CNM365 Chào ngày mới 1 tháng 6 Wikipedia Ngày này năm xưa. Ngày Quốc tế Thiếu nhi . Năm 907 – Chu Toàn Trung (hình) lên ngôi hoàng đế Hậu Lương, mở ra thời kỳ Ngũ Đại Thập Quốc trong lịch sử Trung Quốc.Năm 1939 – Nguyên mẫu loại máy bay tiêm kích Focke-Wulf Fw 190 của Không quân Đức có chuyến bay đầu tiên.Năm 1946 – Cao ủy Đông Dương d'Argenlieu ra thông cáo thành lập Cộng hòa tự trị Nam Kỳ tại Sài Gòn. Năm 1967 – Ban nhạc Anh The Beatles phát hành album Sgt. Pepper's Lonely Hearts Club Band. Năm 2003 – Công trình thủy lợi đập Tam Hiệp trên Trường Giang tại Trung Quốc bắt đầu tích nước.
Ngày Thiếu nhi
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
(đổi hướng từ Ngày Quốc tế Thiếu nhi)
Ngày Thiếu nhi Thế giới | |
---|---|
Cử hành bởi | Nhiều quốc gia Đầu tiên ở Thổ Nhĩ Kỳ (23 tháng 4, 1920) |
Kiểu | Lịch sử |
Ngày | Theo địa phương (Ngày Thiếu nhi Thế giới vào 20 tháng 11 và Ngày Quốc tế Thiếu nhi vào 1 tháng 6) |
Liên quan đến | Ngày của Cha, Ngày của Mẹ, Ngày Quốc tế Phụ nữ, Ngày Quốc tế Nam giới, Ngày Cha Mẹ |
Mục lục
Ngày lễ Độc lập và Thiếu nhi tại Thổ Nhĩ Kỳ
Ngày lễ hội Thiếu nhi được cho là có nguồn gốc và được tổ chức lần đầu tiên tại Thổ Nhĩ Kỳ [2]. Ngày 23 tháng tư năm 1920, Quốc hội Thổ Nhĩ Kỳ được thành lập và để kỷ niệm sự kiện này, chính phủ Thổ Nhĩ Kỳ đã tuyên bố ngày 23 tháng tư là ngày nghỉ lễ quốc gia từ năm 1921. Ngày này cũng là Lễ hội Thiếu Nhi tại Thổ Nhĩ Kỳ (tiếng Thổ: Çocuk Bayramı), được tổ chức hàng năm với các hoạt động ngoạn mục và các nghi lễ kéo dài một tuần.Trong hai thập kỷ qua, các quan chức Thổ Nhĩ Kỳ đã cố gắng để quốc tế hóa ngày "Lễ Chủ quyền và Thiếu nhi" quan trọng này như việc mời các quốc gia bạn gửi trẻ em tới Thổ Nhĩ Kỳ tham gia vào các lễ hội. Như năm 2007 là mời trẻ em từ 61 quốc gia và năm 2010 là từ 42 quốc gia (trong đó có Việt Nam) [2].
Ngày Quốc tế Thiếu nhi
Ngày Quốc tế Thiếu nhi (ngày 1 tháng 6) (tại Việt Nam, còn gọi là Tết Thiếu Nhi[3][4]) là ngày lễ vì trẻ em, vì thế hệ tương lai của loài người. Đồng thời cũng là ngày nhắc nhở mọi người hãy bảo vệ và chăm sóc trẻ em tốt hơn.Tháng 8 năm 1925, Hội nghị Thế giới vì Hạnh phúc Trẻ em (World Conference for the Well-being of Children) tại Geneva, Thụy Sĩ đã tuyên bố ngày 1 tháng 6 là ngày Quốc tế Thiếu nhi.[5]
Chưa có giải thích chắc chắn do đâu mà ngày 1 tháng 6 được chọn: Một giả thuyết cho rằng Tổng lãnh sự Trung Quốc tại San Francisco (Hoa Kỳ) đã tập hợp một số trẻ mồ côi Trung Quốc để chào mừng Lễ hội Thuyền rồng (Dragon Boat Festival) vào ngày 01 tháng 6 năm 1925, và cũng trùng hợp với hội nghị tại Geneva. Sau này ngày này được CHND Trung Hoa, Liên Xô và các nước đồng minh tiếp nhận.[6][7]
Ngày lễ được cử hành vào ngày 1 tháng 6 mỗi năm. Ngày lễ thường được đánh dấu bằng các bài phát biểu về quyền của trẻ em và an sinh, các chương trình truyền hình trẻ em, các buổi tiệc, những hoạt động khác nhau liên quan hoặc dành riêng cho trẻ em, gia đình sinh hoạt ngoài trời vv...[6][7][8]
Khoảng 30 quốc gia đã từng có tổ chức Ngày Quốc tế Thiếu nhi như: Liên Xô và các quốc gia Khối Xô Viết cũ như Armenia, Azerbaijan, Belarus, Estonia, Georgia, Kazakhstan, Kyrgyzstan, Latvia, Litva, Moldova, Tajikistan, Turkmenistan, Ukraina, Uzbekistan, Albania, Angola, Ba Lan, Benin, Bosna và Hercegovina, Bulgaria, Campuchia, Croatia, Cuba, Czech và Slovakia, Cộng hòa Dân chủ Đức, Ethiopia, Eritrea, Lào, Macedonia, Mông Cổ, Montenegro, Mozambique, România, Serbia, Slovenia, Tanzania, CHDCND Yemen (sau khi ly khai, một số quốc gia chọn ngày khác) và CHND Trung Hoa, CHXHCN Việt Nam.
Ngày Thiếu nhi Thế giới
Ngày Thiếu nhi Thế giới được tổ chức vào ngày 20 tháng 11 mỗi năm. Đầu tiên được Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc tuyên bố và khởi xướng vào năm 1954 để khuyến khích tất cả các nước thành viên ghi nhớ một ngày, trước hết là để thúc đẩy trao đổi và hiểu biết lẫn nhau giữa các trẻ em và thứ hai để bắt đầu tăng cường hành động phát triển phúc lợi và thúc đẩy tạo an sinh của trẻ em trên thế giới[1]. Nó cũng được chọn là ngày để kỷ niệm thời thơ ấu. Ngày Thiếu nhi Thế giới kế tiếp Ngày Quốc tế nam giới vào 19 tháng 11 tạo ra một lễ kỷ niệm 48 giờ của nam giới và trẻ em tương ứng trong thời gian đó vai trò người lớn đóng góp tích cực trong cuộc sống của trẻ em và được công nhận.[9][10]Ngày lễ lần đầu tiên được tổ chức trên toàn thế giới trong tháng 10 năm 1953, dưới sự bảo trợ của Liên minh Quốc tế vì Phúc lợi Trẻ thơ (International Union for Child Welfare) tại Geneva. Ý tưởng về một ngày thiếu nhi đã được thông qua do Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc vào năm 1954.
Ngày 20 tháng 11 cũng là ngày đáng nhớ, khi Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc đã thông qua Tuyên bố về quyền của trẻ em vào ngày này năm 1959. Công ước về Quyền trẻ em sau đó đã được ký kết trong cũng ngày này vào năm 1989, và đến nay được phê duyệt bởi 191 quốc gia.
Qua ngày hôm nay, Liên Hiệp Quốc muốn tạo sự quan tâm của thế giới đối với quyền lợi của trẻ em, thúc đẩy những nỗ lực vì sự phát triển trẻ nhỏ, đặc biệt trong lãnh vực giáo dục và sức khỏe.
Một vài quốc gia coi Ngày Thiếu nhi Thế giới ngày 20 tháng 11 như Ngày Thiếu nhi chính thức của mình như: Canada, Úc, Ai Cập, Pakistan, Hungary, Phần Lan, Thụy Điển, Thụy Sĩ, Philippin,...
Ngày Thiếu nhi khác theo quốc gia
Mặc dù đề nghị ngày 20 tháng 11, nhưng Liên Hợp Quốc lại để cho các quốc gia thành viên có thể tổ chức ngày Thiếu nhi của riêng nước mình vào các ngày tự chọn khác nhau như:- Tại Thái Lan, Lào, Campuchia, Myanma,... là ngày thứ bảy của tuần thứ 2 trong Tháng Giêng (วันเด็กแห่งชาติ).
- Tại Hồng Kông, Đài Loan là ngày 4 tháng 4 (兒童節).
- Tại Thổ Nhĩ Kỳ là ngày 23 tháng 4.
- Tại Nhật, Hàn Quốc là ngày 5 tháng 5 (子供の日, kodomo no hi?).
- Tại Thụy Điển là ngày 13 tháng 5.
- Tại Hoa Kỳ không có ngày Thiếu nhi cố định riêng ở cấp quốc gia mà thường được tổ chức chung trong các Ngày của Mẹ, Ngày của Cha hoặc thay đổi theo thời kỳ. Từ năm 1856, linh mục Charles H. Leonard chọn ngày chủ nhật thứ hai trong tháng 6 là ngày trẻ em Kitô giáo tại Hoa Kỳ.[11] Tổng thống Bill Clinton đã tổ chức Ngày Thiếu nhi vào ngày 11 Tháng 10 năm 1998,[12] để đáp ứng với một lá thư yêu cầu của một cậu bé sáu tuổi muốn có ngày của trẻ em. "Ngày trẻ em quốc gia" đã được Tổng thống George W. Bush công bố là ngày 03 tháng 6 năm 2001 và trong những năm tiếp theo vào ngày chủ nhật đầu tiên trong tháng Sáu.[13] Từ năm 2009, Thống đốc bang Illinois Pat Quinn đã ban hành tuyên ngôn tuyên bố ngày chủ nhật thứ hai trong tháng Sáu là ngày của trẻ em.[14]
- Tại Bắc Triều Tiên là ngày 2 tháng 6 (국제 아동절).
- Tại Cuba là ngày Chủ nhật thứ ba của tháng 7.
- Tại Argentina, Tây Ban Nha là ngày chủ nhật thứ 2 trong tháng 8, gọi là ngày Día del Niño[15].
- Tại Đức là 20 tháng 9 (Kindertag).
- Một số nước khác tại châu Phi như Congo, Cameroon, Guinea, Gabon, Chad tổ chức vào ngày 25 tháng 12.
- Tại Trung Quốc và Việt Nam là 1 tháng 6 hay Tết Trung Thu.
Chú thích
Wikimedia Commons có thêm thể loại hình ảnh và tài liệu về Ngày Thiếu nhi |
- ^ a ă â United Nations Universal Children's Day
- ^ a ă 23nisan
- ^ “Tết thiếu nhi sớm cho trẻ khuyết tật”. Truy cập ngày 29 tháng 5 năm 2011.
- ^ “Tình nguyện với tết thiếu nhi”. Truy cập ngày 29 tháng 5 năm 2011.
- ^ A Brief History of Children's Day in America & the World! - San Diego Children's Coalition
- ^ a ă “June 1 International Children's Day”. Diyifanwen.com. Truy cập ngày 16 tháng 8 năm 2009.
- ^ a ă “1 June - International Children's Day”. Qatar Living. 23 tháng 4 năm 1920. Truy cập ngày 16 tháng 8 năm 2009.
- ^ “International Children's Day Flag”. Crwflags.com. Truy cập ngày 16 tháng 8 năm 2009.
- ^ International Men's Day and Universal Children's Day, Forbes
- ^ International Men's Day Global Website and Archive
- ^ McFarland, John T. (1915). “Children's Day”. The Encyclopedia of Sunday School and Religious Education 1. New York: Thomas Nelson & Sons. tr. 237. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2008.
- ^ National Children's Day, 2000, October 7, 2000. National Archives and Records Administration
- ^ “The White House Proclamation by the President of the United States of America, 2001”. Georgewbush-whitehouse.archives.gov. Truy cập ngày 8 tháng 3 năm 2012.
- ^ “National Children's Day website”. Nationalchildrensday.us. 14 tháng 3 năm 2007. Truy cập ngày 8 tháng 3 năm 2012.
- ^ Día del niño, en el sitio del Ministerio de Educación de Argentina
Đập Tam Hiệp
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Đập Tam Hiệp | |
---|---|
长江三峡大坝 | |
Đập Tam Hiệp năm 2006 |
|
Thông tin chung | |
Tọa độ | 30°49′48″B 111°0′36″Đ |
Xây dựng | |
Chiều cao | 101 mét (331 ft) |
Chi phí xây dựng | Ước tính khoảng 180 tỉ NDT (39 tỉ USD) |
Chiều cao | 101 mét (331 ft) |
Trừ âu thuyền, dự án này đã hoàn thành và vận hành đầy đủ các chức năng vào ngày 4 tháng 7, 2012,[1][2] khi các tuốc-bin chính cuối cùng bắt đầu cho điện. Mỗi tuốc-bin có công suất 700 MW.[3] Thân đập được hoàn thành năm 2006. Ngoài 32 tuốc-bin chính còn có 2 máy phát điện nhỏ hơn (mỗi máy 50 MW) phục vụ cho nhà máy, tổng công suất phát điện của đập là 22.500 MW.[4][5]
Giống như nhiều đập nước đang xây dựng khác, dự án này cũng gây ra nhiều ý kiến trái ngược về sự đúng sai trong và ngoài Trung Quốc.[6] Các đề xuất xây dựng dựa vào các lợi ích kinh tế từ việc kiểm soát ngập lụt và năng lượng từ thủy điện. Các ý kiến chống lại chủ yếu là do các e ngại về tương lai của 1,9 triệu người sẽ phải di chuyển chỗ ở do mực nước tăng lên, sự mất đi của nhiều địa điểm có giá trị khảo cổ học và văn hóa, cũng như các tác động tới môi trường.
Mục lục
Các thông số chính
Được làm từ bê tông và thép, đập có chiều dài 2.355m và đỉnh đập cao 185 mét trên mực nước biển. Công trình đã sử dụng 27,2 triệu mét khối bê tông (chủ yếu cho thành đập), 463.000 tấn thép (đủ xây 63 tháp Eiffel, đào 102,6 triệu mét khối đất.[7] Thành đập cao 181 mét so với nền đá.Mực nước đập cao tối đa 175m trên mực nước biển, cao hơn mực nước sông ở hạ nguồn 110 m, vùng hồ chứa có chiều dài trung bình khoảng 660 km và rộng 1,12 km. Vùng hồ chứa có thể tích 39,3 km3 và tổng diện tích bề mặt nước 1045 km2. Khi hoàn thành, tổng diện tích đất bị ngập nước của hồ là 632 km2, so với 1350 km2 diện tích bị ngập của Đập Itaipu.[8]
- Khu vực: Tam Đẩu Bình, Nghi Xương, tỉnh Hồ Bắc
- Độ cao: 181 mét
- Vốn đầu tư dự tính: 203,9 tỷ nhân dân tệ (US$24,65 tỷ) có thể lên tới US$75 tỷ
- Số người phải di chuyển: 2 triệu - có thể hơn
- Công suất phát điện thiết kế: 18,2 Gigawatt
- Chức năng: Kiểm soát lũ lụt, phát điện, cải thiện giao thông thủy
- Tọa độ: 30,82679 độ vĩ bắc, 111,00727 độ kinh đông, độ cao địa hình: 75,00 mét(30°49′48″B 111°0′36″Đ)
Mô hình đập
Bên cạnh đập là trung tâm tiếp đón có chứa mô hình của đập. Mô hình này cung cấp tổng quan về kỹ thuật tốt nhất về dự án cho người xem. Từ chỗ trưng bày này chỉ cần đi bộ rất ngắn ra ngoài đã dẫn tới một chỗ quan sát cao để nhìn toàn bộ dự án.Các nguồn kinh phí
- Quỹ xây dựng đập Tam Hiệp
- Lợi nhuận từ nhà máy phát điện Cát Châu Bá
- Các khoản vay từ Ngân hàng phát triển Trung Quốc (CDB)
- Các khoản vay từ các ngân hàng thương mại trong nước và nước ngoài
- Trái phiếu công ty
Lịch sử dự án
Thời gian xây dựng
- 1993-1997: sau 4 năm khởi công sông Dương Tử bị chặn lại vào tháng 11 năm 1997.
- 1998-2003: các tổ máy phát điện đầu tiên bắt đầu phát điện vào năm 2003, và cửa cống vĩnh cửu được mở cho giao thông thủy trong cùng năm.
- 2004-2009: phần cuối cùng của đập đã được xây xong vào ngày 20 tháng 5, 2006. Khi các bể chứa nước bắt đầu được bơm nước, nước lụt sẽ bắt đầu chiếm chỗ các cộng đồng dân cư. Toàn bộ dự án sẽ hoàn thành vào năm 2009, khi tất cả 26 tổ máy phát (với công suất tổng cộng 18,2 GW) được lắp xong, có thể phát ra 84,7 TWh điện mỗi năm, đáp ứng khoảng một phần ba mươi nhu cầu tiêu thụ điện toàn quốc.[9]
Đề xuất và xây dựng dự án
Tôn Dật Tiên đã lần đầu tiên xem xét kế hoạch xây dựng đập trên sông Dương Tử vào năm 1919[10] để phát điện, nhưng ý tưởng này đã bị gác lại do các hoàn cảnh và điều kiện chính trị cũng như kinh tế không thuận lợi[cần dẫn nguồn]. Đến năm 1944, công trình nghiên cứu tiền khả thi đã được giao cho một kỹ sư thành viên của Phòng Nông Nghiệp Hoa Kỳ, tuy nhiên dự án này đã bị bỏ dở vào năm 1947. Nguyên nhân chính thức được biết đến là vấn đề tài chính, tuy nhiên trên thực tế là do những sự kiện gắn liền với cuộc cách mạng giành chính quyền của những người cộng sản Trung Quốc. Các trận lụt lội lớn đã làm sống lại ý tưởng này và chính quyền đã chấp thuận nó năm 1954 để kiểm soát lụt lội. Về sau, dự án này được các chuyên gia Liên Xô (cũ) tiếp tục thực hiện cho đến khi quan hệ ngoại giao giữa 2 nước bị rạn nứt. Trên thực tế, bắt đầu từ 1955, các nghiên cứu triển khai dự án đã được tiến hành liên tục.Thứ trưởng Bộ điện lực Lý Duệ (李锐, Li Rui) đầu tiên cho rằng đập này cần phải đa mục đích, rằng cần phải xây dựng các đập nhỏ hơn trước cho đến khi Trung Quốc có đủ năng lực tài chính để có thể chịu được dự án tốn kém này và việc xây dựng cần được chia thành nhiều giai đoạn để có thời gian giải quyết các vấn đề kỹ thuật, theo như các nhà Trung Quốc học Kenneth Lieberthal và Michel Oksenberg.
Sau này, Lý Duệ kết luận rằng không nhất thiết phải xây dựng đập này do nó quá tốn kém. Ông cũng bổ sung thêm rằng đập nước sẽ làm ngập lụt nhiều thành thị và đất nông nghiệp màu mỡ, làm cho các vùng lưu vực trung và hạ lưu sông Dương Tử bị ngập lụt thảm họa trong quá trình xây dựng và không giúp ích nhiều cho vận tải thủy. Các quan chức tỉnh Tứ Xuyên cũng chống lại việc xây dựng do Tứ Xuyên nằm ở thượng nguồn sẽ phải gánh chịu nhiều phí tổn trong khi tỉnh Hồ Bắc ở hạ nguồn sẽ nhận được nhiều lợi ích.
Lâm Nhất Sơn (林一山, Lin Yishan), chủ nhiệm văn phòng quy hoạch lưu vực Dương Tử, là người chịu trách nhiệm của dự án thì lại cổ vũ cho việc xây dựng đập[11][12]. Sự lạc quan của ông về việc giải quyết các vấn đề kỹ thuật đã được đẩy đi xa hơn vào năm 1958 do điều kiện chính trị thích hợp và sự ủng hộ của Chủ tịch nước khi đó là Mao Trạch Đông, là người muốn Trung Quốc có đập thủy điện lớn nhất thế giới, theo Lieberthal và Oksenberg. Các phê phán đã bị cấm đoán, nhưng sự trì trệ đã sinh ra từ cuộc Đại nhảy vọt đầy thảm họa và đã kết thúc các công việc chuẩn bị vào năm 1960[cần dẫn nguồn].
Ý tưởng lại hồi sinh vào năm 1963 như một phần của chính sách mới để xây dựng "mặt trận thứ ba" của công nghiệp tại tây nam Trung Quốc. Nhưng Cách mạng văn hóa Trung Quốc đã nổ ra năm 1966 và trong năm 1969 sự e ngại rằng đập có thể bị Liên Xô (khi đó bị coi là kẻ thù) phá hoại đã góp phần trì hoãn việc xây dựng. Năm 1970, dự án lại được tiếp tục trở lại với Cát Châu Bá, một đập nhỏ hơn về phía hạ lưu, nhưng nó cũng nhanh chóng gặp phải các vấn đề kỹ thuật phức tạp và chi phí đã vượt quá dự toán giống như đối với đập Tam Hiệp xét theo thang độ của từng công trình.
Cải cách kinh tế bắt đầu năm 1978 đã nhấn mạnh nhu cầu về điện năng để cung cấp cho các cơ sở công nghiệp đang lớn mạnh, vì thế Quốc vụ viện Trung Quốc đã phê chuẩn việc xây dựng năm 1979. Nghiên cứu khả thi đã được tiến hành trong các năm 1982 - 1983 để xoa dịu lượng người chỉ trích ngày càng tăng, những người cho rằng dự án này đã không được dựa trên đầy đủ các nghiên cứu về kỹ thuật, xã hội hay môi trường. Trong những năm thập niên 1980, người Mỹ đã quay trở lại tham gia dự án. Các nghiên cứu khả thi tiếp theo đã được tiến hành từ năm 1985 đến 1988 bởi liên doanh Canada quốc tế của dự án quản lý sông Dương Tử, một côngxoócxiom của 5 hãng công nghệ Canada.
Theo Lieberthal và Oksenberg[13], các lãnh đạo của Trùng Khánh cũng đột ngột yêu cầu là độ cao của đập cần nâng một cách đáng kể đến mức nó có thể làm hỏng dự án và giải phóng họ khỏi gánh nặng của các chi phí. Độ cao mới và yêu cầu về nghiên cứu tin cậy hơn bằng sử dụng các tiêu chuẩn quốc tế đã sinh ra nghiên cứu khả thi mới vào năm 1986.
Nhà sinh thái học, viện sĩ Hầu Học Dục (侯学煜, Hou Xueyu) là một trong số ít người từ chối không ký vào báo cáo môi trường vì cho rằng nó đã báo cáo sai sự thật về các lợi ích môi trường thu được nhờ đập này và đã đánh giá không đúng phạm vi ảnh hưởng tới môi trường cũng như thiếu các giải pháp cụ thể cho các lo ngại về môi trường[14].
Những nhà hoạt động vì sinh thái môi trường trong nước và quốc tế bắt đầu phản đối gay gắt hơn. Các luật gia về nhân quyền đã chỉ trích kế hoạch tái định cư[15]. Các nhà khảo cổ học cũng e ngại do sự nhấn chìm của một lượng lớn các di tích lịch sử. Nhiều người đã nói về việc mất đi của một trong những kỳ quan đẹp nhất thế giới[cần dẫn nguồn].
Có không ít các kỹ sư tỏ ý không tin tưởng rằng đập thực sự sẽ đạt được các mục đích đề ra. Nhà báo/kỹ sư Đái Tình đã xuất bản cuốn sách gồm các chỉ trích nghiêm khắc của các nhà khoa học Trung Quốc đối với dự án này[14]. Tuy thế rất nhiều công ty xây dựng nước ngoài vẫn tiếp tục thúc ép chính quyền của họ ủng hộ về tài chính do việc xây dựng với hy vọng thắng thầu[cần dẫn nguồn].
Phê chuẩn dự án
Đối mặt với áp lực trong nước và quốc tế, Quốc vụ viện Trung Quốc vào tháng 3 năm 1989 đã đồng ý hoãn kế hoạch xây dựng này lại trong 5 năm. Tuy nhiên, sau sự kiện Thiên An Môn 1989, chính quyền đã cấm các tranh cãi về con đập này, kết tội các chỉ trích của nước ngoài là thiển cận hay có ý đồ làm suy yếu chính quyền cũng như bắt giam Đái Tình và nhiều người chỉ trích khác.Thủ tướng Lý Bằng đã vận động cho việc xây dựng đập này và đưa nó đến quyết định cuối cùng tại Đại hội Đại biểu Nhân dân Toàn quốc Trung Quốc vào tháng 4 năm 1992 mặc dù 1/3 số đại biểu bỏ phiếu trắng hoặc bỏ phiếu chống. Đây là sự kiện chưa từng có tiền lệ từ cơ quan mà thông thường rất nhanh chóng thông qua các đề nghị của chính phủ. Quyết định xây dựng công trình đập Tam Hiệp được chính thức thông qua tại phiên họp Quốc hội Trung Quốc vào ngày 3 tháng 4 năm 1992 với 1.767 phiếu thuận, 177 phiếu chống và 664 phiếu trắng.
Việc tái định cư được tiến hành ngay sau đó và những sự chuẩn bị về vật chất đã bắt đầu năm 1994. Trong khi chính phủ tập trung thu hút công nghệ, dịch vụ, tài chính từ phía nước ngoài thì các lãnh đạo lại dành cho các hãng Trung Quốc công nghệ và các hợp đồng xây dựng.
Các vụ bê bối tham nhũng đã gây nhiều điều tiếng đối với dự án này. Người ta cho rằng các nhà thầu đã thắng thầu nhờ đút lót và sau đó đã bớt xén thiết bị và vật liệu để rút bóp các quỹ dành cho xây dựng[cần dẫn nguồn]. Người ta đồn rằng chủ tịch tập đoàn phát triển kinh tế Tam Hiệp đã mua bán các công việc tại công ty ông ta, rút các khoản tiền từ các khoản vay có liên quan đến dự án và biến mất vào tháng 5 năm 2000[cần dẫn nguồn]. Các viên chức của Uỷ ban tái định cư Tam Hiệp đã bị bắt vì tội tham ô các quỹ của chương trình tái định cư vào tháng 1 năm 2000.
Nhiều hạng mục trong dự án có chất lượng tồi tệ đến mức thủ tướng Chu Dung Cơ đã phải ra lệnh bỏ đi vào năm 1999 sau khi một loại các tai nạn lớn đã xảy ra, bao gồm cả sập cầu[cần dẫn nguồn]. Chu Dung Cơ, một người đã từng chỉ trích dự án này rất gay gắt, thông báo rằng các quan chức có "một núi trách nhiệm trên đầu họ". Cùng thời gian này, các rạn nứt đáng kể đã xuất hiện trong đập. Để bù đắp lại các chi phí xây dựng, các quan chức của dự án đã lặng lẽ thay đổi kế hoạch vận hành đã được thông qua bởi Quốc hội là làm đầy hồ chứa nước sau 6 năm chứ không phải 10 năm. Để phản ứng lại, 53 kỹ sư và viện sĩ đã kiến nghị với Chủ tịch Giang Trạch Dân hai lần vào nửa đầu năm 2000 để làm chậm việc làm đầy hồ chứa nước cũng như việc tái định cư dân chúng trong vùng cho đến khi các nhà khoa học có thể xác định có hay không việc hồ chứa nước cao hơn gây ra các vấn đề về trầm tích. Tuy nhiên, việc xây dựng vẫn cứ được tiếp tục tiến hành.
Tranh cãi xung quanh đập này
Chi phí
Thông báo chính thức cho rằng dự án này sẽ tiêu tốn trong phạm vi 25 tỷ USD tiền ngân sách và cho rằng dự án có thể tự trang trải nhờ phát điện. Tuy nhiên, người ta cho rằng dự án này chi phí nhiều hơn tất cả các dự án xây dựng khác trong lịch sử, với ước tính không chính thức là 75 tỷ USD hoặc cao hơn[cần dẫn nguồn]. Cũng lưu ý rằng con số ước tính này ($75 tỷ) đã loại bỏ các khoản tham nhũng, các tổn thất trong hủy diệt đất trồng trọt, tái định cư dân chúng cũng như các tổn thất môi trường.Tăng chênh lệch giàu nghèo
Các chỉ trích coi con đập chủ yếu để phục vụ cho lợi ích của các nhà công nghiệp phần bờ biển phía đông do ở đây họ có nhu cầu cao về điện năng. Không may là điều này lại dựa trên phí tổn của hàng triệu người đã bị đưa ra khỏi những vùng đất trồng trọt chủ yếu. Góp phần làm cho tình hình xấu hơn là các đền bù tái định cư không hợp lý (do các quan chức tham nhũng đã bớt xén các khoản này), số lượng người tái định cư về tổng thể là không ước tính được cũng như các khu đất mới của họ là xấu hơn[cần dẫn nguồn].Môi trường
Thủy điện là một nguồn năng lượng có thể hồi phục được mà không sinh ra các chất thải, mặc dù có những chứng cứ mới cho rằng các đập nước có thể sinh ra một lượng lớn cacbon điôxít và một khối lượng đáng kể khí mêtan1 do các hoạt động của vi sinh vật trong các hồ chứa nước.Các đập nước theo bản chất tự nhiên của chúng làm biến đổi hệ sinh thái và đe dọa một số loài sinh vật trong khi lại hỗ trợ cho một số loài khác. Cá heo sông Dương Tử là một ví dụ đang trên đà tuyệt chủng và sẽ bị mất môi trường sinh sống do con đập này[16][17].
Trong khi việc chặt hạ cây cối của khu vực để xây dựng làm tăng khả năng xói mòn thì việc ngăn chặn các trận lũ lụt không kiểm soát được sẽ làm giảm xói mòn trong một chu kỳ dài hơn.
Khu vực văn hóa và cảnh quan thiên nhiên
Hồ chứa nước dài 600 km (370 dặm) sẽ làm ngập khoảng 1.300 địa chỉ khảo cổ và tiêu diệt vẻ đẹp huyền thoại của Tam Hiệp. Các di tích văn hóa và lịch sử đã phát hiện đang được di chuyển tới những vùng đất cao hơn nhưng ngập lụt của Tam Hiệp sẽ bao phủ nhiều di tích tiềm ẩn chưa phát hiện ra.Giao thông thủy
Việc đưa vào sử dụng các cửa cống tàu bè có thể sẽ làm tăng vận tải đường sông từ 10 đến 50 triệu tấn hàng năm, với chi phí vận chuyển giảm khoảng 30 - 37%. Vận tải thủy cũng sẽ an toàn hơn, do các hẻm núi này đã rất lừng danh trong lịch sử về độ nguy hiểm cho vận tải. Các chỉ trích thì cho rằng lượng bùn lớn sẽ lấp đầy các cảng chẳng hạn Trùng Khánh trong vài năm dựa trên cơ sở các chứng cứ từ các dự án đập nước khác[cần dẫn nguồn].Kiểm soát ngập lụt
Hồ chứa nước dung tích 22 km³ (28,9 tỷ khối theo thước Anh) sẽ làm giảm tần suất các trận ngập lụt lớn từ một lần trong 10 năm xuống còn 1 lần trong 100 năm. Nhưng các chỉ trích thì tin rằng sông Dương Tử sẽ bổ sung thêm trung bình khoảng 530 triệu tấn bùn vào hồ trên một năm và nó sẽ nhanh chóng không còn tác dụng trong việc ngăn chặn lũ lụt[18]. Việc tăng thêm trầm tích vào hồ có thể làm tăng mức nước lũ vốn đã cao tại Trùng Khánh.Tổ chức Probe International[19] cho rằng đập nước này không có tác dụng ngăn chặn lũ lụt, do bị mất đi các cánh rừng trong lưu vực sông Dương Tử cũng như sự mất đi của 13.000 km² hồ (có tác dụng làm giảm bớt đi sự ngập lụt) do bùn lầy hóa, cải tạo và các phát triển không kiểm soát được.
Các rủi ro tiềm ẩn
Việc xây dựng đập được báo cáo là có chất lượng kém, với các vết nứt lớn đã xuất hiện trong thân đập vào năm 2000, đã dẫn đến các chỉ trích trong tiên tri các thảm họa tiềm ẩn tương tự như đối với đập Bản Kiều năm 1975.Trong báo cáo hàng năm [20] tới Quốc hội Hoa Kỳ, Bộ quốc phòng Mỹ cho rằng những người Đài Loan là "những người đề xuất các cú đánh vào đại lục dường như hy vọng rằng các đe dọa đối với dân cư đô thị Trung Quốc hay các mục tiêu có giá trị như đập Tam Hiệp sẽ làm giảm bớt sự áp bức quân sự của người Trung Quốc." Ý nghĩ cho rằng giới quân sự Đài Loan có thể tìm cách tiêu hủy đập Tam Hiệp đã gây ra phản ứng giận dữ từ các phương tiện thông tin đại chúng của đại lục. Tướng Liu Yuan của Giải phóng quân nhân dân đã phát biểu [21] trên China Youth Daily rằng giải phóng quân nhân dân cần "nghiêm túc trong việc bảo vệ chống lại những đe dọa từ những kẻ khủng bố Đài Loan". Mặc dù có tuyên bố của thứ trưởng quốc phòng Đài Loan Thái Minh Hiền về sự ngược lại, phần lớn các nhà phân tích cho rằng người Đài Loan không có khả năng mà cũng không tìm kiếm các công nghệ để ném bom đập Tam Hiệp vì những đe dọa của Bắc Kinh về việc đáp trả bằng lực lượng quân sự áp đảo.
Trong tháng 9 năm 2004 Thời báo Trung Quốc (China Daily) thông báo rằng một lực lượng vũ trang lớn đã được triển khai tại khu vực này để chống lại cuộc tấn công khủng bố có thể xảy ra[cần dẫn nguồn], nhưng không nói rõ về những kẻ muốn tấn công đập.
Ở đây có hai rủi ro đã được thống nhất xác định đối với đập2; đó là mô hình trầm tích vẫn chưa được kiểm tra kỹ và đập này nằm trên đứt gãy địa chấn. Trầm tích quá nhiều có thể che lấp các cửa xả nước, và nó có thể gây tổn hại cho đập trong một số tình huống. Đây chính là nguyên nhân gây ra sự cố của đập Bản Kiều năm 1975 đã làm hỏng 61 đập nước khác và gây ra cái chết của hơn 200.000 người. Ngoài ra, trọng lượng của đập và hồ chứa nước về lý thuyết có thể sinh ra địa chấn cảm ứng, giống như đã xảy ra với đập Katse ở Lesotho.
Truyền tải điện năng
Phân phối điện năng của nhà máy thủy điện Tam Hiệp sẽ không chỉ nằm trong giới hạn của Hệ thống lưới điện trung tâm Trung Quốc (bao trùm các tỉnh Hà Nam, Hồ Bắc, Hồ Nam, và Giang Tây). Thay vì điều này, điện năng cũng sẽ được truyền tải về phía tây tới Trùng Khánh và lưới điện Tứ Xuyên cũng như theo các tuyến khác về khu vực bờ biển phía đông và đông nam. Trong khi điện năng được truyền tải tới Trùng Khánh và Tứ Xuyên thông qua hệ thống đường dây 500 kV AC thì công nghệ HVDC (điện cao thế một chiều) sẽ được sử dụng cho việc phân phối về phía đông. Hai tuyến truyền tải có công suất lớn là HVDC Tam Hiệp-Trường Châu và HVDC Tam Hiệp-Quảng Đông, sẽ truyền tải điện năng về phía đông (tới khu vực Thượng Hải) và phía nam (tới tỉnh Quảng Đông).Năm | Số lượng tổ máy |
GWh | |
---|---|---|---|
2003 | 6 | 8.607 | |
2004 | 11 | 39.155 | |
2005 | 14 | 49.090 | |
2006 | 14 | 49.250 | |
2007 | 21 | 61.600 | |
2008 | 26 | 80.812 | [22] |
2009 | 26 | 79.470 | [23] |
2010 | 26 | 84.370 | [24] |
2011 | 29 | 78.290 | [25] |
2012 | 32 | 98.100 | [26] |
Tổng cộng | 29(32) | 628.744 |
Xem thêm
Ghi chú
- ^ “三峡工程最后一台机组结束72小时试运行”. ctg.com.cn. Truy cập ngày 23 tháng 6 năm 2012.
- ^ “Three Gorges underground power station electrical and mechanical equipment is fully handed over production” (bằng tiếng Trung). China Three Gorges Corporation. Truy cập ngày 8 tháng 7 năm 2012.
- ^ “三峡工程左右岸电站26台机组全部投入商业运行” (bằng tiếng Trung). China Three Gorges Project Corporation. 30 tháng 10 năm 2008. Truy cập ngày 6 tháng 12 năm 2008.
- ^ “:: Three Gorges reservoir raises water to target level”. Xinhua. 7 tháng 10 năm 2008. Truy cập ngày 23 tháng 11 năm 2010.
- ^ “Final Turbine at China's Three Gorges Dam Begins Testing”. Inventor Spot. Truy cập ngày 15 tháng 5 năm 2011.
- ^ Lin Yang (12 tháng 10 năm 2007). “China's Three Gorges Dam Under Fire”. Time. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2009. “The giant Three Gorges Dam across China's Yangtze River has been mired in controversy ever since it was first proposed” See also: Laris, Michael (17 tháng 8 năm 1998). “Untamed Waterways Kill Thousands Yearly”. Washington Post. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2009. “Officials now use the deadly history of the Yangtze, China's longest river, to justify the country's riskiest and most controversial infrastructure project – the enormous Three Gorges Dam.” and Grant, Stan (18 tháng 6 năm 2005). “Global Challenges: Ecological and Technological Advances Around the World”. CNN. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2009. “China's engineering marvel is unleashing a torrent of criticism. [...] When it comes to global challenges, few are greater or more controversial than the construction of the massive Three Gorges Dam in Central China.” and Gerin, Roseanne (11 tháng 12 năm 2008). “Rolling on a River”. Beijing Review. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2009. “..the 180-billion yuan ($26.3 billion) Three Gorges Dam project has been highly contentious.”
- ^ “Three Gorges Dam Project — Quick Facts”. ibiblio.org. Truy cập ngày 23 tháng 11 năm 2010.
- ^ “三峡水库:世界淹没面积最大的水库 (Three Gorges reservoir: World submergence area biggest reservoir)”. Xinhua Net. 21 tháng 11 năm 2003. Truy cập ngày 10 tháng 4 năm 2008.
- ^ “Three Gorges Dam to be completed nine months ahead of schedule: developer”. People's Daily Online. 2 tháng 5, 2006. Truy cập 29 tháng 5, 2006.
- ^ “Three Gorges Dam”. China culture mall trading group inc. Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2008.
- ^ “Gørild Heggelund, ''Environment and Resettlement Politics in China: The Three Gorges'', Ashgate Publishing, Ltd. - 2004 - Political Science - 294 trang, trang 23-24”. Books.google.com.vn. Truy cập ngày 1 tháng 11 năm 2013.
- ^ Institute for Technology in the Tropics thuộc Đại học Khoa học ứng dụng Cologne[liên kết hỏng]
- ^ “Kenneth Lieberthal & Michel Oksenberg, ''Policy Making in China: Leaders, Structures, and Processes'', 1988, Political Science, 464 trang, nhà in Đại học Princeton, trang 285”. Books.google.com.vn. 26 tháng 4 năm 1979. Truy cập ngày 1 tháng 11 năm 2013.
- ^ a ă “''Yangtze! Yangtze!'' của Đái Tình (戴晴, Dai Qing), chương 19- Phỏng vấn Hầu Học Dục, bản tiếng Anh trực tuyến”. Threegorgesprobe.org. Truy cập ngày 1 tháng 11 năm 2013.
- ^ Human Rights Watch[liên kết hỏng]
- ^ encarta.msn.com
- ^ “epochtimes.com”. En.epochtimes.com. 22 tháng 12 năm 2006. Truy cập ngày 1 tháng 11 năm 2013.
- ^ Chương 11: Sedimentation Analysis (Phân tích trầm tích hóa) của Philip B. Williams trong Damming the Three Gorges do Margaret Barber và Gráinne Ryder chủ biên.
- ^ “Three Gorges Dam Project”. Threegorgesprobe.org. Truy cập ngày 1 tháng 11 năm 2013.
- ^ www.defenselink.mil
- ^ “news.bbc.co.uk”. news.bbc.co.uk. 14 tháng 9 năm 2004. Truy cập ngày 1 tháng 11 năm 2013.
- ^ “中国电力新闻网――电力行业的门户网站”. Cepn.sp.com.cn. Truy cập ngày 1 tháng 8 năm 2009.
- ^ “国家重大技术装备”. Chinaequip.gov.cn. 8 tháng 1 năm 2010. Truy cập ngày 20 tháng 8 năm 2010.
- ^ “峡—葛洲坝梯级电站全年发电1006.1亿千瓦时”.
- ^ “Three Gorges Project Generates 78.29 Bln Kwh of Electricity in 2011”.
- ^ Lỗi chú thích: Thẻ
<ref>
sai; không có nội dung trong thẻ ref có tênautogenerated4
Tham khảo
- New Scientist report on greenhouse gas production by hydroelectric dams.
- Topping, Audrey Ronning. Environmental controversy over the Three Gorges Dam. Earth Times News Service.
- article by ABB on use of HVDC-technology for distribution of power generated at the Three Gorges Dam
Liên kết ngoài
Wikimedia Commons có thêm thể loại hình ảnh và tài liệu về Đập Tam Hiệp |
- Satellite Photo of Three Gorges Dam
- Three Gorges Dam
- International Rivers Network
- Troops to protect dam against terrorists – BBC Anh ngữ
- Photo gallery – BBC Anh ngữ
- Probe International, anti dam web site
- information on state power network
Ngũ Đại Thập Quốc
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Trung văn giản thể: 五代十国; Trung văn phồn thể: 五代十國; bính âm: Wǔdài Shíguó, 907-979) là một thời kỳ trong lịch sử Trung Quốc, bắt đầu từ khi triều Đường diệt vong, kéo dài đến khi triều Tống thống nhất Trung Quốc bản thổ.
