhau ra những cái chuồng, nhà vệ sinh ở nơi đây, ngồi xuống, rồi lại chạy và tìm cách nhờ lửa - người bạn vĩnh cửu của họ - hỗ trợ. Thế rồi. hơn 400 lính Cozak đang ở trong những cái chuồng bò lớn, hoặc là những đống rơm, và châm lửa đốt chúng, tuy nhiên quân Khinh Kỵ binh Phổ vẫn cương quyết không lùi bước. Họ đều kéo đến lối ra các chuồng xí ấy. Họ reo hò lên: "Quyết phải đuổi lũ quỷ sứ nhà bây!", và xông vô bắn hạ, bóp cổ chết hoặc là thiêu rụi những tên lính Cozak ấy. Cả đội quân Cozak này chẳng còn một ai sống sót cả. Người Phổ đã thành công vang dội trong việc báo thù những tên man rợ này.[84] Trong khi một anh lính Phổ viết: "Sự kinh hoàng mà quân thù gây ra cho chúng ta là khó thể tả nổi. Phần lớn quân ta không thể bình tĩnh khi nói về tình trạng đáng sợ này", thì quân Phổ cũng tàn nhẫn không thua gì: những thương binh Phổ bắn giết xối xả lính Nga.[9] Trong khi ấy, nhà vua Friedrich II Đại Đế vời đoàn tùy tùng của ông đến. Toàn quân dựng đại bản doanh trong hai tuyến lớn, xuyên suốt Bắc Nam, đối diện thẳng vào quân Nga. Nhà vua đóng ở phía trước ba quân, thể hiện ông là vị vua - chiến binh đã chiến đấu hết mình vì ba quân trong cả ngày hôm ấy. Mọi người đã phải trải qua những trải nghiệm kinh hoàng, giờ vẫn chưa phai. Xa xa ngôi làng, người ta vẫn còn thấy các đốm lửa. Khoảng 8 giờ tối, Quân vương triệu sứ thần Anh là Andrew Mitchell vào chầu, cùng với Trung tướng Seydlitz và các võ tướng khác. Mitchell - người đã phò tá nhà vua trong suốt cả ngày hôm đó - ca ngợi:[102][108]
“ | Ngày hôm nay Thiên Chúa lại ban cho Kim thượng một chiến thắng lẫy lừng nữa! | ” |
—Andrew Mitchell
|
“ | Nếu không có người này, thì bây giờ chúng ta sẽ lâm vào tình hình tuyệt vọng! | ” |
—Friedrich II Đại Đế
|
Các ngày sau: hai bên mệt lừ
Xác người cùng vũ khí nằm la liệt trên chiến trường Zorndorf, đến mức ghê rợn.[9] Nhiều người lính Nga đã gần hơn với làng Zorndorf lúc rạng đông, như vậy là họ đã nằm ở hướng Nam kẻ thù của họ.[48] Đến sáng hôm sau, là Thứ Bảy ngày 26 tháng 8 năm 1758, ông ta gửi thư cầu hòa: "Xin được thỏa thuận ba ngày để an táng liệt sĩ". Bá tước Dohna - một trong những viên tướng soái chủ chốt của Quân đội Phổ trong trận huyết chiến này, đứng ra hồi đáp: "Do Đức Vua - Vương chủ của Ta - đã chiến thắng, tử sĩ sẽ được mai táng theo quân lệnh của Người, và thương binh cũng hoàn toàn phải chấp nhận."[107] Ông cũng nói thêm: "Xưa nay người chiến thắng mới có trách nhiệm chôn thây đám tử sĩ, do đó một đề nghị như vậy là khó thể tin được, thật không thể chấp nhận được, xét theo lệ thường". Trong khi đó, Fermor dàn quân, các binh sĩ Nga lại bước vào bãi chiến trường. Có lẽ một trận giao chiến nữa sẽ bùng nổ, và quả thật, quân Nga đã nổ súng pháo, dù họ cách khá xa quân Phổ. Quân Phổ cũng rời khỏi đại bản doanh và nã đạn pháo để chống trả. Cả hai bên quân đội đều phải đối mặt với một câu hỏi: "Có nên tấn công tiếp không?", tuy nhiên, mọi chiến binh đều đã mệt mỏi, đói khát nên họ không thể chiến đấu mãnh liệt như những ngày trước nữa. Trong quân đội của đại tướng Fermor, bọn họ chỉ nói "tấn công" cho sướng miệng mà thôi. Trong khi đó, giữa quân đội của nhà vua Friedrich II Đại Đế, mọi binh lính và ngựa keó đều đã mệt mỏi vì cuộc chiến đấu ác liệt hồi hôm qua, nên họ không đủ sức. Trước buổi trưa, quân Phổ kéo về đại bản doanh, chỉ để lại lực lượng Pháo binh để giao chiến với địch. Họ chỉ có bắn phá cho đến khi quân Nga thoái lui, kết thúc bốn tiếng đồng hồ giao chiến.[102][108]Quân Khinh Kỵ binh của Friedrich II Đại Đế hiểu được quân nhu của Nga (Wagenburg), đang ở Klein Kamin vào lúc này. Tối qua, họ đã lục soát dữ dội vào đống quân nhu này, có khi một cách tùy tiện. Rất nhiều tiền của và chiến lợi phẩm của đối phương bị quân Khinh Kỵ binh Phổ lấy sạch về. Nhà vua Phổ đóng quân cách đó không xa nhưng không rõ tại sao mà ông không hề để ý đến nó ? Nửa đêm Thứ Bảy - Chủ Nhật, quân Pháo binh Nga lại một lần nữa nã đạn, lần này cách không xa quân Phổ lắm - một viên đạn bắn trúng xe ngựa của nhà vua Phổ và làm nó bị vỡ. Thậm chí theo như sứ thần Mitchell thì nhà vua cũng súy bị một viên đạn hạ sát.[81] Quân Phổ cũng phải chịu thêm chút tổn thất.[9] Tuy nhiên, quân Nga hoàn toàn kiệt quệ, và không còn quân số đông đảo để tiếp tục tham chiến nữa.[109] Có tài liệu cho biết rằng quân Nga do mát mát quá bi thương nên đã bị mất hoàn toàn lợi thế về quân số: 23 nghìn chiến binh Phổ và 14 nghìn tàn binh Nga.[46] Quân Khinh Kỵ binh Phổ đã đánh nhiều trận xáp chiến với quân Cozak Nga trong ngày hôm đấy, và quân Cozak đã thất bại thảm hại trước sự dũng mãnh của người Phổ.[21] Chỉ sau một thời gian ngắn, quân Nga tuyên bố thoái lui, trước khi nhà vua có thể tìm cách đánh phá xe goòng chở quân nhu của bọn họ[81]. Mặc dù rất có khả năng quân Nga sẽ tấn công trở lại, tổn thất quá nặng nề đã khiến cho bọn họ phải rút quân. Và sau lần này thì trong suốt cả năm 1758 quân Nga sẽ không còn quay trở lại nữa.[48] Bọn họ rút khỏi làng Zorndorf và theo đường tiến về Klein Kamin, rồi từ đó lại tiến quân đến Landsberg, trong đêm mưa tầm tã ngày 27 tháng 8 năm 1758. Vua Phổ thắng rồi cũng không tấn công gì thêm để bảo toàn binh lực của mình và ông hiệu triệu cho ba quân phòng thủ tại Tamsel.[64].[46] Ông cũng rút đoàn Kỵ binh của ông về Langer-Grund để cho họ đỡ phải giao chiến với lính Cozak Nga[9]. Tầng lớp nông dân cùng nhau đắp mộ các tử sĩ, trong khi đó các chi đội cũng dọn dẹp sạch bãi chiến trường. Hay tin quân Áo của Nam tước Ernst Gideon von Laudon tiến vào vùng Hạ Lusatia, nhà vua xuống quân lệnh cho Trung Tướng Hans Joachim von Zieten chặn đứng Laudon. Đồng thời, ông còn phái một biệt đội Khinh Kỵ Binh đến khu vực Frankfurt để đánh đuổi lính du kích Áo.[81] Như vậy là trong ngày thứ ba của trận chiến kịch liệt - tức là ngày 27 tháng 8 - trận huyết chiến tại Zorndorf đã kết thúc. Vua nước Phổ - một "Theseus" anh dũng - đã đại thắng được quân Nga - những "Minotaur" khổng lồ.[102] Ông rất hài lòng trước sự rút lui của quân Nga, quân ông vẫn vững tồn, mà lòng kiên dũng của đại binh Nga đã không thể nào hạ gục được họ.[12][110] Số lượng tù binh của trận đánh kịch liệt này không đáng kể, do hai đoàn quân đều không hề có bất kỳ một sự khoan dung nào cho nhau cả. Nhưng vào ngày 27 tháng 8 thì một mớ những tên bại binh Nga rơi vào tay người Phổ. Cả hai đoàn quân đều phải hứng chịu tổn thất nặng nề. Friedrich II Đại Đế mất đến trên 11 nghìn chiến binh trong trận chiến được xem là thắng lợi đắt giá của ông[22], và tổn thất của quân Nga còn tệ hại hơn nhiều, gấp đôi quân Phổ. Dù cho quân Nga tuyên bố rằng họ chỉ bị mất 30 cỗ pháo[64], quân Phổ cũng chiếm lĩnh được 103 khẩu đại pháo, cùng với 27 quân kỳ và hiệu kỳ của kẻ thù bại trận.[81][108] Sách khác chép rằng quân Phổ hy sinh 13 nghìn binh sĩ trong khi quân Nga thương vong đến 18 nghìn binh lính.[13] Nhà sử học quân sự Trevor Nevitt Dupuy (người Mỹ) cho hay quân Nga mất mát đến gần nửa quân số của mình.[112] Sách Austria của các tác giả Sidney Whitman, John Robert McIlraith cũng ghi nhận rằng trong trận tấn công của vua Phổ ở Zorndorf, quân Nga bại trận và mất đến 19 nghìn binh sĩ.[16] Trong khi 324 viên Sĩ quan Phổ tổn thất thì có đến 941 Sĩ quan Nga thương vong, trong số đó có 5 viên tướng.[72] Theo Christopher Duffy thì Phổ mất đến 12800 chiến binh - tức là khoảng 1/3 Quân đội của Friedrich II Đại Đế trong khi Nga mất đến 18 nghìn chiến binh (khoảng 2/5 quân số cuả họ theo ghi nhận của Hamish M. Scott[15])[9]. Sau khi toàn thắng một người lính Phổ nhìn đám thương binh Nga và có lời bình luận rằng bọn họ "bò bằng những cánh tay và bàn tay, số khác đi khập khiễng trên súng hỏa mai, với những chiếc bia bắn kẹp bên nách để chống đỡ".[113]
