CNM365 Chào ngày mới 26 tháng 5 Wikipedia Ngày này năm xưa.Napoleon Bonaparte (hình) tiến hành nghi lễ đăng quang quốc vương của Ý tại nhà thờ chính tòa Milano. Năm 1896 – Nikolai II của Nga tiến hành nghi lễ đăng quang Sa hoàng Nga tại Đại giáo đường Upensky thuộc Moskva.Năm 1897 – Dracula được xuất bản, là tiểu thuyết mang lại nhiều ảnh hưởng về ma cà rồng của tác giả người Ireland Bram Stoker. Năm 1970 – Tupolev Tu-144 của Liên Xô trở thành phương tiện vận chuyển thương mại đầu tiên vượt qua vận tốc âm thanh. Năm 1972 – Hoa Kỳ và Liên Xô ký kết Hiệp ước Chống tên lửa đạn đạo.
Napoléon Bonaparte
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
(đổi hướng từ Napoleon Bonaparte)
Napoléon I | |
---|---|
Napoléon dans son cabinet de travail, họa phẩm của Jacques-Louis David, 1812 |
|
Hoàng đế của người Pháp | |
Trị vì | 20 tháng 3 năm 1804 – 11 tháng 4 năm 1814 (9 năm, 328 ngày) 1 tháng 3 năm 1815 – 22 tháng 6 năm 1815 (94 ngày) |
Đăng quang | 2 tháng 12 năm 1804 |
Tiền nhiệm | Không (bản thân trên cương vị Đệ nhất tổng tài của Đệ nhất Cộng hòa Pháp) |
Kế nhiệm | Louis XVIII (de jure năm 1814) |
Vua Ý | |
Trị vì | 17 tháng 3 năm 1805 – 11 tháng 4 năm 1814 |
Đăng quang | 26 tháng 5 năm 1805 |
Tiền nhiệm | Không (bản thân trên cương vị Tổng thống của Cộng hòa Ý) |
Kế nhiệm | Không (vương quốc tan rã, vua kế tiếp của Ý là Vittorio Emanuele II) |
Thông tin chung | |
Phối ngẫu | Joséphine de Beauharnais Marie Louise của Austria |
Hậu duệ | Napoléon II |
Tên đầy đủ | Napoléon Bonaparte |
Hoàng tộc | Bonaparte |
Thân phụ | Carlo Buonaparte |
Thân mẫu | Letizia Ramolino |
Sinh | 15 tháng 8 năm 1769 Ajaccio, Corse, Pháp |
Mất | 5 tháng 5 năm 1821 (52 tuổi) Longwood, Saint Helena |
An táng | Điện Invalides, Paris |
Với đế hiệu Napoléon I, ông là Hoàng đế của người Pháp từ năm 1804 đến năm 1815. Cuộc cải cách pháp luật của ông, Bộ luật Napoléon, đã có những ảnh hưởng lớn lên nhiều bộ luật dân sự trên toàn thế giới, nhưng ông được nhớ đến nhất bởi vai trò của mình trong các cuộc chiến tranh mà Pháp phải đương đầu với hàng loạt liên minh, được gọi là các cuộc chiến tranh Napoléon. Ông đã thiết lập quyền bá chủ trên phần lớn lục địa châu Âu và tìm cách truyền bá những lý tưởng của cách mạng Pháp, đồng thời củng cố nền đế chế làm phục hồi những nét của chế độ cũ Pháp (Ancien Régime). Nhờ thắng lợi trong những cuộc chiến này, thường là chống lại đối phương có ưu thế về quân số, ông được coi là một trong những nhà quân sự vĩ đại nhất mọi thời đại, và các chiến dịch của Napoléon được nghiên cứu tại các học viện quân sự trên khắp thế giới[1].
Napoléon được sinh ra ở Ajaccio thuộc Corse, trong một gia đình thuộc dòng dõi quý tộc Genoa (Ý). Ông được đào tạo thành một sỹ quan pháo binh ở Pháp. Bonaparte trở nên nổi tiếng dưới thời Đệ nhất Cộng hòa Pháp khi chỉ huy thành công nhiều chiến dịch chống lại Liên minh thứ nhất và các thứ hai chống Pháp. Ông cũng tiến hành cuộc chinh phạt bán đảo Ý.
Năm 1799, ông đã tổ chức một cuộc đảo chính và tự đưa mình trở thành vị Tổng tài thứ nhất; năm năm sau đó Thượng viện Pháp tuyên xưng ông là Hoàng đế Pháp. Trong thập niên đầu tiên của thế kỷ 19, Đệ nhất Đế chế Pháp dưới quyền Napoléon đã tham gia vào một loạt xung đột - những cuộc chiến tranh Napoléon - lôi kéo mọi cường quốc chính ở châu Âu tham gia. Sau một loạt thắng lợi, Pháp đạt được vị trí thống trị ở lục địa châu Âu, và Napoléon duy trì phạm vi ảnh hưởng của Pháp thông qua việc thành lập của những mối đồng minh rộng lớn và bổ nhiệm bạn bè và người thân cai trị các quốc gia châu Âu khác như những chư hầu của Pháp.
Cuộc chiến kéo dài ở bán đảo Iberia và cuộc xâm lược nước Nga năm 1812 đánh dấu bước ngoặt trong cơ đồ của Napoléon. Quân đội chủ lực của Pháp, Grande Armée, bị tổn thất nặng nề trong chiến dịch và không bao giờ có thể khôi phục lại hoàn toàn. Năm 1813, Liên minh thứ sáu đã đánh bại quân đội của ông tại Leipzig, năm sau đó Liên minh xâm lược Pháp, buộc Napoléon phải thoái vị và đày ông đến đảo Elba. Chưa đầy một năm sau, ông thoát khỏi Elba và trở lại nắm quyền, nhưng đã bị đánh bại trong trận Waterloo vào tháng 6 năm 1815. Napoléon trải qua sáu năm cuối cùng của cuộc đời trong sự giam cầm của người Anh trên đảo Saint Helena. Cái chết của ông gây ra nhiều tranh cãi về sau, chẳng hạn một số học giả cho rằng ông là nạn nhân của một vụ đầu độc bằng arsen.