Thời kỳ này phân thành Ngũ Đại (907-960) cùng Thập Quốc (907-979). Về
bản chất, Ngũ Đại Thập Quốc là sự tiếp nối của tình trạng phiên trấn cát cứ
dưới triều Đường và tình hình chính trị hậu kỳ của triều Đường. Sau khi
triều Đường diệt vong, phiên trấn các nơi tự lập quốc, trong đó tại khu
vực Hoa Bắc, các quốc gia phiên trấn lực mạnh được gọi là Ngũ Đại, trong đó có các chính quyền do tộc Sa Đà
kiến lập. Năm nước này mặc dù có thực lực lớn mạnh, song vẫn không có
khả năng khống chế toàn bộ Trung Quốc bản thổ, chỉ là triều đình theo
kiểu phiên trấn. Ở các phương khác cũng có một vài chính quyền phiên
trấn xưng đế, một vài chính quyền phụng Ngũ Đại làm tông chủ quốc, trong
đó có mười nước với thời gian tồn tại tương đối lâu dài, quốc lực khá
mạnh, gọi chung là "Thập Quốc". Trong thời kỳ này, thường phát sinh tình
huống phản biến đoạt vị, dẫn đến chiến loạn không ngừng nghỉ, những
người thống trị phần nhiều là trọng võ khinh văn. Trong bối cảnh Trung
Quốc có nội loạn, Khiết Đan Quốc có cơ hội xâm lấn phương Nam, Liêu Quốc được kiến lập.[tham 1] Ngũ Đại Thập Quốc là một thời kỳ trọng yếu trong lịch sử Trung Quốc, trong giai đoạn này Hà Tây và Tĩnh Hải quân dần dần "ly tâm", Tĩnh Hải quân (miền Bắc Việt Nam) cuối cùng thoát ly Trung Quốc để trở thành một quốc gia độc lập.
Về phần Thập Quốc, Ngô ở Giang Nam là mạnh nhất, nhưng sau bị Lý Biện soán vị, lập ra Nam Đường, tiếp đến có Ngô Việt và Mân. Vùng Hồ-Quảng lại có các nước Kinh Nam, Sở và Nam Hán. Nam Đường có quốc lực mạnh nhất, trước sau công diệt Mân, Sở, song cũng vì nhiều lần dụng binh mà quốc lực suy thoái, cuối cùng bại trước Hậu Chu. Đất Thục có Tiền Thục và Hậu Thục, quốc gia phú cường, chỉ kém có Nam Đường, song vì trì trệ trong an lạc, cuối cùng bị thế lực Trung Nguyên tiêu diệt. Bắc Hán là nước duy nhất ở phía bắc trong Thập Quốc, do hậu duệ hoàng tộc Hậu Hán kiến lập. Triệu Khuông Dẫn kiến lập triều Tống (sử gọi là Bắc Tống), cùng với hoàng đệ là Tống Thái Tông lần lượt tiêu diệt quần hùng, đến năm 979 thì thống nhất Trung Quốc bản thổ, Thập Quốc kết thúc.[tham 1]
Ngũ Đại Thập Quốc về đại thể vẫn kế tục thể chế chính trị hậu kỳ triều Đường, song rất nhiều chức quan có chữ "sứ". Trong đó, Ngũ Đại có rất nhiều biến hóa, chủ yếu là thiết tam tỉnh lục bộ làm cơ quan chủ quản hành chính, tam ty làm cơ quan chủ quản tài chính, xu mật viện làm cơ quan chủ quản quân sự, về sau được triều Tống kế thừa. Trong Thập Quốc, có một số thần phục Ngũ Đại, song cơ cấu chính trị thì phần lớn tương đồng với Ngũ Đại.[tham 2] Do tiết độ sứ địa phương không bị quản chế, đương thời họ thường quay sang phản lại Trung ương, do vậy triều đình phải tăng cường quân lực của cấm quân để áp chế nhóm thực lực địa phương. Để ngăn ngừa hiện tượng võ nhân can chính như thời Ngũ Đại, triều Tống thực thi chính sách "Cường cán nhược chi".[tham 3]
Trên phương diện ngoại giao, thời Đường, Hồ-Hán dung hợp, các dân tộc phi Hán liên tiếp đến cư trú trên khắp Trung Quốc. Sau khi bước sang thời kỳ Ngũ Đại Thập Quốc, xuất hiện một số quốc gia ngoại tộc, như người Sa Đà kiến lập Hậu Đường, Hậu Tấn và Hậu Chu. Hay như người Khiết Đan ban đầu kiến lập Khiết Đan Quốc, sau khi nam hạ diệt Hậu Tấn thì kiến quốc triều Liêu; cũng có thể kể đến người Đảng Hạng, họ có ảnh hưởng sâu sắc đến thế cục của triều Tống sau này.[tham 4]
Do phương Bắc nội loạn, ngoại tộc xâm nhập, phương nam chiếm ưu thế trên phương diện nhân khẩu, kinh tế, văn hóa và khoa học-kỹ thuật so với phương bắc. Đây cũng là thời khắc mà kinh tế Hoa Nam một lần nữa vượt qua Hoa Bắc, cục diện này sau đó chưa từng lại bị đảo ngược.[tham 5] Thập Quốc mở rộng kinh tế, xem trọng xây dựng và sửa chữa công trình thủy lợi cũng như cây trồng kinh tế, phát triển mậu dịch, sản xuất trà, dệt, đê đá sông Tiền Đường cũng được xây dựng trong thời kỳ này.[tham 5]
Trên phương diện văn hóa, đây là thời kỳ phát triển then chốt của thể loại văn học "từ". Thiền tông tại thời kỳ này tiến vào "kỳ toàn hưng". Thời Ngũ Đại Thập Quốc, người ta tiếp tục dùng mộc bản in Cửu kinh, giúp bảo tồn nhiều kinh điển Nho giáo. Trên phương diện hội họa, cả phương Bắc và phương Nam đều có chỗ độc đáo.[tham 6]
Ba cánh phiên trấn có ảnh hưởng lớn đối với triều Đường vào hậu kỳ, chính trị đầu thời Ngũ Đại là Chu Toàn Trung (Lương), Lý Khắc Dụng (Tấn) và Lý Mậu Trinh (Kỳ). Tử tôn và bộ thuộc của Lý Khắc Dụng trở thành quân chủ Hậu Đường, Hậu Tấn và Hậu Hán. Lý Khắc Dụng và Chu Toàn Trung vốn đã không hợp,[chú 2] hai bên đấu tranh không ngừng cả trên triều đình lẫn dưới phiên trấn. Chu Toàn Trung lợi dụng thế lực trong triều mà đả áp Lý Khắc Dụng, đồng thời thừa cơ uy phục các phiên trấn ở Hà Bắc, thôn tính lãnh địa của Hà Trung quân, Truy Thanh quân và các trấn khác. Việc mở rộng địa bàn khiến cho thế lực của Chu Toàn Trung vượt lên rõ rệt so với Lý Khắc Dụng.[tham 9] Tuy nhiên, khi Lý Mậu Trinh uy hiếp triều đình Đường ở Quan Trung, song vì Lý Khắc Dụng và Chu Toàn Trung can thiệp nên ông ta thất bại. Năm 888, sau khi Đường Chiêu Tông kế vị, tể tướng Thôi Dận và hoạn quan Hàn Toàn Hối (韓全誨) tranh quyền. Đường Chiêu Tông bị Hàn Toàn Hối quản thúc, Thôi Dận khẩn cấp kêu gọi Chu Toàn Trung đến cứu viện. Hàn Toàn Hối buộc Đường Chiêu Tông đến chỗ Lý Mậu Trinh, Chu Toàn Trung suất quân vây khốn Phượng Tường. Năm sau, quân Phượng Tường cạn lương thảo, Lý Mậu Trinh giết Hàn Toàn Hối và các hoạn quan cấp cao khác, hòa giải với Chu Toàn Trung. Chu Toàn Trung thừa cơ nắm giữ đại quyền, khống chế triều đình, còn đồ sát vài trăm hoạn quan, phái binh khống chế Trường An. Thôi Dận sau đó hối hận, có ý muốn thoát khỏi sự uy hiếp của Chu Toàn Trung, ngầm triệu mộ lục quân thập nhị vệ, song bị tai mắt của Chu Toàn Trung ở Trường An phát giác. Năm 904, Chu Toàn Trung giết Thôi Dận, bức bách Đường Chiêu Tông thiên đô đến Lạc Dương, đến tháng 8 cùng năm thì giết Đường Chiêu Tông và lập hoàng tử Lý Chúc làm hoàng đế, tức Đường Ai Đế. Chu Toàn Trung ban đầu muốn sau khi thống nhất Thiên hạ sẽ đoạt vị, song do cuộc chinh phục Hoài Nam kết thúc trong thất bại, đến năm 907, Chu Toàn Trung bức bách Đường Ai Đế thiện nhượng, triều Đường diệt vong, bắt đầu thời kỳ Ngũ Đại Thập Quốc. Chu Toàn Trung cải danh thành Chu Hoảng, kiến quốc Hậu Lương, tức Hậu Lương Thái Tổ, cuối cùng định đô tại Biện châu.[tham 9]
Hậu Lương Thái Tổ tiến hành không ít các cải cách mạnh mẽ nhằm chống lại những điều tiêu cực vào hậu kỳ triều Đường, ngoài ra ông còn rất chán ghét hoạn quan, từng cự tuyệt các hoạn quan từ phương Nam đến kinh thành tị nạn [tham 14] giết chết hoặc áp bức quan viên cao cấp triều Đường, song sử dụng những sĩ nhân "thất ý" như Lý Chấn, Kính Tường, còn nghe theo kiến nghị của Lý Chấn mà đồ sát 30 danh cao quan như tể tướng Bùi Xu, Thôi Viễn, sử gọi là Bạch Mã chi họa.[tham 15] Các sĩ nhân này trọng thực tế và khinh danh nghĩa, là đại biểu cho các nhân vật chính trị thời Ngũ Đại Thập Quốc.[tham 16] Trên phương diện kinh tế, Hậu Lương xem trọng phát triển nông nghiệp, giảm nhẹ thuế má. Trên phương diện quân sự, Hậu Lương rất nghiêm nhặt, nếu như tướng chiến tử, binh sĩ dưới quyền đều bị chém đầu, xưng là "bạt đội trảm". Tuy nhiên vào những năm cuối, Hậu Lương Thái Tổ hoang dâm vô độ, thậm chí trái với luân lý, thường triệu thê của các con vào cung để hầu hạ. Trên phương diện ngoại giao, những năm đầu Hậu Lương lập quốc, hầu như tất cả các quốc gia và phiên trấn đều tuyên bố thần phục, chỉ có Tấn, Kỳ, Tiền Thục, và Ngô là đối địch với Hậu Lương, dùng niên hiệu cũ của triều Đường nhằm thể hiện tôn thờ Đường thất. Trong đó, nước Tấn của Lý Khắc Dụng là tử địch của Hậu Lương Thái Tổ, sau khi khai quốc, Hậu Lương Thái Tổ liền bắc phạt đánh Tấn, tại Lộ châu (nay thuộc Trường Trị, Sơn Tây) lâm vào thế ngang ngửa với Lý Khắc Dụng, sử gọi là chiến dịch Lộ châu. Sau khi Lý Khắc Dụng qua đời do lo âu và kiệt sức, con ông là Lý Tồn Úc giành được thắng lợi với sự phụ tá của Lý Khắc Ninh và Trương Thừa Nghiệp. Năm 910, Hậu Lương Thái Tổ nghi ngờ Thành Đức quân và Tấn bí mật liên kết, vì thế suất quân tiến đánh, khiến Thành Đức tiết độ sứ Vương Dung và Nghĩa Vũ tiết độ sứ Vương Xử Trực quay sang với Lý Tồn Úc. Lý Tồn Úc suất quân đến Bách Hương, đánh tan quân Hậu Lương, cứu viện thành công Thành Đức quân, còn nguyên khí quân Hậu Lương tổn hao nặng nề, sử gọi là trận Bách Hương. Ở xa hơn về phía bắc, Lưu Thủ Quang là người tàn bạo, cũng là một địch thủ mạnh của Tấn. Năm 909, Lưu Thủ Quang được Hậu Lương Thái Tổ phong làm Yên vương, ba năm sau, Lưu Thủ Quang xưng đế, kiến lập nước Yên. Năm sau, Lý Tồn Úc phái Chu Đức Uy tiến đánh Lưu Thủ Quang, Hậu Lương Thái Tổ tự suất quân cứu viện cho Lưu Thủ Quang, song bị quân Tấn đánh tan. Cuối cùng, đến mùa đông năm 903, U châu thất thủ, Lưu Thủ Quang sau đó bị quân Tấn bắt giữ.[tham 11]
Sau khi chiến bại, Hậu Lương Thái Tổ triệt thoái về Lạc Dương, sau lâm bệnh nặng, thứ tử Chu Hữu Khuê bất mãn vì phụ hoàng có ý muốn lập con nuôi là Chu Hữu Văn làm thái tử,[tham 17] nên thừa cơ sát hại phụ hoàng rồi kế vị. Tuy nhiên, Chu Hữu Khuê hoang dâm vô độ, không được lòng người, đến năm 913 thì em trai là Chu Hữu Trinh liên hiệp với Thiên Hùng (tức Ngụy Bác) tiết độ sứ Dương Sư Hậu tiến đánh đoạt vị. Sau khi Dương Sư Hậu qua đời, các phiên trấn ở Hà Bắc như Thiên Hùng quân liên tiếp quy phục Tấn. Năm 916, tại Ngụy châu, quân Hậu Lương thảm bại trước quân Tấn, biên cương phía bắc của Hậu Lương chỉ có thể cố gắng duy trì tại bờ nam Hoàng Hà. Năm 918, Lý Tồn Úc lại suất quân nam chinh, đối kháng với quân Hậu Lương ở khu vực Bộc châu. Quân Hậu Lương lại thảm bại, song tướng Tấn Chu Đức Uy cũng chiến tử, chiến tranh Lương-Tấn sau đó bước vào một thời kỳ yên lặng. Năm 921, Trương Văn Lễ giết Thành Đức tiết độ sứ Vương Dung, khống chế Thành Đức quân, liên hiệp với Khiết Đan Quốc và Hậu Lương để đối kháng với Tấn. Tuy nhiên, Lý Tồn Úc suất quân đến Trấn châu (trị sở nay thuộc huyện Chính Định, Hà Bắc), đánh tan liên quân Triệu-Lương, lại đoạt được Hà Bắc tam trấn. Ngày Kỷ Tị (25) tháng 4 năm Quý Mùi (13 tháng 5 năm 923), Lý Tồn Úc xưng đế, tức Hậu Đường Trang Tông, kiến lập Hậu Đường, không lâu sau lại tiến hành nam chinh. Tướng Hậu Lương là Vương Ngạn Chương chọn phương thức khiên chế ở Vận châu (nay thuộc Đông Bình, Sơn Đông), ngăn chặn thành công quân Hậu Đường ở phụ cận Dương Lưu (nay thuộc Đông A, Sơn Đông). Hai bên lâm vào thế bế tắc trong một thời gian dài, quân Hậu Đường không có đủ quân lương, có ý triệt thoái. Tuy nhiên, trong triều đình Hậu Lương, Triệu Nham và Trương Hán Kiệt tiến sàm ngôn, khiến Vương Ngạn Chương bị triệu về, Hậu Đường Trang Tông lại suất quân qua Vận châu, đến tiến công Biện châu đang không được phòng bị. Ngày Mậu Dần tháng 10 (tức 18 tháng 11 năm 923), Chu Hữu Trinh thấy không đối phó nổi nên cùng với hoàng hậu tự sát, Hậu Lương diệt vong.[tham 11]
Mặc dù đối ngoại cường thịnh, song mâu thuẫn nội bộ Hậu Đường lại ngày càng lớn. Sau khi Hậu Đường Trang Tông định đô ở Lạc Dương, ông chiêu hồi hoạn quan về đảm nhiệm các chức vụ trọng yếu, tin dùng nhóm người bảo thủ như Lý Tập Cát, gần như tương đồng với nền chính trị hậu kỳ triều Đường, triều chính ngày càng bại hoại.[tham 16] Hậu Đường Trang Tông tự nhận định cơ nghiệp đã vững vàng, không chuyên tâm triều chính, tứ tình túng dục, tự dùng nghệ danh "Lý Thiên Hạ", tin dùng đám người như linh nhân Kính Tân Ma, linh quan Cảnh Tiến. Đương thời, quân đội có quy mô lớn, quốc khố eo hẹp, song Lưu hoàng hậu can dự việc triều chính, tham lam yêu tiền bạc, đưa một nửa số thuế thu được đến hậu cung, khiến triều đình phải giảm bớt quân lương để chi cho các khoản khác, do vậy mà xuất hiện tâm lý bất mãn, sau khi chinh phục được Tiền Thục thì quân Hậu Đường tiến hành binh biến.[tham 18]
Sau khi Quách Sùng Thao hoàn thành nhiệm vụ tiêu diệt Tiền Thục, Lý Kế Ngập cảm thấy bất mãn do không được tham dự sâu vào quân vụ. Lý Kế Ngập mật báo với triều đình, có ý muốn hãm hại Quách Sùng Thao. Hậu Đường Trang Tông có ý điều tra trước rồi sau mới quyết định, song Lý hoàng hậu tự ý mệnh cho Lý Kế Ngập xử tử Quách Sùng Thao. Năm 926, Quách Sùng Thao bị giết, quân Đường lòng quân tan tác, xảy ra binh biến khắp nơi. Lưu hoàng hậu không muốn đem của cải của mình ra để lạo quân, khiến tình hình càng thêm tồi tệ.[tham 19] Không lâu sau, binh lính Ngụy Bác quân do Triệu Tại Lễ suất lĩnh nổi dậy ở Ngụy châu (nay thuộc Đại Danh, Hà Bắc), Hậu Đường cho Lý Chiêu Vinh đi trấn áp song thất bại, Hậu Đường Trang Tông buộc phải phái Lý Tự Nguyên đem quân đi bình định. Tại Ngụy châu, Lý Tự Nguyên nhận được sự ủng hộ của bộ chúng và loạn quân, quay sang đem quân tiến về phía nam đánh lại Hậu Đường Trang Tông. Quân Hậu Đường ở các nơi không muốn tác chiến vì Hậu Đường Trang Tông, Biện châu và Lạc Dương liên tiếp bị chiếm, Hậu Đường Trang Tông bị tên lạc giết chết trong cảnh nội loạn.[tham 20] Sau khi tiến vào Lạc Dương, Lý Tự Nguyên đồ sát các quan lại và xưng đế, tức Hậu Đường Minh Tông, Lý Kế Ngập tự sát ở Trường An.[tham 18]
Trong thời gian chấp chính, Hậu Đường Minh Tông trừ bỏ các tệ chính dưới thời Hậu Đường Trang Tông, triều chính dần ổn định. Ông diệt trừ hoạn quan, tin dùng sĩ nhân; triệt tiêu không ít cơ quan dư thừa, thiết lập cơ quan tài chính như tam ty; đề xướng tiết kiệm, củng cố thủy lợi, quan tâm đến nỗi thống khổ của bách tính; tăng cường quân lực trung ương, kiến lập thị vệ thân quân để áp chế phiên trấn. Đây là một giai đoạn ổn định hiếm thấy vào thời Ngũ Đại, sử gia nhận định Hậu Đường Minh Tông là minh quân chỉ đứng sau Hậu Chu Thế Tông vào thời Ngũ Đại, một số chế độ do ông lập ra sau được triều Tống kế thừa.[tham 16] Song đến những năm cuối triều đại của Hậu Đường Minh Tông, Hậu Đường lại xảy ra tình trạng nội loạn. Năm 933, Hậu Đường Minh Tông lâm trọng bệnh, con là Lý Tòng Vinh đoạt vị rồi bị giết chết, ấu tử là Lý Tòng Hậu kế vị, tức Hậu Đường Mẫn Đế. Đương thời, hai vị đại tướng của Hậu Đường Minh Tông: con nuôi Lý Tòng Kha nhậm chức Phượng Tường tiết độ sứ, con rể Thạch Kính Đường nhậm chức Hà Đông tiết độ sứ, đều có binh lực hùng mạnh. Tể tướng Chu Hoằng Chiêu, Phùng Bản chủ trương tước bỏ binh quyền của các tiết độ sứ, song lại châm ngòi cho binh biến. Năm 934, Lý Tòng Kha đem quân tiến đến Lạc Dương, Hậu Đường Mẫn Đế bị Thạch Kính Đường bắt giữ trên đường chạy đến Ngụy châu, cuối cùng bị Lý Tòng Kha giết. Lý Tòng Kha xưng đế, tức Hậu Đường Mạt Đế.[tham 18] Trong lúc Trung Nguyên có rối loạn, xảy ra sự kiện Hậu Thục độc lập. Nguyên do là sau khi Tiền Thục diệt vong, Hậu Đường Trang Tông bổ nhiệm Mạnh Tri Tường làm Tây Xuyên tiết độ sứ, không lâu sau Hậu Đường Minh Tông đoạt vị, Mạnh Tri Tường luyện binh để thực hiện ý đồ độc lập. Năm 932, sau khi thôn tính Đông Xuyên quân của Đổng Chương, Mạnh Tri Tường được Hậu Đường Minh Tông phong làm Thục vương, đến khi Hậu Đường Mạt Đế phát động nội loạn, Mạnh Tri Tường xưng đế, kiến quốc Hậu Thục. Cùng năm đó, Mạnh Tri Tường qua đời, con là Mạnh Sưởng kế vị. Mạnh Sưởng cai trị tốt đẹp, lãnh thổ được mở rộng, Hậu Thục duy trì cục diện hòa bình trong vòng 30 năm.[tham 18]
Ngay từ thời Hậu Đường Minh Tông, Hậu Đường Mạt Đế và Thạch Kính Đường đã phân bì không hợp tác. Sau khi Hậu Đường Mạt Đế kế vị, ông rất nghi kị Thạch Kính Đường, Thạch Kính Đường lo sợ và trong lòng có ý muốn vùng dậy.[tham 21] Năm 926, Hậu Đường Mạt Đế điều nhiệm Thạch Kính Đường đến Thiên Bình quân, lại mệnh cho Trương Kính Đạt và Dương Quang Viễn suất quân hối thúc. Thạch Kính Đường nghe theo kiến nghị của Tang Duy Hàn và Lưu Tri Viễn, quyết định mượn binh Khiết Đan Quốc để nổi dậy, còn xưng là "con" với Liêu Thái Tông Da Luật Đức Quang, xin cắt nhượng Yên Vân thập lục châu cho người Khiết Đan.[chú 3] mỗi năm dâng tặng 30 vạn thất lụa. Trương Kính Đạt nghe tin về vụ nổi dậy, liền suất quân vây đánh thành Thái Nguyên, Thạch Kính Đường kiên trì cố thủ. Đương thời, Lô Long quân của Triệu Đức Quân và quốc chủ Khiết Đan Da Luật Đức Quang có ý hợp tác cùng thôn tính Trung Nguyên, Thạch Kính Đường hết sức lo sợ, lập tức lệnh cho Tang Duy Hàn đến gặp Da Luật Đức Quang. Tang Duy Hàn quỳ gối trước trướng của người Khiết Đan, ra sức cầu xin, khiến Da Luật Đức Quang từ bỏ kế hoạch hợp tác với Triệu Đức Quân. Da Luật Đức Quang suất quân giải vây cho Thạch Kính Đường, trợ giúp Thạch Kính Đường kiến quốc Hậu Tấn tại Thái Nguyên, tức Hậu Tấn Cao Tổ. Năm 937, quân Hậu Tấn và quân Khiết Đan tiến về phía nam, Dương Quang Viễn, Triệu Đức Quân và các trấn khác liên tiếp đầu hàng. Quân Hậu Tấn tự mình đánh Lạc Dương, Hậu Đường Mạt Đế phóng hỏa tự sát, Hậu Đường diệt vong. Hậu Tấn Cao Tổ định đô ở Biện châu, và cắt nhượng Yên Vân thập lục châu cho Khiết Đan Quốc theo cam kết trước đây, và từ đó Khiết Đan Quốc có ảnh hưởng rất lớn đối với Ngũ Đại.[tham 18]
Sau khi nắm giữ đại quyền nước Ngô, Từ Ôn nhiều lần tiến đánh nước Ngô Việt song không đạt được thành quả, đến cuối thời Hậu Lương thì mới hòa đàm. Sau khi triều Đường diệt vong, nước Ngô không thừa nhận địa vị tông chủ của Hậu Lương, vẫn tiếp tục sử dụng niên hiệu của Đường Ai Đế, song đến năm 919 thì nước Ngô cải nguyên, chính thức cắt đứt quan hệ với triều Đường không còn tồn tại. Về đối nội, Từ Ôn dần trừ bỏ hết các cựu tướng của họ Dương, củng cố thế lực của bản thân, song con trưởng là Từ Tri Huấn chuyên chính, kiêu ngạo ngang ngược, tùy tiện; thậm chí từng có lần lấn hiếp Ngô vương Dương Long Diễn, cuối cùng bị bộ hạ là Chu Cẩn sát hại. Con nuôi của Từ Ôn là Từ Tri Cáo bình định rối loạn, Từ Tri Cáo hết sức hiếu cẩn với Từ Ôn, cuối cùng trở thành người kế thừa chính quyền của Từ Ôn.[tham 25] Dương Long Diễn uất hận mà qua đời, con là Dương Phổ kế vị, đến năm 927 thì xưng đế, tức Ngô Duệ Đế. Năm 927, Từ Ôn qua đời, được truy phong là Tề vương, Từ Tri Cáo kế vị, trở thành người thống trị trên thực tế của nước Ngô. Từ Tri Cáo sinh hoạt tiết kiệm, tôn trọng Ngô Đế và các tướng lĩnh, rất được lòng người.[tham 26] Năm 937, Từ Tri Cáo soán vị Ngô Duệ Đế, kiến lập nước Tề, định đô ở Kim Lăng, gọi là Giang Ninh phủ, nay thuộc Nam Kinh của Giang Tô. Hậu Đường diệt vong cùng năm đó, hai năm sau thì Từ Tri Cáo tự xưng là hậu duệ Đường thất, cải danh Lý Biện, kiến quốc Nam Đường, tức Nam Đường Liệt Tổ.[tham 27] Sau khi kiến quốc, Lý Biện chọn chính sách để dân chúng nghỉ ngơi, hữu hảo với lân quốc, quốc lực tiếp tục cường thịnh. Năm 943, Lý Biện qua đời, con là Lý Cảnh kế vị, tức Nam Đường Nguyên Tông. Đầu thời gian trị vì của Lý Cảnh, quốc lực Nam Đường vẫn cường thịnh, về đối ngoại thì liên minh hòa hảo với triều Liêu để áp chế Hậu Chu, đối với các quốc gia xung quanh thì thừa cơ xâm nhập, liên tiếp diệt nước Mân và nước Sở.[tham 23][tham 24]
Ở đông nam của Nam Đường có nước Ngô Việt và nước Mân. Người kiến lập nước Ngô Việt là Trấn Hải-Trấn Đông tiết độ sứ Tiền Lưu, thủ đô là Hàng châu, cương vực nhìn chung tương đương với tỉnh Chiết Giang ngày nay. Năm 907, Tiền Lưu được Hậu Lương phong làm Ngô Việt vương, tức Ngô Việt Thái Tổ. Trong thời gian tại vị, Tiền Lưu thúc đẩy kinh tế, bảo vệ cương giới và yên ổn dân chúng. Về mặt đối ngoại, Ngô Việt tôn Ngũ Đại là tông chủ quốc, đối đầu với Ngô rồi Nam Đường, chính sách đó được duy trì cho đến khi vong quốc. Ngoài ra, Ngô Việt còn từng phái sứ sang sách phong cho quốc vương các nước như Bột Hải Quốc, Tân La, các nước trong vùng biển lân cận đều tôn là quân trưởng.[tham 23][tham 24] Nước Mân do Phúc Kiến quan sát sứ Vương Triều kiến lập, ông ta cùng với em là Vương Thẩm Tri khống chế khu vực Phúc Châu, sau được phong làm Uy Vũ tiết độ sứ, cương vực ước đoán tương đương với tỉnh Phúc Kiến hiện nay. Sau khi Vương Thẩm Tri chấp chính, đến năm 909 thì được Hậu Lương phong làm Mân vương, tức Mân Thái Tổ. Trong thời gian tại vị, Vương Thẩm Tri đề xướng việc tiết kiệm, cho dân chúng nghỉ ngơi, xưng thần với Ngũ Đại, khiến nước Mân phát triển nhanh chóng. Năm 925, sau khi Vương Thẩm Tri qua đời, những người kế vị, tông thất và đại thần nghi kị tranh đấu lẫn nhau, khiến nước Mân dần suy yếu.[tham 23][tham 24]
Năm 943, em trai của Mân Cảnh Tông Vương Diên Hy là Vương Diên Chính xưng đế ở Kiến châu (nay thuộc Kiến Âu, Phúc Kiến), đặt quốc hiệu là "Ân". Năm sau, Vương Diên Hy bị đại thần sát hại, trong nước đại loạn. Năm 945, Vương Diên Chính cải quốc hiệu thành Mân. Cùng năm, Nam Đường Nguyên Tông Lý Cảnh thừa cơ tiến đánh nước Mân, công hạ Kiến châu, Mân diệt vong. Tuy nhiên, Ngô Việt cũng thừa cơ vượt qua ranh giới, tướng Mân là Lý Nhân Đạt đem Phúc châu nương nhờ Ngô Việt, còn Thanh Nguyên quân tiết độ sứ Lưu Tòng Hiệu chiếm cứ Tuyền châu và Chương châu. Nam Đường cuối cùng chỉ đoạt được Kiến châu và Đinh châu (nay thuộc tây bắc bộ Phúc Kiến), còn quan hệ với Ngô Việt thì tiếp tục xấu đi. Không lâu sau, Nam Đường thừa cơ Sở có nội loạn, năm 951 phái Biên Hạo đánh diệt Sở, song năm sau tướng Sở là Lưu Ngôn khởi binh phản kháng, khiến Nam Đường mất khu vực Hồ Nam. Nam Đường dụng binh trong nhiều năm, quốc lực bị tiêu hao đi rất nhiều, kết quả để mất một phần lớn lãnh địa. Lại thêm Lý Cảnh là người nhu hòa, thích nghe lời xu ninh và ghét lời nói ngay thẳng, vì vậy đám người tiểu nhân tranh nhau tiến tước, chính sự ngày một bại hoại. Năm 957, Hậu Chu thừa cơ phát binh đánh Nam Đường. Lý Cảnh chiến bại, phải cắt nhượng 14 châu Giang Bắc cho Hậu Chu, đồng thời tự bãi bỏ đế hiệu, chỉ xưng là Giang Nam quốc chủ, nguyên khí Nam Đường bị tổn hại nghiêm trọng. Thái tử Lý Hoằng Ký là người có tài năng quân sự, cho rằng thúc phụ Lý Cảnh Toại có ý muốn đoạt vị nên hạ độc giết chết, song sau đó Lý Hoằng Ký cũng qua đời. Lý Cảnh cải lập người con thứ năm là Lý Dục làm Thái tử, song Lý Dục lại có khí chất thư sinh quá lớn. Để tránh bị quân Hậu Chu và quân Ngô Việt liên hiệp xâm nhập Kim Lăng, Lý Cảnh thiên đô đến Hồng châu, tức Nam Xương phủ. Năm 961, Lý Cảnh qua đời, Lý Dục tức vị, tức Nam Đường Hậu Chủ, hoàn đô về Kim Lăng phủ. Đến lúc này, Nam Đường không còn uy hiếp được Ngũ Đại, chỉ có thể bảo cảnh an dân.[tham 23][tham 24]
Nước Sở do Vũ An tiết độ sứ Mã Ân kiến lập. Thời loạn Tần Tông Quyền, bộ thuộc của Tần Tông Quyền là Tôn Nho tiến đánh Lưỡng Hoài của Dương Hành Mật song chiến bại bị giết, bộ tướng của Tôn Nho là Mã Ân đem một bộ phận binh mã vượt qua Giang Tây đến cát cứ ở Hồ Nam.[tham 1] Năm 907, sau khi Hậu Lương được kiến lập, Mã Ân xưng thần với Hậu Lương, được phong làm Sở vương, tức Vũ Mục vương. Thế lực của Mã Ân bao trùm lên khu vực nay là tỉnh Hồ Nam và bắc bộ Quảng Tây, về đối ngoại thì Sở thần phục các triều Ngũ Đại, về đối nội thì bình định loạn quân, cường phiên, chọn chính sách bảo cảnh an dân, khiến quốc thế nước Sở cường thịnh. Năm 927, Hậu Đường phong Mã Ân làm Sở quốc vương, định đô ở Đàm châu, tức Trường Sa phủ. Sang thời Sở Văn Chiêu vương Mã Hy Phạm, nước Sở mở rộng đến khu vực nay là đông bắc bộ Quảng Tây, quốc thế rất thịnh. Tuy nhiên, sau khi Mã Hy Phạm qua đời năm 945, quốc thế nước Sở đại loạn, các tướng Sở ủng hộ Mã Hy Quảng kế lập, khiến một người con khác là Mã Hy Ngạc bất mãn và làm phản. Năm 950, Mã Hy Ngạc hạ được thành Trường Sa, tức Sở Cung Hiếu vương. Tuy nhiên, Mã Hy Ngạc là người túng tửu hoang dâm, khiến tướng Sở là Chu Quỳ, Chu Hành Phùng làm phản. Họ ủng hộ một người trong tông thất họ Mã là Mã Quang Huệ làm Vũ Bình tiết độ sứ, còn Lưu Ngôn là Vũ Bình quân lưu hậu, suất quân chiếm cứ Lãng châu (nay thuộc Thường Đức, Hồ Nam). Không lâu sau, Từ Uy lại ủng hộ Mã Hy Sùng làm Vũ An quân lưu hậu, trục xuất Mã Hy Ngạc. Tuy nhiên, Mã Hy Ngạc chạy đến Hành Sơn thì lại được ủng hộ lên ngôi. Sau khi nước Sở bị phân chia giữa ba phe: Mã Quang Huệ, Mã Hy Sùng, Mã Hy Ngạc, đến năm 951 thì Nam Đường Nguyên Tông Lý Cảnh thừa cơ phái Biên Hạo công chiếm Trường Sa, Mã Hy Sùng và Mã Hy Ngạc lần lượt đầu hàng, nước Sở mất. Đồng thời, Nam Hán chiếm lấy Quế châu (nay là khu vực Quế Lâm, Quảng Tây), chiếm cứ toàn địa khu Lĩnh Nam. Năm sau, Vũ Bình quân lưu hậu Lưu Ngôn không muốn đầu hàng, quyết định phái Vương Quỳ và Chu Hành Phùng đánh hạ Đàm châu, đến lúc này Nam Đường quyết định rút hoàn toàn khỏi khu vực Hồ Nam. Lưu Ngôn được Hậu Chu phong làm Vũ Bình tiết độ sứ, song do đối lập với Vương Quỳ nên bị Vương Quỳ và Chu Hành Phùng truất phế và giết chết. Tuy nhiên, Vương Quỳ tham lam vô độ, bị bộ hạ là Phan Thúc Tự sát hại, cuối cùng Chu Hành Phùng trở thành người cai quản Vũ Bình quân. Chu Hành Phùng loại bỏ những điều xấu xa trong nền chính trị của Sở trước đây, yêu thương và bảo hộ bách tính, đề xướng liêm khiết, nghiêm khắc với tướng lĩnh. Khu vực Hồ Nam khôi phục tình hình bình ổn, kéo dài cho đến khi Chu Hành Phùng qua đời vào năm 962.[tham 23][tham 24]
