Ngày của Mẹ
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Ngày Hiền Mẫu hay Ngày của Mẹ (Tiếng Anh: Mother's Day) đương thời được khởi xướng bởi bà Anna Marie Jarvis tại thành phố Grafton, tiểu bang Tây Virginia, Hoa Kỳ, để tôn vinh những người mẹ hiền, đặc biệt là trong khung cảnh của mái ấm gia đình. Theo truyền thống của Hoa Kỳ
và đa số các quốc gia trên thế giới ngày nay, Ngày Hiền Mẫu được tổ
chức hằng năm vào ngày Chủ Nhật thứ hai của tháng 5. Một số nước khác
cũng có các ngày lễ tương tự được tổ chức vào các ngày khác trong năm.
Tại Châu Âu, nhiều quốc gia có tục lệ để dành riêng một ngày Chủ Nhật trong năm để tôn vinh những người mẹ hiền, điển hình là ngày Mothering Sunday tại những nước có đông giáo dân của các chi nhánh Thiên Chúa Giáo như Vương Quốc Anh. Lễ Mothering Sunday được tổ chức vào Chủ Nhật thứ tư vào Mùa Chay, cũng là để tôn vinh Đức Mẹ.
Tại một số quốc gia mà Ngày Hiền Mẫu chưa được phổ biến, người ta cũng dùng Ngày Quốc tế Phụ nữ vào ngày 8 tháng 3 để tôn vinh những người mẹ.
Bản Tuyên Ngôn Ngày Hiền Mẫu ("The Mother's Day Proclamation") của bà Julia Ward Howe là một trong những lời kêu gọi đầu tiên để tôn vinh các người mẹ tại Hoa Kỳ. Được viết vào năm 1870, bản tuyên ngôn này là sự phản ứng ôn hòa đối với sự tàn phá của cuộc Nội chiến Hoa Kỳ cũng như là cuộc Chiến tranh Pháp-Phổ. Bản tuyên ngôn này dựa trên nền tảng của chủ nghĩa nữ quyền, với ý tưởng người phụ nữ cũng có trách nhiệm uốn nắn xã hội trên con đường chính trị. Julia Ward Howe có ý định thành lập một ngày lễ mang tên "Ngày Hiền Mẫu vì Hòa Bình" (Mother's Day for Peace), nhưng phong trào này dần lụi tàn vì không đủ kinh phí. Tuy nhiên, ý tưởng của bà Howe đã gây ảnh hưởng lớn đến không ít phụ nữ trong xã hội, điển hình là bà Ann Maria Reeves Jarvis, nữ giáo viên tại trường học của ngôi thánh đường mang tên Thánh Andrew tại thành phố Grafton, tiểu bang West Virginia.
Trong bối cảnh Nội chiến Hoa Kỳ, Bà Ann Maria Reeves Jarvis tập hợp các phụ nữ khác với sứ mệnh chăm sóc cho các thương binh từ cả hai miền Nam Bắc. Sau khi cuộc chiến chấm dứt, bà khởi xướng phong trào mang tên Ngày Các Hiền Mẫu Làm Việc (Mothers' Work Days) vào năm 1858 cùng với các bà mẹ của các chiến binh từ cả hai miền để nhấn mạnh các hoạt động xã hội vì hòa bình. Ann Maria Reeves Jarvis qua đời tại thành phố Philadelphia vào năm 1905. Tại ngôi mộ của mẹ mình, cô con gái Anna Marie Jarvis thề rằng sẽ nối gót theo chân mẹ và thành lập một ngày lễ dành riêng cho các người hiền mẫu, còn sống cũng như đã qua đời.
Hai năm sau đó, cô Anna Marie Jarvis mang 500 đóa hoa Cẩm chướng đến tặng cho từng người mẹ tham dự thánh lễ tại Nhà thờ Thánh Andrew, nơi mà mẹ cô từng dạy học khi xưa. Một năm sau, vào ngày 10 tháng 5, năm 1905, Nhà thờ Thánh Andrew lần đầu tiên tổ chức một thánh lễ ngày Chủ Nhật đặc biệt để vinh danh các người hiền mẫu trong cộng đoàn. Cô Anna Marie tiếp tục tranh đấu không ngừng để quảng bá ngày lễ này khắp nơi. Đến năm 1909, thánh lễ vinh danh người hiều mẫu đã lan rộng đến 46 tiểu bang, cũng như là đến hai quốc gia láng giềng của Hoa Kỳ là Canada và México.
Năm 1914, bản nghị quyết do Quốc Hội lưỡng viện Hoa Kỳ thông qua và được Tổng Thống Woodrow Wilson ký đã chính thức thành lập Ngày Hiền Mẫu.
Một số nước đã có sẵn một ngày lễ hội dành riêng cho người mẹ và vay mượn thêm các tục lễ của Ngày Hiền Mẫu, như là việc con cái tặng hoa cẩm chướng cũng như là thiệp viết bằng tay cho mẹ mình. Tại những quốc gia mà Ngày Hiền Mẫu chưa được phổ biến, giới truyền thông nhắc đến ngày lễ này như là một cách giới thiệu văn hóa của nước ngoài.
Đối với các quốc gia có đông tín đồ Ấn giáo, ngày lễ này được đánh dấu với cuộc hành hương "Mata Tirtha Aunshi" trong tháng trăng non.
Tại Mỹ, các chi tiêu tài chính trong Ngày của Mẹ chỉ thua ngày lễ Giáng sinh. Theo ước tính của Liên đoàn bán lẻ Hoa Kỳ, trung bình khoảng 139 USD được dành chi tiêu cho mỗi món quà tặng mẹ.[2] Việc thương mại hóa, đề cao chi tiêu và có phần làm lu mờ ý nghĩa thật trong ngày này đã bị nhiều chỉ trích từ nhiều người hoạt động cộng đồng, kể cả từ bà Anna Marie Jarvis, là người nêu ý tưởng thành lập ngày vinh danh Mẹ.[2][3][4]
Ngày dành cho các bà mẹ ở Việt Nam có khá nhiều, như Lễ Vu Lan, ngoài ra còn có các ngày dành cho phụ nữ như 8 tháng 3 (Quốc tế Phụ nữ), Ngày Phụ nữ Việt Nam.
Mục lục
Lịch sử
Thời Hy Lạp cổ đại, lễ hội tôn vinh nữ thần Cybelle, mẹ của tất cả các vị thần Hy Lạp, được tổ chức vào thời điểm Xuân Phân (khi mặt trời ở gần xích đạo nhất). Trong khi đó tại La Mã cổ đại, người ta ăn mừng lễ hội Matronialia để tôn vinh nữ thần Juno, nữ hoàng của các vị thần La Mã, vợ của thần Jupiter. Theo phong tục, các người mẹ tại La Mã cũng được tặng quà trong ngày này.Tại Châu Âu, nhiều quốc gia có tục lệ để dành riêng một ngày Chủ Nhật trong năm để tôn vinh những người mẹ hiền, điển hình là ngày Mothering Sunday tại những nước có đông giáo dân của các chi nhánh Thiên Chúa Giáo như Vương Quốc Anh. Lễ Mothering Sunday được tổ chức vào Chủ Nhật thứ tư vào Mùa Chay, cũng là để tôn vinh Đức Mẹ.
Tại một số quốc gia mà Ngày Hiền Mẫu chưa được phổ biến, người ta cũng dùng Ngày Quốc tế Phụ nữ vào ngày 8 tháng 3 để tôn vinh những người mẹ.
Bản Tuyên Ngôn Ngày Hiền Mẫu ("The Mother's Day Proclamation") của bà Julia Ward Howe là một trong những lời kêu gọi đầu tiên để tôn vinh các người mẹ tại Hoa Kỳ. Được viết vào năm 1870, bản tuyên ngôn này là sự phản ứng ôn hòa đối với sự tàn phá của cuộc Nội chiến Hoa Kỳ cũng như là cuộc Chiến tranh Pháp-Phổ. Bản tuyên ngôn này dựa trên nền tảng của chủ nghĩa nữ quyền, với ý tưởng người phụ nữ cũng có trách nhiệm uốn nắn xã hội trên con đường chính trị. Julia Ward Howe có ý định thành lập một ngày lễ mang tên "Ngày Hiền Mẫu vì Hòa Bình" (Mother's Day for Peace), nhưng phong trào này dần lụi tàn vì không đủ kinh phí. Tuy nhiên, ý tưởng của bà Howe đã gây ảnh hưởng lớn đến không ít phụ nữ trong xã hội, điển hình là bà Ann Maria Reeves Jarvis, nữ giáo viên tại trường học của ngôi thánh đường mang tên Thánh Andrew tại thành phố Grafton, tiểu bang West Virginia.
Trong bối cảnh Nội chiến Hoa Kỳ, Bà Ann Maria Reeves Jarvis tập hợp các phụ nữ khác với sứ mệnh chăm sóc cho các thương binh từ cả hai miền Nam Bắc. Sau khi cuộc chiến chấm dứt, bà khởi xướng phong trào mang tên Ngày Các Hiền Mẫu Làm Việc (Mothers' Work Days) vào năm 1858 cùng với các bà mẹ của các chiến binh từ cả hai miền để nhấn mạnh các hoạt động xã hội vì hòa bình. Ann Maria Reeves Jarvis qua đời tại thành phố Philadelphia vào năm 1905. Tại ngôi mộ của mẹ mình, cô con gái Anna Marie Jarvis thề rằng sẽ nối gót theo chân mẹ và thành lập một ngày lễ dành riêng cho các người hiền mẫu, còn sống cũng như đã qua đời.
Hai năm sau đó, cô Anna Marie Jarvis mang 500 đóa hoa Cẩm chướng đến tặng cho từng người mẹ tham dự thánh lễ tại Nhà thờ Thánh Andrew, nơi mà mẹ cô từng dạy học khi xưa. Một năm sau, vào ngày 10 tháng 5, năm 1905, Nhà thờ Thánh Andrew lần đầu tiên tổ chức một thánh lễ ngày Chủ Nhật đặc biệt để vinh danh các người hiền mẫu trong cộng đoàn. Cô Anna Marie tiếp tục tranh đấu không ngừng để quảng bá ngày lễ này khắp nơi. Đến năm 1909, thánh lễ vinh danh người hiều mẫu đã lan rộng đến 46 tiểu bang, cũng như là đến hai quốc gia láng giềng của Hoa Kỳ là Canada và México.
Năm 1914, bản nghị quyết do Quốc Hội lưỡng viện Hoa Kỳ thông qua và được Tổng Thống Woodrow Wilson ký đã chính thức thành lập Ngày Hiền Mẫu.
Truyền thống và lịch sử trên thế giới
Đa số các quốc gia trên thế giới ngày nay ăn mừng Ngày Hiền Mẫu với các phong tục bắt nguồn từ Bắc Mỹ và Châu Âu. Khi được phổ biến tại các nước khác, Ngày Hiền Mẫu đôi khi được thay đổi đôi chút để phản ảnh nền văn hóa từng nơi, một số nước để hợp nhất ngày lễ này với những sự kiện quan trọng của bản xứ (ví dụ như tôn giáo, lịch sử, và truyền thuyết).Một số nước đã có sẵn một ngày lễ hội dành riêng cho người mẹ và vay mượn thêm các tục lễ của Ngày Hiền Mẫu, như là việc con cái tặng hoa cẩm chướng cũng như là thiệp viết bằng tay cho mẹ mình. Tại những quốc gia mà Ngày Hiền Mẫu chưa được phổ biến, giới truyền thông nhắc đến ngày lễ này như là một cách giới thiệu văn hóa của nước ngoài.
Tôn giáo
Đối với Thiên Chúa Giáo, ngày lễ này được nối liền với sự tôn kính Đức Mẹ[1]Đối với các quốc gia có đông tín đồ Ấn giáo, ngày lễ này được đánh dấu với cuộc hành hương "Mata Tirtha Aunshi" trong tháng trăng non.
Quốc gia
Anh
Ngày này bắt nguồn ở Anh vào thế kỷ 17, được gọi là Mothering Sunday. Nó được tổ chức vào ngày chủ nhật cách ngày lễ Phục Sinh 40 ngày. Vào ngày này, dù ở đâu đi nữa, những đứa con cũng sẽ về thăm lại gia đình.Mỹ
Năm 1914, bản nghị quyết do Quốc Hội lưỡng viện Hoa Kỳ thông qua và được Tổng Thống Woodrow Wilson ký đã chính thức thành lập Ngày Hiền Mẫu.Tại Mỹ, các chi tiêu tài chính trong Ngày của Mẹ chỉ thua ngày lễ Giáng sinh. Theo ước tính của Liên đoàn bán lẻ Hoa Kỳ, trung bình khoảng 139 USD được dành chi tiêu cho mỗi món quà tặng mẹ.[2] Việc thương mại hóa, đề cao chi tiêu và có phần làm lu mờ ý nghĩa thật trong ngày này đã bị nhiều chỉ trích từ nhiều người hoạt động cộng đồng, kể cả từ bà Anna Marie Jarvis, là người nêu ý tưởng thành lập ngày vinh danh Mẹ.[2][3][4]
Việt Nam
Trước đây chỉ có ở miền Nam với Lễ Vu Lan, nhưng những năm gần đây do sự lan rộng của Internet và các phương tiện thông tin đại chúng, nó đã được phổ biến cả nước và được mọi người hưởng ứng. Vào ngày này, những người con nhớ ơn mẹ sẽ dành đến cho mẹ của mình những món quà ý nghĩa, từ vật chất đến tinh thần.Ngày dành cho các bà mẹ ở Việt Nam có khá nhiều, như Lễ Vu Lan, ngoài ra còn có các ngày dành cho phụ nữ như 8 tháng 3 (Quốc tế Phụ nữ), Ngày Phụ nữ Việt Nam.
Trên thế giới
Tuy Ngày Hiền Mẫu được tổ chức vào rất nhiều ngày khác nhau trên thế giới, hai ngày phổ biến nhất là ngày Chủ Nhật thứ nhì của tháng 5 theo truyền thống Mother's Day của Hoa Kỳ, tiếp theo là ngày Chủ Nhật thứ tư của Mùa Chay theo truyền thống Mothering Sunday của Vương Quốc Anh.[5]- Chú ý: Các quốc gia ăn mừng ngày Ngày Quốc tế Phụ nữ thay vì ăn mừng Ngày Hiền Mẫu được đánh dấu '†'.
- Vì Lịch Hồi giáo dựa trên Âm lịch, vốn ngắn hơn năm Dương lịch, ngày lễ mỗi năm đều lọt vào các mùa khác nhau. Bởi thế, nó được liệt vào một danh sách riêng.
Chú thích
- ^ Cordelia Candelaria, Peter J. García (2004). Encyclopedia of Latino popular culture . Greenwood Publishing Group. tr. 375. ISBN 031333210X, 9780313332104 Kiểm tra giá trị
|isbn=
(trợ giúp). - ^ a ă Handelsblatt: Ausdruck der Liebe, nicht des Konsums; Artikel vom 11. Mai 2007
- ^ Louisa Taylor, Canwest News Service (11 tháng 5 năm 2008). “Mother's Day creator likely 'spinning in her grave'”. Vancouver Sun (Canada). Truy cập ngày 7 tháng 7 năm 2008.
- ^ “Mother's Day reaches 100th anniversary, The woman who lobbied for this day would berate you for buying a card”. Associated Press (via MSNBC). 11 tháng 5 năm 2008. Truy cập ngày 7 tháng 7 năm 2008.
- ^ “mothers day (sic)”. Google Trends. Google. Truy cập ngày 28 tháng 5 năm 2006. Đã bỏ qua tham số không rõ
|dateformat=
(trợ giúp) - ^ “Principales efemérides. Mes Mayo”. Unión de Periodistas de Cuba. Truy cập ngày 7 tháng 6 năm 2008.
- ^ “Calendario Cívico Escolar”. Dirección Regional de Educación de Lima Metropolitana. Truy cập ngày 7 tháng 6 năm 2008.
- ^ Xinhua from China Daily (16 tháng 5 năm 2006). “It's Mother's Day”. SCUEC online.
- ^ Sources:
- “Haiti: Main Holidays”. discoverhaiti.com. Truy cập ngày 8 tháng 7 năm 2008.
- “6310.- Fêtes et Jours Fériés en Haiti” (bằng tiếng Pháp). Truy cập ngày 8 tháng 7 năm 2008. (tiếng Pháp)
- ^ Sources for Israel:
- Gil Ronen (9 tháng 3 năm 2010), Knesset, Emunah Mark International Women's Day, Arutz Sheva
- Nechemia Meyers (7 tháng 5 năm 2004), No Mother’s Day in Israel, but mothers have real clout, jweekly.com
- ^ Mehr News Agency (19 tháng 8 năm 2003). “Birth Anniversary of Hazrat Fatemeh Zahra (SA) Declared Women’s Day in Iraq”. Mehr News. “Iraq's Governing Council in a statement has designated the 20th of Jamadi al-Thani, the birth anniversary of Hazrat Fatemeh Zahra (SA), the daughter of Prophet Mohammad (S) (...)”
- ^ “Ahmadinejad highlights women's significant role in society”. Presidency of The Islamic Republic of Iran News Service. 24 tháng 6 năm 2008. Truy cập ngày 19 tháng 7 năm 2008. “(...) the occasion of the Mother's Day marking the birthday anniversary of Hazrat Fatemeh Zahra (SA), the beloved daughter of Prophet Mohammad (Peace Be Upon Him). The day fell on June 23 [2008].”
Đọc thêm
- LEIGH Eric Schmidt (1997). Trong Princeton University Press. Consumer Rites: The Buying and Selling of American Holidays . tr. 256–275. ISBN 0691017212.
- LAROSSA, Ralph (1997). Trong University of Chicago Press. The Modernization of Fatherhood: A Social and Political History . tr. 90,170-192. ISBN 0226469042.
- NEWCOMER, Daniel (2004). Reconciling modernity: urban state formation in 1940s León, Mexico . University of Nebraska Press. tr. 132–139. ISBN 0803233493, 9780803233492 Kiểm tra giá trị
|isbn=
(trợ giúp). - SHERMAN, John W. (1997). The Mexican right: the end of revolutionary reform, 1929-1940 . Greenwood Publishing Group. tr. 44. ISBN 0275957365, 9780275957360 Kiểm tra giá trị
|isbn=
(trợ giúp).
Xem Thêm
Liên kết ngoài
Wikimedia Commons có thêm thể loại hình ảnh và tài liệu về Ngày của Mẹ |
Thể loại:
Sông Columbia (còn được biết đến là Wimahl hay sông Big (sông lớn) đối với người Mỹ bản địa nói tiếng Chinook sống trên những khu vực thấp nhất gần dòng sông)[5] là con sông lớn nhất vùng Tây Bắc Thái Bình Dương của Bắc Mỹ. Nó được đặt theo tên của Columbia Rediviva, con tàu đầu tiên từ thế giới phương tây được ghi nhận đã du hành lên dòng sông này.[6] Dòng sông kéo dài từ tỉnh bang British Columbia của Canada đi qua tiểu bang Washington của Hoa Kỳ; hình thành phần lớn ranh giới giữa tiểu bang Washington và Oregon trước khi đổ ra Thái Bình Dương. Con sông dài 2.000 km (1.243 dặm Anh), và lưu vực nhận nước là 668.217 km² (258.000 dặm vuông).
Tính theo lưu lượng nước, sông Columbia là con sông lớn nhất chảy vào Thái Bình Dương từ Bắc Mỹ và là con sông lớn thứ tư tại Hoa Kỳ. Dòng nước mạnh của sông và độ cao đổ xuống lớn trên một đoạn đường tương đối ngắn làm cho nó có tiềm năng rất lớn để sản xuất điện năng. Sông Columbia là con sông sản xuất thủy điện lớn nhất Bắc Mỹ với 14 đập thủy điện tại Hoa Kỳ và Canada.
Sông Columbia và các sông nhánh của nó là nơi sinh sống của vô số các loại cá di cư giữa các sông nhánh nước ngọt nhỏ và Thái Bình Dương. Các loài cá này - đặc biệt là những loài thuộc nhiều nhóm cá hồi khác nhau - đã và đang là phần quan trọng của hệ sinh thái sông và kinh tế địa phương trong hàng ngàn năm qua.
Việc khai thác dòng sông để phục vụ con người và một số trường hợp ô nhiễm công nghiệp đã rất nhiều lần đi ngược với việc bảo tồn hệ sinh thái kể từ khi người Mỹ và người châu Âu bắt đầu đến định cư trong khu vực này trong thế kỷ 18. Việc "lợi dụng dòng sông" như trong văn hóa bình dân của thế kỷ 20 thường diễn tả bao gồm việc nạo vét đáy sông cho tàu thuyền lớn lưu thông, sản xuất năng lượng nguyên tử, nguyên cứu và chế tạo vũ khí nguyên tử, xây đập sản xuất thủy điện, tưới tiêu, hàng hải, và kiểm soát lụt lội.
Hồ Columbia nằm ở cao độ 808 mét (2.650 ft) hình thành thượng nguồn của sông Columbia trong dãy núi Rocky phía Canada ở miền nam tỉnh bang British Columbia (tên tỉnh bang này xuất phát gián tiếp từ tên dòng sông). Trong khoảng 320 km (200 dặm) đầu tiên, sông Columbia chảy theo hướng tây bắc qua hồ Windermere và thị trấn Invermere rồi theo hướng tây bắc đến Golden và vào trong hồ Kinbasket. Sau đó con sông uốn gập về hướng nam (tại "Big Bend" hay là "khúc quanh lớn"), đi qua hồ Revelstoke và các hồ Arrow đến thành phố Castlegar nằm trên nơi hợp lưu giữa sông Columbia với hạ lưu sông Kootenay và là một trong ba trung tâm chính của vùng Tây Kootenay, với Nelson nằm gần hồ Kootenay và Trail ngay ở hạ nguồn, gần nơi hợp lưu của sông Columbia với sông Pend Oreille ngay phía bắc biên giới Hoa Kỳ-Canada.[10] [11] Con sông tạo thành ranh giới phía nam và phía đông của Khu dành riêng cho người bản thổ Colville, và ranh giới phía tây của Khu dành riêng cho người bản thổ Spokane.[12]
Sau đó sông Columbia uốn khúc qua vùng đất địa chất bào mòn của Đông Washington chảy về hướng tây nam rồi quay về hướng nam sau đó về hướng đông nam gần nơi hợp lưu với sông Wenatchee trong Trung Washington. Đoạn chữ C của dòng sông còn được biết tên là "Big Bend" có nghĩa là "khúc quanh lớn"; trong Các trận lụt Missoula (10.000 đến 15.000 năm trước đây), phần nhiều nước theo con đường trực tiếp hơn chảy về phía nam qua Grand Coulee mà sau các trận lụt trở nên khô cạn cho đến khi đập Grand Coulee được xây giữa thế kỷ 20.[13]
Con sông chảy ngang qua Sân khấu ngoài trời Gorge nổi tiếng ở Tây Bắc — và rồi chảy qua Khu nghiên cứu hạt nhân Hanford. Sông Snake nhập vào sông Columbia tại khu vực Tri-Cities. Hanford Reach, một đoạn sông Columbia giữa Đập Ghềnh thác Priest và Tri-Cities, là đoạn phía Hoa Kỳ duy nhất của dòng sông được để chảy tự do mà không bị chắn bởi các con đập. Sông Columbia tạo khúc cong đột ngột về phía tây tại ranh giới Washington-Oregon. Sông tạo ranh giới giữa hai tiểu bang trong khoảng 480 km cuối (300 dặm) hành trình của nó trước khi đổ ra biển.
Con sông này là một trong ba con sông duy nhất chảy xuyên qua dãy núi Cascade (hai con sông kia là sông Klamath phía nam Oregon và sông Pit phía bắc California) ngay khoảng giữa The Dalles, Oregon và Portland hình thành hẻm núi sông Columbia. Hẻm núi này nổi tiếng vì có gió đều đặn và mạnh, có phong cảnh đẹp, và là một nút giao thông quan trọng.[14]
Sông tiếp tục chảy về hướng tây, uốn khúc đột ngột về hướng bắc-tây bắc giữa Portland, Oregon và Vancouver, Washington tại nơi hợp lưu với sông Willamette. Tại đây sông chảy khá chậm và rồi đổ ra Thái Bình Dương ngay sau khi đi qua Astoria, Oregon tại cồn cát Columbia. Cồn cát này là một bãi cát nông thấp khiến cho cửa sông là một trong những khu vực nguy hiểm nhất cho tàu bè đi lại trên thế giới.[15]
Con sông cùng với lưu vực nhận nước của nó đã trải qua một số trận lụt vĩ đại của thế giới được biết đến về cuối thời kỳ băng hà gần đây. Sự tan định kỳ các đập băng ở hồ băng Missoula tạo ra lượng nước gấp 10 lần lượng nước chảy của tất cả các con sông trên thế giới cộng lại cũng như gấp 40 lần trên khoảng thời gian 1.000 năm.[17]
Các mực nước trong các trận lụt Missoula đã được ước tính vào khoảng 381 m (1.250 ft) tại hẻm Wallula, 253 m (830 ft) tại đập Bonneville, và 122 m (400 ft) trên Portland, Oregon ngày nay.[18] Sự tràn ngập nước định kỳ từ các trận lụt trên vùng thấp hơn của cao nguyên sông Columbia đã tích tụ nhiều trầm tích dưới các hồ tạo nên lớp phù sa giàu khoáng chất giúp cho nông nghiệp phát triển thời nay. Chúng cũng hình thành nhiều đặc điểm địa chất bất thường như vùng đất bị xâm thực có nhiều kênh tự nhiên ở Đông Washington.