Mục lục
- 1 Dòng dõi và việc học tập
- 2 Khởi đầu sự nghiệp
- 3 Nhà cai trị nước Pháp
- 4 Lưu đày ở Saint Helena
- 5 Những cải cách lớn
- 6 Napoleon và tôn giáo
- 7 Hình ảnh trong văn hóa
- 8 Di sản
- 9 Hôn nhân và con cái
- 10 Tước hiệu và huy hiệu
- 11 Phả hệ tổ tiên
- 12 Chú thích
- 13 Trích dẫn
- 14 Tham khảo
- 15 Liên kết ngoài
Dòng dõi và việc học tập
Napoléon Bonaparte là đứa con thứ hai trong một gia đình có tám người con, ra đời tại dinh thự Casa Buonaparte ở thị trấn Ajaccio, đảo Corse vào ngày 15 Tháng Tám năm 1769, một năm sau khi hòn đảo này được Cộng hòa Genoa chuyển giao cho Pháp[2]. Ông được đặt tên thánh là Napoleone di Buonaparte, theo tên một người chú (trước đó ông bà Bonaparte đã có một con trai đặt tên Napoleone nhưng đã mất sớm). Vào tuổi hai mươi, ông lấy tên là Napoléon Bonaparte cho có vẻ Pháp hơn[3][chú thích 2].Dòng họ Bonaparte ở Corse bắt nguồn từ giới quý tộc nhỏ Ý ở Lombardia[4][5], những người đã đến Corse từ Liguria từ thế kỷ 16[6]. Cha của ông là Nobile Carlo Buonaparte, một luật sư, từng được chỉ định làm đại diện của đảo Corse đối với triều đình vua Louis XVI. Người có ảnh hưởng quyết định trong thời thơ ấu của Napoléon là mẹ ông, Letizia Ramolino, kỉ luật nghiêm khắc của bà đã kiềm chế đứa bé ngỗ nghịch[7].
Ông có một anh trai Joseph và sáu người em là Lucien, Elisa, Louis, Pauline, Caroline và Jérôme. Có hai đứa trẻ khác, một trai một gái được sinh trước Joseph nhưng chết yểu[8]. Napoléon được rửa tội như một người Công giáo ngay trước sinh nhật hai tuổi của mình, vào ngày 21 tháng Bảy năm 1771 tại nhà thờ Ajaccio[9].
Nền tảng quý tộc và tương đối khá giả cùng các mối quan hệ của gia đình giúp Napoléon có cơ hội học tập lớn hơn nhiều so với một người Corse thông thường thời đó[10]. Tháng Một năm 1779, Napoléon đã ghi danh vào một trường tôn giáo ở Autun trên đất liền để học tiếng Pháp. Đến tháng Năm, ông được nhận vào một học viện quân sự tại Brienne-le-Château[11]. Ông nói giọng Corse và không thể đánh vần đúng cách[12], điều khiến ông bị bạn bè trêu chọc và do đó chuyên tâm vào việc đọc[13]. Nhưng một viên giám thị quan sát thấy Napoléon " luôn luôn nổi trội trong sự chăm chú đối với toán học. Anh tương đối thuần thục với lịch sử và địa lý... Chàng trai này sẽ làm nên một thủy thủ xuất sắc"[14][chú thích 3]. Khi hoàn thành việc học ở Brienne năm 1784, Napoléon được nhận vào trường quân sự danh tiếng École Militaire ở Paris. Điều này đã kết thúc tham vọng hải quân từng khiến ông cân nhắc một đơn xin vào Hải quân Hoàng gia Anh[16]. Ông được đào tạo để trở thành một sĩ quan pháo binh và, khi cái chết của người cha làm giảm thu nhập, đã buộc phải hoàn thành khóa học hai năm trong một năm[17]. Ông là người Corse đầu tiên tốt nghiệp từ École Militaire[17]. Ông được sát hạch bởi nhà khoa học nổi tiếng Pierre-Simon Laplace, người sau này Napoléon bổ nhiệm vào Thượng viện[18].
Khởi đầu sự nghiệp
Khi tốt nghiệp tháng Chín 1785, Bonaparte được phong hàm thiếu úy ở trung đoàn pháo binh La Fère[11][chú thích 4]. Ông từng đóng ở Valence, Drôme và Auxonne cho đến trước khi bùng nổ Cách mạng năm 1789, và nghỉ phép gần hai năm ở Corse và Paris trong giai đoạn này. Là một người theo chủ nghĩa dân tộc nhiệt thành, ông viết cho lãnh đạo Corse Pasquale Paoli vào tháng 5 1789:"Tôi đã được sinh ra khi dân tộc suy vong. Ba mươi nghìn người Pháp được tung tới bờ biển của chúng ta, nó nhấn chìm ngôi báu của tự do vào những làn sóng máu. Chính cảnh tượng đó là thứ ghê tởm đầu tiên đập vào mắt tôi"[20].Ông trải qua những năm đầu Cách mạng ở Corse, chiến đấu trong một cuộc xung đột phức tạp ba bên giữa những người bảo hoàng, những người cách mạng, và những người dân tộc chủ nghĩa Corse. Ông ủng hộ phái cách mạng Jacobin, nhận hàm trung tá trong đoàn dân quân Corse, và chỉ huy một tiểu đoàn quân tình nguyện. Mặc dù quá thời gian nghỉ phép vắng mặt và lãnh đạo một cuộc bạo động chống lại quân đội Pháp ở Corse, ông vẫn được thăng hàm đại úy trong quân đội chính quy Pháp tháng Bảy 1792[21].
