Monday, August 4, 2014

Chào ngày mới 4 tháng 8

Vị trí của Burkina Faso
Ngày Tuần duyên Hoa KỳNăm 1965 – Hiến pháp Quần đảo Cook có hiệu lực, trao cho lãnh thổ này vị thế tự trị bên trong New Zealand. Năm 1969 – Thông qua nhà trung gian Jean Sainteny tại Paris, đại diện của Hoa Kỳ là Henry Kissinger và đại diện của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là Xuân Thủy bắt đầu các cuộc đàm phán hòa bình bí mật. Năm 1977 – Tổng thống Hoa Kỳ Jimmy Carter ký ban hành luật thành lập Bộ Năng lượng Hoa Kỳ. Năm 1984 – Đúng một năm sau khi lên nắm quyền bằng đảo chính quân sự, Tổng thống Thượng Volta Thomas Sankara đổi quốc hiệu thành Burkina Faso (hình).

Burkina Faso

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Burkina Faso
Burkina Faso (tiếng Pháp)
Flag of Burkina Faso.svg Burkina Faso COA.png
Quốc kỳ Huy hiệu
Vị trí của Burkina Faso
Khẩu hiệu
Unité, Progrès, Justice
(Tiếng Pháp: "Đoàn kết, tiến bộ, công lý")
Quốc ca
Une Seule Nuit
Hành chính
 • Tổng thống
 • Thủ tướng
Blaise Compaoré
Paramanga Ernest Yonli
Ngôn ngữ chính thức Tiếng Pháp
Thủ đô Ouagadougou
12°22′B, 1°31′T
Thành phố lớn nhất Ouagadougou
Địa lý
Diện tích 274.200 km² (hạng 72)
Diện tích nước ~0,1% %
Múi giờ UTC (UTC0)
Lịch sử
Độc lập
Ngày thành lập Ngày 5 tháng 8 năm 1960
Dân cư
Dân số ước lượng (2005) 13.925.313 người (hạng 63)
Dân số (2003) 13.228.460 người
Mật độ 51 người/km² (hạng 119)
Kinh tế
GDP (PPP) (2005) Tổng số: 16.83 tỷ Dollar Mỹ
HDI (2003) 0,317 thấp (hạng 175)
Đơn vị tiền tệ Franc CFA (XOF)
Thông tin khác
Tên miền Internet .bf

Bản đồ Burkina Faso
Burkina Faso (Tiếng Việt: Buốc-ki-na Pha-xô[1]) là một quốc gia nằm ở Tây Phi. Nó có biên giới với Mali về phía bắc, Niger về phía đông, Bénin về phía đông nam, TogoGhana về phía đông nam, và Côte d'Ivoire về phía tây nam. Trước đây gọi nước Cộng hòa Thượng Volta, sau đó tháng 4 năm 1984 tổng thống Thomas Sankara đổi tên gọi để có nghĩa "Đất những người đứng lên" trong tiếng Moré và Dioula, ngôn ngữ dân tộc chính của đất nước. Trong tiếng Moré, "Burkina" nghĩa là "Những người đàn ông vẹn toàn", còn trong tiếng Dioula "Faso" có nghĩa là "Cái nhà của cha". Đất nước này giành độc lập từ Pháp năm 1960. Sự bất ổn về chính thể đã xảy ra trong thời gian từ năm 1970 đến năm 1980. Cuộc bầu cử nhiều đảng phái đầu tiên được tổ chức vào những năm 1990. Mỗi năm hàng trăm nghìn nông dân nước này di cư sang Côte d’lvoireGhana tìm công việc. Họ được gọi là Burkinabé.

Lịch sử

Thời kỳ nguyên thủy

Giống như tất cả các xư phía tây của châu Phi, Burkina Faso có dân cư khá sớm. Từ khoảng năm 12.000 đến 5000 TCN, ở phía bắc của đất nước đã có những người đi săn và người hái lượm; những công cụ của họ (cái nạo, cái đục và mũi tên) đã được phát hiện vào năm 1973. Những người làm nông nghiệp đã đến cư trú ở nước này vào giữa 3600 và 2600 TCN, họ để lại những kiến trúc gây ấn tượng cho cả thời nay. Việc sử dụng đồ sắt, đồ gốm và đồ đá mài nhẵn phát triển vào thời kỳ giữa 1500 và 1000 TCN. Tinh thần cũng phát triển trong thời kỳ này thể thể hiện qua các di chỉ được tìm thấy trong các nơi chôn cất người chết.
Những di tích Dogon được tìm thấy trong trung tâm phía bắc, phía bắc và vùng tây bắc. Vào giữa thế kỷ 15 và thế kỷ 16 TCN, những chủ nhân của chúng đã rời bỏ vùng này và chuyển tới vùng vách đá đứng ở Bandiagara. Người ta đã phát hiện các bức tường cao tại các địa phương ở phía tây nam của Burkina Faso (cũng như trong Côte d'Ivoire). Nhưng hiện vẫn chưa biết chủ nhân của chúng là ai.
Burkina Faso là một vùng kinh tế rất quan trọng của đế quốc Songhai trong thế kỷ 15thế kỷ 16.

Từ thuộc địa tới độc lập


Nhà truyền thống ở đông nam Burkina Faso.
Sau một thập niên của sự giằng xé và cạnh tranh giữa AnhPháp, thông qua hiệp ước quy định đội quân viễn chinh dưới quân đội và những người tiên phong thuộc dân sự, trong năm 1896. Thực dân Pháp đánh thắng vương quốc Ouagadougou bắt buộc phải trở thành một nước bảo hộ thuộc Pháp. Vùng phía tây, nơi này một lực lượng người trị vì Samori Ture chống lại tình trạng các thế lực phức tạp, và vùng phía đông Pháp đã chiếm đóng và năm 1897 với các chiến dịch khác nhau. Vào khoảng năm 1898, lãnh thổ tương đương Burkina Faso hôm nay đã được chiến thắng, mặc dù điều khiển nhiều phần vẫn còn không ổn định. Pháp và Anh thỏa thuận ngầm ngày 14 tháng 6 năm 1898, chấm dứt sự tranh giành giữa hai quyền thuộc địa và cơ bản không để lại dấu vết đường biên giới giữa họ. Dựa trên Pháp đã đứng ngoài cuộc chiến tranh giành lại những cộng đồng địa phương và các thế lực chính trị tiếp tục cho đến chừng 5 năm. Vào năm 1904 đế quốc thuộc địa tây Phi của Pháp với phạm vi lớn được tổ chức lại, bây giờ phần lớn được bình định lãnh thổ của lòng chảo Volta được hợp nhất vào Upper-Senegal-Niger (Haut-Sénégal et Niger) thuộc địa tây Phi của Pháp (AOF). Thuộc địa vốn có của nó thủ phủ Bamako.
Những quân dịch từ lãnh thổ tham gia mặt trận châu âu của chiến tranh thế giới thứ nhất trong các tiểu đoàn bộ binh Senegalese (Tirailleurs sénégalais). Giữa năm 19151916 các vùng phía phía tây nơi mà bây giờ là Burkina Faso và Biên giới phía đông của Mali trở thành phạm vi hoạt động của một trong những lực lượng vũ trang quan trọng chống lại chính phủ thuộc địa (Biết như cuộc chiến tranh Volta-Bani). Chính phủ Pháp cuối cùng phải đàn áp phong trào, nhưng chỉ khi sau việc bị thất bại vì được huy động lực lượng quân viễn chinh lớn nhất của nó lịch sử thuộc địa bước sang trang. Lực lượng vũ trang đối lập cũng phá hoại phía bắc Sahelian, trong khi Tuareg và nhóm liên minh vùng Dori chấm dứt sự ngừng bắn của họ với chính phủ. Đồng thời cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc vào ngày 01 tháng 03 năm 1919, sợ hãi sự tái diễn đều đặn của nổi dậy bằng vũ trang và các cân nhắc kinh tế dẫn đến chính phủ thuộc địa phân ra lãnh thổ hiện thời là Burkina Faso từ Haut Sénégal et Niger nhằm tăng cường quản lý nó. Thuộc địa mới được đặt tên Haute Volta và François Charles Alexis Édouard Hesling trở thành thống đốc đầu tiên của nó. Hesling bắt đầu thực hiện một chương trình đầy tham vọng và đã xúc tiến trồng bông xuất khẩu. Chính sách bông, dựa vào sự bắt buộc, thất bại và thu nhập đình trệ. Thuộc địa đã bị phá bỏ vào ngày 5 tháng 9 năm 1932, và lãnh thổ của nó đã được chia cắt giữa Côte d’Ivoire, MaliNiger, sự chia cắt nhiều nhất là dân số và các thành phố của Ouagadougou và Bobo-Dioulasso trải tới Côte d'Ivoire.
Quyết định đã đảo ngược trong thời điểm quần chúng chống đối mạnh thuộc địa, mãi cho đến kết thúc chiến tranh thế giới thứ hai và ngày 4 tháng 9 năm 1947 Upper Volta đã được tái lập lại ranh giới của nó có từ năm 1932. Vào 11 tháng 12 năm 1958, nó được trao quy chể tự trị trở thành một nước cộng hòa và là thành viên Franco cộng đồng châu Phi (La Communauté Franco-Africaine). Năm 1960 đã đạt được độc lập đầy đủ. Năm 1966 sự kiện quân đội đầu tiên được lập; chế độ dân sự trở lại năm 1978. Đã có những tác động khác thường, theo chủ trương của Saye Zerbo vào năm 1980, với chiều hướng đã bị lật đổ năm 1982. Một sự táo bạo chống lại giới thiệu năm 1983, mà mang lại thuyết phục người thủ lĩnh Thomas Sankara lên lãnh đạo. Vào năm 1984 chính phủ cách mạng đã thay đổi tên là nước Burkina Faso, quốc kỳ, quốc ca của nó. Tổng thống hiện thời là Blaise Compaoré, người đã nắm quyền lực từ năm 1987 sau cuộc đảo chính giết chết Thomas Sankara.