Thác Celilo là một trung tâm văn hóa và kinh tế trong khoảng 10.000 năm; các thương nhân đã tụ về đây từ khắp miền tây Bắc Mỹ để trao đổi mua bán, bị lôi cuốn phần nhiều bởi lượng cá hồi dồi dào. Việc xây dựng Đập The Dalles trong giữa thế kỷ 20 đã khiến một cộng đồng thịnh vượng người bản thổ Mỹ phải di trú nơi khác; sự tiên đoán của Công binh Lục quân Hoa Kỳ về một nền kinh tế tươi sáng và đầy việc làm dọc theo con sông đã không xảy ra.[20][21]
Một số bộ lạc người bản thổ Mỹ vẫn tiếp tục hiện diện ngày nay cũng như trong lịch sử trên sông Columbia. Người Sinixt sống trên phần đất Canada; người Colville, Spokane, Yakama, Nez Perce, Umatilla, các bộ lạc Warm Springs sống dọc theo dòng sông thuộc Hoa Kỳ. Dọc thượng nguồn sông Snake và sông Salmon có các bộ lạc Shoshone Bannock. Gần hạ lưu sông Columbia có các bộ lạc Cowlitz và Chinook. Các bộ lạc Yakama, Nez Perce, Umatilla, và Warm Springs đều có hiệp ước được quyền đánh bắt cá dọc theo sông Columbia và những con sông nhánh.
Thuyền trưởng buôn da thú người Anh là John Meares tìm con sông dựa vào các bản báo cáo của Heceta năm 1788. Ông đọc sai chi tiết luồng sông và kết luận rằng con sông thật sự không tồn tại. Trung tá Hải quân Hoàng gia Anh là George Vancouver đi tàu ngang qua cửa sông vào tháng 4 năm 1792 và quan sát thấy sự thay đổi màu sắc của nước nhưng ông chấp nhận báo cáo của Meares và tiếp tục chuyến hành trình của mình.[5]
Ngày 11 tháng 5 năm 1792, Thuyền trưởng Robert Gray của Mỹ đã tiến hành đi thuyền vào sông Columbia và trở thành nhà thám hiểm đầu tiên đi vào con sông. Gray đã du hành đến Tây Bắc Thái Bình Dương để trao đổi mua bán da thú trên một con tàu tư nhân tên là Columbia Rediviva; ông đặt tên con sông này theo tên của chiếc tàu. Gray lưu lại 9 ngày mua bán gần cửa sông, rồi bỏ đi mà không tiến xa hơn 21 km (13 dặm) lên thượng nguồn. Chẳng bao lâu sau đó Vancouver biết rằng Gray đã tuyên bố là đã tìm được con sông có thể lưu thông và chính Vancouver đã tự đi điều tra. Tháng 10 năm 1792, Vancouver phái đại úy hải quân William Robert Broughton, người chỉ huy thứ hai sau ông, đi ngược lên dòng sông. Broughton đi thuyền ngược dòng khoảng vài dặm rồi tiếp tục cuộc hành trình bằng xuồng nhỏ. Ông đi xa đến tận Hẻm núi sông Columbia khoảng 160 km (100 dặm Anh) ở thượng nguồn. Ông nhìn thấy và đặt tên núi Hood cũng như mũi đất Vancouver, gần thành phố Vancouver, Washington ngày nay. Ông cũng chính thức tuyên bố chủ quyền con sông, lưu vực và duyên hải xung quanh của nó cho Vương quốc Anh. Việc khám phá ra sông Columbia của Gray được Hoa Kỳ dùng để củng cố tuyên bố chủ quyền của mình đối với Xứ Oregon mà cũng bị Nga, Vương quốc Anh, Tây Ban Nha và các quốc gia khác tuyên bố chủ quyền.[22]
Những nhà thám hiểm Pháp gọi sông Columbia là Ouragan (có nghĩa là: "bão táp"). Từ này là một trong các từ ngữ có vẻ hợp lý về nguồn gốc của tên gọi Oregon.
Hai nhà thám hiểm Mỹ Lewis và Clark đã vẽ biểu đồ những vùng đất rộng lớn phía tây của sông Missouri mà chưa có trên các bản đồ và họ du hành xuống sông Columbia trên chặng cuối cuộc hành trình của họ năm 1805. Họ thám hiểm xa về phía thượng nguồn tới Đảo Bateman gần Tri-Cities, Washington ngày nay. Chuyến đi của họ kết thúc tại cửa sông.
Nhà thám hiểm Canada David Thompson của Công ty North West đã sống qua mùa đông 1807–1808 tại Kootenae House gần thượng nguồn của sông Columbia ở Invermere, British Columbia ngày nay. Năm 1811, ông du hành theo sông Columbia đến Thái Bình Dương và trở thành người Âu-Mỹ đầu tiên đi hết chiều dài của con sông.
Năm 1825, nhân danh Công ty Hudson's Bay, bác sĩ John McLoughlin thiết lập Đồn Vancouver (hiện nay là Vancouver, Washington) trên bờ sông Columbia làm tổng hành dinh mậu dịch tại vùng này. Vào thời đó, đồn Vancouver là khu định cư của người châu Âu lớn nhất trong vùng tây bắc. Mỗi năm, tàu thuyền đến từ London (qua ngả Thái Bình Dương) đưa đồ tiếp liệu và hàng hóa mua bán để đổi lấy da thú. Đối với nhiều người dân định cư, đồn trở thành chặng dừng chân cuối cùng trên đường mòn Oregon để mua tiếp liệu và đất trước khi bắt đầu dựng nghiệp của mình tại đây. Vì nó nằm ngay thủy lộ đi lên sông Columbia, tầm ảnh hưởng của Đồn Vancouver đã vươn tới từ Alaska đến California và từ dãy núi Rocky đến quần đảo Hawaii.
Bước sang thế kỷ 20, sự khó khăn trong việc đi lại bằng tàu thuyền trên sông Columbia được xem là một trở ngại trong việc phát triển kinh tế vùng Vương quốc Nội địa phía đông Dãy núi Cascade.[23] Việc nạo vét và xây đập theo sau đó đã vĩnh viễn thay đổi dòng sông, ngăn chặn dòng chảy tự nhiên của nó nhưng cũng mang lại lợi ích là sản xuất điện, thủy lợi tưới tiêu hoa màu, lưu thông trên sông và những lợi ích khác nữa đối với vùng này.
Việc sử dụng tàu hơi nước bắt đầu vào năm 1850,[25] đã góp phần vào việc định cư nhanh và phát triển kinh tế vùng này.[26][27] Tàu hơi nước hoạt động tại một số nơi: trên những vùng thấp của con sông từ Thái Bình Dương đến ghềnh thác Cascades, từ dãy núi Cascade đến thác Celilo, và từ Celilo đến nơi hợp lưu với sông Snake; trên vùng Wenatchee phía đông của tiểu bang Washington; trên các hồ Arrow của tỉnh bang British Columbia; và trên các sông nhánh như sông Willamette và sông Snake. Tàu thuyền, ban đầu chạy bằng củi đốt, chở cả người và hàng hóa khắp vùng trong nhiều năm. Các tuyến xe lửa phục vụ nối liền các thủy lộ nơi mà tàu hơi nước không chạy được vì thác nước ngăn cách trên những vùng phía dưới thấp của con sông.[28] Trong thập niên 1880, các tuyến xe lửa của các công ty như Công ty Thủy lộ và Đường sắt Oregon (Oregon Railroad and Navigation Company) và Công ty Vận tải Shaver bắt đầu cung cấp thêm dịch vụ tàu hơi nước như các kết nối giao thông chính dọc theo con sông.[28]
Việc cải biến sông Columbia nhằm làm cho giao thông đường thủy dễ dàng hơn đã được tiên liệu vào đầu năm 1881,[25] và tiếp tục đến ngày nay. Cồn cát Columbia, một bãi cát luôn thay đổi ở cửa sông làm cho lưu thông giữa sông và Thái Bình Dương khó khăn và nguy hiểm. Thêm vào đó có vô số các ghềnh thác dọc con sông làm cho việc đi lại bằng đường thủy trên sông gặp nhiều trắc trở. Việc biến đổi con sông đã bao gồm việc xây dựng các vách ngăn hay đê chắn sóng để giữ cho lòng sông không bị dịch chuyển theo thời gian ở tại cửa sông, nạo vét lòng sông, và xây dựng các kênh và âu thuyền.
Các vách ngăn và đê chắn sóng đầu tiên được xây vào năm 1886 [25] đã nới rộng thủy lộ của con sông vào trong đại dương. Dòng chảy và các bãi cát đang dịch chuyển phía bên dưới mặt nước vẫn là một mối đe dọa đối với tàu thuyền đi vào sông vì thế các vách chắn và đê chắn sóng luôn được bảo trì. Ngày nay, các tàu chở hàng đại dương có thể chạy xa lên thượng nguồn đến Portland và Vancouver, và các xà lan có thể đi vào sâu nội địa tới tận Lewiston, Idaho và Đông Washington.[29]
Các âu thuyền được xây đầu tiên vào năm 1896 quanh Ghềnh thác Cascade,[30] giúp tàu thuyền đi an toàn qua hẻm núi sông Columbia.[31] Kênh Celilo đi ngang qua Thác Celilo được mở cho lưu thông vào năm 1915.[32]
Năm 1891, sông Columbia được nạo vét luồng để gia tăng việc chở hàng hóa; luồng sông giữa đại dương và Portland/Vancouver được vét sâu từ 5,2 mét (17 ft) đến 7,6 mét (25 ft). Nhật báo The Columbian đã kêu gọi vét sâu lòng sông đến 12,2 mét (40 ft) vào đầu năm 1905 nhưng độ sâu đó không đạt được cho đến năm 1976.[33]
Trong giữa thế kỷ 20, việc xây dựng các con đập đã nhận chìm các thác nước gần một loạt các hồ chứa nước, và các âu thuyền đã cho phép các con tàu và xà lan đi qua dễ dàng từ hồ chứa nước này sang hồ chứa nước khác. Một kênh lưu thông chạy dài tới Lewiston, Idaho dọc theo sông Columbia và sông Snake được hoàn thành năm 1975.[25]
Sự kiện Núi lửa St. Helens phun vào năm 1980 đã gây ra các vụ đất lở trong khu vực làm giảm độ sâu của sông Columbia xuống còn 7,6 mét (25 ft) trong một đoạn dài 6,5 km (4 dặm) khiến làm ngưng trệ nền kinh tế của Portland.[34]
Năm 1999, Quốc hội Hoa Kỳ cho phép nạo vét phần hạ lưu sông Columbia giữa Portland và Astoria từ 12 đến 13 mét (40–43 ft). Độ sâu 13 mét sẽ giúp cho các tàu thuyền vận tải lớn hay tàu chở ngũ cốc có thể tới Portland và Vancouver.[35]
Tuy nhiên dự án này bị chống đối vì quan ngại rằng nó sẽ khuấy động các chất cặn bã độc hại nằm dưới lòng sông. Nhóm hoạt động môi trường Tây Bắc có trụ sở ở Portland đã nộp đơn kiện chống Công binh Lục quân Hoa Kỳ nhưng đã bị tòa Phúc thẩm Hoa Kỳ bác bỏ đơn kiện vào tháng 8 năm 2006.[36]
Dự án bao gồm nhiều biện pháp giảm bớt hư hại môi trường; thí dụ, cứ mỗi 4.000 m² (1 mẫu Anh) đất ngập nước bị hư hại bởi kế hoạch này thì Công binh Lục quân Hoa Kỳ phải tái tạo 49.000 m² (12 mẫu Anh) vùng đất ngập nước.[35] Vào đầu năm 2006, Công binh Lục quân Hoa Kỳ đã làm đổ khoảng 189 L (50 gallon) dầu máy thủy lực xuống sông Columbia tạo ra nhiều lời chỉ trích từ các tổ chức môi trường.[37]
Các cuộc nghiên cứu cho dự án này đã được tiến hành từ đầu năm 1990, và gây nhiều tranh cãi từ lúc khởi sự.[38] Sau khi được chấp thuận vào năm 1999, việc thực hiện bắt đầu vào năm 2005, và hy vọng sẽ hoàn thành vào năm 2010. Chi phí của dự án được ước tính vào khoảng 150 triệu đô la. Chính phủ liên bang đóng góp 65%, Oregon và Washington mỗi tiểu bang đóng góp 27 triệu, và sáu cảng địa phương cũng tham gia đóng góp chi phí.[35][39]
Phát triển sông được thực hiện theo nền tảng của Hiệp ước Sông Biên giới Quốc tế giữa Hoa Kỳ và Canada. Trong thập niên 1960, Hoa Kỳ và Canada đã ký Hiệp ước sông Columbia. Canada đồng ý xây đập và cung cấp nơi làm hồ chứa nước và Hoa Kỳ đồng ý cung ứng trước phân nửa lợi ích năng lượng hạ nguồn ngày càng gia tăng của Hoa Kỳ được ước tính là 5 năm. Canada đáp ứng nghĩa vụ của mình theo hiệp ước bằng cách xây 3 đập (hai trên sông Columbia và một trên sông Duncan), đập cuối cùng xây xong vào năm 1973.
Ngày nay, dòng chính của sông Columbia có 14 đập (3 tại Canada, 11 tại Hoa Kỳ.) Bốn đập chính và bốn đập trên sông Snake thấp hơn có âu thuyền để cho phép tàu thuyền qua lại. Vô số các con sông nhánh của sông Columbia có đập dùng cho thủy điện và/hoặc tưới tiêu hoa màu. Các đập nhắm vào vô số những nhu cầu gồm có kiểm soát lũ lụt, giao thông đường thủy, điều hòa dòng chảy, giữ và giao nước, cải tạo đất công cộng và các khu dành riêng cho người bản thổ, và sản xuất thủy điện.[42] Nhiều sông nhánh của sông cũng có đập; 4 trên Sông Snake thấp hơn có những âu thuyền, cho phép tàu thuyền đi từ đại dương lên đến Lewiston, Idaho.
Các con đập lớn hơn của Hoa Kỳ do chính phủ Hoa Kỳ làm chủ và quản lý (một số của Công binh Lục quân Hoa Kỳ, một số của Cục quản lý nguồn nước Hoa Kỳ), trong lúc khu vực công chánh và các công ty năng lượng tư nhân kiểm soát nhiều đập nhỏ hơn.
Việc dựng lên các con đập đã thay đổi ngoạn mục phong cảnh và hệ sinh thái của con sông. Có lúc sông Columbia là một trong những hệ thống sông sản sinh nhiều cá hồi nhất trên thế giới.[43] Các khu vực đánh bắt cá trước đây, nổi bật nhất là thác Celilo ở phía đông hẻm núi sông Columbia, đã có dấu hiệu giảm sút đáng kể số lượng cá dọc theo sông Columbia trong thế kỷ qua. Sự hiện diện của các đập cùng với việc đánh bắt cá quá nhiều đã đóng vai trò chính trong việc giảm lượng cá hồi. Thang cá đã được xây dựng tại một số đập để giúp cá bơi ngược dòng lên nơi sinh sản. Đập Grand Coulee không có thang cá nào và hoàn toàn chặn đường của cá di cư lên nửa thượng lưu của hệ thống sông Columbia.
Mục đích chính của dự án là cung cấp nước tưới tiêu cho hoa màu nhưng Đệ nhị thế chiến bùng nổ đã tạo ra nhu cầu cao về điện năng, chủ yếu là để sản xuất nhôm và phát triển vũ khí hạt nhận tại Trung tâm Hanford. Việc tưới tiêu bắt đầu vào năm 1951.[44] Dự án cung cấp nước cho trên 2.000 km² (500.000 mẫu Anh) đất phì nhiêu nhưng khô hạn tại Trung Washington. Nước từ dự án đã chuyển đổi vùng này từ đất bỏ hoang thành một trung tâm nông nghiệp chính. Các nông sản gồm có táo, khoai tây, cỏ linh lăng, lúa mì, ngô, lúa mạch, hoa bia, đậu và củ cải đường.
Từ năm 1750, sông Columbia đã trải qua 6 lần khô hạn kéo dài nhiều năm. Lần khô hạn dài nhất là trong giữa thập niên 1800, kéo dài 12 năm với dòng chảy của sông giảm 20% dưới mức trung bình. Các nhà khoa học đã tỏ ra quan tâm đến việc một trận khô hạn như thế có thể gây ra hậu quả gì đối với nền kinh tế ngày nay của vùng mà phụ thuộc rất nhiều vào sông Columbia.[45] Năm 1992–1993, một trận hạn hán nhỏ hơn đã làm ảnh hưởng đến những người nông dân, các nhà sản xuất thủy điện, các nhà vận tải thủy và các nhà quản lý động vật hoang dã.[45]
Dòng chảy mạnh và sự hạ độ cao rất lớn trên một khoảng cách ngắn đã làm cho sông Columbia có năng suất to lớn trong việc tạo thủy điện.
Sông Columbia hạ thấp cao độ khoảng 0,41 mét/km (2,16 ft trên một dặm
Anh); so sánh với sông Mississippi là 0,12 mét/km (0,65 trên một dặm
Anh).
Trong khi thủy điện chỉ chiếm 6,5% năng lượng tại Hoa Kỳ, sông Columbia và các sông nhánh của nó cung cấp khoảng 60% năng lượng thủy điện của duyên hải miền tây.[46] Lớn nhất trong 150 dự án thủy điện là Đập Grand Coulee và Đập Chief Joseph và cũng là các đập lớn nhất tại Hoa Kỳ;[47][48] và trong số các đập lớn nhất trên thế giới.[49]
Năng lượng thủy điện rẻ đã giúp hình thành công nghiệp sản xuất nhôm mở rộng, là ngành cần rất nhiều năng lượng. Năm 2000, Công ty Tây Bắc Hoa Kỳ (Northwestern United States) đã sản xuất đến 40% sản lượng nhôm tại Hoa Kỳ và 17% lượng nhôm thế giới.[50] Nhưng việc hàng hóa hóa năng lượng trong đầu thập niên 2000, cộng với tình trạng khô hạn làm giảm công suất phát điện của dòng sông, đã gây tổn thất cho ngành công nghiệp này; vào năm 2003, Hoa Kỳ chỉ sản xuất được 15% sản lượng nhôm của thế giới. Nhiều doanh nghiệp sản xuất nhôm dọc theo sông Columbia nằm im chờ đợi hoặc phá sản.[51][52]
Năng lượng vẫn tương đối rẻ dọc theo sông Columbia và trong những năm gần đây, các công ty kỹ thuật cao như Google đã bắt đầu di chuyển các phân bộ điều hành hoạt động máy chủ vào trong vùng này để sử dụng năng lượng rẻ.[53]
Ở hạ lưu của Grand Coulee, hồ nước của mỗi con đập được Cục quản lý Năng lượng Bonneville, Công binh Lục quân Hoa Kỳ và vô số các Khu Công chánh tiểu bang Washington theo dõi và ấn định điều lệ cẩn thận để chắc chắn rằng các mục tiêu về dòng chảy, sự kiểm soát lụt lội và sản xuất điện đạt chỉ tiêu đề xuất. Càng ngày, các hoạt động sản xuất thủy điện được yêu cần hội đủ các tiêu chuẩn theo Luật về loài nguy cấp (Endangered Species Act) và những thỏa thuận điều hành các hoạt động để giảm thiểu tối đa hậu quả đối với cá hồi và các loài cá khác. Các nhóm đánh bắt cá ủng hộ việc phá bỏ 4 đập trên sông Snake, con sông nhánh lớn nhất của sông Columbia.[54]
Năm 1941, Cục quản lý Năng lượng Bonneville thuê ca sĩ dân ca từ Oklahoma là Woody Guthrie viết các bài hát cho phim tài liệu quảng bá cho các ích lợi của thủy điện. Trong tháng Woody Guthrie du hành ở vùng này, ông đã viết ra 26 ca khúc và trở thành một phần quan trọng trong lịch sử văn hóa của vùng.[55][56]
Việc khai thác gỗ và xây các con đập đã gây ảnh hưởng bất lợi cho những loài cá này. Thu hoạch gỗ làm ô nhiễm nước sông; Dự án Rừng Tây Bắc, một phần của luật liên bang từ năm 1994, đã bắt buộc các công ty gỗ xem xét đến những hậu quả về môi trường đối với việc điều hành các hoạt động của họ trên sông như sông Columbia.[57]
Các con đập làm cản trở việc di cư của các loài cá di cư. Cá hồi và cá hồi ngũ sắc trở về suối mà chúng được sinh ra để đẻ trứng nhưng các con đập đã ngăn cản đường trở về của chúng. Một số đập trên sông Columbia có gắn thang cá cho phép cá di chuyển rất hiệu quả lên thượng nguồn; những đập khác như Đập Grand Coulee và một số sông nhánh hoàn toàn bít lối di cư của cá. Cá cũng được chuyên chở qua các đập trong một số trường hợp. Cá tầm có thói quen di cư khác hơn và có thể sống được mà không cần viếng thăm đại dương. Trong nhiều khu vực thượng nguồn bị chia cách với đại dương bởi các con đập, cá tầm chỉ sống phía thượng nguồn của đập.
Đập Grand Coulee ban đầu được dự định xây dựng chủ yếu dành cho tưới tiêu nhưng sau đó được thiết kế để sản xuất thủy điện với công suất lớn khi Đệ nhị thế chiến leo thang. Năng lượng này được sử dụng để cung cấp nhiên liệu cho Trung tâm Hanford được xây dựng trong thập niên 1940 ở đông nam tiểu bang Washington. Đây là một phần của Dự án Manhattan, trung tâm phục vụ như một cơ sở sản xuất plutoni với 9 lò phản ứng hạt nhân và các cơ sở có liên quan. Phần lớn các cơ sở này đã bị đóng trong thập niên 1960. Trung tâm này hiện dưới quyền kiểm soát của Bộ Năng lượng Hoa Kỳ và gồm nhiều khu cần phải dọn dẹp chống ô nhiễm do chính phủ liên bang tài trợ.[58]
Các cuộc nghiên cứu của Cục Bảo vệ Môi trường Hoa Kỳ và các chương trình theo dõi của tiểu bang đã tìm thấy rằng rác thải hạt nhân đã làm ô nhiễm nước sông Columbia, gây ra một mối đe dọa về nước uống của các cộng đồng dân cư ở hạ nguồn.[59][60]
Ngoài các rác thải hạt nhân, vô số các chất ô nhiễm khác cũng đã được tìm thấy trong dòng sông. Những chất ô nhiễm này bao gồm thuốc trừ sâu, vi trùng, asen, dioxin, và biphenyl đa clo hóa (PCB.)[61]
Các cuộc nghiên cứu cũng đã tìm thấy lượng chất độc đáng kể trong cá và vùng nước chúng sinh sống trong lưu vực. Sự tích tụ các chất độc trong cá đe dọa sự sống còn của các loài cá. Con người khi ăn các loại cá nhiễm độc này cũng sẽ gặp vấn đề đối với sức khỏe.