Ông trở lại quê hương và bắt đầu mẫu thuẫn với Paoli, người quyết định chia tách Corse khỏi Pháp và phá hoại một cuộc tấn công của Pháp trên đảo Sardegna, nơi Bonaparte là một trong các viên chỉ huy chính[22]. Bonaparte và gia đình phải bỏ trốn vào đất liền Pháp vào tháng Sáu 1793 bởi sự cắt đứt quan hệ với Paoli[23].
Cuộc vây hãm Toulon
Ông tiến hành một kế hoạch chiếm một quả đồi nơi các khẩu pháo của quân cộng hòa có thể bao quát cảng thành phố và buộc các chiến thuyền Anh phải rút lui. Cuộc đột kích lên vị trí trên, trong đó Bonaparte bị thương ở đùi, đã dẫn tới việc chiếm được thành phố sau đó, nhờ vậy ông được thăng hàm Chuẩn tướng ở tuổi 24. Ủy ban An ninh Công cộng (chính phủ de facto của Pháp đương thời) chú ý đến Napoléon, ông được cử đảm trách pháo binh của Tập đoàn quân Ý của Pháp[25].
Trong lúc chờ sự xác nhận bổ nhiệm, Napoléon dành thời gian để khảo sát các công sự duyên hải trên bờ biển Địa Trung Hải gần Marseille. Ông thảo ra kế hoạch tấn công Vương quốc Sardegna như một phần của chiến dịch chống lại Liên minh thứ nhất[26]. Tư lệnh Tập đoàn quân Ý, Pierre Jadart Dumerbion, đã chứng kiến quá nhiều viên tướng bị xử tử do không đủ hay do có quan điểm chính trị sai lầm. Do đó, ông chiều theo ý các ủy viên đặc trách của Quốc Ước (représentant en mission) là Augustin Robespierre và Saliceti, những người đến lượt họ sẵn lòng lắng nghe viên tướng pháo binh mới được thăng chức[27].
Thực hiện kế hoạch của Bonaparte trong trận Saorgio tháng Tư 1794, quân đội Pháp tiến lên phía đông bắc tới vùng Riviera thuộc Ý sau đó ngoặt sang phía bắc để chiếm đóng Ormea trong vùng núi. Từ Ormea, họ đột phá phía tây để thọc sườn các vị trí Áo-Sardegna xung quanh Saorge. Kết quả là, các thành thị duyên hải Oneglia và Loano, cũng như con đèo Tenda chiến lược, bị chiếm bởi quân Pháp[28]. Sau đó, Augustin Robespierre gửi Bonaparte tới một nhiệm vụ ở Cộng hòa Genoa để xác định các toan tính của quốc gia này đối với nước Pháp[26].
Ngày 13 tháng Hái Nho
Ông được thả trong vòng hai tuần, và do năng lực của mình, được yêu cầu thảo kế hoạch tấn công các vị trí Ý trong bối cảnh cuộc chiến Pháp-Áo. Ông cũng tham gia vào một cuộc viễn chinh nhằm chiếm lại Corse từ tay người Anh, nhưng quân Pháp đã bị đẩy lùi bởi Hải quân Hoàng gia[32].
Tháng Bốn 1795, Bonaparte đính hôn với Désirée Clary, em gái của Julie Clary, người đã cưới anh trai của Bonaparte là Joseph; nhà Clary là một gia đình thương nhân giàu có đến từ Marseilles[33]. Cùng thời gian này, ông được chỉ định tới Tập đoàn quân phía Tây, lúc này đang tham gia Chiến tranh Vendée — một cuộc nội chiến kéo dài do phe bảo hoàng chống cách mạng gây ra ở vùng Vendée phía tây miền trung nước Pháp. Làm một tư lệnh bộ binh, đó là một sự giáng cấp từ tướng pháo binh - mà quân đội đã có đủ hạn ngạch — và ông viện cớ sức khỏe yếu để từ chối nhậm chức[34].
Ông được chuyển tới Văn phòng Trắc địa của Ủy ban An ninh Công cộng và tìm kiếm cơ hội được gửi tới Constantinople để phục vụ cho Sultan nhưng không thành[35]. Trong thời kì này, ông viết một tiểu thuyết lãng mạn ngắn mang tựa đề Clisson et Eugénie kể về một người lính và tình nhân của anh ta, một so sánh rõ ràng mối quan hệ của chính Bonaparte với Désirée[36]. Ngày 15 tháng Chín, Bonaparte bị loại khỏi danh sách các tướng của quân đội chính quy do việc từ chối nhận nhiệm vụ ở chiến dịch Vendée. Ông đối diện với một tình trạng tài chính khó khăn và thu hẹp những tham vọng về tiền đồ của mình[37].
Mùng 3 tháng Mười, những người bảo hoàng ở Paris tuyên bố một cuộc nổi loạn chống lại Quốc Ước sau khi họ bị loại khỏi chính phủ mới, nội các Đốc chính[38]. Paul Barras, một lãnh đạo của Chính biến Thermidor, biết đến thành tích quân sự của Bonaparte ở Toulon và trao cho ông quyền chỉ huy các lực lượng ứng biến phòng thủ trụ sở Quốc Ước ở Cung điện Tuileries. Chứng kiến vụ thảm sát đội Cận vệ Thụy Sĩ của nhà vua ba năm trước đó, ông nhận ra pháo binh có thể là chìa khóa để kháng cự[11].
Ông lệnh cho một sĩ quan kị binh trẻ, Joachim Murat, chiếm các khẩu đại bác lớn và dùng chúng để đẩy lui các đợt tấn công vào mùng 5 tháng Mười 1795—13 tháng Vendémiaire (Hái Nho) năm IV theo Lịch Cách mạng Pháp. Sau khi 1400 người bảo hoàng chết, số còn lại rút lui[38].