Nam Hán do Thanh Hải tiết độ sứ Lưu Ẩn đặt nền móng, năm 907, Lưu Ẩn được Hậu Đường phong làm Bành quận vương, cuối cùng được phong làm Nam Hải vương. Sau khi ổn định vững chắc Lĩnh Nam, Lưu Ẩn trọng dụng sĩ nhân địa phương,[tham 28] đặt cơ sở cho việc kiến quốc trong tương lai. Năm 911, Lưu Ẩn qua đời, em là Lưu Nghiễm kế vị. Năm 919, sau khi thống nhất Lĩnh Nam, Lưu Nghiễm xưng đế, tức Nam Hán Cao Tổ; đặt quốc hiệu là "Đại Việt", định đô ở Phiên Ngung, hiệu Hưng vương phủ; năm sau cải quốc hiệu thành Hán, tức Nam Hán. Lưu Nghiễm hòa hảo với lân quốc, mở rộng chế độ khoa cử. Tuy nhiên, bản thân Lưu Nghiễm lại tàn khốc xa xỉ, thường giết người để làm trò tiêu khiển, sủng hạnh hoạn quan, chính sự không yên ổn. Năm 942, Nam Hán Cao Tổ qua đời, con là Lưu Phần kế vị, tức Nam Hán Thương Đế. Lưu Phần tham lam, thích hưởng lạc, đương thời có cuộc nổi dậy của Trương Ngộ Hiền, năm sau thì Lưu Phần bị em là Lưu Thịnh giết chết. Lưu Thịnh tự lập làm hoàng đế, tức Nam Hán Trung Tông. Trong thời gian tại vị, Lưu Thịnh đoạt được Dung châu (nay thuộc Bắc Lưu, Quảng Tây) và Ung châu (nay thuộc Nam Ninh, Quảng Tây) của Sở, đề xướng việc sử dụng hình phạt nghiêm khắc để lập uy, là một người tàn bạo, tiến hành đồ sát hoàng tộc và các đại thần tướng lĩnh, Nam Hán chỉ còn lại hoạn quan và cung nữ chấp chính. Năm 958, sau khi Lưu Thịnh qua đời, con là Lưu Sưởng kế vị, tức Nam Hán Hậu Chủ.[tham 23][tham 24]
Do tướng lĩnh và bách tính Hậu Tấn thấy bất mãn trước việc cúi mình tôn thờ ngoại tộc, Hậu Tấn Xuất Đế nghe theo kiến nghị của Cảnh Diên Quảng, bỏ xưng thần mà chuyển sang xưng là cháu với Khiết Đan Quốc. Cảnh Diên Quang có thái độ thù địch mãnh liệt với người Khiết Đan, ông ta giết hại thương nhân Khiết Đan, bắt giữ sứ giả Khiết Đan, nhiều lần gây hấn với Khiết Đan.[tham 30] Những điều này khiến Khiết Đan khả hãn Da Luật Đức Quang phẫn nộ, đến năm 944 thì suất quân nam chinh. Đương thời, Hà Bắc đại hạn, châu chấu tàn phá, quân Khiết Đan đánh chiếm Bối châu (nay thuộc Thanh Hà, Hà Bắc) và những nơi khác rồi quay trở lại. Năm sau, Hậu Tấn Xuất Đế phái Đỗ Trọng Uy suất quân bắc phạt, Da Luật Đức Quang hay tin thì suất đại quân tiến về phương nam, Đỗ Trọng Uy đánh tan quân Khiết Đan tại Bạch Câu (giữa Định Hưng, Tân Thành thuộc Hà Bắc). Tuy nhiên, sau trận Bạch Câu, Hậu Tấn Xuất Đế ngày càng kiêu ngạo xa xỉ, lại cho Phùng Ngọc chấp chính, hối lộ trở nên công khai, triều chính bại hoại. Năm 946, Hậu Tấn Xuất Đến lại phái Đỗ Trọng Uy suất quân bắc phạt, hội chiến với Da Luật Đức Quang tại Hô Đà Hà. Đương thời, Đỗ Trọng Uy có ý muốn đoạt vị, quay sang đầu hàng Da Luật Đức Quang. Da Luật Đức Quang thừa cơ đem liên quân tiến thẳng đến gần Khai Phong, đại tướng Hậu Tấn là Lý Thủ Trinh và Trương Ngạn Trạch liên tiếp đầu hàng, cuối cùng Hậu Tấn Xuất Đế cũng ra khỏi thành đầu hàng, Hậu Tấn diệt vong, sử gọi là chiến tranh Liêu diệt Tấn. Năm sau, Da Luật Đức Quang cải quốc hiệu thành "Đại Liêu", tức Liêu Thái Tông, chính thức kiến lập triều Liêu.[tham 31] Liêu Thái Tông vốn rất có thành tâm trong việc mưu hoạch phát triển Trung Quốc, song do thực hiện chính sách "đả thảo cốc" và cướp người làm đầy tớ, khiến cho bách tính Trung Nguyên hợp lại phản kháng. Ở Hà Đông, Lưu Tri Viễn nghe theo kiến nghị của Trương Ngạn Uy, lấy lý do Trung Nguyên vô chủ mà xưng đế, kiến quốc Hậu Hán, tức Hậu Hán Cao Tổ. Liêu Thái Tông không áp chế nổi cục diện, lấy lý do thời tiết nóng nực mà suất quân trở về phương Bắc.[tham 32] Liêu Thái Tông để Tiêu Hàn lưu thủ Khai Phong, Đỗ Trọng Uy lưu thủ Nghiệp Đô; cuối cùng qua đời ở Sát Hồ Lâm (nay là Loan Thành, Hà Bắc), cháu trai là Da Luật Ngột Dục kế vị, tức Liêu Thế Tông.[tham 29]
Sau khi quân Liêu quay về phía bắc, Hậu Hán Cao Tổ bắt đầu thu phục Trung Nguyên. Sau khi biết tin, Tiêu Hàn bắt ép một người thuộc tông thất Hậu Đường là Lý Tòng Ích xưng đế tại Khai Phong, sau đó trở về phương Bắc. Hậu Hán Cao Tổ giết chết Lý Tòng Ích, định đô tại Khai Phong, đồng thời phái Cao Hành Chu cùng Mộ Dung Ngạn Siêu hàng phục Đỗ Trọng Uy trong trận Ngụy châu, các trấn nối tiếp nhau quy phục. Năm 948, Hậu Hán Cao Tổ qua đời, con là Lưu Thừa Hựu kế vị, tức Hậu Hán Ẩn Đế, đồng thời cho Dương Bân, Quách Uy, Sử Hoằng Triệu, và Vương Chương làm đại thần phụ quốc. Đương thời, Hà Trung tiết độ sứ Lưu Thủ Trung nổi dậy, song bị Quách Uy bình định. Sau khi trưởng thành, Hậu Hán Ẩn Đế nghi kỵ các đại thần phụ quốc, cùng Quách Doãn Minh hiệp nghị, năm 950 nhân quân Liêu tiến công Hà Bắc, phái Quách Uy trấn thủ Nghiệp Đô, sau đó đại sát các đại thần như Dương Bân, Sử Hoằng Triệu và Vương Chương, cũng giết người nhà của Quách Uy, triệu Thái Ninh quân tiết độ sứ Mộ Dung Ngạn Siêu cấp tốc nhập kinh. Quách Uy nghe theo kiến nghị của Ngụy Nhân Phổ nên quyết định khởi binh tiến về phương nam, đồng thời phái con nuôi là Sài Vinh trấn thủ Nghiệp Đô. Năm sau, Quách Uy đánh tan quân của Mộ Dung Ngạn Siêu, đánh vào Khai Phong, Hậu Hán Ẩn Đế bị giết. Quách Uy vốn có ý muốn lập con của Lưu Sùng (em Hậu Hán Cao Tổ) là Lưu Vân làm hoàng đế, do vậy trước tiên để Lý thái hậu lâm triều. Đương thời, quân Liêu xâm nhập, Quách Uy xuất quân chống lại, nhưng khi đại quân đến Thiền châu (nay thuộc Bộc Dương, Hà Bắc), quân sĩ ủng hộ Quách Uy xưng đế, đại quân quay trở về Khai Phong. Năm 951, Quách Uy xưng đế, kiến quốc Hậu Chu, tức Hậu Chu Thái Tổ, Hậu Hán mất.[tham 33]
Năm 954, Hậu Chu Thái Tổ qua đời, Sài Vinh kế vị, tức Hậu Chu Thế Tông. Hậu Chu Thái Tông là "đệ nhất danh quân" thời Ngũ Đại Thập Quốc,[tham 34] mới kế vị đã phải đương đầu với việc Hoàng đế Bắc Hán Lưu Sùng cùng tướng Liêu Dương Cổn (tức Da Luật Địch Lộc) liên hiệp tiến về phía nam. Đương thời, triều đình Hậu Chu kinh sợ, đại đa số chủ trương hành sự thận trọng, tuy nhiên sau đó Hậu Chu Thế Tông có thể tự thân đánh tan liên quân Liêu-Bắc Hán, đồng thời xử trảm các tướng lĩnh sau khi lâm trận mà thoái, sử gọi là trận Cao Bình. Kể từ sau đó, Hậu Chu cải cách chế độ quân sự, tinh giản cấm quân trung ương, bổ sung binh sĩ khỏe mạnh, hình thành cấm quân "điện tiền chư ban". Trên phương diện nội chính, Hậu Chu Thế Tông chiêu phủ dân lưu vong, giảm thiểu trưng thu thuế, ổn định kinh tế trong nước. Hậu Chu chỉnh đốn việc quan lại xử trị ở các địa phương, tuyển mộ văn nhân, trừ bỏ chính trị võ nhân, khiến chính trị Hậu Chu trở nên trong sạch. Năm 955, Hậu Chu Thế Tông phế bỏ Phật tự trong Thiên hạ, thu được một lược đồng lớn dùng để chỉnh đốn kinh tế.[tham 35]
Sau khi ổn định được quốc nội, Hậu Chu Thế Tông có ý đồ thống nhất Thiên hạ, ông lấy "mười năm mở mang Thiên hạ, mười năm dưỡng bách tính, mười năm đạt tới thái bình" làm mục tiêu. Năm 955, Hậu Chu Thế Tông suất quân đánh tan quân Hậu Thục, chiếm được khu vực Tần châu, Hán Trung. Năm 956, Hậu Chu Thế Tông suất binh đánh tan quân Nam Đường, giành được đất Giang Bắc, bách Nam Đường xưng thần. Năm 959, Hậu Chu Thế Tông suất quân bắc phạt triều Liêu, nhằm thu phục Yên Vân thập lục châu, quân Hậu Chu đánh chiếm Doanh châu, Mạc châu và các nơi khác. Đến khi ông chuẩn bị sẵn sàng để thu phục U châu, thì đột nhiên sinh bệnh, buộc phải đem quân về.[tham 1] Không lâu sau, Hậu Chu Thế Tông qua đời, ấu tử Sài Tông Huấn tức vị, tức Hậu Chu Cung Đế. Năm 960, lãnh tụ cấm quân là Triệu Khuông Dận lấy lý do hai châu Trấn-Định bị Bắc Hán và Liêu xâm nhập, suất quân tiến về phía bắc chống lại, nhưng sau đó lại phát sinh binh biến Trần Kiều, Triệu Khuông Dận được cấm quân ủng hộ làm hoàng đế. Triệu Khuông Dận đem quân về Khai Phong, phế truất Hậu Chu Cung Đế, Hậu Chu diệt vong, Ngũ Đại kết thúc. Triệu Khuông Dận kiến lập triều Tống, tức Tống Thái Tổ.[tham 36]
Lúc Tống Thái Tổ soán vị, Thập Quốc vẫn còn Hậu Thục, Bắc Hán, Nam Đường, Ngô Việt, Nam Hán, Kinh Nam, cùng Vũ Bình quân tiết độ sứ Chu Hành Phùng ở Hồ Nam, Thanh Nguyên quân tiết độ sứ Lưu Tòng Hiệu ở Mân Nam, các quốc gia hoặc phiên trấn này hầu hết đều tôn triều Tống là tông chủ hoặc thần phục. Tống Thái Tổ đối diện với uy hiếp từ triều Liêu ở phương bắc, chọn tuân theo sách lược của Triệu Phổ là "tiên dị hậu nan, tiên nam hậu bắc" (dễ trước khó sau, nam trước bắc sau) trong việc thống nhất Trung Quốc. Năm 962, quốc chủ Kinh Nam Cao Bảo Úc qua đời, cùng năm Chu Hành Phùng ở Hồ Nam cũng qua đời, chúa mới của hai nước đều nhỏ tuổi chưa có năng lực lãnh đạo. Năm sau, Tống Thái Tổ lấy lý do bình loạn Hồ Nam mà phái binh nam hạ thôn tính Hồ Nam, học theo "Giả đạo phạt Quắc mà thôn tính luôn Kinh Nam. Sau khi biết tin Hồ Nam và Kinh Nam bị thôn tính, Hậu Thục Hậu Chủ Mạnh Sưởng liên hiệp với Bắc Hán để chống lại quân Tống. Tuy nhiên, trong những năm cuối Mạnh Sưởng xa hoa hưởng lạc, không chỉnh trị triều chính, quân đội đều không có lực mà chiến đấu. Năm 965, Tống Thái Tổ phái Vương Toàn Bân, Thôi Ngạn Tiến từ Phượng châu (nay thuộc Phượng huyện, Thiểm Tây); Lưu Quang Nghĩa và Tào Bân từ Quy châu (nay thuộc Tỷ Quy, Hồ Bắc) tiến vào đất Thục theo hai đường bắc và đông. Kết quả, không quá 60 ngày, Mạnh Sưởng đầu hàng, Hậu Thục diệt vong. Sủng phi của Mạnh Sưởng là Hoa Nhị phu nhân viết sau khi vong quốc: "Quân vương trên thành thụ hàng, thiếp ở thâm cung nào có biết, 14 vạn người cùng giải giáp, chẳng lẽ không ai là nam nhi". Nam Hán Hậu Chủ Lưu Sưởng giao chính sự cho đám người như hoạn quan Cung Trừng Xu cùng nữ thị trung Lô Quỳnh Tiên. Do chỉ tín nhiệm hoạn quan, quan viên Nam Hán đều phải chấp nhận chịu thiến thì mới được tiến dụng. Năm 970, triều đình Tống phái Phan Mỹ đánh Nam Hán, do tướng lĩnh, đại thần, tông thất Nam Hán đều chết hết, chỉ còn hoạn quan lĩnh binh, sang năm sau thì Lưu Sưởng đầu hàng, Nam Hán diệt vong.[tham 36]
Nam Đường Hậu Chủ Lý Dục là cao thủ trong từ đàn, đến những ngày cuối phải lo lắng tai họa từ bên ngoài, song không thạo chính sự. Đương thời, Lý Dục có thể nhờ cậy vào những người như em trai Lý Tòng Thiện, đại thần Phan Hựu cùng tướng lĩnh Lâm Nhân Triệu, vẫn đối lập với Hậu Chu. Sau khi triều Tống được kiến lập, Lý Dục thân cận với tiểu nhân, lạm sát đại thần, thường ngày cùng bề tôi vui đùa yến tiệc, quốc thế Nam Đường hỗn loạn. Năm 975, Tống Thái Tổ lấy lý do Lý Dục xưng bệnh không nhập triều, phái Tào Bân nam chinh, đồng thời dùng quân Ngô Việt phụ giáp công, cuối cùng Lý Dục đầu hàng, Nam Đường mất. Về phần Ngô Việt, Trung Hiến vương Tiền Hoằng Tá thừa cơ nước Mân có nội loạn mà giành lấy Phúc châu, tuy nhiên lại đánh thuế nặng, dân không chịu đựng nổi. Đến thời Trung Ý vương Tiền Thục, vì rất cung thuận với triều Tống, Tống Thái Tổ không có ý muốn chiếm đất. Ở Mân Nam, Thanh Nguyên quân tiết độ sứ Lưu Tòng Hiệu cát cứ một phương, sau khi qua đời thì nhiều người tranh vị, cuối cùng về tay Trần Hồng Tiến. Năm 978, Tiền Thục và Trần Hồng Tiến dâng đất quy thuận triều Tống, nước Ngô Việt và Thanh Nguyên quân ở Mân Nam mất. Thập Quốc chỉ còn lại Bắc Hán của Anh Vũ Đế Lưu Kế Nguyên, năm 979, Tống Thái Tông phái Phan Mỹ vây đánh đô thành Thái Nguyên của Bắc Hán, đánh lui viện binh triều Liêu, Lưu Kế Nguyên đầu hàng, Bắc Hán mất. Đến lúc này, thời kỳ Thập Quốc kết thúc, chính thưc tiến vào thời kỳ triều Tống, tuy nhiên Yên Vân thập lục châu vẫn nằm trong tay triều Liêu. Không lâu sau khi diệt xong Bắc Hán, Tống Thái Tông bất chấp phản đối của đại thần, từ Thái Nguyên tiến về phía bắc nhằm thu phục Yên Vân thập lục châu. Lúc đầu, quân Tống đánh hạ Dịch châu và Trác châu song lại thảm bại trong trận Cao Lăng Hà ở Yên Kinh và phải triệt thoái, đến lúc này lại tiến vào thời đại Tống-Liêu đối lập.[tham 36]
Hậu kỳ triều Đường và thời Ngũ Đại, trung tâm chính trị vì nhân tố chiến loạn và kinh tế, di chuyển từ Trường An, Lạc Dương, qua Khai Phong. Đương thời, khu vực Quan Trung do bị chiến loạn tàn phá nên hoang phế, phiên trấn tương đối mạnh chỉ có nước Kỳ của Lý Mậu Trinh và Định Nan quân, khu vực Hà Lũng tiếp tục suy thoái, ngoại tộc như Hồi Cốt hay Thổ Phồn tranh giành hành lang Hà Tây; song khu vực Hoa Trung và Hoa Nam có kinh tế cường thịnh, nhiều phiên trấn cát cứ, thuộc phạm vi thế lực của Thập Quốc.[tham 1] Khai Phong nằm ở vị trí trung tâm trong tuyến Đại Vận Hà thời Tùy Đường, phụ trách việc vận chuyển hàng hóa qua lại Hà Bắc, Quan Trung, Giang Nam và Hồ Quảng, là trạm trung chuyển lương thực và hóa vật của Thiên hạ. Đương thời, do Quan Trung hoang phế, Khai Phong là nơi tích trữ tài phú của Thiên hạ nên có địa vị hàng đầu đối với Ngũ Đại, khiến cho triều Tống và các triều đại sau này đều chọn các nơi ven Đại Vận Hà như Bắc Kinh, Khai Phong, Nam Kinh và Lâm An làm thủ đô. Ngoài ra, chiến tranh thời Ngũ Đại phần nhiều là đối đầu giữa Khai Phong với Hà Đông tiết độ sứ ở Thái Nguyên, ví dụ như Tấn của Lý Khắc Dụng và Hậu Lương, Hậu Tấn và Hậu Đường, Hậu Hán và triều Liêu đang chiếm cứ Trung Nguyên, Bắc Hán và Hậu Chu. Điều này là do Thái Nguyên nằm ở vùng núi Thái Hành Sơn với vị trí dễ thủ khó công, nếu sau lưng được ngoại tộc ở phía bắc tiếp viện, thì có đủ khả năng tranh vị với Khai Phong ở bình nguyên.[tham 37]
Phạm vi Ngũ Đại Thập Quốc và triều Đường lúc hậu kỳ có sự tương đồng, bị thu lại rõ ràng, nhỏ hơn một chút so với phạm vi của Trung Quốc bản thổ, ngoại tộc chiếm giữ các vùng lãnh thổ lớn xung quanh Trung Quốc bản thổ, cuối cùng kiến lập triều Liêu và Tây Hạ. Khu vực Hà Tây bị Quy Nghĩa quân, Cam Châu Hồi Cốt, cùng các bộ tộc Thổ Phồn chiếm lĩnh. Năm 938, Yên Vân thập lục châu bị Hậu Tấn Cao Tổ Thạch Kính Đường cắt nhượng cho Khiết Đan Quốc (sau là triều Liêu), khiến cho tuyến quốc phòng phía bắc từ thời Hán-Đường toàn bộ phải rút về phía sau, phía bắc Hoàng Hà hầu như không còn rào cản. Thêm vào việc trung tâm chính trị của Trung Quốc di chuyển về phía đông, khiến cho Ngũ Đại và triều Tống phải chịu áp lực từ triều Liêu.[tham 1] Họ Khúc kiểm soát Tĩnh Hải quân, cát cứ ở khu vực An Nam, đồng thời sau khi Ngô Quyền đánh bại quân Nam Hán trong trận Bạch Đằng, khu vực Việt Nam chính thức thoát ly khỏi lịch sử Trung Quốc. Ở Hạ châu thuộc Thiểm Bắc, Định Nan quân cát cứ, đến thời Tống thì độc lập, trở thành Tây Hạ.[tham 37]
Chế độ tiết độ sứ bắt đầu được thiết lập từ thời Đường, còn gọi là phiên trấn, chủ quản quân sự, hành chính và tài chính của địa phương, có địa vị cao và quyền hạn lớn. Trong thời gian xảy ra loạn An Sử, triều đình Đường bổ nhiệm nhiều tiết độ sứ để đối phó với loạn quân. Sau loạn An Sử, triều đình Đường sách phong một lượng lớn hàng tướng Đại Yên làm tiết độ sứ tại địa phương để an phủ, họ tự cầm binh và cát cứ giống như vương ở phiên trấn, hình thành cục diện phiên trấn cát cứ thời Đường mạt. Thời Ngũ Đại, việc bổ nhiệm tiết độ sứ thay đổi, có khi chức tiết độ sứ do thân vương hoặc tể tướng lĩnh song vẫn ở cách xa địa phương (diêu lĩnh). Các tiết độ sứ nắm giữ binh quyền thường rất tùy tiện độc đoán, làm bất cứ điều gì họ muốn. Trong đó, người có quyền cao gọi là tiết độ sứ, người có quyền ít gọi là phòng ngự sứ (sau là quan sát sứ), sau loạn An Sử thì đạo là khu vực quản hạt của tiết độ sứ. Khi người đứng đầu phiên trấn có lòng dạ khác, thường thừa cơ cử binh đi nhằm lật đổ trung ương, hiện tượng này bắt đầu xuất hiện từ hậu kì triều Đường, và thường xuyên phát sinh trong nội bộ các triều Ngũ Đại hoặc Thập Quốc, là nguyên nhân dẫn đến tình trạng hỗn loạn thời Ngũ Đại Thập Quốc. Một số địa phương khác cũng thiết lập "quân", trở thành cơ cấu hành chính cấp thứ nhất. Như năm 907, Hậu Lương thiết lập Sùng Đức quân tại Đãng Sơn huyện thuộc Huy châu, năm 939 Hậu Tấn đổi Uy châu cũ thành Thanh Viễn quân, năm 954 Hậu Chu lấy Lai Vu giám đổi thành Quảng Lợi quân.[tham 39]
Do tiết độ sứ chức cao quyền lớn, thời Ngũ Đại cũng có thân vương diêu lĩnh, như con của Hậu Đường Mạt Đế là Lý Tòng Mỹ diêu lĩnh Thành Đức quân tiết độ sứ, em của Hậu Hán Cao Tổ là Lưu Huân lĩnh Sơn Nam Tây đọa tiết độ sứ; cũng có khi tể tướng được diêu lĩnh, như thời Hậu Đường Trang Tông có thị trung giám sứ Quách Sùng Thao kiêm lĩnh Thành Đức quân tiết độ sứ. Sang thời Tống, chế độ tiết độ sứ bị phân cấp hành chính "lộ" thay thế, phân chia quyền quân sự, hành chính và tài chính để phòng ngừa xuất hiện việc binh biến.[tham 39]
Cấp hành chính thứ hai là châu, đặt chức thứ sử; cấp hành chính thứ ba là huyện, đặt chức huyện lệnh. Một số châu do có địa vị hay địa thế trọng yếu nên được thăng thành phủ, ví dụ như tại Biện châu đặt Đông Kinh Khai Phong phủ, Trường An đặt Tây Kinh Kinh Triệu phủ, Ngụy châu đặt Đại Danh phủ, góp phần quan trọng trong việc hình thành Ngũ kinh chế triều Tống. Thập Quốc và các phiên trấn khác cũng lập phủ ở thủ đô hoặc châu trọng yếu, như Dương châu-Giang Đô phủ của Ngô, Thăng châu-Kim Lăng phủ và Hồng châu-Nam Xương phủ của Nam Đường, Đàm châu-Trường Sa phủ của Sở, Quảng châu-Hưng vương phủ của Nam Hán, Thái Nguyên phủ của Bắc Hán, Thành Đô phủ và Hưng Nguyên phủ của Tiền Thục và Hậu Thục, Giang Lăng phủ của Kinh Nam. Ngoài ra, còn có việc đặt "đại đô đốc phủ" ở những yếu địa về quân sự, như Hậu Lương đặt đại đô đốc phủ tại Tống châu, Phúc châu; Hậu Đường thiết lập 10 đại đô đốc phủ trên toàn quốc.[tham 39] Vào thời kỳ này, số lượng châu huyện ở phương nam tăng lên do cục thế chính trị ổn định, kinh tế phát triển và nhân khẩu gia tăng. "Thái bình hoàn vũ ký" viết rằng vào thời Ngũ Đại Thập Quốc, toàn Trung Quốc thiết lập mới 59 huyện, tuyệt đại bộ phần là ở phương nam, như Thục lập 5 huyện, Ngô Việt lập 5 huyện, Mân tăng thêm 13 huyện, Nam Đường lập mới 26 huyện.[tham 40]
Thời Ngũ Đại, ở phương bắc thì tộc Khiết Đan là mạnh nhất. Thời Đường, tộc Khiết Đan được triều đình thụ phong là Tùng Mạc đô đốc phủ, đến hậu kỳ triều Đường, thủ lĩnh Điệt Thứ bộ của tộc Khiết Đan là Da Luật A Bảo Cơ nổi lên và chinh phục các bộ khác, đến năm 907 thì tức khả hãn vị. Ông lần lượt trấn áp các cuộc phản loạn quý tộc Khiết Đan và chinh phục các bộ lạc tộc Hề, Thất Vi, Hiệt Kiệt Tư, Trở Bốc tại khu vực Mạc Bắc, về mặt quân sự và kinh tế đều rất cường thịnh. Năm 915, Da Luật A Bảo Cơ sau khi xuất chinh và giành được thắng lợi trước tộc Thất Vi thì về nước, song bị buộc phải giao lại hãn vị. Không lâu sau, ông kiến thành ở ven bờ Loan Hà, sang năm sau thì kiến lập Khiết Đan Quốc, tức Liêu Thái Tổ. Khiết Đan Quốc bắt người Trung Nguyên, tiếp nhận lưu dân đến tị nạn chiến tranh ở Hà Bắc, tin dùng những người Hán như Hàn Diên Huy, Hàn Tri Cổ, Khang Mặc Kỳ và Lô Văn Tiến, xem như công thần. Năm 925, Khiết Đan Quốc đông chinh Bột Hải Quốc, sau có ý đồ tiến xuống phía nam chiếm cứ Trung Nguyên. Sau khi Da Luật Đức Quang kế vị, thừa cơ Hậu Đường phát sinh nội loạn, tiếp nhận thỉnh cầu của Thạch Kính Đường mà xuất binh hiệp trợ giúp Kính Đường diệt trừ Hậu Hán và kiến quốc Hậu Tấn, Khiết Đan Quốc thu được Yên Vân thập lục châu. Đến khi Hậu Tấn Xuất Đế kế vị, Hậu Tấn lại không muốn xưng thần với Khiết Đan, lạm sát thương nhân Khiết Đan. Do vậy, Da Luật Đức Quang xuất binh nam chinh song chưa thu được thành quả, sau do nhờ đại tướng Đỗ Trọng Uy của Hậu Tấn đầu hàng, Da Luật Đức Quang chiếm Biện châu, kiến quốc triều Liêu, tức Liêu Thái Tông. Tuy nhiên, sau đó quân Liêu tịch thu cỏ và ngũ cốc, lạm sát người Hán, khiến người Trung Nguyên khởi binh kháng Liêu, Liêu Thái Tông trở về phía bắc và qua đời ở Sát Hồ Lâm. Sau đó, triều Liêu sút kém đi nhiều, song sau đó vẫn phù trì cho Bắc Hán, chiến tranh với Hậu Chu thì thua nhiều thắng ít, cuối cùng đến năm 959 thì bị Hậu Chu Thế Tông đoạt mất Doanh châu, Mạc châu. Sau khi triều Tống thành lập và tiêu diệt Bắc Hán, thống nhất Trung Quốc, trong cùng năm bắc phạt triều Liêu. Các danh tướng Liêu như Da Luật Sa, Da Luật Lưu Ca, Da Luật Tà Chẩn giao chiến với quân Tống ở Cao Lương Hà (nay bên ngoài Tây Trực Môn của Bắc Kinh), kết quả quân Liêu thành công trong việc đánh bại quân Tống.[tham 4]
Ngoài ra, vào thời Ngũ Đại ở phía bắc và đông bắc còn có các nước Hề, Thổ Dục Hồn, Thất Vi, Bột Hải. Thời Đường, Hề Quốc được thụ phong Nhiêu Lạc đô đốc phủ, đến trung hậu kỳ triều Đường thì nhiều lần xâm nhập biên cương Đại Đường. Sau này, Hề Quốc bị Khiết Đan Quốc chinh phục, người Khiết Đan kiến lập Trung Kinh để thống trị, rồi dần dần đồng hóa tộc Hề. Bột Hải Quốc là một cường quốc vào hậu kỳ triều Đường, đến năm 926 thì bị quân Khiết Đan tiêu diệt, Khiết Đan Quốc thành lập Đông Đan Quốc trên lãnh thổ cũ của Bột Hải Quốc, cho Thái tử Khiết Đan Da Luật Bội nhậm chức "hoàng vương". Sau khi Liêu Thái Tông kế vị, ông phế trừ Đông Đan Quốc, kiến lập Đông Kinh để quản lý. Thổ Dục Hồn bộ nguyên định cư ở khu vực Thanh Hải, song sau khi bị Thổ Phồn tiêu diệt thì tiến về phía đông đến khu vực Sóc Phương, Hà Đông, sang thời Ngũ Đại thì phân tán như tại Uý châu. Năm 936, Hậu Tấn cắt nhượng Yên Vân thập lục châu cho Khiết Đan Quốc, khiến một bộ phận tộc Thổ Dục Hồn thần phục Khiết Đan, song có không ít người chạy đến Thái Nguyên, đến chỗ Hà Đông tiết độ sứ Lưu Tri Viễn.[tham 4]
Hậu kỳ triều Đường, ở phương Tây thì Thổ Phồn là tối cường song vì nội bộ phân liệt nên suy yếu. Sang thời Ngũ Đại, hành lang Hà Tây bị nhiều tộc như Hồi Cốt, Thổ Phồn, Đảng Hạng chiếm cứ, với Cam Châu Hồi Cốt, Lục Cốc bộ Thổ Phồn, Hoàng Đầu Hồi Cốt, tộc Đảng Hạng thống lĩnh Định Nan quân ở Thiểm Bắc, Định Nan tiết độ sứ là tiền thân của Tây Hạ. Khi đó, chính quyền của người Hán chỉ gồm Quy Nghĩa tiết độ sứ ở Sa châu và Qua châu, Sóc Phương tiết độ sứ cùng Hà Tây tiết độ sứ là thuộc địa của Ngũ Đại và quản lý khu vực Lương châu và Lan châu. Thủ lĩnh tộc Đảng Hạng là Thác Bạt Tư Cung do có công bình loạn nên được Đường Hy Tông sách phong. Tuy nhiên, Định Nan quân độc lập tự chủ, về đối ngoại thì thần phục các triều Ngũ Đại và Bắc Hán. Thời Ngũ Đại, Hậu Đường Minh Tông có ý đồ thôn tính Định Nan quân, do vậy lệnh hoán đổi Đình Châu quân của An Trọng Tiến và Định Nan quân của Lý Di Siêu, cuối cùng Lý Di Siêu đẩy lui thành công quân Đường của An Trọng Tiến. Cuối cùng, sang thời Tống, Định Nan quân thôn tính vùng Hà Tây, lập quốc Tây Hạ.[tham 41] Khu vực Tây Vực lại có các nước như Tây Châu Hồi Cốt, Cao Xương Hồi Cốt, Quy Từ Hồi Cốt, Vu Điền và Khách Lạt hãn quốc, trong đó Vu Điền và Khách Lạt hãn quốc là hai nước lớn. Vu Điền quản lý một lãnh thổ rộng lớn ở nam bộ lòng chảo Tarim, Phật giáo thịnh hành ở nước này, quân chủ thuộc gia tộc Uất Trì, bắt đầu nắm quyền từ thời Hán. Thời Đường, nước Vu Điền từng thuộc Bì Sa đô đốc phủ, quốc vương Vu Điền khi đó là Uất Trì Phục Đồ Hùng kiêm nhiệm đô đốc. Sang thời Ngũ Đại, Vu Điền theo xu hướng Hán hóa, quốc vương Lý Thánh Thiên (Uất Trì Ô Tăng Ba) tự xưng là "Đường chi tông thuộc", trong nước thì thi hành tục cũ của triều Đường, đồng thời phái người sang triều cống triều đình Trung Nguyên,[tham 42] Hậu Tấn phong là "Thái Bảo Vu Điền quốc vương".[tham 43] Khách Lạt hãn quốc là thế lực Hồi giáo đông tiến chủ yếu, nhiều lần phát sinh chiến tranh với Vu Điền, song cuối cùng đều thất bại. Đầu thế kỷ 11, Quy Nghĩa quân và Vu Điền bị Tây Hạ tiêu diệt.[tham 44]
Năm 905, Khúc Thừa Dụ chiếm lấy thủ phủ Đại La của Tĩnh Hải quân, tự xưng là Tiết độ sứ, sau được triều đình thừa nhận. Năm 907, Khúc Thừa Dụ qua đời, con là Khúc Hạo kế vị, thực hiện cải cách hành chính, củng cố quyền hành ở Tĩnh Hải quân. Đến thời Khúc Thừa Mỹ, ông chủ trương thân thiết với triều đình Hậu Lương, công khai gọi nước Nam Hán là "ngụy đình". Năm 930, Nam Hán Cao Tổ Lưu Nghiễm khiển bộ tướng Lương Khắc Trinh và Lý Thủ Phu tiến công Giao châu- thủ phủ của Tĩnh Hải quân; bắt được Khúc Thừa Mỹ, Tĩnh Hải quân về tay Nam Hán, chấm dứt quyền lực của họ Khúc. Lương Khắc Trinh còn tiến công Chiêm Thành, cướp vật quý của nước này rồi rút lui. Lưu Nghiễm khiển bộ tướng Lý Tiến đi cai quản Giao châu.[tham 45] Sau khi họ Khúc bị lật đổ, đến năm 931, Dương Đình Nghệ bao vây Giao châu. Lưu Nghiễm khiển Trình Bảo đem binh cứu viện, song thành bị chiếm trước khi Trình Bảo đến nơi.[tham 45] Năm 937, Dương Đình Nghệ bị Kiều Công Tiễn giết chết, Kiều Công Tiễn đoạt lấy quyền cai quản Tĩnh Hải quân. Năm 938, một tướng cũ của Dương Đình Nghệ là Ngô Quyền nổi dậy lại Ái châu và sau đó tiến công Giao châu, Kiều Công Tiễn cầu viện Nam Hán. Lưu Nghiễm muốn nhân cơ hội này để đoạt lấy Tĩnh Hải quân, do vậy mệnh hoàng tử Lưu Hoằng Thao đem binh đến cứu Giao châu, Lưu Nghiễm tự mình đem một đội quân theo sau. Lưu Nghiễm lệnh cho Lưu Hoằng Thao suất chiến hạm theo sông Bạch Đằng tiến đến Giao châu, quân Nam Hán đại bại, sử gọi là trận Bạch Đằng. Lưu Nghiễm hay tin thì tập hợp tàn quân trở về Nam Hán.[tham 46] Năm 939, Ngô Quyền xưng vương, kiến lập nhà Ngô, định đô ở Cổ Loa, khu vực Việt Nam bắt đầu thoát ly lịch sử Trung Quốc, đến năm 968, nhà Đinh được kiến lập, Việt Nam chính thức đi trên con đường độc lập.