Chất lượng nước cũng là một nhân tố quan trọng trong sự sinh tồn của các loài hoang dã, cây cỏ sống trong lưu vực sông Columbia. Các tiểu bang, các bộ lạc người bản thổ và chính phủ liên bang đang cùng nhau nỗ lực chấn chỉnh và cải thiện chất lượng nước, đất, không khí của lưu vực sông Columbia và đồng thuận làm việc với nhau để nâng cao và hoàn thiện nỗ lực chấn chỉnh hệ sinh thái. Một số công tác quan trọng hiện nay đang được tiến hành, bao gồm cảng Portland tại hạ nguồn, Hanford tại trung nguồn và hồ Roosevelt tại thượng nguồn.[62]
Những người hoạt động về môi trường đã kêu gọi dỡ bỏ một số đập nước trên hệ thống sông Columbia trong nhiều năm qua. Trong số 227 đập chính trong lưu vực sông Columbia, 4 đập trên hạ lưu sông Snake thường được chỉ định dỡ bỏ nhất. Các đập này và hồ của chúng hiện nay đã làm hạn chế sự tái phục đàn cá hồi thượng nguồn lên sông Salmon và sông Clearwater,[63] Trong lịch sử, sông Snake sản sinh trên 1,5 triệu cá hồi Chinook về mùa xuân và mùa hè. Con số này đã giảm xuống vài ngàn trong những năm gần đây.[64] Các đập Hells Canyon của Công ty Điện lực Idaho không có thang cá (và không có lối cho cá con đi xuống hạ nguồn), và vì vậy không cho cá hồi ngũ sắc hoặc cá hồi di cư lên trên Hells Canyon. Năm 2007, đập Marmot trên sông Sandy là đập nước đầu tiên trong một số đập nước bị dỡ bỏ trong hệ thống sông Columbia.[65]
Ngày 1 tháng 7 năm 2003, Christopher Swain của Portland, Oregon đã trở thành người đầu tiên lội suốt chiều dài của sông Columbia trong một nỗ lực tạo sự chú ý của công chúng về sự ô nhiễm của con sông.[61][66][67]
Sông Columbia
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Sông Columbia | |
Sông | |
Đập Bonneville trên hẻm núi sông Columbia
|
|
Các quốc gia | Canada, Hoa Kỳ |
---|---|
Các bang | Washington, Oregon |
Tỉnh bang | British Columbia |
Các chi lưu | |
- tả ngạn | Sông Kootenay, sông Pend Oreille, sông Spokane, sông Snake, sông Deschutes, sông Willamette |
- hữu ngạn | Sông Okanogan, sông Yakima, sông Cowlitz |
Thành phố | Revelstoke, BC, Tri-Cities, WA, Portland, OR, Vancouver, WA |
Nguồn | Hồ Columbia |
- Vị trí | British Columbia, Canada |
- Cao độ | 2,650 ft (1 m) [1] |
- Tọa độ | 50°13′B 115°51′T [1] |
Cửa sông | Thái Bình Dương |
- cao độ | 0 ft (0 m) |
- tọa độ | 46°14′39″B 124°3′29″T [2] |
Chiều dài | 1,243 mi (2 km) [3] |
Lưu vực | 258,000 mi² (668 Km²) |
Lưu lượng | tại Cửa sông |
- trung bình | 265,000 ft³/s (8 m³/s) [4] |
- tối đa | 1,240,000 ft³/s (0 m³/s) |
- tối thiểu | 12,100 ft³/s (0 m³/s) |
Tính theo lưu lượng nước, sông Columbia là con sông lớn nhất chảy vào Thái Bình Dương từ Bắc Mỹ và là con sông lớn thứ tư tại Hoa Kỳ. Dòng nước mạnh của sông và độ cao đổ xuống lớn trên một đoạn đường tương đối ngắn làm cho nó có tiềm năng rất lớn để sản xuất điện năng. Sông Columbia là con sông sản xuất thủy điện lớn nhất Bắc Mỹ với 14 đập thủy điện tại Hoa Kỳ và Canada.
Sông Columbia và các sông nhánh của nó là nơi sinh sống của vô số các loại cá di cư giữa các sông nhánh nước ngọt nhỏ và Thái Bình Dương. Các loài cá này - đặc biệt là những loài thuộc nhiều nhóm cá hồi khác nhau - đã và đang là phần quan trọng của hệ sinh thái sông và kinh tế địa phương trong hàng ngàn năm qua.
Việc khai thác dòng sông để phục vụ con người và một số trường hợp ô nhiễm công nghiệp đã rất nhiều lần đi ngược với việc bảo tồn hệ sinh thái kể từ khi người Mỹ và người châu Âu bắt đầu đến định cư trong khu vực này trong thế kỷ 18. Việc "lợi dụng dòng sông" như trong văn hóa bình dân của thế kỷ 20 thường diễn tả bao gồm việc nạo vét đáy sông cho tàu thuyền lớn lưu thông, sản xuất năng lượng nguyên tử, nguyên cứu và chế tạo vũ khí nguyên tử, xây đập sản xuất thủy điện, tưới tiêu, hàng hải, và kiểm soát lụt lội.
Mục lục
Lưu vực sông
Với lưu lượng nước chảy trung bình hàng năm khoảng 7.500 m³/s (265.000 ft³/s),[7] sông Columbia là sông lớn nhất tính theo lượng nước chảy vào Thái Bình Dương từ Bắc Mỹ,[8] và là con sông lớn thứ tư của Hoa Kỳ.[7] Tính theo lưu vực nhận nước và chiều dài thì sông Columbia lần lượt đứng hạng 6 và hạng 12 tại Hoa Kỳ.[7] Lưu lượng nước chảy kỷ lục lớn nhất của sông là 35.113 m³/s (1.240.000 ft³/s) vào tháng 6 năm 1984.[9] Con sông chảy trên đoạn dài 2.000 km (1.243 dặm Anh) từ đầu nguồn đến Thái Bình Dương, trong đó 1.199 km (745 dặm) là trên lãnh thổ Hoa Kỳ, nhận nước từ lưu vực rộng khoảng 673.400 km² (260.000 dặm vuông),[10] trong đó khoảng 85% là trong lãnh thổ Hoa Kỳ. Lưu vực nhận nước của sông bao phủ gần như cả tiểu bang Idaho, nhiều phần lớn của tỉnh bang British Columbia, tiểu bang Oregon, tiểu bang Washington, và phần nhỏ một số các tiểu bang lân cận.Hồ Columbia nằm ở cao độ 808 mét (2.650 ft) hình thành thượng nguồn của sông Columbia trong dãy núi Rocky phía Canada ở miền nam tỉnh bang British Columbia (tên tỉnh bang này xuất phát gián tiếp từ tên dòng sông). Trong khoảng 320 km (200 dặm) đầu tiên, sông Columbia chảy theo hướng tây bắc qua hồ Windermere và thị trấn Invermere rồi theo hướng tây bắc đến Golden và vào trong hồ Kinbasket. Sau đó con sông uốn gập về hướng nam (tại "Big Bend" hay là "khúc quanh lớn"), đi qua hồ Revelstoke và các hồ Arrow đến thành phố Castlegar nằm trên nơi hợp lưu giữa sông Columbia với hạ lưu sông Kootenay và là một trong ba trung tâm chính của vùng Tây Kootenay, với Nelson nằm gần hồ Kootenay và Trail ngay ở hạ nguồn, gần nơi hợp lưu của sông Columbia với sông Pend Oreille ngay phía bắc biên giới Hoa Kỳ-Canada.[10] [11] Con sông tạo thành ranh giới phía nam và phía đông của Khu dành riêng cho người bản thổ Colville, và ranh giới phía tây của Khu dành riêng cho người bản thổ Spokane.[12]
Sau đó sông Columbia uốn khúc qua vùng đất địa chất bào mòn của Đông Washington chảy về hướng tây nam rồi quay về hướng nam sau đó về hướng đông nam gần nơi hợp lưu với sông Wenatchee trong Trung Washington. Đoạn chữ C của dòng sông còn được biết tên là "Big Bend" có nghĩa là "khúc quanh lớn"; trong Các trận lụt Missoula (10.000 đến 15.000 năm trước đây), phần nhiều nước theo con đường trực tiếp hơn chảy về phía nam qua Grand Coulee mà sau các trận lụt trở nên khô cạn cho đến khi đập Grand Coulee được xây giữa thế kỷ 20.[13]
Con sông chảy ngang qua Sân khấu ngoài trời Gorge nổi tiếng ở Tây Bắc — và rồi chảy qua Khu nghiên cứu hạt nhân Hanford. Sông Snake nhập vào sông Columbia tại khu vực Tri-Cities. Hanford Reach, một đoạn sông Columbia giữa Đập Ghềnh thác Priest và Tri-Cities, là đoạn phía Hoa Kỳ duy nhất của dòng sông được để chảy tự do mà không bị chắn bởi các con đập. Sông Columbia tạo khúc cong đột ngột về phía tây tại ranh giới Washington-Oregon. Sông tạo ranh giới giữa hai tiểu bang trong khoảng 480 km cuối (300 dặm) hành trình của nó trước khi đổ ra biển.
Con sông này là một trong ba con sông duy nhất chảy xuyên qua dãy núi Cascade (hai con sông kia là sông Klamath phía nam Oregon và sông Pit phía bắc California) ngay khoảng giữa The Dalles, Oregon và Portland hình thành hẻm núi sông Columbia. Hẻm núi này nổi tiếng vì có gió đều đặn và mạnh, có phong cảnh đẹp, và là một nút giao thông quan trọng.[14]
Sông tiếp tục chảy về hướng tây, uốn khúc đột ngột về hướng bắc-tây bắc giữa Portland, Oregon và Vancouver, Washington tại nơi hợp lưu với sông Willamette. Tại đây sông chảy khá chậm và rồi đổ ra Thái Bình Dương ngay sau khi đi qua Astoria, Oregon tại cồn cát Columbia. Cồn cát này là một bãi cát nông thấp khiến cho cửa sông là một trong những khu vực nguy hiểm nhất cho tàu bè đi lại trên thế giới.[15]
Địa chất
Con sông cùng với lưu vực nhận nước của nó đã trải qua một số trận lụt vĩ đại của thế giới được biết đến về cuối thời kỳ băng hà gần đây. Sự tan định kỳ các đập băng ở hồ băng Missoula tạo ra lượng nước gấp 10 lần lượng nước chảy của tất cả các con sông trên thế giới cộng lại cũng như gấp 40 lần trên khoảng thời gian 1.000 năm.[17]
Các mực nước trong các trận lụt Missoula đã được ước tính vào khoảng 381 m (1.250 ft) tại hẻm Wallula, 253 m (830 ft) tại đập Bonneville, và 122 m (400 ft) trên Portland, Oregon ngày nay.[18] Sự tràn ngập nước định kỳ từ các trận lụt trên vùng thấp hơn của cao nguyên sông Columbia đã tích tụ nhiều trầm tích dưới các hồ tạo nên lớp phù sa giàu khoáng chất giúp cho nông nghiệp phát triển thời nay. Chúng cũng hình thành nhiều đặc điểm địa chất bất thường như vùng đất bị xâm thực có nhiều kênh tự nhiên ở Đông Washington.
Người bản xứ của dòng sông
Con người đã sinh sống trong vùng Lưu vực sông Columbia trên 10.000 năm. Trong thập niên 1990, xương cốt của một người (được gọi là Người Kennewick) được tìm thấy gần Kennewick, Washington và được xác định niên đại là thuộc thiên niên kỷ 8 trước công nguyên. Việc khám phá này đã kích thích một cuộc tranh luận trong cộng đồng khoa học về nguồn gốc của con người sống tại Bắc Mỹ, và cũng nhóm lên một cuộc tranh cãi kéo dài về vấn đề cộng đồng người bản thổ Mỹ hay cộng đồng khoa học có quyền giữ và/hay nghiên cứu những xương cốt người này.[19]Thác Celilo là một trung tâm văn hóa và kinh tế trong khoảng 10.000 năm; các thương nhân đã tụ về đây từ khắp miền tây Bắc Mỹ để trao đổi mua bán, bị lôi cuốn phần nhiều bởi lượng cá hồi dồi dào. Việc xây dựng Đập The Dalles trong giữa thế kỷ 20 đã khiến một cộng đồng thịnh vượng người bản thổ Mỹ phải di trú nơi khác; sự tiên đoán của Công binh Lục quân Hoa Kỳ về một nền kinh tế tươi sáng và đầy việc làm dọc theo con sông đã không xảy ra.[20][21]
Một số bộ lạc người bản thổ Mỹ vẫn tiếp tục hiện diện ngày nay cũng như trong lịch sử trên sông Columbia. Người Sinixt sống trên phần đất Canada; người Colville, Spokane, Yakama, Nez Perce, Umatilla, các bộ lạc Warm Springs sống dọc theo dòng sông thuộc Hoa Kỳ. Dọc thượng nguồn sông Snake và sông Salmon có các bộ lạc Shoshone Bannock. Gần hạ lưu sông Columbia có các bộ lạc Cowlitz và Chinook. Các bộ lạc Yakama, Nez Perce, Umatilla, và Warm Springs đều có hiệp ước được quyền đánh bắt cá dọc theo sông Columbia và những con sông nhánh.
Thế giới thám hiểm dòng sông
Thuyền trưởng buôn da thú người Anh là John Meares tìm con sông dựa vào các bản báo cáo của Heceta năm 1788. Ông đọc sai chi tiết luồng sông và kết luận rằng con sông thật sự không tồn tại. Trung tá Hải quân Hoàng gia Anh là George Vancouver đi tàu ngang qua cửa sông vào tháng 4 năm 1792 và quan sát thấy sự thay đổi màu sắc của nước nhưng ông chấp nhận báo cáo của Meares và tiếp tục chuyến hành trình của mình.[5]
Ngày 11 tháng 5 năm 1792, Thuyền trưởng Robert Gray của Mỹ đã tiến hành đi thuyền vào sông Columbia và trở thành nhà thám hiểm đầu tiên đi vào con sông. Gray đã du hành đến Tây Bắc Thái Bình Dương để trao đổi mua bán da thú trên một con tàu tư nhân tên là Columbia Rediviva; ông đặt tên con sông này theo tên của chiếc tàu. Gray lưu lại 9 ngày mua bán gần cửa sông, rồi bỏ đi mà không tiến xa hơn 21 km (13 dặm) lên thượng nguồn. Chẳng bao lâu sau đó Vancouver biết rằng Gray đã tuyên bố là đã tìm được con sông có thể lưu thông và chính Vancouver đã tự đi điều tra. Tháng 10 năm 1792, Vancouver phái đại úy hải quân William Robert Broughton, người chỉ huy thứ hai sau ông, đi ngược lên dòng sông. Broughton đi thuyền ngược dòng khoảng vài dặm rồi tiếp tục cuộc hành trình bằng xuồng nhỏ. Ông đi xa đến tận Hẻm núi sông Columbia khoảng 160 km (100 dặm Anh) ở thượng nguồn. Ông nhìn thấy và đặt tên núi Hood cũng như mũi đất Vancouver, gần thành phố Vancouver, Washington ngày nay. Ông cũng chính thức tuyên bố chủ quyền con sông, lưu vực và duyên hải xung quanh của nó cho Vương quốc Anh. Việc khám phá ra sông Columbia của Gray được Hoa Kỳ dùng để củng cố tuyên bố chủ quyền của mình đối với Xứ Oregon mà cũng bị Nga, Vương quốc Anh, Tây Ban Nha và các quốc gia khác tuyên bố chủ quyền.[22]
Những nhà thám hiểm Pháp gọi sông Columbia là Ouragan (có nghĩa là: "bão táp"). Từ này là một trong các từ ngữ có vẻ hợp lý về nguồn gốc của tên gọi Oregon.
Hai nhà thám hiểm Mỹ Lewis và Clark đã vẽ biểu đồ những vùng đất rộng lớn phía tây của sông Missouri mà chưa có trên các bản đồ và họ du hành xuống sông Columbia trên chặng cuối cuộc hành trình của họ năm 1805. Họ thám hiểm xa về phía thượng nguồn tới Đảo Bateman gần Tri-Cities, Washington ngày nay. Chuyến đi của họ kết thúc tại cửa sông.
Nhà thám hiểm Canada David Thompson của Công ty North West đã sống qua mùa đông 1807–1808 tại Kootenae House gần thượng nguồn của sông Columbia ở Invermere, British Columbia ngày nay. Năm 1811, ông du hành theo sông Columbia đến Thái Bình Dương và trở thành người Âu-Mỹ đầu tiên đi hết chiều dài của con sông.
Năm 1825, nhân danh Công ty Hudson's Bay, bác sĩ John McLoughlin thiết lập Đồn Vancouver (hiện nay là Vancouver, Washington) trên bờ sông Columbia làm tổng hành dinh mậu dịch tại vùng này. Vào thời đó, đồn Vancouver là khu định cư của người châu Âu lớn nhất trong vùng tây bắc. Mỗi năm, tàu thuyền đến từ London (qua ngả Thái Bình Dương) đưa đồ tiếp liệu và hàng hóa mua bán để đổi lấy da thú. Đối với nhiều người dân định cư, đồn trở thành chặng dừng chân cuối cùng trên đường mòn Oregon để mua tiếp liệu và đất trước khi bắt đầu dựng nghiệp của mình tại đây. Vì nó nằm ngay thủy lộ đi lên sông Columbia, tầm ảnh hưởng của Đồn Vancouver đã vươn tới từ Alaska đến California và từ dãy núi Rocky đến quần đảo Hawaii.
Bước sang thế kỷ 20, sự khó khăn trong việc đi lại bằng tàu thuyền trên sông Columbia được xem là một trở ngại trong việc phát triển kinh tế vùng Vương quốc Nội địa phía đông Dãy núi Cascade.[23] Việc nạo vét và xây đập theo sau đó đã vĩnh viễn thay đổi dòng sông, ngăn chặn dòng chảy tự nhiên của nó nhưng cũng mang lại lợi ích là sản xuất điện, thủy lợi tưới tiêu hoa màu, lưu thông trên sông và những lợi ích khác nữa đối với vùng này.
Lưu thông trên sông
Việc sử dụng tàu hơi nước bắt đầu vào năm 1850,[25] đã góp phần vào việc định cư nhanh và phát triển kinh tế vùng này.[26][27] Tàu hơi nước hoạt động tại một số nơi: trên những vùng thấp của con sông từ Thái Bình Dương đến ghềnh thác Cascades, từ dãy núi Cascade đến thác Celilo, và từ Celilo đến nơi hợp lưu với sông Snake; trên vùng Wenatchee phía đông của tiểu bang Washington; trên các hồ Arrow của tỉnh bang British Columbia; và trên các sông nhánh như sông Willamette và sông Snake. Tàu thuyền, ban đầu chạy bằng củi đốt, chở cả người và hàng hóa khắp vùng trong nhiều năm. Các tuyến xe lửa phục vụ nối liền các thủy lộ nơi mà tàu hơi nước không chạy được vì thác nước ngăn cách trên những vùng phía dưới thấp của con sông.[28] Trong thập niên 1880, các tuyến xe lửa của các công ty như Công ty Thủy lộ và Đường sắt Oregon (Oregon Railroad and Navigation Company) và Công ty Vận tải Shaver bắt đầu cung cấp thêm dịch vụ tàu hơi nước như các kết nối giao thông chính dọc theo con sông.[28]
Việc cải biến sông Columbia nhằm làm cho giao thông đường thủy dễ dàng hơn đã được tiên liệu vào đầu năm 1881,[25] và tiếp tục đến ngày nay. Cồn cát Columbia, một bãi cát luôn thay đổi ở cửa sông làm cho lưu thông giữa sông và Thái Bình Dương khó khăn và nguy hiểm. Thêm vào đó có vô số các ghềnh thác dọc con sông làm cho việc đi lại bằng đường thủy trên sông gặp nhiều trắc trở. Việc biến đổi con sông đã bao gồm việc xây dựng các vách ngăn hay đê chắn sóng để giữ cho lòng sông không bị dịch chuyển theo thời gian ở tại cửa sông, nạo vét lòng sông, và xây dựng các kênh và âu thuyền.
Các vách ngăn và đê chắn sóng đầu tiên được xây vào năm 1886 [25] đã nới rộng thủy lộ của con sông vào trong đại dương. Dòng chảy và các bãi cát đang dịch chuyển phía bên dưới mặt nước vẫn là một mối đe dọa đối với tàu thuyền đi vào sông vì thế các vách chắn và đê chắn sóng luôn được bảo trì. Ngày nay, các tàu chở hàng đại dương có thể chạy xa lên thượng nguồn đến Portland và Vancouver, và các xà lan có thể đi vào sâu nội địa tới tận Lewiston, Idaho và Đông Washington.[29]
Các âu thuyền được xây đầu tiên vào năm 1896 quanh Ghềnh thác Cascade,[30] giúp tàu thuyền đi an toàn qua hẻm núi sông Columbia.[31] Kênh Celilo đi ngang qua Thác Celilo được mở cho lưu thông vào năm 1915.[32]
Năm 1891, sông Columbia được nạo vét luồng để gia tăng việc chở hàng hóa; luồng sông giữa đại dương và Portland/Vancouver được vét sâu từ 5,2 mét (17 ft) đến 7,6 mét (25 ft). Nhật báo The Columbian đã kêu gọi vét sâu lòng sông đến 12,2 mét (40 ft) vào đầu năm 1905 nhưng độ sâu đó không đạt được cho đến năm 1976.[33]
Trong giữa thế kỷ 20, việc xây dựng các con đập đã nhận chìm các thác nước gần một loạt các hồ chứa nước, và các âu thuyền đã cho phép các con tàu và xà lan đi qua dễ dàng từ hồ chứa nước này sang hồ chứa nước khác. Một kênh lưu thông chạy dài tới Lewiston, Idaho dọc theo sông Columbia và sông Snake được hoàn thành năm 1975.[25]
Sự kiện Núi lửa St. Helens phun vào năm 1980 đã gây ra các vụ đất lở trong khu vực làm giảm độ sâu của sông Columbia xuống còn 7,6 mét (25 ft) trong một đoạn dài 6,5 km (4 dặm) khiến làm ngưng trệ nền kinh tế của Portland.[34]
Năm 1999, Quốc hội Hoa Kỳ cho phép nạo vét phần hạ lưu sông Columbia giữa Portland và Astoria từ 12 đến 13 mét (40–43 ft). Độ sâu 13 mét sẽ giúp cho các tàu thuyền vận tải lớn hay tàu chở ngũ cốc có thể tới Portland và Vancouver.[35]
Tuy nhiên dự án này bị chống đối vì quan ngại rằng nó sẽ khuấy động các chất cặn bã độc hại nằm dưới lòng sông. Nhóm hoạt động môi trường Tây Bắc có trụ sở ở Portland đã nộp đơn kiện chống Công binh Lục quân Hoa Kỳ nhưng đã bị tòa Phúc thẩm Hoa Kỳ bác bỏ đơn kiện vào tháng 8 năm 2006.[36]
Dự án bao gồm nhiều biện pháp giảm bớt hư hại môi trường; thí dụ, cứ mỗi 4.000 m² (1 mẫu Anh) đất ngập nước bị hư hại bởi kế hoạch này thì Công binh Lục quân Hoa Kỳ phải tái tạo 49.000 m² (12 mẫu Anh) vùng đất ngập nước.[35] Vào đầu năm 2006, Công binh Lục quân Hoa Kỳ đã làm đổ khoảng 189 L (50 gallon) dầu máy thủy lực xuống sông Columbia tạo ra nhiều lời chỉ trích từ các tổ chức môi trường.[37]
Các cuộc nghiên cứu cho dự án này đã được tiến hành từ đầu năm 1990, và gây nhiều tranh cãi từ lúc khởi sự.[38] Sau khi được chấp thuận vào năm 1999, việc thực hiện bắt đầu vào năm 2005, và hy vọng sẽ hoàn thành vào năm 2010. Chi phí của dự án được ước tính vào khoảng 150 triệu đô la. Chính phủ liên bang đóng góp 65%, Oregon và Washington mỗi tiểu bang đóng góp 27 triệu, và sáu cảng địa phương cũng tham gia đóng góp chi phí.[35][39]
Các con đập: "khai thác" dòng sông
Con sông này có thể do Thượng đế hoặc do băng hà hay dấu vết của biển
nội địa hay trọng lực hay sự tổng hợp tất cả tạo ra hình dáng, nhưng
bây giờ thì Công binh Lục quân Hoa Kỳ đang chế ngự nó. Sông Columbia lên
và xuống không phải là theo ý thủy triều hay mưa lụt mà theo lịch trình
do liên bang ấn định, công minh hợp pháp và được điện toán hóa mà sự
thay đổi chỉ xảy ra khi một vụ tranh tụng có kết quả hoặc một Thượng
nghị sĩ Hoa Kỳ gần đến thời gian bầu cử. Trong ý nghĩa đó, nó đáng tin
cậy.
Timothy Egan, trong The Good Rain[40]
Phát triển sông được thực hiện theo nền tảng của Hiệp ước Sông Biên giới Quốc tế giữa Hoa Kỳ và Canada. Trong thập niên 1960, Hoa Kỳ và Canada đã ký Hiệp ước sông Columbia. Canada đồng ý xây đập và cung cấp nơi làm hồ chứa nước và Hoa Kỳ đồng ý cung ứng trước phân nửa lợi ích năng lượng hạ nguồn ngày càng gia tăng của Hoa Kỳ được ước tính là 5 năm. Canada đáp ứng nghĩa vụ của mình theo hiệp ước bằng cách xây 3 đập (hai trên sông Columbia và một trên sông Duncan), đập cuối cùng xây xong vào năm 1973.
Ngày nay, dòng chính của sông Columbia có 14 đập (3 tại Canada, 11 tại Hoa Kỳ.) Bốn đập chính và bốn đập trên sông Snake thấp hơn có âu thuyền để cho phép tàu thuyền qua lại. Vô số các con sông nhánh của sông Columbia có đập dùng cho thủy điện và/hoặc tưới tiêu hoa màu. Các đập nhắm vào vô số những nhu cầu gồm có kiểm soát lũ lụt, giao thông đường thủy, điều hòa dòng chảy, giữ và giao nước, cải tạo đất công cộng và các khu dành riêng cho người bản thổ, và sản xuất thủy điện.[42] Nhiều sông nhánh của sông cũng có đập; 4 trên Sông Snake thấp hơn có những âu thuyền, cho phép tàu thuyền đi từ đại dương lên đến Lewiston, Idaho.
Các con đập lớn hơn của Hoa Kỳ do chính phủ Hoa Kỳ làm chủ và quản lý (một số của Công binh Lục quân Hoa Kỳ, một số của Cục quản lý nguồn nước Hoa Kỳ), trong lúc khu vực công chánh và các công ty năng lượng tư nhân kiểm soát nhiều đập nhỏ hơn.