Sự thất bại của cuộc nổi dậy phe bảo hoàng đã dập tắt mối đe dọa với Quốc Ước và giúp Bonaparte đột nhiên gặt hái được danh vọng, tiền tài cùng với sự bảo trợ của nội các mới. Murat cưới một trong số các em gái và trở thành em rể cũng như tiếp tục phục vụ Napoléon như một vị tướng. Bonaparte được thăng hàm thiếu tướng, đảm nhiệm chức Tư lệnh Nội địa (Commandand de l'armée de l'Intérieur) và sau đó Tập đoàn quân Ý được trao cho ông[23].
Trong vòng vài tuần ông đã gắn bó với nhân tình cũ của Barras, Joséphine de Beauharnais. Họ cưới nhau vào mùng 9 tháng Ba 1796 sau khi ông hủy đính ước với Désirée Clary[39].
Chiến dịch Ý thứ nhất (1796–97)
Hai ngày sau hôn lễ, Bonaparte rời Paris để nắm quyền chỉ huy Tập đoàn quân Ý và dẫn dắt một cuộc chinh phạt thắng lợi nước Ý. Ở trận Lodi ông đã đánh bại quân đội Áo và đẩy họ ra khỏi Lombardia[23]. Ông thất bại trong trận Caldiero bởi sự tăng viện của Áo, chỉ huy bởi József Alvinczi, tuy nhiên Bonaparte lấy lại thế chủ động trong trận đánh có tính quyết định ở Arcole tiến tới chinh phục địa phận của Giáo hoàng[40].Bonaparte đã bác bỏ mong muốn của những người vô thần ở Hội đồng Đốc chính là hành quân vào Rome và phế truất Giáo hoàng vì ông cho rằng điều này sẽ tạo ra một khoảng trống quyền lực sẽ bị Vương quốc Napoli lợi dụng. Thay vào đó, tháng Ba 1797, Bonaparte chỉ huy quân đội tiến vào Áo và buộc nước này thương lượng một hòa ước[41]. Hiệp ước Leoben đã cho Pháp quyền cai quản hầu hết Bắc Ý và các miền đất phía dưới châu thổ sông Rhine (Pays-Bas, gồm Bỉ, Hà Lan và một phần lãnh thổ Đức, Pháp hiện nay), trong khi một điều khoản bí mật hứa hẹn Cộng hòa Venezia cho Áo. Bonaparte hành quân tới Venice và buộc nó đầu hàng, kết thúc 1100 năm nền độc lập của thành phố thương mại này; ông cũng lấy cớ cho quân Pháp cướp bóc những báu vật như những bức tượng ngựa bằng đồng ở Giáo đường Saint Mark[42].
Áp dụng những ý tưởng quân sự thông thường vào các tình huống thực tế đã làm nên những vinh quang quân sự của ông, chẳng hạn như việc sử dụng sáng tạo pháo binh như một lực lượng linh hoạt để hỗ trợ cho bộ binh. Ông nói về chiến thuật của mình như sau: "Tôi đã đánh sáu mươi trận và tôi không học được điều gì mà tôi chưa biết vào lúc bắt đầu. Nhìn Caesar xem; ông ta đánh trận đầu giống như trận cuối"[43].
Ông tinh thông trong việc sử dụng gián điệp và mưu trá và có thể thắng trận chiến bằng cách che đậy việc triển khai quân và tập trung quân vào điểm mấu chốt của mặt trận bị suy yếu của đối phương. Nếu ông không thể sử dụng chiến lược bao vây ưa thích của mình (Mouvement en tenaille, chuyển quân sang hai cánh và hợp vây kẻ địch), ông sẽ nắm lấy vị trí trung tâm và tấn công hai lực lượng phối hợp ở điểm mấu chốt của họ, tung quân đánh một cánh cho đến khi nó rút lui, sau đó quay lại đương đầu với cánh kia[44]. Trong chiến dịch Ý này, quân đội của Bonaparte bắt được 150 000 tù binh, 540 khẩu đại bác và 170 cờ hiệu[45]. Quân đội Pháp đã đánh 67 trận và thắng 19 trận chính quy (pitched battles, trong đó hai bên chọn một địa điểm dàn quân trước khi đánh) nhờ kĩ thuật pháo binh áp đảo và các chiến thuật của Bonaparte[46].
Trong khi chiến dịch diễn ra, Bonaparte trở nên ngày càng có ảnh hưởng trong chính trị Pháp; ông thành lập hai tờ báo: một cho quân đội của ông và một phát hành ở Pháp[47]. Những người bảo hoàng đả kích Bonaparte vì cướp phá Ý và cảnh báo rằng ông có thể trở thành một kẻ độc tài[48]. Bonaparte gửi tướng Pierre Augereau tới Paris để lãnh đảo một cuộc đảo chính và thanh lọc những người bảo hoàng vào mùng 4 tháng Chín — sau được gọi là Đảo chính ngày 18 Fructidor. Điều này đem Barras và các đồng minh phe Cộng hòa trở lại nắm quyền nhưng phụ thuộc vào Bonaparte, người bấy giờ đang tiến hành đàm phán hòa ước mới với Áo. Những thương lượng này dẫn tới Hiệp ước Campo Formio, và Bonaparte trở lại Paris tháng Mười hai như một anh hùng[49]. Ông gặp Talleyrand, Bộ trưởng Ngoại giao mới của Pháp - người về sau phục vụ ở cùng cương vị cho đế chế của Napoléon — và họ bắt đầu chuẩn bị cho một cuôc xâm lược nước Anh[23].