Chính trị


Tổng thống Blaise Compaoré của Burkina Faso.
Hiến pháp ngày 2 tháng 6 năm 1991 thiết lập một chế độ bán tổng thống và một nghị viện. Tổng thống có quyền giải tán nghị viện. Tổng thống được bầu chọn trong thời hạn 7 năm. Tuy nhiên vào năm 2000, một hiến pháp quy định giảm thời hạn của tổng thống từ 7 năm xuống 5 năm. Đáng lẽ đã có một sửa đổi hiến pháp nữa vào năm 2005 nhằm ngăn tổng thống đương nhiệm Blaise Compaoré tái ứng cử thêm một nhiệm kỳ nữa. Tuy nhiên, vì không gặp phải thách thức nào từ những ứng viên là những lãnh tụ đảng khác, vào tháng 10 năm 2005 hội đồng hiến pháp quyết định rằng bởi vì Compaoré đương nhiệm từ năm 2000, nên hiến pháp sửa đổi sẽ không có hiệu lực với ông khi kết thúc nhiệm kỳ tổng thống lần hai. Nó đã dọn đường cho ông này tái cử vào năm 2005. Vào ngày 13 tháng 11 năm 2005, Compaoré tái cử dễ dàng do các phe đối lập thiếu đoàn kết.
Nghị viện được chia làm hai viện: Thượng việnHạ viện. Có một tòa án hiến pháp bao gồm 10 thành viên, và một hội đồng kinh tếxã hội có vai trò là tư vấn thuần túy.

Đối ngoại

Burkina Faso thực hiện đường lối không liên kết, quan hệ hữu nghị với tất cả các nước nhưng ưu tiên láng giềng khu vực và đẩy mạnh quan hệ với các nước phương Tây nhất là Pháp để tranh thủ đầu tư vốn và kỹ thuật.
Năm 1996, sau khi Burkina Faso lập quan hệ ngoại giao với Đài Loan, Trung Quốc đã cắt đứt quan hệ ngoại giao với nước này. Với vai trò là trung gian tích cực giải quyết xung đột nội bộ, sắc tộc tại một số nước Tây Phi (Togo, Niger), vị thế của Burkina Faso ngày càng được các nước trong khu vực và quốc tế coi trọng.
Burkina Faso là thành viên của Liên Hiệp Quốc, Phong trào không liên kết, AU, WTO, Francophonie, ECOWAS và từng là thành viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc (khoá 2008-2009)…

Hành chính

Vùng của Burkina Faso.
Burkina Faso được chia thành 13 vùng, 45 tỉnh, và 301 huyện. Các vùng gồm:
  • Boucle du Mouhoun
  • Cascades
  • Centre
  • Centre-Est
  • Centre-Nord
  • Centre-Ouest
  • Centre-Sud
  • Est
  • Hauts-Bassins
  • Nord
  • Plateau-Central
  • Sahel
  • Sud-Ouest

Điều kiện tự nhiên

Địa lý


Bản đồ của Burkina Faso
Burkina Faso tạo được hai kiểu địa lý chính:
  • Phần lớn của đất nước được bao bọc bởi một bán bình nguyên với địa hình phong cảnh hữu tình gợn sóng, trong vài vùng, một ít ngọn đồi cô lập, những vết tích cuối cùng của một vùng đất sơ khai.
  • phía tây nam thuộc những dạng mẫu thôn quê với dãy núi cát, nơi này đỉnh cao nhất được tìm thấy là Ténakourou (749 m, 2.450 ft). Dãy núi là biên giới rõ ràng với những dốc đá dựng đứng 150 m (490 ft) cao.
Độ cao trung bình là 400 m (1.300 ft) và giữa các địa hình khác nhau cao nhất và địa thế thất nhất là không lớn hơn 600 m (2.000 ft). Bởi vậy Burkina Faso là một nước tương đối bằng, với một vài địa phương là ngoại lệ.

Thủy văn

Tên đầu tiên của Burkina Faso là Thượng Volta, theo tên ba dòng sông được chảy qua đất nước: Mouhoun (trước đây gọi là Voilta đen), Nakambé (Voilta trắng) và Nazinon (Volta đỏ). Mouhoun cùng với Comoé chảy tới phía tây nam, là dòng sông duy nhất lưu lượng chảy quanh năm.
Vịnh nhỏ của Niger River vẫn tiêu hao 27% bề mặt của miền. Những nhánh sông (Béli, Gorouol, Goudébo và Dargol) là những dòng theo mùa, và luồng duy nhất khoảng 4 đến 6 tháng trong một năm những có thể gây ra những nạn lụt lớn.
Xứ sở này cũng chứa nhiều hồ. Những hồ chủ yếu là Tingrela, BamDem, và những ao nước lớn của Oursi, Béli, YomboliMarkoye.
Thiếu nước thường là một vấn đề, đặc biệt là phía bắc đất nước.

Khí hậu


Rừng Tolotama đang trồng, Burkina Faso.
Burkina Faso có khí hậu xích đạo điển hình với hai mùa rõ rệt. Mùa mưa có lượng mưa đo được từ 600 and 900 mm. Còn vào mùa khô, gió harmattan từ Sahara thổi tới mang theo hơi nóng. Mùa mưa có thể kéo dài xấp xỉ khoảng bốn tháng, tháng năm hay tháng sáu tới tháng chín. Mùa mưa ở miền Bắc ngắn hơn.
Có thể chia làm ba khu vực khí hậu lớn:

Khu vực Shahel

Sahel trong phía bắc đặc trưng tiếp nhận ít hơn 24 inch (600 mm) trận mưa mỗi năm và nhiệt độ cao 5-47 °C (40-115 °F). Savanna khí hậu nhiệt đới tương đối khô ráo, Sahel mở rộng bên ngoài Burkina Faso, từ mỏm châu Phi đến Đại Tây dương. và biên giới Sahara đến phía bắc của nó, và vùng đất phì nhiêu của Sudan tới phía nam. Nhiệt độ giới hạn được ghi là 55 °C và 47 °C.

Khu vực Sudan-Sahel

Vị trí được đặt giữa 11°3’ và 13°5’ độ vĩ bắc, vùng Sudan-Sahel là một vùng trung chuyển xét cả về mưanhiệt độ.

Khu vực Sudan-Guinée

Xa hơn nữa về phía nam, khu vực Sudan-Guinée nhận được 900 mm lượng mưa mỗi năm và có nhiệt độ bình quân thấp hơn.

Tài nguyên thiên nhiên

Burkina Faso có nhiều tài nguyên thiên nhiên, bao gồm: Măng gan, phốt phát, đá bọt, muối và một ít lượng vàng tự nhiên.

Kinh tế


Những người làm nông Tarfila

Giếng Sala

Cửa hàng ở Burkina Faso.

Những người buôn bán ở Burkina Faso.
Burkina Faso là một trong những quốc gia nghèo nhất thế giới. Thu nhập (GDP) bình quân đầu người của nước này chỉ có 1.200 USD. Được xếp thứ 27 trong các nước nghèo nhất thế giới. Nông nghiệp chiếm 32% sản lượng nội địa và tạo việc làm cho 80% dân chúng. Chủ yếu là chăn nuôi gia súc, nhưng ở miền nam và tây nam, người ta cũng trồng cây lúa miến, cây ngọc trai, ngô, cây lạc, lúabông.
Thiếu việc làm đã thúc đẩy di cư. Có tới ba triệu người từ Burkina Faso sang sống ở Côte d'Ivoire. Theo Ngân hàng Trung ương Tây Phi, những người di cư mỗi năm gửi 10 tỉ Euro về Burkina Faso. Kể từ sự việc Ghana trục xuất người nhập cư năm 1967, việc di cư đã liên tục gây ra những sự căng thẳng ở những nước đến. Cuộc khủng hoảng gần đây nhất là vào năm 2003 ở Côte d'Ivoire dẫn tới sự hồi hương của 300.000 người di trú.
Một bộ phận lớn hoạt động kinh tế của quốc gia được tài trợ bằng viện trợ quốc tế.
Đơn vị tiền tệ hiện tại của Burkina Faso là đồng quan CFA.
Ngành khai mỏ khai gồm đồng, sắt, măng gan và trên hết là vàng.
Burkina Faso cũng là chủ nhà của hội chợ hàng thủ công mỹ nghệ Ouagadougou, được biết đến nhiều hơn với tên tiếng Pháp là SIAO (Le Salon International de L Artisanat de Ouagadougou), một trong những hội chợ hàng thủ công quan trọng nhất châu Phi.
Hiện nay, Burkina Faso đang đẩy mạnh chính sách mở cửa, tập trung vốn, kỹ thuật vào việc phát triển nông nghiệp để tiến tới tự túc được lương thực. Ngoài việc đẩy mạnh hợp tác ở khu vực Tây Phi và ngoài các bạn hàng truyền thống như Pháp, Trung Quốc, Ấn Độ, SingaporeThái Lan, Burkina Faso đang tìm cách mở rộng quan hệ với các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế và các nước khác trong đó có Việt Nam.

Dân số


Quảng trường Liên hợp quốc ở Ouagadougou, Burkina Faso
Người Burkina Faso có tuổi thọ dự tính lúc sinh là 50. Độ tuổi trung vị của dân cư là 17.
Tốc độ tăng trưởng dân số: 3% (2006).
Dân cư tập trung chủ yếu phía nam và trung tâm đất nước, đôi khi có mật độ hơn 48 người/km². Mật độ dân cư cao là căn nguyên hàng năm của việc hàng trăm nghìn dân di cư lao động mùa vụ.
Xấp xỉ 50% dân số là người Hồi giáo; ước chừng 30% theo Cơ đốc giáo và những người theo tôn giáo truyền thống châu Phi (bái vật giáo) được khoảng 20%. Nhiều tín đồ Cơ đốc giáo kết hợp bái vật giáo vào thực hiện trong tôn giáo của họ.

Văn hóa

Hai yếu tố chính là mặt nạkhiêu vũ, chìa khóa của văn hóa Burkina Faso. Những mặt nạ được dùng trong nghi lễ hy sinh tới những vị thần và tinh thần hồn nhiên và vui vẻ trong làng, thể hiện sự ao ước của nông dân bởi lời nguyện cầu nơi chốn thiêng liêng. Nhà hát quần chúng trong thủ đô Ouagadougou, là một trung tâm văn hóa xã hội của đất nước. Ouagadougou là một trong những trục bánh xe của châu Phi, hoạt động kéo theo vào rạp chiếu phim. Mỗi năm gọi FESPACO là chủ nhân liên hoan phim châu Phi Pan. Liên hoan phim và truyền hình châu Phi của Ouagadougou là một mối quan tâm lớn của thế giới. Văn hóa nghệ thuật thì được trình bày xa hơn ở tại Laongo, những nghệ sỹ từ toàn bộ thế giới được mời đến một vùng có đá hoa cương được bày và điêu khác trên tảng đá Idrissa Ouedraogo. Có lẽ giám đốc ở châu Phi thành công về thương mại nhất từ Burkina Faso.