Việc dựng lên các con đập đã thay đổi ngoạn mục phong cảnh và hệ sinh thái của con sông. Có lúc sông Columbia là một trong những hệ thống sông sản sinh nhiều cá hồi nhất trên thế giới.[43] Các khu vực đánh bắt cá trước đây, nổi bật nhất là thác Celilo ở phía đông hẻm núi sông Columbia, đã có dấu hiệu giảm sút đáng kể số lượng cá dọc theo sông Columbia trong thế kỷ qua. Sự hiện diện của các đập cùng với việc đánh bắt cá quá nhiều đã đóng vai trò chính trong việc giảm lượng cá hồi. Thang cá đã được xây dựng tại một số đập để giúp cá bơi ngược dòng lên nơi sinh sản. Đập Grand Coulee không có thang cá nào và hoàn toàn chặn đường của cá di cư lên nửa thượng lưu của hệ thống sông Columbia.
Thủy lợi
Dự án Lưu vực sông Columbia của Cục quản lý nguồn nước Hoa Kỳ tập trung trên Lưu vực sông Columbia thường khô hạn nhưng có đất hoàng thổ phì nhiêu được tích tụ sau các trận lụt Missoula. Một số nhóm đã đưa ra những đề xuất cạnh tranh và vào năm 1933, Tổng thống Franklin D. Roosevelt đã ký sắt lệnh cho phép thực hiện dự án này. Đập Grand Coulee là thành phần chính của dự án; khi hoàn thành, nó đã đưa nước từ sông Columbia lên vùng Grand Coulee trước kia bị khô hạn và hình thành Hồ Banks. Vào năm 1935, chiều cao dự tính của đập được tăng lên từ 60,96-91,44 mét (200-300 ft) đến 152,4 mét (500 ft). Chiều cao như thế đã mở rộng hồ đến tận biên giới với Canada; dự án đã phát triển từ qui mô địa phương thành một dự án chính cấp quốc gia.[42]Mục đích chính của dự án là cung cấp nước tưới tiêu cho hoa màu nhưng Đệ nhị thế chiến bùng nổ đã tạo ra nhu cầu cao về điện năng, chủ yếu là để sản xuất nhôm và phát triển vũ khí hạt nhận tại Trung tâm Hanford. Việc tưới tiêu bắt đầu vào năm 1951.[44] Dự án cung cấp nước cho trên 2.000 km² (500.000 mẫu Anh) đất phì nhiêu nhưng khô hạn tại Trung Washington. Nước từ dự án đã chuyển đổi vùng này từ đất bỏ hoang thành một trung tâm nông nghiệp chính. Các nông sản gồm có táo, khoai tây, cỏ linh lăng, lúa mì, ngô, lúa mạch, hoa bia, đậu và củ cải đường.
Từ năm 1750, sông Columbia đã trải qua 6 lần khô hạn kéo dài nhiều năm. Lần khô hạn dài nhất là trong giữa thập niên 1800, kéo dài 12 năm với dòng chảy của sông giảm 20% dưới mức trung bình. Các nhà khoa học đã tỏ ra quan tâm đến việc một trận khô hạn như thế có thể gây ra hậu quả gì đối với nền kinh tế ngày nay của vùng mà phụ thuộc rất nhiều vào sông Columbia.[45] Năm 1992–1993, một trận hạn hán nhỏ hơn đã làm ảnh hưởng đến những người nông dân, các nhà sản xuất thủy điện, các nhà vận tải thủy và các nhà quản lý động vật hoang dã.[45]
Thủy điện
Hãy cuốn trôi, Columbia, cuốn trôi, cuốn trôi, Columbia, cuốn trôi
Sức mạnh của người đang biến đêm tối của chúng tôi thành bình minh
Hãy cuốn trôi, Columbia, cuốn trôi.
Sức mạnh của người đang biến đêm tối của chúng tôi thành bình minh
Hãy cuốn trôi, Columbia, cuốn trôi.
Bài hát Roll on Columbia của Woody Guthrie, được viết theo ủy thác của Cục quản lý Năng lượng Bonneville
Trong khi thủy điện chỉ chiếm 6,5% năng lượng tại Hoa Kỳ, sông Columbia và các sông nhánh của nó cung cấp khoảng 60% năng lượng thủy điện của duyên hải miền tây.[46] Lớn nhất trong 150 dự án thủy điện là Đập Grand Coulee và Đập Chief Joseph và cũng là các đập lớn nhất tại Hoa Kỳ;[47][48] và trong số các đập lớn nhất trên thế giới.[49]
Năng lượng thủy điện rẻ đã giúp hình thành công nghiệp sản xuất nhôm mở rộng, là ngành cần rất nhiều năng lượng. Năm 2000, Công ty Tây Bắc Hoa Kỳ (Northwestern United States) đã sản xuất đến 40% sản lượng nhôm tại Hoa Kỳ và 17% lượng nhôm thế giới.[50] Nhưng việc hàng hóa hóa năng lượng trong đầu thập niên 2000, cộng với tình trạng khô hạn làm giảm công suất phát điện của dòng sông, đã gây tổn thất cho ngành công nghiệp này; vào năm 2003, Hoa Kỳ chỉ sản xuất được 15% sản lượng nhôm của thế giới. Nhiều doanh nghiệp sản xuất nhôm dọc theo sông Columbia nằm im chờ đợi hoặc phá sản.[51][52]
Năng lượng vẫn tương đối rẻ dọc theo sông Columbia và trong những năm gần đây, các công ty kỹ thuật cao như Google đã bắt đầu di chuyển các phân bộ điều hành hoạt động máy chủ vào trong vùng này để sử dụng năng lượng rẻ.[53]
Ở hạ lưu của Grand Coulee, hồ nước của mỗi con đập được Cục quản lý Năng lượng Bonneville, Công binh Lục quân Hoa Kỳ và vô số các Khu Công chánh tiểu bang Washington theo dõi và ấn định điều lệ cẩn thận để chắc chắn rằng các mục tiêu về dòng chảy, sự kiểm soát lụt lội và sản xuất điện đạt chỉ tiêu đề xuất. Càng ngày, các hoạt động sản xuất thủy điện được yêu cần hội đủ các tiêu chuẩn theo Luật về loài nguy cấp (Endangered Species Act) và những thỏa thuận điều hành các hoạt động để giảm thiểu tối đa hậu quả đối với cá hồi và các loài cá khác. Các nhóm đánh bắt cá ủng hộ việc phá bỏ 4 đập trên sông Snake, con sông nhánh lớn nhất của sông Columbia.[54]
Năm 1941, Cục quản lý Năng lượng Bonneville thuê ca sĩ dân ca từ Oklahoma là Woody Guthrie viết các bài hát cho phim tài liệu quảng bá cho các ích lợi của thủy điện. Trong tháng Woody Guthrie du hành ở vùng này, ông đã viết ra 26 ca khúc và trở thành một phần quan trọng trong lịch sử văn hóa của vùng.[55][56]
Sinh thái và môi trường
Việc khai thác gỗ và xây các con đập đã gây ảnh hưởng bất lợi cho những loài cá này. Thu hoạch gỗ làm ô nhiễm nước sông; Dự án Rừng Tây Bắc, một phần của luật liên bang từ năm 1994, đã bắt buộc các công ty gỗ xem xét đến những hậu quả về môi trường đối với việc điều hành các hoạt động của họ trên sông như sông Columbia.[57]
Các con đập làm cản trở việc di cư của các loài cá di cư. Cá hồi và cá hồi ngũ sắc trở về suối mà chúng được sinh ra để đẻ trứng nhưng các con đập đã ngăn cản đường trở về của chúng. Một số đập trên sông Columbia có gắn thang cá cho phép cá di chuyển rất hiệu quả lên thượng nguồn; những đập khác như Đập Grand Coulee và một số sông nhánh hoàn toàn bít lối di cư của cá. Cá cũng được chuyên chở qua các đập trong một số trường hợp. Cá tầm có thói quen di cư khác hơn và có thể sống được mà không cần viếng thăm đại dương. Trong nhiều khu vực thượng nguồn bị chia cách với đại dương bởi các con đập, cá tầm chỉ sống phía thượng nguồn của đập.
Đập Grand Coulee ban đầu được dự định xây dựng chủ yếu dành cho tưới tiêu nhưng sau đó được thiết kế để sản xuất thủy điện với công suất lớn khi Đệ nhị thế chiến leo thang. Năng lượng này được sử dụng để cung cấp nhiên liệu cho Trung tâm Hanford được xây dựng trong thập niên 1940 ở đông nam tiểu bang Washington. Đây là một phần của Dự án Manhattan, trung tâm phục vụ như một cơ sở sản xuất plutoni với 9 lò phản ứng hạt nhân và các cơ sở có liên quan. Phần lớn các cơ sở này đã bị đóng trong thập niên 1960. Trung tâm này hiện dưới quyền kiểm soát của Bộ Năng lượng Hoa Kỳ và gồm nhiều khu cần phải dọn dẹp chống ô nhiễm do chính phủ liên bang tài trợ.[58]
Các cuộc nghiên cứu của Cục Bảo vệ Môi trường Hoa Kỳ và các chương trình theo dõi của tiểu bang đã tìm thấy rằng rác thải hạt nhân đã làm ô nhiễm nước sông Columbia, gây ra một mối đe dọa về nước uống của các cộng đồng dân cư ở hạ nguồn.[59][60]
Ngoài các rác thải hạt nhân, vô số các chất ô nhiễm khác cũng đã được tìm thấy trong dòng sông. Những chất ô nhiễm này bao gồm thuốc trừ sâu, vi trùng, asen, dioxin, và biphenyl đa clo hóa (PCB.)[61]
Các cuộc nghiên cứu cũng đã tìm thấy lượng chất độc đáng kể trong cá và vùng nước chúng sinh sống trong lưu vực. Sự tích tụ các chất độc trong cá đe dọa sự sống còn của các loài cá. Con người khi ăn các loại cá nhiễm độc này cũng sẽ gặp vấn đề đối với sức khỏe.
Chất lượng nước cũng là một nhân tố quan trọng trong sự sinh tồn của các loài hoang dã, cây cỏ sống trong lưu vực sông Columbia. Các tiểu bang, các bộ lạc người bản thổ và chính phủ liên bang đang cùng nhau nỗ lực chấn chỉnh và cải thiện chất lượng nước, đất, không khí của lưu vực sông Columbia và đồng thuận làm việc với nhau để nâng cao và hoàn thiện nỗ lực chấn chỉnh hệ sinh thái. Một số công tác quan trọng hiện nay đang được tiến hành, bao gồm cảng Portland tại hạ nguồn, Hanford tại trung nguồn và hồ Roosevelt tại thượng nguồn.[62]
Những người hoạt động về môi trường đã kêu gọi dỡ bỏ một số đập nước trên hệ thống sông Columbia trong nhiều năm qua. Trong số 227 đập chính trong lưu vực sông Columbia, 4 đập trên hạ lưu sông Snake thường được chỉ định dỡ bỏ nhất. Các đập này và hồ của chúng hiện nay đã làm hạn chế sự tái phục đàn cá hồi thượng nguồn lên sông Salmon và sông Clearwater,[63] Trong lịch sử, sông Snake sản sinh trên 1,5 triệu cá hồi Chinook về mùa xuân và mùa hè. Con số này đã giảm xuống vài ngàn trong những năm gần đây.[64] Các đập Hells Canyon của Công ty Điện lực Idaho không có thang cá (và không có lối cho cá con đi xuống hạ nguồn), và vì vậy không cho cá hồi ngũ sắc hoặc cá hồi di cư lên trên Hells Canyon. Năm 2007, đập Marmot trên sông Sandy là đập nước đầu tiên trong một số đập nước bị dỡ bỏ trong hệ thống sông Columbia.[65]
Ngày 1 tháng 7 năm 2003, Christopher Swain của Portland, Oregon đã trở thành người đầu tiên lội suốt chiều dài của sông Columbia trong một nỗ lực tạo sự chú ý của công chúng về sự ô nhiễm của con sông.[61][66][67]
Các sông nhánh chính
|
Chú thích
- ^ a ă Tọa độ và độ cao cho sông Columbia lấy từ Google Earth. Tra cứu ngày 20 tháng 4 năm 2007.
- ^ USGS; Columbia River – Hệ thống Thông tin Địa danh (GNIS), Cục Khảo sát Địa chất Hoa Kỳ (USGS); tra cứu ngày 20 tháng 4 năm 2007.
- ^ Columbia River Keeper, The River[liên kết hỏng]. Tra cứu ngày 20 tháng 4 năm 2007.
- ^ Các sông lớn nhất tại Hoa Kỳ, USGS; tra cứu ngày 21 tháng 4 năm 2007. Dữ liệu lưu lượng tối đa và tối thiểu lấy từ Water Data Report WA-05-1, chương Klickitat and White Salmon River Basins and the Columbia River from Kennewick to Bonneville Dam; tra cứu ngày 20 tháng 4 năm 2007. Dữ liệu y hệt trong: Loy, William G.; Stuart Allan, Aileen R. Buckley, James E. Meecham (2001). Atlas of Oregon. Nhà in Đại học Oregon. tr. 164–165. ISBN 0-87114-102-7.
- ^ a ă â Oldham, Kit (13 tháng 1 năm 2003). “Captain Robert Gray becomes the first non-Indian navigator to enter the Columbia River, which he later names, on May 11, 1792.”. HistoryLink Essay. History Ink. Truy cập ngày 11 tháng 12 năm 2006.
- ^ Loy, William G.; Stuart Allan, Aileen R. Buckley, James E. Meecham (2001). Atlas of Oregon. Nhà in Đại học Oregon. tr. 24. ISBN 0-87114-102-7.
- ^ a ă â Kammerer, J.C. (tháng 5 năm 1990). “Largest Rivers in the United States”. U.S. Geological Survey. Truy cập ngày 26 tháng 1 năm 2008.
- ^ Gerber, Michele (1992). “Legend and Legacy: Fifty Years of Defense Production at the Hanford Site”. Đại học Washington, Trung tâm nghiên cứu Tây Bắc Thái Bình Dương. Truy cập ngày 26 tháng 1 năm 2008.[liên kết hỏng]
- ^ Northwest Council
- ^ a ă "Columbia (river, North America),"[liên kết hỏng] Microsoft Encarta Online Encyclopedia 2007. Truy cập ngày 25 tháng 11 năm 2007.
- ^ “Land and Data Resource Warehouse Catalogue”. Government of BVritish Columbia. N/a. Truy cập n/a.[liên kết hỏng]
- ^ “Health consultation”. Colville Federated Tribes. Bộ Y tế Hoa Kỳ. 7 tháng 3 năm 2001. Truy cập ngày 8 tháng 11 năm 2007.
- ^ “Columbia Basin Project: Research on Historic Reclamation Projects (Second Draft)”. Bureau of Reclamation History Program, Denver, Colorado. 1998. Truy cập ngày 9 tháng 3 năm 2008.[liên kết hỏng]
- ^ “Columbia River Gorge National Scenic Area”. Cục Lâm nghiệp Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ (USDA). Truy cập ngày 7 tháng 12 năm 2007.
- ^ Jacklet, Ben (19 tháng 10 năm 2004). “Columbia pilot pay attracts port’s eye”. Portland Tribune. Truy cập ngày 14 tháng 6 năm 2007.
- ^ “The Geologic History of the Columbia River Gorge”. USGS.
- ^ “Glacial Lake Missoula and the Missoula Floods”. Cục Khảo sát Địa chất Hoa Kỳ. Truy cập ngày 19 tháng 11 năm 2006.
- ^ Houck, Michael C.; Cody M.J. (2000). Wild in the City. Hội Lịch sử Oregon. ISBN 0-87595-273-9.
- ^ Lemonick, Michael D.; Andrea Dorfman (13 tháng 3 năm 2006). “Who Were The First Americans?”. Time.
- ^ Mortenson, Eric (4 tháng 3 năm 2007). “Still waters, stolen lives”. The Oregonian.
- ^ Frazier, Joseph B. (4 tháng 3 năm 2007). “Half a Century Later, Dam's Closing Is a Painful Memory”. Associated Press (The Washington Post).
- ^ Jacobs, Melvin C. (1938). Winning Oregon: A Study of An Expansionist Movement. The Caxton Printers, Ltd. 77.
- ^ Reeder, Lee B. (1902). “Open the Columbia to the sea”. Pendleton Daily Tribune (E. P. Dodd). Truy cập ngày 13 tháng 5 năm 2007.
- ^ Hopper Dredges, from globalsecurity.org
- ^ a ă â b “The Oregon Story: A Chronology of Ports in Oregon”. Oregon Public Broadcasting. 18 tháng 1 năm 2007. Truy cập ngày 15 tháng 2 năm 2008.
- ^ Affleck, Edward L. (2000). A Century of Paddlewheelers in the Pacific Northwest, the Yukon, and Alaska. Vancouver, BC: Alexander Nicholls Press. tr. page 6. ISBN 0-920034-08-X.
- ^ Corning, Howard McKinley (1977). Willamette Landings (2nd Ed.). Portland, Ore.: Oregon Historical Society. ISBN 0-87595-042-6.
- ^ a ă Timmen, Fritz (1972). Blow for the Landing. Caldwell, Ida.: Caxton Printers. ISBN 0-87004-221-1.
- ^ Center for Columbia River History web site
- ^ The Oregonian, ngày 1 tháng 1 năm 1895, trang 8
- ^ Scott, Harvey W.; Leslie M. Scott (1924). History of the Oregon Country. Cambridge: Nhà in Riverside. tr. Quyển 3, trang 190.
- ^ “The Dalles-Celilo Canal on Columbia River opens to traffic on May 5, 1915.”. HistoryLink.org. Truy cập ngày 26 tháng 11 năm 2007.
- ^ “Rewind--Editorials from our archives: 1905: 40 ft (12 m). depth wanted”. The Columbian. 26 tháng 12 năm 2005.
- ^ Harris Stephen L. (1988). Fire Mountains of the West: The Cascade and Mono Lake Volcanoes. Missoula: Mountain Press Publishing Company, Missoula. trang 209. ISBN 0-87842-220-X
- ^ a ă â Koenninger, Tom (7 tháng 3 năm 2007). “Dredging Columbia a very big job”. The Columbian.
- ^ “In Our View - Monitor the Dredging”. The Columbian. 26 tháng 8 năm 2006.
- ^ Robinson, Erik (3 tháng 3 năm 2006). “State rebukes Corps of Engineers over oil spill”. The Columbian.
- ^ Paul Koberstein and Kathie Durbin (21 tháng 1 năm 1990). “Cleanup study already bogged in controversy”. The Oregonian.
- ^ “Bush budget offers $15 million for dredging”. The Columbian. 8 tháng 2 năm 2006.
- ^ Egan, Timothy (1990). The Good Rain. Knopf. ISBN 0-394-57724-8.
- ^ Website của Cục quản lý nguồn nước Hoa Kỳ. Truy cập ngày 19 tháng 11 năm 2007.
- ^ a ă Pitzer, Paul (1994). Grand Coulee: Harnessing a Dream. Pullman, Washington: Nhà in Đại học Tiểu bang Washington. ISBN 978-0874221107.
- ^ Rosenberg, John (19 tháng 7 năm 2000). “Sacred and shared - clergy work to save Columbia River”. Christian Century. Truy cập ngày 27 tháng 11 năm 2007.[liên kết hỏng]
- ^ “Chương 2”. Lake Roosevelt, Administrative History. Cục Vườn quốc gia Hoa Kỳ: Bộ Nội vụ Hoa Kỳ. Truy cập ngày 20 tháng 11 năm 2006.
- ^ a ă Hines, Sandra; Yasmeen Sands and Lori Bona Hunt (14 tháng 2 năm 2005). “Tree-ring data reveals multiyear droughts unlike any in recent memory”. Đại học Tiểu bang Washington, Phòng tin tức và thông tin. Truy cập ngày 26 tháng 1 năm 2008.
- ^ Energy Information Administration, Electric Power Annual, U.S. Army Corps of Engineers, Federal Columbia River Power System, brochure (2003), trang 1.
- ^ “Renewable Energy Sources: A Consumer's Guide”. Bộ Năng lượng Hoa Kỳ: Cục Thông tin Năng lượng. Truy cập ngày 19 tháng 11 năm 2007.
- ^ Chief Joseph Dam, US Army Corps of Engineers
- ^ www.infoplease.com
- ^ Kinsey Hill, Gail (11 tháng 3 năm 2001). “Aluminum industry powering down”. The Oregonian. Truy cập ngày 7 tháng 12 năm 2007.
- ^ Fehrenbacher, Gretchen (23 tháng 2 năm 2003). “Aluminum all but gone”. The Columbian.
- ^ McCall, William (22 tháng 11 năm 2002). “BPA chief to detail strategy for troubled power broker”. The Columbian.
- ^ Mehta, Stephanie N. (7 tháng 8 năm 2006). “Behold the server farm! Glorious temple of the information age!”. Fortune.
- ^ Milstein, Michael (11 tháng 12 năm 2007). “Judge rips latest plan to help salmon”. The Oregonian. Truy cập ngày 3 tháng 1 năm 2008.
- ^ Heinz, Spencer (8 tháng 7 năm 2007). “Rolling along the Columbia, driving for Woody Guthrie”. The Oregonian.
- ^ Morrow, Lance (8 tháng 7 năm 2002). “This Land Is Whose Land? Times and priorities change. Woody Guthrie hailed Lewis and Clark for finding a place to build dams. Today his tune might be different”. Time.
- ^ Pegg, J.R. (26 tháng 11 năm 2002). “Bush Change to NW Forest Plan Would Ease Logging”. Environment News Service.
- ^ “Hanford (100-Area USDOE)”. U.S. Environmental Protection Agency.
- ^ EPA report, Hanford 100-Area (USDOE), tháng 9 năm 2007
- ^ Murphy, Kim (12 tháng 3 năm 2000). “Radioactive Waste Seeps Toward The Greatest River Of The American West”. The Los Angeles Times.
- ^ a ă Jacklet, Ben (24 tháng 7 năm 2001). “Activist plans an epic swim”. The Portland Tribune.
- ^ EPA report on the Columbia. Columbia River Basin: A National Priority.
- ^ Monroe, Bill (11 tháng 9 năm 2006). “Oregon's delicate balance”. The Oregonian.
- ^ Milstein, Michael (10 tháng 4 năm 2007). “Court finds feds no help to fish”. The Oregonian.
- ^ “A river released to the wild”. The Oregonian. 29 tháng 7 năm 2007.
- ^ Wentz, Patty (29 tháng 5 năm 2002). “Swimming to astoria”. Willamette Week. Truy cập ngày 22 tháng 11 năm 2007.
- ^ Anderson, Jennifer (9 tháng 7 năm 2004). “Challenge sets off global ripples”. The Portland Tribune. Truy cập ngày 7 tháng 6 năm 2007.
Đọc thêm
- MacGibbon, Elma (1904). “Columbia River and Pullman” (DJVU). Leaves of knowledge. Washington State Library's Classics in Washington History collection. Shaw & Borden. (tiếng Anh)
Xem thêm
- Xa lộ Sông Columbia
- Empire Builder, một đường xe lửa của Amtrak chạy theo phần lớn con sông này từ Portland đến Spokane
- Danh sách sông của tiểu bang Washington
- Danh sách sông của Oregon
- Tàu hơi nước của sông Columbia
Liên kết ngoài
Wikimedia Commons có thêm thể loại hình ảnh và tài liệu về Sông Columbia |
- Columbia River Inter-Tribal Fish Commission
- Columbia River Water Trail A collaboratively edited site with information for people who wish to travel the Columbia River by kayak or canoe.
- US Environmental Protection Agency Columbia River Basin
- Bibliography on Water Resources and International Law See Columbia River. Peace Palace Library
- National Geographic on the Columbia
- BC Hydro Generation System Information[liên kết hỏng]
- Center for Columbia River History
- Columbia River Maritime Museum
- Columbia River Gorge National Scenic Area
- CORIE, a Columbia River observation and prediction system
- University of Washington Libraries Digital Collections – Tollman and Canaris Photographs Photographs document the salmon fishing industry on the southern Washington coast and in the lower Columbia River around the year 1897 and offer valuable insights into the history of commercial salmon fishing and the techniques used at the beginning of the 20th century.
- Columbia River Fishing Guides Association
- Timeline of exploration of the Columbia[liên kết hỏng], dating back to the 17th century.