Viễn chinh tới Ai Cập (1798-1801)
Napoleon đảm bảo với Hội đồng Đốc chính rằng "ngay khi ông chinh phục được Ai Cập, ông sẽ thành lập những mối quan hệ với các hoàng thân Ấn Độ, và cùng với họ, tấn công người Anh tại các thuộc địa của họ"[51]. Theo một bản tường trình tháng Hai 1798 bởi Talleyrand: "Khi đã chiếm giữ và củng cố Ai Cập, chúng ta sẽ gửi một lực lượng 15000 người từ Suez tới Ấn Độ, kết hợp với Tipu-Sahib và đánh đuổi người Anh"[51]. Hội đồng đồng ý với kế hoạch để bảo đảm tuyến giao thương tới Ấn Độ[52].
Tháng Năm 1798, Bonaparte được bầu làm thành viên của Viện Hàn lâm Khoa học Pháp. Chuyến viễn chinh Ai Cập của ông có sự tham gia của 167 nhà khoa học bao gồm các nhà toán học, tự nhiên học, hóa học và trắc địa; trong những khám phá của họ có Phiến đá Rosetta, và công trình của họ được xuất bản thành cuốn Description de l'Égypte năm 1809[53].
Trên đường tới Ai Cập, Bonaparte tới Malta vào ngày 9 tháng Sáu 1798, khi đó dưới quyền kiểm soát của dòng Hiệp sĩ Cứu tế. Hai trăm hiệp sĩ gốc Pháp không ủng hộ vị Đại trưởng lão, Ferdinand von Hompesch zu Bolheim, và bày tỏ rằng họ sẽ không chiến đấu chống lại đồng bào. Hompesch đầu hàng sau một sự kháng cự yếu ớt, và Bonaparte chiếm được một căn cứ hải quân quan trọng với tổn thất chỉ ba binh sĩ[54].
Tướng Bonaparte cùng đoàn quân của ông đã phải né tránh cuộc truy đuổi của Hải quân Hoàng gia và cập cảng ngày 1 tháng Bảy ở Alexandria[23]. Ông đánh trận Shubra Khit chống lại Mamluk, giới quân sự thống trị Ai Cập bấy giờ. Điều này giúp những người Pháp thực hành chiến thuật phòng thủ cho trận Kim Tự Tháp diễn ra ngày 21 tháng Bảy, cách các kim tự tháp 24 km. Lực lượng của Bonaparte vào khoảng 25000, xấp xỉ bằng quân số kỵ binh Mamluk, nhưng ông đã lập những khối quân hình vuông rỗng với quân nhu được giữ an toàn bên trong. Kết quả, chỉ có 29 người Pháp chết[55], so với xấp xỉ 2000 người Ai Cập. Chiến thắng này đã củng cố tinh thần cho quân đội Pháp[56].
Ngày 1 tháng Tám, hạm đội Anh dưới quyền Horatio Nelson đã bắt hoặc tiêu diệt hầu như tất cả chỉ trừ hai chiếc tàu Pháp trong trận sông Nile, và mục tiêu của Bonaparte về một vị thế tăng cường của người Pháp ở Địa Trung Hải tan vỡ[57]. Quân đội của ông thành công trong sự gia tăng ngắn hạn quyền lực của Pháp ở Ai Cập, tuy nhiên sau đó đối mặt với những cuộc nổi dậy liên tiếp[58]. Đầu năm 1799, ông chuyển quân tới tỉnh Damascus thuộc đế quốc Ottoman (Syria và Galilea). Bonaparte chỉ huy 13000 lính Pháp trong cuộc chinh phục các thành thị duyên hải Arish, Gaza, Jaffa, và Haifa[59]. Cuộc tấn công vào Jaffa đặc biệt đẫm máu: Bonaparte, khi khám phá ra phần nhiều trong những người bảo vệ thành phố là cựu tù nhân chiến tranh từng hứa danh dự không trả thù để được tha, đã ra lệnh cho quân phòng thủ cùng 1,400 khác bị xử tử bằng lưỡi lê hoặc dìm chết đuối để tiết kiệm đạn[57]. Đàn ông, đàn bà và trẻ con bị cướp và giết trong ba ngày[60].
Với đội quân bị suy yếu bởi bệnh dịch — chủ yếu là dịch hạch — và nguồn quân nhu nghèo nàn, Bonaparte không thể hạ các pháo đài ở Acre và trở lại Ai Cập vào tháng Năm[57]. Để tăng tốc cuộc hành quân, ông ra lệnh bỏ lại những người lính ốm yếu vì dịch hạch và bắt họ uống thuốc độc[61]. (Tuy nhiên, những người Anh sau này chứng kiến đã ghi chép lại rằng hầu hết những người này sống sót và không bị đầu độc). Những người ủng hộ ông lập luận rằng điều này là cần thiết để đối phó với các trận tập hậu của quân Ottoman, và thực tế những người bỏ lại còn sống thường bị tra tấn và chặt đầu bởi kẻ địch. Trở lại Ai Cập, vào ngày 25 tháng Bảy, Bonaparte đánh bại cuộc tấn công đổ bộ của Ottoman trong trận Abukir[62].
Nhà cai trị nước Pháp
Hội đồng Đốc chính đã gửi ông những mệnh lệnh quay về để ngăn ngừa những cuộc xâm lược vào đất Pháp, nhưng đường dây liên lạc nghèo nàn khiến cho các thông điệp không đến được với ông[63]. Vào lúc ông tới được Paris vào tháng Mười, tình hình nước Pháp đã được cải thiện bởi một chuỗi những thắng lợi. Tuy nhiên nền Cộng hòa đã phá sản, và Hội đồng bất lực không được lòng dân Pháp[65]. Hội đồng đã thảo luận về việc "đào ngũ" của Bonaparte nhưng quá yếu ớt để trừng phạt ông[63].