Đại Lý Quốc kế thừa Nam Chiếu tồn tại từ thời Đường, do Nam Chiếu xảy ra chiến tranh với Đường trong một thời gian dài, quốc lực ngày càng suy yếu, những năm cuối của Nam Chiếu nhiều lần xảy ra việc quyền thần soán vị. Năm 902, Thanh Bình quan Trịnh Mãi Tự bách hoàng đế Nam Chiếu là Mông Thuấn Hóa Trinh phải thoái vị, kiến quốc Đại Trường Hòa. Năm 928, Đông Xuyên tiết độ sứ (của Đại Trường Hòa) Dương Can Trinh và Thanh Bình quan Triệu Thiện Chính giết Hoàng đế Trịnh Long Dân, Triệu Thiện Chính kiến quốc Đại Thiên Hưng. Năm sau, Dương Can Trinh phế Triệu Thiện Chính, tự lập, kiến quốc Đại Nghĩa Ninh. Em trai của Dương Can Trinh là Dương Chiếu nhận thấy Hải Thông tiết độ sứ Đoàn Tư Bình có lòng dạ khác, do vậy thúc giục Dương Can Trinh phái binh truy sát. Đoàn Tư Bình liền thỉnh cầu Cao Phương che chở giúp đỡ. Sau đó, Đoàn Tư Bình hướng đông mượn binh tộc Thoán Đen, cùng em là Đoàn Tư Lương và quân sư Đổng Già La cất binh phản kháng. Năm 937, Đoàn Tư Bình diệt Đại Nghĩa Ninh, kiến lập Đại Lý Quốc, quốc đô là thành Đại Lý.[tham 4]
Từ trung kỳ triều Đường trở đi, các tiết độ sứ có binh lực lớn mạnh, quản lý quân sự và dân chính tại địa phương. Họ có địa vị cao và quyền lực lớn, rất tùy tiện làm càn, khi đó thường phát sinh việc phát binh nhằm lật đổ triều đình, sử gọi là phiên trấn cát cứ. Cuối cùng, triều Đường bị Tuyên Vũ tiết độ sứ Chu Toàn Trung soán vị, những người kiến quốc khác thời Ngũ Đại Thập Quốc phần nhiều cũng là các tiết độ sứ. Trong thời Ngũ Đại Thập Quốc, việc phát binh soán vị xảy ra nhiều, sau khi Hậu Tấn Cao Tổ cắt nhượng Yên Vân thập lục châu thì càng trở nên kịch liệt. Quân chủ Ngũ Đại thường bị thay thế, cuối cùng hình thành loạn thế 9 họ 15 vua.[chú 5] Các quân chủ này do vậy lựa chọn thực hiện chính sách "cường cán nhược chi" như kiến lập cấm quân, điều động tiết độ sứ địa phương, để làm suy yếu phe nhóm thực lực địa phương. Cấm quân phụ trách bảo vệ thủ đô và hoàng cung, có khi đến trú phòng các nơi để áp chế phiên trấn địa phương; ví dụ như Hậu Lương, Hậu Đường từng dùng cấm quân để áp chế, làm suy yếu Hà Bắc tam trấn. Sau này, Tống Thái Tổ cũng sử dụng cấm quân trong việc thống nhất Trung Quốc. Ngoài ra, triều đình cũng thường xuyên điều động tiết độ sứ, thay đổi trú địa của họ, ngăn cản việc họ chiếm cứ địa phương trong một thời gian dài và hình thành thế lực cát cứ.[tham 1][tham 3]
Bên cạnh việc các triều Ngũ Đại thường mở rộng cấm quân, quan chế quân sự cũng có nhiều biến đổi. Đội quân thân cận nhất của Hậu Lương Thái Tổ là "thính tử đô", đội quân này được trang bị rất tốt, hung hãn dị thường, quân Tấn rất sợ hãi. Sau khi lập quốc, quân Tuyên Vũ được mở rộng thành cấm binh, chọn những người tinh nhuệ trong cấm quân để thành lập thị vệ thân quân. Tại thủ đô, thiết lập Tả-hữu long hổ quân, Tả-hữu vũ lâm quân, Tả-hữu thần vũ quân, Tả-hữu long tương quân, đều cho thân vương làm quân sứ, về sau danh xưng có biến đổi. Cấm quân thời Hậu Đường tiền thân là quân Hà Đông, Lý Khắc Dụng dùng nhiều con nuôi làm cốt cán mà kiến lập "Nghĩa nhi quân", là đội quân tinh nhuệ nhất. Bộ binh chủ lực trong việc chinh chiến là 'Ngụy Bác ngân thương hiệu tiết quân' được thu biên vào năm 915, khi diệt Hậu Lương đã phát huy tác dụng to lớn. Sau khi kiến quốc, tại thủ đô kiến lập các đội quân như Nghiêm vệ tả-hữu quân, Phủng thánh tả-hữu quân. Thời Hậu Đường Minh Tông, thành lập thị vệ thân quân làm cấm quân, lấy binh sĩ từ khi khởi sự ở Nghiệp Đô làm cốt cán, còn gọi là Tùy giá quân. Trong số các quân chủ Ngũ Đại, Thạch Kính Đường từng đảm nhiệm chức Thị vệ thân quân Mã bộ quân đô chỉ huy sứ kiêm Lục quân đô vệ phó sứ. Hậu Tấn cũng thiết lập Hộ thánh tả-hữu quân tại thủ đô, bộ phận chủ yếu nguyên là đội quân theo Thạch Kính Đường từ khi khởi sự ở Hà Đông, bộ thuộc Lưu Tri Viễn đảm nhiệm chức Thị vệ mã bộ quân đô chỉ huy sứ. Quân chế Hậu Hán kế thừa Hậu Tấn, không có cải biến quá lớn. Hậu Chu thiết lập Long tiệp tả-hữu quân, Hổ tiệp tả-hữu quân tại thủ đô. Thời Hậu Chu Thế Tông, Hậu Chu tiến hành cải cách chế độ quân sự, thực thi chế độ luyện tuyển, tinh giản cấm quân trung ương, bổ sung binh sĩ khỏe mạnh, đặt chức quân quan cao cấp như Điện tiền đô chỉ huy sứ, Thủy lục đô bổ thự, Điện tiền đô điểm kiểm, hình thành cấm quân "Điện tiền chư ban". Trong đó, "Điện tiền đô điểm kiểm" nắm giữ thực quyền quân sự, về sau người đảm nhiệm chức này là Triệu Khuông Dận đã phát động binh biến Trần Kiều, soán vị mà thiết lập triều Tống.[tham 2] Sau đó, Tống Thái Tổ mệnh cho Binh bộ thượng thư Trương Chiêu Viễn chế định ra quân pháp mới để tạo ra kỷ luật nghiêm minh trong quân đội, cuối cùng hạn chế quyền lực của phiên trấn bằng các biện pháp như cấm chỉ sản xuất binh khí hay cấm can dự quân chính.[tham 3]
Do chiến tranh liên miên, gánh nặng binh dịch trở nên trầm trọng. Đương thời, để ngăn chặn binh sĩ chạy trốn, các binh sĩ bị thích chữ theo quân hiệu của họ lên mặt, để các cửa ải và bến đò có thể thuận tiện mà nhận diện, truy bắt binh sĩ đào ngũ. Ngoài ra, các nơi cũng bắt nam nữ phải tham gia vào việc vận chuyển, vô số người và gia súc kiệt sức đến chết trên đường. Lưu Nhân Cung ở U-Yên bắt nam giới trên 15 tuổi, dưới 70 tuổi tự chuẩn bị quân lương tòng quân, tổng cộng có 20 vạn quân. Bắc Hán quy định nam giới trên 17 tuổi đều phải nhập binh tịch làm binh. Nam Đường còn từng lệnh cho toàn bộ quốc nhân, trừ những ai già yếu, đều phải tòng quân. Ngô Việt vương Tiền Thục buộc hết dân đinh trong nước làm binh. Ở Hồ Nam, Mã Hy Ngạc bắt toàn bộ đinh tráng Lãng châu làm hương binh. Vào hậu kỳ, nước Mân bắt dân làm binh, trưng dụng sức dân không ngưng. Ngoài binh dịch, người dân còn phải lao dịch xây dựng. Hậu Đường Trang Tông từng bắt dân xây dựng doanh lâu, "một ngày có vạn người lao dịch". Kinh Nam tu sửa ngoại quách thành Giang Lăng, bắt hơn vạn binh lính và dân lao dịch. Mân Chủ xây dựng dinh quan cung điện, "bách dịch phồn hưng". Với việc lao dịch nghiêm ngặt nặng nề, phương Bắc bị chiến tranh tàn phá gặp khó khăn trong việc phục hồi, tiến trình phát triển kinh tế ở phương nam cũng gặp trở ngại rất lớn.[tham 2][tham 5][tham 3]
Hậu kỳ triều Đường, phương nam chịu ảnh hưởng từ biến Bàng Huân và loạn Hoàng Sào, tuy nhiên sang đến thời Thập Quốc thì có tương đối ít các cuộc chiến tranh lớn, chính cục tương đối ổn định, có lợi cho việc khôi phục và phát triển kinh tế- xã hội.[tham 47] Lại thêm việc sau khi triều Đường suy yếu, Trung Nguyên bất ổn định, có không ít người nối tiếp nhau tiến về phương nam để đến Giang Nam, Hồ Quảng và Ba Thục, xa nhất đến tận đất Lưỡng Quảng.[tham 49] Quan Nội đạo, Hà Nam đạo, Hà Bắc đạo đều có hộ khẩu giảm sút rất nhiều; song ở các nơi phương nam như Tô châu, Ngạc châu, Hồng châu, Nhiêu châu, Cát châu, Tương châu, Dĩnh châu, Đường châu, Hành châu, Quảng châu đều có hộ khẩu tăng đáng kể. Theo cách nói đương thời, thì trong số hộ khẩu tại Tô châu, một phần ba là từ phương bắc đến; ở Vũ Xương số hộ khẩu tăng gấp ba lần chỉ trong vòng hai năm, đều phản ánh việc có nhiều người di cư về phương nam, khiến phân bổ nhân khẩu khá tập trung ở phương nam.[tham 50] Việc ổn định lâu dài có lợi cho phát triển sản xuất, khiến phủ khố của Thập Quốc dần trở nên đầy đủ. Mạt kỳ Ngũ Đại Thập Quốc, hộ khẩu Hậu Chu và Bắc Hán không quá 100 vạn, các nước phương nam thì lại đạt đến trên 270 vạn hộ. Trong số các nước, đông nhất là Nam Đường với khoảng 65 vạn hộ, tiếp đến là Ngô Việt với khoảng 55 vạn hộ, Hậu Thục có khoảng 53 vạn hộ. Tổng nhân khẩu của ba nước này đương thời chiếm một nửa dân số toàn Trung Quốc.[tham 51] Đến khi triều Tống thống nhất Trung Quốc, khu vực Hoa Bắc nguyên thuộc Hậu Chu và Bắc Hán có khoảng 100 vạn hộ, song khu vực phương nam nguyên thuộc chín nước thì có 230 vạn hộ. Những năm đầu Bắc Tống, tỉ lệ nhân khẩu nam bắc đại ước là 6:4.[tham 47]
Thời Ngũ Đại chiến tranh không ngừng, song có không ít vị vua thúc đẩy kinh tế. Sau khi xưng đế, Hậu Lương Thái Tổ xem trọng nông nghiệp, ông bổ nhiệm Trương Toàn Nghĩa làm Hà Nam doãn, nhằm khôi phục sản xuất ở khu vực Hà Nam. Đến năm 908 ông lại lệnh cho các châu diệt châu chấu để làm lợi cho làm ruộng và trồng dâu nuôi tằm.[tham 1] Trong thời gian Hậu Đường Minh Tông chấp chính, ông đề xướng tiết kiệm, tu sửa công trình thủy lợi, quan tâm đến nỗi thống khổ của bách tính, khiến bách tính có thể nghỉ ngơi. Đến thời Hậu Chu, Hậu Chu Thái Tổ cho giảm nhẹ áp lực đối với nông dân, vào năm 952 tiếp tục đem binh đến đóng tại doanh điền[chú 6] ban cho điền hộ, nhằm tăng số thuế thu được; đồng thời phế trừ việc thi hành "ngưu tô" từ thời Hậu Lương Thái Tổ, khiến nông dân được miễn trừ gánh nặng thuế trâu/bò chết.[tham 53][tham 5] Đến thời Hậu Chu Thế Tổ, triều đình kiến lập điền chế công bằng, trưng thuế theo số mẫu ruộng chiếm hữu trên thực tế. Điều này khác với chế độ cũ thời Tùy-Đường, song cùng là hai cách đánh thuế sản được thực hành phổ biến sau này.[tham 1]
Các nước phương nam đề xướng phát triển kinh tế, đồng thời lại xem trọng việc xây sửa công trình thủy lợi, phòng thủy để ngăn ngừa thiệt hại; giả dụ như Ngô Việt và Nam Đường khích lệ làm ruộng trồng dâu; Mân và Nam Hán xúc tiến mậu dịch với hải ngoại; Tiền Thục và Hậu Thục đều phát triển cày cấy và dệt lụa, những điều này đều khiến cho kinh tế phương nam phát triển. Ba Thục từ thời Đường đã có sản vật rất dồi dào, dân số đông đúc, được gọi là "Thiên phủ chi quốc". Sau khi trải qua chiến loạn, Tiền Thục của Vương kiến và Hậu Thục của cha con Mạnh Tri Tường-Mạnh Sưởng đều mưu hoạch phát triển kinh tế, chính trị tương đối ổn định. Họ cũng chú trọng xây dựng công trình thủy lợi, mở rộng diện tích đất canh tác, ở khu vực Bao Trung lại lập ra đồn điền, khiến cho sản xuất nông nghiệp khá phát triển. Thời Hậu Thục, "bách tính no đủ", "một đấu gạo tam tiền". Khu vực Lưỡng Quảng tiếp nhận không ít dân thiên cư, những năm Ngũ Đại, khu vực phía nam Nam Lĩnh bình yên vô sự, phủ khố Nam Hán dần đủ đầy.[tham 5]
Khu vực Lưỡng Hoài, Giang Nam và Thái Hồ thuộc Ngô/Nam Đường và Ngô Việt từ thời Tùy-Đường đã rất phồn vinh, là trọng trấn lương thực của triều Đường.[tham 54] Trải qua biến Bàng Huân và loạn Hoàng Sào, các khu vực này dần hồi phục, triều đình ủng hộ khai khẩn đất hoang đại quy mô tại đây, đồng thời xây đắp nên các thủy đạo. Ngô và Nam Đường khơi thông Luyện Hồ ở Đan Dương, khơi thông hồ Giáng Nham ở Cú Dung, đắp đê Bạch Thủy ở Sở châu, đắp đê An Phong ở Thọ châu, ít công trình nào mà chỉ tưới cho vài nghìn khoảnh ruộng, đa số tưới tiêu cho trên vạn khoảnh ruộng. Ngô Việt vương cho xây đắp đê đá Tiền Đường Giang để phòng thủy triều từ biển xâm nhập,[tham 55], đồng thời khơi thông nạo vét Tây Hồ, Thái Hồ và Giám Hồ,[tham 56] cũng mộ dân khai khẩn ruộng hoang, miễn thu thuế ruộng, khiến khu vực Hàng Châu trở thành một nơi giàu có ở Giang Nam. Khu vực Phúc Kiến vào hậu kỳ triều Đường không có kinh tế mạnh, song huynh đệ Vương Triều và Vương Thẩm Tri sau khi chiếm lĩnh và lập ra nước Mân, họ khuyến khích dân chúng cày cấy và trồng dâu, cho xây đê Xa Hồ ở huyện Liên Giang, có thể tưới cho 4 vạn dư khoảng ruộng. Nông dân Nam Đường và Ngô Việt cũng xây dựng một kiểu đê ngăn nước tại ruộng gọi là "vi điền". Khi hạn thì mở đập dẫn nước vào ruộng, khi lụt thì đóng đập để ngăn nước, biến các vùng trũng thấp hay bị úng nước trở thành đất ruộng tốt.[tham 5] Ở đất Hồ Quảng, từ thời Đông Tấn-Nam-Bắc triều trở đi đã rất hưng thịnh. Sau khi Mã Ân cát cứ Hồ Nam và kiến lập nước Sở, sản lượng lương thực của Tương Trung và Tương Tây không ngừng tăng lên. Đến thời Chu Hành Phùng cát cứ Hồ Nam, nhân dân "chuyên tâm cấy gặt, trong vòng 4-5 năm, kho lương đầy ắp". Các khu vực ở trung hạ du Trường Giang đều trở nên dư thừa lương thực "Cấp ra cho Thiên hạ, Giang Nam chiếm đến 9/10", sang thời Tống, có câu nói "Tô (hay Hồ) thường được mùa thì Thiên hạ no đủ".[tham 47]
Ngoài sản xuất lương thực ra, các ngành kinh tế khác ở phương nam như trà, dệt lụa, bông cũng rất hưng thịnh, tiến lên mức chuyên nghiệp hóa. Đương thời, trà ngoài các giống ở vùng núi, cũng có các giống trồng ở vùng đất bằng hay gò đồi. Căn cứ theo ghi chép tại "Tứ thời toản yếu", đương thời vườn trà Giang Nam rất phát đạt. Thời Thập Quốc, nước Sở của Mã Ân đối với các ngành như trà, trồng dâu nuôi tằm, bông đều rất hưng thịnh, dẫn đến thương nghiệp và mậu dịch của Sở cũng phát đạt. Nước Mân phát triển kinh tế sản vật trà, lại khuyến khích mậu dịch trên biển, có tác dụng thúc đẩy rất lớn đối với kinh tế bản địa.[tham 47]
Điêu bản ấn loát (in bằng bản được chạm trắc từ trước) đầu tiên được lưu hành trong dân gian, song vào thời Ngũ Đại Thập Quốc thì đặc biệt phổ biến, trong đó hai nơi là Giang Nam và Ba Thục khá phát triển, không chỉ dùng để in sách kinh Phật hoặc sách dùng hàng ngày trong dân gian, mà còn dùng để in các kinh điển Nho giáo vốn chỉ phục vụ cho tầng lớp sĩ đại phu. Điêu bản ấn loát ở Tiền Thục khá phát triển, các sản phẩm in chủ yếu là sách xem bói hay tự điển. Đến thời Hậu Thục, người ta thông thạo việc in ấn, khiến cho "trong Thục, văn học phục thịnh". Năm 932, tể tướng Hậu Đường Phùng Đạo đề nghị chính thức chọn cách dùng điêu bản để in Cửu kinh như Thi Kinh, Thư Kinh, Kễ Kỳ, xuất hiện việc in ấn chính thức trên quy mô lớn. Kế hoạch này do Quốc tử giám thực hiện, không vì chiến loạn mà đình chỉ, đến năm 953 vào thời Hậu Chu thì mới hoàn tất việc khắc ấn, tổng cộng mất tới 22 năm. Kể từ đó, khắc bản "Cửu kinh" được lưu truyền rộng rãi. Sau đó, triều đình khắc ấn kinh thư với số lượng tăng thêm, nhiệm vụ này lại giao cho Quốc tử giám phụ trách, bản khắc sách được thu giữ trong Quốc tử giám và được gọi là "giám bản".[tham 57]
Ngũ Đại cũng là thời kỳ chuyển đổi trọng yếu của nghề gốm, do dân gian chuyển sang lò gốm quan. Đồ gốm dân và đồ gốm quan mỗi bên theo một hướng, "tranh kỳ đấu diễm", hình thành thời kỳ thịnh hành đồ sứ đơn sắc. Quan phương cho dựng lên lò gốm quan, chuyên môn cung ứng sản phẩm cho hoàng thất và quan viên sử dụng. Ở phương bắc, có "ngự diêu" (đồ gốm dành cho vua dùng) thời Hậu Đường và Hậu Chu, ở phương nam có đồ gốm bí sắc ở nước Ngô Việt, có lò gốm quan ở Tiền Thục và Hậu Thục. Dân gian vẫn duy trì truyền thống làm ra đồ gốm tốt, giả dụ như Định Diêu ở Hà Bắc rất hưng thịnh.[tham 58] "Việt khí" ở Ngô Việt có kỹ thuật thiêu chế tốt, rất có danh tiếng.[tham 57] Thời Ngũ Đại, thợ thầy đồ gốm có các cải biến sáng tạo, truyền thế tạo thành một sự tiên phong lớn trong lịch sử nghề đồ gốm Trung Quốc cổ đại.[tham 59] Kỹ thuật làm đồ gốm cũng được truyền ra nước ngoài, vào năm 918 dưới thời Hậu Lương, Cao Ly do học được kỹ thuật làm đồ sứ của Trung Quốc nên thiết lập xưởng gốm ở Khang Tân (Gangjin), sau đó kỹ thuật đồ gốm Trung Quốc lại tiếp tục truyền bá sang Nhật Bản và các nước Tây Dương.[tham 59]
Trừng Tâm Đường chỉ là tên một loại giấy và thời Ngũ Đại Thập Quốc, Nam Đường Hậu Chủ Lý Dục là người thiện tả thi từ, thích thu thập và cất giữ các thư tịch và giấy, do vậy chuyển một căn phòng của quan phủ Kim Lăng thành "Trừng Tâm Đường", dùng làm nơi sáng tác thơ và chứa sách. Nam Đường Hậu Chủ còn lệnh cho đưa thợ làm giấy giỏi của Tứ Xuyên đến Trừng Tâm Đường, phỏng theo cách làm giấy của người Thục mà tạo thành một loại giấy mới có chất lượng tốt, đặt tên là "Trừng Tâm Đường chỉ". Do chất lượng của Trừng Tâm Đường chỉ quá tốt, nên một trang giấy giá 100 tiền, nổi bật trong số các loại giấy. Sau này, triều Tống, triều Thanh đều học theo kỹ thuật của Nam Đường, sản xuất và sử dụng loại giấy này.[tham 59][tham 57]
Do các nhân tố xã hội nhiễu động và thời đại ngắn gấp, thời Ngũ Đại thường xảy ra các vụ việc binh biến phản loạn hay hành thích, quân vương trọng võ khinh văn, còn sĩ nhân thì trọng thực khinh hư, khiến cho thời kỳ này hiếm có học giả hay tư tưởng gia kiệt xuất, nhà nho có danh tiếng chỉ có Phùng Đạo. Phùng Đạo là chính trị gia, quản lý việc khắc in "Cửu kinh" đại quy mô, phụng sự 15 vị quân chủ thuộc 9 họ, làm quan trong hơn 40 năm. Việc này xét theo quan điểm Nho giáo là bất trung quân, song lại giúp bản thân và giúp dân.[tham 61]
Do loạn thế gây tai họa, con người không thể nắm giữ tiền đồ của mình, đại đa số kẻ sĩ chọn theo tư tưởng tị thế tiêu cực, một bộ phận nhà Nho và bách tính hướng sang Phật giáo và Đạo giáo. Có cũng người nghiên cứu đạo tịch, song cũng có người ẩu náu nơi rừng núi, lòng không quan tâm đến danh lợi, chú trọng dưỡng sinh cá nhân, có câu "Ngũ quý chi loạn, tị thế nghi đa".[tham 62] Trong đó, học giả Đạo giáo Đàm Tiễu kế thừa thuyết pháp "đạo" là bản nguyên của thế giới do Lão Tử đề xương. Ông cho rằng vạn vật giữa Trời đất đều do "đạo" diễn hóa mà hình thành, nhưng bản chất của "đạo" lại là hư không, nhiều quan điểm bao hàm nhân tố nhân dân, dân chủ. Đàm Tiễu có soạn "Hóa Thư", trong "Đạo Hóa thiên" ghi rằng: "ủy đạo thì hư hóa thần, thần hóa khí, khí hóa hình, hình sinh nên vạn vật do vậy mà tắc. Dụng đạo thì hình hóa khí, khí hóa thần, thần hóa hư, hư minh nên vạn vật thông".[tham 61]
Ngũ Đại Thập Quốc là thời kỳ phát triển trọng yếu của thể loại văn học từ, chủ yếu mô tả cảnh sinh hoạt hưởng lạc của hoàng thất và quý tộc. Thể loại này có đề tài dung tục, khung cảnh chật hẹp, phong cách nhu mĩ, có thể lấy đại biểu là Hoa Gian phái. Đến hậu kỳ, xuất hiện lối miêu tả sáng sủa kín đáo, tình cảnh sinh động, để lại dư vị cho người đọc, có ảnh hưởng cực lớn đối với Tống từ. Hoa Gian phái có nguồn gốc từ Ôn Đình Quân thời vãn Đường, Vi Trang thời Vãn Đường-Tiền Thục, trong đó Ôn Đình Quân được hậu nhân gọi là "Hoa Gian tị tổ", các tác phẩm nổi danh như "Bồ Tát Man", "Mộng Giang Nam"; Vi Trang có "Nữ Quan Tử", "Bồ Tát Man"; đều mang phong cách tươi mới. Sau đó, từ phát triển ở Ngũ Đại, có tương đối nhiều từ nhân ở đất Thục và Nam Đường, mặt bằng tương đối cao, do đó trở thành hai trung tâm. Đất Thục có những người như Vi Trang hay Âu Dương Quýnh thời Hậu Thục, các tác phẩm của họ về sau được Triệu Sủng Tộ tập hợp trong "Hoa Gian tập". Âu Dương Quýnh từ có phong cách rất dịu dàng uyển chuyển, nổi danh có "Nam Hương Tử".[tham 63]
Một trung tâm khác của từ là Nam Đường, với những người như Phùng Diên Tị, Trung Chủ Lý Cảnh, Hậu Chủ Lý Dục. Tác phẩm của Phùng Diên Tị có "Thải Tang Tử", hay "Yết Kim Môn", phong cách tinh tế kín đáo, có ảnh hưởng đến từ nhân Bắc Tống như Yến Thù hay Âu Dương Tu, để lại "Dương Xuân tập". Có thể lấy "Than Phá Hoán Kê Sa" làm đại biểu cho các tác phẩm của Lý Cảnh, nội dung sâu lắng, không có cảm giác diễm lệ hư ảo, tác phẩm của phụ tử Lý Cảnh được hậu nhân tập hợp lại thành "Nam Đường Nhị Chủ từ". Lý Dục là một từ nhân quan trọng thời Ngũ Đại Thập Quốc. Các tác phẩm thời kỳ đầu của ông cũng giống như "Đồng Hoa Gian phái", chủ yếu là mô tả cảnh sinh hoạt diễm lệ trong cung đình như "Ngọc Lâu Xuân", Bồ Tát Man". Tuy nhiên, sau khi mất nước và bị bắt, các tác phẩm từ của ông miêu tả tình cảnh của bản thân, hoặc than thở thân thế, hoặc luyến tiếc quá khứ, hình tượng tươi đẹp, ngôn ngữ sinh động, tả tình thương cảm rất sâu sắc và chân thành, đại biểu có "Ngu Mỹ Nhân", "Lang Thao Sa" (浪滔沙), "Ô Dạ Đề". Đây là một bước đột phá so với khuôn mẫu chuyên tả phong hoa tuyết nguyệt hay tình cảm nam nữ từ thời vãn Đường, trên cả phương diện nội dung và ý cảnh đều có sự sáng tạo mới mẻ, là lĩnh vực được phát triển khai thác trong các tác phẩm từ vào thời Bắc Tống.[tham 63]
"Đường hội yếu" do Vương Phổ thời Hậu Chu biên soạn, chia ra từng loại theo sự tiến triển và biến thiên các hạng chế độ, điển chương và văn vật thời Đường, tái hiện phong mạo triều Đường, là tác phẩm chuyên biệt "hội yếu" số một trong lịch sử Trung Quốc.[tham 65] Bút ký lịch sử vào thời Ngũ Đại Thập Quốc rất phát triển, chủ yếu là tự thuật sự vật đời Đường. "Khai Nguyên Bảo Di Sự Ký" của Vương Nhân Dụ ghi lại dật sự triều dã thời Đường Huyền Tông, "Đường Chích Ngôn" của Vương Định Bảo tường thuật chế độ tiến cử người tài thời Đường, Lưu Sùng Viễn soạn "Kim Hoa Tử" ghi lại cố sự triều dã thời Đường mạt, "Bắc Mộng Tỏa Ngôn" của Tôn Quang Hiến ghi lại dật sự sĩ nhân thời Đường và Ngũ Đại.[tham 65]
Do Trung Nguyên chiến loạn liên miên, vào thời kỳ Ngũ Đại Thập Quốc có rất nhiều họa gia di chuyển từ Trung Nguyên đến khu vực tây nam và đông nam, đồng thời ẩn cư ở vùng thâm sơn, khiến sơn thủy họa phát triển nhanh chóng, hoa điểu họa thì nổi lên.[tham 66] Thủy mặc sơn thủy họa vào thời Ngũ Đại đã tiến vào giai đoạn thành thục, họa gia hiểu rõ giá trị của sinh hoạt, nhận thấy điểm đặc sắc của hoàn cảnh tự nhiên, dùng các kỹ thuật không giống nhau để tái hiện, hình thành hai phái là Kinh Quan ở phương bắc và Đổng Cự ở phương nam. Với Sơn thủy họa ở phương bắc, sư đồ có danh tiếng nhất là Kinh Hạo và Quan Đồng thời Hậu Lương, Kinh Hạo đào tình lâm tuyền, ký thú đan thanh, người đời gọi là "Hồng Cốc Tử". Ông là bậc kỳ tài về việc vẽ tranh núi cao non thẳm, tác phẩm "Khuông Lư đồ" của ông được gọi là "toàn cảnh sơn thủy". Quan Đồng là bậc kỳ tài về vẽ thế sông núi, trong khung cảnh hùng hồn có thêm vẻ tan hoang trống trải của phương bắc, các tác phẩm có thể kể đến như "Quan sơn hành lữ đồ", "Thu sơn vãn thúy đồ".[tham 66] Sơn thủy họa phương nam có sư đồ nổi tiếng Đổng Nguyên, Cự Nhiên ở nước Nam Đường, họ đều tài giỏi trong việc vẽ tranh thủy mặc miêu tả cảnh sắc Giang Nam. Đổng Nguyên là bậc kỳ tài trong việc sử dụng "phi ma thuân", khéo dùng đạm mặc khinh lam để thoát khỏi thiên chân buồn tẻ của Giang Nam, có tiếng nhất là "Động thiên sơn đường", "Hàn lâm trọng đinh đồ". Cự Nhiên kế thừa trực tiếp họa pháp của Đổng Nguyên, các tác phẩm nổi tiếng có thể kể đến như "Vạn hác tùng phong đồ", "Tằng nham tùng thụ đồ".[tham 66]
Về điểu hoa họa thì có tiếng nhất là như Từ Hy nước Nam Đường hay Hoàng Thuyên nước Hậu Thục. Hoàng Thuyên giỏi vẽ các loại chim quý cỏ lạ trong cung đình, Từ Hy giỏi vẽ chim và hoa trên mặt nước sông hồ, hai người được gọi là "Hoàng-Từ", đương thời có ngạn ngữ "Hoàng gia phú quý, Từ Hi dã dật", các tác phẩm nổi tiếng có thể kể đến như "Tả sinh trân cầm đồ", "Tuyết trúc đồ".[tham 66]
Nhân vật họa thời Ngũ Đại Thập Quốc kế thừa phong cách hội họa nhân vật cung đình của Chu Phưởng và Trương Huyên thời Đường, nổi tiếng có Cố Hoành Trung, Chu Văn Củ và Thạch Khác]]. Hàn Hi Tái dạ yến đồ do Cố Toàn Trung vẽ theo lối tế nhị, mang sắc thái hoa lệ tươi vui, là tài sản nghệ thuật quý báu truyền thế. Chu Văn Củ thể hiện tình một cách sinh động khi khắc họa về nhân vật, là bậc thầy về trình độ miêu tả hình thể và tư thế, tác phẩm có "Tô lý biệt ý" và "An lạc cung nữ đồ".[tham 66] Thạch Khác ở Hậu Thục giỏi về nhân vật quỷ thần, hình tượng phần nhiều thể hiện dáng xấu xí kỳ dị, tác phẩm có "Nhị Tổ điều tâm đồ". Thời Ngũ Đại, đạo sĩ Trương Tố Thanh giỏi về Đạo họa.[tham 67]
Sau Hội Xương pháp nan (840-846), chỉ có Thiền Tông Nam tông dần hưng thịnh, đồng thời từ hậu kỳ triều Đường lại bắt đầu phân thành 5 tông phái. Thiền tông sau Nam Đốn Bắc Tiệm phân thành Bắc tông Thần Tú và Nam tông Huệ Năng. Huệ Năng chủ trương "đốn ngộ", "kiến tính thành Phật", sau được lưu truyền rộng rãi ở Nam Thiên Lĩnh Nam. Đệ tử của Huệ Năng là Thần Hội về Lạc Dương ở phương bắc, trong "Minh Định Nam Bắc Tổng Thị Phi Đại hội" lại đánh bại Bắc tông, khiến Thiền tông Nam tông trở thành chủ lưu của Thiền tông Trung Hoa. Tuy nhiên, Thiền tông Nam tông sau phân thành Hà Trạch tông Thần Hội, Thanh Nguyên tông Hành Tư và Nam Nhạc tông Hoài Thượng. Nam Nhạc tông đến thời Bách Trượng Hoài Hải, các đệ tử là Linh Hựu và Huệ Tịch sáng kiến Quy Ngưỡng tông, trong thời Ngũ Đại rất phát triển, song sang thời Bắc Tống thì mất. Đệ tử của Bách Trượng Hoài Hải là Hi Vận và Nghĩa Huyền sáng kiến Lâm Tế tông, sang thời Bắc Tống thì trở thành lưu phái Thiền tông phát triển nhất. Văn Yển sáng lập Vân Môn tông, tư tưởng của ông có thể khái quát bằng ba câu: "Hàm cái càn khôn câu, tiệt đoạn chúng lưu câu, tùy ba trục lãng câu". Văn Ích khai sáng Pháp Nhãn tông, nhận định rằng "tam giới duy tâm, vạn vật duy thức", do vậy chủ trương "bất trước tha cầu, tận do tâm tạo". Thanh Nguyên tông đến thời Tào Sơn Bản Tịch sáng kiến Tào Động tông. Phật giáo thời Đường mạt và Ngũ Đại hình thành cục diện "ngũ tông thất phái", tức Quy Ngưỡng tông, Lâm Tế tông, Vân Môn tông, Pháp Nhãn tông, Tào Động tông; cộng thêm môn hạ của Lâm Tế phân xuất thành hai phái Hoàng Long và Dương Kỳ. Tuy nhiên, Thiền tông đến hậu kỳ quá độ khai triển "đốn ngộ", thay thế chủ nghĩa hình thức và thần bí, thậm chí xuất hiện việc "ha Phật mạ Tổ". Khiến Phật giáo đi theo hướng thế tục hóa, giải thể hóa chế độ.[tham 68][tham 69]
Các tông phái khác sau Hội Xương pháp nan phần lớn đều suy vong, điển tịch của Thiên Thai tông, Duy Thức tông bị mất. Thời Ngũ Đại Thập Quốc, Hoàng đế nước Ngô đón mời Đế Quan (諦觀) người Cao Ly đem theo điển tịch Thiên Thai tông, Đế Quan soạn "Tứ Giáo Nghi" (四教儀), khiến Thiên Thai phục hưng. Tịnh độ tông vốn chỉ truyền bá trong dân gian thì nay đồng thời cũng truyền hướng vào tầng lớp thượng lưu, đến các kẻ sĩ, đến hậu kỳ thì dung hợp với Thiền tông, từng có trào lưu "Thiền Tịnh nhất trí". Vào thời Hậu Chu, lại phát sinh phong trào bài Phật đại quy mô, Hậu Chu Thế Tông đối xử khinh suất với các sư tăng, bắt nộp thuế, thực hiện binh dịch, đãi bỏ tăng ni, gọi chung là "Tam Vũ Nhất Tông". Do vậy, Phật giáo ở phương bắc ngày càng suy lạc, song Phật giáo ở phương nam vẫn tiếp tục phát triển.[tham 68][tham 69]
Đạo giáo vào cuối thời Đường và thời Ngũ Đại Thập Quốc rất phát triển, Ngoại Đan đạo dần hướng vào Nội Đan đạo. Thời Ngũ Đại Thập Quốc, có không ít quân vương sùng Đạo giáo, như Hậu Chu Thế Tông tiến hành "ức Phật dương Đạo". Do vậy, Đạo giáo vào thời Ngũ Đại được các quân vương trợ giúp, tình trạng thịnh hành tiếp tục duy trì đến triều Tống, trở thành cơ sở cho thời kỳ đỉnh cao của Đạo giáo vào thời Tống. Các đạo sĩ có danh tiếng vào thời Ngũ Đại Thập Quốc có thể kể đến Đỗ Quang Đình, Đàm Tiễu, Bành Hiểu, Đàm Tử Hà, Lưu Hải. Đỗ Quang Đình chủ trương "dĩ Đạo vi bổn", "nạp Nho, Phật nhập Đạo", với các tác phẩm nổi tiếng như "Đạo đức chân kinh quảng thắng nghĩa", "Thường thanh tĩnh kinh trụ". Ông chủ trương người tu đạo đều cần "dựa nguyên khí mà thành", phương pháp của ông là "an thần khứ dục, bảo thủ tam nguyên". Ông kế thừa tác pháp của đạo sĩ Ngô Quân thời Đường Huyền Tông, nhận định tam giáo nên dung hợp không khác biệt. Đạo Thanh Tịnh của Đỗ Quang Đình có thể nói là một đại biểu điển hình cho việc Đạo giáo dung hợp Nho giáo và Phật giáo. Ngoài ra, ông còn giúp hai phái Mao Sơn tông và Thiên Sư đạo tiến hành nghi thức trai tiếu thống nhất, đồng thời tăng thêm quy phạm và chế độ hóa, được Đạo giáo hậu thế sử dụng rộng rãi.[tham 68][tham 69] Đàm Tiễu từ nhỏ đã thích Hoàng Lão đạo, Chư Tử và Liệt Tiên truyện, quyết chí tu đạo học tiên. Ông là bậc anh tài về thuật tịch cốc dưỡng khí, tác phẩm có "Hóa thư", "Đàm Tử hóa thư", cho rằng vạn sự vạn vật đều có nguồn gốc từ "hư", "hư hóa thần, thần hóa khí, khí hóa hình", sau lại trở về hư, biến đổi vô cùng. Tác phẩm của Bành Hiểu có "Chu dịch tham đồng khiết phương thông chân nghĩa"; cả hai người đều có sức ảnh hưởng tương đối.[tham 68][tham 69]
Các tôn giáo khác như Mani giáo, Cảnh giáo, hay Hỏa giáo cũng vì Hội Xương pháp nan mà phần nhiều suy thoái, trong đó Mai giáo chuyển hướng sang hoạt động ngầm. Sau khi Mani giáo trở thành một tôn giáo bí mật trong dân gian, nhiều khi trở thành cơ sở trong việc tập hợp lực lượng của các cuộc khởi nghĩa nông dân. Ví dụ như vào năm 920, tức thời Hậu Lương, Vô Ất cùng Đổng Ất và những người khác tại Trần châu đã lợi dụng Mani giáo để khởi sự. Hồi giáo không bị ngăn cấm sau Hội Xương pháp nan, tín đồ chủ yếu là ngoại kiều- hậu duệ của thương nhân Ả Rập, Ba Tư sinh sống ở ven biển, phần lớn họ đều tiếp thu tín ngưỡng của bậc cha chú. Các dân tộc ở vùng Tây Vực cũng vì Hồi giáo truyền bá về phía đông mà từ bỏ Mani giáo, Cảnh giáo, Hỏa giáo, Shaman giáo truyền thống, trở thành người Hồi giáo.[tham 68][tham 69]
Trên phương diện y học, Ngũ Đại xuất hiện y quan quan phương, Hậu Đường vào những năm Thanh Thái (934-936) lập thêm chức "Hàn lâm y quan". Bắc Tống sau đổi "Thái y thự" thành "Thái y cục", đồng thời thiết lập "Hàm lâm y quan viện". Hàn Bảo Thăng ở Hậu Thục là bản thảo học gia, ông quan sát tỉ mỉ các dược phẩm, hiểu biết sâu về dược tính, uống thuốc của ông liền có tác dụng kỳ diệu. Được sự hỗ trợ của hoàng đế Mạnh Sưởng, ông dựa theo "Tân tu bảo thảo" thời Đường, biên soạn lại thành "Thục trọng quảng anh công bản thảo", sử gọi là "Thục bản thảo", song đến nay không còn.[tham 70][tham 59]
Do lũ lụt gia tăng vào thời Ngũ Đại, quy mô và số lần trị hà đều khá nhiều so với thời kỳ trước. Cộng thêm việc các nước phương nam tận lực phát triển kinh tế, một số công trình đê kè ven biển và dòng sông cũng được tích cực xây dựng. Thời Ngũ Đại Thập Quốc cũng xuất hiện "diêu đê" (xây khá xa dòng chảy để phòng đại hồng thủy). Năm 924, Hậu Lương cho xây dựng đê sông Toan Tảo, năm sau Phù Tập tu sửa thành công. Thời Ngũ Đại, người ta còn sử dụng "trừu công" để xây dựng các kiến trúc hộ ngạn, đổ khẩu, hộ đê; chủ yếu là dùng củi, tre gỗ, hay cỏ để bó đất đá vào, sau đó thì liên kết với nhau, có tác dụng đáng kể trong việc kháng thủy; cuối cùng được sử dụng rộng rãi vào thời Tống. Thời Ngũ Đại Thập Quốc, các nước Ngô, Ngô Việt hay Nam Đường ở Giang Nam trùng tu đê sông, tiêu nước hồ, tiếp tục phát triển hệ thống đắp đê lấn biển từ thời Đường, đồng thời xây đắp đê đá Tiền Đường Giang để ngăn hải triều xâm nhập.[tham 70][tham 59]
Thời Ngũ Đại Thập Quốc, Ngô và Nam Đường thường dùng thuốc súng, mãnh hỏa du trong chiến tranh. Năm 904, quân của Dương Hành Mật khi vây thành Hồng châu (nay thuộc Nam Xương, Giang Tây), bộ tướng Trịnh Phan lệnh cho bộ thuộc "phát cơ phi hỏa, thiêu Long Sa môn, suất tráng sĩ đột hỏa tiên đăng nhập thành, tiêu chước bị thể".[tham 71] Năm 975, đại quân Bắc Tống nam chinh Nam Đường, tướng lĩnh Nam Đường Chu Toàn Uân dùng mãnh hỏa du phóng hỏa tiến công quân Tống, song sau đó vì hướng gió thay đổi, ngọn lửa quay lại đốt cháy quân Nam Đường.[tham 72]
Video yêu thích
Mục lục
Tổng quan