Thể loại:
Flavius Valerius Aurelius Constantinus[3] (s. vào ngày 27 tháng 2 khoảng năm 280[2] – mất ngày 22 tháng 5 năm 337), thường được biết đến như là Constantinus I, (đối với Giáo hội Công giáo Rôma) và Constantinus Đại Đế, hay Thánh Constantinus (đối với những tín đồ Kitô giáo theo Chính Thống giáo Đông phương, là một vị Hoàng đế của Đế quốc La Mã, ông được ba quân tôn làm Augustus vào năm 306
và trị vì Đế quốc La Mã cho đến khi ông mất. Triều đại của ông có nhiều
sự kiện đáng lưu ý và gây ấn tượng sâu sắc đến người đời, ông trở thành
một vị vua vĩ đại trong lịch sử Hậu Cổ đại, với công lớn trong việc gầy
dựng nên nền văn minh châu Âu sau thời kỳ cổ điển.[4] Ông là vị Hoàng đế đầu tiên theo Ki-tô giáo của Đế quốc La Mã, là người ban Sắc lệnh Milano chấm dứt thảm sát các tín đồ Ki-tô giáo trong toàn Đế quốc. Qua đó, ông đã chuyển đổi dần nước La Mã từ một Đế quốc Đa Thần giáo dần dà trở thành một Đế quốc Kitô giáo hùng mạnh - mở đường cho những năm tháng vàng son của Đế quốc Đông La Mã sau này.[5] Đây là một trong những thay đổi lớn nhất trong lịch sử nhân loại, thay đổi hẳn bộ mặt của nền văn minh La Mã lâu đời.[6] Ông là một trong những danh nhân xuất sắc nhất trong lịch sử thế giới cổ đại.[7]
Ông là một thiên tài và cũng gặp may trong đời: các vị tiên đế chọn cha ông làm tướng, sau đó còn làm vua. Nhờ đó, sau khi phụ hoàng Constantius Chlorus qua đời vào năm 306, ông được tấn phong làm Hoàng đế tại York (nước Anh ngày nay), mở ra triều đại của vị Hoàng đế vĩ đại Constantinus I Đại Đế.[8] Ông là vị lãnh đạo đầu tiên trong lịch sử nền văn minh phương Tây đã ban bố chính sách tự do tôn giáo. Ông rất sùng đạo Kitô giáo và coi Thiên Chúa là người giúp ông đánh bại các kẻ thù của mình và danh chính ngôn thuận ngự trị Đế quốc:[9] tương truyền rằng Thiên Chúa đã hỗ trợ cho ông đánh thắng phe đối lập trong trận cầu Milvian và thống nhất Đế quốc La Mã.[10] Sau chiến thắng vang dội ấy, ông ca khúc khải hoàn diễu binh vào thành La Mã trong niềm biết ơn Thiên Chúa.[11] Do đó, chiến công vẻ vang này trở thành một những thời khắc lớn, khó quên trong lịch sử, vì dẫn đến cuộc Cách mạng về tôn giáo La Mã.[12] Lịch phụng vụ Đông La Mã, được Giáo hội Chính Thống giáo Đông phương (Eastern Orthodox Church) và các giáo hội Công giáo Đông phương tuân theo, liệt kê cả vua Constantinus I Đại Đế và mẹ của ông là Thái hậu Helena như hai vị Thánh. Mặc dù ông không được kể vào danh sách các vị Thánh của Giáo hội Công giáo Tây phương (Latinh). Dù không công nhận Constantinus I Đại Đế là Thánh, ông vẫn được họ kính trọng dưới danh hiệu "Đại Đế" vì những đóng góp của ông cho Kitô giáo. Đối với đức tin Kitô giáo, ông là người có công lớn hơn cả, kể từ thời Chúa Giêsu và Thánh Phaolô.[6]
Ông cũng tấn công người Frank vào năm 310 và buộc nhiều người Frank phải nhập quân ngũ La Mã.[13] Ông cũng đánh thắng người Sarmatia và người Goth, nhưng quan trọng hơn cả là cuộc đại thắng của ông trước người Ba Tư dưới triều nhà Sassanid - là kẻ thù truyền thống của Đế quốc La Mã ở phương Đông.[14] Vào năm 324, vua Constantinus I Đại Đế tuyên bố quyết định đổi tên thành Byzantium thành Tân La Mã (Nova Roma) và vào 11 tháng 5 năm 330 ông chính thức dời đô về thành phố này. Đây là một quyết định quan trọng của ông.[6] Ông là một vĩ nhân và việc ông thiên đô về thành Constantinopolis đã góp phần bảo vệ luật pháp La Mã, nền văn hóa và ngôn ngữ Hy Lạp, do đó ông trở thành vị vua sáng lập ra nền văn minh Đông La Mã Kitô giáo kéo dài hơn ngàn năm.[6] Sau khi Constantinus I Đại Đế qua đời vào năm 337, Triều đình La Mã đổi tên kinh đô mới thành Constantinopolis, có nghĩa là Thành phố của Constantinus. Thành Constantinopolis vẫn là kinh đô của Đế quốc Đông La Mã trên hơn một ngàn năm, chỉ bị ngắt quãng tạm thời bởi sự đốt phá và chiếm đóng của quân Thập tự chinh lần thứ tư năm 1204, cho đến khi rơi vào Đế quốc Ottoman năm 1453. Tuy là một vị Hoàng đế có nhiều thành tựu rực rỡ nhưng có nhiều người thẳng tay chỉ trích ông vào các thời Hậu Cổ đại (trong số đó có cả người cháu trai của chính ông là Hoàng đế Julianus) và Cận đại: theo đó, Constantinus I là một ông vua hung bạo, tham tàn, có nhiều tội trạng đối với đất nước và chỉ giỏi theo đuổi lợi ích riêng của mình.[4]
Trong năm 285, Diocletianus đã tuyên bố Maximianus, một đồng nghiệp đến từ Illyricum, là đồng hoàng đế của ông ta. Mỗi hoàng đế sẽ có triều đình riêng của mình, quân đội và bộ máy hành chính riêng, và mỗi người sẽ cai trị cùng với một praetorian prefect riêng biệt.[17]. Maximianus cai trị ở phía Tây, từ kinh đô của ông ta tại Mediolanum (Milan, Italy) hoặc Augusta Treverorum (Trier, Đức), trong khi Diocletianus cai trị ở phía Đông, từ Nicomedia (İzmit, Thổ Nhĩ Kỳ). Việc phân chia chỉ đơn thuần là sự thực dụng: Đế quốc vẫn được coi là "không hề chia tách" trong những bài văn ca ngợi chính thức,[18] và cả hai vị hoàng đế có thể tự do di chuyển khắp đế quốc [19] Năm 288, Maximianus bổ nhiệm Constantius vào chức vụ praetorian prefect của ông ta ở Gaul. Constantius sau đó bỏ vợ vào khoảng năm 288 hoặc 289 để thành hôn với Flavia Maximiana Theodora,[20] con gái riêng của Hoàng đế Tây La Mã Maximian, mặc dù vậy Constantinus đã tái lập mẹ ông, bà Helena, như là "Augusta, mẹ của Caesar" sau khi cha ông qua đời. Theodora cho ra đời sáu người anh em kế của Constantine, trong đó có cả Julius Constantius.[21]
Constantinus sau đó đã quay trở lại Nicomedia từ mặt trận phía Đông vào mùa xuân năm 303, chỉ để chứng kiến sự khởi đầu của cuộc "Đại bức hại" do Diocletianus khởi xướng trong thời gian này, cuộc bức hại nghiêm trọng nhất đối với các Kitô hữu trong lịch sử La Mã[24] Vào cuối năm 302, Diocletianus và Galerius đã phái một sứ giả tới ngôi đền tiên tri của thần Apollo tại Didyma với một câu hỏi về những tín đồ Thiên Chúa Giáo [25] Ngày 23 tháng Hai năm 303, Diocletianus ra lệnh san bằng nhà thờ mới của Nicomedia, những bản kinh thánh của nó phải bị đốt cháy, và xung vào ngân khố những của cải quý báu của nó. Trong những tháng sau đó, nhà thờ và những bản kinh thánh đã bị phá hủy, các tín đồ Kitô hữu bị loại bỏ khỏi hàng ngũ quan lại, và các linh mục bị cầm tù.[26]
Phần lãnh thổ của Constantinus trong đế quốc bao gồm Britain, Gaul, các tỉnh Germania, và Tây Ban Nha. Ông do đó nắm trong tay một trong những đội quân La Mã hùng mạnh nhất, đóng dọc theo biên giới Rhine quan trọng. Khi Gaul là một vùng giàu có của đế quốc, nó đã chịu đựng nhiều thứ trong Khủng hoảng ở Thế kỉ thứ 3. Trong những năm đóng tại Gaul, từ 306 đến 316, Constantinius tiếp tục những cố gắng của phụ hoàng Constantius Chlorus để trấn giữ biên giới Rhine và xây dựng lại những tỉnh Gallia. Nơi cư ngụ chính của ông trong thời gian đó là Trier.[28]
Ngay sau khi được phong là hoàng đế, Constantinus I bỏ chiến dịch đánh Anh của phụ hoàng Constantius Chlorus và quay lại xứ Gaul để dập tắt cuộc khởi nghĩa của người Frank. Một cuộc viễn chinh càn quét các bộ tộc người Frank theo sau vào năm 308. Sau chiến thắng này, ông bắt đầu cho xây dựng một cây cầu bắt ngang sông Rhine tại Köln để thiết lập một căn cứ vĩnh viễn ở phía phải của bờ sông. Một chiến dịch mới năm 310 đã bị bãi bỏ bởi sự nổi loạn của Maximian mô tả ở đoạn dưới. Những cuộc chiến cuối cùng của Constantinus trên chiến tuyến sông Rhine diễn ra vào năm 313, sau khi ông quay lại từ Ý, và một lần nữa ông lại chiến thắng.[29]
Mục đích chính của Constantinus I là sự ổn định, mà ông cố gắng đạt được bằng những cuộc viễn chinh nhanh chóng, thường tàn bạo, trừng phạt các bộ tộc nổi loạn, phô diễn sức mạnh quân sự của ông bằng cách chinh phục kẻ thù trên phía bờ sông Rhine của họ, và thảm sát nhiều tù binh chiến tranh trong các trận đấu trong đấu trường (arena). Chiến thuật này chứng tỏ khá thành công, vì chiến tuyến Rhine khá là yên lặng trong phần còn lại của thời gian ông trị vì.
Trong những mâu thuẫn nội bộ của Triều đình Tứ đầu chế, Constantine cố gắng giữ quan điểm trung lập. Năm 307, hoàng đế cả Maximianus (vừa quay lại vũ đài chính trị sau khi thoái vị năm 305) ghé thăm Constantinus để tranh thủ sự ủng hộ của ông trong chiến tranh của Maxentius, con trai ông ta, chống lại Severus và Galerius. Constantinus thành hôn với con gái của Maximian tên là Fausta để kết mối liên minh và được phong lên chức Augustus bởi Maximianus. Tuy nhiên ông không can thiệp chính trị cho danh nghĩa của Maxentius.[29]
Maximianus quay trở lại vào năm 308 sau khi ông ta không lật đổ được con trai mình. Cuối năm đó, tại hội nghị Carnuntum giữa Diocletianus, Galerius và Maximianus, Maximianus bị buộc thoái vị một lần nữa và Constantinus I giảm chức xuống caesar. Vào năm 310, Maximianus có liên quan đến một âm mưu ám sát con rể của mình khi Constantinus I quay lại sau chiến dịch đánh người Frank. Cuộc mưu sát bị dập tắt nhanh chóng khi Constantinus I phát giác, và Maximianus bị giết hay bị buộc phải tự tử. Cả Constantinus I và Maximinus Daia đều thất vọng vì thấy bị hạ chức xuống caesar và sự bổ nhiệm của Licinius, và sau đó đã chống lại sắc lệnh đó và tự phong là Augustus, vì đã được phong bởi Galerius vào năm 310, do đó chính thức tạo ra bốn Augusti. Khi Galerius mất năm 311, người cai trị với đủ quyền lực để tiếp tục hệ thống Tứ đầu chế đã từ giã sân khấu, và do đó hệ thống nhanh chóng suy giảm. Trong cuộc tranh chấp quyền lực sau đó, Constantinus I liên minh với Licinius, trong khi Maximinus tiếp cận Hoàng đế Maxentius, người vẫn chính thức được xem là có quyền cao hơn.[29]
Năm 313, ông gặp Licinius ở kinh thành Milano để kết chặt liên minh giữa họ bằng sự thành hôn của Licinius và em gái kế của Constantinus là Constantia. Trong cuộc gặp gỡ này, hai vị hoàng đế đã đồng ý về sắc lệnh bây giờ gọi là Sắc lệnh Milan, chính thức cho phép tất cả mọi tôn giáo hoạt động tự do trong toàn đế quốc, đặc biệt là Kitô giáo.[33] Tuy nhiên cuộc hội nghị đã bị cắt ngắn khi tin tức đến tai Licinius rằng đối thủ của ông ta là Maximinus Daia đã vượt qua Bosporus và xâm lược vào lãnh thổ thuộc Licinius. Licinius từ biệt và cuối cùng đã đánh bại Maximinus, nắm lại toàn quyền điều khiển phần phía đông của Đế quốc La Mã. Tuy nhiên những quan hệ giữa hai vị hoàng đế còn lại ngày càng xấu đi và hoặc là năm 314 hay 316, Constantinus và Licinius đánh lẫn nhau trong chiến tranh Cibalae, với Constantinus (với 30.000 quân) là người chiến thắng[34]. Họ đụng độ lần nữa ở trận Campus Ardiensis năm 317, và đi tới thỏa thuận rằng con trai của Constantine là Crispus và Constantinus II, và con trai của Licinius là Licinianus được phong caesars.[35]
Vào năm 320, Licinius đã hạn chế tự do tôn giáo được hứa bởi Sắc lệnh Milan năm 313 và bắt đầu một cuộc giết hại những người theo Kitô giáo.[36]. Điều đó đã thách thức Constantinus ở phía tây, mà đỉnh cao là nội chiến lớn năm 324. Vào khoảng AD 323, Constantine I đánh bại đoàn chiến thuyền của Licinius với khoảng 200 tàu chiến.[34] Licinius, được giúp bởi lính đánh thuê người Goth, tượng trưng cho quá khứ và niềm tin cổ đại của Đa Thần giáo. Constantinus I và người Frank của ông hành quân ngọn cờ Kitô giáo của labarum, và cả hai đều nhìn những trận đánh dưới danh nghĩa tôn giáo. Dù là yếu hơn về lực lượng, nhưng được cổ vũ với niềm tin, đội quân của Constantinus I đã chiến thắng trong những trận đánh Adrianople, Hellespont, và Chrysopolis.[37]
Với thất bại và cái chết của Licinius một năm sau đó (ông bị kết tội mưu sát Constantine và bị xử tử), Constantinus I trở thành hoàng đế duy nhất của toàn bộ Đế quốc La Mã.[38]
Eusebius viết rằng Constantinus I được rửa tội chỉ không lâu trước khi chết vào năm 337.[40] Ông di chuyển từ thủ đô đến nhà tắm nước nóng ở gần đó để lấy nước, và sau đó đến thành phố của mẹ ông là Helenopolis, nơi ông cầu nguyện trong một ngôi nhà thờ lớn bà đã cho xây để vinh danh thánh tông đồ Lucian. Với điều này, ông đã theo một phong tục thời đó là trì hoãn việc rửa tội tới tuổi già hay lúc gần chết.[41] Theo như Jerome, Constantine đã lựa chọn cha xứ Eusebius của Nicomedia làm lễ rửa tội cho ông. Sau khi ông mất, xác của ông được chuyển về lại Constantinopolis và được chôn trong Nhà thờ các Thánh tông đồ ở nơi đó.[42]
Các học giả vẫn còn tranh cãi liệu là Constantinus đã chuyển theo Kitô giáo thời trẻ theo mẹ ông là bà Helena, hay là ông chuyển dần sang Kitô giáo trong suốt cuộc đời.[45] Constantinus trên 40 tuổi khi cuối cùng ông tuyên bố rằng mình theo Kitô giáo.[46] Khi viết cho những người Kitô giáo, Constantinus nói rõ là ông tin là những sự thành công của ông là do sự bảo vệ của Chúa Cha Kitô.[47] Trong suốt triều đại của ông, Constantinus đã bảo trợ Giáo hội về mặt tài chính, xây dựng nhiều thánh đường khác nhau (basilica), ban những đặc quyền (e.g. miễn một số thuế) cho các tăng lữ, thăng chức những người Kitô giáo tới những vị trí cao trong nhà nước, và trả lại những tài sản tịch thu trong Đại thảm sát thời Diocletian.[48] Những nhà thờ nổi tiếng của ông bao gồm Nhà thờ Mộ Thánh và Nhà thờ Thánh Phêrô (nhà thờ cũ).
Triều đại của Constantinus đã thiết lập một tiền lệ cho một vị trí Giáo hoàng trong Giáo hội Công giáo; Constantinus tự cho mình có trách nhiệm với Thiên Chúa về sức khỏe về mặt tâm linh của thần dân của ông ta, và do đó ông có trách nhiệm duy trì giáo lý (orthodoxy).[49] Đối với Constantinus, hoàng đế không quyết định ra giáo lý - đó là trách nhiệm của các cha xứ - mà đúng hơn vai trò của ông là bảo vệ giáo lý, diệt bỏ những điều dị giáo, và ủng hộ một sự thống nhất về các vấn đề tôn giáo.[50] Hoàng đế đảm bảo rằng Thiên Chúa được tôn thờ đúng cách trong đế quốc của ông; và tôn thờ thế nào là đúng đắn là do Giáo hội quyết định.[51]
Vào năm 316, Triều đình Constantinus I đảm nhiệm vai trò trọng tài trong cuộc tranh cãi ở Bắc Phi về sự dị giáo (heresy) của giáo thuyết Donatus (không theo Ki tô giáo chính thống của Constantinus). Sau khi đi đến phán quyết chống lại giáo thuyết Donatus, Constantinus I thân chinh chỉ huy một đạo quân của Ki tô giáo chống lại những người Ki tô giáo. Sau 300 năm chung sống hòa bình, đây là cuộc đàn áp, khủng bố đầu tiên trong nội bộ Ki tô giáo. Quan trọng hơn, năm 325 ông triệu tập Hội đồng Nicaea, là Hội đồng Ecumenical đầu tiên (không kể Hội đồng Jerusalem nếu như sự kiện đó được tính vào), chủ yếu để đối phó với sự dị giáo của chủ nghĩa Arianism.
Gothicus đã tuyên bố về sự bảo vệ linh thiêng của Apollo-Sol Invictus (Thần Mặt trời). Constantinus cũng tuyên bố liên minh với Sol Invictus, là vị thần linh cuối cùng xuất hiện trên các đồng xu của ông ta.[54] Mặt trái của những đồng xu thời ông liên tục trong nhiều năm là "người bạn, Mặt trời không thể bị chinh phục" của ông — dòng chú thích là SOLI INVICTO COMITI.
Ông là một vị Hoàng đế hùng mạnh, đánh dấu một giai đoạn hệ trọng trong lịch sử Đế chế La Mã.[58] Người ta xem ông là vị Hoàng đế xuất sắc nhất trong thời kỳ Hậu Cổ đại. Ông là vị vua có công lớn lập nên cả một nền văn minh châu Âu sau khi những năm tháng Cổ điển đã qua đi. Tuy nhiên, cháu của ông là Hoàng đế Julianus chỉ trích kịch liệt: theo lời kể của vị vua này, Constantinus I là một tên hôn quân vô độ. Điều này dẫn đến tranh cãi về ông ngay từ thời Hậu Cổ đại. Nhà sử học Đa Thần giáo là Zosimus coi ông là tên vua có tội với đất nước: dẫn đến sự sụp đổ của Đế quốc Tây La Mã. Tuy nhiên, các danh sĩ Kitô giáo là Lactantius và Eusebius thì xem Constantinus I là người bảo vệ của toàn nhân loại, do Chúa phái xuống trần gian. Trong suốt thời kỳ Trung Cổ, ông vẫn luôn được ca ngợi theo luận điểm ấy.[4] Đế quốc Đông La Mã đã xem Constantinus I là vị vua khai quốc và Đế quốc La Mã Thần thánh cũng xem ông là một trong những nhân vật đáng kính của lịch sử Đế quốc. Trong cả phía đông và phía tây, các Hoàng đế mới thỉnh thoảng được vinh danh như là một "Constantine mới". Hầu hết các giáo hội Kitô giáo Đông phương đều xem Constantine là một vị thánh.[59] Ở phía đông đôi khi ông được gọi là "Ngang với thánh tông đồ" (isapostolos) hay là "thánh tông đồ thứ 13"[2].