Giáo dục

Giáo dục ở Burkina Faso được chia thành tiểu học, trung họcđại học. Tuy nhiên, muốn đến trường phải đóng học phí. Học phí trung học trị giá xấp xỉ 65 USD (33.000 CFA) một năm, cao hơn nhiều thu nhập bình quân của các gia đình Burkinabe. Học sinh nam nhận được nhiều ưu tiên hơn trong trường học; như thế, giáo dục dành cho trẻ em gái và tỉ lệ biết chữ thấp hơn nhiều. Để theo đuổi từ tiểu học đến trung học cơ sở, từ trung học cơ sở lên trung học phổ thông, hay từ trung học phổ thông lên đại học thì cần phải vượt qua những kỳ thi quốc gia. Các tổ chức giáo dục đại học bao gồm Đại học Ouagadougou, và trường đại học bách khoa ở Bobo-Dioulasso.
Có một Trường Quốc tế ở Ouagadougou (ISO), là một trường tư của Mỹ đặt trong thủ đô Ouagadougou.
Theo báo cáo của Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc, Burkina Faso là một quốc gia mù chữ nhất thế giới, với chỉ 12,8% dân số biết đọc biết viết.

Xem thêm

Liên kết ngoài

Tuần duyên Hoa Kỳ

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Tuần duyên Hoa Kỳ
USCG S W.svg

Con dấu Tuần duyên Hoa Kỳ
Hoạt động 4 tháng 8, 1790 đến nay
Quốc gia Hoa Kỳ
Quân chủng Tuần duyên
Lực lượng Dân sự: 7.057
Quân nhân hiện dịch: 41.873
Quân nhân trừ bị: 8.100
Trợ lực: 34.885
~252 tàu quan thuế, ~1600 tàu ~194 phi cơ [1][2]
Bộ phận thuộc Bộ Nội an Hoa Kỳ
Khẩu hiệu Semper Paratus
Màu sắc Trắng, cam, & xanh biển                
Hành khúc Semper Paratus
Tham chiến Chiến tranh Cách mạng Mỹ
Chiến tranh Mỹ-Mexico
Nội chiến Hoa Kỳ
Chiến tranh Mỹ-Tây Ban Nha
Đệ nhất Thế chiến
Đệ nhị Thế chiến
Chiến tranh Triều Tiên
Chiến tranh Việt Nam
Chiến tranh vùng vịnh
Chiến tranh Kosovo
Chiến tranh Afghanistan
Chiến tranh Iraq
Các tư lệnh
Tư lệnh Đô đốc Thad Allen
Tư lệnh phó Phó đô đốc David Pekoske
Phi cơ sử dụng
Trực thăng HH-60 Jayhawk, HH-65 Dolphin,
Tuần tra HC-130, HU-25A Guardian, HC-144A Ocean Sentry
Tuần duyên Hoa Kỳ hay Duyên hải vệ Hoa Kỳ[3] (tiếng Anh:United States Coast Guard hay viết tắt là USCG) là một quân chủng của Quân đội Hoa Kỳ và là một trong 7 lực lượng đồng phục liên bang của Hoa Kỳ. Tuần duyên Hoa Kỳ là một lực lượng quân sự hoạt động vùng biển, đa nhiệm vụ và độc nhất trong số các quân chủng của Hoa Kỳ vì nó có sứ mệnh thi hành luật pháp ở vùng biển và đảm trách cả sứ mệnh của một cơ quan trông coi việc giám sát và qui định luật lệ liên bang. Nó hoạt động dưới quyền quản lý của Bộ Nội an Hoa Kỳ trong thời bình và có thể được thuyên chuyển sang cho Bộ Hải quân Hoa Kỳ theo lệnh của Tổng thống Hoa Kỳ hay Quốc hội Hoa Kỳ trong thời chiến.
Tuần duyên Hoa Kỳ được Alexander Hamilton thành lập trong vai trò của Cơ quan Quan thuế Biển vào ngày 4 tháng 8 năm 1790. Tính đến tháng 8 năm 2009, lực lượng có khoảng 42.000 quân nhân hiện dịch, 7.500 quân nhân trừ bị, 29.000 nhân sự hỗ trợ, và 7.700 nhân viên dân sự toàn thời gian.[4]
Vai trò thường trực của Tuần duyên Hoa Kỳ là trông coi biển, an ninh biển, và an toàn biển.
Khẩu hiệu của Tuần duyên là "Semper Paratus" trong tiếng Latin có nghĩa là "luôn sẵn sàng".

Sứ mệnh

Vai trò


Một nhân viên của Tuần duyên đứng nhìn từ bên hông tàu trong lúc một tàu nhỏ từ chiếc hạm USCGC Bertholf (WMSL-750) khởi hành để nhận người từ chiếc hạm Chandeleur cũng của Tuần duyên.
Tuần duyên có vai trò về nội an vùng biển, thi hành luật pháp vùng biển, tìm kiếm và giải cứu, bảo vệ môi trường biển, bảo quản sông, giúp giao thông hàng hải dọc theo duyên hải và ngoài khơi.
Trong khi đa số các lực lượng quân sự khác của Hoa Kỳ dành thời gian huấn lệnh cho chiến tranh hay tham chiến thì Tuần duyên Hoa Kỳ được triển khai làm việc mỗi ngày. Với việc tổ chức không mang tính tập quyền, nhiều trách nhiệm được giao cho thậm chí các sĩ quan cấp thấp, Tuần duyên Hoa Kỳ luôn được hoan nghênh vì sự phản ứng nhanh và tùy cơ ứng biến của mình trong 1 phạm vi rất lớn các tình trạng khẩn cấp. Trong một bài báo đăng trong tạp chí Time năm 2005 theo sau bão Katrina, tác giả bài báo có viết "sự đóng góp quí giá nhất của Tuần duyên đối với một nỗ lực quân sự khi tai ương xảy ra có thể là một kiểu mẫu của sự linh động, và hơn hết nhất đó là tinh thần." Wil Milam, một tay bơi cứu nạn từ Alaska nói với tạp chí rằng "Trong Hải quân, tất cả đều là sứ mệnh. Huấn luyện để chiến đấu. Trong Tuần duyên, nó có ý nghĩa là trông nom nhân dân của chúng ta và sứ mệnh này sẽ tự chăm nom lấy chính mình."[5]

Những sứ mệnh

Tuần duyên Hoa Kỳ đảm trách ba vai trò căn bản mà rồi được phân xuống thành 11 sứ mệnh theo luật định. Ba vai trò đó là:
  • An toàn biển
  • An ninh biển
  • Trông coi biển
Mười một sứ mệnh luật định được chia thành các sứ mệnh nội an và các sứ mệnh không phải nội an:[6]

Các sứ mệnh không thuộc nội an


Một thành viên của Tuần duyên Hoa Kỳ đang giải cứu một phụ nữ có thai
  • An toàn biển
  • Tìm kiếm và cứu nguy
  • Hỗ trợ giao thông hàng hải
  • Tài nguyên sống của biển (thi hành luật về đánh bắt cá)
  • Bảo vệ môi trường biển
  • Hoạt động phá băng

Các sứ mệnh nội an

  • An ninh duyên hải, đường sông và cảng
  • Chặn bắt thuốc gây nghiện
  • Chặn bắt nhập cư bất hợp pháp
  • Sẵn sàng phòng vệ
  • Thi hành luật pháp khác

Tìm kiểm và giải cứu

Mặt dù đây không phải là lực lượng lâu đời nhất nhưng sứ mệnh tìm kiếm và cứu nguy là một trong những sứ mệnh nổi bật nhất của Tuần duyên. Chương trình Tìm kiếm và Cứu nguy Quốc gia[7] đã ấn định Tuần duyên Hoa Kỳ là cơ quan liên bang có trách nhiệm trông coi về những hoạt động tìm kiếm và cứu nguy trên biển và Không quân Hoa Kỳ là cơ quan liên bang chiu trách nhiệm về các hoạt động tìm kiếm và cứu nguy trong nội địa. Cả hai cơ quan này đều có duy trì các trung tâm điều hợp cứu nguy cho mục đích này. Cả hai đều có trách nhiệm tìm kiếm và cứu nguy quân sự lẫn dân sự.

Trung tâm Phản ứng Quốc gia

Được điều hành bởi Tuần duyên Hoa Kỳ, Trung tâm Phản ứng Quốc gia (NRC) là điểm liên lạc duy nhất thuộc chính phủ Hoa Kỳ để báo cáo về tất cả các sự kiện vệ ô nhiễm môi trường như tràn dầu trên biển, phóng xạ hay chất hóa học thoát ra môi trường, chất ô nhiễm gây hậu quả cho hệ sinh thái,...ở bất cứ nơi đâu trên nội địa Hoa Kỳ hay các lãnh thổ của Hoa Kỳ.