Bonaparte được một trong các viên Đốc chính, Emmanuel Joseph Sieyès, tiếp cận để hỗ trợ cho một cuộc đảo chính lật đổ chính phủ hợp hiến. Những người đứng đầu kịch bản này bao gồm người em trai ông là Lucien; phát ngôn viên của Hội đồng Năm trăm (tức Hạ nghị viện), Roger Ducos; một viên Đốc chính khác, Joseph Fouché; và Talleyrand. Vào ngày 9 tháng Mười một — hay 18 tháng Brumaire (Sương mù) theo lịch Cộng hòa Pháp - Bonaparte được trao nhiệm vụ bảo đảm an ninh cho hai viện lập pháp, những người bị thuyết phục rời về Lâu đài Saint-Cloud ở phía Tây Paris, sau một tin đồn về một cuộc nổi loạn của phe Jacobin được lan truyền bởi những người âm mưu[66]. Ngày hôm sau, các nghị sĩ nhận ra họ đang đối mặt với một cuộc đảo chính. Trước sự phản kháng của họ, Bonaparte chỉ huy quân đội nắm quyền và giải tán họ, kế đó một nghị viện thu nhỏ (rump legislature) chỉ định Bonaparte, Sieyès, và Ducos làm các Tổng tài lâm thời quản lí chính quyền[57].
Chế độ Tổng tài Pháp
Năm 1800, Bonaparte và quân đội của ông vượt dãy Alps tới Ý, nơi quân đội Pháp đã hầu như bị đánh bật hoàn toàn bởi quân Áo trong lúc ông đang ở Ai Cập. Chiến dịch khởi đầu tệ hại cho người Pháp khi Bonarpate có những sai lầm chiến lược; một lực lượng đã bị vây hãm ở Genoa nhưng cuối cùng phá được vây và do đó chiếm được tài nguyên của quân Áo[68]. Nỗ lực này, và sự tăng viện kịp thời của tướng Louis Desaix, đã cho phép Bonaparte quay lại với chuỗi thắng lợi vào tháng Sáu trong trận Marengo có tính quyết định[69].
Anh trai Joseph của Bonaparte tiến hành thương lượng hòa bình ở Lunéville và thông báo rằng Áo, được khuyến khích bởi người Anh, sẽ không công nhận những lãnh thổ Pháp vừa mới chiếm được. Khi cuộc thương lượng trở nên ngày càng căng thẳng, Bonaparte trao quyền cho tướng Moreau tấn công đất Áo thêm một lần nữa. Moreau đã lãnh đạo quân Pháp tới chiến thắng trong trận Hohenlinden. Kết quả là, Hiệp ước Lunéville được kí vào tháng hai 1801; những chiến quả của Pháp từ Hiệp ước Campo Formio được tái xác nhận và tăng cường[69].
Nền hòa bình tạm thời cho châu Âu
Bonaparte cũng đứng trước sự thất thế và cuối cùng là thảm bại trong đàn áp Cách mạng Haiti. Bằng Luật 20 tháng Năm 1802 ông tái thiết lập chế độ nô lệ trong các vùng thuộc địa Pháp vốn đã bị bãi trừ sau Cách mạng[71]. Đáp trả một cuộc nổi dậy của nô lệ, ông gửi một đạo quân viễn chinh để tái chiếm Saint-Dominique và thiết lập một căn cứ. Tuy nhiên lực lượng này bị hủy diêt bởi dịch sốt vàng và sức kháng cự mãnh liệt bởi những viên tướng Haiti Toussaint Louverture và Jean-Jacques Dessalines[chú thích 6]. Nước Pháp đứng trước tình trạng phá sản tài chính và một cuộc chiến tranh cận kề với người Anh, Bonaparte nhận thấy những sở hữu của Pháp ở đất liền thuộc Bắc Mĩ là không thể bảo vệ được và bán chúng cho Hợp chúng quốc Hoa Kỳ - Vụ mua bán Louisiana - với giá hơn ba cent mỗi mẫu Anh (acre) (tức khoảng 7,4 cent mỗi hecta)[73].
Đế chế Pháp
Napoleon sử dụng âm mưu trên để biện hộ cho sự tái lập của nền quân chủ cha truyền con nối ở Pháp, mà chính ông là Hoàng đế, với lập luận rằng sự phục hồi đáng lo ngại của nhà Bourbon sẽ khó khăn hơn nếu sự thừa kế nhà Bonaparte được ghi nhận bởi hiến pháp[76]. Trong một cử chỉ có tính hình thức, Thượng viện yêu cầu ông lên ngôi Hoàng đế để “bảo vệ nền Cộng hòa”. Napoléon tự đội đế miện với hiệu Hoàng đế Napoléon I vào ngày 2 tháng Mười hai 1804 ở Nhà thờ Đức Bà Paris và sau đó trao miện Hoàng hậu cho Joséphin[77] dưới sự chứng kiến của Giáo hoàng Piô VII. Ludwig van Beethoven, một người hâm mộ từ lâu của ông, đã thất vọng vì sự quay sang chủ nghĩa đế quốc này và xóa lời đề tặng Napoléon trong Giao hưởng số 3 của mình.
Tại Nhà thờ Milan vào ngày 26 tháng Năm 1805, Napoléon đăng quang ngôi Vua của Ý với Vương miện Sắt của Lombardy. Ông lập nên cấp Thống chế của Đế chế từ những vị tướng hàng đầu của mình, để đảm bảo lòng trung thành của quân đội.
Chiến tranh liên minh thứ ba
Theo đó, Hải quân Pháp sẽ thoát khỏi sự bao vây của quân anh ở Toulon và Brest rồi đe dọa tấn công Tây Ấn, do đó sẽ loại bỏ được sự phòng thủ phía Tây quần đảo Anh, với hi vọng một hạm đội Pháp-Tây Ban Nha có thể đoạt được eo biển đủ lâu để quân đội Pháp băng qua từ Boulogne và xâm lược nước Anh[78]. Tuy nhiên, sau thất bại trong trận hải chiến ở Cape Finisterre vào tháng Bảy 1805 và cuộc rút lui của Đô đốc Villeneuve về Cadiz, xâm lược đất Anh không bao giờ còn là một lựa chọn hiện thực đối với Napoléon nữa[79].