Nhưng bước sang thời kỳ cận đại, ông bị chỉ trích thậm tệ trong sử sách. Nhà sử học người Anh là Edward Gibbon, trong kiệt tác "Lịch sử suy tàn và sụp đổ của Đế quốc La Mã" (The Decline and Fall of the Roman Empire) thì tố cáo ông là một "bậc Quân vương tàn ác và phóng đãng", là kẻ có thể "xóa bỏ mọi quy định của công lý và cảm xúc của tự nhiên, với không chút do dự, để đặt được niềm đam mê hoặc là quyền lợi của mình". Cũng theo Gibbon, vị Hoàng đế chẳng có chút thiện cảm gì với tôn giáo và ông chỉ tâng Kitô giáo lên về vấn đề chính trị.[4] Trong công trình khảo cứu "The Age of Constantine the Great" (1852), nhà sử học lừng danh Jacob Burckhaardt (người Thụy Sĩ) lên án Constantinus I là một vị Hoàng đế đặc biệt không trọng tín ngưỡng, bị đầu độc nặng nề bởi tham vọng và nỗi thèm khát quyền lực của mình: thậm tệ hơn nữa, Burckhaardt đánh giá ông là một tên vua "ích kỷ gớm ghiếc" và chỉ giỏi phá vỡ những lời thề. Cũng theo Burckhaardt, Constantinus I chẳng hề thiết tha gì với các vấn đề tôn giáo, mà còn ứng xử tuyệt đối thiếu lô-gíc.[4]
Nhưng trong cuốn sử "Constantine the Great and the Christian Revolution" (1930), tác giả George Philip Baker nhận định ông là một vị Hoàng đế quyết đoán, mạnh mẽ và sáng suốt. Theo Baker, cuộc Cách mạng Kitô giáo của ông là một trong những phong trào Cách mạng quan trọng nhất trong suốt chiều dài lịch sử La Mã. Trong chính sử, không phải cao trào Cách mạng nào cũng thực sự thành công: tỷ như cơn bão Cách mạng Pháp, chỉ có thể thay đổi chính quyền ở một phần nhỏ của toàn thể châu Âu. Trong khi đó, công cuộc Cách Mạng Kitô Giáo của Constantinus I thì có khác: thắng lợi của ông đã có ảnh hưởng đến toàn thể nền văn minh Tây Âu. Ngày nay, Kitô Giáo là một tôn giáo lớn ở nơi đây. Là người bảo vệ của Giáo hội, ông đã mang lại Đế chế rộng lớn cho bản thân cùng với các vua con, đồng thời khiến cho tên tuổi của ông trở nên bất hủ.[60] Cũng theo Baker, một công trạng khác khiến tiếng tăm của ông trở nên lẫy lừng là việc thiên đô về thành Constantinopolis. Đây là một kinh kỳ có nhiều gắn bó với sự trường tồn vững mạnh của đức tin Kitô Giáo. Constantinopolis từng là một thành lũy Kitô giáo, là nơi chiến đấu vì Đức Tin, là Lâu đài của cuộc đấu tranh của Kitô Giáo. Nhờ công lao xây cất cuả Constantinus I, Constantinopolis đã trở thành một đế đô thiêng liêng trên trần gian, là một Jerusalem thứ hai. Ông mở ra kinh thành này, về sau kinh thành này lại đánh bại được người Ba Tư theo Hỏa giáo, đẩy lùi được người Ả Rập, người Avar và người Bulgaria. Do đó, ông có thể được xem là vị vua dựng nên một kinh kỳ hộ vệ toàn thể Âu châu kể từ thời ông. Không những thế, ông cũng đã đem lại một chốn phồn hoa đô hội, nơi tập trung văn hóa cho người La Mã.[61] Thời nay, các nhà nghiên cứu về thời kỳ Hậu Cổ đại đã nỗ lực khảo cứu, để có nhận định khách quan về ông, không quá tâng bốc hay hạ thấp.[4]
Constantine: The Miracle of the Flaming Cros là một tác phẩm viết về cuộc đời của Constantinus. Tác phẩm được viết bởi tác giả người Mỹ Frank G. Slaughter và được xuất bản vào năm 1965. Tác phẩm được viết dựa theo tác phẩm Lịch sử suy tàn và sụp đổ của Đế quốc La Mã của Edward Gibbon và cũng như các tác phẩm của nhà sử học La Mã cùng thời với Constantinus, Eusebius thành Caesarea.[63]
Video yêu thích
http://www.youtube.com/user/hoangkimvietnam
Trở về trang chính
Hoàng Kim, hoangkim, hoangkimvietnam, Ngọc Phương Nam, Chào ngày mới Thung dung, Dạy và học, Cây Lương thực, Tin Nông nghiệp Việt Nam, Food Crops, Cassava in Vietnam, Khát khaoch xanh, Dayvahoc,Học mỗi ngày, Danh nhân Việt , Food Crops News, Điểm chính, CNM365, Kim LinkedIn, KimTwitter, KimFaceBook Đọc lại và suy ngẫm, Việt Nam tổ quốc tôi, Tình yêu cuộc sống, Thơ cho con
Constantinus Đại đế
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Constantinus I | ||
---|---|---|
Hoàng đế của Đế quốc La Mã | ||
Tượng vua Constantinus I tại nhà bảo tàng Capitoline. Bức tượng đá hoa nguyên gốc được tạc theo kiểu Hậu Cổ đại, với phần người trên mặc bộ chiến bào màu đồng thiếc.[1] |
||
Hoàng đế nhà Constantinus | ||
Trị vì | 25 tháng 6 năm 306 - 29 tháng 10 năm 312[chú thích 1]; 29 tháng 10 năm 312 - 19 tháng 9 năm 324[chú thích 2]; 19 tháng 9 năm 324 - 22 tháng 5 năm 337[chú thích 3] (30 năm, 301 ngày) |
|
Tiền nhiệm | Constantius Chlorus | |
Kế nhiệm | Constantinus II Constantius II Constans I |
|
Thông tin chung | ||
Phối ngẫu | Minervina, mất hoặc ly hôn trước năm 307 Fausta |
|
Hậu duệ |
|
|
Tên đầy đủ | Flavius Valerius Aurelius Constantinus | |
Triều đại | Nhà Constantinus | |
Thân phụ | Constantius Chlorus | |
Thân mẫu | Thánh Helena | |
Sinh | 27 tháng 2, khoảng năm 274[2] Naissus (nay là Niš, Serbia) |
|
Mất | 22 tháng 5 năm 337 | |
An táng | Constantinopolis, Đế quốc La Mã | |
Tôn giáo | Đa thần giáo sau theo Kitô giáo |
Ông là một thiên tài và cũng gặp may trong đời: các vị tiên đế chọn cha ông làm tướng, sau đó còn làm vua. Nhờ đó, sau khi phụ hoàng Constantius Chlorus qua đời vào năm 306, ông được tấn phong làm Hoàng đế tại York (nước Anh ngày nay), mở ra triều đại của vị Hoàng đế vĩ đại Constantinus I Đại Đế.[8] Ông là vị lãnh đạo đầu tiên trong lịch sử nền văn minh phương Tây đã ban bố chính sách tự do tôn giáo. Ông rất sùng đạo Kitô giáo và coi Thiên Chúa là người giúp ông đánh bại các kẻ thù của mình và danh chính ngôn thuận ngự trị Đế quốc:[9] tương truyền rằng Thiên Chúa đã hỗ trợ cho ông đánh thắng phe đối lập trong trận cầu Milvian và thống nhất Đế quốc La Mã.[10] Sau chiến thắng vang dội ấy, ông ca khúc khải hoàn diễu binh vào thành La Mã trong niềm biết ơn Thiên Chúa.[11] Do đó, chiến công vẻ vang này trở thành một những thời khắc lớn, khó quên trong lịch sử, vì dẫn đến cuộc Cách mạng về tôn giáo La Mã.[12] Lịch phụng vụ Đông La Mã, được Giáo hội Chính Thống giáo Đông phương (Eastern Orthodox Church) và các giáo hội Công giáo Đông phương tuân theo, liệt kê cả vua Constantinus I Đại Đế và mẹ của ông là Thái hậu Helena như hai vị Thánh. Mặc dù ông không được kể vào danh sách các vị Thánh của Giáo hội Công giáo Tây phương (Latinh). Dù không công nhận Constantinus I Đại Đế là Thánh, ông vẫn được họ kính trọng dưới danh hiệu "Đại Đế" vì những đóng góp của ông cho Kitô giáo. Đối với đức tin Kitô giáo, ông là người có công lớn hơn cả, kể từ thời Chúa Giêsu và Thánh Phaolô.[6]
Ông cũng tấn công người Frank vào năm 310 và buộc nhiều người Frank phải nhập quân ngũ La Mã.[13] Ông cũng đánh thắng người Sarmatia và người Goth, nhưng quan trọng hơn cả là cuộc đại thắng của ông trước người Ba Tư dưới triều nhà Sassanid - là kẻ thù truyền thống của Đế quốc La Mã ở phương Đông.[14] Vào năm 324, vua Constantinus I Đại Đế tuyên bố quyết định đổi tên thành Byzantium thành Tân La Mã (Nova Roma) và vào 11 tháng 5 năm 330 ông chính thức dời đô về thành phố này. Đây là một quyết định quan trọng của ông.[6] Ông là một vĩ nhân và việc ông thiên đô về thành Constantinopolis đã góp phần bảo vệ luật pháp La Mã, nền văn hóa và ngôn ngữ Hy Lạp, do đó ông trở thành vị vua sáng lập ra nền văn minh Đông La Mã Kitô giáo kéo dài hơn ngàn năm.[6] Sau khi Constantinus I Đại Đế qua đời vào năm 337, Triều đình La Mã đổi tên kinh đô mới thành Constantinopolis, có nghĩa là Thành phố của Constantinus. Thành Constantinopolis vẫn là kinh đô của Đế quốc Đông La Mã trên hơn một ngàn năm, chỉ bị ngắt quãng tạm thời bởi sự đốt phá và chiếm đóng của quân Thập tự chinh lần thứ tư năm 1204, cho đến khi rơi vào Đế quốc Ottoman năm 1453. Tuy là một vị Hoàng đế có nhiều thành tựu rực rỡ nhưng có nhiều người thẳng tay chỉ trích ông vào các thời Hậu Cổ đại (trong số đó có cả người cháu trai của chính ông là Hoàng đế Julianus) và Cận đại: theo đó, Constantinus I là một ông vua hung bạo, tham tàn, có nhiều tội trạng đối với đất nước và chỉ giỏi theo đuổi lợi ích riêng của mình.[4]
Mục lục
Cuộc đời
Đầu đời
Flavius Valerius Aurelius Constantinus được sinh ra ở Naissus (nay là Niš, Serbia) ở tỉnh Moesia Superior vào 27 tháng 2 khoảng 280. Cha của ông là Flavius Constantius, một cư dân bản địa của Moesia (sau này là Dacia Ripensis).[15] Constantinus có thể đã dành ít thời gian với cha mình.[16] Constantius đã là một sĩ quan trong quân đội La Mã vào năm 272, thành viên trong lực lượng cận vệ hoàng gia của Hoàng đế Aurelianus. Constantius đã thăng tiến qua nhiều cấp bậc, ông ta đã nhận được chức Thống đốc Dalmatia dưới triều đại Hoàng đế Diocletianus, một người đồng hương khác của Aurelianus từ Illyricum, vào năm 284 hoặc 285[15]. Mẹ ông là Helena. Helena, người có ảnh hưởng to lớn xuyên suốt cuộc đời của con trai, xuất thân từ một gia đình khiêm tốn; Ambrose viết rằng bà làm việc trong một quán rượu.Trong năm 285, Diocletianus đã tuyên bố Maximianus, một đồng nghiệp đến từ Illyricum, là đồng hoàng đế của ông ta. Mỗi hoàng đế sẽ có triều đình riêng của mình, quân đội và bộ máy hành chính riêng, và mỗi người sẽ cai trị cùng với một praetorian prefect riêng biệt.[17]. Maximianus cai trị ở phía Tây, từ kinh đô của ông ta tại Mediolanum (Milan, Italy) hoặc Augusta Treverorum (Trier, Đức), trong khi Diocletianus cai trị ở phía Đông, từ Nicomedia (İzmit, Thổ Nhĩ Kỳ). Việc phân chia chỉ đơn thuần là sự thực dụng: Đế quốc vẫn được coi là "không hề chia tách" trong những bài văn ca ngợi chính thức,[18] và cả hai vị hoàng đế có thể tự do di chuyển khắp đế quốc [19] Năm 288, Maximianus bổ nhiệm Constantius vào chức vụ praetorian prefect của ông ta ở Gaul. Constantius sau đó bỏ vợ vào khoảng năm 288 hoặc 289 để thành hôn với Flavia Maximiana Theodora,[20] con gái riêng của Hoàng đế Tây La Mã Maximian, mặc dù vậy Constantinus đã tái lập mẹ ông, bà Helena, như là "Augusta, mẹ của Caesar" sau khi cha ông qua đời. Theodora cho ra đời sáu người anh em kế của Constantine, trong đó có cả Julius Constantius.[21]
Ở phía Đông
Cậu bé Constantinus được giáo dục tốt, trở thành người nói thông thạo tiếng Hy Lạp, và rất am hiểu về triết học.[22] Ông phục vụ trong triều đình của Diocletianus ở Nicomedia, sau khi cha ông được phong như là một trong hai caesares (hoàng đế trẻ) của Tứ đầu chế năm 293. Năm 305, cả augusti (hoàng đế cả), Diocletianus và Maximianus, thoái vị, và Constantius lên nối ngôi Maximianus với vai trò là Augustus phía tây. Mặc dù con trai hợp pháp của hai hoàng đế là có ở đó (Constantinus và Maxentius, con của Maximianus), cả hai đều không được để ý tới trong quá trình chuyển giao quyền lực. Thay vào đó, Severus và Maximinus Daia được phong hai vị caesar. Bởi vì Diocletianus không hoàn toàn tin tưởng Constantius - không ai trong số các Tetrarch hoàn toàn tin cậy các đồng nghiệp của họ - Constantinus đã giữ vai trò như là của một con tin, một công cụ để đảm bảo cho một thái độ tốt nhất của Constantius. Constantinus dù sao cũng là thành viên nổi bật của triều đình: ông đã chiến đấu cho Diocletianus và Galerius ở châu Á, ông cũng đã tham gia chiến dịch chống lại người rợ ở phía bên kia sông Danube vào năm 296, và chiến đấu với người Ba Tư dưới trướng Diocletianus ở Syria (297) và dưới quyền Galerius ở vùng Lưỡng Hà (năm 298-99)[23]Constantinus sau đó đã quay trở lại Nicomedia từ mặt trận phía Đông vào mùa xuân năm 303, chỉ để chứng kiến sự khởi đầu của cuộc "Đại bức hại" do Diocletianus khởi xướng trong thời gian này, cuộc bức hại nghiêm trọng nhất đối với các Kitô hữu trong lịch sử La Mã[24] Vào cuối năm 302, Diocletianus và Galerius đã phái một sứ giả tới ngôi đền tiên tri của thần Apollo tại Didyma với một câu hỏi về những tín đồ Thiên Chúa Giáo [25] Ngày 23 tháng Hai năm 303, Diocletianus ra lệnh san bằng nhà thờ mới của Nicomedia, những bản kinh thánh của nó phải bị đốt cháy, và xung vào ngân khố những của cải quý báu của nó. Trong những tháng sau đó, nhà thờ và những bản kinh thánh đã bị phá hủy, các tín đồ Kitô hữu bị loại bỏ khỏi hàng ngũ quan lại, và các linh mục bị cầm tù.[26]
Nhà cai trị phía Tây
Constantinus sau đó rời khỏi Nicomedia để ở cùng cha ở xứ Gaul của La Mã; tuy vậy, Constantius lâm bệnh trong một cuộc viễn chinh tiến đánh người Pict của xứ Caledonia, và qua đời vào 25 tháng 7, 306 ở Eboracum (York). Tướng Chrocus, gốc người Alamanni, và quân lính trung thành với Constantius lập tức tôn Constantinus lên làm Augustus. Dưới chế độ Tứ đầu chế, sự kế ngôi của Constantinus có vẻ không rõ ràng cho lắm. Trong khi Constantius với tư cách hoàng đế cả có thể "tạo ra" một Caesar mới, tuyên bố của Constantinus (hay, quân lính của ông ta) lên danh hiệu Augustus đã mặc kệ hệ thống truyền ngôi thiết lập vào năm 305. Do đó, Constantinus đã yêu cầu Galerius, vị Augustus phía đông, công nhận ông là người thừa kế ngôi vị của cha để lại. Galerius đã phong Constantinus danh hiệu Caesar, khẳng định quyền cai trị của Constantinus trên vùng lãnh thổ của cha ông, và tấn phong cho Severus trở thành Augustus của phía Tây.[27]Phần lãnh thổ của Constantinus trong đế quốc bao gồm Britain, Gaul, các tỉnh Germania, và Tây Ban Nha. Ông do đó nắm trong tay một trong những đội quân La Mã hùng mạnh nhất, đóng dọc theo biên giới Rhine quan trọng. Khi Gaul là một vùng giàu có của đế quốc, nó đã chịu đựng nhiều thứ trong Khủng hoảng ở Thế kỉ thứ 3. Trong những năm đóng tại Gaul, từ 306 đến 316, Constantinius tiếp tục những cố gắng của phụ hoàng Constantius Chlorus để trấn giữ biên giới Rhine và xây dựng lại những tỉnh Gallia. Nơi cư ngụ chính của ông trong thời gian đó là Trier.[28]
Ngay sau khi được phong là hoàng đế, Constantinus I bỏ chiến dịch đánh Anh của phụ hoàng Constantius Chlorus và quay lại xứ Gaul để dập tắt cuộc khởi nghĩa của người Frank. Một cuộc viễn chinh càn quét các bộ tộc người Frank theo sau vào năm 308. Sau chiến thắng này, ông bắt đầu cho xây dựng một cây cầu bắt ngang sông Rhine tại Köln để thiết lập một căn cứ vĩnh viễn ở phía phải của bờ sông. Một chiến dịch mới năm 310 đã bị bãi bỏ bởi sự nổi loạn của Maximian mô tả ở đoạn dưới. Những cuộc chiến cuối cùng của Constantinus trên chiến tuyến sông Rhine diễn ra vào năm 313, sau khi ông quay lại từ Ý, và một lần nữa ông lại chiến thắng.[29]
Mục đích chính của Constantinus I là sự ổn định, mà ông cố gắng đạt được bằng những cuộc viễn chinh nhanh chóng, thường tàn bạo, trừng phạt các bộ tộc nổi loạn, phô diễn sức mạnh quân sự của ông bằng cách chinh phục kẻ thù trên phía bờ sông Rhine của họ, và thảm sát nhiều tù binh chiến tranh trong các trận đấu trong đấu trường (arena). Chiến thuật này chứng tỏ khá thành công, vì chiến tuyến Rhine khá là yên lặng trong phần còn lại của thời gian ông trị vì.
Trong những mâu thuẫn nội bộ của Triều đình Tứ đầu chế, Constantine cố gắng giữ quan điểm trung lập. Năm 307, hoàng đế cả Maximianus (vừa quay lại vũ đài chính trị sau khi thoái vị năm 305) ghé thăm Constantinus để tranh thủ sự ủng hộ của ông trong chiến tranh của Maxentius, con trai ông ta, chống lại Severus và Galerius. Constantinus thành hôn với con gái của Maximian tên là Fausta để kết mối liên minh và được phong lên chức Augustus bởi Maximianus. Tuy nhiên ông không can thiệp chính trị cho danh nghĩa của Maxentius.[29]
Maximianus quay trở lại vào năm 308 sau khi ông ta không lật đổ được con trai mình. Cuối năm đó, tại hội nghị Carnuntum giữa Diocletianus, Galerius và Maximianus, Maximianus bị buộc thoái vị một lần nữa và Constantinus I giảm chức xuống caesar. Vào năm 310, Maximianus có liên quan đến một âm mưu ám sát con rể của mình khi Constantinus I quay lại sau chiến dịch đánh người Frank. Cuộc mưu sát bị dập tắt nhanh chóng khi Constantinus I phát giác, và Maximianus bị giết hay bị buộc phải tự tử. Cả Constantinus I và Maximinus Daia đều thất vọng vì thấy bị hạ chức xuống caesar và sự bổ nhiệm của Licinius, và sau đó đã chống lại sắc lệnh đó và tự phong là Augustus, vì đã được phong bởi Galerius vào năm 310, do đó chính thức tạo ra bốn Augusti. Khi Galerius mất năm 311, người cai trị với đủ quyền lực để tiếp tục hệ thống Tứ đầu chế đã từ giã sân khấu, và do đó hệ thống nhanh chóng suy giảm. Trong cuộc tranh chấp quyền lực sau đó, Constantinus I liên minh với Licinius, trong khi Maximinus tiếp cận Hoàng đế Maxentius, người vẫn chính thức được xem là có quyền cao hơn.[29]
312 đến 324
Đầu năm 312, Hoàng đế Constantinus I thống suất đại binh vượt qua dãy núi Alps với và tấn công Maxentius. Ông nhanh chóng chinh phục vùng Bắc Ý trong những trận đánh tai Turin và Verona và sau đó thẳng tiến về thành La Mã. Nơi đó, Constantinua I với một đội quân gồm gần 10 vạn chiến binh (9 vạn Bộ binh và 8 nghìn Kỵ binh)[30] đã đại thắng Maxentius trong trận đánh trên cầu Milvian, mà kết quả là ông trở thành Augustus phía Tây, hay là người cai trị toàn bộ Đế quốc La Mã phía Tây. Đại thắng huy hoàng tại cầu Milvian là một sự kiện khó quên trong lịch sử nhân loại.[31] Trong trận đánh đã đi vào lịch sử này Constantinus đã cho quân lính mình khắc lên khiên của họ ký hiệu mà những người theo Kitô giáo tin là ký hiệu labarum, mặc dù các sử gia vẫn còn tranh cãi rằng là liệu những kí hiệu đó có phải là Kitô giáo rõ rệt, hay là kí hiệu cổ của thần mặt trời.[32]. Kí hiệu labarum và khẩu hiệu đi kèm theo In Hoc Signo Vinces (trong dấu hiệu này, Người sẽ chinh phục) được kể là từ kết quả của hình ảnh hiện ra trước Constantinus I tại Saxa Rubra, là nguyên nhân mà cuối cùng ông thuận chuyển sang Kitô giáo. Trên đường rút chạy, vị vua xấu số Maxentius bị rơi xuống nước và chìm chết dưới sông Tiber. Sau đại thắng vẻ vang, Constantinus I kéo đoàn binh chiến thắng ca khúc khải hoàn tiến bước vào thành La Mã ngay trong ngày hôm sau. Một ý nghĩa lớn lao khác của chiến công lừng lẫy này là ông đã đập vỡ mộng của Maxentius: ông vua này định đánh bại Constantinus I trong trận đánh này để lập chiến tích ngay trong ngày kỷ niệm lễ đăng quang của ông ta. Chiến thắng vang dội này được xem là sự kiện mở đầu những năm tháng vinh quang của Constantinus I: một vị Hoàng đế sa ngã đã bị thay thế bằng một vị Hoàng đế thiêng liêng trong mắt thần dân. Trong những năm kế tiếp đó, ông dần củng cố quân đội của mình mạnh hơn tất cả các đối thủ của mình trong hệ thống Tứ đầu chế đang suy yếu. Cứ đến ngày 28 tháng 10, nhân dân thành La Mã lại làm lễ kỷ niệm chiến thắng cầu Milvian - "cuộc đánh đuổi tên bạo chúa" và ngày hôm sau là ngày 29 tháng 10, thì họ lại kỷ niệm - "cuộc tiến quân của vị thần linh" (đó chính là vua Constantinus I).[31]Năm 313, ông gặp Licinius ở kinh thành Milano để kết chặt liên minh giữa họ bằng sự thành hôn của Licinius và em gái kế của Constantinus là Constantia. Trong cuộc gặp gỡ này, hai vị hoàng đế đã đồng ý về sắc lệnh bây giờ gọi là Sắc lệnh Milan, chính thức cho phép tất cả mọi tôn giáo hoạt động tự do trong toàn đế quốc, đặc biệt là Kitô giáo.[33] Tuy nhiên cuộc hội nghị đã bị cắt ngắn khi tin tức đến tai Licinius rằng đối thủ của ông ta là Maximinus Daia đã vượt qua Bosporus và xâm lược vào lãnh thổ thuộc Licinius. Licinius từ biệt và cuối cùng đã đánh bại Maximinus, nắm lại toàn quyền điều khiển phần phía đông của Đế quốc La Mã. Tuy nhiên những quan hệ giữa hai vị hoàng đế còn lại ngày càng xấu đi và hoặc là năm 314 hay 316, Constantinus và Licinius đánh lẫn nhau trong chiến tranh Cibalae, với Constantinus (với 30.000 quân) là người chiến thắng[34]. Họ đụng độ lần nữa ở trận Campus Ardiensis năm 317, và đi tới thỏa thuận rằng con trai của Constantine là Crispus và Constantinus II, và con trai của Licinius là Licinianus được phong caesars.[35]
Vào năm 320, Licinius đã hạn chế tự do tôn giáo được hứa bởi Sắc lệnh Milan năm 313 và bắt đầu một cuộc giết hại những người theo Kitô giáo.[36]. Điều đó đã thách thức Constantinus ở phía tây, mà đỉnh cao là nội chiến lớn năm 324. Vào khoảng AD 323, Constantine I đánh bại đoàn chiến thuyền của Licinius với khoảng 200 tàu chiến.[34] Licinius, được giúp bởi lính đánh thuê người Goth, tượng trưng cho quá khứ và niềm tin cổ đại của Đa Thần giáo. Constantinus I và người Frank của ông hành quân ngọn cờ Kitô giáo của labarum, và cả hai đều nhìn những trận đánh dưới danh nghĩa tôn giáo. Dù là yếu hơn về lực lượng, nhưng được cổ vũ với niềm tin, đội quân của Constantinus I đã chiến thắng trong những trận đánh Adrianople, Hellespont, và Chrysopolis.[37]
Với thất bại và cái chết của Licinius một năm sau đó (ông bị kết tội mưu sát Constantine và bị xử tử), Constantinus I trở thành hoàng đế duy nhất của toàn bộ Đế quốc La Mã.[38]
Thiết lập thành Tân La Mã
Thất bại của Licinius đại diện cho sự qua đi của Đế quốc La Mã cũ, và sự bắt đầu của vai trò của Đế quốc Đông La Mã như là trung tâm học tập, phát triển, và bảo toàn văn hóa. Triều đình Constantinus I ban chiếu chỉ cho người xây dựng lại thành phố Byzantium, và đổi tên tân đô thành Tân La Mã (tức Nova Roma) là cho ban hành những đồng xu kỉ niệm năm 330 để kỉ niệm sự kiện trọng đại này. Ông cho xây cất Nghị viện và các văn phòng dân sự tại kinh kỳ Tân La Mã, giống như những văn phòng ở cố đô La Mã. Kinh thành này được bảo vệ bằng Thập Tự thật(True Cross), gậy của Moses và các thánh vật, dù cho một vật trang sức đá chạm bây giờ ở Bảo tàng Hermitage (nước Nga) cũng đã minh họa việc Constantinus I được Tyche (tức vị thần nữ cai quản tân đô) đội chiếc Vương miện lên đầu [1]. Nhà vua cũng ban huấn dụ cho thay thế hình vẽ chư thần của tín ngưỡng Đa Thần giáo xưa và thường hòa nhập các bức vẽ này vào các biểu tượng của Kitô giáo. Nơi nền cũ của miếu thờ thần nữ Aphrodite, Nhà thờ của các Thánh tông đồ được xây lên. Nhiều thế hệ sau đó có một câu chuyện rằng có hình bóng của một bậc thánh nhân đã dẫn Hoàng đế Constantinus I đến địa điểm này, và một vị thiên sứ mà không ai khác có thể nhìn thấy, đã dẫn ông tới địa điểm của những bức tường mới mẻ. Sau khi ông qua đời, người La Mã đặt tên lại cho kinh đô là Nova Roma Constantinopolitana (còn gọi là Constantinopolis hoặc là Constantinople trong tiếng Anh, có nghĩa là "thành phố của Constantinus I").[38]326 – qua đời
Vào năm 326, Hoàng đế Constantinus I cho tra khảo con trai cả là Crispus và truyền lệnh cho hành quyết chàng, bởi vì ông tin vào các lời cáo buộc rằng Crispus đã tư tình với Fausta, thứ phi của Constantinus I. Nhưng, ông hãy còn ba Hoàng nam khác (sẽ nối ngôi vua sau này). Một vài tháng sau, ông cũng ra lệnh xử tử Fausta vì bà ta là kẻ tung ra những cáo buộc sai sự thật đó. Vào năm 330, Đế quốc La Mã đã trở nên cường thịnh hơn so với nhiều thập kỷ trước: hai Đế quốc Đông và Tây đã được hợp nhất. Đất nước thái bình thịnh trị. Những cải cách của ông ít nhất đã mang lại những giây phút xả hơi cho Đế quốc La Mã sau bao nhiêu cơn binh lửa. Lực lượng Quân đội thì cũng dễ dàng được nhà vua kiểm soát. Việc xây cất những cung điện xa hoa của Constantinus I, kết hợp với việc ông sửa sang cơ cấu bưu điện và đường xá, đã khiến ông áp đặt thuế đất hà khắc lên muôn dân.[39]Eusebius viết rằng Constantinus I được rửa tội chỉ không lâu trước khi chết vào năm 337.[40] Ông di chuyển từ thủ đô đến nhà tắm nước nóng ở gần đó để lấy nước, và sau đó đến thành phố của mẹ ông là Helenopolis, nơi ông cầu nguyện trong một ngôi nhà thờ lớn bà đã cho xây để vinh danh thánh tông đồ Lucian. Với điều này, ông đã theo một phong tục thời đó là trì hoãn việc rửa tội tới tuổi già hay lúc gần chết.[41] Theo như Jerome, Constantine đã lựa chọn cha xứ Eusebius của Nicomedia làm lễ rửa tội cho ông. Sau khi ông mất, xác của ông được chuyển về lại Constantinopolis và được chôn trong Nhà thờ các Thánh tông đồ ở nơi đó.[42]
Truyền ngôi
Constantinus I không hề có biện pháp phòng tránh những cuộc chiến tranh giành quyền thừa kế sau này. Hai năm trước khi qua đời, ông lại phân chia Đế quốc và phong các con ông làm Phó Hoàng đế (Caesar). Sau khi ông qua đời, ba người con trai của ông và Fausta là các Hoàng đế Constantinus II, Constantius II và Constans ra đích thân chấp chính. Cả ba ông vua này đều chẳng đền đáp xứng đáng gì cho ân huệ của phụ hoàng Constantinus I: thay vì đó, Constantinus II trận vong khi cho quân xâm phạm lãnh thổ của Constans. Constans bị tên vua cướp ngôi Magnentius hạ sát. Còn Constantius II thì xuống lệnh thảm sát những thân quyến của tiên hoàng Constantinus I, đồng thời giành lại Đế quốc từ tay Magnentius.[39] Ông cũng có hai cô con gái, Constantina và Helena, vợ của Hoàng đế Julianus.[43]Constantinus I và Kitô giáo
Các học giả vẫn còn tranh cãi liệu là Constantinus đã chuyển theo Kitô giáo thời trẻ theo mẹ ông là bà Helena, hay là ông chuyển dần sang Kitô giáo trong suốt cuộc đời.[45] Constantinus trên 40 tuổi khi cuối cùng ông tuyên bố rằng mình theo Kitô giáo.[46] Khi viết cho những người Kitô giáo, Constantinus nói rõ là ông tin là những sự thành công của ông là do sự bảo vệ của Chúa Cha Kitô.[47] Trong suốt triều đại của ông, Constantinus đã bảo trợ Giáo hội về mặt tài chính, xây dựng nhiều thánh đường khác nhau (basilica), ban những đặc quyền (e.g. miễn một số thuế) cho các tăng lữ, thăng chức những người Kitô giáo tới những vị trí cao trong nhà nước, và trả lại những tài sản tịch thu trong Đại thảm sát thời Diocletian.[48] Những nhà thờ nổi tiếng của ông bao gồm Nhà thờ Mộ Thánh và Nhà thờ Thánh Phêrô (nhà thờ cũ).