Ngũ Đại bao gồm năm triều đại: Hậu Lương, Hậu Đường, Hậu Tấn, Hậu Hán và Hậu Chu. Năm 907, tại Biện châu, Chu Ôn soán Đường, kiến lập Hậu Lương, khởi đầu cho Ngũ Đại. Con của Lý Khắc Dụng là Lý Tồn Úc diệt Hậu Lương, lập nên Hậu Đường. Sau thời Hậu Đường, quân vương Ngũ Đại đều xuất thân là tử tôn hoặc bộ thuộc của Lý Khắc Dụng. Trải qua khuếch trương và chỉnh đốn dưới thời Hậu Đường Minh Tông, quốc lực Hậu Đường cường thịnh, nhưng sau lại phát sinh nội loạn, Thạch Kính Đường dẫn quân Khiết Đan diệt Hậu Đường, kiến lập Hậu Tấn. Không lâu sau, quan hệ giữa Khiết Đan và Hậu Tấn trở nên xấu đi, quân Khiết Đan tiến về phía nam tiêu diệt Hậu Tấn, kiến lập triều Liêu. Đồng thời, Lưu Tri Viễn tại Thái Nguyên kiến lập Hậu Hán, sau đó thu phục Trung Nguyên. Tiếp đến, Quách Uy soán Hậu Hán, kiến lập Hậu Chu, Hậu Chu Thế Tông Sài Vinh khổ tâm mưu hoạch phát triển, khiến Hậu Chu có tia hy vọng thống nhất Thiên hạ, song ông đột ngột qua đời khi Bắc phạt nhằm lấy lại Yên Vân thập lục châu từ tay người Khiết Đan. Sau đó, Hậu Chu bị Triệu Khuông Dẫn soán, Ngũ Đại kết thúc.Về phần Thập Quốc, Ngô ở Giang Nam là mạnh nhất, nhưng sau bị Lý Biện soán vị, lập ra Nam Đường, tiếp đến có Ngô Việt và Mân. Vùng Hồ-Quảng lại có các nước Kinh Nam, Sở và Nam Hán. Nam Đường có quốc lực mạnh nhất, trước sau công diệt Mân, Sở, song cũng vì nhiều lần dụng binh mà quốc lực suy thoái, cuối cùng bại trước Hậu Chu. Đất Thục có Tiền Thục và Hậu Thục, quốc gia phú cường, chỉ kém có Nam Đường, song vì trì trệ trong an lạc, cuối cùng bị thế lực Trung Nguyên tiêu diệt. Bắc Hán là nước duy nhất ở phía bắc trong Thập Quốc, do hậu duệ hoàng tộc Hậu Hán kiến lập. Triệu Khuông Dẫn kiến lập triều Tống (sử gọi là Bắc Tống), cùng với hoàng đệ là Tống Thái Tông lần lượt tiêu diệt quần hùng, đến năm 979 thì thống nhất Trung Quốc bản thổ, Thập Quốc kết thúc.[tham 1]
Ngũ Đại Thập Quốc về đại thể vẫn kế tục thể chế chính trị hậu kỳ triều Đường, song rất nhiều chức quan có chữ "sứ". Trong đó, Ngũ Đại có rất nhiều biến hóa, chủ yếu là thiết tam tỉnh lục bộ làm cơ quan chủ quản hành chính, tam ty làm cơ quan chủ quản tài chính, xu mật viện làm cơ quan chủ quản quân sự, về sau được triều Tống kế thừa. Trong Thập Quốc, có một số thần phục Ngũ Đại, song cơ cấu chính trị thì phần lớn tương đồng với Ngũ Đại.[tham 2] Do tiết độ sứ địa phương không bị quản chế, đương thời họ thường quay sang phản lại Trung ương, do vậy triều đình phải tăng cường quân lực của cấm quân để áp chế nhóm thực lực địa phương. Để ngăn ngừa hiện tượng võ nhân can chính như thời Ngũ Đại, triều Tống thực thi chính sách "Cường cán nhược chi".[tham 3]
Trên phương diện ngoại giao, thời Đường, Hồ-Hán dung hợp, các dân tộc phi Hán liên tiếp đến cư trú trên khắp Trung Quốc. Sau khi bước sang thời kỳ Ngũ Đại Thập Quốc, xuất hiện một số quốc gia ngoại tộc, như người Sa Đà kiến lập Hậu Đường, Hậu Tấn và Hậu Chu. Hay như người Khiết Đan ban đầu kiến lập Khiết Đan Quốc, sau khi nam hạ diệt Hậu Tấn thì kiến quốc triều Liêu; cũng có thể kể đến người Đảng Hạng, họ có ảnh hưởng sâu sắc đến thế cục của triều Tống sau này.[tham 4]
Do phương Bắc nội loạn, ngoại tộc xâm nhập, phương nam chiếm ưu thế trên phương diện nhân khẩu, kinh tế, văn hóa và khoa học-kỹ thuật so với phương bắc. Đây cũng là thời khắc mà kinh tế Hoa Nam một lần nữa vượt qua Hoa Bắc, cục diện này sau đó chưa từng lại bị đảo ngược.[tham 5] Thập Quốc mở rộng kinh tế, xem trọng xây dựng và sửa chữa công trình thủy lợi cũng như cây trồng kinh tế, phát triển mậu dịch, sản xuất trà, dệt, đê đá sông Tiền Đường cũng được xây dựng trong thời kỳ này.[tham 5]
Trên phương diện văn hóa, đây là thời kỳ phát triển then chốt của thể loại văn học "từ". Thiền tông tại thời kỳ này tiến vào "kỳ toàn hưng". Thời Ngũ Đại Thập Quốc, người ta tiếp tục dùng mộc bản in Cửu kinh, giúp bảo tồn nhiều kinh điển Nho giáo. Trên phương diện hội họa, cả phương Bắc và phương Nam đều có chỗ độc đáo.[tham 6]
Lịch sử
Triều Đường diệt vong
Từ sau loạn An Sử, Đại Đường liên tục xuất hiện rất nhiều phiên trấn không chịu sự khống chế[chú 1] Tuy nhiên, đến thời Đường Hiến Tông, các phiên trấn gần như thần phục, song nhìn chung vào trung hậu kỳ triều Đường, hoạn quan chuyên chính, đảng tranh và không có cách loại trừ bỏ căn nguyên vấn đề phiên trấn. Do vùng Hà Bắc bị phiên trấn khống chế, Trung Nguyên chiến loạn không kham nổi, triều đình Đường phải dựa vào của cải của vùng Giang Nam. Tuy nhiên, trong biến Bàng Huân và loạn Hoàng Sào, vùng Giang Nam lại bị phá hoại, ảnh hưởng nghiêm trọng đến thu nhập kinh tế của triều đình Đường, triều Đường dần đi đến chỗ diệt vong. Vào hậu kỳ triều Đường, xuất hiện ba phiên trấn trọng yếu: người Sa Đà Lý Quốc Xương (nguyên danh Chu Da Xích Tâm) do có công bình loạn nên được thụ phong là Hà Đông tiết độ sứ, trị sở tại Thái Nguyên; nguyên bộ tướng của Hoàng Sào là Chu Toàn Trung (nguyên danh Chu Ôn) do có công bình loạn nên được thụ phong Tuyên Vũ tiết độ sứ, trị sở tại Biện châu- nay thuộc Khai Phong, Hà Nam; Phượng Tường tiết độ sứ Lý Mậu Trinh (sau phong Kì vương) là thế lực phiên trấn lớn mạnh ở vùng Quan Trung, đương thời thường uy hiếp triều đình. Sau khi Hoàng Sào bị tiêu diệt, hàng tướng Tần Tông Quyền của Hoàng Sào vẫn tiếp tục nổi dậy, suất quân từ Trung Nguyên đánh cướp tứ xứ, từng công hãm Đông Đô (nay là Lạc Dương), tạo thành cục diện "Cực mục thiên lý, vô phục yên hỏa" (Nhìn xa nghìn lý không thấy dấu vết khói lửa).[tham 8] Loạn lan đến khu vực Lưỡng Hoài-Giang Nam, quần hùng địa phương vùng lên kháng địch, trong số Thập Quốc thì Ngô và Sở kiến lập theo cách này.[tham 1] Đến thời Đường Chiêu Tông, nhờ nỗ lực của Chu Toàn Trung, loạn Tần Tông Quyền mới chấm dứt.[tham 9]Ba cánh phiên trấn có ảnh hưởng lớn đối với triều Đường vào hậu kỳ, chính trị đầu thời Ngũ Đại là Chu Toàn Trung (Lương), Lý Khắc Dụng (Tấn) và Lý Mậu Trinh (Kỳ). Tử tôn và bộ thuộc của Lý Khắc Dụng trở thành quân chủ Hậu Đường, Hậu Tấn và Hậu Hán. Lý Khắc Dụng và Chu Toàn Trung vốn đã không hợp,[chú 2] hai bên đấu tranh không ngừng cả trên triều đình lẫn dưới phiên trấn. Chu Toàn Trung lợi dụng thế lực trong triều mà đả áp Lý Khắc Dụng, đồng thời thừa cơ uy phục các phiên trấn ở Hà Bắc, thôn tính lãnh địa của Hà Trung quân, Truy Thanh quân và các trấn khác. Việc mở rộng địa bàn khiến cho thế lực của Chu Toàn Trung vượt lên rõ rệt so với Lý Khắc Dụng.[tham 9] Tuy nhiên, khi Lý Mậu Trinh uy hiếp triều đình Đường ở Quan Trung, song vì Lý Khắc Dụng và Chu Toàn Trung can thiệp nên ông ta thất bại. Năm 888, sau khi Đường Chiêu Tông kế vị, tể tướng Thôi Dận và hoạn quan Hàn Toàn Hối (韓全誨) tranh quyền. Đường Chiêu Tông bị Hàn Toàn Hối quản thúc, Thôi Dận khẩn cấp kêu gọi Chu Toàn Trung đến cứu viện. Hàn Toàn Hối buộc Đường Chiêu Tông đến chỗ Lý Mậu Trinh, Chu Toàn Trung suất quân vây khốn Phượng Tường. Năm sau, quân Phượng Tường cạn lương thảo, Lý Mậu Trinh giết Hàn Toàn Hối và các hoạn quan cấp cao khác, hòa giải với Chu Toàn Trung. Chu Toàn Trung thừa cơ nắm giữ đại quyền, khống chế triều đình, còn đồ sát vài trăm hoạn quan, phái binh khống chế Trường An. Thôi Dận sau đó hối hận, có ý muốn thoát khỏi sự uy hiếp của Chu Toàn Trung, ngầm triệu mộ lục quân thập nhị vệ, song bị tai mắt của Chu Toàn Trung ở Trường An phát giác. Năm 904, Chu Toàn Trung giết Thôi Dận, bức bách Đường Chiêu Tông thiên đô đến Lạc Dương, đến tháng 8 cùng năm thì giết Đường Chiêu Tông và lập hoàng tử Lý Chúc làm hoàng đế, tức Đường Ai Đế. Chu Toàn Trung ban đầu muốn sau khi thống nhất Thiên hạ sẽ đoạt vị, song do cuộc chinh phục Hoài Nam kết thúc trong thất bại, đến năm 907, Chu Toàn Trung bức bách Đường Ai Đế thiện nhượng, triều Đường diệt vong, bắt đầu thời kỳ Ngũ Đại Thập Quốc. Chu Toàn Trung cải danh thành Chu Hoảng, kiến quốc Hậu Lương, tức Hậu Lương Thái Tổ, cuối cùng định đô tại Biện châu.[tham 9]
Hậu Lương cải cách, Lương-Tấn đối lập
Tuy nhiên, các triều Ngũ Đại chỉ có thể khống chế khu vực Trung Nguyên và Quan Trung, song không giống với tình trạng phiên trấn chung một chủ thời Đường, phạm vi thế lực chủ yếu của Ngũ Đại không vượt ra khỏi khu vực Hoa Bắc, chỉ có thể nói là triều đình kiểu phiên trấn.[tham 11] Sau khi triều Đường diệt vong, có phiên trấn tôn Ngũ Đại là tông chủ, một số vẫn còn ủng hộ Đường thất, họ cố thủ bảo toàn ranh giới hoặc xưng đế tranh thiên hạ. Bất chấp sách lược đối ngoại có thế nào, các phiên trấn này đều độc lập tự chủ, trong đó có 10 quốc gia đại diện xuất hiện không đồng thời, sử gọi là Thập Quốc.[tham 12] Ở phương Bắc, quy phục Hậu Lương có thể kể đến như Nghĩa Vũ quân của Bắc Bình vương Vương Xử Trực, Thành Đức quân của Triệu vương Vương Dung; các phiên trấn bán độc lập gồm: Phượng Tường quân (nước Kỳ) của Lý Mậu Trinh, Lô Long quân (nước Yên của Lưu Nhân Cung, Hà Đông quân (nước Tấn) của Lý Khắc Dụng. Ở đất Thục, Tây Xuyên tiết độ sứ Vương Kiến kiến lập nước Tiền Thục. Tại vùng Hồ-Quảng; Kinh Nam tiết độ sứ Cao Quý Hưng chiếm cứ khu vực Giang Lăng, sang thời Hậu Đường thì kiến lập nước Kinh Nam; ở Hồ Nam, Vũ An tiết độ sứ Mã Ân kiến lập nước Sở; ở vùng Lưỡng Quảng (Lĩnh Nam), có Thanh Hải tiết độ sứ Lưu Ẩn, sau khi Lưu Nghiễm kế nhiệm thì lập nước Nam Hán. Tại Giang Nam, Hoài Nam tiết độ sứ Dương Hành Mật chiếm cứ đất Ngô ở Lưỡng Hoài, sau kiến lập nước Ngô; ở Chiết Giang, Tiền Lưu kiến lập nước Ngô Việt; ở Phúc Kiến, Vương Thẩm Tri kiến lập nước Mân.[tham 11] Ngoài ra, ở Giao Chỉ, Tĩnh Hải quân tiết độ sứ Khúc Thừa Dụ tự lập, trong lịch sử Việt Nam gọi là họ Khúc, khởi đầu việc Việt Nam thoát ly khỏi lịch sử Trung Quốc.[tham 13] Người Đảng Hạng hợp thành Định Nan quân, cát cứ tự lập ở Hạ châu thuộc Thiểm Bắc. Ở Qua châu thuộc Hà Tây, Quy Nghĩa quân từng lập nên Kim Sơn Quốc.Hậu Lương Thái Tổ tiến hành không ít các cải cách mạnh mẽ nhằm chống lại những điều tiêu cực vào hậu kỳ triều Đường, ngoài ra ông còn rất chán ghét hoạn quan, từng cự tuyệt các hoạn quan từ phương Nam đến kinh thành tị nạn [tham 14] giết chết hoặc áp bức quan viên cao cấp triều Đường, song sử dụng những sĩ nhân "thất ý" như Lý Chấn, Kính Tường, còn nghe theo kiến nghị của Lý Chấn mà đồ sát 30 danh cao quan như tể tướng Bùi Xu, Thôi Viễn, sử gọi là Bạch Mã chi họa.[tham 15] Các sĩ nhân này trọng thực tế và khinh danh nghĩa, là đại biểu cho các nhân vật chính trị thời Ngũ Đại Thập Quốc.[tham 16] Trên phương diện kinh tế, Hậu Lương xem trọng phát triển nông nghiệp, giảm nhẹ thuế má. Trên phương diện quân sự, Hậu Lương rất nghiêm nhặt, nếu như tướng chiến tử, binh sĩ dưới quyền đều bị chém đầu, xưng là "bạt đội trảm". Tuy nhiên vào những năm cuối, Hậu Lương Thái Tổ hoang dâm vô độ, thậm chí trái với luân lý, thường triệu thê của các con vào cung để hầu hạ. Trên phương diện ngoại giao, những năm đầu Hậu Lương lập quốc, hầu như tất cả các quốc gia và phiên trấn đều tuyên bố thần phục, chỉ có Tấn, Kỳ, Tiền Thục, và Ngô là đối địch với Hậu Lương, dùng niên hiệu cũ của triều Đường nhằm thể hiện tôn thờ Đường thất. Trong đó, nước Tấn của Lý Khắc Dụng là tử địch của Hậu Lương Thái Tổ, sau khi khai quốc, Hậu Lương Thái Tổ liền bắc phạt đánh Tấn, tại Lộ châu (nay thuộc Trường Trị, Sơn Tây) lâm vào thế ngang ngửa với Lý Khắc Dụng, sử gọi là chiến dịch Lộ châu. Sau khi Lý Khắc Dụng qua đời do lo âu và kiệt sức, con ông là Lý Tồn Úc giành được thắng lợi với sự phụ tá của Lý Khắc Ninh và Trương Thừa Nghiệp. Năm 910, Hậu Lương Thái Tổ nghi ngờ Thành Đức quân và Tấn bí mật liên kết, vì thế suất quân tiến đánh, khiến Thành Đức tiết độ sứ Vương Dung và Nghĩa Vũ tiết độ sứ Vương Xử Trực quay sang với Lý Tồn Úc. Lý Tồn Úc suất quân đến Bách Hương, đánh tan quân Hậu Lương, cứu viện thành công Thành Đức quân, còn nguyên khí quân Hậu Lương tổn hao nặng nề, sử gọi là trận Bách Hương. Ở xa hơn về phía bắc, Lưu Thủ Quang là người tàn bạo, cũng là một địch thủ mạnh của Tấn. Năm 909, Lưu Thủ Quang được Hậu Lương Thái Tổ phong làm Yên vương, ba năm sau, Lưu Thủ Quang xưng đế, kiến lập nước Yên. Năm sau, Lý Tồn Úc phái Chu Đức Uy tiến đánh Lưu Thủ Quang, Hậu Lương Thái Tổ tự suất quân cứu viện cho Lưu Thủ Quang, song bị quân Tấn đánh tan. Cuối cùng, đến mùa đông năm 903, U châu thất thủ, Lưu Thủ Quang sau đó bị quân Tấn bắt giữ.[tham 11]
Sau khi chiến bại, Hậu Lương Thái Tổ triệt thoái về Lạc Dương, sau lâm bệnh nặng, thứ tử Chu Hữu Khuê bất mãn vì phụ hoàng có ý muốn lập con nuôi là Chu Hữu Văn làm thái tử,[tham 17] nên thừa cơ sát hại phụ hoàng rồi kế vị. Tuy nhiên, Chu Hữu Khuê hoang dâm vô độ, không được lòng người, đến năm 913 thì em trai là Chu Hữu Trinh liên hiệp với Thiên Hùng (tức Ngụy Bác) tiết độ sứ Dương Sư Hậu tiến đánh đoạt vị. Sau khi Dương Sư Hậu qua đời, các phiên trấn ở Hà Bắc như Thiên Hùng quân liên tiếp quy phục Tấn. Năm 916, tại Ngụy châu, quân Hậu Lương thảm bại trước quân Tấn, biên cương phía bắc của Hậu Lương chỉ có thể cố gắng duy trì tại bờ nam Hoàng Hà. Năm 918, Lý Tồn Úc lại suất quân nam chinh, đối kháng với quân Hậu Lương ở khu vực Bộc châu. Quân Hậu Lương lại thảm bại, song tướng Tấn Chu Đức Uy cũng chiến tử, chiến tranh Lương-Tấn sau đó bước vào một thời kỳ yên lặng. Năm 921, Trương Văn Lễ giết Thành Đức tiết độ sứ Vương Dung, khống chế Thành Đức quân, liên hiệp với Khiết Đan Quốc và Hậu Lương để đối kháng với Tấn. Tuy nhiên, Lý Tồn Úc suất quân đến Trấn châu (trị sở nay thuộc huyện Chính Định, Hà Bắc), đánh tan liên quân Triệu-Lương, lại đoạt được Hà Bắc tam trấn. Ngày Kỷ Tị (25) tháng 4 năm Quý Mùi (13 tháng 5 năm 923), Lý Tồn Úc xưng đế, tức Hậu Đường Trang Tông, kiến lập Hậu Đường, không lâu sau lại tiến hành nam chinh. Tướng Hậu Lương là Vương Ngạn Chương chọn phương thức khiên chế ở Vận châu (nay thuộc Đông Bình, Sơn Đông), ngăn chặn thành công quân Hậu Đường ở phụ cận Dương Lưu (nay thuộc Đông A, Sơn Đông). Hai bên lâm vào thế bế tắc trong một thời gian dài, quân Hậu Đường không có đủ quân lương, có ý triệt thoái. Tuy nhiên, trong triều đình Hậu Lương, Triệu Nham và Trương Hán Kiệt tiến sàm ngôn, khiến Vương Ngạn Chương bị triệu về, Hậu Đường Trang Tông lại suất quân qua Vận châu, đến tiến công Biện châu đang không được phòng bị. Ngày Mậu Dần tháng 10 (tức 18 tháng 11 năm 923), Chu Hữu Trinh thấy không đối phó nổi nên cùng với hoàng hậu tự sát, Hậu Lương diệt vong.[tham 11]
Hậu Đường mở đất và nội loạn
Sau khi tiêu diệt Hậu Lương, Hậu Đường Trang Tông định đô tại Lạc Dương. Đương thời, Hà Bắc tam trấn đã được bình định, quốc lực Hậu Đường cường thịnh. Nước Kỳ của Lý Mậu Trinh xưng thần với Hậu Đường, Hậu Đường Trang Tông phong Lý Mậu Trinh là Kỳ vương. Năm 924, Lý Mậu Trinh qua đời, Hậu Đường Trang Tông bổ nhiệm con trưởng của mình là Lý Kế Ngập giữ chức Phượng Tường tiết độ sứ, thôn tính nước Kỳ. Sau khi kiến quốc, Vương Kiến tại Thục chú trọng vào việc cày cấy, trồng dâu nuôi tằm, tăng cường thủy lợi, Tiền Thục về mặt kinh tế và quân sự đều rất cường thịnh. Tuy nhiên, sau khi Vương Kiến qua đời vào năm 918, con là Vương Diễn lại xa xỉ vô độ, tàn bạo ngu tối. Năm 925, Hậu Đường Trang Tông phái Quách Sùng Thao và Lý Kế Ngập suất quân đánh chiếm Thành Đô, Vương Diễn đầu hàng vào ngày Bính Thìn tháng 11 (15 tháng 12), Tiền Thục diệt vong.Mặc dù đối ngoại cường thịnh, song mâu thuẫn nội bộ Hậu Đường lại ngày càng lớn. Sau khi Hậu Đường Trang Tông định đô ở Lạc Dương, ông chiêu hồi hoạn quan về đảm nhiệm các chức vụ trọng yếu, tin dùng nhóm người bảo thủ như Lý Tập Cát, gần như tương đồng với nền chính trị hậu kỳ triều Đường, triều chính ngày càng bại hoại.[tham 16] Hậu Đường Trang Tông tự nhận định cơ nghiệp đã vững vàng, không chuyên tâm triều chính, tứ tình túng dục, tự dùng nghệ danh "Lý Thiên Hạ", tin dùng đám người như linh nhân Kính Tân Ma, linh quan Cảnh Tiến. Đương thời, quân đội có quy mô lớn, quốc khố eo hẹp, song Lưu hoàng hậu can dự việc triều chính, tham lam yêu tiền bạc, đưa một nửa số thuế thu được đến hậu cung, khiến triều đình phải giảm bớt quân lương để chi cho các khoản khác, do vậy mà xuất hiện tâm lý bất mãn, sau khi chinh phục được Tiền Thục thì quân Hậu Đường tiến hành binh biến.[tham 18]
Sau khi Quách Sùng Thao hoàn thành nhiệm vụ tiêu diệt Tiền Thục, Lý Kế Ngập cảm thấy bất mãn do không được tham dự sâu vào quân vụ. Lý Kế Ngập mật báo với triều đình, có ý muốn hãm hại Quách Sùng Thao. Hậu Đường Trang Tông có ý điều tra trước rồi sau mới quyết định, song Lý hoàng hậu tự ý mệnh cho Lý Kế Ngập xử tử Quách Sùng Thao. Năm 926, Quách Sùng Thao bị giết, quân Đường lòng quân tan tác, xảy ra binh biến khắp nơi. Lưu hoàng hậu không muốn đem của cải của mình ra để lạo quân, khiến tình hình càng thêm tồi tệ.[tham 19] Không lâu sau, binh lính Ngụy Bác quân do Triệu Tại Lễ suất lĩnh nổi dậy ở Ngụy châu (nay thuộc Đại Danh, Hà Bắc), Hậu Đường cho Lý Chiêu Vinh đi trấn áp song thất bại, Hậu Đường Trang Tông buộc phải phái Lý Tự Nguyên đem quân đi bình định. Tại Ngụy châu, Lý Tự Nguyên nhận được sự ủng hộ của bộ chúng và loạn quân, quay sang đem quân tiến về phía nam đánh lại Hậu Đường Trang Tông. Quân Hậu Đường ở các nơi không muốn tác chiến vì Hậu Đường Trang Tông, Biện châu và Lạc Dương liên tiếp bị chiếm, Hậu Đường Trang Tông bị tên lạc giết chết trong cảnh nội loạn.[tham 20] Sau khi tiến vào Lạc Dương, Lý Tự Nguyên đồ sát các quan lại và xưng đế, tức Hậu Đường Minh Tông, Lý Kế Ngập tự sát ở Trường An.[tham 18]
Trong thời gian chấp chính, Hậu Đường Minh Tông trừ bỏ các tệ chính dưới thời Hậu Đường Trang Tông, triều chính dần ổn định. Ông diệt trừ hoạn quan, tin dùng sĩ nhân; triệt tiêu không ít cơ quan dư thừa, thiết lập cơ quan tài chính như tam ty; đề xướng tiết kiệm, củng cố thủy lợi, quan tâm đến nỗi thống khổ của bách tính; tăng cường quân lực trung ương, kiến lập thị vệ thân quân để áp chế phiên trấn. Đây là một giai đoạn ổn định hiếm thấy vào thời Ngũ Đại, sử gia nhận định Hậu Đường Minh Tông là minh quân chỉ đứng sau Hậu Chu Thế Tông vào thời Ngũ Đại, một số chế độ do ông lập ra sau được triều Tống kế thừa.[tham 16] Song đến những năm cuối triều đại của Hậu Đường Minh Tông, Hậu Đường lại xảy ra tình trạng nội loạn. Năm 933, Hậu Đường Minh Tông lâm trọng bệnh, con là Lý Tòng Vinh đoạt vị rồi bị giết chết, ấu tử là Lý Tòng Hậu kế vị, tức Hậu Đường Mẫn Đế. Đương thời, hai vị đại tướng của Hậu Đường Minh Tông: con nuôi Lý Tòng Kha nhậm chức Phượng Tường tiết độ sứ, con rể Thạch Kính Đường nhậm chức Hà Đông tiết độ sứ, đều có binh lực hùng mạnh. Tể tướng Chu Hoằng Chiêu, Phùng Bản chủ trương tước bỏ binh quyền của các tiết độ sứ, song lại châm ngòi cho binh biến. Năm 934, Lý Tòng Kha đem quân tiến đến Lạc Dương, Hậu Đường Mẫn Đế bị Thạch Kính Đường bắt giữ trên đường chạy đến Ngụy châu, cuối cùng bị Lý Tòng Kha giết. Lý Tòng Kha xưng đế, tức Hậu Đường Mạt Đế.[tham 18] Trong lúc Trung Nguyên có rối loạn, xảy ra sự kiện Hậu Thục độc lập. Nguyên do là sau khi Tiền Thục diệt vong, Hậu Đường Trang Tông bổ nhiệm Mạnh Tri Tường làm Tây Xuyên tiết độ sứ, không lâu sau Hậu Đường Minh Tông đoạt vị, Mạnh Tri Tường luyện binh để thực hiện ý đồ độc lập. Năm 932, sau khi thôn tính Đông Xuyên quân của Đổng Chương, Mạnh Tri Tường được Hậu Đường Minh Tông phong làm Thục vương, đến khi Hậu Đường Mạt Đế phát động nội loạn, Mạnh Tri Tường xưng đế, kiến quốc Hậu Thục. Cùng năm đó, Mạnh Tri Tường qua đời, con là Mạnh Sưởng kế vị. Mạnh Sưởng cai trị tốt đẹp, lãnh thổ được mở rộng, Hậu Thục duy trì cục diện hòa bình trong vòng 30 năm.[tham 18]
Ngay từ thời Hậu Đường Minh Tông, Hậu Đường Mạt Đế và Thạch Kính Đường đã phân bì không hợp tác. Sau khi Hậu Đường Mạt Đế kế vị, ông rất nghi kị Thạch Kính Đường, Thạch Kính Đường lo sợ và trong lòng có ý muốn vùng dậy.[tham 21] Năm 926, Hậu Đường Mạt Đế điều nhiệm Thạch Kính Đường đến Thiên Bình quân, lại mệnh cho Trương Kính Đạt và Dương Quang Viễn suất quân hối thúc. Thạch Kính Đường nghe theo kiến nghị của Tang Duy Hàn và Lưu Tri Viễn, quyết định mượn binh Khiết Đan Quốc để nổi dậy, còn xưng là "con" với Liêu Thái Tông Da Luật Đức Quang, xin cắt nhượng Yên Vân thập lục châu cho người Khiết Đan.[chú 3] mỗi năm dâng tặng 30 vạn thất lụa. Trương Kính Đạt nghe tin về vụ nổi dậy, liền suất quân vây đánh thành Thái Nguyên, Thạch Kính Đường kiên trì cố thủ. Đương thời, Lô Long quân của Triệu Đức Quân và quốc chủ Khiết Đan Da Luật Đức Quang có ý hợp tác cùng thôn tính Trung Nguyên, Thạch Kính Đường hết sức lo sợ, lập tức lệnh cho Tang Duy Hàn đến gặp Da Luật Đức Quang. Tang Duy Hàn quỳ gối trước trướng của người Khiết Đan, ra sức cầu xin, khiến Da Luật Đức Quang từ bỏ kế hoạch hợp tác với Triệu Đức Quân. Da Luật Đức Quang suất quân giải vây cho Thạch Kính Đường, trợ giúp Thạch Kính Đường kiến quốc Hậu Tấn tại Thái Nguyên, tức Hậu Tấn Cao Tổ. Năm 937, quân Hậu Tấn và quân Khiết Đan tiến về phía nam, Dương Quang Viễn, Triệu Đức Quân và các trấn khác liên tiếp đầu hàng. Quân Hậu Tấn tự mình đánh Lạc Dương, Hậu Đường Mạt Đế phóng hỏa tự sát, Hậu Đường diệt vong. Hậu Tấn Cao Tổ định đô ở Biện châu, và cắt nhượng Yên Vân thập lục châu cho Khiết Đan Quốc theo cam kết trước đây, và từ đó Khiết Đan Quốc có ảnh hưởng rất lớn đối với Ngũ Đại.[tham 18]
Giang Nam khuếch trương
Đến thời Hậu Tấn, quốc lực Ngũ Đại không còn được như trước, đương thời thường bị Khiết Đan Quốc uy hiếp. Ở Giang Nam, Ngô và hậu kế Nam Đường có quốc thế cường thịnh, họ lựa chọn sách lược liên hiệp với Khiết Đan Quốc ở phương bắc để hạn chế Ngũ Đại, nhiều lần tiến đánh các nước xung quanh, thế lực càng lớn thêm, trở thành một mối uy hiếp lớn đối với vương triều Trung Nguyên. Nước Ngô vốn do Hoài Nam tiết độ sứ Dương Hành Mật đặt nền móng, ngay từ loạn Tần Tông Quyền, bộ thuộc của Tần Tông Quyền là Tất Sư Đạc đã đem quân đánh Dương châu, Dương Hành Mật phát triển thế lực cát cứ trong quá trình kháng địch, cuối cùng kiến lập nước Ngô.[tham 1] Năm 902, Dương Hành Mật được triều đình Đường phong làm Ngô vương, kiến đô ở Quảng Lăng, gọi là Giang Đô phủ. Trong thời gian chấp chính, Dương Hành Mật khuyến khích cày cấy và trồng dâu nuôi tằm, ổn định kinh tế, khiến khu vực Giang Hoài dần phục hồi. Về mặt đối ngoại, Dương Hành Mật lại ủng hộ Đường thất, đối địch với Tuyên Vũ quân của Chu Toàn Trung (sau là Hậu Lương Thái Tổ). Năm 905, Dương Hành Mật qua đời, con là Dương Ác kế vị. Năm sau, Chung Truyền ở vùng Giang Tây qua đời, các con nội loạn, Dương Ác thừa cơ phái Tần Bùi công chiếm Giang Tây, thống nhất Giang Hoài. Tuy nhiên, Dương Ác đam mê chơi đùa và thưởng nhạc, lại nghi kỵ công thần, do vậy các đại thần Trương Hạo và Từ Ôn phát động binh biến, giết chết Dương Ác. Năm 908, Từ Ôn ủng hộ em của Dương Ác là Dương Long Diễn lên ngôi, rồi trừ bỏ Trương Hạo, triệt để nắm giữ đại quyền nước Ngô.[tham 22][tham 23][tham 24]Sau khi nắm giữ đại quyền nước Ngô, Từ Ôn nhiều lần tiến đánh nước Ngô Việt song không đạt được thành quả, đến cuối thời Hậu Lương thì mới hòa đàm. Sau khi triều Đường diệt vong, nước Ngô không thừa nhận địa vị tông chủ của Hậu Lương, vẫn tiếp tục sử dụng niên hiệu của Đường Ai Đế, song đến năm 919 thì nước Ngô cải nguyên, chính thức cắt đứt quan hệ với triều Đường không còn tồn tại. Về đối nội, Từ Ôn dần trừ bỏ hết các cựu tướng của họ Dương, củng cố thế lực của bản thân, song con trưởng là Từ Tri Huấn chuyên chính, kiêu ngạo ngang ngược, tùy tiện; thậm chí từng có lần lấn hiếp Ngô vương Dương Long Diễn, cuối cùng bị bộ hạ là Chu Cẩn sát hại. Con nuôi của Từ Ôn là Từ Tri Cáo bình định rối loạn, Từ Tri Cáo hết sức hiếu cẩn với Từ Ôn, cuối cùng trở thành người kế thừa chính quyền của Từ Ôn.[tham 25] Dương Long Diễn uất hận mà qua đời, con là Dương Phổ kế vị, đến năm 927 thì xưng đế, tức Ngô Duệ Đế. Năm 927, Từ Ôn qua đời, được truy phong là Tề vương, Từ Tri Cáo kế vị, trở thành người thống trị trên thực tế của nước Ngô. Từ Tri Cáo sinh hoạt tiết kiệm, tôn trọng Ngô Đế và các tướng lĩnh, rất được lòng người.[tham 26] Năm 937, Từ Tri Cáo soán vị Ngô Duệ Đế, kiến lập nước Tề, định đô ở Kim Lăng, gọi là Giang Ninh phủ, nay thuộc Nam Kinh của Giang Tô. Hậu Đường diệt vong cùng năm đó, hai năm sau thì Từ Tri Cáo tự xưng là hậu duệ Đường thất, cải danh Lý Biện, kiến quốc Nam Đường, tức Nam Đường Liệt Tổ.[tham 27] Sau khi kiến quốc, Lý Biện chọn chính sách để dân chúng nghỉ ngơi, hữu hảo với lân quốc, quốc lực tiếp tục cường thịnh. Năm 943, Lý Biện qua đời, con là Lý Cảnh kế vị, tức Nam Đường Nguyên Tông. Đầu thời gian trị vì của Lý Cảnh, quốc lực Nam Đường vẫn cường thịnh, về đối ngoại thì liên minh hòa hảo với triều Liêu để áp chế Hậu Chu, đối với các quốc gia xung quanh thì thừa cơ xâm nhập, liên tiếp diệt nước Mân và nước Sở.[tham 23][tham 24]
Ở đông nam của Nam Đường có nước Ngô Việt và nước Mân. Người kiến lập nước Ngô Việt là Trấn Hải-Trấn Đông tiết độ sứ Tiền Lưu, thủ đô là Hàng châu, cương vực nhìn chung tương đương với tỉnh Chiết Giang ngày nay. Năm 907, Tiền Lưu được Hậu Lương phong làm Ngô Việt vương, tức Ngô Việt Thái Tổ. Trong thời gian tại vị, Tiền Lưu thúc đẩy kinh tế, bảo vệ cương giới và yên ổn dân chúng. Về mặt đối ngoại, Ngô Việt tôn Ngũ Đại là tông chủ quốc, đối đầu với Ngô rồi Nam Đường, chính sách đó được duy trì cho đến khi vong quốc. Ngoài ra, Ngô Việt còn từng phái sứ sang sách phong cho quốc vương các nước như Bột Hải Quốc, Tân La, các nước trong vùng biển lân cận đều tôn là quân trưởng.[tham 23][tham 24] Nước Mân do Phúc Kiến quan sát sứ Vương Triều kiến lập, ông ta cùng với em là Vương Thẩm Tri khống chế khu vực Phúc Châu, sau được phong làm Uy Vũ tiết độ sứ, cương vực ước đoán tương đương với tỉnh Phúc Kiến hiện nay. Sau khi Vương Thẩm Tri chấp chính, đến năm 909 thì được Hậu Lương phong làm Mân vương, tức Mân Thái Tổ. Trong thời gian tại vị, Vương Thẩm Tri đề xướng việc tiết kiệm, cho dân chúng nghỉ ngơi, xưng thần với Ngũ Đại, khiến nước Mân phát triển nhanh chóng. Năm 925, sau khi Vương Thẩm Tri qua đời, những người kế vị, tông thất và đại thần nghi kị tranh đấu lẫn nhau, khiến nước Mân dần suy yếu.[tham 23][tham 24]
Năm 943, em trai của Mân Cảnh Tông Vương Diên Hy là Vương Diên Chính xưng đế ở Kiến châu (nay thuộc Kiến Âu, Phúc Kiến), đặt quốc hiệu là "Ân". Năm sau, Vương Diên Hy bị đại thần sát hại, trong nước đại loạn. Năm 945, Vương Diên Chính cải quốc hiệu thành Mân. Cùng năm, Nam Đường Nguyên Tông Lý Cảnh thừa cơ tiến đánh nước Mân, công hạ Kiến châu, Mân diệt vong. Tuy nhiên, Ngô Việt cũng thừa cơ vượt qua ranh giới, tướng Mân là Lý Nhân Đạt đem Phúc châu nương nhờ Ngô Việt, còn Thanh Nguyên quân tiết độ sứ Lưu Tòng Hiệu chiếm cứ Tuyền châu và Chương châu. Nam Đường cuối cùng chỉ đoạt được Kiến châu và Đinh châu (nay thuộc tây bắc bộ Phúc Kiến), còn quan hệ với Ngô Việt thì tiếp tục xấu đi. Không lâu sau, Nam Đường thừa cơ Sở có nội loạn, năm 951 phái Biên Hạo đánh diệt Sở, song năm sau tướng Sở là Lưu Ngôn khởi binh phản kháng, khiến Nam Đường mất khu vực Hồ Nam. Nam Đường dụng binh trong nhiều năm, quốc lực bị tiêu hao đi rất nhiều, kết quả để mất một phần lớn lãnh địa. Lại thêm Lý Cảnh là người nhu hòa, thích nghe lời xu ninh và ghét lời nói ngay thẳng, vì vậy đám người tiểu nhân tranh nhau tiến tước, chính sự ngày một bại hoại. Năm 957, Hậu Chu thừa cơ phát binh đánh Nam Đường. Lý Cảnh chiến bại, phải cắt nhượng 14 châu Giang Bắc cho Hậu Chu, đồng thời tự bãi bỏ đế hiệu, chỉ xưng là Giang Nam quốc chủ, nguyên khí Nam Đường bị tổn hại nghiêm trọng. Thái tử Lý Hoằng Ký là người có tài năng quân sự, cho rằng thúc phụ Lý Cảnh Toại có ý muốn đoạt vị nên hạ độc giết chết, song sau đó Lý Hoằng Ký cũng qua đời. Lý Cảnh cải lập người con thứ năm là Lý Dục làm Thái tử, song Lý Dục lại có khí chất thư sinh quá lớn. Để tránh bị quân Hậu Chu và quân Ngô Việt liên hiệp xâm nhập Kim Lăng, Lý Cảnh thiên đô đến Hồng châu, tức Nam Xương phủ. Năm 961, Lý Cảnh qua đời, Lý Dục tức vị, tức Nam Đường Hậu Chủ, hoàn đô về Kim Lăng phủ. Đến lúc này, Nam Đường không còn uy hiếp được Ngũ Đại, chỉ có thể bảo cảnh an dân.[tham 23][tham 24]
Hồ Quảng nội loạn
Ở vùng Hồ Quảng có các nước Kinh Nam, Sở và Nam Hán. Nước Kinh Nam còn gọi là Nam Bình hay Bắc Sở,[chú 4] cương vực ước chừng tương đương với tây bộ tỉnh Hồ Bắc hiện nay. Quân chủ kiến quốc của Kinh Nam là Cao Quý Hưng, ông nguyên là tướng lĩnh của Hậu Lương Thái Tổ, đến năm 907 thì được bổ nhiệm làm Kinh Nam tiết độ sứ, thủ phủ tại Giang Lăng. Kinh Nam đất hẹp nước yếu, xưng thần với các nước xung quanh. Các quân chủ Kinh Nam Cao Quý Hưng và Cao Tòng Hối ham chiếm đoạt cống phẩm của các nước nên ngăn chặn chiếm đoạt, khi bị các nước phát binh uy hiếp thì nguyện quy phục, được gọi là "Cao Lại Tử". Sau khi Hậu Lương diệt vong, Cao Quý Hưng chuyển sang xưng thần với Hậu Đường, đến năm 924 thì được Hậu Đường Trang Tông phong làm Nam Bình vương. Đến khi Hậu Đường diệt Tiền Thục, Cao Quý Hưng biểu thị ý nguyện hiệp trợ phạt Thục, song không có hành động trên thực tế, song sau đó lại thỉnh cầu Hậu Đường cắt cho một phần đất Thục. Điều này khiến cho Hậu Đường Minh Tông rất tức giận, và quyết định phát binh nam chinh, song do Giang Nam đang là mùa mưa nên quân Hậu Đường gặp khó khăn trong tiếp tế lương thảo, buộc phải triệt thoái. Quan hệ giữa Kinh Nam và Hậu Đường phải đến thời Cao Tòng Hối kế vị thì mới lại hòa hảo.[tham 23][tham 24]Nước Sở do Vũ An tiết độ sứ Mã Ân kiến lập. Thời loạn Tần Tông Quyền, bộ thuộc của Tần Tông Quyền là Tôn Nho tiến đánh Lưỡng Hoài của Dương Hành Mật song chiến bại bị giết, bộ tướng của Tôn Nho là Mã Ân đem một bộ phận binh mã vượt qua Giang Tây đến cát cứ ở Hồ Nam.[tham 1] Năm 907, sau khi Hậu Lương được kiến lập, Mã Ân xưng thần với Hậu Lương, được phong làm Sở vương, tức Vũ Mục vương. Thế lực của Mã Ân bao trùm lên khu vực nay là tỉnh Hồ Nam và bắc bộ Quảng Tây, về đối ngoại thì Sở thần phục các triều Ngũ Đại, về đối nội thì bình định loạn quân, cường phiên, chọn chính sách bảo cảnh an dân, khiến quốc thế nước Sở cường thịnh. Năm 927, Hậu Đường phong Mã Ân làm Sở quốc vương, định đô ở Đàm châu, tức Trường Sa phủ. Sang thời Sở Văn Chiêu vương Mã Hy Phạm, nước Sở mở rộng đến khu vực nay là đông bắc bộ Quảng Tây, quốc thế rất thịnh. Tuy nhiên, sau khi Mã Hy Phạm qua đời năm 945, quốc thế nước Sở đại loạn, các tướng Sở ủng hộ Mã Hy Quảng kế lập, khiến một người con khác là Mã Hy Ngạc bất mãn và làm phản. Năm 950, Mã Hy Ngạc hạ được thành Trường Sa, tức Sở Cung Hiếu vương. Tuy nhiên, Mã Hy Ngạc là người túng tửu hoang dâm, khiến tướng Sở là Chu Quỳ, Chu Hành Phùng làm phản. Họ ủng hộ một người trong tông thất họ Mã là Mã Quang Huệ làm Vũ Bình tiết độ sứ, còn Lưu Ngôn là Vũ Bình quân lưu hậu, suất quân chiếm cứ Lãng châu (nay thuộc Thường Đức, Hồ Nam). Không lâu sau, Từ Uy lại ủng hộ Mã Hy Sùng làm Vũ An quân lưu hậu, trục xuất Mã Hy Ngạc. Tuy nhiên, Mã Hy Ngạc chạy đến Hành Sơn thì lại được ủng hộ lên ngôi. Sau khi nước Sở bị phân chia giữa ba phe: Mã Quang Huệ, Mã Hy Sùng, Mã Hy Ngạc, đến năm 951 thì Nam Đường Nguyên Tông Lý Cảnh thừa cơ phái Biên Hạo công chiếm Trường Sa, Mã Hy Sùng và Mã Hy Ngạc lần lượt đầu hàng, nước Sở mất. Đồng thời, Nam Hán chiếm lấy Quế châu (nay là khu vực Quế Lâm, Quảng Tây), chiếm cứ toàn địa khu Lĩnh Nam. Năm sau, Vũ Bình quân lưu hậu Lưu Ngôn không muốn đầu hàng, quyết định phái Vương Quỳ và Chu Hành Phùng đánh hạ Đàm châu, đến lúc này Nam Đường quyết định rút hoàn toàn khỏi khu vực Hồ Nam. Lưu Ngôn được Hậu Chu phong làm Vũ Bình tiết độ sứ, song do đối lập với Vương Quỳ nên bị Vương Quỳ và Chu Hành Phùng truất phế và giết chết. Tuy nhiên, Vương Quỳ tham lam vô độ, bị bộ hạ là Phan Thúc Tự sát hại, cuối cùng Chu Hành Phùng trở thành người cai quản Vũ Bình quân. Chu Hành Phùng loại bỏ những điều xấu xa trong nền chính trị của Sở trước đây, yêu thương và bảo hộ bách tính, đề xướng liêm khiết, nghiêm khắc với tướng lĩnh. Khu vực Hồ Nam khôi phục tình hình bình ổn, kéo dài cho đến khi Chu Hành Phùng qua đời vào năm 962.[tham 23][tham 24]