Vai trò lực lượng vũ trang


Một tàu tuần tra nhỏ của Tuần duyên Hoa Kỳ đang tuần tra bến cảng thành phố New York.[2]
Năm lực lượng đồng phục hình thành nên các lực lượng vũ trang Hoa Kỳ được định nghĩa trong Mục 101, Điều 10, Bộ luật Hoa Kỳ:
Thuật từ "các lực lượng vũ trang" có nghĩa là Lục quân, Hải quân, Không quân, Thủy quân lục chiến và Tuần duyên.
Tuần duyên Hoa Kỳ được định nghĩa chi tiết hơn trong Mục 1, Điều 14, Bộ luật Hoa Kỳ:
Tuần duyên, như được thành lập vào ngày 28 tháng 1 năm 1915, sẽ là một lực lượng quân sự và là một quân chủng của các lực lượng vũ trang của Hoa Kỳ trong mọi thời gian. Tuần duyên sẽ là một lực lượng nằm trong Bộ Nội an, trừ khi lúc hoạt động trong vai trò một lực lượng thuộc Hải quân.
Cách tổ chức và hoạt động của Tuần duyên được ấn định trong Điều 22 Bộ luật Qui định Liên bang.
Ngày 25 tháng 2 năm 2003, Tuần duyên được đặt dưới quyền của Bộ Nội an Hoa Kỳ. Tuần duyên báo cáo trực tiếp với Bộ trưởng Nội an Hoa Kỳ. Tuy nhiên trong thời chiến, dưới sự hướng dẫn của Quốc hội Hoa Kỳ hay Tổng thống Hoa Kỳ, Tuần duyên có thể được đặt dưới quyền của Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ và sẽ trở thành một lực lượng quân sự của Bộ Hải quân Hoa Kỳ.
Trong vai trò là thành viên quân sự, các nhân sự Tuần duyên hiện dịch và trừ bị phải tuân theo quân luật chung của quân đội và nhận lương bổng giống như các bậc lương tương tự của các lực lượng đồng phục khác.
Lực lượng này đã tham gia vào mọi cuộc xung đột chính của Hoa Kỳ từ năm 1790 cho đến ngày nay trong đó có cuộc đổ bộ D-Day và trên các đảo Thái Bình Dương trong Đệ nhị Thế chiến, tuần tra và bắn phá bờ biển trong Chiến tranh Việt Nam, và nhiều vai trò khác trong Chiến dịch Iraq Tự do. Các chiến dịch chặn bắt ngoài biển, ann ninh duyên hải, an ninh giao thông hàng hải, và thi hành luật trên biển là những vai trò chính của lực lượng trong các cuộc xung đột mới đây tại Iraq.
Ngày 17 tháng 10 năm 2007, Tuần duyên cùng tham gia với Hải quân Hoa KỳThủy quân lục chiến Hoa Kỳ áp dụng một chiến lược biển mới có tên gọi là Chiến lược Hợp tác Hải lực Thế kỷ 21 nhằm nâng cao tầm quan trọng trong việc ngăn ngừa chiến tranh cùng cấp độ triết lý với sự tiến hành chiến tranh.[8] Chiến lược mới này vạch ra một đường hướng chung cho Hải quân, Thủy quân lục chiến và Tuần duyên cùng làm việc với nhau và với đồng sự quốc tế để ngăn ngừa các cuộc khủng hoảng vùng do con người gây ra hay do thiên tai, không cho xảy ra hoặc là phải phản ứng nhanh nếu có xảy ra để ngăn ngừa ảnh hưởng bất lợi cho Hoa Kỳ.

Vai trò cơ quan thi hành luật pháp


Trực thăng của Tuần duyên Hoa Kỳ bắn cảnh cáo các kẻ buôn lậu đang trên một chiếc tàu.<[2]
Mục 2, Điều 14, Bộ luật Hoa Kỳ cho phép Tuần duyên Hoa Kỳ thi hành luật liên bang. Quyền lực này được nói thêm trong Mục 89, Điều 14, Bộ luật Hoa Kỳ cho phép các sĩ quan, hạ sĩ quan của Tuần duyên quyền hạn thi hành luật pháp. Không như các quân chủng khác bị ngăn cấm về quyền hạn thi hành luật pháp theo Đạo luật Posse Comitatus và chính sách của Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ, theo Mục 1385, Điều 18 thì Tuần duyên Hoa Kỳ được miễn trừ và không bị giới hạn bởi Đạo luật Posse Comitatus.
Quyền hạn thi hành luật pháp cũng được nói thêm trong Mục 143, Điều 14 và Mục 1401, Điều 19 cho quyền các sĩ quan và hạ sĩ quan của Tuần duyên Hoa Kỳ, cả hiện dịch và trừ bị, quyền hạn thi hành luật pháp trong vai trò các viên chức thuế quan liên bang. Điều này đặt họ dưới Mục 1589a, Điều 19, Bộ luật Hoa Kỳ, cho phép các viên chức hải quan quyền hạn thi hành luật tổng quát bao gồm quyền:
(1) mang vũ khí;
(2) thi hành và phục vụ bất cứ mệnh lệnh, lệnh khám xét, trát đòi hầu tòa hay những xúc tiến nào khác mà do chính phủ Hoa Kỳ phát lệnh;
(3) thực hiện việc bắt giữ mà không cần lệnh khi có sự hiện diện của nhân viên công vụ đối với bất cứ vi phạm nào chống lại Hoa Kỳ hay đối với một trọng tội mà theo luật Hoa Kỳ đã xảy ra lúc không có sự hiện diện của nhân viên thi hành công vụ và nếu người thi hành công vụ có cơ sở tin rằng người đó phải bị bắt vì đã thực hiện hay đang thực hiện một trọng tội; và
(4) thực thi các nhiệm vụ thi hành luật pháp khác mà Bộ trưởng Nội an Hoa Kỳ có thể giao phó.
Các nhân viên của Tuần duyên có quyền pháp lý mang vũ khí được cấp cho công vụ ngay cả tại trạm và ngoài trạm. Trong thực tế việc mang vũ khí được cấp cho công vụ ngoài trạm hiếm khi xảy ra vì tại nhiều trạm Tuần duyên, các đơn vị trưởng thường muốn tất cả các vũ khí được cấp cho công vụ được cất lại tại trạm. Tuy nhiên, một phiên tòa cũng đã phán quyết rằng các sĩ quan trên tàu Tuần duyên mà là sĩ quan thi hành luật pháp thì có quyền mang vũ khí cá nhân lúc không làm nhiệm vụ để tự vệ.[9]

Lịch sử


Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ đang cầm một tấm biển có dòng chữ cảm ơn Tuần duyên Hoa Kỳ sau Trận Guam.
Nguồn gốc Tuần duyên Hoa Kỳ là từ Sở Quan thuế Biển Hoa Kỳ do Alexander Hamilton thành lập nằm dưới quyền của Bộ Ngân khố Hoa Kỳ vào ngày 4 tháng 8 năm 1790. Trạm Tuần duyên đầu tiên nằm ở Newburyport, Massachusetts. Cho đến khi tái thành lập Hải quân Hoa Kỳ năm 1798, Sở Quan thuế Biển Hoa Kỳ là lực lượng hải quân duy nhất của Hoa Kỳ thời xa xưa. Nó được thành lập để thu thuế từ nhóm người mới chính hiệu gồm những người buôn lậu yêu nước. Khi các viên chức này ra biển thì họ được lệnh là ngăn chặn cướp biển nhưng khi đang ở ngoài khơi thì họ có lẽ phải làm luôn nhiệm vụ cứu cấp bất cứ ai đang gặp nạn.[10]
"Đệ nhất Hạm đội" là một cái tên thường hay được sử dụng không chính thức để chỉ Tuần duyên Hoa Kỳ mặc dù không có dấu hiệu nào cho thấy là Hoa Kỳ đã từng chính thức sử dụng cái tên này để ám chỉ Tuần duyên hay bất cứ thành phần nào của Hải quân Hoa Kỳ. Các tên gọi không chính thức này đã và đang vinh danh sự thật rằng giữa 1790 và 1798 không có Hải quân Hoa Kỳ và rằng các tàu của sở quan thuế, tiền thân của Tuần duyên Hoa Kỳ, là các chiến hạm duy nhất bảo vệ bờ biển, thương mại và các lợi ích biển của tân cộng hòa Hoa Kỳ.[11]
Tuần duyên hiện đại có thể được nói là bắt đầu từ năm 1915 khi Sở Quan thuế được sáp nhập vào Sở Cứu nạn Hoa Kỳ (United States Life-Saving Service) và Quốc hội Hoa Kỳ chính thức hóa sự tồn tại của tổ chức mới này. Năm 1939, Sở Hải đăng Hoa Kỳ (United States Lighthouse Service) được sát nhập vào Tuần duyên. Năm 1942, Cục Hàng hải và Kiểm tra Biển (Bureau of Marine Inspection and Navigation) được thuyên chuyển sang Tuần duyên. Năm 1967, Tuần duyên Hoa Kỳ được chuyển từ Bộ Ngân khố Hoa Kỳ sang bộ mới thành lập là Bộ Giao thông Hoa Kỳ và nằm dưới bộ này cho đến khi được chuyển sang Bộ Nội an Hoa Kỳ vào năm 2002 sau vụ tấn công của bọn khủng bố vào ngày 11 tháng 9 năm 2001.
Trong thời chiến, Tuần duyên hay các thành viên của nó có thể hoạt động như là một lực lượng của Bộ Hải quân Hoa Kỳ. Việc sắp xếp này có một căn bản lịch sử rộng lớn, thí dụ như Tuần duyên đã từng tham chiến trong các cuộc chiến như Chiến tranh 1812, Chiến tranh Mỹ-Mexico, và Nội chiến Hoa Kỳ mà vào lúc đó chiến hạm Harriet Lane đã khai hỏa từ biển đầu tiên để giải vây đồn Sumter. Lần cuối cùng Tuần duyên hoạt động với tư cách toàn phần dưới quyền của Hải quân Hoa Kỳ là trong Đệ nhị Thế chiến. Thường trực hơn, các đơn vị tác chiến và quân sự của Tuần duyên sẽ hoạt động dưới quyền Hải quân Hoa Kỳ hay dưới quyền của các bộ tư lệnh hành quân hỗn hợp trong khi đó các đơn vị khác vẫn sẽ nằm dưới quyền của Bộ Nội an Hoa Kỳ.

Tổng hành dinh

Tổng hành dinh của Tuần duyên Hoa Kỳ ở số 2100 Second Street, SW, Washington, D.C. gần Công viên Nationals và tiếp tục ở đó cho đến ít nhất là năm 2015.[12] Tòa nhà phức hợp tổng hành dinh mới của Bộ Nội an Hoa Kỳ đang được xây cất trên khu đất củ của Bệnh viện St. Elizabeths nằm trong khu Anacostia, đông nam Washington, phía bên kia sông Anacostia River, cách tổng hành dinh hiện thời của Tuần duyên. Là một phần trong kế hoạch tập trung, Tuần duyên Hoa Kỳ sẽ là cơ quan đầu tiên của Bộ Nội an Hoa Kỳ được dời tổng hành dinh của mình vào bên trong tòa nhà phức hợp này.[13]

Nhân sự

Tên chính thức tiếng Anh để chỉ một thành viên mang quân phục của Tuần duyên Hoa Kỳ là "Coast Guardsman", không phân biệt nam hay nữ. Năm 2008, thuật từ "Guardian" được giới thiệu.[14] "Coastie" là một từ không chính thức được dùng để chỉ các nhân sự hiện thời và các cựu thành viên. "Team Coast Guard" ám chỉ bốn thành phần của Tuân duyên thành một: chính quy, trừ bị, hỗ trợ và nhân sự dân sự của Tuần duyên.