Triều đại của Constantinus đã thiết lập một tiền lệ cho một vị trí Giáo hoàng trong Giáo hội Công giáo; Constantinus tự cho mình có trách nhiệm với Thiên Chúa về sức khỏe về mặt tâm linh của thần dân của ông ta, và do đó ông có trách nhiệm duy trì giáo lý (orthodoxy).[49] Đối với Constantinus, hoàng đế không quyết định ra giáo lý - đó là trách nhiệm của các cha xứ - mà đúng hơn vai trò của ông là bảo vệ giáo lý, diệt bỏ những điều dị giáo, và ủng hộ một sự thống nhất về các vấn đề tôn giáo.[50] Hoàng đế đảm bảo rằng Thiên Chúa được tôn thờ đúng cách trong đế quốc của ông; và tôn thờ thế nào là đúng đắn là do Giáo hội quyết định.[51]
Vào năm 316, Triều đình Constantinus I đảm nhiệm vai trò trọng tài trong cuộc tranh cãi ở Bắc Phi về sự dị giáo (heresy) của giáo thuyết Donatus (không theo Ki tô giáo chính thống của Constantinus). Sau khi đi đến phán quyết chống lại giáo thuyết Donatus, Constantinus I thân chinh chỉ huy một đạo quân của Ki tô giáo chống lại những người Ki tô giáo. Sau 300 năm chung sống hòa bình, đây là cuộc đàn áp, khủng bố đầu tiên trong nội bộ Ki tô giáo. Quan trọng hơn, năm 325 ông triệu tập Hội đồng Nicaea, là Hội đồng Ecumenical đầu tiên (không kể Hội đồng Jerusalem nếu như sự kiện đó được tính vào), chủ yếu để đối phó với sự dị giáo của chủ nghĩa Arianism.
Constantinus và người Do Thái
Constantinus đã ban hành một số đạo luật có liên quan tới người Do Thái: họ bị cấm không được sở hữu nô lệ theo Kitô giáo và không được cắt bì nô lệ của họ. Chuyển đạo từ Kitô giáo sang Do Thái giáo bị cấm. Hội họp nghi lễ tôn giáo bị giới hạn, nhưng người Do Thái được phép vào Jerusalem vào dịp Tisha B'Av, kỉ niệm ngày Đền thờ ở Jerusalem bị phá hủy. Constantinus cũng duy trì việc cấm ăn mừng lễ Phục sinh (Easter) trước lễ Passover của người Do Thái ban hành bởi Hội đồng Nicaea (nisan xiv), i.e. Quartodecimanism, xem thêm tranh cãi lễ Phục sinh.[52]Các cải cách
Tư tưởng và biểu tượng của Constantinus
Các đồng xu cho đúc bởi các hoàng đế thường cho thấy các chi tiết về các hình tượng cá nhân của họ. Trong phần đầu của triều Constantinus, các biểu tượng đầu tiên của Mars (thần chiến tranh) và sau đó (từ 310) là Apollo như là thần Mặt trời luôn luôn xuất hiện trên mặt trái của đồng xu.[cần dẫn nguồn] Mars đã là biểu tượng của Tứ đầu chế (Tetrarchy), và Constantinus sử dụng biểu tượng này để nhấn mạnh sự hợp pháp của quyền lực của ông. Sau khi phá vỡ liên minh với bạn cũ của cha ông là Maximian năm 309–310, Constantine bắt đầu tuyên bố sự truyền ngôi là hợp pháp từ vị Hoàng đế thế kỉ thứ 3 là Marcus Aurelius Claudius Gothicus (Claudius II), người anh hùng chiến thắng của Trận đánh Naissus (Tháng 9, 268).[53]Gothicus đã tuyên bố về sự bảo vệ linh thiêng của Apollo-Sol Invictus (Thần Mặt trời). Constantinus cũng tuyên bố liên minh với Sol Invictus, là vị thần linh cuối cùng xuất hiện trên các đồng xu của ông ta.[54] Mặt trái của những đồng xu thời ông liên tục trong nhiều năm là "người bạn, Mặt trời không thể bị chinh phục" của ông — dòng chú thích là SOLI INVICTO COMITI.
Triều đình Constantinus
Constantinus tôn trọng văn hóa Kitô giáo, triều đình của ông ta đã bao gồm những người khả kính.[cần dẫn nguồn] Những gia đình đầu triều không chấp nhận Kitô giáo không được bổ nhiệm vào chức vụ quan trọng, nhưng 2/3 chính quyền cấp cao của ông không phải là Kitô giáo.[55]Di sản của Constantinus I
Ông là vị Hoàng đế có công đưa Kitô giáo trở thành một tông giáo lớn nhất của nền văn minh phương Tây. Rõ ràng, ông là vị Hoàng đế theo Kitô giáo đầu tiên và vĩ đại nhất. Công lao của ông đối với đức tin Kitô giáo thật là quá lớn lao. Đồng thời, việc ông thiên đô về thành Constantinopolis (Istanbul) đã giúp cho đạo Kitô cùng với nền văn chương cổ điển được trường tồn trong suốt hàng nghìn năm.[56] Mặc dù ông có được danh hiệu "Đại Đế" từ các sử gia Kitô giáo rất lâu sau khi ông qua đời, ông có thể đạt được danh hiệu đó chỉ dựa vào các chiến thắng lẫy lừng của ông. Thêm vào việc thống nhất lại Đế quốc dưới uy quyền tối thượng của một Hoàng đế, Constantinus I đã xuất chinh đánh thắng người Frank và người Alamanni trong những trận chiến khốc liệt vào các năm 306 – 308, người Frank một lần nữa vào các năm 313 – 314, người Tervingian Goth vào năm 332 và người Sarmatia năm 334. Chiến thắng oanh liệt của ông ở cầu Milvian cũng là một trong những thời khắc quyết định nhất trong lịch sử thế giới.[4] Thật ra, cho đến năm 336, Constantinus I đã đánh chiếm lại được hầu hết các tỉnh đã bị mất từ lâu như Dacia, Hoàng đế Aurelianus đã bị buộc phải bỏ tỉnh này năm 271. Vào thời gian ông qua đời, ông đang chuẩn bị tiến hành một chiến dịch viễn chinh chống lại các cuộc cướp phá ở các tỉnh phía đông từ Đế quốc Ba Tư.[57]Ông là một vị Hoàng đế hùng mạnh, đánh dấu một giai đoạn hệ trọng trong lịch sử Đế chế La Mã.[58] Người ta xem ông là vị Hoàng đế xuất sắc nhất trong thời kỳ Hậu Cổ đại. Ông là vị vua có công lớn lập nên cả một nền văn minh châu Âu sau khi những năm tháng Cổ điển đã qua đi. Tuy nhiên, cháu của ông là Hoàng đế Julianus chỉ trích kịch liệt: theo lời kể của vị vua này, Constantinus I là một tên hôn quân vô độ. Điều này dẫn đến tranh cãi về ông ngay từ thời Hậu Cổ đại. Nhà sử học Đa Thần giáo là Zosimus coi ông là tên vua có tội với đất nước: dẫn đến sự sụp đổ của Đế quốc Tây La Mã. Tuy nhiên, các danh sĩ Kitô giáo là Lactantius và Eusebius thì xem Constantinus I là người bảo vệ của toàn nhân loại, do Chúa phái xuống trần gian. Trong suốt thời kỳ Trung Cổ, ông vẫn luôn được ca ngợi theo luận điểm ấy.[4] Đế quốc Đông La Mã đã xem Constantinus I là vị vua khai quốc và Đế quốc La Mã Thần thánh cũng xem ông là một trong những nhân vật đáng kính của lịch sử Đế quốc. Trong cả phía đông và phía tây, các Hoàng đế mới thỉnh thoảng được vinh danh như là một "Constantine mới". Hầu hết các giáo hội Kitô giáo Đông phương đều xem Constantine là một vị thánh.[59] Ở phía đông đôi khi ông được gọi là "Ngang với thánh tông đồ" (isapostolos) hay là "thánh tông đồ thứ 13"[2].
Nhưng bước sang thời kỳ cận đại, ông bị chỉ trích thậm tệ trong sử sách. Nhà sử học người Anh là Edward Gibbon, trong kiệt tác "Lịch sử suy tàn và sụp đổ của Đế quốc La Mã" (The Decline and Fall of the Roman Empire) thì tố cáo ông là một "bậc Quân vương tàn ác và phóng đãng", là kẻ có thể "xóa bỏ mọi quy định của công lý và cảm xúc của tự nhiên, với không chút do dự, để đặt được niềm đam mê hoặc là quyền lợi của mình". Cũng theo Gibbon, vị Hoàng đế chẳng có chút thiện cảm gì với tôn giáo và ông chỉ tâng Kitô giáo lên về vấn đề chính trị.[4] Trong công trình khảo cứu "The Age of Constantine the Great" (1852), nhà sử học lừng danh Jacob Burckhaardt (người Thụy Sĩ) lên án Constantinus I là một vị Hoàng đế đặc biệt không trọng tín ngưỡng, bị đầu độc nặng nề bởi tham vọng và nỗi thèm khát quyền lực của mình: thậm tệ hơn nữa, Burckhaardt đánh giá ông là một tên vua "ích kỷ gớm ghiếc" và chỉ giỏi phá vỡ những lời thề. Cũng theo Burckhaardt, Constantinus I chẳng hề thiết tha gì với các vấn đề tôn giáo, mà còn ứng xử tuyệt đối thiếu lô-gíc.[4]
Nhưng trong cuốn sử "Constantine the Great and the Christian Revolution" (1930), tác giả George Philip Baker nhận định ông là một vị Hoàng đế quyết đoán, mạnh mẽ và sáng suốt. Theo Baker, cuộc Cách mạng Kitô giáo của ông là một trong những phong trào Cách mạng quan trọng nhất trong suốt chiều dài lịch sử La Mã. Trong chính sử, không phải cao trào Cách mạng nào cũng thực sự thành công: tỷ như cơn bão Cách mạng Pháp, chỉ có thể thay đổi chính quyền ở một phần nhỏ của toàn thể châu Âu. Trong khi đó, công cuộc Cách Mạng Kitô Giáo của Constantinus I thì có khác: thắng lợi của ông đã có ảnh hưởng đến toàn thể nền văn minh Tây Âu. Ngày nay, Kitô Giáo là một tôn giáo lớn ở nơi đây. Là người bảo vệ của Giáo hội, ông đã mang lại Đế chế rộng lớn cho bản thân cùng với các vua con, đồng thời khiến cho tên tuổi của ông trở nên bất hủ.[60] Cũng theo Baker, một công trạng khác khiến tiếng tăm của ông trở nên lẫy lừng là việc thiên đô về thành Constantinopolis. Đây là một kinh kỳ có nhiều gắn bó với sự trường tồn vững mạnh của đức tin Kitô Giáo. Constantinopolis từng là một thành lũy Kitô giáo, là nơi chiến đấu vì Đức Tin, là Lâu đài của cuộc đấu tranh của Kitô Giáo. Nhờ công lao xây cất cuả Constantinus I, Constantinopolis đã trở thành một đế đô thiêng liêng trên trần gian, là một Jerusalem thứ hai. Ông mở ra kinh thành này, về sau kinh thành này lại đánh bại được người Ba Tư theo Hỏa giáo, đẩy lùi được người Ả Rập, người Avar và người Bulgaria. Do đó, ông có thể được xem là vị vua dựng nên một kinh kỳ hộ vệ toàn thể Âu châu kể từ thời ông. Không những thế, ông cũng đã đem lại một chốn phồn hoa đô hội, nơi tập trung văn hóa cho người La Mã.[61] Thời nay, các nhà nghiên cứu về thời kỳ Hậu Cổ đại đã nỗ lực khảo cứu, để có nhận định khách quan về ông, không quá tâng bốc hay hạ thấp.[4]
Truyền tụng về Constantinus I
Constantinus I trong Historia của Geoffrey người xứ Monmouth
Vì tiếng tăm lừng lẫy của ông và vì ông được phong Hoàng đế trên lãnh thổ nước Anh ngày nay, Constantinus I sau này cũng được xem như là một vị vua nước Anh thời cổ. Vào thế kỉ thứ 11, nhà văn người Anh là Geoffrey người xứ Monmouth viết một cuộc sách tựa đề là Historia Regum Britanniae, trong đó ông kể lại những chuyện được cho là lịch sử của người Briton và các vị vua của họ từ Chiến tranh thành Troia, vua Arthur và những cuộc chinh phạt của người Anglo-Saxon. Trong cuốn này, Geoffrey nói rằng thật ra mẹ của Constantine, bà Helena thật ra là con gái của "Vua Cole", một vị vua trong truyền thuyết của người Briton và là người lập ra thành phố Colchester mang tên ông. Một người con gái của vua Cole chưa được nhắc đến trước đây trong truyền thuyết, ít nhất là trong văn viết, và câu chuyện về phả hệ này đã phản ánh mong muốn của Geoffrey tạo ra một hậu duệ hoàng gia có tính liên tục. Geoffrey cho rằng thật ra không phải đạo lý khi một vị vua có tổ tiên không được cao quý cho lắm. Geoffrey cũng nói rằng Constantinus I được phong làm "Vua của người Briton" tại York, chứ không phải là Hoàng đế của Đế quốc La Mã.[62]Constantinus trong văn hóa đại chúng
Vai diễn Constantinus được diễn viên Cornel Wilde đảm nhận trong bộ phim Constantine and the Cross (tên ở Hoa Kỳ)/Constantine the Great (tên ở Anh quốc).Constantine: The Miracle of the Flaming Cros là một tác phẩm viết về cuộc đời của Constantinus. Tác phẩm được viết bởi tác giả người Mỹ Frank G. Slaughter và được xuất bản vào năm 1965. Tác phẩm được viết dựa theo tác phẩm Lịch sử suy tàn và sụp đổ của Đế quốc La Mã của Edward Gibbon và cũng như các tác phẩm của nhà sử học La Mã cùng thời với Constantinus, Eusebius thành Caesarea.[63]
Tài liệu tham khảo
Nguồn cổ đại
-
- Apologia conta Arianos (Defence against the Arians) ca. 349.
-
- Atkinson, M., and Archibald Robertson, trans. Apologia Contra Arianos. From Nicene and Post-Nicene Fathers, Second Series, Vol. 4. Edited by Philip Schaff and Henry Wace. Buffalo, NY: Christian Literature Publishing Co., 1892. Revised and edited for New Advent by Kevin Knight. Online at New Advent. Retrieved 14 August 2009.
- Epistola de Decretis Nicaenae Synodi (Letter on the Decrees of the Council of Nicaea) ca. 352.
-
- Newman, John Henry, trans. De Decretis. From Nicene and Post-Nicene Fathers, Second Series, Vol. 4. Edited by Philip Schaff and Henry Wace. Buffalo, NY: Christian Literature Publishing Co., 1892. Revised and edited for New Advent by Kevin Knight. Online at New Advent. Retrieved 28 September 2009.
- Historia Arianorum (History of the Arians) ca. 357.
-
- Atkinson, M., and Archibald Robertson, trans. Historia Arianorum. From Nicene and Post-Nicene Fathers, Second Series, Vol. 4. Edited by Philip Schaff and Henry Wace. Buffalo, NY: Christian Literature Publishing Co., 1892. Revised and edited for New Advent by Kevin Knight. Online at New Advent. Retrieved 14 August 2009.
- Sextus Aurelius Victor, Liber de Caesaribus (Book on the Caesars) ca. 361.
- Codex Theodosianus (Theodosian Code) 439.
-
- Mommsen, T. and Paul M. Meyer, eds. Theodosiani libri XVI cum Constitutionibus Sirmondianis et Leges novellae ad Theodosianum pertinentes2 (in Latin). Berlin: Weidmann, [1905] 1954. Complied by Nicholas Palmer, revised by Tony Honoré for Oxford Text Archive, 1984. Prepared for online use by R.W.B. Salway, 1999. Preface, books 1–8. Online at University College London and the University of Grenoble. Retrieved 25 August 2009.
- Unknown edition (in Latin). Online at AncientRome.ru. Retrieved 15 August 2009.
- Codex Justinianus (Justinianic Code or Code of Justinian).
-
- Scott, Samuel P., trans. The Code of Justinian, in The Civil Law. 17 vols. 1932. Online at the Constitution Society. Retrieved 14 August 2009.
- Krueger, Paul, ed. Codex Justinianus (in Latin). 2 vols. Berlin, 1954. Online at the University of Grenoble. Retrieved 28 September 2009.
- Epitome de Caesaribus (Epitome on the Caesars) ca. 395.
-
- Banchich, Thomas M., trans. A Booklet About the Style of Life and the Manners of the Imperatores. Canisius College Translated Texts 1. Buffalo, NY: Canisius College, 2009. Online at De Imperatoribus Romanis. Retrieved 15 August 2009.
- De Rebus Bellicis (On Military Matters) fourth/fifth century.
- Eunapius, History from Dexippus first edition ca. 390, second edition ca. 415. [Fragmentary]
- Eusebius of Caesarea.
-
- Historia Ecclesiastica (Church History) first seven books ca. 300, eighth and ninth book ca. 313, tenth book ca. 315, epilogue ca. 325.
-
- Williamson, G.A., trans. Church History. London: Penguin, 1989. ISBN 0-14-044535-8
- McGiffert, Arthur Cushman, trans. Church History. From Nicene and Post-Nicene Fathers, Second Series, Vol. 1. Edited by Philip Schaff and Henry Wace. Buffalo, NY: Christian Literature Publishing Co., 1890. Revised and edited for New Advent by Kevin Knight. Online at New Advent. Retrieved 28 September 2009.
- Oratio de Laudibus Constantini (Oration in Praise of Constantine, sometimes the Tricennial Oration) 336.
-
- Richardson, Ernest Cushing, trans. Oration in Praise of Constantine. From Nicene and Post-Nicene Fathers, Second Series, Vol. 1. Edited by Philip Schaff and Henry Wace. Buffalo, NY: Christian Literature Publishing Co., 1890. Revised and edited for New Advent by Kevin Knight. Online at New Advent. Retrieved 16 August 2009.
- Vita Constantini (The Life of the Blessed Emperor Constantine) ca. 336–39.
-
- Richardson, Ernest Cushing, trans. Life of Constantine. From Nicene and Post-Nicene Fathers, Second Series, Vol. 1. Edited by Philip Schaff and Henry Wace. Buffalo, NY: Christian Literature Publishing Co., 1890. Revised and edited for New Advent by Kevin Knight. Online at New Advent. Retrieved 9 June 2009.
- Life of the Blessed Emperor Constantine. 2009. Reprint of Bagster edition [1845]. Evolution Publishing. ISBN 978-1-889758-93-0. [3]
- Cameron, Averil and Stuart Hall, trans. Life of Constantine. 1999. Oxford University Press. ISBN 0-19-814924-7.
- Eutropius, Breviarium ab Urbe Condita (Abbreviated History from the City's Founding) ca. 369.
-
- Watson, John Henry, trans. Justin, Cornelius Nepos and Eutropius. London: George Bell & Sons, 1886. Online at Tertullian. Retrieved 28 September 2009.
- Rufus Festus, Breviarium Festi (The Abbreviated History of Festus) ca. 370.
-
- Banchich, Thomas M., and Jennifer A. Meka, trans. Breviarium of the Accomplishments of the Roman People. Canisius College Translated Texts 2. Buffalo, NY: Canisius College, 2001. Online at De Imperatoribus Romanis. Retrieved 15 August 2009.
-
- Pearse, Roger, et al., trans. The Chronicle of St. Jerome, in Early Church Fathers: Additional Texts. Tertullian, 2005. Online at Tertullian. Retrieved 14 August 2009.
- Jordanes, De origine actibusque Getarum [Getica] (The Origin and Deeds of the Goths) ca. 551.
-
- Mierow, Charles C., trans. The Origins and Deeds of the Goths. Princeton: Princeton University Press, 1915.
-
- Online at the University of Calgary. Retrieved 28 September 2009.
- The Gothic History of Jordanes. 2006. Reprint of 1915 edition. Evolution Publishing. ISBN 978-1-889758-77-0. [4]
- Lactantius, Liber De Mortibus Persecutorum (Book on the Deaths of the Persecutors) ca. 313–15.
-
- Fletcher, William, trans. Of the Manner in Which the Persecutors Died. From Ante-Nicene Fathers, Vol. 7. Edited by Alexander Roberts, James Donaldson, and A. Cleveland Coxe. Buffalo, NY: Christian Literature Publishing Co., 1886. Revised and edited for New Advent by Kevin Knight. Online at New Advent. Retrieved 9 June 2009.
- Libanius, Orationes (Orations) ca. 362–65.
- Optatus, Libri VII de Schismate Donatistarum (Seven Books on the Schism of the Donatists) first edition ca. 365–67, second edition ca. 385.
-
- Vassall-Phillips, O.R., trans. The Work of St. Optatus Against the Donatists. London: Longmans, Green, & Co., 1917. Transcribed at tertullian.org by Roger Pearse, 2006. Online at Tertullian. Retrieved 9 June 2009.
- Edwards, Mark, trans. Optatus: Against the Donatists. Liverpool: Liverpool University Press, 1997.
- Origo Constantini Imperiatoris (The Lineage of the Emperor Constantine) ca. 340–90.
-
- Rolfe, J.C., trans. Excerpta Valesiana, in vol. 3 of Rolfe's translation of Ammianus Marcellinus' History. Loeb ed. London: Heinemann, 1952. Online at LacusCurtius. Retrieved 16 August 2009.
- Orosius, Historiarum Adversum Paganos Libri VII (Seven Books of History Against the Pagans) ca. 417.
- XII Panegyrici Latini (Twelve Latin Panegyircs) relevant panegyrics dated 289, 291, 297, 298, 307, 310, 311, 313 and 321.
- Philostorgius, Historia Ecclesiastica (Church History) ca. 433.
-
- Walford, Edward, trans. Epitome of the Ecclesiastical History of Philostorgius, Compiled by Photius, Patriarch of Constantinople. London: Henry G. Bohn, 1855. Online at Tertullian. Retrieved 15 August 2009.
- Praxagoras of Athens, Historia (History of Constantine the Great) ca. 337. [Fragmentary]
- Socrates of Constantinople (Socrates Scholasticus), Historia Ecclesiastica (Church History) ca. 443.
-
- Zenos, A.C., trans. Ecclesiastical History. From Nicene and Post-Nicene Fathers, Second Series, Vol. 2. Edited by Philip Schaff and Henry Wace. Buffalo, NY: Christian Literature Publishing Co., 1890. Revised and edited for New Advent by Kevin Knight. Online at New Advent. Retrieved 14 August 2009.
- Sozomen, Historia Ecclesiastica (Church History) ca. 445.
-
- Hartranft, Chester D. Ecclesiastical History. From Nicene and Post-Nicene Fathers, Second Series, Vol. 2. Edited by Philip Schaff and Henry Wace. Buffalo, NY: Christian Literature Publishing Co., 1890. Revised and edited for New Advent by Kevin Knight. Online at New Advent. Retrieved 15 August 2009.
- Theodoret, Historia Ecclesiastica (Church History) ca. 448.
-
- Jackson, Blomfield, trans. Ecclesiastical History. From Nicene and Post-Nicene Fathers, Second Series, Vol. 3. Edited by Philip Schaff and Henry Wace. Buffalo, NY: Christian Literature Publishing Co., 1892. Revised and edited for New Advent by Kevin Knight. Online at New Advent. Retrieved 15 August 2009.