Khi quân đội Áo được triển khai tới Bavaria, ông ngừng triển khai xâm lược Anh và ra lệnh cho đạo quân đóng ở Boulogne, Grande Armée của ông, hành quân bí mật trong một cuộc di chuyển thọc sâu vào hậu phương địch — chiến dịch Ulm. Điều này bao vây lực lượng Áo sắp sửa tấn công Pháp và cắt đứt các đường liên lạc của họ. Ngày 20 tháng Mười 1805, quân Pháp bắt được 30 000 tù binh trong trận Ulm, tuy nhiên ngày hôm sau chiến thắng của người Anh ở Trafalgar đồng nghĩa với việc Hải quân Hoàng gia hoàn toàn chiếm lĩnh các vùng biển[80].
Sáu tuần sau, trong lần kỉ niệm một năm ngày đăng quang, Napoléon đã đánh bại liên quân Áo-Nga trong trận Austerlitz nổi tiếng với tổn thất của phe Liên minh vào khoảng 27 000 người, gấp 3 lần quân Pháp[81]. Trận này đã bẻ gãy Liên minh thứ ba, khiến cho Aleksandr I phải than thở: "Chúng ta là những em bé trong bàn tay của một gã khổng lồ" [82]. Napoléon trở về Paris nhận sự hưởng ứng nhiệt liệt, cho khánh thành Khải Hoàn Môn để tưởng niệm chiến thắng. Áo phải chịu nhường một phần lãnh thổ; Hòa ước Pressburg dẫn tới sự giải thể Đế quốc La Mã Thần thánh và lập nên Liên bang sông Rhine với Napoléon giữ vị trí Bảo hộ Công[80].
Napoleon sau này nhắc lại "trận Austerlitz là trận đánh đẹp nhất trong mọi trận đánh tôi từng thực hiện"[83]. Frank McLynn cho rằng Napoléon đã quá thành công ở Austerlitz tới mức ông mất sự liên hệ với thực tiễn, và thứ từng là chính sách ngoại giao Pháp trở thành "một thứ của riêng Napoleon"[84]. Vincent Cronin không tán thành, cho rằng Napoléon không tự mãn quá mức về bản thân, mà "ông là hiện thân cho lòng tự mãn của ba mươi triệu người Pháp"[85].
Các mối đồng minh Trung Đông
Ngay cả sau chiến dịch thất bại ở Ai Cập, Napoléon vẫn tiếp tục ấp ủ một kế hoạch lớn lao là thành lập một sự hiện diện của Pháp ở Trung Đông[50]. Một mối đồng minh với các cường quốc Trung Đông sẽ là lợi thế chiến lược gây sức ép cho Nga ở biên giới phía Nam của nước này. Từ 1803, Napoléon tiến những bước đáng kể trong cố gắng thuyết phục Đế quốc Ottoman chiến đấu chống lại Nga ở bán đảo Balkan và gia nhập liên minh chống Nga của ông[86].Napoleon gửi tướng Horace Sebastiani sang làm đặc sứ, hứa hẹn sẽ giúp đỡ Đế quốc Ottoman khôi phục những lãnh thổ đã mất[86]. Tháng Hai năm 1806, sau chiến thắng của Napoléon ở Austerlitz và sự chia cắt sau đó của Đế quốc Habsburg, Hoàng đế Ottoman Selim III cuối cùng thừa nhận ngôi Hoàng đế của Napoleon, chính thức chọn liên minh với Pháp như "người đồng minh thân thiết và tự nhiên của chúng ta", đồng thời tuyên chiến với Nga và Anh[87].
Một liên minh Pháp-Ba Tư cũng được hình thành, trong thời gian từ 1807 tới 1809, giữa Đế quốc Ba Tư của Fat′h-Ali Shah Qajar chống Nga và Anh. Liên minh này chấm dứt khi Pháp bắt tay với Nga và chuyển trọng tâm sang các chiến dịch châu Âu[50].
Chiến tranh với Liên minh thứ tư
Sau một thắng lại quyết định tại trận Friedland, ông kí các Hiệp ước Tilsit bao gồm một văn bản với Nga hoàng Aleksandr I phân chia lục địa giữa hai cường quốc này; một văn bản khác với Phổ tước một nửa lãnh thổ nước này. Napoléon đặt các nhà cai trị lên ngai vàng các bang nước Đức, bao gồm người em Jérôme làm vua của Vương quốc Westfalen mới lập. Trong vùng Ba Lan mà Pháp kiểm soát, ông lập nên Công quốc Warszawa dưới quyền Vua Friedrich August I của Sachsen[90].
Với các chiếu chỉ Milan và chiếu chỉ Berlin, Napoléon nỗ lực tăng cường một sự tẩy chay thương mại khắp châu Âu đối với Anh mang tên Hệ thống Lục địa. Đạo luật chiến tranh kinh tế này không thành công, bởi nó khuyến khích các thương gia Anh buôn lậu vào châu Âu lục địa, và nhân viên cưỡng bách thuế quan độc quyền của Napoléon không thể ngăn họ lại[91].