Sĩ quan

Sĩ quan của Tuần duyên có bậc lương từ O-1 đến O-10 trong đó O-10 là cao nhất và sử dụng cơ cấu quân hàm giống như Hải quân Hoa Kỳ. Sĩ quan có cấp bậc từ thiếu úy (O-1) đến thiếu tá (O-4) được xem là nhóm sĩ quan cấp thấp, cấp bậc trung tá (O-5) và đại tá (O-6) được xem là sĩ quan cao cấp, và từ chuẩn đô đốc (O-7) đến đô đốc (O-10) được xem là các sĩ quan chỉ huy. Tư lệnh Tuần duyên Hoa Kỳ là thành viên duy nhất của Tuần duyên giữ cấp bậc đô đốc.[15]
Tuần duyên không có các sĩ quan quân y hay tuyên úy. Thay vào đó các viên chức ủy nhiệm của Đoàn Ủy nhiệm Y tế Công cộng Hoa Kỳ và các sĩ quan tuyên úy của Hải quân Hoa Kỳ được phái đến Tuần duyên để đảm trách các trách nhiệm vừa kể. Những người này sẽ mặc quân phục Tuần duyên nhưng thay quân hiệu của Tuần duyên bằng quân hiệu ngành của mình.[16]
Cơ cấu cấp bậc sĩ quan của Tuần duyên Hoa Kỳ
Đô đốc (ADM) Phó đô đốc (VADM) Chuẩn đô đốc [17][18] (RADM) Chuẩn đô đốc
(nửa dưới)
(RDML)
Đại tá (CAPT) Trung tá (CDR) Thiếu tá (LCDR) Đại úy (LT) Trung úy[17][18] (LTJG) Thiếu úy (ENS)
O-10 O-9 O-8 O-7 O-6 O-5 O-4 O-3 O-2 O-1
US CG O10 insignia.svg
US CG O9 insignia.svg
US CG O8 insignia.svg
US CG O7 insignia.svg
US CG O6 insignia.svg
US CG O5 insignia.svg
US CG O4 insignia.svg
US CG O3 insignia.svg
US CG O2 insignia.svg
US CG O1 insignia.svg

Cấp chuẩn úy

Những hạ sĩ quan có bậc lương từ E-6 đến E-9 đạt tiêu chuẩn cao và có ít nhất 8 năm kinh nghiệm có thể cạnh tranh hàng năm để được bổ nhiệm thành một warrant officer, tương đương cấp chuẩn úy trong tiếng Việt. Những ứng viên thành công sẽ được một ban đặt trách chọn lựa và thăng cấp lên Chuẩn úy 2 (chief warrant officer 2), phục vụ một trong 16 ngành nghiệp vụ. Theo thời gian thì một chuẩn úy có thể được thăng đến cấp bậc chuẩn úy 3 và 4. Các cấp bậc chuẩn úy 1 (WO-1) và chuẩn úy 5 (MCWO-5) hiện tại không có sử dụng trong Tuần duyên. Cấp bậc chuẩn úy có thể tham dự tranh tài trong chương trình đào tạo sĩ quan. Nếu được chọn thì sẽ được thăng lên chức đại úy (O-3E). Chữ "E" là dùng để chỉ thành viên sĩ quan này đã từng phục vụ trên bốn năm ở cấp bậc chuẩn úy và sẽ cho phép người này nhận bậc lương cao hơn bậc đại úy bình thường.
Cơ cấu cấp bậc chuẩn úy của Tuần duyên Hoa Kỳ
Chuẩn úy 4 Chuẩn úy 3 Chuẩn úy 2
W-4 W-3 W-2
US CG CW4 insignia.svg
US CG CW3 insignia.svg
US CG CW2 insignia.svg

Hạ sĩ quan và binh sĩ

Thành viên từ hạ sĩ quan xuống đến binh sĩ được gọi chung trong tiếng Anh là enlisted personnel có bậc lương từ E-1 đến E-9 trong đó bậc lương E-9 là cao nhất. Tất cả các thành viên có bậc lương E-4 và cao hơn được xem là cấp hạ sĩ quan và phát triển nghiệp vụ của mình cũng giống như các cấp bậc hạ sĩ quan của Hải quân Hoa Kỳ.
Cơ cấu bậc lương hạ sĩ quan và binh sĩ của Tuần duyên Hoa Kỳ[3]
Thượng sĩ thủy sư Tuần duyên Thượng sĩ toàn lực lượng trừ bị của Tuần duyên Thượng sĩ chiến hạm (CMC) Thượng sĩ (MCPO) Trung sĩ nhất (SCPO) Trung sĩ (CPO) Hạ sĩ nhất (PO1) Hạ sĩ nhì (PO2) Hạ sĩ tam cấp (PO3)
E-9 E-8 E-7 E-6 E-5 E-4
USCG MCPOCG.svg
USCG MCPOCG (reserve).svg
USCG CMC.svg
USCG MCPO.svg
USCG SCPO.svg
USCG CPO.svg
USCG PO1.svg
USCG PO2.svg
USCG PO3.svg
Cơ cấu bậc lương hạ sĩ quan và binh sĩ của Tuần duyên Hoa Kỳ
Binh nhất (SN) Binh nhì (SA) Tân binh (SR)
E-3 E-2 E-1
USCG SM.svg
USCG SA.svg
USCG SR.svg

Phụ nữ trong Tuần duyên

SPARS (có nghĩa trụ lại một chỗ) là lực lượng nữ trừ bị của Tuần duyên Hoa Kỳ được thành lập vào ngày 23 tháng 11 năm 1942 bằng Công luật số 773 do Tổng thống Franklin Delano Roosevelt ký.[19] Cái tên này có vẽ như tương phản lại khẩu hiệu của Tuần duyên Hoa Kỳ Semper Paratus, có nghĩa là "luôn sẵn sàng". Giống như các lực lượng nữ trừ bị khác, thí dụ như Quân đoàn Nữ Lục quân (Women's Army Corps) và WAVES, nó được thành lập để thay thế nam phải đi ra ngoài để chiến đấu ở hải ngoại. Người điều hành đầu tiên của lực lượng này là đại tá Dorothy C. Stratton và bà là người có công chọn ra tên cho lực lượng. Chiến hạm của Tuần duyên Hoa Kỳ USCGC Spar (WLB-206) được đặt tên theo tên của lực lượng SPARS.[20]

Huấn luyện

Đào tạo nhân sự

Học viện Tuần duyên Hoa Kỳ là một học viện quân sự bốn năm nằm ở New London, Connecticut. Khoảng 225 học viên tốt nghiệp mỗi năm và nhận cấp bằng cử nhân khoa học cũng như được ủy nhiệm thành một sĩ quan cấp bậc thiếu úy trong Tuần duyên Hoa Kỳ. Mỗi học viên tốt nghiệp bị bắt buộc phục vụ ít nhất là 5 năm. Đa số học viên tốt nghiệp được giao làm nhiệm vụ trên các tàu Tuần duyên ngay sau khi tốt nghiệp trong vai trò sĩ quan quan sát trên sàn tàu hay sĩ quan tập sự. Có số ít hơn được giao nhiệm vụ học lái phi cơ tại Trạm Không lực Hải quân Pensacola, tiểu bang Florida hay làm việc trên bờ trong các khu vực trách nhiệm hay đơn vị tổng hành dinh của Tuần duyên Hoa Kỳ.
Ngoài học viện, các sĩ quan tương lai có thể vào Tuần duyên Hoa Kỳ qua Trường Ứng viên Sĩ quan. Trường này là khóa giảng dạy dài 17 tuần chuẩn bị cho các học viên phục vụ hữu hiệu trong vai trò của sĩ quan trong Tuần duyên. Ngoài việc dạy lý thuyết cho học viên cách sống quân sự, trường còn cung cấp một tầm mức rộng lớn gồm các thông tin kỹ thuật cao cần thiết để làm nhiệm vụ trong vai trò sĩ quan Tuần duyên.
Các học viên tốt nghiệp Trường Ứng viên Sĩ quan thường được ủy nhiệm với cấp bậc thiếu úy nhưng có một số học viên xuất sắc có thể nhận cấp bậc trung úy hay đại úy, thậm chí thiếu tá. Học viên tốt nghiệp chính quy bị bắt buộc phục vụ ít nhất 3 năm trong khi học viên tốt nghiệp sĩ quan dự bị phải phục vụ 4 năm. Các học viên tốt nghiệp có thể được giao nhiệm vụ trên một chiến hạm, học lái phi cơ, một công việc văn phòng hay làm việc trên các trạm trên bờ.
Trường Ứng viên Sĩ quan là nơi cung cấp đa số sĩ quan cho Tuần duyên, và cũng là kênh chính cho các hạ sĩ quan vươn lên cấp bậc sĩ quan.
Các luật sư, kỹ sử, sĩ quan tình báo, phi công quân sự và các học viên của các học viện hàng hải cũng như các cá nhân nghiệp vụ khác cũng có thể được ủy nhiệm thành một sĩ quan qua chương trình sĩ quan ủy nhiệm trực tiếp.
Không giống các quân chủng khác, Tuần duyên Hoa Kỳ không có một chương trình nào dành cho huấn luyện sĩ quan trừ bị.