Theo người lính này, khi quân Nga bại trận rồi thì "những tàn tích của các xe goòng tiếp tế và xe ngựa chở thuốc súng đều bị nghiền nát, và một mớ lính Pháo Binh bị nướng cháy nửa người đều phải chịu gửi cái mùi thịt cháy thật khó chịu". Cũng theo người lính này, động vật cũng chịu thiệt hại, "toàn bộ đoàn xe ngựa hai bánh Nga, với những con ngựa trúng đạn ở dây cương của chúng, và trong khắp trận tiền những con ngựa bị thương chạy lung tung, trong khi ruột của chúng lết trên đất hoặc là cố chống đỡ trên ba chân".[113] Phải đến ngày thứ bốn - tức ngày 31 tháng 8 năm 1758, viên Đại tá Wendessen và toàn lính của ông lập kế hoạch phá tan kho lương của quân Nga tại Landsberg, nhưng bất khả thi.[9] Hôm ấy, quân Nga chiếm cứ Klein Kamin. Sau đó, họ cũng rời khỏi đây để đi theo đường Landsberg và rút về miền Đông Phổ. Rumyantsev - viên Sĩ quan đã thực hiện tinh thần kỷ luật cao trong trận thua này - lui quân từ Schwedt và Stargard về Ba Lan, đánh dấu hậu quả của chiến bại ở Zorndorf là sự đổ vỡ của cuộc xâm lược của quân Nga vào vùng Brandenburg[17][72]. Trong ngày hôm ấy, Nhà vua Phổ thắng trận lập đại bản doanh tại Blumenberg, và từ đây nhà vua truyền Trung Tướng Manteuffel mang 10 Tiểu đoàn và 20 Sư đoàn truy kích địch quân.[25][84] Tuy nhiên, vào ngày 2 tháng 9 năm 1758, Nhà vua có quyết định sáng suốt khi ông giao cho Bá tước Von Dohna nhiệm vụ canh chừng đám bại binh Nga, còn ông thì thân chinh dẫn đại quân về xứ Sachsen để giúp cho Hoàng thân Friedrich Heinrich Ludwig chiến đấu với quân Áo. Fermor, trên đường tháo lui (ngày thứ ba họ vẫn chưa lui về, và phải đến thứ bảy thì mới hoàn thành), đầu tiên tuyên bố thắng trận. Ông ta nói: "Ta đã ở lại bãi chiến trường trong suốt đêm (thực chất là không xa đó, bởi lẽ các cây cầu đã bị phá hủy), tại sao Ta không được nhiệt liệt hoan nghênh là kẻ chiến thắng? Đây Ta có 26 khẩu đại pháo, lấy được khi Ta mừng rỡ hô vang lên: Thắng rồi" (Arah).[102] Theo như lá thư của Fermor gửi về cho Nga hoàng: "Hạ thần không mất nhiều thời gian để báo cáo cho Hoàng Thượng, rằng, sau một cuộc giao tranh đẫm máu kéo dài đến 10 tiếng đồng hồ, chúng ta vẫn làm chủ chiến trường, và chiếm lĩnh được nhiều tù binh, quân kỳ và hiệu kỳ của quân thù".[109] Do đó, sau này họ sẽ tự tin đến yết kiến các bậc đế vương này, với niềm vui sướng nhưng điều đó gây cho các đế vương này những hy vọng lệch lạc.[108] Tại các kinh kỳ Sankt-Peterburg, Viên và Paris, lễ ăn mừng thắng trận được tổ chức trong suốt ba tuần lễ, họ đã nhầm to.[102]
Dĩ nhiên, sau thắng lợi hoàn hảo ở Zorndorf, ca khúc khải hoàn vang lên tại đế đô Berlin.[11][109] Theo lệnh của nhà vua, trên khắp Vương quốc Phổ các Thánh đường vang lên bài ca khải hoàn.[114] Friedrich II Đại Đế rất khoái chí, sẵn sàng báo tin dữ cho Thống chế Áo là Bá tước Leopold Joseph von Daun về đại bại của quân Nga trong trận đánh Zorndorf tàn khốc. Ông tóm lấy được một lá thư của Daun gửi cho Fermor, và trong bức thư này vị Thống chế Áo khuyên Fermor không nên quá hung hãn trong việc tấn công một kẻ thù xảo trá mà ông ta hoàn toàn không quen biết. Nhà vua liền ngự bút thư gửi cho Daun, thế nhưng ông lại ký tên của Fermor: "Đại Nhân rất đúng khi khuyên Tôi không nên tấn công một tên địch xảo quyết và tinh khôn, mà Hắn không hiểu rõ bằng Ngài, quả thật Hắn đã ban cho Tôi một trận chiến và đánh Tôi đại bại. Ngài thật bất hạnh". Thực ra, trước đó thì những phần tử chống Nga trong quân đội của Daun cũng đã hiểu được cái "chiến thắng" của Fermor thực chất là thảm bại.[71][108] Lại nói đến bãi chiến trường Zorndorf đẫm máu, sau khi chiến thắng quân Nga,[115] các chiến binh Phổ cùng với những người nông dân do quá căm thù trước những tội ác của quân Nga trước trận này: thành thử lòng căm hờn địch của họ trở nên hòa quyện với nhau. Giờ đây họ đã đại thắng được quân thù, vậy để cho hả hê, thấy những thương binh Nga nằm la liệt và kêu cứu trên trận tiền thì họ mang cả thảy các thương binh Nga vứt vào hố chôn các tử sĩ, và dĩ nhiên là chôn sống luôn các thương binh Nga. Những lính Nga xấu số đều cố gắng bò lên, nhưng do bị nằm dưới hàng đống thây đồng đội nên bọn họ đều chẳng thể làm gì được và tất nhiên là chết.[107]
Ý nghĩa lịch sử
“ | Các vũ khí lóe rực lên giữa Mặt Trời và cả quanh cảnh cháy bỏng... Tôi sẽ không bao giờ quên cuộc hành binh im lặng và hoành tráng của Quân đội Phổ... cuộc tiến công dũng mãnh mà chấn động này đột ngột phát triển thành một tuyến quân nhỏ... Sau đó, tiếng trống đe dọa của người Phổ dội lên trong tay chúng tôi. | ” |
—Lời một người lính Nga[113]
|
“ | Lòng can trường và điềm tĩnh của người Nga trong lần này khỏi phải nói; nó vượt lên tất cả mọi thứ mà ai đó đã nghe về một lực lượng dũng mãnh nhất. Tuy đạn pháo của người Phổ triệt hạ mọi hàng ngũ quân Nga, nhưng không hề các một người lính nào có dấu hiệu nản chí, hay muốn bỏ cuộc, và những lỗ hổng của hàng thứ nhất luôn được hàng hai và quân dự bị bù đắp. | ” |
“ | Như đối với Bộ Binh Phổ, nó siêu việt hơn tất cả mọi quy tắc. Sức mạnh của quân Phổ nằm ở tiến công... Trẫm thiết nghĩ rằng quân Phổ, được một nhân vật quyết đoán dẫn đầu, sẽ dễ dàng đánh lui một [thảm họa], đặc biệt là nếu vị tướng ấy biết giữ vững nguyên liệu của quân Dự bị của ông. | ” |
—Câu nói của Friedrich II Đại Đế, qua đó chúng ta hiểu được bí quyết thắng trận của ông tại Zorndorf (1758) và Torgau (1760)[116]
|