Nam Hán do Thanh Hải tiết độ sứ Lưu Ẩn đặt nền móng, năm 907, Lưu Ẩn được Hậu Đường phong làm Bành quận vương, cuối cùng được phong làm Nam Hải vương. Sau khi ổn định vững chắc Lĩnh Nam, Lưu Ẩn trọng dụng sĩ nhân địa phương,[tham 28] đặt cơ sở cho việc kiến quốc trong tương lai. Năm 911, Lưu Ẩn qua đời, em là Lưu Nghiễm kế vị. Năm 919, sau khi thống nhất Lĩnh Nam, Lưu Nghiễm xưng đế, tức Nam Hán Cao Tổ; đặt quốc hiệu là "Đại Việt", định đô ở Phiên Ngung, hiệu Hưng vương phủ; năm sau cải quốc hiệu thành Hán, tức Nam Hán. Lưu Nghiễm hòa hảo với lân quốc, mở rộng chế độ khoa cử. Tuy nhiên, bản thân Lưu Nghiễm lại tàn khốc xa xỉ, thường giết người để làm trò tiêu khiển, sủng hạnh hoạn quan, chính sự không yên ổn. Năm 942, Nam Hán Cao Tổ qua đời, con là Lưu Phần kế vị, tức Nam Hán Thương Đế. Lưu Phần tham lam, thích hưởng lạc, đương thời có cuộc nổi dậy của Trương Ngộ Hiền, năm sau thì Lưu Phần bị em là Lưu Thịnh giết chết. Lưu Thịnh tự lập làm hoàng đế, tức Nam Hán Trung Tông. Trong thời gian tại vị, Lưu Thịnh đoạt được Dung châu (nay thuộc Bắc Lưu, Quảng Tây) và Ung châu (nay thuộc Nam Ninh, Quảng Tây) của Sở, đề xướng việc sử dụng hình phạt nghiêm khắc để lập uy, là một người tàn bạo, tiến hành đồ sát hoàng tộc và các đại thần tướng lĩnh, Nam Hán chỉ còn lại hoạn quan và cung nữ chấp chính. Năm 958, sau khi Lưu Thịnh qua đời, con là Lưu Sưởng kế vị, tức Nam Hán Hậu Chủ.[tham 23][tham 24]
Khiết Đan xâm nhập
Trong lúc Thập Quốc dần dần suy yếu hoặc chỉ còn có thể tự bảo vệ mình, Hậu Tấn liên tục bị uy hiếp từ Khiết Đan Quốc ở phía bắc. Đương thời, Hậu Tấn mới thành lập, tài chính thiếu thốn, phiên trấn không muốn phục tùng. Để giải quyết nguy cơ tài chính, Hậu Tấn Cao Tổ nghe theo kiến nghị của Tang Duy Hàn, tiến hành phương thức an phủ phiên trấn, cung cẩn Khiết Đan, cũng xem trọng nông nghiệp, thương nghiệp để nâng cao kinh tế. Tuy nhiên, mặc dù Khiết Đan Quốc được Hậu Tấn xoa dịu, song các quan viên cũ tại vùng Yên Vân thập lục châu như Ngô Loan, Quách Sùng Uy lấy làm hổ thẹn khi làm thần của Khiết Đan, không muốn đầu hàng. Phiên trấn các nơi hầu như không phục triều đình Hậu Tấn, một số còn có ý lôi kéo Khiết Đan Quốc để đoạt vị, triều đình Hậu Tấn phải nhờ vào những người như Đỗ Trọng Uy, Lý Thủ Trinh để bình định. Năm 937, Thiên Hùng quân (tức Ngụy Bác quân) tiết độ sứ Phạm Đình Quang làm phản ở Ngụy châu, tướng Trương Tòng Tân được phái đi bình loạn thì quay sang làm phản, giết chết hoàng tử Thạch Trọng Tín và Thạch Trọng Nghệ. Cuối cùng, đến khi liên quân Phạm-Trương tiến sát Khai Phong thì bị Hầu Ích và Đỗ Trọng Uy suất quân đánh tan. Dương Quang Viễn dựa thế có trọng binh mà can dự triều chính, Hậu Tấn Cao Tổ thường miễn cưỡng nghe theo. Sau đó, Dương Quang Viễn câu kết với Khiết Đan Quốc mà nổi dậy, bị Lý Thủ Trinh đánh bại. Năm 942, Thành Đức quân tiết độ sứ An Trọng Vinh chê trách Hậu Tấn Cao Tổ tôn Khiết Đan làm cha, yêu cầu thảo phạt Khiết Đan Quốc. Tuy nhiên, An Trọng Vinh trên thực tế vẫn ngầm qua lại với Khiết Đan, mưu đồ đoạt vị. Hậu Hấn Cao Tổ phái Đỗ Trọng Uy suất quân đánh bại An Trọng Vinh, sử gọi là trận Tông Thành, đưa đầu An Trọng Vinh đến Khiết Đan Quốc. Cùng năm ở phía bắc có Thổ Dục Hồn bộ, song không muốn đầu hàng Khiết Đan Quốc, thủ lĩnh Bạch Thừa Phúc suất bộ chạy trốn đến chỗ Hà Đông tiết độ sứ Lưu Tri Viễn, Khiết Đan Quốc sai sứ đến hỏi tội. Hậu Tấn Cao Tổ buồn tức nên qua đời, đại thần Phùng Đạo, Cảnh Diên Quảng thấy quốc gia có nhiều nguy nan, tôn Thạch Trọng Quý lên kế vị ở Nghiệp Đô (nay thuộc Đại Danh, Hà Bắc), tức Hậu Tấn Xuất Đế.[tham 29]Do tướng lĩnh và bách tính Hậu Tấn thấy bất mãn trước việc cúi mình tôn thờ ngoại tộc, Hậu Tấn Xuất Đế nghe theo kiến nghị của Cảnh Diên Quảng, bỏ xưng thần mà chuyển sang xưng là cháu với Khiết Đan Quốc. Cảnh Diên Quang có thái độ thù địch mãnh liệt với người Khiết Đan, ông ta giết hại thương nhân Khiết Đan, bắt giữ sứ giả Khiết Đan, nhiều lần gây hấn với Khiết Đan.[tham 30] Những điều này khiến Khiết Đan khả hãn Da Luật Đức Quang phẫn nộ, đến năm 944 thì suất quân nam chinh. Đương thời, Hà Bắc đại hạn, châu chấu tàn phá, quân Khiết Đan đánh chiếm Bối châu (nay thuộc Thanh Hà, Hà Bắc) và những nơi khác rồi quay trở lại. Năm sau, Hậu Tấn Xuất Đế phái Đỗ Trọng Uy suất quân bắc phạt, Da Luật Đức Quang hay tin thì suất đại quân tiến về phương nam, Đỗ Trọng Uy đánh tan quân Khiết Đan tại Bạch Câu (giữa Định Hưng, Tân Thành thuộc Hà Bắc). Tuy nhiên, sau trận Bạch Câu, Hậu Tấn Xuất Đế ngày càng kiêu ngạo xa xỉ, lại cho Phùng Ngọc chấp chính, hối lộ trở nên công khai, triều chính bại hoại. Năm 946, Hậu Tấn Xuất Đến lại phái Đỗ Trọng Uy suất quân bắc phạt, hội chiến với Da Luật Đức Quang tại Hô Đà Hà. Đương thời, Đỗ Trọng Uy có ý muốn đoạt vị, quay sang đầu hàng Da Luật Đức Quang. Da Luật Đức Quang thừa cơ đem liên quân tiến thẳng đến gần Khai Phong, đại tướng Hậu Tấn là Lý Thủ Trinh và Trương Ngạn Trạch liên tiếp đầu hàng, cuối cùng Hậu Tấn Xuất Đế cũng ra khỏi thành đầu hàng, Hậu Tấn diệt vong, sử gọi là chiến tranh Liêu diệt Tấn. Năm sau, Da Luật Đức Quang cải quốc hiệu thành "Đại Liêu", tức Liêu Thái Tông, chính thức kiến lập triều Liêu.[tham 31] Liêu Thái Tông vốn rất có thành tâm trong việc mưu hoạch phát triển Trung Quốc, song do thực hiện chính sách "đả thảo cốc" và cướp người làm đầy tớ, khiến cho bách tính Trung Nguyên hợp lại phản kháng. Ở Hà Đông, Lưu Tri Viễn nghe theo kiến nghị của Trương Ngạn Uy, lấy lý do Trung Nguyên vô chủ mà xưng đế, kiến quốc Hậu Hán, tức Hậu Hán Cao Tổ. Liêu Thái Tông không áp chế nổi cục diện, lấy lý do thời tiết nóng nực mà suất quân trở về phương Bắc.[tham 32] Liêu Thái Tông để Tiêu Hàn lưu thủ Khai Phong, Đỗ Trọng Uy lưu thủ Nghiệp Đô; cuối cùng qua đời ở Sát Hồ Lâm (nay là Loan Thành, Hà Bắc), cháu trai là Da Luật Ngột Dục kế vị, tức Liêu Thế Tông.[tham 29]
Sau khi quân Liêu quay về phía bắc, Hậu Hán Cao Tổ bắt đầu thu phục Trung Nguyên. Sau khi biết tin, Tiêu Hàn bắt ép một người thuộc tông thất Hậu Đường là Lý Tòng Ích xưng đế tại Khai Phong, sau đó trở về phương Bắc. Hậu Hán Cao Tổ giết chết Lý Tòng Ích, định đô tại Khai Phong, đồng thời phái Cao Hành Chu cùng Mộ Dung Ngạn Siêu hàng phục Đỗ Trọng Uy trong trận Ngụy châu, các trấn nối tiếp nhau quy phục. Năm 948, Hậu Hán Cao Tổ qua đời, con là Lưu Thừa Hựu kế vị, tức Hậu Hán Ẩn Đế, đồng thời cho Dương Bân, Quách Uy, Sử Hoằng Triệu, và Vương Chương làm đại thần phụ quốc. Đương thời, Hà Trung tiết độ sứ Lưu Thủ Trung nổi dậy, song bị Quách Uy bình định. Sau khi trưởng thành, Hậu Hán Ẩn Đế nghi kỵ các đại thần phụ quốc, cùng Quách Doãn Minh hiệp nghị, năm 950 nhân quân Liêu tiến công Hà Bắc, phái Quách Uy trấn thủ Nghiệp Đô, sau đó đại sát các đại thần như Dương Bân, Sử Hoằng Triệu và Vương Chương, cũng giết người nhà của Quách Uy, triệu Thái Ninh quân tiết độ sứ Mộ Dung Ngạn Siêu cấp tốc nhập kinh. Quách Uy nghe theo kiến nghị của Ngụy Nhân Phổ nên quyết định khởi binh tiến về phương nam, đồng thời phái con nuôi là Sài Vinh trấn thủ Nghiệp Đô. Năm sau, Quách Uy đánh tan quân của Mộ Dung Ngạn Siêu, đánh vào Khai Phong, Hậu Hán Ẩn Đế bị giết. Quách Uy vốn có ý muốn lập con của Lưu Sùng (em Hậu Hán Cao Tổ) là Lưu Vân làm hoàng đế, do vậy trước tiên để Lý thái hậu lâm triều. Đương thời, quân Liêu xâm nhập, Quách Uy xuất quân chống lại, nhưng khi đại quân đến Thiền châu (nay thuộc Bộc Dương, Hà Bắc), quân sĩ ủng hộ Quách Uy xưng đế, đại quân quay trở về Khai Phong. Năm 951, Quách Uy xưng đế, kiến quốc Hậu Chu, tức Hậu Chu Thái Tổ, Hậu Hán mất.[tham 33]
Hậu Chu quật khởi, Bắc Tống thống nhất
Sau khi Hậu Chu Thái Tổ đăng cơ, Hậu Chu giảm trừ nhược can hà chính, khuyến khích thi hành tiết kiệm, khuynh hướng nhân khẩu chuyển dịch từ đi xuống phía nam thành trở về Trung Nguyên.[tham 34] Tuy nhiên, do Lưu Vân bị giết, khiến các cựu tướng Hậu Hán sau đó không phục triều đình Hậu Chu. Sau khi Hà Đông tiết độ sứ Lưu Sùng biết tin Quách Uy xưng đế, ông ta cũng tự lập làm hoàng đế, kiến quốc Bắc Hán. Lưu Sùng dựa vào viện trợ của người Liêu, tự xưng là "chất hoàng đế" (hoàng đế cháu), chờ cơ hội phạt Hậu Chu. Cựu tướng Hậu Hán là Củng Đình Mỹ và Mộ Dung Ngạn Siêu có ý đồ nổi dậy, song liên tiếp bị Hậu Chu Thái Tổ bình định.[tham 33]Năm 954, Hậu Chu Thái Tổ qua đời, Sài Vinh kế vị, tức Hậu Chu Thế Tông. Hậu Chu Thái Tông là "đệ nhất danh quân" thời Ngũ Đại Thập Quốc,[tham 34] mới kế vị đã phải đương đầu với việc Hoàng đế Bắc Hán Lưu Sùng cùng tướng Liêu Dương Cổn (tức Da Luật Địch Lộc) liên hiệp tiến về phía nam. Đương thời, triều đình Hậu Chu kinh sợ, đại đa số chủ trương hành sự thận trọng, tuy nhiên sau đó Hậu Chu Thế Tông có thể tự thân đánh tan liên quân Liêu-Bắc Hán, đồng thời xử trảm các tướng lĩnh sau khi lâm trận mà thoái, sử gọi là trận Cao Bình. Kể từ sau đó, Hậu Chu cải cách chế độ quân sự, tinh giản cấm quân trung ương, bổ sung binh sĩ khỏe mạnh, hình thành cấm quân "điện tiền chư ban". Trên phương diện nội chính, Hậu Chu Thế Tông chiêu phủ dân lưu vong, giảm thiểu trưng thu thuế, ổn định kinh tế trong nước. Hậu Chu chỉnh đốn việc quan lại xử trị ở các địa phương, tuyển mộ văn nhân, trừ bỏ chính trị võ nhân, khiến chính trị Hậu Chu trở nên trong sạch. Năm 955, Hậu Chu Thế Tông phế bỏ Phật tự trong Thiên hạ, thu được một lược đồng lớn dùng để chỉnh đốn kinh tế.[tham 35]
Sau khi ổn định được quốc nội, Hậu Chu Thế Tông có ý đồ thống nhất Thiên hạ, ông lấy "mười năm mở mang Thiên hạ, mười năm dưỡng bách tính, mười năm đạt tới thái bình" làm mục tiêu. Năm 955, Hậu Chu Thế Tông suất quân đánh tan quân Hậu Thục, chiếm được khu vực Tần châu, Hán Trung. Năm 956, Hậu Chu Thế Tông suất binh đánh tan quân Nam Đường, giành được đất Giang Bắc, bách Nam Đường xưng thần. Năm 959, Hậu Chu Thế Tông suất quân bắc phạt triều Liêu, nhằm thu phục Yên Vân thập lục châu, quân Hậu Chu đánh chiếm Doanh châu, Mạc châu và các nơi khác. Đến khi ông chuẩn bị sẵn sàng để thu phục U châu, thì đột nhiên sinh bệnh, buộc phải đem quân về.[tham 1] Không lâu sau, Hậu Chu Thế Tông qua đời, ấu tử Sài Tông Huấn tức vị, tức Hậu Chu Cung Đế. Năm 960, lãnh tụ cấm quân là Triệu Khuông Dận lấy lý do hai châu Trấn-Định bị Bắc Hán và Liêu xâm nhập, suất quân tiến về phía bắc chống lại, nhưng sau đó lại phát sinh binh biến Trần Kiều, Triệu Khuông Dận được cấm quân ủng hộ làm hoàng đế. Triệu Khuông Dận đem quân về Khai Phong, phế truất Hậu Chu Cung Đế, Hậu Chu diệt vong, Ngũ Đại kết thúc. Triệu Khuông Dận kiến lập triều Tống, tức Tống Thái Tổ.[tham 36]
Lúc Tống Thái Tổ soán vị, Thập Quốc vẫn còn Hậu Thục, Bắc Hán, Nam Đường, Ngô Việt, Nam Hán, Kinh Nam, cùng Vũ Bình quân tiết độ sứ Chu Hành Phùng ở Hồ Nam, Thanh Nguyên quân tiết độ sứ Lưu Tòng Hiệu ở Mân Nam, các quốc gia hoặc phiên trấn này hầu hết đều tôn triều Tống là tông chủ hoặc thần phục. Tống Thái Tổ đối diện với uy hiếp từ triều Liêu ở phương bắc, chọn tuân theo sách lược của Triệu Phổ là "tiên dị hậu nan, tiên nam hậu bắc" (dễ trước khó sau, nam trước bắc sau) trong việc thống nhất Trung Quốc. Năm 962, quốc chủ Kinh Nam Cao Bảo Úc qua đời, cùng năm Chu Hành Phùng ở Hồ Nam cũng qua đời, chúa mới của hai nước đều nhỏ tuổi chưa có năng lực lãnh đạo. Năm sau, Tống Thái Tổ lấy lý do bình loạn Hồ Nam mà phái binh nam hạ thôn tính Hồ Nam, học theo "Giả đạo phạt Quắc mà thôn tính luôn Kinh Nam. Sau khi biết tin Hồ Nam và Kinh Nam bị thôn tính, Hậu Thục Hậu Chủ Mạnh Sưởng liên hiệp với Bắc Hán để chống lại quân Tống. Tuy nhiên, trong những năm cuối Mạnh Sưởng xa hoa hưởng lạc, không chỉnh trị triều chính, quân đội đều không có lực mà chiến đấu. Năm 965, Tống Thái Tổ phái Vương Toàn Bân, Thôi Ngạn Tiến từ Phượng châu (nay thuộc Phượng huyện, Thiểm Tây); Lưu Quang Nghĩa và Tào Bân từ Quy châu (nay thuộc Tỷ Quy, Hồ Bắc) tiến vào đất Thục theo hai đường bắc và đông. Kết quả, không quá 60 ngày, Mạnh Sưởng đầu hàng, Hậu Thục diệt vong. Sủng phi của Mạnh Sưởng là Hoa Nhị phu nhân viết sau khi vong quốc: "Quân vương trên thành thụ hàng, thiếp ở thâm cung nào có biết, 14 vạn người cùng giải giáp, chẳng lẽ không ai là nam nhi". Nam Hán Hậu Chủ Lưu Sưởng giao chính sự cho đám người như hoạn quan Cung Trừng Xu cùng nữ thị trung Lô Quỳnh Tiên. Do chỉ tín nhiệm hoạn quan, quan viên Nam Hán đều phải chấp nhận chịu thiến thì mới được tiến dụng. Năm 970, triều đình Tống phái Phan Mỹ đánh Nam Hán, do tướng lĩnh, đại thần, tông thất Nam Hán đều chết hết, chỉ còn hoạn quan lĩnh binh, sang năm sau thì Lưu Sưởng đầu hàng, Nam Hán diệt vong.[tham 36]
Nam Đường Hậu Chủ Lý Dục là cao thủ trong từ đàn, đến những ngày cuối phải lo lắng tai họa từ bên ngoài, song không thạo chính sự. Đương thời, Lý Dục có thể nhờ cậy vào những người như em trai Lý Tòng Thiện, đại thần Phan Hựu cùng tướng lĩnh Lâm Nhân Triệu, vẫn đối lập với Hậu Chu. Sau khi triều Tống được kiến lập, Lý Dục thân cận với tiểu nhân, lạm sát đại thần, thường ngày cùng bề tôi vui đùa yến tiệc, quốc thế Nam Đường hỗn loạn. Năm 975, Tống Thái Tổ lấy lý do Lý Dục xưng bệnh không nhập triều, phái Tào Bân nam chinh, đồng thời dùng quân Ngô Việt phụ giáp công, cuối cùng Lý Dục đầu hàng, Nam Đường mất. Về phần Ngô Việt, Trung Hiến vương Tiền Hoằng Tá thừa cơ nước Mân có nội loạn mà giành lấy Phúc châu, tuy nhiên lại đánh thuế nặng, dân không chịu đựng nổi. Đến thời Trung Ý vương Tiền Thục, vì rất cung thuận với triều Tống, Tống Thái Tổ không có ý muốn chiếm đất. Ở Mân Nam, Thanh Nguyên quân tiết độ sứ Lưu Tòng Hiệu cát cứ một phương, sau khi qua đời thì nhiều người tranh vị, cuối cùng về tay Trần Hồng Tiến. Năm 978, Tiền Thục và Trần Hồng Tiến dâng đất quy thuận triều Tống, nước Ngô Việt và Thanh Nguyên quân ở Mân Nam mất. Thập Quốc chỉ còn lại Bắc Hán của Anh Vũ Đế Lưu Kế Nguyên, năm 979, Tống Thái Tông phái Phan Mỹ vây đánh đô thành Thái Nguyên của Bắc Hán, đánh lui viện binh triều Liêu, Lưu Kế Nguyên đầu hàng, Bắc Hán mất. Đến lúc này, thời kỳ Thập Quốc kết thúc, chính thưc tiến vào thời kỳ triều Tống, tuy nhiên Yên Vân thập lục châu vẫn nằm trong tay triều Liêu. Không lâu sau khi diệt xong Bắc Hán, Tống Thái Tông bất chấp phản đối của đại thần, từ Thái Nguyên tiến về phía bắc nhằm thu phục Yên Vân thập lục châu. Lúc đầu, quân Tống đánh hạ Dịch châu và Trác châu song lại thảm bại trong trận Cao Lăng Hà ở Yên Kinh và phải triệt thoái, đến lúc này lại tiến vào thời đại Tống-Liêu đối lập.[tham 36]
Cương vực
Cương vực thời Ngũ Đại Thập Quốc về đại thể có thể phân thành Ngũ Đại và Thập Quốc. Các triều Ngũ Đại đại thể thống trị khu vực Hoa Bắc và Quan Trung, cũng từng cai quản Yên Vân thập lục châu, Hà Đông (nay là tỉnh Sơn Tây), đất Thục, khu vực Hoài Bắc. Thập Quốc cùng các phiên trấn khác phân bố xung quanh Ngũ Đại như tại Hoa Nam, Hồ Quảng, đất Thục, Cam Túc, Hà Đông, Hà Bắc; trong đó, khu vực Giang Nam và Hồ Quảng chia thành sáu nước, điều này thể hiện vùng phía nam Trường Giang đã được "khai hóa" hơn khá nhiều so với thời Tam Quốc, vì vậy có thể tự lập quốc trên một địa bàn nhỏ. Sau khi triều Tống thống nhất Trung Quốc, cương vực các nước thời Ngũ Đại Thập Quốc vẫn được sử dụng trong phân chia hành chính ở cấp lộ, nay trở thành ranh giới tỉnh. Hơn nữa, cương vực bị phân nhỏ song các nước vẫn không thể tự cấp tự túc, chỉ có thể sản xuất sản phẩm của bản thân, đồng thời vượt qua biên giới tiến hành giao lưu kinh tế, tạo tiền đề để thương nghiệp triều Tống trở nên phát đạt.[tham 37]Hậu kỳ triều Đường và thời Ngũ Đại, trung tâm chính trị vì nhân tố chiến loạn và kinh tế, di chuyển từ Trường An, Lạc Dương, qua Khai Phong. Đương thời, khu vực Quan Trung do bị chiến loạn tàn phá nên hoang phế, phiên trấn tương đối mạnh chỉ có nước Kỳ của Lý Mậu Trinh và Định Nan quân, khu vực Hà Lũng tiếp tục suy thoái, ngoại tộc như Hồi Cốt hay Thổ Phồn tranh giành hành lang Hà Tây; song khu vực Hoa Trung và Hoa Nam có kinh tế cường thịnh, nhiều phiên trấn cát cứ, thuộc phạm vi thế lực của Thập Quốc.[tham 1] Khai Phong nằm ở vị trí trung tâm trong tuyến Đại Vận Hà thời Tùy Đường, phụ trách việc vận chuyển hàng hóa qua lại Hà Bắc, Quan Trung, Giang Nam và Hồ Quảng, là trạm trung chuyển lương thực và hóa vật của Thiên hạ. Đương thời, do Quan Trung hoang phế, Khai Phong là nơi tích trữ tài phú của Thiên hạ nên có địa vị hàng đầu đối với Ngũ Đại, khiến cho triều Tống và các triều đại sau này đều chọn các nơi ven Đại Vận Hà như Bắc Kinh, Khai Phong, Nam Kinh và Lâm An làm thủ đô. Ngoài ra, chiến tranh thời Ngũ Đại phần nhiều là đối đầu giữa Khai Phong với Hà Đông tiết độ sứ ở Thái Nguyên, ví dụ như Tấn của Lý Khắc Dụng và Hậu Lương, Hậu Tấn và Hậu Đường, Hậu Hán và triều Liêu đang chiếm cứ Trung Nguyên, Bắc Hán và Hậu Chu. Điều này là do Thái Nguyên nằm ở vùng núi Thái Hành Sơn với vị trí dễ thủ khó công, nếu sau lưng được ngoại tộc ở phía bắc tiếp viện, thì có đủ khả năng tranh vị với Khai Phong ở bình nguyên.[tham 37]
Phạm vi Ngũ Đại Thập Quốc và triều Đường lúc hậu kỳ có sự tương đồng, bị thu lại rõ ràng, nhỏ hơn một chút so với phạm vi của Trung Quốc bản thổ, ngoại tộc chiếm giữ các vùng lãnh thổ lớn xung quanh Trung Quốc bản thổ, cuối cùng kiến lập triều Liêu và Tây Hạ. Khu vực Hà Tây bị Quy Nghĩa quân, Cam Châu Hồi Cốt, cùng các bộ tộc Thổ Phồn chiếm lĩnh. Năm 938, Yên Vân thập lục châu bị Hậu Tấn Cao Tổ Thạch Kính Đường cắt nhượng cho Khiết Đan Quốc (sau là triều Liêu), khiến cho tuyến quốc phòng phía bắc từ thời Hán-Đường toàn bộ phải rút về phía sau, phía bắc Hoàng Hà hầu như không còn rào cản. Thêm vào việc trung tâm chính trị của Trung Quốc di chuyển về phía đông, khiến cho Ngũ Đại và triều Tống phải chịu áp lực từ triều Liêu.[tham 1] Họ Khúc kiểm soát Tĩnh Hải quân, cát cứ ở khu vực An Nam, đồng thời sau khi Ngô Quyền đánh bại quân Nam Hán trong trận Bạch Đằng, khu vực Việt Nam chính thức thoát ly khỏi lịch sử Trung Quốc. Ở Hạ châu thuộc Thiểm Bắc, Định Nan quân cát cứ, đến thời Tống thì độc lập, trở thành Tây Hạ.[tham 37]
Hành chính
Phân chia hành chính thời Ngũ Đại Thập Quốc kế thừa hình thức hậu kỳ triều Đường, tức ba cấp: đạo (tiết độ sứ), châu (phủ), huyện. Ngũ Đại chú trọng đến việc khảo thí quan viên địa phương, bổ nhiệm những người trung thành giữ chức, thời Hậu Lương và Hậu Đường, hoàng đế đều chiếu dụ Lại bộ chú ý quan lại châu huyện phải chọn người có thực tài, bất kể tư tình.[tham 38]Chế độ tiết độ sứ bắt đầu được thiết lập từ thời Đường, còn gọi là phiên trấn, chủ quản quân sự, hành chính và tài chính của địa phương, có địa vị cao và quyền hạn lớn. Trong thời gian xảy ra loạn An Sử, triều đình Đường bổ nhiệm nhiều tiết độ sứ để đối phó với loạn quân. Sau loạn An Sử, triều đình Đường sách phong một lượng lớn hàng tướng Đại Yên làm tiết độ sứ tại địa phương để an phủ, họ tự cầm binh và cát cứ giống như vương ở phiên trấn, hình thành cục diện phiên trấn cát cứ thời Đường mạt. Thời Ngũ Đại, việc bổ nhiệm tiết độ sứ thay đổi, có khi chức tiết độ sứ do thân vương hoặc tể tướng lĩnh song vẫn ở cách xa địa phương (diêu lĩnh). Các tiết độ sứ nắm giữ binh quyền thường rất tùy tiện độc đoán, làm bất cứ điều gì họ muốn. Trong đó, người có quyền cao gọi là tiết độ sứ, người có quyền ít gọi là phòng ngự sứ (sau là quan sát sứ), sau loạn An Sử thì đạo là khu vực quản hạt của tiết độ sứ. Khi người đứng đầu phiên trấn có lòng dạ khác, thường thừa cơ cử binh đi nhằm lật đổ trung ương, hiện tượng này bắt đầu xuất hiện từ hậu kì triều Đường, và thường xuyên phát sinh trong nội bộ các triều Ngũ Đại hoặc Thập Quốc, là nguyên nhân dẫn đến tình trạng hỗn loạn thời Ngũ Đại Thập Quốc. Một số địa phương khác cũng thiết lập "quân", trở thành cơ cấu hành chính cấp thứ nhất. Như năm 907, Hậu Lương thiết lập Sùng Đức quân tại Đãng Sơn huyện thuộc Huy châu, năm 939 Hậu Tấn đổi Uy châu cũ thành Thanh Viễn quân, năm 954 Hậu Chu lấy Lai Vu giám đổi thành Quảng Lợi quân.[tham 39]
Do tiết độ sứ chức cao quyền lớn, thời Ngũ Đại cũng có thân vương diêu lĩnh, như con của Hậu Đường Mạt Đế là Lý Tòng Mỹ diêu lĩnh Thành Đức quân tiết độ sứ, em của Hậu Hán Cao Tổ là Lưu Huân lĩnh Sơn Nam Tây đọa tiết độ sứ; cũng có khi tể tướng được diêu lĩnh, như thời Hậu Đường Trang Tông có thị trung giám sứ Quách Sùng Thao kiêm lĩnh Thành Đức quân tiết độ sứ. Sang thời Tống, chế độ tiết độ sứ bị phân cấp hành chính "lộ" thay thế, phân chia quyền quân sự, hành chính và tài chính để phòng ngừa xuất hiện việc binh biến.[tham 39]
Cấp hành chính thứ hai là châu, đặt chức thứ sử; cấp hành chính thứ ba là huyện, đặt chức huyện lệnh. Một số châu do có địa vị hay địa thế trọng yếu nên được thăng thành phủ, ví dụ như tại Biện châu đặt Đông Kinh Khai Phong phủ, Trường An đặt Tây Kinh Kinh Triệu phủ, Ngụy châu đặt Đại Danh phủ, góp phần quan trọng trong việc hình thành Ngũ kinh chế triều Tống. Thập Quốc và các phiên trấn khác cũng lập phủ ở thủ đô hoặc châu trọng yếu, như Dương châu-Giang Đô phủ của Ngô, Thăng châu-Kim Lăng phủ và Hồng châu-Nam Xương phủ của Nam Đường, Đàm châu-Trường Sa phủ của Sở, Quảng châu-Hưng vương phủ của Nam Hán, Thái Nguyên phủ của Bắc Hán, Thành Đô phủ và Hưng Nguyên phủ của Tiền Thục và Hậu Thục, Giang Lăng phủ của Kinh Nam. Ngoài ra, còn có việc đặt "đại đô đốc phủ" ở những yếu địa về quân sự, như Hậu Lương đặt đại đô đốc phủ tại Tống châu, Phúc châu; Hậu Đường thiết lập 10 đại đô đốc phủ trên toàn quốc.[tham 39] Vào thời kỳ này, số lượng châu huyện ở phương nam tăng lên do cục thế chính trị ổn định, kinh tế phát triển và nhân khẩu gia tăng. "Thái bình hoàn vũ ký" viết rằng vào thời Ngũ Đại Thập Quốc, toàn Trung Quốc thiết lập mới 59 huyện, tuyệt đại bộ phần là ở phương nam, như Thục lập 5 huyện, Ngô Việt lập 5 huyện, Mân tăng thêm 13 huyện, Nam Đường lập mới 26 huyện.[tham 40]
Thể chế chính trị
Chế độ chính trị thời Ngũ Đại Thập Quốc nhìn chung kế thừa chế độ của triều Đường, song các triều có biến hóa rất nhiều, quan chức đương thời thường bị phế lập bất thường, chế độ khá hỗn loạn. Triều đình thiết lập tam tỉnh lục bộ để chủ quản việc hành chính, tam ty chủ quản tài chính và xu mật viện chủ quản quân sự. Do thời Ngũ Đại Thập Quốc chiến tranh không ngớt, quyền lực của xu mật viện thường lớn hơn so với tam tỉnh, vì vậy đương thời có khi tể tướng kiêm lĩnh xu mật viện. Thời Ngũ Đại Thập Quốc, nhiều tên chức quan có chữ "sứ", theo "Ngũ Đại hội yếu" ghi lại thì có đến 30 loại như Sùng chính viện sứ, Tuyên huy viện sứ, Phi long sứ, Hàn lâm sứ, Ngũ phường sứ. Trong số Thập Quốc, mặc dù có chính quyền thần phục các triều Ngũ Đại, song về chế độ thì là một quốc gia độc lập, cơ cấu chính trị tương đồng với Ngũ Đại. Do quân chủ thời Ngũ Đại Thập Quốc đại đa số đều xuất thân là tiết độ sứ, họ thường bổ nhiệm những phụ tá dưới trướng lúc trước nắm giữ các chức vụ trong triều đình. Những người từng phục vụ tiền triều chỉ được cấp cho hư chức như tam sư, tam công. Đương thời, tướng sĩ lập công sẽ được thưởng quan tước và danh hiệu, triều Tống kế thừa việc này và dẫn đến tình trạng thừa quan.[tham 1][tham 2]- Tam tỉnh lục bộ
- Tam ty
- Xu mật viện
- Pháp luật
Ngoại giao
Ngay từ thời Đường, ngoại tộc quy phụ triều đình đã tiến vào Trung Nguyên định cư, sau loạn An Sử thì khu vực Hà Bắc, Thiểm Bắc và hành lang Hà Tây liên tiếp trở thành phạm vi thế lực của ngoại tộc, khiến chính cục Trung Nguyên dễ dàng chịu ảnh hưởng từ ngoại tộc. Ví dụ như người thuộc tộc Sa Đà, tộc Đảng Hạng được triều đình Đường sách phong làm tiết độ sứ, tộc Sa Đà lĩnh Hà Đông quân và sang thời Ngũ Đại thì kiến lập Hậu Đường, Hậu Tấn và Hậu Hán. Nhưng tộc Khiết Đan có ảnh hưởng lớn nhất, nhiều lần viện trợ cho người soán lập ở Trung Nguyên. Sau khi tộc Khiết Đan lập Khiết Đan Quốc, đến năm 946 thì tiến vào làm chủ Trung Nguyên, kiến quốc triều Liêu. Tuy nhiên, cuối cùng triều Liêu lại phải rút về khu vực Yên Vân, song vẫn còn ảnh hưởng nhất định đối với khu vực Trung Nguyên.[tham 4]Thời Ngũ Đại, ở phương bắc thì tộc Khiết Đan là mạnh nhất. Thời Đường, tộc Khiết Đan được triều đình thụ phong là Tùng Mạc đô đốc phủ, đến hậu kỳ triều Đường, thủ lĩnh Điệt Thứ bộ của tộc Khiết Đan là Da Luật A Bảo Cơ nổi lên và chinh phục các bộ khác, đến năm 907 thì tức khả hãn vị. Ông lần lượt trấn áp các cuộc phản loạn quý tộc Khiết Đan và chinh phục các bộ lạc tộc Hề, Thất Vi, Hiệt Kiệt Tư, Trở Bốc tại khu vực Mạc Bắc, về mặt quân sự và kinh tế đều rất cường thịnh. Năm 915, Da Luật A Bảo Cơ sau khi xuất chinh và giành được thắng lợi trước tộc Thất Vi thì về nước, song bị buộc phải giao lại hãn vị. Không lâu sau, ông kiến thành ở ven bờ Loan Hà, sang năm sau thì kiến lập Khiết Đan Quốc, tức Liêu Thái Tổ. Khiết Đan Quốc bắt người Trung Nguyên, tiếp nhận lưu dân đến tị nạn chiến tranh ở Hà Bắc, tin dùng những người Hán như Hàn Diên Huy, Hàn Tri Cổ, Khang Mặc Kỳ và Lô Văn Tiến, xem như công thần. Năm 925, Khiết Đan Quốc đông chinh Bột Hải Quốc, sau có ý đồ tiến xuống phía nam chiếm cứ Trung Nguyên. Sau khi Da Luật Đức Quang kế vị, thừa cơ Hậu Đường phát sinh nội loạn, tiếp nhận thỉnh cầu của Thạch Kính Đường mà xuất binh hiệp trợ giúp Kính Đường diệt trừ Hậu Hán và kiến quốc Hậu Tấn, Khiết Đan Quốc thu được Yên Vân thập lục châu. Đến khi Hậu Tấn Xuất Đế kế vị, Hậu Tấn lại không muốn xưng thần với Khiết Đan, lạm sát thương nhân Khiết Đan. Do vậy, Da Luật Đức Quang xuất binh nam chinh song chưa thu được thành quả, sau do nhờ đại tướng Đỗ Trọng Uy của Hậu Tấn đầu hàng, Da Luật Đức Quang chiếm Biện châu, kiến quốc triều Liêu, tức Liêu Thái Tông. Tuy nhiên, sau đó quân Liêu tịch thu cỏ và ngũ cốc, lạm sát người Hán, khiến người Trung Nguyên khởi binh kháng Liêu, Liêu Thái Tông trở về phía bắc và qua đời ở Sát Hồ Lâm. Sau đó, triều Liêu sút kém đi nhiều, song sau đó vẫn phù trì cho Bắc Hán, chiến tranh với Hậu Chu thì thua nhiều thắng ít, cuối cùng đến năm 959 thì bị Hậu Chu Thế Tông đoạt mất Doanh châu, Mạc châu. Sau khi triều Tống thành lập và tiêu diệt Bắc Hán, thống nhất Trung Quốc, trong cùng năm bắc phạt triều Liêu. Các danh tướng Liêu như Da Luật Sa, Da Luật Lưu Ca, Da Luật Tà Chẩn giao chiến với quân Tống ở Cao Lương Hà (nay bên ngoài Tây Trực Môn của Bắc Kinh), kết quả quân Liêu thành công trong việc đánh bại quân Tống.[tham 4]
Ngoài ra, vào thời Ngũ Đại ở phía bắc và đông bắc còn có các nước Hề, Thổ Dục Hồn, Thất Vi, Bột Hải. Thời Đường, Hề Quốc được thụ phong Nhiêu Lạc đô đốc phủ, đến trung hậu kỳ triều Đường thì nhiều lần xâm nhập biên cương Đại Đường. Sau này, Hề Quốc bị Khiết Đan Quốc chinh phục, người Khiết Đan kiến lập Trung Kinh để thống trị, rồi dần dần đồng hóa tộc Hề. Bột Hải Quốc là một cường quốc vào hậu kỳ triều Đường, đến năm 926 thì bị quân Khiết Đan tiêu diệt, Khiết Đan Quốc thành lập Đông Đan Quốc trên lãnh thổ cũ của Bột Hải Quốc, cho Thái tử Khiết Đan Da Luật Bội nhậm chức "hoàng vương". Sau khi Liêu Thái Tông kế vị, ông phế trừ Đông Đan Quốc, kiến lập Đông Kinh để quản lý. Thổ Dục Hồn bộ nguyên định cư ở khu vực Thanh Hải, song sau khi bị Thổ Phồn tiêu diệt thì tiến về phía đông đến khu vực Sóc Phương, Hà Đông, sang thời Ngũ Đại thì phân tán như tại Uý châu. Năm 936, Hậu Tấn cắt nhượng Yên Vân thập lục châu cho Khiết Đan Quốc, khiến một bộ phận tộc Thổ Dục Hồn thần phục Khiết Đan, song có không ít người chạy đến Thái Nguyên, đến chỗ Hà Đông tiết độ sứ Lưu Tri Viễn.[tham 4]
Hậu kỳ triều Đường, ở phương Tây thì Thổ Phồn là tối cường song vì nội bộ phân liệt nên suy yếu. Sang thời Ngũ Đại, hành lang Hà Tây bị nhiều tộc như Hồi Cốt, Thổ Phồn, Đảng Hạng chiếm cứ, với Cam Châu Hồi Cốt, Lục Cốc bộ Thổ Phồn, Hoàng Đầu Hồi Cốt, tộc Đảng Hạng thống lĩnh Định Nan quân ở Thiểm Bắc, Định Nan tiết độ sứ là tiền thân của Tây Hạ. Khi đó, chính quyền của người Hán chỉ gồm Quy Nghĩa tiết độ sứ ở Sa châu và Qua châu, Sóc Phương tiết độ sứ cùng Hà Tây tiết độ sứ là thuộc địa của Ngũ Đại và quản lý khu vực Lương châu và Lan châu. Thủ lĩnh tộc Đảng Hạng là Thác Bạt Tư Cung do có công bình loạn nên được Đường Hy Tông sách phong. Tuy nhiên, Định Nan quân độc lập tự chủ, về đối ngoại thì thần phục các triều Ngũ Đại và Bắc Hán. Thời Ngũ Đại, Hậu Đường Minh Tông có ý đồ thôn tính Định Nan quân, do vậy lệnh hoán đổi Đình Châu quân của An Trọng Tiến và Định Nan quân của Lý Di Siêu, cuối cùng Lý Di Siêu đẩy lui thành công quân Đường của An Trọng Tiến. Cuối cùng, sang thời Tống, Định Nan quân thôn tính vùng Hà Tây, lập quốc Tây Hạ.[tham 41] Khu vực Tây Vực lại có các nước như Tây Châu Hồi Cốt, Cao Xương Hồi Cốt, Quy Từ Hồi Cốt, Vu Điền và Khách Lạt hãn quốc, trong đó Vu Điền và Khách Lạt hãn quốc là hai nước lớn. Vu Điền quản lý một lãnh thổ rộng lớn ở nam bộ lòng chảo Tarim, Phật giáo thịnh hành ở nước này, quân chủ thuộc gia tộc Uất Trì, bắt đầu nắm quyền từ thời Hán. Thời Đường, nước Vu Điền từng thuộc Bì Sa đô đốc phủ, quốc vương Vu Điền khi đó là Uất Trì Phục Đồ Hùng kiêm nhiệm đô đốc. Sang thời Ngũ Đại, Vu Điền theo xu hướng Hán hóa, quốc vương Lý Thánh Thiên (Uất Trì Ô Tăng Ba) tự xưng là "Đường chi tông thuộc", trong nước thì thi hành tục cũ của triều Đường, đồng thời phái người sang triều cống triều đình Trung Nguyên,[tham 42] Hậu Tấn phong là "Thái Bảo Vu Điền quốc vương".[tham 43] Khách Lạt hãn quốc là thế lực Hồi giáo đông tiến chủ yếu, nhiều lần phát sinh chiến tranh với Vu Điền, song cuối cùng đều thất bại. Đầu thế kỷ 11, Quy Nghĩa quân và Vu Điền bị Tây Hạ tiêu diệt.[tham 44]
Năm 905, Khúc Thừa Dụ chiếm lấy thủ phủ Đại La của Tĩnh Hải quân, tự xưng là Tiết độ sứ, sau được triều đình thừa nhận. Năm 907, Khúc Thừa Dụ qua đời, con là Khúc Hạo kế vị, thực hiện cải cách hành chính, củng cố quyền hành ở Tĩnh Hải quân. Đến thời Khúc Thừa Mỹ, ông chủ trương thân thiết với triều đình Hậu Lương, công khai gọi nước Nam Hán là "ngụy đình". Năm 930, Nam Hán Cao Tổ Lưu Nghiễm khiển bộ tướng Lương Khắc Trinh và Lý Thủ Phu tiến công Giao châu- thủ phủ của Tĩnh Hải quân; bắt được Khúc Thừa Mỹ, Tĩnh Hải quân về tay Nam Hán, chấm dứt quyền lực của họ Khúc. Lương Khắc Trinh còn tiến công Chiêm Thành, cướp vật quý của nước này rồi rút lui. Lưu Nghiễm khiển bộ tướng Lý Tiến đi cai quản Giao châu.[tham 45] Sau khi họ Khúc bị lật đổ, đến năm 931, Dương Đình Nghệ bao vây Giao châu. Lưu Nghiễm khiển Trình Bảo đem binh cứu viện, song thành bị chiếm trước khi Trình Bảo đến nơi.[tham 45] Năm 937, Dương Đình Nghệ bị Kiều Công Tiễn giết chết, Kiều Công Tiễn đoạt lấy quyền cai quản Tĩnh Hải quân. Năm 938, một tướng cũ của Dương Đình Nghệ là Ngô Quyền nổi dậy lại Ái châu và sau đó tiến công Giao châu, Kiều Công Tiễn cầu viện Nam Hán. Lưu Nghiễm muốn nhân cơ hội này để đoạt lấy Tĩnh Hải quân, do vậy mệnh hoàng tử Lưu Hoằng Thao đem binh đến cứu Giao châu, Lưu Nghiễm tự mình đem một đội quân theo sau. Lưu Nghiễm lệnh cho Lưu Hoằng Thao suất chiến hạm theo sông Bạch Đằng tiến đến Giao châu, quân Nam Hán đại bại, sử gọi là trận Bạch Đằng. Lưu Nghiễm hay tin thì tập hợp tàn quân trở về Nam Hán.[tham 46] Năm 939, Ngô Quyền xưng vương, kiến lập nhà Ngô, định đô ở Cổ Loa, khu vực Việt Nam bắt đầu thoát ly lịch sử Trung Quốc, đến năm 968, nhà Đinh được kiến lập, Việt Nam chính thức đi trên con đường độc lập.