Huấn luyện tân binh

Tân binh được gởi đi huấn luyện 8 tuần tại Trung tâm Huấn luyện Tuần duyên Cape MayCape May, New Jersey. Tân binh đầu tiên trải qua ba ngày đầu tiên để làm thủ tục trong có hớt tóc, chích ngừa, nhận quân phục,...Trong thời gian này họ được tập đội ngũ và được chuẩn bị để nhập vào đại đội được chỉ định cho họ. Trong phần thời gian 8 tuần họ cũng trải nghiệm khóa huấn luyện gọi là "boot camp" để học kỹ năng phát triển thể lực và tinh thần đồng đội. Họ cũng được giới thiệu về cách Tuần duyên hoạt động với trọng tâm nhấn mạnh vào các giá trị trung tâm của Tuần duyên là một phần quan trọng của chương trình huấn luyện.
Hiện tại có chính mục tiêu huấn luyện tân binh là:
  • Kỷ luật
  • Kỹ năng quân sự
  • Kỹ năng bắn súng
  • Kỹ năng huấn nghệ và nghiệp vụ
  • Thiên hướng quân sự
  • Cường tráng thân thể và khỏe mạnh
  • Khả năng bơi lội và tồn tại trong nước
  • Tinh thần quả cảm
  • Các giá trị trung tâm (danh sự, tôn trọng, và tận tụy với công việc)

Các trường nghiệp vụ

Sau khi tốt nghiệp trường huấn luyện tân binh, đa số thành viên được gởi đến đơn vị đầu tiên của họ trong lúc chờ lệnh tham dự khóa đào tạo cao cấp ở các trường hạng "A". Tại các trường hạng "A", các tân binh tốt nghiệp sẽ được huấn luyện theo điểm tốt nghiệp của họ. Các thành viên có điểm cao hay những ai được cho phép chọn trường hạng "A" có thể đi ngay đến trường hạng "A" ngay sau khi tốt nghiệp từ "boot camp".

Nhân sự dân sự

Tuần duyên có trên 7.700 nhân viên dân sự đảm trách trên 200 loại công việc khác nhau trong đó có các nhân viên đặc biệt đặc trách điều tra của Tuần duyên, luật sự, kỹ sự, chuyên viên, nhân sự quản trị...[21][22] Các nhân viên dân sự làm việc ở nhiều cấp bậc khác nhau để hỗ trợ nhiều sứ mệnh khác nhau của Tuần duyên Hoa Kỳ.

Trang bị

Tàu tuần duyên (tiếng Anh: "Cutter")


Tàu tuần duyên USCGC Hamilton (WHEC-715) dài 378 ft, được giao cho Tuần duyên Hoa Kỳ vào năm 1967
Ban đầu, Tuần duyên dùng thuật từ cutter trong ý nghĩa truyền thống để chỉ một loại tàu buồm nhỏ. Ngày nay họ chính thức dùng thuật từ này cho bất cứ tàu nào có thủy thủ đoàn thường trực và các tiện nghi hỗ trợ lâu dài cho thủy thủ đoàn đó, và tàu đó phải có chiều dài ít nhất là 65 ft (20 mét).[23]

Phi cơ

Tuần duyên Hoa Kỳ có khoảng 210 phi cơ. Phi cơ cánh cố định hoạt động tại các Trạm Không lực cho các sứ mệnh kéo dài. Trực thăng hoạt động từ các trạm không lực và từ trên các tàu tuần duyên, có thể cứu cấp người hay chặn bắt các tàu buôn lậu. Kể từ khi có vụ tấn công khủng bố ngày 11 tháng 9 năm 2001, Tuần duyên đã phát triển thêm vai trò nổi bật của mình trong nhiệm vụ an ninh quốc gia và hiện nay có các trực thăng vũ trang hoạt động trong các vùng nước có cấp độ rủi ro cao vì mục đích thi hành luật pháp biển và chống khủng bố. Tuần duyên đã thông báo rằng họ đang phát triển một chương trình phi cơ không người lái để sử dụng cho các hoạt động an ninh nội địa, tìm kiếm và cứu nạn.
Tuần duyên có các loại phi cơ sau:

Tàu nhỏ


Tàu nhỏ lớp Defender dài 25 ft (8 mét) của Tuần duyên Hoa Kỳ ở Trạm Tuần duyên Seattle
Tuần duyên Hoa Kỳ có khoảng 1.400 tàu nhỏ (boat)có độ dài ngắn hơn 65 ft (20 mét), thường được dùng gần bờ và trên các thủy lộ nội địa.

Vũ khí nhẹ

Tuần duyên Hoa Kỳ sử dụng nhiều loại vũ khi nhẹ. Súng lục, súng trường được trang bị cho các thủy thủ. Súng máy được trang bị trên các tàu lớn nhỏ và trực thăng.
Các loại vũ khí nhẹ gồm có:

Tham khảo

  1. ^ USCG website snapshot
  2. ^ a ă â “Homeland Security Budget-in-Brief Fiscal Year 2009”. United States Department of Homeland Security. 2009. tr. 53. Truy cập ngày 31 tháng 1 năm 2010.
  3. ^ Phòng 3 Quân huấn, Bộ Quốc phòng Việt Nam Cộng hòa. Từ-điển Quân-sự Anh-Pháp-Việt. Sài Gòn: Ấn-quán Mai-lĩnh, 1958.
  4. ^ Coast Guard Official 'Snapshot' webpage
  5. ^ The Coast Guard Gets It Right Amanda Ripley. TIME. 23 October 2005.
  6. ^ Mục 468, Điều 6, Bộ luật Hoa Kỳ
  7. ^ National Search and Rescue Plan (USA) 2007
  8. ^ Jim Garamone (17 tháng 10 năm 2007). “Sea Services Unveil New Maritime Strategy”. Navy News Service. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2008.
  9. ^ People v. Booth, ___ N.Y.S.2d ___, 2008 WL 2247068, 2008 N.Y. Slip. Op. 28206 (N.Y. Co.Ct. 2008)
  10. ^ How the Coast Guard Gets it Right Amanda Ripley. TIME. 23 October 2005.
  11. ^ Numbered Fleets
  12. ^ http://washington.bizjournals.com/washington/stories/2009/01/05/daily36.html
  13. ^ http://federalnewsradio.com/index.php?nid=35&sid=1759290
  14. ^ ALCOAST 366/08
  15. ^ http://www.law.cornell.edu/uscode/14/usc_sup_01_14_10_I_20_3.html Title 14 USC Chapter 3
  16. ^ hhttp://www.uscg.mil/hr/udc/requireduniforms.asp USCG Uniform Distribution Center
  17. ^ a ă [1] 14 USC 41. Grades and ratings
  18. ^ a ă [2] 37 USC 201. Pay grades: assignment to; general rules
  19. ^ http://www.uscg.mil/history/articles/CG_Reserve_History.asp
  20. ^ http://www.uscg.mil/history/articles/h_wmnres.asp
  21. ^ http://www.uscg.mil/history/articles/h_cgciv.asp
  22. ^ http://www.uscg.mil/civilian/default.asp USCG Civlian Careers
  23. ^ USCG Regulations. Chapter 10. Accessed 11 December 2006.
  24. ^ http://www.uscg.mil/datasheet/Healy.asp 420' WAGB Data Sheet
  25. ^ http://www.uscg.mil/datasheet/icepolr.asp 399' WAGB Data Sheet
  26. ^ http://www.uscg.mil/datasheet/wixtrain.asp USCGC Eagle Data Sheet
  27. ^ http://www.uscg.mil/datasheet/140wtgb.asp 140' WTGB Data Sheet
  28. ^ http://www.uscg.mil/datasheet/110wpb.asp 110' WPB Data Sheet
  29. ^ http://www.uscg.mil/datasheet/87wpb.asp 87' WPB Data Sheet
  30. ^ HU-25 Guardian at GlobalSecurity.org
  31. ^ HH-60J Jayhawk at GlobalSecurity.org

Liên kết ngoài

Xuân Thủy

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Xuân Thuỷ
Xuân Thuỷ.jpg
Chức vụ
Bộ trưởng Bộ Ngoại giao
Nhiệm kỳ 30 tháng 4 năm 1963 – tháng 4 năm 1965
Tiền nhiệm Ung Văn Khiêm
Kế nhiệm Nguyễn Duy Trinh
Thông tin chung
Sinh 2 tháng 9 năm 1912
Từ Liêm - Hà Nội
Mất 18 tháng 6, 1985 (72 tuổi)
Hà Nội
Binh nghiệp
Xuân Thủy (1912 - 1985) là một nhà hoạt động chính trị, một nhà ngoại giao, nhà thơ và nhà báo Việt Nam. Ông từng là Bộ trưởng Bộ Ngoại giao của CHXHCN Việt Nam.

Tiểu sử

Xuân Thủy sinh ngày 2 tháng 9 năm 1912 tại thôn Hòe Thị, tổng Phương Canh huyện Hoài Đức cũ, thuộc tỉnh Hà Đông cũ (nay là xã Xuân Phương thuộc huyện Từ Liêm, ngoại thành Hà Nội). Ông tên thật là Nguyễn Trọng Nhâm, sinh cùng năm cùng làng với Bác sĩ Trần Duy Hưng, làm ký giả từ thập niên 1930, tham gia hoạt động cách mạng từ năm 1932. Ông làm Chủ nhiệm tờ Cứu Quốc một thời gian dài (1944-1955). Ông từng làm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao (1963-1965) và là Trưởng đoàn đàm phán của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (1968-1973) tại Hội nghị Paris. Ông mất ngày 18 tháng 6 năm 1985 tại nhà riêng 36 Lý Thường Kiệt (nay là trụ sở của Bảo tàng Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam).

Nhà báo, nhà thơ

Xuân Thủy làm báo và viết thơ từ thời Pháp và dùng báo chí như là một thứ vũ khí để hoạt động cách mạng. Ngay trong thời kỳ bị giam tại nhà tù Sơn La, ông cùng Trần Huy Liệu vẫn ra một tờ báo bí mật hai tháng một kỳ có tên gọi là Suối Reo. Ông tham gia làm báo Cứu Quốc, tờ báo của Tổng bộ Việt Minh từ thời kỳ bí mật khi tờ báo còn đặt ở Núi Thầy (1944). Lúc này ông phụ trách tờ báo trực tiếp dưới sự lãnh đạo của Tổng bí thư Trường Chinh. Khi Cách mạng tháng Tám thành công, tờ báo phát hành hàng ngày, ông lại tiếp tục tích cực tham gia hoạt động cho tờ báo lúc này có trụ sở ở Bờ Hồ (trụ sở tờ Hà Nội mới ngày này). Khi Kháng chiến toàn quốc bùng nổ, ông lại theo tờ báo ra chiến khu Việt Bắc.
Xuân Thủy còn có công trong việc đào tạo lớp nhà báo đầu tiêu cho Kháng chiến. Chính ông đã tổ chức lớp đào tạo cán bộ làm báo mang tên Huỳnh Thúc Kháng vào năm 1949. Ông cũng là nhà báo Việt Nam tham gia vào Ban Chấp hành của Tổ chức Nhà báo Quốc tế OIJ. Bản thân ông đã nhận được phần thưởng từ tổ chức này.
Xuân Thủy còn là một nhà thơ và ông cũng dịch nhiều thơ. Ông là người đã dịch bài thơ "Nguyên tiêu" của Hồ Chí Minh ra tiếng Việt với tên gọi là "Rằm tháng Giêng". Các bài thơ của ông được trích giảng trong các nhà trường phổ thông và đại học trong nước và có trong Tuyển tập Xuân Thủy.
Tác phẩm cuối cùng của ông là tập hồi ký Những chặng đường báo Cứu quốc.