Cũng giống như chiến thắng quyết định của đội Kỵ Binh Hasdrubal trong trận quyết chiến ở Cannae, hoặc là chiến thắng chính Quân đội Phổ dưới thời Friedrich II Đại Đế trong trận thư hùng khốc liệt ở Torgau vào năm 1760, nhà vua nước Phổ trong trận tranh hùng này đã thành công trong việc bao bọc hậu binh và các cánh quân địch, đánh tan tác địch.[46] Sau đại thắng lừng vang, ông ngự bút thư gửi cho Hoàng tỷ của mình là Công chúa Wilhelmina (làm vợ Bá tước xứ Bayreuth), rằng ông "chìm ngập trong niềm hân hoan sau khi đã giành được một chiến thắng vĩ đại vào ngày 25 tháng 8, khi 3 vạn giặc Nga bị tiêu diệt". Tuy nhiên, trận này cũng đem lại mối lo sợ cho ông. Tuy ông hãy còn "dị ứng" với người Nga. Rõ ràng, ông bắt đầu lo lắng về "những tên cướp ác độc và khét tiếng" mà ông đã giao chiến.[128] Chiến thắng oanh liệt của ông thể hiện hiệu quả rất cao của những 'chuyển động bước ngoặt khiến cho đội quân hùng dũng của ông bao bọc và xé nát quân Nga thành trăm mảnh, tiếp nối những chiến thắng rực rỡ như Praha (1757) và Leuthen (1757) của phương thức cơ động này và còn giúp cho vua Phổ loại trừ hoàn toàn được nước Nga khỏi chiến dịch năm 1758. Thậm chí trong trận thắng lớn ở Zorndorf, chuyển động bước ngoặt còn mạnh mẽ hơn ở trận đại thắng Leuthen trước kia.[46] Vị Đại Đế nước Phổ, với chiến thắng tại Zorndorf đánh tan quân Nga, đã giữ vững non sông.[23] Cả châu Âu khi ấy vô vàn ngưỡng mộ, vì ông là người lãnh đạo tài năng nhất của cả châu lục này trong suốt thời kỳ ấy.[28]
Thậm chí nhà sử học Liên Xô có tinh thần dân tộc là Frumenkov lại còn coi trận huyết chiến Zorndorf là một "chiến thắng của người Nga", trong khi nhà sử học người Anh là Christopher Duffy thì có quan điểm rằng trận này là bế tắc.[136] Cuốn Warfare: A Chronological History tuy ghi hai trận Zorndorf và Hochkirch - hai trận chiến lớn nhất của chiến cuộc năm 1758 - là hai trận tàn sát bế tắc, nhưng đã củng cố uy thế cho vua Phổ tiếp tục chiến tranh.[137] Nhà sử học Christopher M. Clark (người Úc) cũng có phân vân về kết quả của trận đánh[13], bất chấp Friedrich II Đại Đế đã thắng trận,[138] đánh lui được quân Nga và chấm dứt cuộc xâm lược Brandenburg của bọn họ (thắng lợi này cùng với trận quân Phổ đánh tan quân Thụy Điển trong năm ấy đã giữ yên vùng này).[33][139][140] Điều đó khiến người Nga bắt đầu trở nên nổi trội hơn hai đồng minh của họ là Áo và Pháp sau trận chiến kinh hoàng này: họ chiến đấu dũng mãnh, kiên cường hơn cả Quân đội Áo lẫn Pháp. Quân đội Nga đã nói chung cũng tàn nhẫn, hung bạo chẳng khác gì chế độ phong kiến Nga hoàng thời bấy giờ.[101] Do đó, trận huyết chiến Zorndorf có ý nghĩa to lớn hơn bất kỳ một trận đánh nào khác vào thế kỷ thứ 18 về mặt thể hiện sức chiến đấu dũng mãnh của quân Nga gây cho cả châu Âu phaỉ nể phục.[80] Thực chất, thấy quân Nga đại bại trong trận Zorndorf thì người Áo và Pháp không hề buồn đau gì vì họ không muốn nước Nga ngày một lớn mạnh sẽ làm ảnh hưởng đến quyền lợi riêng của họ tại Trung Âu.[141] Khi Friedrich II Đại Đế hỏi Seydlitz rằng có nên coi "giặc Nga" là lũ vô dụng không thì Seydlitz liền thẳng thừng chối bỏ quan điểm ấy, vì không một đội quân nào gây khó khăn cho quân Phổ bằng quân Nga trong cuộc Chiến tranh Bảy Năm.[80] Seydlitz - người anh hùng của chiến thắng Roßbach trước đó, hẳn là đã phải trải qua bao hy sinh xương máu trước khi đè bẹp quân Nga ở Zorndorf.[142] Bản thân Quốc vương sau khi thắng trận thì có lời bàn:[143] (câu nói này đã trở thành minh chứng trong trận huyết chiến ở Borodino vào năm 1812 khi quân Pháp của Hoàng đế Napoléon Bonaparte tiêu diệt vô số quân Nga nhưng không thể đánh cho Quân đội Nga ngã quỵ[144])
“ | Tàn sát bọn Nga thì dễ dàng hơn là đánh baị chúng. | ” |
—Friedrich II Đại Đế
|
“ | Họ dùng bọn Kalmuk, Thát Đát - đám người tàn ác đã hủy hoại và đốt phá. Nga là cường quốc đáng sợ nhất ở châu Âu. | ” |
—Friedrich II Đại Đế (viết vài năm sau)
|
“ | Đầu óc kiên quyết của Ngài đã cứu nguy cho toàn bộ mọi thứ... | ” |
—Andrew Mitchell
|
Chiến thắng rực rỡ ở Zorndorf cùng với những chiến tích vàng son ở Roßbach và Leuthen của Friedrich II Đại Đế đã được các Viện Hàn lâm quân sự lớn trên khắp thế giới học hỏi, như những chiến công huy hoàng và mẫu mực của một bậc đại kiệt tướng.[175][176] Bằng tài thao lược của ông, ông đại thắng quân Nga nối tiếp những trận phá quân Pháp và Áo, khiến ông trở nên bách chiến bách thắng trong mắt người đời, trở nên một "Người thắng trận Roßbach và Zorndorf" nổi danh.[28][64][177] Qua đó, chiến thắng Zorndorf nói riêng - được xem là một trong những thảm họa đúng vào những năm tháng huy hoàng của Quân đội Nga[178] - và cả chiến dịch năm 1758 một lần nữa chứng tỏ thiên tài chiến lược của ông và sức chiến đấu mạnh mẽ của các chiến binh dưới ngọn cờ của ông, sau đại thắng ở Leuthen, và góp phần làm nên danh sách hàng loạt thắng lợi vẻ vang của ông kể từ đầu cuộc chiến.[18][35] Ông đã giành được hàng loạt thắng lợi huy hoàng như ba trận chiến này mặc dù bị áp đảo nghiêm trọng về quân số.[179] Nhìn chung, thắng lợi to lớn và đẫm máu ở Zorndorf kết hợp với hai đại thắng trước được xem là một chiến dịch cầm cự của vua Phổ, chứ không chỉ nêu cao danh tiếng của ông như là một nhà chỉ huy quân sự tài năng.[180] Với đại thắng của ông thì trận chiến Zorndorf phá Nga quả thật là một trận đánh hiếm có trong thời kỳ cận đại, mà quân Kỵ binh chiến đấu dũng mãnh đến mức phi thường.[67][84] Trong khi ba chiến thắng ấy đã trở nên gắn bó với cơ cấu quân sự của Nhà nước phong kiến Phổ thưở đó,[181] sự đứng vững của ông trên bãi chiến trường Zorndorf, sẵn sàng xả thân vì đất nước, đã được xem là một biểu tượng cho tình đoàn kết dân tộc Đức[182]. Bên cạnh ông, một vị cứu tinh không thể thiếu được khác của Quân đội Phổ trong trận đánh này chính là Vương công Moritz, với chiến công đánh lùi cuộc truy kích của người Nga.[44][183] Đây là vị Thống chế kiệt xuất chẳng kém các anh trai của ông, cũng như cha quá cố của ông là Vương công Leopold I xứ Anhalt Dessau; ông có công lớn trong việc khích lệ ba quân chiến đấu, được Quốc vương khen ngợi: "Vương công Moritz, can trường chẳng kém thanh gươm của ông, là một con người lạ thường. Không có ngày nghỉ nào đối với ông ấy tốt hơn một cuộc chiến chinh".[48] Pháo Binh là lực lượng đóng góp cho các cuộc tấn công của quân Phổ hiệu quả hơn, và nếu không có họ thì hẳn là đợt tấn công cuối cùng của Dohna sẽ tiêu tùng luôn. Những Sĩ quan Pháo binh coi nhiệm vụ của họ là một khoa học và họ thường hoán chuyển vị trí liên tục để tránh bị thất vọng những tính toán kỹ lưỡng của họ[80] Song, khi nhận định về chiến thắng vang lừng này thì Seydlitz xét: "Đức Vua! Chính Đức Vua mới là người duy nhất thắng trận này". Ông nói cũng không sai. Nhà vua Friedrich II Đại Đế - với tài mưu lược của mình - đã tổ chức cuộc hành binh tuyệt vời về Zorndorf để đánh Nga. Là một vị vua nhạy bén, ông vượt qua sông Oder ngay cả khi quân Nga chưa thể nắm rõ sự tiến quân của người Phổ.[84] Tuy cuộc hành binh này dài và gian nan, quân Phổ hủy diệt quân thù nhiều hơn là bị tổn thương, mang lại thắng lợi oanh liệt cho nhà vua. Chiến công ấy đã chứng tỏ sự năng động và quyết đoán đến vô song của ông trong suốt tháng 8 năm 1758.