Đại Lý Quốc kế thừa Nam Chiếu tồn tại từ thời Đường, do Nam Chiếu xảy ra chiến tranh với Đường trong một thời gian dài, quốc lực ngày càng suy yếu, những năm cuối của Nam Chiếu nhiều lần xảy ra việc quyền thần soán vị. Năm 902, Thanh Bình quan Trịnh Mãi Tự bách hoàng đế Nam Chiếu là Mông Thuấn Hóa Trinh phải thoái vị, kiến quốc Đại Trường Hòa. Năm 928, Đông Xuyên tiết độ sứ (của Đại Trường Hòa) Dương Can Trinh và Thanh Bình quan Triệu Thiện Chính giết Hoàng đế Trịnh Long Dân, Triệu Thiện Chính kiến quốc Đại Thiên Hưng. Năm sau, Dương Can Trinh phế Triệu Thiện Chính, tự lập, kiến quốc Đại Nghĩa Ninh. Em trai của Dương Can Trinh là Dương Chiếu nhận thấy Hải Thông tiết độ sứ Đoàn Tư Bình có lòng dạ khác, do vậy thúc giục Dương Can Trinh phái binh truy sát. Đoàn Tư Bình liền thỉnh cầu Cao Phương che chở giúp đỡ. Sau đó, Đoàn Tư Bình hướng đông mượn binh tộc Thoán Đen, cùng em là Đoàn Tư Lương và quân sư Đổng Già La cất binh phản kháng. Năm 937, Đoàn Tư Bình diệt Đại Nghĩa Ninh, kiến lập Đại Lý Quốc, quốc đô là thành Đại Lý.[tham 4]
Chế độ quân sự
Chế độ quân sự Ngũ Đại Thập Quốc kế thừa chế độ tiết độ sứ từ hậu kỳ triều Đường, đương thời phiên trấn địa phương thường cất binh nhằm lật đổ triều đình trung ương. Để giải quyết vấn đề này, triều đình dần tăng cường cấm quân trung ương để áp chế địa phương, đến triều Tống thì phát triển thành chính sách "Cường cán nhược chi". Đơn vị quân sự tối cao thời Ngũ Đại Thập Quốc là Xu mật viện, đại đa số là do võ tướng đảm nhiệm. Do Ngũ Đại trọng quân sự, khinh văn nhân, có khi cũng cho tể tướng kiêm chức Xu mật sứ để củng cố chính quyền.[tham 1][tham 3]Từ trung kỳ triều Đường trở đi, các tiết độ sứ có binh lực lớn mạnh, quản lý quân sự và dân chính tại địa phương. Họ có địa vị cao và quyền lực lớn, rất tùy tiện làm càn, khi đó thường phát sinh việc phát binh nhằm lật đổ triều đình, sử gọi là phiên trấn cát cứ. Cuối cùng, triều Đường bị Tuyên Vũ tiết độ sứ Chu Toàn Trung soán vị, những người kiến quốc khác thời Ngũ Đại Thập Quốc phần nhiều cũng là các tiết độ sứ. Trong thời Ngũ Đại Thập Quốc, việc phát binh soán vị xảy ra nhiều, sau khi Hậu Tấn Cao Tổ cắt nhượng Yên Vân thập lục châu thì càng trở nên kịch liệt. Quân chủ Ngũ Đại thường bị thay thế, cuối cùng hình thành loạn thế 9 họ 15 vua.[chú 5] Các quân chủ này do vậy lựa chọn thực hiện chính sách "cường cán nhược chi" như kiến lập cấm quân, điều động tiết độ sứ địa phương, để làm suy yếu phe nhóm thực lực địa phương. Cấm quân phụ trách bảo vệ thủ đô và hoàng cung, có khi đến trú phòng các nơi để áp chế phiên trấn địa phương; ví dụ như Hậu Lương, Hậu Đường từng dùng cấm quân để áp chế, làm suy yếu Hà Bắc tam trấn. Sau này, Tống Thái Tổ cũng sử dụng cấm quân trong việc thống nhất Trung Quốc. Ngoài ra, triều đình cũng thường xuyên điều động tiết độ sứ, thay đổi trú địa của họ, ngăn cản việc họ chiếm cứ địa phương trong một thời gian dài và hình thành thế lực cát cứ.[tham 1][tham 3]
Bên cạnh việc các triều Ngũ Đại thường mở rộng cấm quân, quan chế quân sự cũng có nhiều biến đổi. Đội quân thân cận nhất của Hậu Lương Thái Tổ là "thính tử đô", đội quân này được trang bị rất tốt, hung hãn dị thường, quân Tấn rất sợ hãi. Sau khi lập quốc, quân Tuyên Vũ được mở rộng thành cấm binh, chọn những người tinh nhuệ trong cấm quân để thành lập thị vệ thân quân. Tại thủ đô, thiết lập Tả-hữu long hổ quân, Tả-hữu vũ lâm quân, Tả-hữu thần vũ quân, Tả-hữu long tương quân, đều cho thân vương làm quân sứ, về sau danh xưng có biến đổi. Cấm quân thời Hậu Đường tiền thân là quân Hà Đông, Lý Khắc Dụng dùng nhiều con nuôi làm cốt cán mà kiến lập "Nghĩa nhi quân", là đội quân tinh nhuệ nhất. Bộ binh chủ lực trong việc chinh chiến là 'Ngụy Bác ngân thương hiệu tiết quân' được thu biên vào năm 915, khi diệt Hậu Lương đã phát huy tác dụng to lớn. Sau khi kiến quốc, tại thủ đô kiến lập các đội quân như Nghiêm vệ tả-hữu quân, Phủng thánh tả-hữu quân. Thời Hậu Đường Minh Tông, thành lập thị vệ thân quân làm cấm quân, lấy binh sĩ từ khi khởi sự ở Nghiệp Đô làm cốt cán, còn gọi là Tùy giá quân. Trong số các quân chủ Ngũ Đại, Thạch Kính Đường từng đảm nhiệm chức Thị vệ thân quân Mã bộ quân đô chỉ huy sứ kiêm Lục quân đô vệ phó sứ. Hậu Tấn cũng thiết lập Hộ thánh tả-hữu quân tại thủ đô, bộ phận chủ yếu nguyên là đội quân theo Thạch Kính Đường từ khi khởi sự ở Hà Đông, bộ thuộc Lưu Tri Viễn đảm nhiệm chức Thị vệ mã bộ quân đô chỉ huy sứ. Quân chế Hậu Hán kế thừa Hậu Tấn, không có cải biến quá lớn. Hậu Chu thiết lập Long tiệp tả-hữu quân, Hổ tiệp tả-hữu quân tại thủ đô. Thời Hậu Chu Thế Tông, Hậu Chu tiến hành cải cách chế độ quân sự, thực thi chế độ luyện tuyển, tinh giản cấm quân trung ương, bổ sung binh sĩ khỏe mạnh, đặt chức quân quan cao cấp như Điện tiền đô chỉ huy sứ, Thủy lục đô bổ thự, Điện tiền đô điểm kiểm, hình thành cấm quân "Điện tiền chư ban". Trong đó, "Điện tiền đô điểm kiểm" nắm giữ thực quyền quân sự, về sau người đảm nhiệm chức này là Triệu Khuông Dận đã phát động binh biến Trần Kiều, soán vị mà thiết lập triều Tống.[tham 2] Sau đó, Tống Thái Tổ mệnh cho Binh bộ thượng thư Trương Chiêu Viễn chế định ra quân pháp mới để tạo ra kỷ luật nghiêm minh trong quân đội, cuối cùng hạn chế quyền lực của phiên trấn bằng các biện pháp như cấm chỉ sản xuất binh khí hay cấm can dự quân chính.[tham 3]
Do chiến tranh liên miên, gánh nặng binh dịch trở nên trầm trọng. Đương thời, để ngăn chặn binh sĩ chạy trốn, các binh sĩ bị thích chữ theo quân hiệu của họ lên mặt, để các cửa ải và bến đò có thể thuận tiện mà nhận diện, truy bắt binh sĩ đào ngũ. Ngoài ra, các nơi cũng bắt nam nữ phải tham gia vào việc vận chuyển, vô số người và gia súc kiệt sức đến chết trên đường. Lưu Nhân Cung ở U-Yên bắt nam giới trên 15 tuổi, dưới 70 tuổi tự chuẩn bị quân lương tòng quân, tổng cộng có 20 vạn quân. Bắc Hán quy định nam giới trên 17 tuổi đều phải nhập binh tịch làm binh. Nam Đường còn từng lệnh cho toàn bộ quốc nhân, trừ những ai già yếu, đều phải tòng quân. Ngô Việt vương Tiền Thục buộc hết dân đinh trong nước làm binh. Ở Hồ Nam, Mã Hy Ngạc bắt toàn bộ đinh tráng Lãng châu làm hương binh. Vào hậu kỳ, nước Mân bắt dân làm binh, trưng dụng sức dân không ngưng. Ngoài binh dịch, người dân còn phải lao dịch xây dựng. Hậu Đường Trang Tông từng bắt dân xây dựng doanh lâu, "một ngày có vạn người lao dịch". Kinh Nam tu sửa ngoại quách thành Giang Lăng, bắt hơn vạn binh lính và dân lao dịch. Mân Chủ xây dựng dinh quan cung điện, "bách dịch phồn hưng". Với việc lao dịch nghiêm ngặt nặng nề, phương Bắc bị chiến tranh tàn phá gặp khó khăn trong việc phục hồi, tiến trình phát triển kinh tế ở phương nam cũng gặp trở ngại rất lớn.[tham 2][tham 5][tham 3]
Nhân khẩu
Từ hậu kỳ triều Đường đến thời Ngũ Đại Thập Quốc, do chiến loạn kéo dài và thiên tai nên kinh tế khu vực Trung Nguyên bị tàn phá rất nặng. Sau loạn Hoàng Sào, trong suốt 60-70 năm, chiến sự lớn nhỏ không dừng. Binh dịch và các loại lao dịch ở khu vực Hoa Bắc rất nặng nhọc. Những người thống trị xem nhân mạng như cỏ rác, quần chúng vô tội thường bị thảm sát. Chiến tranh và lao dịch nặng nhọc khiến hàng vạn người chết đói hoặc lưu tán tha hương. Giả dụ như vào hậu kỳ triều Đường, Tần Tông Quyền từ Thái châu đánh ra tứ phía, từng đánh chiếm Đông Đô, hình thành tình huống "nhìn xa nghìn lý, không thấy khói lửa".[tham 47] Khi Chu Ôn giao chiến với Thì Phổ ở Từ châu, nông nghiệp ba châu Từ, Tứ và Hào bị phá hoại. Khi Chu Ôn giao chiến với Lưu Nhân Cung ở Hà Bắc, một dải từ Ngụy châu đến Thương châu bị phá hoại, trận chiến ở Định châu khiến cho hơn 6 vạn người tử thương. Khu vực Trường An, Lạc Dương vốn là nơi tập trung tinh hoa của triều Đường, song khi Chu Ôn buộc Đường Chiêu Tông đông thiên, ông ta cũng buộc người dân phải thiên di, đồng thời phá bỏ phòng ốc, đốt cháy hoàn toàn, không đầy 100 hộ trở về. Sau đó, xảy ra chiến sự giữa Hậu Lương và Tấn, khiến cho vùng Tấn Nam-Dự Bắc có không ít địa phương "làng không thóc lúa, ấp không khói lửa". Để ngăn chặn quân Tấn, Hậu Lường từng vài lần làm vỡ đê Hoàng Hà, khiến vùng Hà Nam và Sơn Đông nước lụt tràn ngập, dân không kham nổi. Đến giữa thời kỳ Hậu Đường và Hậu Tấn, khu vực Hoa Bắc bị Khiết Đan Quốc tiến đánh và quấy nhiễu; đất Yên châu Lô Long nhiều lần bị kị binh Khiết Đan cướp bóc đốt phá, trong vài nghìn lý "dân vật đãi tận". Đặc biệt là sau khi quân Khiết Đan nam hạ đánh chiếm Biện châu, trong phạm vi hàng trăm lý giữa Khai Phong và Lạc Dương, dân cư chỉ còn rất ít, bách tính Tương châu có đến hơn vạn người bị giết chết. Thời Hậu Hán, các phiên trấn như Hà Trung và Phượng Tường phản lại triều đình, thi thể người chết trận và chết đói có trên 20 vạn. 12 châu của Bắc Hán vào thời Thịnh Đường có đến 28 vạn hộ, song vào lúc Bắc Hán mất nước thì chỉ có hơn 3 vạn hộ, tức là chỉ còn lại 1/8 so với thời thịnh Đường. Năm 838, thời Đường Văn Tông, Đại Đường có 4,99 triệu hộ, đến khi triều Tống thống nhất Trung Quốc thì có 3,79 triệu hộ, tức trong vòng 140 năm giảm đi 120 vạn hộ, qua đó có thể thấy thời Đường mạt và Ngũ Đại, chiến loạn kịch liệt còn dân sinh thì thống khổ.[tham 48]Hậu kỳ triều Đường, phương nam chịu ảnh hưởng từ biến Bàng Huân và loạn Hoàng Sào, tuy nhiên sang đến thời Thập Quốc thì có tương đối ít các cuộc chiến tranh lớn, chính cục tương đối ổn định, có lợi cho việc khôi phục và phát triển kinh tế- xã hội.[tham 47] Lại thêm việc sau khi triều Đường suy yếu, Trung Nguyên bất ổn định, có không ít người nối tiếp nhau tiến về phương nam để đến Giang Nam, Hồ Quảng và Ba Thục, xa nhất đến tận đất Lưỡng Quảng.[tham 49] Quan Nội đạo, Hà Nam đạo, Hà Bắc đạo đều có hộ khẩu giảm sút rất nhiều; song ở các nơi phương nam như Tô châu, Ngạc châu, Hồng châu, Nhiêu châu, Cát châu, Tương châu, Dĩnh châu, Đường châu, Hành châu, Quảng châu đều có hộ khẩu tăng đáng kể. Theo cách nói đương thời, thì trong số hộ khẩu tại Tô châu, một phần ba là từ phương bắc đến; ở Vũ Xương số hộ khẩu tăng gấp ba lần chỉ trong vòng hai năm, đều phản ánh việc có nhiều người di cư về phương nam, khiến phân bổ nhân khẩu khá tập trung ở phương nam.[tham 50] Việc ổn định lâu dài có lợi cho phát triển sản xuất, khiến phủ khố của Thập Quốc dần trở nên đầy đủ. Mạt kỳ Ngũ Đại Thập Quốc, hộ khẩu Hậu Chu và Bắc Hán không quá 100 vạn, các nước phương nam thì lại đạt đến trên 270 vạn hộ. Trong số các nước, đông nhất là Nam Đường với khoảng 65 vạn hộ, tiếp đến là Ngô Việt với khoảng 55 vạn hộ, Hậu Thục có khoảng 53 vạn hộ. Tổng nhân khẩu của ba nước này đương thời chiếm một nửa dân số toàn Trung Quốc.[tham 51] Đến khi triều Tống thống nhất Trung Quốc, khu vực Hoa Bắc nguyên thuộc Hậu Chu và Bắc Hán có khoảng 100 vạn hộ, song khu vực phương nam nguyên thuộc chín nước thì có 230 vạn hộ. Những năm đầu Bắc Tống, tỉ lệ nhân khẩu nam bắc đại ước là 6:4.[tham 47]
Niên đại | Số hộ | Số khẩu | Ghi chú |
---|---|---|---|
Đường Ai Đế năm Thiên Phục thứ 3 (907) | Ước tính toàn quốc 20.000.000 người | triều Đường diệt vong | |
Hậu Chu Thế Tông năm Hiển Đức thứ 6 (959) | 2.309.812 hộ[tham 52] | ||
Tống Thái Tông năm Thái Bình Hưng Quốc thứ 4 (979) | 3.790.000 hộ | 32.500.000 khẩu | Bắc Tống thống nhất Trung Quốc bản thổ |
Kinh tế
Hậu kỳ triều Đường, do các nhân tố như loạn An Sử, phiên trấn cát cứ và loạn Hoàng Sào, khiến phương bắc chiến loạn bất kham, nhân khẩu di chuyển xuống phương nam, ruộng vườn hoang vu. Đến thời kỳ Ngũ Đại Thập Quốc, phương bắc thường xuyên đổi chủ và ngọn lửa chiến tranh vẫn chưa tắt, do vậy mà kinh tế khá lạc hậu. Cho đến hậu kỳ triều Hậu Chu, kinh tế phương bắc mới dần khôi phục, song vẫn không theo kịp phương nam. Trong khi đó, phương nam ổn định hơn, tiếp nhận dòng di dân từ phương bắc, đem lại cho phương nam một lực lượng lao động lớn cùng với kỹ thuật canh tác và dệt tiên tiến, đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế của phương nam.[tham 47] Đến thời kỳ Ngũ Đại Thập Quốc, các nước phương nam thoát khỏi gánh nặng về kinh tế với phương bắc, hơn nữa các quân vương lại xem trọng phát triển sản xuất, phát triển một số đại thành thị trở thành các trung tâm kinh tế khu vực. Đất Thục là nơi nông nghiệp, công thương nghiệp phát đạt, kho lương no đầy. Vùng Giang Nam Lưỡng Hoài mạnh về canh tác, trồng dâu nuôi tằm, trồng chè, thủy lợi và thương nghiệp mậu dịch; trong đó Ngô Việt, Mân và Nam Hán có hoạt động mậu dịch hưng thịnh nhất. Hồ Quảng dựa vào bán trà và vận chuyển trà đến khu vực Hoàng Hà, trao đổi y liệu và chiến mã để thu lợi nhuận. Các nước phương nam bổ sung các mặt hàng mà nước khác không có với nhau, đồng thời thông thương mậu dịch với Hoa Bắc, ngoại quốc rất hưng thịnh. Phương nam đến thời điểm này hoàn toàn thay thế phương bắc để trở thành trung tâm kinh tế của toàn Trung Quốc.[tham 5][tham 47]Nông nghiệp
Từ hậu kỳ triều Đường đến thời kỳ Ngũ Đại Thập Quốc, do chiến loạn và thiên tai kéo dài, kinh tế khu vực Trung Nguyên chịu tàn phá rất nhiều, Hà Bắc, Hà Nam, Sơn Đông và Quan Trung đều là vùng chiến loạn. Giả dụ như vào năm 943 thời Hậu Tấn Xuất Đế, vào xuân hạ thì chịu nạn hạn hán, đến thu đông thì chịu thủy tai, bùng nổ nạn châu chấu, đến lá trúc cũng bị châu chấu ăn mất; lại thêm quyết định phá vỡ đê Hoàng Hà vì mục đích quân sự, các châu như Biện, Ngạc ngập chìm trong nước, khiến hoạt động sản xuất ở phương bắc chịu sự phá hoại nghiêm trọng. Một cách tương đối thì từ thời Hán-Ngụy-Lục triều trở đi, vùng Giang Nam, Hồ Quảng và Ba Thục khá bình ổn và kinh tế tiếp tục phát triển, trở thành nơi nhân dân Trung Nguyên chạy đến lánh nạn. Cộng thêm việc Hoa Nam được chia thành một số quốc gia, các nước tăng cường sức mạnh kinh tế và mưu hoạch phát triển kinh tế một cách thận trọng, điều này khiến cho sức mạnh kinh tế của Thập Quốc vượt xa so với Ngũ Đại trọng vũ lực.[tham 5]Thời Ngũ Đại chiến tranh không ngừng, song có không ít vị vua thúc đẩy kinh tế. Sau khi xưng đế, Hậu Lương Thái Tổ xem trọng nông nghiệp, ông bổ nhiệm Trương Toàn Nghĩa làm Hà Nam doãn, nhằm khôi phục sản xuất ở khu vực Hà Nam. Đến năm 908 ông lại lệnh cho các châu diệt châu chấu để làm lợi cho làm ruộng và trồng dâu nuôi tằm.[tham 1] Trong thời gian Hậu Đường Minh Tông chấp chính, ông đề xướng tiết kiệm, tu sửa công trình thủy lợi, quan tâm đến nỗi thống khổ của bách tính, khiến bách tính có thể nghỉ ngơi. Đến thời Hậu Chu, Hậu Chu Thái Tổ cho giảm nhẹ áp lực đối với nông dân, vào năm 952 tiếp tục đem binh đến đóng tại doanh điền[chú 6] ban cho điền hộ, nhằm tăng số thuế thu được; đồng thời phế trừ việc thi hành "ngưu tô" từ thời Hậu Lương Thái Tổ, khiến nông dân được miễn trừ gánh nặng thuế trâu/bò chết.[tham 53][tham 5] Đến thời Hậu Chu Thế Tổ, triều đình kiến lập điền chế công bằng, trưng thuế theo số mẫu ruộng chiếm hữu trên thực tế. Điều này khác với chế độ cũ thời Tùy-Đường, song cùng là hai cách đánh thuế sản được thực hành phổ biến sau này.[tham 1]
Các nước phương nam đề xướng phát triển kinh tế, đồng thời lại xem trọng việc xây sửa công trình thủy lợi, phòng thủy để ngăn ngừa thiệt hại; giả dụ như Ngô Việt và Nam Đường khích lệ làm ruộng trồng dâu; Mân và Nam Hán xúc tiến mậu dịch với hải ngoại; Tiền Thục và Hậu Thục đều phát triển cày cấy và dệt lụa, những điều này đều khiến cho kinh tế phương nam phát triển. Ba Thục từ thời Đường đã có sản vật rất dồi dào, dân số đông đúc, được gọi là "Thiên phủ chi quốc". Sau khi trải qua chiến loạn, Tiền Thục của Vương kiến và Hậu Thục của cha con Mạnh Tri Tường-Mạnh Sưởng đều mưu hoạch phát triển kinh tế, chính trị tương đối ổn định. Họ cũng chú trọng xây dựng công trình thủy lợi, mở rộng diện tích đất canh tác, ở khu vực Bao Trung lại lập ra đồn điền, khiến cho sản xuất nông nghiệp khá phát triển. Thời Hậu Thục, "bách tính no đủ", "một đấu gạo tam tiền". Khu vực Lưỡng Quảng tiếp nhận không ít dân thiên cư, những năm Ngũ Đại, khu vực phía nam Nam Lĩnh bình yên vô sự, phủ khố Nam Hán dần đủ đầy.[tham 5]
Khu vực Lưỡng Hoài, Giang Nam và Thái Hồ thuộc Ngô/Nam Đường và Ngô Việt từ thời Tùy-Đường đã rất phồn vinh, là trọng trấn lương thực của triều Đường.[tham 54] Trải qua biến Bàng Huân và loạn Hoàng Sào, các khu vực này dần hồi phục, triều đình ủng hộ khai khẩn đất hoang đại quy mô tại đây, đồng thời xây đắp nên các thủy đạo. Ngô và Nam Đường khơi thông Luyện Hồ ở Đan Dương, khơi thông hồ Giáng Nham ở Cú Dung, đắp đê Bạch Thủy ở Sở châu, đắp đê An Phong ở Thọ châu, ít công trình nào mà chỉ tưới cho vài nghìn khoảnh ruộng, đa số tưới tiêu cho trên vạn khoảnh ruộng. Ngô Việt vương cho xây đắp đê đá Tiền Đường Giang để phòng thủy triều từ biển xâm nhập,[tham 55], đồng thời khơi thông nạo vét Tây Hồ, Thái Hồ và Giám Hồ,[tham 56] cũng mộ dân khai khẩn ruộng hoang, miễn thu thuế ruộng, khiến khu vực Hàng Châu trở thành một nơi giàu có ở Giang Nam. Khu vực Phúc Kiến vào hậu kỳ triều Đường không có kinh tế mạnh, song huynh đệ Vương Triều và Vương Thẩm Tri sau khi chiếm lĩnh và lập ra nước Mân, họ khuyến khích dân chúng cày cấy và trồng dâu, cho xây đê Xa Hồ ở huyện Liên Giang, có thể tưới cho 4 vạn dư khoảng ruộng. Nông dân Nam Đường và Ngô Việt cũng xây dựng một kiểu đê ngăn nước tại ruộng gọi là "vi điền". Khi hạn thì mở đập dẫn nước vào ruộng, khi lụt thì đóng đập để ngăn nước, biến các vùng trũng thấp hay bị úng nước trở thành đất ruộng tốt.[tham 5] Ở đất Hồ Quảng, từ thời Đông Tấn-Nam-Bắc triều trở đi đã rất hưng thịnh. Sau khi Mã Ân cát cứ Hồ Nam và kiến lập nước Sở, sản lượng lương thực của Tương Trung và Tương Tây không ngừng tăng lên. Đến thời Chu Hành Phùng cát cứ Hồ Nam, nhân dân "chuyên tâm cấy gặt, trong vòng 4-5 năm, kho lương đầy ắp". Các khu vực ở trung hạ du Trường Giang đều trở nên dư thừa lương thực "Cấp ra cho Thiên hạ, Giang Nam chiếm đến 9/10", sang thời Tống, có câu nói "Tô (hay Hồ) thường được mùa thì Thiên hạ no đủ".[tham 47]
Ngoài sản xuất lương thực ra, các ngành kinh tế khác ở phương nam như trà, dệt lụa, bông cũng rất hưng thịnh, tiến lên mức chuyên nghiệp hóa. Đương thời, trà ngoài các giống ở vùng núi, cũng có các giống trồng ở vùng đất bằng hay gò đồi. Căn cứ theo ghi chép tại "Tứ thời toản yếu", đương thời vườn trà Giang Nam rất phát đạt. Thời Thập Quốc, nước Sở của Mã Ân đối với các ngành như trà, trồng dâu nuôi tằm, bông đều rất hưng thịnh, dẫn đến thương nghiệp và mậu dịch của Sở cũng phát đạt. Nước Mân phát triển kinh tế sản vật trà, lại khuyến khích mậu dịch trên biển, có tác dụng thúc đẩy rất lớn đối với kinh tế bản địa.[tham 47]
Thủ công nghiệp
Các nước hỗn chiến khiến kinh tế-xã hội bị phá hoại nghiêm trọng, song sản xuất xã hội không bị gián đoạn. Thậm chí ở khu vực Hoa Bắc, đầu thời Hậu Lương Thái Tổ trị vì, và thời Hậu Đường Trang Tông tại vị, họ đều thi hành biện pháp để khôi phục sản xuất. Thời Hậu Chu, thủ công nghiệp như xe sợi dệt vải, làm giấy, làm trà, làm muối đều có sự phát triển, nghề xe sợi dệt vải ở phương nam đã vượt qua phương bắc.[tham 5][tham 57]Điêu bản ấn loát (in bằng bản được chạm trắc từ trước) đầu tiên được lưu hành trong dân gian, song vào thời Ngũ Đại Thập Quốc thì đặc biệt phổ biến, trong đó hai nơi là Giang Nam và Ba Thục khá phát triển, không chỉ dùng để in sách kinh Phật hoặc sách dùng hàng ngày trong dân gian, mà còn dùng để in các kinh điển Nho giáo vốn chỉ phục vụ cho tầng lớp sĩ đại phu. Điêu bản ấn loát ở Tiền Thục khá phát triển, các sản phẩm in chủ yếu là sách xem bói hay tự điển. Đến thời Hậu Thục, người ta thông thạo việc in ấn, khiến cho "trong Thục, văn học phục thịnh". Năm 932, tể tướng Hậu Đường Phùng Đạo đề nghị chính thức chọn cách dùng điêu bản để in Cửu kinh như Thi Kinh, Thư Kinh, Kễ Kỳ, xuất hiện việc in ấn chính thức trên quy mô lớn. Kế hoạch này do Quốc tử giám thực hiện, không vì chiến loạn mà đình chỉ, đến năm 953 vào thời Hậu Chu thì mới hoàn tất việc khắc ấn, tổng cộng mất tới 22 năm. Kể từ đó, khắc bản "Cửu kinh" được lưu truyền rộng rãi. Sau đó, triều đình khắc ấn kinh thư với số lượng tăng thêm, nhiệm vụ này lại giao cho Quốc tử giám phụ trách, bản khắc sách được thu giữ trong Quốc tử giám và được gọi là "giám bản".[tham 57]
Ngũ Đại cũng là thời kỳ chuyển đổi trọng yếu của nghề gốm, do dân gian chuyển sang lò gốm quan. Đồ gốm dân và đồ gốm quan mỗi bên theo một hướng, "tranh kỳ đấu diễm", hình thành thời kỳ thịnh hành đồ sứ đơn sắc. Quan phương cho dựng lên lò gốm quan, chuyên môn cung ứng sản phẩm cho hoàng thất và quan viên sử dụng. Ở phương bắc, có "ngự diêu" (đồ gốm dành cho vua dùng) thời Hậu Đường và Hậu Chu, ở phương nam có đồ gốm bí sắc ở nước Ngô Việt, có lò gốm quan ở Tiền Thục và Hậu Thục. Dân gian vẫn duy trì truyền thống làm ra đồ gốm tốt, giả dụ như Định Diêu ở Hà Bắc rất hưng thịnh.[tham 58] "Việt khí" ở Ngô Việt có kỹ thuật thiêu chế tốt, rất có danh tiếng.[tham 57] Thời Ngũ Đại, thợ thầy đồ gốm có các cải biến sáng tạo, truyền thế tạo thành một sự tiên phong lớn trong lịch sử nghề đồ gốm Trung Quốc cổ đại.[tham 59] Kỹ thuật làm đồ gốm cũng được truyền ra nước ngoài, vào năm 918 dưới thời Hậu Lương, Cao Ly do học được kỹ thuật làm đồ sứ của Trung Quốc nên thiết lập xưởng gốm ở Khang Tân (Gangjin), sau đó kỹ thuật đồ gốm Trung Quốc lại tiếp tục truyền bá sang Nhật Bản và các nước Tây Dương.[tham 59]
Trừng Tâm Đường chỉ là tên một loại giấy và thời Ngũ Đại Thập Quốc, Nam Đường Hậu Chủ Lý Dục là người thiện tả thi từ, thích thu thập và cất giữ các thư tịch và giấy, do vậy chuyển một căn phòng của quan phủ Kim Lăng thành "Trừng Tâm Đường", dùng làm nơi sáng tác thơ và chứa sách. Nam Đường Hậu Chủ còn lệnh cho đưa thợ làm giấy giỏi của Tứ Xuyên đến Trừng Tâm Đường, phỏng theo cách làm giấy của người Thục mà tạo thành một loại giấy mới có chất lượng tốt, đặt tên là "Trừng Tâm Đường chỉ". Do chất lượng của Trừng Tâm Đường chỉ quá tốt, nên một trang giấy giá 100 tiền, nổi bật trong số các loại giấy. Sau này, triều Tống, triều Thanh đều học theo kỹ thuật của Nam Đường, sản xuất và sử dụng loại giấy này.[tham 59][tham 57]
Thương nghiệp
Do phương bắc chiến loạn không dứt, nông nghiệp bị phá hoại, khiến thương nghiệp cũng gặp khó khăn trong việc phát triển. Tuy nhiên, kinh tế Hoa Nam không chịu sự phá hoại quá lớn, chính cục các nước phương nam tương đối ổn định hơn so với phương bắc, ngoài sản xuất lương thực đầy kho ra, một vài nước cũng sản xuất các mặt hàng như trà, tơ lụa và bông trên quy mô lớn, trong khi vận chuyển theo Trường Giang hoặc bằng đường biển đều rất tiện lợi. Các nước trao đổi mặt hàng mà mình còn thiếu với nhau, một số còn mậu dịch với ngoại quốc, khiến cho thương nghiệp mậu dịch rất phát đạt. Hoa Bắc cần một lượng lớn trà, thương nhân buôn trà ở các nước phương nam như Sở, Nam Đường hay Mân cũng muốn đem trà đến Hà Nam hay Hà Bắc; do vậy nước Kinh Nam trở thành trung tâm vận chuyển trà, thương nhân phương nam bán trà rồi mua tơ lụa hay chiến mã. Một phần nhu cầu muối ăn của phương nam dựa vào cung ứng từ phương bắc. Các thế lực phương bắc như Ngũ Đại hay Bắc Hán, Yên, Kỳ mua ngựa của người Khiết Đan, Hồi Cốt, Đảng Hạng; Tiền Thục và Hậu Thục cũng mua ngựa từ ngoại tộc ở biên cương phía tây. Các nước thần phục Ngũ Đại ở phương nam đều sử dụng phương thức triều cống để tiến hành mậu dịch với phương bắc. Nam Đường, Ngô Việt và Mân mậu dịch với phương bắc chủ yếu thông qua đường biển; từ Cao Ly và Nhật Bản ở phía đông, đến Đại Thực ở phía tây, Chiêm Thành và Tam Phật Tề ở phía nam đều có giao dịch thương nghiệp. Đương thời, có không ít đại cảng mậu dịch, như Dương châu, Minh châu, Quảng châu, trong đó Hàng châu, Phúc châu và Tuyền châu đều được phát triển mở rộng trong thời kỳ này. Ngô Việt vương Tiền Lưu cho mở rộng thành Hàng châu, Mân vương Vương Thẩm Tri mở rộng thành Phúc châu, Thanh Nguyên tiết độ sứ Lưu Tòng Hiệu mở rộng thành Tuyền châu.[tham 47] Ngô Việt, Ngô và Nam Đường sử dụng "mãnh hỏa du" từ hải ngoại truyền đến, còn theo đường biển mà tiếp tục đem đến triều Liêu.[tham 5] Song có thể nói trên phạm vi toàn Trung Quốc, do không thống nhất về chính trị, giao thông cách trở, kinh tế ít có tiến bộ, do vậy việc phát triển thương nghiệp chịu sự hạn chế, như pháp lệnh của Tiền Thục quy định không cho hàng hóa tốt được xuất về phía đông.[tham 60] Hậu Chu quy định không được vận chuyển muối và lương thực để bán quá Chương Hà. Tuy nhiên, thông thương mậu dịch vẫn rất hưng thịnh.[tham 5]Văn hóa
Thời Ngũ Đại Thập Quốc có địa vị trọng yếu trong lịch sử văn hóa Trung Quốc, chủ yếu biểu hiện ở sự phát triển của sự nghiệp in ấn, sự nổi lên của từ và một số phương diện khác. Do phương nam khá giàu có và ổn định so với phương bắc, nên văn học, hội họa, công nghệ kim loại, phù điêu, dệt, đồ gốm đều phổ biến ở phương nam.[tham 6]Tư tưởng học thuật
Thời Ngũ Đại, quốc chính về cơ bản vẫn dựa trên học thuyết Nho gia, song tầm ảnh hưởng xã hội-chính trị của nó suy giảm đáng kể. Tuy nhiên, do phép tắc quan lại và trật tự tiêu chuẩn dựa theo Nho giáo, nó trở nên quan trọng hơn nhiều so với Phật giáo và Đạo giáo. Đương thời, các triều Ngũ Đại liên tiếp thay thế nhau, Nho học bị tổn hại, tầm ảnh hưởng của tư tưởng Nho học suy giảm đáng kể. Trong các sắc lệnh, Hậu Đường Minh Tông đã chỉ ra tình trạng các trường học bị bỏ nhiều, điển tịch ít được truyền bá. Thời Hậu Chu Thế Tông, triều đình còn tiến hành một số nỗ lực để khôi phục Nho học, khiến truyền thống Nho học không đến mức đứt đoạn. Đồng thời, việc giảng học tư nhân trong dân gian cũng hết sức phổ biến, nuôi dưỡng không ít nhân tài Nho học, là yếu tố quan trọng dẫn đến việc Nho học hưng phát vào thời Tống.[tham 61]Do các nhân tố xã hội nhiễu động và thời đại ngắn gấp, thời Ngũ Đại thường xảy ra các vụ việc binh biến phản loạn hay hành thích, quân vương trọng võ khinh văn, còn sĩ nhân thì trọng thực khinh hư, khiến cho thời kỳ này hiếm có học giả hay tư tưởng gia kiệt xuất, nhà nho có danh tiếng chỉ có Phùng Đạo. Phùng Đạo là chính trị gia, quản lý việc khắc in "Cửu kinh" đại quy mô, phụng sự 15 vị quân chủ thuộc 9 họ, làm quan trong hơn 40 năm. Việc này xét theo quan điểm Nho giáo là bất trung quân, song lại giúp bản thân và giúp dân.[tham 61]
Do loạn thế gây tai họa, con người không thể nắm giữ tiền đồ của mình, đại đa số kẻ sĩ chọn theo tư tưởng tị thế tiêu cực, một bộ phận nhà Nho và bách tính hướng sang Phật giáo và Đạo giáo. Có cũng người nghiên cứu đạo tịch, song cũng có người ẩu náu nơi rừng núi, lòng không quan tâm đến danh lợi, chú trọng dưỡng sinh cá nhân, có câu "Ngũ quý chi loạn, tị thế nghi đa".[tham 62] Trong đó, học giả Đạo giáo Đàm Tiễu kế thừa thuyết pháp "đạo" là bản nguyên của thế giới do Lão Tử đề xương. Ông cho rằng vạn vật giữa Trời đất đều do "đạo" diễn hóa mà hình thành, nhưng bản chất của "đạo" lại là hư không, nhiều quan điểm bao hàm nhân tố nhân dân, dân chủ. Đàm Tiễu có soạn "Hóa Thư", trong "Đạo Hóa thiên" ghi rằng: "ủy đạo thì hư hóa thần, thần hóa khí, khí hóa hình, hình sinh nên vạn vật do vậy mà tắc. Dụng đạo thì hình hóa khí, khí hóa thần, thần hóa hư, hư minh nên vạn vật thông".[tham 61]
Văn học và sử học