- Zosimus, Historia Nova (New History) ca. 500.
-
- Unknown, trans. The History of Count Zosimus. London: Green and Champlin, 1814. Online at Tertullian. Retrieved 15 August 2009.[chú thích 4][65]
Nguồn hiện đại
- Alföldi, Andrew. The Conversion of Constantine and Pagan Rome. Translated by Harold Mattingly. Oxford: Clarendon Press, 1948.
- Anderson, Perry. Passages from Antiquity to Feudalism. London: Verso, 1981 [1974]. ISBN 0-86091-709-6
- Arjava, Antii. Women and Law in Late Antiquity. Oxford: Oxford University Press, 1996. ISBN 0-19-815233-7
- Armstrong, Gregory T. "Church and State Relations: The Changes Wrought by Constantine." Journal of Bible and Religion 32 (1964): 1–7.
- Armstrong, Gregory T. "Constantine's Churches: Symbol and Structure." The Journal of the Society of Architectural Historians 33 (1974): 5–16.
- Barnes, Timothy D. "Lactantius and Constantine." The Journal of Roman Studies 63 (1973): 29–46.
- Barnes, Timothy D. Constantine and Eusebius. Cambridge, MA: Harvard University Press, 1981. ISBN 978-0-674-16531-1
- Barnes, Timothy D. The New Empire of Diocletian and Constantine. Cambridge, MA: Harvard University Press, 1982. ISBN 0-7837-2221-4
- Barnes, Timothy D. "Constantine and the Christians of Persia." The Journal of Roman Studies 75 (1985): 126–136.
- Bowman, Alan K. "Diocletian and the First Tetrarchy." In The Cambridge Ancient History, Volume XII: The Crisis of Empire, edited by Alan Bowman, Averil Cameron, and Peter Garnsey, 67–89. Cambridge University Press, 2005. ISBN 0-521-30199-8
- Cameron, Averil. "The Reign of Constantine, A.D. 306–337." In The Cambridge Ancient History, Volume XII: The Crisis of Empire, edited by Alan Bowman, Averil Cameron, and Peter Garnsey, 90–109. Cambridge University Press, 2005. ISBN 0-521-30199-8
- Cameron, Averil and Stuart G. Hall. Life of Constantine. Oxford: Clarendon Press, 1999. Hardcover ISBN 0-19-814917-4 Paperback ISBN 0-19-814924-7
- Carrié, Jean-Michel & Rousselle, Aline. L'Empire Romain en mutation- des Sévères à Constantin, 192–337. Paris: Seuil, 1999. ISBN 2-02-025819-6
- Christol, M. & Nony, D. Rome et son Empire. Paris: Hachette, 2003. ISBN 2-01-145542-1
- Corcoran, Simon. The Empire of the Tetrarchs: Imperial Pronouncements and Government, AD 284–324. Oxford: Clarendon Press, 1996. ISBN 0-19-815304-X
- Curran, John. Pagan City and Christian Capital. Oxford: Clarendon Press, 2000. Hardcover ISBN 0-19-815278-7 Paperback ISBN 0-19-925420-6
- Dagron, Gilbert. Naissance d'une Capitale: Constantinople et ses instititutions de 330 a 451. Paris: Presses Universitaires de France, 1984. ISBN 2-13-038902-3
- Digeser, Elizabeth DePalma. The Making of A Christian Empire: Lactantius and Rome. London: Cornell University Press, 2000. ISBN 0-8014-3594-3
- Downey, Glanville. "Education in the Christian Roman Empire: Christian and Pagan Theories under Constantine and His Successors." Speculum 32 (1957): 48–61.
- Drake, H. A. "What Eusebius Knew: The Genesis of the "Vita Constantini"." Classical Philology 83 (1988): 20–38.
- Drake, H. A. "Constantine and Consensus." Church History 64 (1995): 1–15.
- Drake, H. A. "Lambs into Lions: Explaining Early Christian Intolerance." Past & Present 153 (1996): 3–36.
- Drake, H. A. Constantine and the Bishops: The Politics of Intolerance. Baltimore: Johns Hopkins University Press, 2000. ISBN 0-8018-6218-3
- Elliott, T. G. "Constantine's Conversion: Do We Really Need It?" Phoenix 41 (1987): 420–438.
- Elliott, T. G. "Eusebian Frauds in the "Vita Constantini"." Phoenix 45 (1991): 162–171.
- Elliott, T. G. The Christianity of Constantine the Great. Scranton, PA: University of Scranton Press, 1996. ISBN 0-940866-59-5
- Elsner, Jás. Imperial Rome and Christian Triumph. Oxford & New York: Oxford University Press (Oxford History of Art), 1998. ISBN 0-19-284201-3
- Fowden, Garth. "Between Pagans and Christians." The Journal of Roman Studies 78 (1988): 173–182.
- Fowden, Garth. "The Last Days of Constantine: Oppositional Versions and Their Influence." The Journal of Roman Studies 84 (1994): 146–170.
- Fubini, Riccardo. "Humanism and Truth: Valla Writes against the Donation of Constantine." Journal of the History of Ideas 57:1 (1996): 79–86.
- Gibbon, Edward. Decline and Fall of the Roman Empire. Chicago: Encyclopædia Britannica, 1952 ("Great Books" collection), in 2 volumes.
- Goldsworthy, Adrian. How Rome Fell. New Haven & London: Yale University Press, 2009. Hardcover ISBN 978-0-300-13719-4
- Grant, Robert M. "Religion and Politics at the Council at Nicaea." The Journal of Religion 55 (1975): 1–12.
- Guthrie, Patrick. "The Execution of Crispus." Phoenix 20: 4 (1966): 325–331.
- Harries, Jill. Law and Empire in Late Antiquity. Cambridge, UK: Cambridge University Press, 2004. Hardcover ISBN 0-521-41087-8 Paperback ISBN 0-521-42273-6
- Hartley, Elizabeth. Constantine the Great: York's Roman Emperor. York: Lund Humphries, 2004. ISBN 978-0-85331-928-3.
- Heather, Peter J. "Foedera and Foederati of the Fourth Century." In From Roman Provinces to Medieval Kingdoms, edited by Thomas F.X. Noble, 292–308. New York: Routledge, 2006. Hardcover ISBN 0-415-32741-5 Paperback ISBN 0-415-32742-3
- Helgeland, John. "Christians and the Roman Army A.D. 173–337." Church History 43 (June 1974): 149–163.
- Jones, A.H.M. Constantine and the Conversion of Europe. Buffalo: University of Toronto Press, 1978 [1948].
- Jordan, David P. "Gibbon's "Age of Constantine" and the Fall of Rome" History and Theory 8:1 (1969), 71–96.
- Lenski, Noel, ed. The Cambridge Companion to the Age of Constantine. New York: Cambridge University Press, 2006. Hardcover ISBN 0-521-81838-9 Paperback ISBN 0-521-52157-2
- Lieu, Samuel N.C. and Dominic Montserrat. From Constantine to Julian: Pagan and Byzantine Views; A Source History. New York: Routledge, 1996.
- Mackay, Christopher S. "Lactantius and the Succession to Diocletian." Classical Philology 94:2 (1999): 198–209.
- MacMullen, Ramsay. Constantine. New York: Dial Press, 1969. ISBN 0-7099-4685-6
- MacMullen, Ramsay. Christianizing the Roman Empire A.D. 100–400. New Haven, CT; London: Yale University Press, 1984. ISBN 978-0-300-03642-8
- MacMullen, Ramsay. Christianity and Paganism in the Fourth to Eighth Centuries. New Haven: Yale University Press, 1997. ISBN 0-300-07148-5
- Mattingly, David. An Imperial Possession: Britain in the Roman Empire. London: Penguin, 2007. ISBN 978-0-14-014822-0
- Nicholson, Oliver. "Constantine's Vision of the Cross." Vigiliae Christianae 54:3 (2000): 309–323.
- Odahl, Charles Matson. Constantine and the Christian Empire. New York: Routledge, 2004. Hardcover ISBN 0-415-17485-6 Paperback ISBN 0-415-38655-1
- Pears, Edwin. "The Campaign against Paganism A.D. 324." The English Historical Review 24:93 (1909): 1–17.
- Pohlsander, Hans. "Crispus: Brilliant Career and Tragic End". Historia 33 (1984): 79–106.
- Pohlsander, Hans. The Emperor Constantine. London & New York: Routledge, 2004a. Hardcover ISBN 0-415-31937-4 Paperback ISBN 0-415-31938-2
- Pohlsander, Hans. "Constantine I (306 – 337 A.D.)." De Imperatoribus Romanis (2004b). Retrieved 16 December 2007.
- Potter, David S. The Roman Empire at Bay: AD 180–395. New York: Routledge, 2005. Hardcover ISBN 0-415-10057-7 Paperback ISBN 0-415-10058-5
- Rees, Roger. Layers of Loyalty in Latin Panegyric: AD 289–307. New York: Oxford University Press, 2002. ISBN 0-19-924918-0
- Rodgers, Barbara Saylor. "The Metamorphosis of Constantine." The Classical Quarterly 39 (1989): 233–246.
- Scheidel, Walter. "The Monetary Systems of the Han and Roman Empires". In Scheidel, ed., Rome and China: Comparative Perspectives on Ancient World Empires. Oxford: Oxford University Press, 2010, ISBN 978-0-19-975835-7
- Seidel, Lisa. "Constantine 'and' Charlemagne." Gesta 15 (1976): 237–239.
- Southern, Pat. The Roman Empire from Severus to Constantine. New York: Routledge, 2001. ISBN 0-415-23944-3
- Storch, Rudolph H. "The "Eusebian Constantine"." Church History 40 (1971): 1–15.
- Treadgold, Warren. A History of the Byzantine State and Society. Stanford: Stanford University Press, 1997. ISBN 0-8047-2630-2
- Udoh, Fabian E. "Quand notre monde est devenu chretien", review, Theological Studies, June 2008
- Veyne, Paul. L'Empire Gréco-Romain, Paris: Seuil, 2005. ISBN 2-02-057798-4
- Veyne, Paul.Quand notre monde est devenu chrétien, Paris: Albin Michel, 2007. ISBN 978-2-226-17609-7
- Warmington, Brian. "Some Constantinian References in Ammianus." In The Late Roman World and its Historian: Interpreting Ammianus Marcellinus, edited by Jan Willem Drijvers and David Hunt, 166–177. London: Routledge, 1999. ISBN 0-415-20271-X
- Weiss, Peter. "The Vision of Constantine." Translated by A.R. Birley in Journal of Roman Archaeology 16 (2003): 237–59.
- Wiemer, Hans-Ulrich. "Libanius on Constantine." The Classical Quarterly 44 (1994): 511–524.
- Williams, Stephen. Diocletian and the Roman Recovery. New York: Routledge, 1997. ISBN 0-415-91827-8
- Woods, David. "On the Death of the Empress Fausta." Greece & Rome 45 (1988): 70–86.
- Woods, David. "Where Did Constantine I Die?" Journal of Theological Studies 48:2 (1997): 531–535.
- Wright, David H. "The True Face of Constantine the Great." Dumbarton Oaks Papers 41 (1987): 493–507
- The Cambridge Companion to the Age of Constantine (Cambridge Companions to the Ancient World), edited by Noel Lenski. New York: Cambridge University Press, 2005 (hardcover, ISBN 0-521-81838-9; paperback, ISBN 0-521-52157-2).
- Dam, Raymond Van. Remembering Constantine at the Milvian Bridge, Cambridge University Press, 2011. ISBN 1-107-09643-X.
- Baker, G. P. Constantine the Great and the Christian Revolution. Kessinger Publishing, 2003. ISBN 0-7661-7292-9.
- Barnes, T.D. 1981 Constantine and Eusebius. Cambridge, MA, London.
- Chuvin, Pierre; Archer, B. A. (translator). A Chronicle of the Last Pagans. Cambridge, MA: Harvard University Press, 1990 (ISBN 0-674-12970-9).
- Chapman, John. "Donatists", The Catholic Encyclopedia (1909).
- "Constantine", Encyclopaedia Britannica (1911).
- Dodds, Eric Robertson. The Greeks and the Irrational. Berkeley: University of California Press, 1964.
- Dodds, Eric Robertson. Pagan and Christian in an Age of Anxiety: Some Aspects of the Religious Experience from Marcus Aurelius to Constantine. Cambridge University Press, 1965.
- Eusebius of Caesarea. The Life of the blessed Emperor Constantine in four books from 306 to 337.
- Fowden, Garth. "The Last Days of Constantine: Oppositional Versions and Their Influence", The Journal of Roman Studies, Vol. 84. (1994), pp. 146–170.
- Herbermann, Charles G.; Grupp, Georg. "Constantine the Great", The Catholic Encyclopedia (1908).
- Holloway, R. Ross. Constantine and Rome. New Heaven, CT; London: Yale University Press, 2004 (hardcover, ISBN 0-300-10043-4).
- Jones, A.H.M. Constantine and the Conversion of Europe. London: English University Press, 1948; London: Macmillan, 1949.
- Kousoulas, D.G. The Life and Times of Constantine the Great: The First Christian Emperor. Bethesda, MD: Provost Books, 2003 (paperback, ISBN 1-887750-61-4).
- Lactantius, (240–320). Of the Manner the in Which the Persecutors Died.
- MacMullen, Ramsay. Constantine. Dial Press, 1969.
- MacMullen, Ramsay. Christianizing the Roman Empire A.D. 100–400. New Heaven, CT; London: Yale University Press, 1984.
- MacMullen, Ramsay. Changes in the Roman Empire: Essays in the Ordinary. Princeton, NJ: Princeton University Press, 1990.
- MacMullen, Ramsay. Enemies of the Roman Order: Treason, Unrest, and Alienation, Harvard, 1966.
- Monmouth, Geoffrey of, The History of the Kings of Britain, translated by Lewis Thorpe. London: Penguin, 1966. ISBN 0-14-044170-0
- Odahl, Charles Matson. Constantine and the Christian Empire. Cambridge, MA: Harvard University Press, 2004.
- Pohlansander, Hans. The Emperor Constantine. London & New York: Routledge, 1996. ISBN 0-415-13178-2
- Rassias, Vlassis R. Es Edafos Ferein, 2nd edition. Athens, 2000 (ISBN 960-7748-20-4).
- Wilken, Robert L., Christians As the Romans Saw Them. New Heaven, CT; London: Yale University Press, 1436.
- Sources on the Antonine Plague:
- Galen. On the Natural Faculties.
- Marcus Cornelius Fronto. Letters of Marcus Cornelius Fronto.
Ghi chú
- ^ Caesar ở phương Tây; tự phong làm Augustus từ năm 309; được tôn làm Augustus ở phương Đông vào tháng 4 năm 310.
- ^ Augustus danh chánh ngôn thuận ở phương Tây, Augustus tối cao của toàn Đế quốc.
- ^ Là Hoàng đế của toàn thể Đế chế La Mã.
- ^ This translation is not very good. The pagination is broken in several places, there are many typographical errors (including several replacements of "Julian" with "Jovian" and "Constantine" with "Constantius"). It is nonetheless the only translation of the Historia Nova in the public domain.[64]
Chú thích
- ^ Jás Elsner, Imperial Rome and Christian Triumph, 64, fig.32
- ^ a ă Nhiều tư liệu viết năm sinh khác nhau những phần lớn tài liệu hiện nay dùng "khoảng năm 274" như trong "Constantine", Encyclopædia Britannica, 2007 Online edition; and "Constantine", Dictionary of the Middle Ages, volume 3, 1983.
- ^ Trong tiếng Latinh đế hiệu đầy đủ của vua Constantinus I là IMPERATOR CAESAR FLAVIVS CONSTANTINVS PIVS FELIX INVICTVS AVGVSTVS, Hoàng đế Caesar Flavius Constantine Augustus, Người sùng đạo, May mắn và Bất khả chiến bại. Vào năm 312, ông thêm hiệu MAXIMVS ("Vĩ đại nhất"), và sau năm 325 ông thay hiệu invictus ("bất khả chiến bại") bằng VICTOR, do invictus ám chỉ Thần Mặt Trời Sol Invictus.
- ^ a ă â b c d đ Hans A. Pohlsander, The Emperor Constantine, trang 1
- ^ Charles Matson Odahl, Constantine and the Christian empire
- ^ a ă â b Terry Julian, Constantine the Great, Christianity, and Constantinople, các trang 11-14.
- ^ Hans A. Pohlsander, The Emperor Constantine, Bìa sau
- ^ Elizabeth Hartley, Jane Hawkes, Martin Henig, Constantine the Great: York's Roman emperor, trang 15
- ^ D. G. Kousoulas, The Life and Times of Constantine the Great, các trang XIII-XIV.
- ^ D. G. Kousoulas, The Life and Times of Constantine the Great, trang 144
- ^ Terry Julian, Constantine the Great, Christianity, and Constantinople, trang 21
- ^ Raymond Van Dam, Remembering Constantine at the Milvian Bridge, các trang 3-4.
- ^ Noel Emmanuel Lenski, The Cambridge companion to the Age of Constantine, Tập 13, trang 357
- ^ Noel Emmanuel Lenski, The Cambridge companion to the Age of Constantine, Tập 13, trang 313
- ^ a ă Barnes, Constantine and Eusebius, 3; Lenski, "Reign of Constantine" (CC), 59–60; Odahl, 16–17.
- ^ MacMullen, Constantine, 21.
- ^ Barnes, Constantine and Eusebius, 8–14; Corcoran, "Before Constantine" (CC), 41–54; Odahl, 46–50; Treadgold, 14–15.
- ^ Bowman, 70; Potter, 283; Williams, 49, 65.
- ^ Potter, 283; 2Williams, 49, 65.
- ^ Barnes, Constantine and Eusebius, 3; Elliott, Christianity of Constantine, 20; Lenski, "Reign of Constantine" (CC), 59–60; Odahl, 47, 299; Pohlsander, Emperor Constantine, 14.
- ^ Pohlsander, Hans, The Emperor Constantine, pp. 12–13 & p. 71, figure 9.
- ^ Barnes, T.D., Constantine and Eusebius Cambridge, MA and London, 1981.
- ^ Constantine, Oratio ad Sanctorum Coetum, 16.2; Elliott, Christianity of Constantine., 29–30; Lenski, "Reign of Constantine" (CC), 60; Odahl, 72–73.
- ^ Constantine, Oratio ad Sanctorum Coetum 25; Elliott, Christianity of Constantine, 30; Odahl, 73.
- ^ Lactantius, De Mortibus Persecutorum 10.6–11; Barnes, Constantine and Eusebius, 21; Elliott, Christianity of Constantine, 35–36; MacMullen, Constantine, 24; Odahl, 67; Potter, 338.
- ^ Barnes, Constantine and Eusebius, 22–25; MacMullen, Constantine, 24–30; Odahl, 67–69; Potter, 337.
- ^ Pohlsander, Hans, The Emperor Constantine, pp. 14–15.
- ^ Pohlsander, Hans, The Emperor Constantine, pp. 16–17.
- ^ a ă â Pohlsander, Hans, The Emperor Constantine, pp. 15–16.
- ^ J. Norwich, Byzantium: The Early Centuries, 38
- ^ a ă Raymond Van Dam, Remembering Constantine at the Milvian Bridge, các trang 1-2.
- ^ Elizabeth DePalma Digeser, "The Making of A Christian Empire: Lactantius and Rome" (London, Cornell University Press, 2000) p. 122
- ^ Pohlsander, Hans, The Emperor Constantine, p. 24.
- ^ a ă J. Norwich, Byzantium: The Early Centuries, 47
- ^ Pohlsander, Hans, The Emperor Constantine, pp. 38–39.
- ^ Pohlsander, Hans, The Emperor Constantine, pp. 41–42.
- ^ Pohlsander, Hans, The Emperor Constantine, pp. 42–43.
- ^ a ă MacMullen, 1969
- ^ a ă Norman Davies, Europe: a history, các trang 209-210.
- ^ Pohlsander, Hans, The Emperor Constantine, pp. 25 & 75–76.
- ^ In this period infant baptism, though practiced (usually in circumstances of emergency) had not yet become a matter of routine in the west. See Thomas M. Finn (1992), Early Christian Baptism and the Catechumenate: East and West Syria. See also Philip Rousseau (1999). "Baptism", in Late Antiquity: A Guide to the Post Classical World, ed. Peter Brown.
- ^ Pohlsander, Hans, The Emperor Constantine, pp. 75–76.
- ^ Pohlsander, Hans, The Emperor Constantine, p. 71, figure 9.
- ^ The edict granted Christians the right to practice their religion but did not restore any property to them; see Lactantius, De Mortibus Persecutorum ("On the Deaths of the Persecutors")ch. 35-34
- ^ R. Gerberding and J. H. Moran Cruz, Medieval Worlds (New York: Houghton Mifflin Company, 2004) p. 55
- ^ Peter Brown, The Rise of Christendom 2nd edition (Oxford, Blackwell Publishing, 2003) p. 61
- ^ Peter Brown, The Rise of Christendom 2nd edition (Oxford, Blackwell Publishing, 2003) p. 60
- ^ R. Gerberding and J. H. Moran Cruz, Medieval Worlds (New York: Houghton Mifflin Company, 2004) pp. 55-56
- ^ Richards, Jeffrey. The Popes and the Papacy in the Early Middle Ages 476-752 (London: Routledge & Kegan Paul, 1979) pp. 14-15
- ^ Richards, Jeffrey. The Popes and the Papacy in the Early Middle Ages 476-752 (London: Routledge & Kegan Paul, 1979) q. 15
- ^ Richards, Jeffrey. The Popes and the Papacy in the Early Middle Ages 476-752 (London: Routledge & Kegan Paul, 1979) p. 16
- ^ Life of Constantine Vol. III Ch. XVIII by Eusebius; The Epistle of the Emperor Constantine, concerning the matters transacted at the Council, addressed to those Bishops who were not present
- ^ Pohlsander, Hans, The Emperor Constantine, pp. 22 & 62–63.
- ^ N. Hannestad Roman Art and Imperial Policy (Aarhus: 1988)
- ^ MacMullen 1969,1984, New Catholic Encyclopedia, 1908 Constantine
- ^ Terry Julian, Constantine the Great, Christianity, and Constantinople, Bìa sau
- ^ Pohlsander, Hans, The Emperor Constantine, p. 72.
- ^ Noel Emmanuel Lenski, The Cambridge companion to the Age of Constantine, Tập 13, Bìa sau
- ^ Pohlsander, Hans, The Emperor Constantine, pp. 83–87.
- ^ G. P. Baker, Constantine the Great: And the Christian Revolution, các trang V-VI.
- ^ G. P. Baker, Constantine the Great: And the Christian Revolution, các trang VIII-IX.
- ^ Geoffrey of Monmouth, The History of the Kings of Britain, các trang 132–133.
- ^ Frank G. Slaughter, Constantine: The Miracle of the Flaming Cross, Doubleday & Company, 1965.
- ^ Roger Pearse, "Preface to the online edition of Zosimus' New History". 19 November 2002, rev. 20 August 2003. Retrieved 15 August 2009.
- ^ This list of primary sources is based principally on the summary in Odahl, 2–11 and further lists in Odahl, 372–76. See also Bruno Bleckmann, "Sources for the History of Constantine" (CC), "Sources for the History of Constantine," in The Cambridge Companion to the Age of Constantine, trans. Noel Lenski, ed. Noel Lenski (New York: Cambridge University Press, 2006), 14–31; and Noel Lenski, ed. The Cambridge Companion to the Age of Constantine (New York: Cambridge University Press, 2006), 411–17.
Liên kết ngoài
Wikimedia Commons có thêm thể loại hình ảnh và tài liệu về Constantinus Đại đế |
- Sắc lệnh Milano năm 313
- Letters of Constantine: Book 1, Book 2, & Book 3
- Encyclopaedia Britannica, Constantine I
- RomanEmperors.org Vita of Constantine; with bibliography
- Ammianus Marcellinus on-line project
- 12 Byzantine Rulers by Lars Brownworth of Stony Brook School (grades 7-12). 40 minute audio lecture on Constantine.
- Constantine I in the 1911 Encyclopædia Britannica
- Constantine the Great A site about Constantine the Great and his bronze coins emphasizing history using coins, with many resources including reverse types issued and reverse translations.
- House of Constantine bronze coins Illustrations and descriptions of coins of Constantine the Great and his relatives.
- BBC North Yorkshire's site on Roman York, Yorkshire and Constantine the Great
http://www.youtube.com/user/hoangkimvietnam
Trở về trang chính
Hoàng Kim, hoangkim, hoangkimvietnam, Ngọc Phương Nam, Chào ngày mới Thung dung, Dạy và học, Cây Lương thực, Tin Nông nghiệp Việt Nam, Food Crops, Cassava in Vietnam, Khát khaoch xanh, Dayvahoc,Học mỗi ngày, Danh nhân Việt , Food Crops News, Điểm chính, CNM365, Kim LinkedIn, KimTwitter, KimFaceBook Đọc lại và suy ngẫm, Việt Nam tổ quốc tôi, Tình yêu cuộc sống, Thơ cho con
No comments:
Post a Comment