[184] Do đó, Nhà vua - có nhẽ là người sáng lập ra chủ nghĩa quân phiệt Phổ[98] - đóng vai trò không thể thiếu đối với thắng lợi vẻ vang này: trận đánh đã ghi dấu ông rất sâu đậm, công lao của ông mang lại chiến thắng cho người Phổ là hoàn toàn không nhỏ.[47][56] Nhờ có năng lực và sự nhanh trí đến phi thường của ông, các Sĩ quan và chiến sĩ dễ dàng nỗ lực lại sau bước đầu không thành, để rồi đánh đuổi cái đội quân mà ông hay gọi là "quân man tộc".[7][80] Nhà vua đau buồn trước những mất mát của ba quân trong trận chiến này, trong số đó một viên sủng thần của ông là phụ tá Von Oppen (giữ chức Flügel-Adjutant) có đến 27 vết thương và hy sinh. Nhà vua từng sai Oppen gửi thông điệp cho Seydlitz nhưng Oppen không thể nào quay trở lại. Oppen được quấn một cái mền lên người và khiêng vào đại ban doanh của nhà vua, trong khi ông phải che giấu nỗi xót xa cho người trung thần xấu số này.[9] Tuy nhiên, vào ngày 28 tháng 8 năm 1758, Quốc vương triệu viên thư lại Henri Alexandre de Catt đến chầu. Ông vẫn điềm nhiên thuật lại trận chiến đấu cho Catt. Vua tôi giao tiếp thân mật với nhau và qua đó nêu lên cái bùi mù ghê rợn của chiến tranh: khi nhà vua hỏi: "Đây là một ngày ghê gớm! Ái Khanh có biết chuyện gì đã xảy ra chứ?" thì viên thư lại tâu: "Khải bẩm Bệ hạ, Hạ Thần thấu hiểu về cuộc hành quân ban đầu, và những kế hoạch đầu tiên cho trận chiến. Nhưng mọi thứ khác đều qua mắt Thần. Thần chẳng thể biết gì về nhiều chuyển động khác". Nhà vua ân cần phán: "Bạn hiền ạ, Khanh không phải là người duy nhất. Hãy bình tĩnh, hẳn Khanh không phải là người duy nhất".[9] Ông đã hứa sẽ kể cho Catt nghe về binh thư và ông hiếm khi quên việc này. Quân vương trêu Catt: "Aí Khanh có thấy bậc đế vương nào chuyên sâu bằng Ta không?" Ông cũng hài lòng với sách lược của mình trong trận thắng tại Zorndorf.[56] Nhưng khi Catt nghi ngờ rằng Nhà vua không bằng lòng với chiến thắng này ông có lý giải:[9]
“ | Mọi thứ sẽ mất hết, hỡi bạn hiền, nhưng nhờ có dũng tướng Seydlitz và lòng can trường của quân cánh hữu của Ta, đặc biệt là những Trung đoàn do hiền đệ của Ta [Prinz von Preussen, 18] và Forcade [23] chỉ huy. Trẫm nói cho Ái Khanh biết, họ đã giải nguy cho đất nước và Trẫm sẽ luôn cảm tạ họ chừng nào niềm huy hoàng mà họ đạt được trong ngày hôm ấy sẽ còn mãi. | ” |
—Friedrich II Đại Đế
|
Vào nửa cuối thế kỷ thứ XIX, sau khi Thủ tướng Đức là Otto von Bismarck bị Hoàng đế (Kaiser) Wilhelm II sa thải, ông từng nói: "Chúng ta hãy hy vọng rằng trong cơn khủng hoảng Hoàng đế sẽ dũng cảm và sẵn sàng hy sinh như Friedrich II Đại Đế ở Zorndorf, Hochkirch và Kunersdorf,".[193] Trong cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất, Quân đội Đức dưới quyền Thống chế Paul von Hindenburg đã đánh bại quân Nga trong nhiều trận vẻ vang hơn hẳn chiến thắng của vua Phổ ở trận Zorndorf - nhưng xét ra thì tình hình của Friedrich II Đại Đế trước trận thắng tại Zorndorf bất lợi hơn nhiều so với tình thế quân Đức trên Mặt trận phía Đông của cuộc Đại chiến.[194] Ngoài ra, dù hai trận thư hùng ác liệt ở Zorndorf (1758) và Kunersdorf (1759) được xem là hai trận đánh khó nhọc nhất trong những trận chiến chứng tỏ thiên tài quân sự của Friedrich II Đại Đế đánh bại cả liên quân chống Phổ (mặc dù đều bộc lộ đại tài dụng binh của ông xét về bối cảnh của thời đại), sau hai trận chiến đó thì quân Nga không bao giờ dám chiến đấu trực tiếp với vua Phổ nữa.[154][195][196]
Những gì sau đó
Viên thư lại của vua Phổ là Henri Alexandre de Catt có miêu tả cảnh một tên lính trợ chiến người châu Á của quân Nga bị quân Phổ bắt giữ:[197]“ | Một vị Tướng gây con quỷ xấu số này chú ý. Hắn tiến đến và nhào vào nói với ông bằng những lời lẽ mà loài người chẳng thể hiểu được. Thấy một hình thượng đeo ở cổ của hắn, vị Tướng vươn tay tới dùng gậy thọc vào nó. Tên tù binh ôm chặt hai bàn tay của hắn vào đầu cái gậy, vì nghĩ rằng ông muốn tống cổ vị thánh quan thầy của hắn ra khỏi hắn. Điều này khiến cho vị Tướng nổi cơn thịnh nộ, và ông đánh dữ dội vào tay hắn đến mức chúng sưng lên và biến thành màu đen. Tên Kalmykia đó vẫn đứng vững, và giữ tay vào hình vị Thánh của hắn trong khi bằng đôi mắt đẫm lệ nhìn chằm chằm vào vị Tướng đã tra tấn hắn quá dã man. Vị Tướng quá căm giận đến mức ông ấy liên tiếp giáng những đòn đánh chí mặt vào khuôn mặt hắn, làm cho máu me bao phủ toàn bộ mặt hắn. Tôi bật thốt lên khi thấy cảnh tượng này, và hỏi vị Tướng rằng phải chăng những hành động ấy nhằm công kích những tên Cozak và Kalmykia vì sự man rợ của hắn. Tôi nghĩ rằng có những người còn man rợ hơn. | ” |
—Henri Alexandre de Catt
|
“ | Trẫm thật đa tạ với nhà ẩn dật chốn Les Délices (tức Voltaire bạn thân của vua), vì ông để tâm đến những cuộc phiêu lưu của Đông Kisốt của phương Bắc (ám chỉ chính vua). Đông Kisốt này sống đời ngao du của một nghệ sĩ hài, khi thì diễn ở một nhà hát, lúc thì ở nơi khác, đôi khi bị huýt sáo chê bai, đôi lúc được vỗ tay tán thưởng. Vở diễn cuối cùng của anh là Thébaïde (một vở bi kịch của Jean Racine mà mọi nhận vật chính đều chết); thật ít người ở lại để tắt đèn cầy... | ” |
“ | Từ những gì Ta thấy vào ngày 25 tháng 8, Ta phải khuyên em nên áp đặt kỷ cương chặt chẽ vào lực lượng Bộ Binh. Hãy nhớ lời Ta nói, và làm cho họ sợ đòn roi. Và hãy để cho các binh sĩ của em sát cánh bên mọi khẩu đại bác mà em có thời gian thu thập, không kể đường kính nòng súng ra sao. | ” |
—Friedrich II Đại Đế
|
Ngoài ra, chính chiến thuật "đánh xiên" mà ông đã áp dụng trong trận thư hùng long trời lở đất ở Zorndorf,[212] đã gặt hái thành công ở mức độ nhỏ hơn trong trận long hổ tranh hùng ở Kunersdorf, và dần dần gặp phải bao vấn đề trục trặc. Một phần lớn là do quân Áo đã đổi mới chiến thuật của họ, qua đó dễ dàng tiếp cận và đánh bại chiến thuật "đánh xiên".[213] Chính vì thế, trong năm 1762 Friedrich II Đại Đế một lần nữa huy hoàng chiến thắng kẻ thù nhờ có những chiến thuật khác hẳn, chứ không còn là "đánh xiên" nữa.[214] Về sau, trong cuộc Chiến tranh Nga-Thổ Nhĩ Kỳ (1877–1878), có tư liệu gọi chiến thắng của quân Ottoman trong trận Plevna lần thứ ba là thất bại nặng nề nhất của quân Nga kể từ sau khi bị Friedrich II Đại Đế đánh tan tác trong trận Zorndorf này.[215]
Xét duyệt ba quân
Vào năm 1760, Nhà vua Friedrich II Đại Đế tiến hành thăng quan giáng tước cho các Trung đoàn của ông. Sau đây là những Trung đoàn Bộ Binh đã chiến đấu trong trận đại thắng Zorndorf. Dấu hoa thị thể hiện những Trung đoàn đã giao chiến mãnh liệt, góp phần đến thắng lợi của nhà vua:[91]- Trung đoàn Bộ Binh số 2 của Kanitz (*): chiến đấu ngoan cường, đặc biệt là cho một Trung đoàn Đông Phổ.