Nhà ngoại giao, nhà hoạt động chính trị

Xuân Thủy gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương năm 1941. Từ năm 1938 đến năm 1943, ông bị Pháp bắt giam nhiều lần. Đầu năm 1944, sau khi ra tù, ông phụ trách báo Cứu Quốc.
Sau khi rời báo Cứu Quốc, ông tiếp tục tham gia nhiều hoạt động của Đảng, là Uỷ viên thường trực Thường vụ Tổng bộ Việt Minh (1948-1950) và từng là trưởng ban của nhiều ban của Trung ương Đảng. Ông chuyển sang công tác ngoại giao từ năm 1963 và giữ chức Bộ trưởng Bộ Ngoại giao từ năm tháng 4 năm 1963 đến tháng 4 năm 1965. Ông là người góp phần tích cực vào thành công của Hiệp định Hòa bình Paris với vai trò là Trưởng đoàn đàm phán của chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (ông giữ vai trò này từ năm 1968 cho đến khi hiệp định được ký kết năm 1973 với hàm Bộ trưởng) tại Hội nghị Paris về chấm dứt chiến tranh và lập lại hòa bình tại Việt Nam. [1]

Các chức vụ trong Nhà nước, Đảng, Quốc hội, đoàn thể

Ông liên tục là Đại biểu Quốc hội từ khóa I (1946) đến khóa VIII (1987, nhưng mất năm 1985) và giữ chức Phó Chủ tịch Uỷ ban Thường vụ Quốc hội từ khoá II đến khoá VI (1960-1981). Ông là Phó Chủ tịch Hội đồng Nhà nước kiêm Tổng Thư ký năm 1981-1982. Năm 1981, ông là Phó Chủ tịch Quốc hội khoá VII.
Ông là cán bộ chủ chốt của Mặt trận Dân tộc Thống nhất Việt nam từ năm 1945 đến khi mất: Trưởng ban Thư ký Uỷ ban Trung ương Mặt trận Liên Việt, sau đổi thành Tổng Thư ký Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (1951-1963); Bí thư Đảng đoàn Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, liên tục là Uỷ viên Đoàn Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Năm 1955, Xuân Thủy được bầu làm Ủy viên Dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam và là Ủy viên Chính thức từ năm 1960 đến năm 1982. Năm 1968 được bầu vào Ban Bí thư Trung ương Đảng và giữ cương vị này đến năm 1982.[2]
Ngoài chức vụ Bộ trưởng Bộ Ngoại giao (1963-1965) [3] và là Trưởng đoàn đàm phán của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (1968-1973) tại Hội nghị Paris ông còn giữ các chức vụ:
  • Phụ trách Uỷ ban Bảo vệ hoà bình thế giới của Việt Nam (1952); Phụ trách Uỷ ban đoàn kết Á-Phi của Việt Nam (1957); Uỷ viên Hội đồng Hoà bình thế giới (1954)
  • Chủ tịch Hội những người viết báo Việt Nam khoá I (1950), khoá II (1959) và là uỷ viên Ban chấp hành Tổ chức quốc tế các nhà báo (OIJ)
  • Chủ tịch Hội Hữu nghị Việt-Xô (1980);Chủ tịch Hội Hữu nghị Việt Trung (1960)
  • Phó trưởng đoàn đại biểu Việt Nam Dân chủ Cộng hoà tại Hội nghị Genève về Lào (1961)
  • Trưởng đoàn đại biểu Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà tại Hội nghị Paris về Việt Nam (1968 - 1973)
Ngoài ra, trong thời gian từ 1968 đến 1982 ông còn đảm nhiệm những chức vụ:
  • Trưởng ban Đối ngoại Trung ương Đảng
  • Trưởng ban Cán sự Đảng ngoài nước
  • Trưởng ban hoạt động quốc tế của Trung ương Đảng
  • Trưởng ban công tác miền Tây
  • Trưởng ban Dân vận và Mặt trận Trung ương

Phong tặng

Ông được tặng thưởng: Huân chương Hồ Chí Minh; Huân chương Độc lập hạng Nhất và Huân chương Kháng chiến hạng Nhất.

Hình ảnh công cộng

Hiện nay tên ông được đặt cho một tuyến đường lớn ở Hà Nội. Đường Xuân Thủy, giao cắt với các con đường lớn như đường Phạm Văn Đồng, Hồ Tùng Mậu và Phạm Hùng. Đường Xuân Thủy cũng là nơi có trường đại học lớn nhất Việt Nam: Đại học Quốc gia Hà Nội, cùng với một số trường đại học có truyền thống lâu đời: Đại học Sư phạm Hà NộiHọc viện Báo chí và Tuyên truyền.

Tham khảo

  1. ^ [1] Xuân Thủy - Nhà báo cách mạng tiêu biểu - Báo Diễn Đàn Doanh Nghiệp điện tử, Chủ Nhật, 25/06/2006 - 5:25 AM.
  2. ^ [2] Ban Chấp hành Trung ương Đảng - Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam.
  3. ^ [3] Chính phủ nhiệm kỳ quốc hội khóa II (1960-1964) và khóa III (1964-1971) - Cổng Thông tin điện tử Chính phủ.

Liên kết ngoài

Jean Sainteny

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Jean Sainteny (29 tháng 5 năm 1907 - 25 tháng 2 năm 1978) là một chính trị gia người Pháp. Ông là một sĩ quan tình báo và là người giữ vai trò quan trọng của chính phủ Pháp tại Đông Dương trong những năm 1945-1946. Ông đại diện cho phía chính phủ Pháp ký Hiệp định sơ bộ Pháp-Việt 1946.

Giai đoạn trước 1945

Ông tên thật là Jean Roger, sinh ngày 29 tháng 5 năm 1907 tại Vésinet, Yvelines. Sau khi tốt nghiệp trường Lycée Condorcet et Janson de Sailly tại Paris, ông đã tham gia vào lĩnh vực đầu tư. Năm 1929, ông lần đầu tiên đến Đông Dương và công tác 3 năm tại đây trong lĩnh vực ngân hàng.
Năm 1932, ông trở lại Pháp thành lập một công ty môi giới bảo hiểm và ngân hàng. Ông hoạt động trong lĩnh vực này cho đến khi nổ ra Thế chiến thứ hai. Cũng trong giai đoạn này, ông trở thành con rể của Thủ tướng Albert Sarraut, cựu Toàn quyền Đông Dương.
Sau khi Đức xâm chiếm Pháp năm 1940, ông gia nhập hàng ngũ kháng chiến quân, tham gia tổ chức hoạt động tình báo bán công khai thu thập tin tức tại vùng Normandy với bí danh Dragon. Ông từng bị bắt lần đầu vào tháng 9 năm 1941 nhưng được thả ra vì thiếu bằng chứng. Tháng 9 năm 1943, ông bị bắt lần nữa nhưng đào thoát được. Sau sự việc này ông lấy tên mới là Jean Sainteny và rút vào hoạt động bí mật.
Tháng 6 năm 1944, ông lại bị bắt lần nữa nhưng lại trốn thoát một tháng sau đấy để về tổng hành dinh của tướng George S. Patton. Ông được phong hàm Thiếu tá và tham gia Cơ quan Tình báo và Hoạt động Bí mật của Pháp (gọi tắt là DGER), công tác tại đấy cho đến ngày giải phóng Paris.

Vai trò tại Đông Dương giai đoạn 1945-1946

Ngay từ đầu năm 1944, ông đã xung phong tình nguyện chính đấu tại Đông Dương. Tuy nhiên đến ngày 9 tháng 3 năm 1945, ông mới được giao nhiệm vụ thâm nhập vào Đông Dương để tổ chức các hoạt động tình báo trong vùng Nhật chiếm đóng. Tuy nhiên, chỉ 15 ngày sau, ông lại được giao nhiệm vụ làm Chỉ huy trưởng Phái đoàn 5 (gọi tắt là MI-5), khi đó đang đóng tại Côn Minh.
Trong suốt thời gian hoạt động tại Côn Minh, ông nhiều lần tổ chức các nhóm biệt kích để tung vào Đông Dương, thậm chí có lần đích thân thâm nhập vào khu vực Hạ Long. Bên cạnh đó, ông cũng có lần tiếp xúc với Nguyễn Tường Tam nhằm tìm hiểu tình hình Đông Dương và tìm một ý tưởng giải quyết vấn đề Đông Dương.
Cũng trong thời gian ở Côn Minh, ông có những buổi làm việc chung với chỉ huy OSS tại Côn Minh là Đại úy Archimedes Patti và có những bất đồng cơ bản về vấn đề giải quyết quy chế tương lai của Đông Dương.
Sau khi Nhật đầu hàng Đồng Minh vào tháng 8 năm 1945, ngày 22, Sainteny được Sở tình báo chiến lược Mỹ ở Côn Minh giúp đỡ đã tới Hà Nội với mục đích giải quyết vấn đề tù binh chiến tranh và giải giáp quân Nhật. Tuy chỉ là một sĩ quan chỉ huy MI-5, ông tự xem mình như đại diện của chính phủ Pháp tại Đông Dương. Vì vậy ông đã có nhiều cuộc tiếp xúc với các nhóm chính trị khác nhau để khẳng định vị trí đại diện nước Pháp tại Đông Dương. Tuy được công nhận là Ủy viên Cộng hòa Pháp tại Bắc Kỳ và Bắc Trung Kỳ ngày 1 tháng 10 năm 1945, nhưng các hoạt động chính trị của ông nhằm giữ lại quyền lợi thuộc địa của Pháp tại Đông Dương mang lại rất ít kết quả.
Với việc MI-5 giải tán, Sainteny chính thức trở thành một nhà chính khách và đứng giữa vòng xoáy chính trị giữa Việt Nam, Pháp và Trung Quốc. Chính trong thời gian này, qua các cuộc tiếp xúc với các thủ lĩnh chính trị người Việt, đặc biệt là với Hồ Chí Minh. Trong thời gian này, ông dần chuyển từ thái độ kiên quyết giữ quyền thuộc địa của Pháp tại Đông Dương sang thái độ ôn hòa hơn. Đầu năm 1946, ông được cử làm Đại diện, thay mặt Pháp trong cuộc đàm phán Pháp - Việt và cùng với Chủ tịch nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, Hồ Chí Minh ký tên vào bản Hiệp định sơ bộ ngày 6 tháng 3 năm 1946, mở đầu mối quan hệ giữa Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và Cộng Hòa Pháp. Ông cũng tháp tùng Phái đoàn Việt Nam sang đàm phán tại Hội nghị Fontainebleau và chuyến viếng thăm của Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Pháp từ 24 tháng 4 đến 19 tháng 9 năm 1946.
Tuy cả Hiệp định sơ bộ và Tạm ước 14 tháng 9 đều đã được ký, nhưng dưới sức ép của những người theo quan điểm cứng rắn về quyền thuộc địa ở Đông Dương, những nỗ lực của Sainteny và những người theo chủ trương ôn hòa hầu như không mang lại kết quả. Ngày 2 tháng 12 năm 1946, ông trở lại Hà Nội với chức vụ Thống đốc Bắc Kỳ. Ngày 3, ông dốc cuộc tiếp xúc với Chủ tịch Hồ Chí Minh. Nhưng tình hình đã quá căng thẳng và không thể cứu vãn cuộc chiến sắp nổ ra.
Vào ngày 19 tháng 12 năm 1946, trên đường trở về từ doanh trại của tướng Morliere, xe Sainteny trúng phải mìn của Việt Minh. Cuộc chiến tranh Việt - Pháp bùng nổ.