Văn nhân Ngũ Đại trải qua tình cảnh thế sự nhiều biến hóa, thơ văn do vậy thể hiện sự thống thiết. Trong đó, thi nhân nước Ngô Việt La Ẩn với các bài thơ theo thể ngũ thất ngôn tương đối ưu tú, nổi tiếng có "La Ẩn Giáp Ất tập"- góp nhặt các sáng tác thơ của ông song nay đã thất truyền. Tiền kỳ Ngũ Đại, có rất nhiều văn nhân học sĩ lưu vong tứ phương, như Tư Không Đồ, Vi Trang, Đỗ Quang Đình, đều là những nhân vật có thành tựu văn học phi thường.[tham 63]Ngũ Đại Thập Quốc là thời kỳ phát triển trọng yếu của thể loại văn học từ, chủ yếu mô tả cảnh sinh hoạt hưởng lạc của hoàng thất và quý tộc. Thể loại này có đề tài dung tục, khung cảnh chật hẹp, phong cách nhu mĩ, có thể lấy đại biểu là Hoa Gian phái. Đến hậu kỳ, xuất hiện lối miêu tả sáng sủa kín đáo, tình cảnh sinh động, để lại dư vị cho người đọc, có ảnh hưởng cực lớn đối với Tống từ. Hoa Gian phái có nguồn gốc từ Ôn Đình Quân thời vãn Đường, Vi Trang thời Vãn Đường-Tiền Thục, trong đó Ôn Đình Quân được hậu nhân gọi là "Hoa Gian tị tổ", các tác phẩm nổi danh như "Bồ Tát Man", "Mộng Giang Nam"; Vi Trang có "Nữ Quan Tử", "Bồ Tát Man"; đều mang phong cách tươi mới. Sau đó, từ phát triển ở Ngũ Đại, có tương đối nhiều từ nhân ở đất Thục và Nam Đường, mặt bằng tương đối cao, do đó trở thành hai trung tâm. Đất Thục có những người như Vi Trang hay Âu Dương Quýnh thời Hậu Thục, các tác phẩm của họ về sau được Triệu Sủng Tộ tập hợp trong "Hoa Gian tập". Âu Dương Quýnh từ có phong cách rất dịu dàng uyển chuyển, nổi danh có "Nam Hương Tử".[tham 63]
Một trung tâm khác của từ là Nam Đường, với những người như Phùng Diên Tị, Trung Chủ Lý Cảnh, Hậu Chủ Lý Dục. Tác phẩm của Phùng Diên Tị có "Thải Tang Tử", hay "Yết Kim Môn", phong cách tinh tế kín đáo, có ảnh hưởng đến từ nhân Bắc Tống như Yến Thù hay Âu Dương Tu, để lại "Dương Xuân tập". Có thể lấy "Than Phá Hoán Kê Sa" làm đại biểu cho các tác phẩm của Lý Cảnh, nội dung sâu lắng, không có cảm giác diễm lệ hư ảo, tác phẩm của phụ tử Lý Cảnh được hậu nhân tập hợp lại thành "Nam Đường Nhị Chủ từ". Lý Dục là một từ nhân quan trọng thời Ngũ Đại Thập Quốc. Các tác phẩm thời kỳ đầu của ông cũng giống như "Đồng Hoa Gian phái", chủ yếu là mô tả cảnh sinh hoạt diễm lệ trong cung đình như "Ngọc Lâu Xuân", Bồ Tát Man". Tuy nhiên, sau khi mất nước và bị bắt, các tác phẩm từ của ông miêu tả tình cảnh của bản thân, hoặc than thở thân thế, hoặc luyến tiếc quá khứ, hình tượng tươi đẹp, ngôn ngữ sinh động, tả tình thương cảm rất sâu sắc và chân thành, đại biểu có "Ngu Mỹ Nhân", "Lang Thao Sa" (浪滔沙), "Ô Dạ Đề". Đây là một bước đột phá so với khuôn mẫu chuyên tả phong hoa tuyết nguyệt hay tình cảm nam nữ từ thời vãn Đường, trên cả phương diện nội dung và ý cảnh đều có sự sáng tạo mới mẻ, là lĩnh vực được phát triển khai thác trong các tác phẩm từ vào thời Bắc Tống.[tham 63]
Sử học
Sử học từ thời Đường đã rất phát triển, vẫn tiếp tục thịnh hành vào thời Ngũ Đại Thập Quốc. Trong các sử liệu được biên soạn vào thời Ngũ Đại Thập Quốc, có tiếng nhất là "Cựu Đường thư" tức "Đường thư" và "Đường hội yếu", có giá trị quan trọng trong việc mô tả sự kiện lịch sử, nhân vật, điển chế, hưng vong thịnh suy triều Đường. Đường thư là tư liệu tổng hợp phong phú, ngay từ thời Hậu Lương, Mạt Đế Chu Hữu Trinh đã hạ chiếu tập hợp các gia truyện, chương sớ công tư thời Đường; đến thời Hậu Đường Minh Tông lại đặt chức Tam Xuyên sư phóng đồ tịch sứ, sai đến khu vực Thành Đô để sưu tầm thực lục thời Đường, đồng thời ra lệnh bảo vệ các bia khắc. Cuối cùng, Hậu Tấn Cao Tổ vào năm Thiên Phúc thứ 6 (941) đã hạ lệnh biên soạn, đến năm Khai Vận thứ 2 (945) thì hoàn thành "Đường thư". Đường thư lần lượt do Trương Chiêu Viễn, Giả Vĩ, Triệu Hy và những người khác soạn, giám tu ban đầu là Triệu Hy và cuối cùng là Lưu Hú. Cựu Đường thư bảo tồn được nhiều sử liệu nguyên thủy về sự kiện nhân vật, giả đụ như "thảo Tùy Dạng Đế hịch văn" của Lý Mật, được các sử học giả hậu thế xem trọng. Tuy nhiên, do việc biên soạn diễn ra vội vàng, thiếu đi việc xử lý các tài liệu nguyên thủy, trước thời Đường Hiến Tông phần nhiều sao chép quốc sử, thực lục, phần sau thời Đường Mục Tông lại biên tập theo tạp thuyết, truyện ký, do vậy đến thời Tống lại xuất hiện Tân Đường thư.[tham 64]"Đường hội yếu" do Vương Phổ thời Hậu Chu biên soạn, chia ra từng loại theo sự tiến triển và biến thiên các hạng chế độ, điển chương và văn vật thời Đường, tái hiện phong mạo triều Đường, là tác phẩm chuyên biệt "hội yếu" số một trong lịch sử Trung Quốc.[tham 65] Bút ký lịch sử vào thời Ngũ Đại Thập Quốc rất phát triển, chủ yếu là tự thuật sự vật đời Đường. "Khai Nguyên Bảo Di Sự Ký" của Vương Nhân Dụ ghi lại dật sự triều dã thời Đường Huyền Tông, "Đường Chích Ngôn" của Vương Định Bảo tường thuật chế độ tiến cử người tài thời Đường, Lưu Sùng Viễn soạn "Kim Hoa Tử" ghi lại cố sự triều dã thời Đường mạt, "Bắc Mộng Tỏa Ngôn" của Tôn Quang Hiến ghi lại dật sự sĩ nhân thời Đường và Ngũ Đại.[tham 65]
Nghệ thuật
Nền hội họa thời Ngũ Đại Thập Quốc chủ yếu kế thừa hội họa triều Đường, đồng thời cũng có sự sáng tạo mới mẻ. Các nước Nam Đường, Tiền Thục, Hậu Thục, Ngô Việt có kinh tế cường thịnh, hoàng thất và sĩ nhân các nước này có đời sống giàu có, sản sinh ra họa viện cung đình, khiến nghệ thuật hội họa phát triển theo hướng ngắm nhìn thưởng thức, tập trung, trong đó cũng sản sinh ra rất nhiều gia tộc là đơn vị quần thể sáng tác.[tham 66] Năm 935, Hậu Thục thiết lập "Hàn lâm đồ họa viện", họa viện cung đình chính thức đầu tiên của Trung Quốc, sau đó Nam Đường cũng thiết lập đồ họa viện. Đồ họa viện tập hợp một nhóm họa gia trứ danh, cùng nhau thảo luận nghiên cứu, tạo nên nhiều thành tựu. Các chủ đề trong hội họa của họ như nhân vật, sơn thủy, chim hoa đều có sự phát triển nhất định, đặt biệt, sơn thủy họa và điểu hoa họa có ảnh hưởng lớn đến phong cách hội họa thời Tống.[tham 67]Do Trung Nguyên chiến loạn liên miên, vào thời kỳ Ngũ Đại Thập Quốc có rất nhiều họa gia di chuyển từ Trung Nguyên đến khu vực tây nam và đông nam, đồng thời ẩn cư ở vùng thâm sơn, khiến sơn thủy họa phát triển nhanh chóng, hoa điểu họa thì nổi lên.[tham 66] Thủy mặc sơn thủy họa vào thời Ngũ Đại đã tiến vào giai đoạn thành thục, họa gia hiểu rõ giá trị của sinh hoạt, nhận thấy điểm đặc sắc của hoàn cảnh tự nhiên, dùng các kỹ thuật không giống nhau để tái hiện, hình thành hai phái là Kinh Quan ở phương bắc và Đổng Cự ở phương nam. Với Sơn thủy họa ở phương bắc, sư đồ có danh tiếng nhất là Kinh Hạo và Quan Đồng thời Hậu Lương, Kinh Hạo đào tình lâm tuyền, ký thú đan thanh, người đời gọi là "Hồng Cốc Tử". Ông là bậc kỳ tài về việc vẽ tranh núi cao non thẳm, tác phẩm "Khuông Lư đồ" của ông được gọi là "toàn cảnh sơn thủy". Quan Đồng là bậc kỳ tài về vẽ thế sông núi, trong khung cảnh hùng hồn có thêm vẻ tan hoang trống trải của phương bắc, các tác phẩm có thể kể đến như "Quan sơn hành lữ đồ", "Thu sơn vãn thúy đồ".[tham 66] Sơn thủy họa phương nam có sư đồ nổi tiếng Đổng Nguyên, Cự Nhiên ở nước Nam Đường, họ đều tài giỏi trong việc vẽ tranh thủy mặc miêu tả cảnh sắc Giang Nam. Đổng Nguyên là bậc kỳ tài trong việc sử dụng "phi ma thuân", khéo dùng đạm mặc khinh lam để thoát khỏi thiên chân buồn tẻ của Giang Nam, có tiếng nhất là "Động thiên sơn đường", "Hàn lâm trọng đinh đồ". Cự Nhiên kế thừa trực tiếp họa pháp của Đổng Nguyên, các tác phẩm nổi tiếng có thể kể đến như "Vạn hác tùng phong đồ", "Tằng nham tùng thụ đồ".[tham 66]
Về điểu hoa họa thì có tiếng nhất là như Từ Hy nước Nam Đường hay Hoàng Thuyên nước Hậu Thục. Hoàng Thuyên giỏi vẽ các loại chim quý cỏ lạ trong cung đình, Từ Hy giỏi vẽ chim và hoa trên mặt nước sông hồ, hai người được gọi là "Hoàng-Từ", đương thời có ngạn ngữ "Hoàng gia phú quý, Từ Hi dã dật", các tác phẩm nổi tiếng có thể kể đến như "Tả sinh trân cầm đồ", "Tuyết trúc đồ".[tham 66]
Nhân vật họa thời Ngũ Đại Thập Quốc kế thừa phong cách hội họa nhân vật cung đình của Chu Phưởng và Trương Huyên thời Đường, nổi tiếng có Cố Hoành Trung, Chu Văn Củ và Thạch Khác]]. Hàn Hi Tái dạ yến đồ do Cố Toàn Trung vẽ theo lối tế nhị, mang sắc thái hoa lệ tươi vui, là tài sản nghệ thuật quý báu truyền thế. Chu Văn Củ thể hiện tình một cách sinh động khi khắc họa về nhân vật, là bậc thầy về trình độ miêu tả hình thể và tư thế, tác phẩm có "Tô lý biệt ý" và "An lạc cung nữ đồ".[tham 66] Thạch Khác ở Hậu Thục giỏi về nhân vật quỷ thần, hình tượng phần nhiều thể hiện dáng xấu xí kỳ dị, tác phẩm có "Nhị Tổ điều tâm đồ". Thời Ngũ Đại, đạo sĩ Trương Tố Thanh giỏi về Đạo họa.[tham 67]
Tôn giáo
Hậu kỳ triều Đường và thời Ngũ Đại có chính cục hỗn loạn, chiến tranh không dứt, khiến cho Nho học suy thoái, rất nhiều sĩ nhân và bách tính nối tiếp nhau tìm sự an ủi trong tôn giáo. Chính sách tôn giáo từ thời trung Đường vẫn được tiếp nối, tức xu hướng sùng Đạo biếm Phật (xem trọng Đạo giáo và đè nén Phật giáo), song Phật giáo ở phương nam dần phát triển sâu rộng. Các triều Ngũ Đại thi hành chính sách hạn chế việc ban thưởng cho các danh tăng và số lượng tăng nhân nhằm hạn chế Phật giáo; song các nước phương nam tôn sùng Phật giáo, không tiến hành cưỡng chế hạn chế, song lấy việc Hán hóa Thiền tông làm chủ đạo. Đạo giáo chịu hạn chế tương đối ít vào thời Ngũ Đại Thập Quốc, rất nhiều hoàng đế Ngũ Đại tôn sùng Đạo giáo, khiến cho Đạo giáo tương đối hưng thịnh. Tuy nhiên, trong dân gian thì ảnh hưởng của Phật giáo vẫn vượt trên Đạo giáo.[tham 68][tham 69]Sau Hội Xương pháp nan (840-846), chỉ có Thiền Tông Nam tông dần hưng thịnh, đồng thời từ hậu kỳ triều Đường lại bắt đầu phân thành 5 tông phái. Thiền tông sau Nam Đốn Bắc Tiệm phân thành Bắc tông Thần Tú và Nam tông Huệ Năng. Huệ Năng chủ trương "đốn ngộ", "kiến tính thành Phật", sau được lưu truyền rộng rãi ở Nam Thiên Lĩnh Nam. Đệ tử của Huệ Năng là Thần Hội về Lạc Dương ở phương bắc, trong "Minh Định Nam Bắc Tổng Thị Phi Đại hội" lại đánh bại Bắc tông, khiến Thiền tông Nam tông trở thành chủ lưu của Thiền tông Trung Hoa. Tuy nhiên, Thiền tông Nam tông sau phân thành Hà Trạch tông Thần Hội, Thanh Nguyên tông Hành Tư và Nam Nhạc tông Hoài Thượng. Nam Nhạc tông đến thời Bách Trượng Hoài Hải, các đệ tử là Linh Hựu và Huệ Tịch sáng kiến Quy Ngưỡng tông, trong thời Ngũ Đại rất phát triển, song sang thời Bắc Tống thì mất. Đệ tử của Bách Trượng Hoài Hải là Hi Vận và Nghĩa Huyền sáng kiến Lâm Tế tông, sang thời Bắc Tống thì trở thành lưu phái Thiền tông phát triển nhất. Văn Yển sáng lập Vân Môn tông, tư tưởng của ông có thể khái quát bằng ba câu: "Hàm cái càn khôn câu, tiệt đoạn chúng lưu câu, tùy ba trục lãng câu". Văn Ích khai sáng Pháp Nhãn tông, nhận định rằng "tam giới duy tâm, vạn vật duy thức", do vậy chủ trương "bất trước tha cầu, tận do tâm tạo". Thanh Nguyên tông đến thời Tào Sơn Bản Tịch sáng kiến Tào Động tông. Phật giáo thời Đường mạt và Ngũ Đại hình thành cục diện "ngũ tông thất phái", tức Quy Ngưỡng tông, Lâm Tế tông, Vân Môn tông, Pháp Nhãn tông, Tào Động tông; cộng thêm môn hạ của Lâm Tế phân xuất thành hai phái Hoàng Long và Dương Kỳ. Tuy nhiên, Thiền tông đến hậu kỳ quá độ khai triển "đốn ngộ", thay thế chủ nghĩa hình thức và thần bí, thậm chí xuất hiện việc "ha Phật mạ Tổ". Khiến Phật giáo đi theo hướng thế tục hóa, giải thể hóa chế độ.[tham 68][tham 69]
Các tông phái khác sau Hội Xương pháp nan phần lớn đều suy vong, điển tịch của Thiên Thai tông, Duy Thức tông bị mất. Thời Ngũ Đại Thập Quốc, Hoàng đế nước Ngô đón mời Đế Quan (諦觀) người Cao Ly đem theo điển tịch Thiên Thai tông, Đế Quan soạn "Tứ Giáo Nghi" (四教儀), khiến Thiên Thai phục hưng. Tịnh độ tông vốn chỉ truyền bá trong dân gian thì nay đồng thời cũng truyền hướng vào tầng lớp thượng lưu, đến các kẻ sĩ, đến hậu kỳ thì dung hợp với Thiền tông, từng có trào lưu "Thiền Tịnh nhất trí". Vào thời Hậu Chu, lại phát sinh phong trào bài Phật đại quy mô, Hậu Chu Thế Tông đối xử khinh suất với các sư tăng, bắt nộp thuế, thực hiện binh dịch, đãi bỏ tăng ni, gọi chung là "Tam Vũ Nhất Tông". Do vậy, Phật giáo ở phương bắc ngày càng suy lạc, song Phật giáo ở phương nam vẫn tiếp tục phát triển.[tham 68][tham 69]
Đạo giáo vào cuối thời Đường và thời Ngũ Đại Thập Quốc rất phát triển, Ngoại Đan đạo dần hướng vào Nội Đan đạo. Thời Ngũ Đại Thập Quốc, có không ít quân vương sùng Đạo giáo, như Hậu Chu Thế Tông tiến hành "ức Phật dương Đạo". Do vậy, Đạo giáo vào thời Ngũ Đại được các quân vương trợ giúp, tình trạng thịnh hành tiếp tục duy trì đến triều Tống, trở thành cơ sở cho thời kỳ đỉnh cao của Đạo giáo vào thời Tống. Các đạo sĩ có danh tiếng vào thời Ngũ Đại Thập Quốc có thể kể đến Đỗ Quang Đình, Đàm Tiễu, Bành Hiểu, Đàm Tử Hà, Lưu Hải. Đỗ Quang Đình chủ trương "dĩ Đạo vi bổn", "nạp Nho, Phật nhập Đạo", với các tác phẩm nổi tiếng như "Đạo đức chân kinh quảng thắng nghĩa", "Thường thanh tĩnh kinh trụ". Ông chủ trương người tu đạo đều cần "dựa nguyên khí mà thành", phương pháp của ông là "an thần khứ dục, bảo thủ tam nguyên". Ông kế thừa tác pháp của đạo sĩ Ngô Quân thời Đường Huyền Tông, nhận định tam giáo nên dung hợp không khác biệt. Đạo Thanh Tịnh của Đỗ Quang Đình có thể nói là một đại biểu điển hình cho việc Đạo giáo dung hợp Nho giáo và Phật giáo. Ngoài ra, ông còn giúp hai phái Mao Sơn tông và Thiên Sư đạo tiến hành nghi thức trai tiếu thống nhất, đồng thời tăng thêm quy phạm và chế độ hóa, được Đạo giáo hậu thế sử dụng rộng rãi.[tham 68][tham 69] Đàm Tiễu từ nhỏ đã thích Hoàng Lão đạo, Chư Tử và Liệt Tiên truyện, quyết chí tu đạo học tiên. Ông là bậc anh tài về thuật tịch cốc dưỡng khí, tác phẩm có "Hóa thư", "Đàm Tử hóa thư", cho rằng vạn sự vạn vật đều có nguồn gốc từ "hư", "hư hóa thần, thần hóa khí, khí hóa hình", sau lại trở về hư, biến đổi vô cùng. Tác phẩm của Bành Hiểu có "Chu dịch tham đồng khiết phương thông chân nghĩa"; cả hai người đều có sức ảnh hưởng tương đối.[tham 68][tham 69]
Các tôn giáo khác như Mani giáo, Cảnh giáo, hay Hỏa giáo cũng vì Hội Xương pháp nan mà phần nhiều suy thoái, trong đó Mai giáo chuyển hướng sang hoạt động ngầm. Sau khi Mani giáo trở thành một tôn giáo bí mật trong dân gian, nhiều khi trở thành cơ sở trong việc tập hợp lực lượng của các cuộc khởi nghĩa nông dân. Ví dụ như vào năm 920, tức thời Hậu Lương, Vô Ất cùng Đổng Ất và những người khác tại Trần châu đã lợi dụng Mani giáo để khởi sự. Hồi giáo không bị ngăn cấm sau Hội Xương pháp nan, tín đồ chủ yếu là ngoại kiều- hậu duệ của thương nhân Ả Rập, Ba Tư sinh sống ở ven biển, phần lớn họ đều tiếp thu tín ngưỡng của bậc cha chú. Các dân tộc ở vùng Tây Vực cũng vì Hồi giáo truyền bá về phía đông mà từ bỏ Mani giáo, Cảnh giáo, Hỏa giáo, Shaman giáo truyền thống, trở thành người Hồi giáo.[tham 68][tham 69]
Khoa học kỹ thuật
Do chiến loạn và thiên tai, khoa học kỹ thuật thời Ngũ Đại Thập Quốc không phát triển như dưới triều Đường, song khoa học kỹ thuật phương nam phát triển tương đối so với phương bắc. Tuy nhiên, có thể nói trong việc làm đồ sứ, khắc mộc bản, nông nghiệp, thủy lợi, và hỏa khí cũng có sự phát triển ở tầm địa phương.[tham 70][tham 59] Sách lịch triều đình do tình trạng phiên trấn cát cứ nên không thể đến được toàn quốc, nhân dân do vậy sử dụng sách lịch dân gian. Trong đó, "Phù Thiên lịch" do Tào Sĩ thời Đường biên lưu hành vào hậu kỳ triều Đường, được sử dụng trong dân gian thời Ngũ Đại và Bắc Tống. Phù thiên lịch lấy năm Hiển Khánh thứ 5 (660) làm lịch nguyên, lấy vũ thủy làm khí thủ, lấy một vạn mẫu thức thiên văn cơ bản làm căn cứ, do đó giúp giảm thiểu rất lớn công việc tính toán. Do đây không phải là sách lịch được ban bố chính thức nên bị biếm xưng là "tiểu lịch".[tham 59]Trên phương diện y học, Ngũ Đại xuất hiện y quan quan phương, Hậu Đường vào những năm Thanh Thái (934-936) lập thêm chức "Hàn lâm y quan". Bắc Tống sau đổi "Thái y thự" thành "Thái y cục", đồng thời thiết lập "Hàm lâm y quan viện". Hàn Bảo Thăng ở Hậu Thục là bản thảo học gia, ông quan sát tỉ mỉ các dược phẩm, hiểu biết sâu về dược tính, uống thuốc của ông liền có tác dụng kỳ diệu. Được sự hỗ trợ của hoàng đế Mạnh Sưởng, ông dựa theo "Tân tu bảo thảo" thời Đường, biên soạn lại thành "Thục trọng quảng anh công bản thảo", sử gọi là "Thục bản thảo", song đến nay không còn.[tham 70][tham 59]
Do lũ lụt gia tăng vào thời Ngũ Đại, quy mô và số lần trị hà đều khá nhiều so với thời kỳ trước. Cộng thêm việc các nước phương nam tận lực phát triển kinh tế, một số công trình đê kè ven biển và dòng sông cũng được tích cực xây dựng. Thời Ngũ Đại Thập Quốc cũng xuất hiện "diêu đê" (xây khá xa dòng chảy để phòng đại hồng thủy). Năm 924, Hậu Lương cho xây dựng đê sông Toan Tảo, năm sau Phù Tập tu sửa thành công. Thời Ngũ Đại, người ta còn sử dụng "trừu công" để xây dựng các kiến trúc hộ ngạn, đổ khẩu, hộ đê; chủ yếu là dùng củi, tre gỗ, hay cỏ để bó đất đá vào, sau đó thì liên kết với nhau, có tác dụng đáng kể trong việc kháng thủy; cuối cùng được sử dụng rộng rãi vào thời Tống. Thời Ngũ Đại Thập Quốc, các nước Ngô, Ngô Việt hay Nam Đường ở Giang Nam trùng tu đê sông, tiêu nước hồ, tiếp tục phát triển hệ thống đắp đê lấn biển từ thời Đường, đồng thời xây đắp đê đá Tiền Đường Giang để ngăn hải triều xâm nhập.[tham 70][tham 59]
Thời Ngũ Đại Thập Quốc, Ngô và Nam Đường thường dùng thuốc súng, mãnh hỏa du trong chiến tranh. Năm 904, quân của Dương Hành Mật khi vây thành Hồng châu (nay thuộc Nam Xương, Giang Tây), bộ tướng Trịnh Phan lệnh cho bộ thuộc "phát cơ phi hỏa, thiêu Long Sa môn, suất tráng sĩ đột hỏa tiên đăng nhập thành, tiêu chước bị thể".[tham 71] Năm 975, đại quân Bắc Tống nam chinh Nam Đường, tướng lĩnh Nam Đường Chu Toàn Uân dùng mãnh hỏa du phóng hỏa tiến công quân Tống, song sau đó vì hướng gió thay đổi, ngọn lửa quay lại đốt cháy quân Nam Đường.[tham 72]
Xem thêm
Chú thích
- ^ Hiện tượng này là do sau loạn An Sử, để an phủ cựu tướng lĩnh An-Sử chiếm giữ khu vực Hà Bắc và Quan Đông, triều đình sách phong họ làm tiết độ sứ tại ngay vùng lãnh địa của họ, tức là phiên trấn. Ngoài việc nắm giữ binh quyền, tiết độ sứ còn có quyền hành chính và tài chính ở địa phương, tự tiến hành bổ nhiệm người kế thừa, triều đình Đường chỉ có thể truy nhận sau đó, các địa phương nghiễm nhiên trở thành các vương quốc. Các vùng như Hà Bắc, Sơn Đông, Hoài Tây có rất nhiều ngoại tộc đến định cư, dân chúng bản địa sùng thượng văn hóa Hồ tộc, hỉ võ yếm văn, tôn An Lộc Sơn, Sử Tư Minh là nhị thánh, gần như trở thành dị vực ngoại quốc. Trong số các phiên trấn, Hà Bắc tam trấn là mạnh nhất, gồm Ngụy Bác tiết độ sứ, Lô Long tiết độ sứ, Thành Đức tiết độ sứ; các phiên trấn mạnh khác có thể kể đến như Truy Thanh tiết độ sứ, Hoài Tây tiết độ sứ[tham 7]。
- ^ Hậu kỳ loạn Hoàng Sào, quân Hoàng Sào về phía đông tiến công Trần châu (nay thuộc Chu Khẩu, Hà Nam)- lãnh địa của Chu Toàn Trung, đương thời nhờ quân Sa Đà của Lý Khắc Dụng cứu viện phá địch. Sau đó, Chu Toàn Trung khoản đãi, song do Lý Khắc Dụng khi dự yến lại bất kính với Chu Toàn Trung, khiến Chu Toàn Trung đến đêm suất quân phóng hỏa tập kích Lý Khắc Dụng. Lý Khắc Dụng trở về Hà Đông quân- trị sở nay thuộc Thái Nguyên, hai bên từ đó bất hòa[tham 10]。
- ^ Yên Vân thập lục châu có phạm vi bao gồm vùng đất Lô Long quân và phía bắc Nhạn Môn quan. Thập lục châu gồm có U châu (幽州, nay là Bắc Kinh), Kế châu (薊州, nay thuộc Kế, Thiên Tân), Doanh châu (瀛州, nay thuộc Hà Giản, Hà Bắc), Mạc châu (莫州, nay thuộc Nhâm Khâu, Hà Bắc), Trác châu (涿州, nay thuộc Trác Châu, Hà Bắc), Đàn châu (檀州, nay thuộc Mật Vân, Bắc Kinh), Thuận châu (順州, nay thuộc Thuận Nghĩa, Bắc Kinh), Tân châu (新州, nay thuộc Trác Lộc, Hà Bắc), Quy châu (媯州, nguyên thuộc Hoài Lai, Bắc Kinh; nay là khố khu hồ chứa Quan Thính), Nho châu (儒州, nay thuộc Diên Khánh, Bắc Kinh)、(武州, nay thuộc Tuyên Hóa, Hà Bắc), Uất châu (蔚州, nay thuộc Uất, Hà Bắc), Vân châu (雲州, nay thuộc Đại Đồng, Sơn Tây), Ứng châu (應州, nay thuộc Ứng, Sơn Tây), Hoàn châu (寰州, nay thuộc trấn Đông Mã Âp, Sóc Châu, Sơn Tây), Sóc châu (朔州, nay thuộc Sóc Châu, Sơn Tây)[tham 18]。
- ^ Quân chủ khai quốc Kinh Nam Cao Quý Hưng có chức quan là Kinh Nam tiết độ sứ, nên chính quyền do ông thành lập gọi là Kinh Nam. Tuy nhiên, Cao Quý Hưng được Hậu Đường phong làm Nam Bình vương, cho nên chính quyền của ông cũng gọi là "Nam Bình". Sau khi qua đời, Cao Quý Hưng được Hậu Đường truy phong là Sở vương, nên chính quyền này còn gọi là "Bắc Sở"[tham 23][tham 24]。
- ^ Chín họ bao gồm họ Chu của Hậu Lương, dòng họ Lý Khắc Dụng của Hậu Đường, dòng họ Lý Tự Nguyên của Hậu Đường, dòng họ Lý Tòng Kha của Hậu Đường, họ Thạch của Hậu Tấn, họ Da Luật của Liêu, họ Lưu của Hậu Hán, họ Quách của Hậu Chu, họ Sài của Hậu Chu. 15 quân chủ gồm những quân vương cai trị khu vực Trung Nguyên: Hậu Lương 3 vua, Hậu Đường 4 vua, Hậu Tấn 2 vua, Liêu 1 vua, Hậu Hán 2 vua, Hậu Chu 3 vua, tổng cộng có 15 vị[tham 1]。
- ^ Triều Đường gọi đồn điền là "doanh điền", doanh điền do binh sĩ canh tác, thoạt đầu áp dụng ở bộ phận đóng tại biên cương. Sau loạn An Sử, do số hộ suy giảm, có nhiều ruộng bỏ không, phiên trân các nơi cường thịnh, cần quân đội trú thủ phòng ngự, điều này khiến doanh điền phát triển rộng khắp các nơi trong nước. Sang thời Ngũ Đại Thập Quốc, doanh điền dần bị tư điền hóa, đồng thời lại cưỡng bách nông dân sung doanh điền hộ. Điều này khiến cho quốc gia thu thuế giảm thiểu, thu nhập từ doanh điền thường bị quan viên biển thủ[tham 5]。
Tham khảo
- ^ a ă â b c d đ e ê g h i k l m n o ô ơ 《隋唐五代史:世界帝國‧開明開放》〈第七章 中晚唐政治與五代十國〉. tr 219-238.
- ^ a ă â b c d đ e 五代十国官制:枢密使掌握实权
- ^ a ă â b c 《中國文明史 隋唐五代史》〈第三章 軍事制度的重大變化與戰爭藝術的發展〉. tr 183-253.
- ^ a ă â b c 《隋唐五代史:世界帝國‧開明開放》〈第十章 隋唐五代的周邊民族〉. tr 315-358.
- ^ a ă â b c d đ e ê g h i 《中國古代經濟簡史》第五章 〈封建社會唐(後期)宋遼金元的經濟〉. 復旦大學. 1982年: tr 119-152.
- ^ a ă 《隋唐五代史:世界帝國‧開明開放》〈第九章 隋唐時代的文化成就〉. tr 273-310.
- ^ 竺沙雅章(1998年):《征服王朝的時代》〈第一章 走向滅亡的唐帝國〉: tr 11-13.
- ^ Cựu Đường thư, quyển 200, liệt truyện 150: Tần Tông Quyền truyện: 「賊首(指秦宗權)皆慓銳慘毒,所至屠殘人物,燔燒郡邑。西至關內,東極青、齊,南出江淮,北至衛滑,魚爛鳥散,人煙斷絕,荊榛蔽野。賊既乏食,啖人為 儲,軍士四齣,則鹽屍而從。關東郡邑,多被攻陷。」
- ^ a ă â 傅樂成(1993年):《中國通史•隋唐五代史》第十三章〈唐帝國的滅亡〉,tr 111-117.
- ^ "Cựu Ngũ Đại sử• Vũ Hoàng kỉ thượng":「(唐中和四年,884年)是月,班师过汴,汴帅迎劳于封禅寺,请武皇休于府第,乃以从官三百人及监军使陈景思馆于上源驿。是夜,张乐陈 宴席,汴帅自佐飨,出珍币侑劝。武皇酒酣,戏诸侍妓,与汴帅握手,叙破贼事以为乐。汴帅素忌武皇,乃与其将杨彦洪密谋窃发,彦洪于巷陌连车树栅,以扼奔窜 之路。时武皇之从官皆醉,俄而伏兵窜发,来攻传舍。武皇方大醉,噪声动地,从官十余人捍贼。侍人郭景铢灭烛扶武皇,以茵幕裹之,匿于床下,以水洒面,徐 曰:“汴帅谋害司空!”武皇方张目而起,引弓抗贼。有顷,烟火四合,复大雨震电,武皇得从者薛铁山、贺回鹘等数人而去。雨水如澍,不辨人物,随电光登尉氏 门,缒城而出,得还本营。监军陈景思、大将史敬思并遇害。」
- ^ a ă â b 傅樂成(1993年):《中國通史•隋唐五代史》第十四章〈五代與十國(上)〉,tr 119-122.
- ^ 竺沙雅章(1998年):《征服王朝的時代》〈第一章 走向滅亡的唐帝國〉: tr 33.
- ^ 黎崱《安南志略•五代時僭竊》,279-281.
- ^ 《資治通鑑‧後梁紀二》:「吳越王鏐表『宦者周延誥等二十五人,唐末避禍至此,非劉、韓之黨,乞原之。」上曰:「此屬吾知其無罪,但今革弊之初,不欲置之禁掖,可且留於彼,諭以此意。』 」
- ^ 《舊五代史‧卷第十八》:「時振自以鹹通、乾符中嚐應進士舉,累上不第,尤憤憤,乃謂太祖曰:『此輩自謂清流,宜投於黃河,永為濁流。』太祖笑而從之。」
- ^ a ă â 竺沙雅章(1998年):《征服王朝的時代》〈第二章 分裂的時代〉: tr 39-43.
- ^ 《舊五代史‧卷七‧太祖本紀七》:「帝長子郴王友裕早卒。次假子友文,帝特愛之,常留守東都,兼建昌宮使。次郢王友珪,其母亳州營倡也,為左右控鶴都指揮使。次均王友貞,為東都馬步都指揮使。帝雖未以友文為太子,意常屬之。」
- ^ a ă â b c d 傅樂成(1993年):《中國通史•隋唐五代史》第十四章〈五代與十國(上)〉,tr 122-124.
- ^ "Tân Ngũ Đại sử-Đường gia nhân truyện đệ nhị":明年三月,客星犯天库,有星流于天棓。占星者言:“御前当有急兵,宜散积聚以禳之。”宰相请出库物以给军,庄宗许之,后不肯,曰:“吾夫妇得天 下,虽因武功,盖亦有天命。命既在天,人如我何!”宰相论于延英,后于屏间耳属之,因取妆奁及皇幼子满喜置帝前曰:“诸侯所贡,给赐已尽,宫中所有惟此 耳,请鬻以给军!”宰相惶恐而退。及赵在礼作乱,出兵讨魏,始出物以赍军,军士负而诟曰:“吾妻子已饥死,得此何为!”
- ^ "Tân Ngũ Đại sử-Đường gia nhân truyện đệ nhị":庄宗东幸汴州,从驾兵二万五千,及至万胜,不得进而还,军士离散,所亡太半。至罂子谷,道路隘狭,庄宗见从官执兵仗者,皆以好言劳之曰:“适报 魏王平蜀,得蜀金银五十万,当悉给尔等。”对曰:“陛下与之太晚,得者亦不感恩。”庄宗泣下,因顾内库使张容哥索袍带以赐之,容哥对曰:“尽矣。”军士叱 容哥曰:“致吾君至此,皆由尔辈!”因抽刀逐之,左右救之而免。容哥曰:“皇后惜物,不以给军,而归罪于我。事若不测,吾身万段矣!”乃投水而死。
- ^ 《舊 五代史‧晉書‧高祖本紀一》:「(石敬瑭言)又今年千春節,(石敬瑭妻)公主入覲,當辭時,(後唐末帝)謂公主曰:『爾歸心甚急,欲與石郎反耶?』此疑我 之狀固且明矣。今天子用後族,委邪臣,沈湎荒惑,萬機停壅,失刑失賞,不亡何待!吾自應順中少主出奔之日,睹人情大去,不能扶危持顛,憤憤於方寸者三年 矣。今我無異誌,朝廷自啟禍機,不可安然死於道路。」
- ^ 《新 五代史•吴世家第一》:「初,溫、顥之弒渥也,約分其地以臣於梁,及渥死,顥欲背約自立。溫患之,問其客嚴可求,可求曰:「顥雖剛愎,而暗於成事,此易為 也。」......及出教宣之,乃渥母史氏教,言楊氏創業艱難,而嗣王不幸,隆演以次當立,告諸將以無負楊氏而善事之。辭旨激切,聞者感動。顥氣色皆沮, 卒無能為,隆演乃得立。......顥由此與溫有隙,諷隆演出溫潤州。......行軍副使李承嗣與張顥善,覺可求有附溫意,諷顥使客夜刺殺之,客刺可求 不能中。明日,可求詣溫,謀先殺顥,陰遣鐘章選壯士三十人,就衙堂斬顥,因以弒渥之罪歸之。溫由是專政,隆演備位而已。」
- ^ a ă â b c d đ e ê 傅樂成(1993年):《中國通史•隋唐五代史》第十四章〈五代與十國(上)〉,tr 120-121.
- ^ a ă â b c d đ e ê 傅樂成(1993年):《中國通史•隋唐五代史》第十五章〈五代與十國(下)〉,tr 128-131.
- ^ 《新五代史•南唐世家第二》:「既而徐知訓為朱瑾所殺,溫居金陵,未及聞。(即徐知诰)居潤州,近廣陵,得先聞,即日以州兵渡江定亂,遂得政。昪(即徐知诰)事徐溫甚孝謹,溫嘗罵其諸子不如昪,諸子頗不能容」
- ^ 《新 五代史•南唐世家第二》:「知訓之用事也,嘗淩弱楊氏而驕侮諸將,遂以見殺。及昪(即徐知诰)秉政,欲收人心,乃寬刑法、推恩信,起延賓亭以待四方之士, 引宋齊丘、駱知祥、王令謀等為謀客,士有羈旅於吳者,皆齒用之。嘗陰使人察視民間有婚喪匱乏者,往往賙給之。盛暑未嘗張蓋、操扇,左右進蓋,必卻之,曰: 『士眾尚多暴露,我何用此?』以故溫雖遙秉大政,而吳人頗已歸。」
- ^ 《资治通鉴》的说法是937年李昪就已经建号为「唐」,但"Cựu Ngũ Đại sử》、《新五代史》等史书都主张徐知誥先建「齐」,后改为「唐」。
- ^ 《新 五代史•南汉世家第五》:隐复好贤士。是时,天下已乱,中朝士人以岭外最远,可以避地,多游焉。唐世名臣谪死南方者往往有子孙,或当时仕宦遭乱不得还者, 皆客岭表。王定保、倪曙、刘浚、李衡、周杰、杨洞潜、赵光裔之徒,隐皆招礼之。定保容管巡官,曙唐太学博士,浚崇望之子,以避乱往;衡德裕之孙,唐右补 阙,以奉使往。皆辟置幕府,待以宾客。
- ^ a ă 傅樂成(1993年):《中國通史•隋唐五代史》第十四章〈五代與十國(上)〉,tr 124-125.
- ^ 《舊 五代史‧晉書十四‧列傳三‧景延廣》:「朝廷遣使告哀契丹,無表致書,去臣稱孫。契丹怒,遣使來讓,延廣乃奏令契丹回國使喬榮《契丹國志》:先是,河陽牙 將喬榮從趙延壽入遼,遼帝以為回國使,置邸大樑。至是,景延廣說帝囚榮於獄,凡遼國販易在晉境者,皆殺之,奪其貨。大臣皆言遼國不可負,乃釋榮,慰賜而遣 之。告契丹曰:『先帝則北朝所立,今上則中國自策,為鄰為孫則可,無臣之理。』且言:『晉朝有十萬口橫磨劍,翁若要戰則早來,他日不禁孫子,則取笑天下, 當成後悔矣。』由是與契丹立敵,干戈日尋。」
- ^ 《辽史‧卷四‧太宗本纪下》记载:大同元年“二月丁巳朔,建国号大辽,大赦,改元大同。升镇州为中京。”
- ^ "Liêu sử-Thái Tông kỉ hạ":「非汴州炎热,水土难居,止得一年,太平可指掌而致。」
- ^ a ă 傅樂成(1993年):《中國通史•隋唐五代史》第十五章〈五代與十國(下)〉,tr 127-128.
- ^ a ă 竺沙雅章(1998年):《征服王朝的時代》〈第二章 分裂的時代〉: tr 49-52.
- ^ 《资治通鉴•后周世宗显德二年》:「令兩京及諸州每歲造僧帳,有死亡、歸俗,皆隨時開落。是歲,天下寺院存者二千六百九十四,廢者三萬三百三十六,見僧四萬二千四百四十四,尼一萬八千七百五十六。」《
- ^ a ă â 傅樂成(1993年):《中國通史•隋唐五代史》第十五章〈五代與十國(下)〉,tr 128-134.
- ^ a ă â 竺沙雅章(1998年):《征服王朝的時代》〈第一章 走向滅亡的唐帝國〉: tr 33-38.
- ^ 《五 代會要‧刺史》載:後唐同光二年 三月,中書門下奏:“刺史、縣令,有政績優異,爲眾所知;或招複戶口,能增加賦税者;或辨雪冤獄,能全人命者;或去害物之積弊,立利世之新規,有益時政, 爲眾所推者,即仰本處逐條分明聞奏,當議獎擢。或在任貪猥,誅戮生靈,公事不治,爲政怠惰,亦加懲罰。其州縣官任滿三考,即具關申送吏部,格式候敕除銓 注,其本道不得差攝官替正授者。”從之。
- ^ a ă â 傅樂成(1993年):《中國通史•隋唐五代史》第十六章〈唐代的制度(上)〉,tr 140-142.
- ^ 《中國古代經濟簡史》第五章 〈封建社會唐(後期)宋遼金元的經濟〉. 復旦大學. 1982年: tr 119-152.
- ^ 《西夏王國與東方金字塔》〈第二章 党項羌歷史的童年〉 tr 55-79.
- ^ 《新五代史•四夷附录•第三》:“于阗,国地、君世、物俗见于唐。”
- ^ 《新五代史•晋本纪•第八》:“庚子,封李圣天为大宝于阗国王。”
- ^ 心向中原的于阗国王李圣天:西部边陲的守护者於2012 年2 月7 日查閱
- ^ a ă Tư trị thông giám, quyển 277
- ^ Tư trị thông giám, quyển 281
- ^ a ă â b c d đ e 《隋唐五代史:世界帝國‧開明開放》〈第八章 隋唐時代的經濟發展〉. tr 239-271.
- ^ 《中國古代經濟簡史》第五章 〈封建社會唐(後期)宋遼金元的經濟〉. 復旦大學. 1982年: tr 119-152.
- ^ 《新五代史•南漢世家第五》:隱復好賢士。是時,天下已亂,中朝士人以嶺外最遠,可以避地,多游焉。唐世名臣謫死南方者往往有子孫,或當時仕宦遭亂不得還者,皆客嶺表。
- ^ 《中國古代經濟簡史》第五章 〈封建社會唐(後期)宋遼金元的經濟〉. 復旦大學. 1982年: tr 119-152.
- ^ 傅樂成(1993年):《中國通史•隋唐五代史》第十五章〈五代與十國(下)〉,tr 134.
- ^ 《册府元龟‧卷四百八十六‧邦计部‧户籍迁徙》:「周世宗显德五年十月命左散骑常侍艾颖等三十四人使于诸州简定民租明年春使回总计简到户二百三十万九千八百一十二定垦田一百八万五千八百三十四顷淮南郡县不在此数是月。」
- ^ 《資治通鑑‧卷第二百九十一‧後周紀二》:周太祖廣順二年「敕:『悉罷戶部營田務,以其民隸州縣;其田廬、牛、農器,並賜見佃者為永業,悉除租牛課。』是歲,戶部增三萬餘戶。民既得為永業,始敢葺屋植木,獲利數倍。」
- ^ 《新唐书•权德舆传》:“江淮田一善熟,则旁资数道,故天下大计,仰于东南。”
- ^ 《筑塘疏》:“目击平原沃野,尽成江水汪洋,虽值干戈扰攘之后,即兴筑塘修堤之举。”
- ^ 《宋史•河渠志》记载“钱氏有国,始置撩湖兵七千人,专一开浚。”
- ^ a ă â b 《中國文明史 隋唐五代》〈第五章 封建社會盛世經濟的繁榮〉: tr 373.
- ^ 藝術與建築索引典—五代 於2011 年4 月1 日查閱
- ^ a ă â b c d đ 张奎元. 隋唐五代科技史. 人民出版社. 1994.
- ^ 《舊五代史‧卷三十三‧莊宗紀七》:「初,帝令往市蜀中珍玩,蜀法嚴峻,不許奇貨東出,其許市者謂之「入草物」。嚴不獲珍貨,歸而奏之,帝大怒曰:「物歸中夏者命之曰'入草',王衍寧免為入草之人耶!」」
- ^ a ă â 《中國文明史 隋唐五代史》〈第十二章 學術思想的多元與匯合趨勢的出現〉. tr 855-914.
- ^ 《宋史‧列傳第二百一十六‧隱逸上》:「巢、由雖不見於經,其可誣哉。五季之亂,避世宜多。」
- ^ a ă â 《中國文明史 隋唐五代史》〈第十四章 輝煌的詩歌和文體的變革〉. tr 1031-1106.
- ^ 《新唐書‧附錄:進唐書表》:「而紀次無法,詳略失中,文采不明,事實零落,蓋又百有五十年,然後得以發揮幽沬。」
- ^ a ă 《中國文明史 隋唐五代史》〈第十一章 史學發展的新轉折〉. tr 795-854.
- ^ a ă â b c d 隋唐五代藝術 於2012 年2 月19日查閱
- ^ a ă 《中國文明史 隋唐五代史》〈第十七章 古代美術的盛世〉. tr 134-1456.
- ^ a ă â b c d 《中國文明史 隋唐五代史》〈第十三章 發達的多元宗教〉. tr 915-130.
- ^ a ă â b c d 《中国隋唐五代宗教史》. 梁鸿飞著. 人民出版社.
- ^ a ă â 《中國文明史 隋唐五代史》〈第八章 自然科學和醫學的豐碩成果〉. tr 555-676.
- ^ 路振:《九國志‧ 鄭璠傳》
- ^ 《續 資治通鑒長編‧卷八》:「朱全贇自湖口以眾援金陵,號十五萬,縛木為筏,長百餘丈,戰艦大者容千人,將斷採石浮梁,會江水涸,戰艦不能驟進。王明屯獨樹 口,遣其子馳騎入奏,帝密遣使令明於洲浦間多立長木若帆檣之狀以疑之。己未,全贇獨乘大航,高十餘重,上建大將旗幡。至皖口,行營步軍都指揮使劉遇揮兵急 攻之,全贇以火油縱燒,遇軍不能支。俄而北風,反焰自焚,其眾不戰自潰,全斌惶駭,赴火死。擒其戰棹都虞侯王暉等,獲兵仗數萬。金陵獨恃此援,由是孤城愈 危蹙矣。」
- Kurz, Johannes L. (2011). China's Southern Tang Dynasty (937-976). Routledge. ISBN -9780415454964.
Wikimedia Commons có thêm thể loại hình ảnh và tài liệu về Ngũ Đại Thập Quốc |
|
http://www.youtube.com/user/hoangkimvietnam
Trở về trang chính
Hoàng Kim, hoangkim, hoangkimvietnam, Ngọc Phương Nam, Chào ngày mới Thung dung, Dạy và học, Cây Lương thực, Tin Nông nghiệp Việt Nam, Food Crops, Cassava in Vietnam, Khát khao xanh, Dayvahoc, Học mỗi ngày, Danh nhân Việt , Food Crops News, Điểm chính, CNM365, Kim LinkedIn, KimTwitter, KimFaceBook Đọc lại và suy ngẫm, Việt Nam tổ quốc tôi, Tình yêu cuộc sống, Thơ cho con
No comments:
Post a Comment