- Trung đoàn Bộ Binh số 4 của Rautter: bị quân Nga đánh lùi trong trận Gross-Jägersdorf và thảm bại tại Zorndorf. Trung đoàn Trưởng là Rautter bị thất sủng vì những thất bại này.
- Trung đoàn Bộ Binh số 7 của Bevern (*): chiến đấu xuất sắc trong các trận Kolín và Zorndorf, "mang lại vinh quang cho Vương triều Brandenburg".
- Trung đoàn Bộ Binh số 11 của Below: chiến đấu dũng mãnh trong trận Kolín nhưng tồi tệ trong các trận Zorndorf và Maxen.
- Trung đoàn Bộ Binh số 14 của Lehwadt: chịu nhiều mất mát trong các trận Gross-Jägersdorf và Kunersdorf.
- Trung đoàn Bộ Binh số 16 của Dohna: một Trung đoàn Bộ Binh Đông Phổ đã chịu tổn thất lớn trong các trận Zorndorf và Kunersdorf, Nhà vua không ưng vì vài lý do.
- Trung đoàn Bộ Binh số 18 của Hoàng thân nước Phổ (tức Heinrich): "Trẫm có được vận may nhờ vào những Trung đoàn này... Trẫm không thể làm gì với những đội quân như thế". Chiến đấu hiển hách trong tất cả mọi trận đánh, điển hình là trận chiến Zorndorf.
- Trung đoàn Kỵ Binh số 2 (Hoàng thân nước Phổ): chiến đấu không tốt lắm trong trận Kolín, bị quân Áo đánh lùi. Nhưng chiến đấu xuất sắc trong trận đánh Zorndorf này.
- Trung đoàn Kỵ Binh số 5 (Bá tước Friedrich): Chiến đấu mãnh liệt trong các trận chiến tại Kunersdorf, Liegnitz và Torgau.
- Trung đoàn Kỵ Binh số 8 (Seydlitz): chiến đấu đặc biệt xuất sắc trong các trận chiến Kolín, Roßbach, Leuthen và Liegnitz.
- Trung đoàn Kỵ Binh số 10 (Hiến Binh): luôn luôn sát cánh với đội Cấm Vệ Quân. Chiến đấu siêu việt trong các trận đánh tại Roßbach, Zorndorf và Hochkirch.
- Trung đoàn Kỵ Binh số 11 (Leib-Karabiniers): chiến đấu uy dũng trong trận Zorndorf.
- Trung đoàn Kỵ Binh số 13 (Cấm Vệ Binh): một đơn vinh có tiếng tăm lầy lững trong xã hội đất nước. Chiến đấu rất xuất sắc trong các trận đánh tại Roßbach, Zorndorf và Hochkirch. Chỉ có 3 Sư đoàn tinh nhuệ.
- Trung đoàn Long Kỵ Binh số 1 (Norman): được khen ngợi và chiến đấu quả cảm đến mức phi thường trong mọi trận chiến. Chiến đấu xuất sắc nổi bật trong các trận Kolín, Leuthen và Liegnitz.
- Trung đoàn Long Kỵ Binh số 4 (Czettritz): là Trung đoàn vinh quang của các trận đánh Roßbach và Zorndorf.
- Trung đoàn Long Kỵ Binh số 6 (Schorlemer): mệnh danh là "Trung đoàn Porzellan", chiến đấu tích cực trong các trận Zorndorf và Kunersdorf.
- Trung đoàn Long Kỵ Binh số 7 (Plettenberg): chiến đấu đặc biệt mãnh liệt trong trận chiến Zorndorf.
- Trung đoàn Long Kỵ Binh số 8 (Alt-Platen): chiến đấu trong các trận Gross-Jägersdorf và Zorndorf, và đều uy dũng trong cả hai trận này.
- Trung đoàn Khinh Kỵ Binh số 2 (Zieten): còn gọi là đội "Hồng Khinh Kỵ", chiến đấu vũ dũng trong các trận đánh Praha, Zorndorf, Hochkirch và Torgau.
- Trung đoàn Khinh Kỵ Binh số 3 (Warnery): chiến đấu dũng mãnh trong trận Praha và đặc biệt uy dũng trong trận Liegnitz.
- Trung đoàn Khinh Kỵ Binh số 5 (Ruesch): còn mệnh danh là đội "Hắc Khinh Kỵ", chiến đấu lẫy lừng trong mọi cuộc chiến tranh. Các vị Sĩ quan đều giàu có và toàn bộ Trung đoàn đều chiến đấu ác liệt với địch quân.
Trong thi ca
Nhờ có những chiến công hiển hách đại phá quân Pháp trong trận Roßbach và quân Nga trong trận Zorndorf vào các năm 1757 - 1758, Friedrich II Đại Đế trở thành vị anh hùng dân tộc của người Đức:[216]- Sau đại thắng tại Zorndorf, thi sĩ người Đức là Johann Wilhelm Ludwig Gleim có viết "Bài thơ ca ngợi Thần nàng thơ chiến tranh", qua đó ông thể hiện bãi chiến trường khốc liệt đồng thời tôn vinh công đức cuả nhà vua Friedrich II Đại Đế lỗi lạc.[217]
- Chiến thắng của Friedrich II Đại Đế trong trận này cũng được thi sĩ Daniel Jenisch miêu tả trong bài thơ "Borussias" (Nước Phổ). Ông thể hiện nỗi thống khổ của các tử sĩ và gia quyến, đồng thời tôn vinh quân đội hai bên.[218][219]
- Tác giả người Đức là Otto zur Linde (1873 - 1938) khi viết về quá khứ đầy hy sinh của gia đình ông, có kể đến một vị tổ phụ đã ngã xuống trong một thời khắc chủ chốt của trận Zorndorf, khi ấy Friedrich II Đại Đế xua quân Kỵ binh ào ạt tấn công và đại phá quân Nga.[220]
Chú thích
- ^ a ă â b c d đ e Franz Theodor Kugler, History of Frederick the great, from the Germ. by E.A. Moriarty, các trang 380-383.
- ^ a ă â b Baron Thomas Babington Macaulay Macaulay, Life of Frederick the Great, trang 209
- ^ a ă â S. Fischer-Fabian, Prussia's glory: the rise of a military state, trang 241
- ^ George Richard Potter, The New Cambridge modern history, trang 474
- ^ a ă Simon Millar, Adam Hook, Zorndorf 1758: Frederick Faces Holy Mother Russia, Bìa sau
- ^ a ă â b c Robert A. Doughty, Warfare in the Western World: Military operations from 1600 to 1871, trang 97
- ^ a ă â Soterios Nicholson, War or a united world, trang 179
- ^ a ă â b c Giles MacDonogh, Frederick The Great, các trang 275-276.