Một nền hòa bình bị bỏ lỡ

Sau vụ phục kích, Sainteny bị thương nặng và được đưa vào trạm xá với hơn hai mươi mảnh đạn gim trong người. Một tuần sau, ông bắt đầu bình phục và trở lại làm việc với tư cách Thống đốc Bắc Kỳ. Đến tháng 3, ông được gọi trở về Pháp để điều trần trước Quốc hội Pháp về vấn đề Đông Dương. Tại đây, ông cũng đưa ra những nhận định về sự thất bại không thể tránh khỏi của Pháp tại Đông Dương. Dù thể hiện thái độ kiên quyết bảo vệ quyền lợi của Pháp tại Đông Dương nhưng quan điểm nhất quán nước Pháp cần phải giải quyết cuộc chiến tranh Đông Dương thông qua thương lượng của ông là sự khó chịu của phái thực dân Pháp. Do đó, tháng 12 năm 1947, ông được cho nghỉ dài hạn.

Hoạt động chính trị

Khi kết thúc chiến tranh Đông dương, để nối lại quan hệ hữu nghị hai bên nên ông được chính phủ Pháp trọng dụng. Ngày 15 tháng 8 năm 1954, ông lại được Thủ tướng Pháp Mendes France bổ nhiệm vào chức vụ Đại diện Pháp tại Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ngày 6 tháng 10, ông được nâng lên chức vụ "Tổng đại diện Chính phủ Cộng hòa Pháp bên cạnh Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa". Ngày 8 tháng 10, ông đến Hà Nội và chứng kiến cuộc tiếp quản thủ đô của quân Việt Minh vào ngày 10 tháng 10.
Năm 1958, ông trở lại Pháp và tham gia hoạt động chính trị. Từ 1959 đến 1962, ông giữ chức Tổng Cao ủy Ngành du lịch. Từ 1962 đến 1966, ông tham gia Chính phủ của Thủ tướng Pompidou với tư cách Bộ trưởng Bộ Cựu chiến binh và Nạn nhân Chiến tranh.
Ngày 24 tháng 2 năm 1966, Tổng thống De Gaulle giao nhiệm vụ cho ông sang Hà Nội tìm hiểu tình hình và thăm dò một giải pháp cho vấn đề Việt Nam. Nhiệm vụ của ông được giao cụ thể là:
  • Khôi phục lại quan hệ Pháp - Việt Nam sau một thời gian lạnh nhạt kể từ năm 1958.
  • Tham dò ý định của các nhà lãnh đạo Cộng sản Việt Nam về khả năng tìm 1 giải pháp thương lượng chấm dứt cuộc chiến tranh đang diễn ra ở Việt Nam.
Sau các cuộc tiếp xúc với Chủ tịch Hồ Chí Minh, Thủ tướng Phạm Văn Đồng, Sainteny đã nhận định"Tôi thấy rằng các nhà lãnh đạo Việt Nam Dân chủ Cộng hòa biểu thị một thái độ cứng rắn và quyết tâm mà họ muốn là không có rạn nứt. Nhưng có lẽ họ không phản đối một giải pháp thương lượng sẽ giữ thể diện cho họ".
Đay cũng là lần tiếp xúc cuối cùng của Sainteny với Hồ Chí Minh. Ngày 8 tháng 9 năm 1969, Sainteny là người Đại diện cho Cộng hòa Pháp đến Hà Nội dự Lễ tang Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Jean Sainteny qua đời vào ngày 25 tháng 2 năm 1978 tại Paris. Tang lễ của ông được tổ chức tại nhà thờ Saint-Louis, Invalides, Paris; sau đó được chôn cất tại Aignerville, Calvados.

Di sản

Do những nỗ lực liên tục cống hiến cho nền Cộng hòa Pháp, ông đã được chính phủ Pháp trao tặng Huân chương Bắc đẩu bội tinh đệ tứ đẳng (Grand Officier de la Legion d'Honneur).
Là một nhân chứng đặc biệt của quan hệ Pháp Việt trong cuộc Chiến tranh Đông Dương, Sainteny đã viết lại 2 hồi ký quan trọng về mối quan hệ này.
  • Câu chuyện về một nên hòa bình bị bỏ lỡ (Histoire d'une paix manquée, Indochine 1945-1947), Amiot Dumont, Paris 1953
  • Đối diện với Hồ Chí Minh (Face à Hô Chi Minh), Seghers, Paris 1970

Tham khảo

Henry Kissinger

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Henry Kissinger
Msc2012 20120204 306 Kissinger Kai Moerk.jpg
Chức vụ
Nhiệm kỳ 22 tháng 9 năm 1973 – 20 tháng 1 năm 1977
Tiền nhiệm William P. Rogers
Kế nhiệm Cyrus Vance
Nhiệm kỳ 1969 – 1975
Tiền nhiệm Walt Rostow
Kế nhiệm Brent Scowcroft
Thông tin chung
Đảng Cộng hòa
Sinh 27 tháng 5, 1923 (91 tuổi)
Flag of Germany (3-2 aspect ratio).svg Fürth, Bavaria, Đức
Tôn giáo Đạo Do Thái
Binh nghiệp
Henry Alfred Kissinger (tên khai sinh: Heinz Alfred Kissinger; 27 tháng 5 năm 1923 –) là một nhà ngoại giao người Mỹ gốc Đức và Đức gốc Do Thái, người giành giải Nobel Hòa bình năm 1973. Ông từng giữ chức cố vấn an ninh quốc gia Hoa Kỳ và sau đó kiêm luôn chức thư kí liên bang (Secretary of State, hay là Bộ Trưởng Ngoại Giao) dưới thời tổng thống Richard Nixon. Kissinger là người đã thoát khỏi vụ bê bối Watergate và sau đó vẫn bảo đảm được vị trí quyền lực của mình khi Gerald Ford trở thành tổng thống.
Là người đề xuất "Realpolitik", Kissinger đóng một vai trò chen chốt trong chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ giai đoạn 1969 - 1970. Trong suốt thời gian này, ông mở ra chính sách détente, chính sách đã giúp giải tỏa bớt mối quan hệ căng thẳng giữa Mỹ và Liên Xô và ông cũng đóng một vai trò quan trọng trong cuộc đối thoại với thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai trong đó bao gồm việc nối lại quan hệ hữu nghị giữa hai nước đồng thời thiết lập mối quan hệ đồng minh chiến lược Trung Quốc - Hoa Kỳ chống lại Xô Viết.
Trong suốt quãng thời gian cầm quyền của Nixon và Ford ông được biết đến là một kiểu người khoa trương, xuất hiện những buổi gặp mặt công chúng với nhiều người nổi tiếng. Những phương pháp về chính sách đối ngoại của Kissinger đã khiến ông trở thành kẻ thủ giữa phe cánh tả chống chiến tranh cũng như phe cánh hữu chống cộng sản.
Với những tài liệu dưới thời của Nixon và Ford được tiết lộ gần đây có liên quan đến các chính sách của Mỹ với Nam MỹĐông Timo.[cần dẫn nguồn] Kissinger đã trở thành tâm điểm chỉ trích và săn tìm của giới báo chí cũng như những nhóm biện luận nhân quyền, cả ở trong nước cũng như quốc tế.[cần dẫn nguồn] Sau khi những tài liệu được tiết lộ, nhiều công chức của chính phủ Pháp, Brasil, Chile, Tây Ban Nha, Argentina đã tìm ông để hỏi về các vấn đề liên quan đến tội ác chiến tranh đang bị tình nghi như Operation Condor (chiến dịch Kền Kền), gây nhiều khó khăn cho các chuyên đi nước ngoài của ông.[cần dẫn nguồn]

Tham khảo

  • Holger Klitzing: The Nemesis of Stability. Henry A. Kissinger’s Ambivalent Relationship with Germany. WVT, Trier 2007, ISBN 978-3-88476-942-3.
  • Robert D. Schulzinger: Henry Kissinger. Doctor of diplomacy. Columbia Univ. Pr., New York 1989, ISBN 0-231-06952-9.

Thể loại:
Video yêu thích 
http://www.youtube.com/user/hoangkimvietnam


Trở về trang chính
 
Hoàng Kim
, hoangkim, hoangkimvietnam, Ngọc Phương NamChào ngày mới Thung dung, Dạy và học, Cây Lương thực, Tin Nông nghiệp Việt Nam, Food Crops, Cassava in Vietnam, Khát khao xanh, Dayvahoc,Học mỗi ngày,  Danh nhân Việt , Food Crops News, Điểm chính, CNM365, Kim LinkedIn, KimTwitter, KimFaceBook  Đọc lại và suy ngẫm, Việt Nam tổ quốc tôi, Tình yêu cuộc sốngThơ cho con
 

No comments:

Post a Comment