- ^ a ă â b c d đ e ê g h i k l m n o ô ơ p q r s t u ư v x y aa aă aâ ab ac ad ađ ae aê ag ah ai ak al am an Christopher Duffy, Frederick the Great: A Military Life, các trang 165-167.
- ^ a ă â b c d đ C.T. Atkinson, A history of Germany, 1715-1815, các trang 238-240.
- ^ a ă â b c d Amos Dean, The history of civilization, trang 251
- ^ a ă â b R. Van Bergen, The History of Russia, trang 154.
- ^ a ă â b c Christopher M. Clark, Iron kingdom: the rise and downfall of Prussia, 1600-1947, trang 203
- ^ Adolf Schottmueller, Die Schlacht bei Zorndorf: Eine Jubelschrift Mit 1 Schlachtplan, trang 67
- ^ a ă Hamish M. Scott, The emergence of the Eastern powers, 1756-1775, trang 49
- ^ a ă Sidney Whitman, John Robert McIlraith, Austria, trang 249
- ^ a ă John Paxton, Encyclopedia of Russian history: from the Christianization of Kiev to the break-up of the U.S.S.R., trang 452
- ^ a ă â Elihu Rich, Francis Lister Hawks, Appletons' cyclopædia of biography: embracing a series of original memoirs of the most distinguished persons of all times..., trang 385.
- ^ a ă â b c d đ David R. Stone, A military history of Russia: from Ivan the Terrible to the war in Chechnya, các trang 70-73. James Mackinnon, The growth and decline of the French monarchy, trang 657.
- ^ a ă John Childs, Armies and warfare in Europe, 1648-1789, trang 165
- ^ a ă â b George Agar-Ellis Dover (1st baron), The life of Frederic the Second, king of Prussia, Tập 2, các trang 98-100.
- ^ a ă Europe from 800 to 1789, trang 247
- ^ a ă J. O. Lindsay, The New Cambridge Modern History: The old regime, 1713-63, edited by J. O. Lindsay, trang 21
- ^ a ă Emma Willard, A system of universal history, in perspective: accompanied by an atlas, exhibiting chronology in a picture of nations, and progressive geography in a series of maps, trang 315
- ^ a ă â b James Grant, British heroes in foreign wars, trang 274
- ^ a ă â Henry White, Elements of universal history, trang 586
- ^ a ă Arthur Donald Innes, A general sketch of political history from the earliest times, trang 333
- ^ a ă â b Makers of Europe, trang 202
- ^ a ă Christopher Kelly, A new and complete system of universal geography, or, An authentic history and interesting description of the whole world, and its inhabitants: comprehending a copious and entertaining account of all the empires, kingdoms, states, republics, and colonies, of Asia, Africa, America, and Europe...: with faithful accounts of all the new discoveries, that have been made by the most celebrated navigators of various nations...: to which will be subjoined, a useful compendium of astronomy, with remarks on the use of the globes, &c.: the whole concluding with a copious index, upon a plan entirely new, and designed to form a general gazetteer of the world, trang 396
- ^ a ă â b Joseph Thomas, Universal pronouncing dictionary of biography and mythology, Tập 1, trang 963
- ^ a ă Mary McArthur Thompson Tuttle, International ties, Tập 1-2
- ^ a ă â b Wilhelm Leeb (Ritter von), Hugo Friedrich Philipp Johann Freytag-Loringhoven (Freiherr von), Waldemar Erfurth, Roots of Strategy., các trang 184-198.
- ^ a ă Arnold Hermann Ludwig Heeren, A manual of the history of the political system of Europe and its colonies: from its formation at the close of the fifteenth century, to its re-establishment upon the fall of Napoleon, trang 243
- ^ a ă The French Monarchy, trang 220
- ^ a ă The Encyclopædia Britannica, or, Dictionary of arts, sciences, and general literature, Tập 18, trang trang 653
- ^ a ă William Henley Jervis, The student's France, a history of France from the earliest times to the establishment of the second empire in 1852, trang 501
- ^ a ă Eric Dorn Brose, The Kaiser's Army: The Politics of Military Technology in Germany During the Machine Age, 1870-1918
- ^ a ă Andrew Roberts (ed), The Great Commanders of the Early Modern World 1567-1865: 1583 to 1865
- ^ a ă Montague Weekley, Thomas Bewick, trang 128
- ^ a ă â Trevor Nevitt Dupuy, Curt Johnson, David L. Bongard, The Harper encyclopedia of military biography, trang 259
- ^ a ă Michael Lee Lanning, The military 100: a ranking of the most influential military leaders of all time, trang 47
- ^ a ă â Frederick William Longman, Frederick the Great and the seven years' war, các trang 143-144.
- ^ George Hooker Colton, James Davenport Whelpley, The American review: a Whig journal of politics, literature, art, and science, Tập 2; Tập 9, trang 635
- ^ a ă â b c d đ e ê g h Simon Millar, Adam Hook, Zorndorf 1758: Frederick Faces Holy Mother Russia, các trang 62-70.
- ^ Richard Ernest Dupuy, Trevor Nevitt Dupuy, The encyclopedia of military history: from 3500 BC to the present, trang 672
- ^ a ă â b c d đ e ê g h i k l m n Alfred Schlieffen (Graf von), United States. Command and General Staff School, Fort Leavenworth, Cannae, các trang 10-11.
- ^ a ă â J. Nazareth, Creative Thinking in Warfare, trang 62
- ^ a ă â b c d đ e ê g h i k l m n o ô ơ p q r s t David Fraser, Frederick the Great: King of Prussia, các trang 393-395.
- ^ Archer Jones, The art of war in the Western world, trang 303
- ^ Margaret Leland Goldsmith, Frederick the Great, trang 179
- ^ a ă â b Gerhard Ritter, Frederick the Great: a historical profile, trang 116
- ^ a ă John Frederick Charles Fuller, The decisive battles of the Western World, and their influence upon history, Tập 2, trang 214
- ^ a ă â b Jay Luvaas, Frederick the Great on the Art of War, trang 7
- ^ a ă â J. O. Lindsay, The New Cambridge Modern History: The old regime, 1713-63, edited by J. O. Lindsay, các trang 472-474.
- ^ a ă John Morley, Oliver Cromwell, trang 141
- ^ a ă â David Fraser, Frederick the Great: King of Prussia, trang 396
- ^ Christopher Duffy, Frederick the Great: A Military Life, trnag 320
- ^ a ă â b c Robert Michael Citino, The German way of war: from the Thirty Years' War to the Third Reich, các trang 96-100.
- ^ a ă Emory Adams Allen, History of civilization, Tập 4, trang 128
- ^ a ă Jared Sparks, Edward Everett, James Russell Lowell, Henry Cabot Lodge, The North American review, trang 224
- ^ a ă Emil Reich, Success among nations, trang 128
- ^ a ă Philip Henry Stanhope Stanhope (Earl), History of England from the peace of Utrecht to the peace of Paris, Tập 2, trang 371
- ^ a ă William Guthrie, John Knox, A new geographical, historical, and commercial grammar..., trang 473
- ^ a ă â b Simon Millar, Adam Hook, Zorndorf 1758: Frederick Faces Holy Mother Russia, các trang 85-88.
- ^ a ă Albert Seaton, Frederick the Great's Army, trang 29
- ^ a ă Theodor Schieder, Sabina Berkeley, Hamish M. Scott, Frederick the Great, trang 130
- ^ a ă Esther Singleton, A. D. 1704, trang 1627
- ^ a ă â b Christopher Duffy, Frederick the Great: A Military Life, các trang 155-156.
- ^ a ă â b c d đ e ê g h i Franz Theodor Kugler, History of Frederick the great, from the Germ. by E.A. Moriarty, các trang 374-379.
- ^ a ă Warren H. Carroll, Anne Carroll, The Revolution Against Christendom: A History of Christendom, trang 70
- ^ a ă â b c d Thomas Carlyle, History of Friedrich II of Prussia: called Frederick the Great, Tập 5, các trang 294-297.
- ^ a ă â b c d đ e ê g h i k l m Thomas Campbell, Frederick the Great and His Times Part Three, các trang 183-189.
- ^ a ă â b c d đ e David Fraser, Frederick the Great: King of Prussia, các trang 388-389.
- ^ Simon Millar, Adam Hook, Rossbach and Leuthen 1757: Prussia's Eagle Resurgent, trang 12
- ^ S. Fischer-Fabian, Prussia's glory: the rise of a military state, trang 253
- ^ a ă Tony Le Tissier, The Siege of Kurstrin: Gateway to Berlin, 1945, trang 3
- ^ Simon Millar, Adam Hook, Zorndorf 1758: Frederick Faces Holy Mother Russia, trang 46
- ^ Christopher Duffy, The military experience in the age of reason, trang 75
- ^ a ă â b David Fraser, Frederick the Great: King of Prussia, trang 391
- ^ a ă â b c d đ e ê Dennis E. Showalter, The wars of Frederick the Great, các trang 219-220.
- ^ a ă â b c d đ e ê g h i k Robert B. Asprey, Frederick the Great: the magnificent enigma, các trang 496-499.
- ^ a ă â Daniel Marston, The Seven Years' War, các trang 52-54.
- ^ a ă â b Ronald Hamilton, Frederick the Great, trang 72
- ^ a ă â b c d đ e ê Antoine Henri Jomini (baron de), Treatise on grand military operations: or, A critical and military history of the wars of Frederick the Great, as contrasted with the modern system. Together with a few of the most important principles of the art of war, Tập 1 các trang 377-387.
- ^ a ă David Fraser, Frederick the Great: King of Prussia, trang 390
- ^ a ă â Nancy Mitford, Frederick the Great, trang 221
- ^ André Corvisier, John Childs, A dictionary of military history and the art of war, trang 458
- ^ David Fraser, Frederick the Great: King of Prussia, trang 60
- ^ Eva Giloi, Monarchy, Myth, and Material Culture in Germany 1750-1950, trang 41
- ^ Christopher Duffy, The military experience in the age of reason, trang 256
- ^ a ă â Simon Millar, Adam Hook, Zorndorf 1758: Frederick Faces Holy Mother Russia, trang 22
- ^ Robert Michael Citino, The German way of war: from the Thirty Years' War to the Third Reich, trang 94
- ^ a ă â b c Thomas Carlyle, History of Friedrich II of Prussia: called Frederick the Great, Tập 5, các trang 332-335.
- ^ a ă â Simon Millar, Adam Hook, Zorndorf 1758: Frederick Faces Holy Mother Russia, trang 61
- ^ Trevor Nevitt Dupuy, The military life of Frederick the Great of Prussia, trang 123
- ^ a ă Gunther Erich Rothenberg, The art of warfare in the age of Napoleon, các trang 13-17.
- ^ James Charles Roy, The vanished kingdom: travels through the history of Prussia, trang 126
- ^ a ă â b Roman Johann Jarymowycz, Cavalry from hoof to track, trang 70
- ^ Simon Millar, Adam Hook, Zorndorf 1758: Frederick Faces Holy Mother Russia, trang 42
- ^ Simon Millar, Adam Hook, Zorndorf 1758: Frederick Faces Holy Mother Russia, trang 14
- ^ a ă â b c d đ Russell Frank Weigley, The Age of Battles: The Quest for Decisive Warfare from Breitenfeld to Waterloo, các trang 188-189.
- ^ a ă â b c d đ e ê g h i k l m n o ô ơ Thomas Carlyle, History of Friedrich II of Prussia, called Frederick the Great, Tập 11, các trang 23-24.
- ^ a ă â Simon Millar, Adam Hook, Zorndorf 1758: Frederick Faces Holy Mother Russia, các trang 71-74.
- ^ Christopher Duffy, The military experience in the age of reason, trang 251
- ^ Trevor Nevitt Dupuy, Understanding defeat: how to recover from loss in battle to gain victory in war, trnag 20
- ^ a ă George Agar-Ellis Dover (1st baron), The life of Frederic the Second, king of Prussia, Tập 2, các trang 99-100.
- ^ a ă â b c d đ Johann Wilhelm von Archenholz, The history of the Seven Years War in Germany, các trang 164-170.
- ^ a ă â b c d đ e Franz Kugler, The pictorial history of Germany: during the reign of Frederick the Great: comprehending a complete history of the Silesian campaigns, and the seven years war, các trang 381-384.
- ^ a ă â b Jean-Charles Laveaux, Frederick II (King of Prussia), The life of Frederick the Second, king of Prussia: To which are added observations, authentic documents, and a variety of anecdotes, các trang 177-178.
- ^ a ă Trevor Nevitt Dupuy, The military life of Frederick the Great of Prussia, Nguyên văn: "He had learned a lot about the Russians, and was satisfied to see their threat ended, without having to fight another... Frederick singled Seydlitz out for special praise. He stated publicly that the Prussian victory had been due".
- ^ George Peabody Gooch, Frederick the Great: the ruler, the writer, the man, trang 257
- ^ a ă â Richard Ernest Dupuy, Trevor Nevitt Dupuy, HarperCollins (Firm), The Harper encyclopedia of military history: from 3500 BC to the present, trang 735
- ^ a ă â b c d Archer Jones, The art of war in the Western world, các trang 302-303
- ^ a ă â b Christopher Duffy, Frederick the Great: A Military Life, trang 295
- ^ Analytical review: or history of literature, domestic and foreign, on an enlarged plan, Tập 2, trnag 565
- ^ Trevor Nevitt Dupuy, The military life of Frederick the Great of Prussia, trang 80
- ^ a ă â Spencer Tucker, A global chronology of conflict: from the ancient world to the modern Middle East, Tập 2, trang 776
- ^ a ă Larry H. Addington, The patterns of war through the eighteenth century, trang 130
- ^ Frederick Kagan, The End of the Old Order: Napoleon and Europe, 1801-1805, trang 222
- ^ Robert Michael Citino, The German way of war: from the Thirty Years' War to the Third Reich, trang 35
- ^ Walter E.] [Day, The campaign of Gettysburg, trang 182
- ^ John Frederick Charles Fuller, The Conduct of War, 1789-1961: A Study of the Impact of the French, Industrial, and Russian Revolutions on War and Its Conduct, trang 2
- ^ M.E. THALHEIMER, A MANUAL OF MEDIAEVAL AND MODERN HISTORY, trang 337.
- ^ André Corvisier, John Childs, A dictionary of military history and the art of war, trang 192
- ^ Robert Michael Citino, The German way of war: from the Thirty Years' War to the Third Reich, các trang XVI-XVI.
- ^ James Charles Roy, The vanished kingdom: travels through the history of Prussia, trang 132
- ^ Jonathan R. Dull, The French Navy and the Seven Years' War, trang 124
- ^ a ă Franz A. J. Szabo, The Seven Years War in Europe: 1756-1763, các trang 168-169.
- ^ Christopher Duffy, Russia's military way to the West: origins and nature of Russian military power, 1700-1800, trang 91
- ^ a ă Angus Konstam, Russian Army of the Seven Years War (2), các trang 19-22.
- ^ Fred Anderson, Crucible of War: The Seven Years' War and the Fate of Empire in British North America, 1754-1766, trang 301
- ^ Edgar Sanderson, John Porter Lamberton, John McGovern, The world's history and its makers, Tập 5, trang 304
- ^ Alfred Schlieffen (Graf von), Robert T. Foley, Alfred von Schlieffen's military writings, tarang 229
- ^ David Fraser, Frederick the Great: King of Prussia, trang 372
- ^ Gerhard Ritter, Frederick the Great: a historical profile, trang 146
- ^ William C. Fuller, Strategy and Power in Russia 1600-1914, trang 480
- ^ Robin Cross, Warfare: A Chronological History, trang 123
- ^ Hans Delbruck, Delbrück's Modern Military History, trang 128
- ^ Robert Michael Citino, Death of the Wehrmacht: The German Campaigns of 1942, trang 2
- ^ Jeremy Black, Cambridge illustrated atlas, warfare: Renaissance to revolution, 1492-1792, trang 126
- ^ Claus Telp, The evolution of operational art, 1740-1813: from Frederick the Great to Napoleon, trang 18
- ^ W. Blackwood Ltd. (Edinburgh), Blackwood's Edinburgh magazine, Tập 22; Tập 28, trang 143
- ^ a ă Hamish M. Scott, The emergence of the Eastern powers, 1756-1775, các trang 44-49.
- ^ Roman Johann Jarymowycz, Cavalry from hoof to track, trang 83
- ^ Charles à Court Repington, The war in the Far East, 1904-1905, trang 492
- ^ The Poliltical Writings of Dr. Johnson, trang 137
- ^ Christopher Duffy, The military life of Frederick the Great, trang 162
- ^ Simon Millar, Adam Hook, Zorndorf 1758: Frederick Faces Holy Mother Russia, trang 49
- ^ Desmond Gregory, Napoleon's Jailer: Lt. Gen. Sir Hudson Lowe: A Life, trang 94
- ^ Arthur James Grant, The French monarchy (1483-1789), trang 230
- ^ Angus Konstam, Russian Army of the Seven Years War (1), trang 13
- ^ Jonathan B. A. Bailey, Field Artillery and Firepower, trang 112
- ^ John Keegan, Andrew Wheatcroft, Who's who in military history: from 1453 to the present day, các trang 101-103.
- ^ a ă â b Alfred Schlieffen (Graf von), United States. Command and General Staff School, Fort Leavenworth, Cannae, trang 298
- ^ Andrew Boyle, The Everyman encyclopædia, Tập 11, trang 403
- ^ George Park Fisher, Outlines of universal history: designed as a text-book and for private reading, trang 477
- ^ a ă Robert A. Pois, Philip Langer, Command failure in war: psychology and leadership, trang 10
- ^ a ă Philip J. Haythornthwaite, Invincible generals: Gustavus Adolphus, Marlborough, Frederick the Great, George Washington, Wellington, trang 133
- ^ Claus Telp, The evolution of operational art, 1740-1813: from Frederick the Great to Napoleon, các trang 17-18.
- ^ Hew Strachan, From Waterloo to Balaclava: Tactics, Technology, and the British Army, 1815-1854, trang 65
- ^ John Keegan, Andrew Wheatcroft, Who's who in military history: from 1453 to the present day, trang 270
- ^ Erich Manstein, Anthony G. Powell, Lost Victories, các trang 361-362.
- ^ Cavalry in Future War, trang 87
- ^ Gene Smith, Mounted Warriors: From Alexander the Great and Cromwell to Stuart, Sheridan, and Custer, trang 67
- ^ George Herbert Perris, Germany and the German emperor, trang 76
- ^ Peter Biegel, Booted and spurred: an anthology of riding, trang 134
- ^ George Ripley, Charles Anderson Dana (biên tập), The new American cyclopaedia: a popular dictionary of general knowledge, Tập 4, trang 640
- ^ Day Otis Kellogg, William Robertson Smith, The Encyclopaedia Britannica: latest edition. A dictionary of arts, sciences and general literature, Tập 2, trang 596
- ^ Arthur William Alsager Pollock, The United service magazine: with which are incorporated the Army and navy magazine and Naval and military journal, Tập 171, trang 597
- ^ John Childs, Armies and warfare in Europe, 1648-1789, trang 110
- ^ William Chambers, Robert Chambers, Chambers's journal, Tập 48, trang 251
- ^ Karl Marx, Eleanor Marx Aveling, Edward Aveling, The Eastern Question, trang 593
- ^ Richard K. Riehn, 1812: Napoleon's Russian campaign, trang 83
- ^ Day Otis Kellogg, William Robertson Smith, The Encyclopaedia Britannica: latest edition. A dictionary of arts, sciences and general literature, Tập 2, trang 611
- ^ Robert George Leeson Waite, The psychopathic god: Adolf Hitler, trang 309
- ^ Philip Alexander Prince, Parallel universal history, an outline of the history and biography of the world divided into periods, trang 433
- ^ Pennsylvania State Educational Association, Report of the Proceedings, trang 308
- ^ Edward Nevil Macready, A sketch of Suwarow, and his last campaign, trang 223
- ^ The Twentieth century, Tập 7-8, trang 134
- ^ George F. E. Rudé, Europe in the Eighteenth Century: Aristocracy and the Bourgeois Challenge, trang 228
- ^ The Illustrated naval and military magazine: A monthly journal devoted to all subjects connected with Her Majesty's land and sea forces, Tập 5, trang 333
- ^ Whitney Smith, Flags through the ages and across the world, trang 118
- ^ Christopher Duffy, Frederick the Great: A Military Life, trang 177
- ^ Simon Millar, Adam Hook, Zorndorf 1758: Frederick Faces Holy Mother Russia, trang 37
- ^ Norman Davies, Europe: A History, trang 648
- ^ Egon Friedell, Allan Janik, A Cultural History of the Modern Age: Baroque, Rococo and Enlightenment, các trang 215-216.
- ^ John Quincy Adams, Letters on Silesia: written during a tour through that country in the years 1800, 1801, trang 372
- ^ Charles S. Maier, The Unmasterable Past: History, Holocaust, and German National Identity, trang 116
- ^ Stephen Conway, War, state, and society in mid-eighteenth-century Britain and Ireland, trang 14
- ^ John Cannon, A Dictionary of British History.
- ^ Louis Leo Snyder, Ida Mae Brown, Frederick the Great; Prussian warrior and statesman, trang 142
- ^ Jay Luvaas, Frederick the Great on the Art of War, trang 156
- ^ Bernhard Bülow (Fürst von), Fritz August Voigt, Geoffrey Dunlop, Memoirs: Early Years and Diplomatic service, 1849-1897, trang 642
- ^ Arden Bucholz, Hans Delbrück & the German military establishment: war images in conflict, trang 90
- ^ Sir John Alexander Hammerton (biên tập), Peoples of All Nations, trang 438
- ^ William Milligan Sloane, The life of Napoleon Bonaparte, trang 267
- ^ Christopher Duffy, The military experience in the age of reason, trang 277
- ^ Bradley Allen Fiske, The art of fighting: its evolution and progress, with illustrations from campaigns of great commanders, trang 187
- ^ George Peabody Gooch, Frederick the Great: the ruler, the writer, the man, trang 199
- ^ Victor Duruy, John Franklin Jameson, Mabell Shippie Clarke Smith, A History of France, trang 498
- ^ David Pryde, European history in a series of biographies, trang 159
- ^ Johann Wilhelm von Archenholz, The history of the Seven Years War in Germany, trang 265
- ^ John Frederick Charles Fuller, A Military History of the Western World: From the defeat of the Spanish Armada, 1588, to the Battle of Waterloo, 1815, trang 214
- ^ Wilhelmine (Margravine, consort of Friedrich, Margrave of Bayreuth), Voltaire, Georg Horn, The Margravine of Baireuth and Voltaire, các trang 124-125.
- ^ David Fraser, Frederick the Great: King of Prussia, trang 415
- ^ Giles MacDonogh, Frederick The Great, trang 284
- ^ John Childs, Armies and warfare in Europe, 1648-1789, các trang 128-129
- ^ William Young, German Diplomatic Relations 1871-1945: The Wilhelmstrasse and the Formulation of Foreign Policy, trang 5
- ^ Edgar Sanderson, John Porter Lamberton, John McGovern, The world's history and its makers, Tập 5, trang 330
- ^ Christopher Duffy, Frederick the Great: A Military Life, trang 240
- ^ Christopher Duffy, Frederick the Great: A Military Life, trang 312
- ^ Gerhard Ritter, Frederick the Great: a historical profile, trang 107
- ^ Christopher Duffy, Frederick the Great: A Military Life, các trang 312-313.
- ^ Linas Eriksonas, Leos Müller, Statehood before and beyond ethnicity: minor states in Northern and Eastern Europe, 1600-2000, trang 171
- ^ The Academy, Tập 47, trang 292
- ^ Hagen Schulze, Deborah Lucas Schneider, Germany: A New History, trang 90
- ^ Christopher M. Clark, Iron kingdom: the rise and downfall of Prussia, 1600-1947, các trang 225-226.
- ^ Elisabeth Krimmer, Patricia Anne Simpson, Enlightened War: German Theories and Cultures of Warfare from Frederick the Great to Clausewitz, trang 48
- ^ Elisabeth Krimmer, Patricia Anne Simpson, Enlightened War: German Theories and Cultures of Warfare from Frederick the Great to Clausewitz, trang 60
- ^ Gene H. Bell-Villada, Borges and His Fiction: A Guide to His Mind and Art, trang 198
Đọc thêm
- Koch, H.W. A History of Prussia. Barnes & Noble, Inc., 1993. ISBN 0-88029-158-3
- Konstam, Angus. Russian Army of the Seven Years War, Part 1. Osprey Publishing, 1996. ISBN 1-85532-585-3.
- Millar, Simon và Hook, Adam. Zorndorf 1758: Frederick Faces Holy Mother Russia. Osprey Publishing, 2003. ISBN 1-84176-696-8.
Liên kết ngoài
Video yêu thích
http://www.youtube.com/user/hoangkimvietnam
Trở về trang chính
Hoàng Kim, hoangkim, hoangkimvietnam, Ngọc Phương Nam, Chào ngày mới Thung dung, Dạy và học, Cây Lương thực, Tin Nông nghiệp Việt Nam, Food Crops, Cassava in Vietnam, VietnamAfricaCassavaRice, Khát khao xanh, Dayvahoc,Học mỗi ngày, Danh nhân Việt , Food Crops News, Điểm chính, CNM365, Kim LinkedIn, KimTwitter, KimFaceBook Đọc lại và suy ngẫm, Việt Nam tổ quốc tôi, Tình yêu cuộc sống, Thơ cho con
No comments:
Post a Comment