Chiến tranh Bán đảo
Ở Tây Ban Nha, Napoléon còn phải đối mặt với một loại hình chiến tranh mới, chiến tranh du kích [chú thích 7], trong đó cư dân địa phương, hưởng ứng chủ nghĩa ái quốc và tinh thần tôn giáo, tham gia vào cuộc chiến. Loại hình bước đầu của chiến tranh nhân dân này bao gồm nhiều hình thức chiến đấu cường độ thấp (quấy rối, phá hoại, nổi dậy vũ trang...) và trợ giúp cho quân đội chính quy những nước đồng minh với Tây Ban Nha. Sau khi quân Pháp đồn trú buộc phải rút khỏi nhiều phần đất nước này, Napoléon nắm quyền chỉ huy trực tiếp, đánh bại quân Tây Ban Nha. Ông chiếm lại Madrid, đánh bật một đội quân Anh tới cứu viện và đẩy lui họ khỏi bờ biển [93]. Tuy vậy, trước khi người dân Tây Ban Nha chịu khuất phục hoàn toàn, nước Áo lại đe dọa chiến tranh, buộc Napoléon phải quay về Pháp.[94].
Cuộc chiến tranh trên bán đảo Iberia tốn kém và thường đẫm máu vẫn tiếp tục khi Napoléon vắng mặt. Trong cuộc vây hãm Zaragoza lần thứ hai, gần như toàn bộ thành phố bị phá hủy và hơn 5 vạn người bỏ mạng[95]. Mặc dù Napoléon để 30 vạn quân tinh nhuệ ở lại Tây Ban Nha để chống lại quân du kích cũng như liên quân Anh-Bồ Đao Nha dưới sự chỉ huy của Công tước Wellington, nhưng sự kiểm soát của Pháp ngày một suy yếu[96].
Sau khi phía đồng minh giành thắng lợi, cuộc chiến kết thúc sau khi Napoléon thoái vị vào năm 1814[97]. Napoléon mô tả cuộc chiến tranh Bán đảo là trung tâm của sự thất bại chung cuộc của mình. Ông đã viết trong hồi ký: "Cuộc chiến tranh bất hạnh đó đã hủy diệt tôi...Tất cả...những tai họa của tôi bị buộc chặt với nút thắt định mệnh đó"[98].
Chiến tranh Liên minh thứ năm và tái hôn
Vương quốc Anh vẫn chống Pháp và có vài trận thắng trên biển[101]. Trên lục địa châu Âu, Anh chỉ hỗ trợ cuộc chiến trên bán đảo Iberia và gửi một đoàn quân viễn chinh gồm 40.000 người tới Walcheren (vùng Zeeland, Hà Lan) từ 30 tháng 7 tới 10 tháng 12 năm 1809 để tấn công căn cứ hải quân Antwerpen của Pháp và để chia cắt lực lượng Pháp nhằm giúp Áo nhưng cuối cùng phải rút lui khi Napoléon đem quân tăng viện[102].
Ông đồng thời sáp nhập lãnh thổ của Giáo hoàng bởi Giáo hội từ chối ủng hộ Hệ thống Lục địa; Giáo hoàng Piô VII đáp trả bằng cách rút phép thông công vị hoàng đế Pháp. Sau đó một số sĩ quan của Napoléon bắt cóc Giáo hoàng, Napoléon tuy không ra lệnh trên nhưng khi biết sự việc cũng không cho thả Piô. Giáo hoàng bị chuyển đi khắp các lãnh thổ của Napoléon và Napoléon đã gửi các phái đoàn tới gây áp lực buộc ông trên các vấn đề bao gồm thỏa thuận về một giáo ước mới với nước Pháp, điều Piô từ chối. Năm 1810 Napoléon kết hôn với nữ Đại công tước Marie Louise của Áo, sau khi ông ly dị với Joséphine; điều này gây thêm căng thẳng với Giáo hội, và mười ba Hồng y đã bị tống giam do vắng mặt tại lễ cưới[103]. Giáo hoàng tiếp tục bị giam cầm trong 5 năm và không trở về Rome cho đến tháng Năm 1814[104].
Napoleon chấp nhận việc Bernadotte, một trong các thống chế của ông được bầu làm người thừa kế ngai vàng Thụy Điển vào tháng Mười một 1810. Ông thường chiều Bernadotte bất chấp những sơ xuất của viên tướng này vì Bernadotte cưới hôn thê cũ của ông là Désirée Clary nhưng về sau hối hận cả đời khi Bernadotte đem Thụy Điển liên minh với các kẻ thù của Pháp trong Liên minh thứ sáu và trở thành một trong những đối thủ đáng ngại nhất của ông[105]
Xâm lược nước Nga
Tới 1812, các cố vấn của Aleksandr đề xuất khả năng tiến hành xâm lược Đế quốc Pháp và tái chiếm Ba Lan. Nhận được báo cáo tình báo về những sự chuẩn bị chiến tranh của Nga, Napoléon tăng cường mở rộng đạo quân Grande Armée của mình lên hơn 450 000 lính[108]. Ông phớt lờ lời khuyên lặp lại chống một cuộc xâm lược vào trung tâm nước Nga và chuẩn bị cho một chiến dịch tấn công; và ngày 23 tháng Sáu 1812 cuộc chinh phạt bắt đầu[109].
Trong một nỗ lực nhằm thu được sự hỗ trợ hơn nữa từ những người yêu nước dân tộc chủ nghĩa Ba Lan, Napoléon gọi cuộc chiến là Chiến tranh Ba Lan lần thứ hai - Chiến tranh Ba Lan lần thứ nhất là cuộc nổi dậy Liên bang Bar của quý tộc Ba Lan chống lại Nga năm 1768. Những người yêu nước Ba Lan muốn khu vực Ba Lan thuộc Nga sáp nhập vào Công quốc Warszawa và một nhà nước Ba Lan độc lập được tạo ra. Điều này bị từ chối bởi Napoléon đã hứa với đồng minh Áo không cho phép như vậy. Napoléon cũng từ chối giải phóng cho nông nô Nga bởi lo ngại điều này có thể tạo nên những chống đối trong miền hậu phương của quân đội ông. Những nông nô này về sau đã đối xử khốc hại đối với lính Pháp khi họ rút chạy[110].
Người Nga từ chối mục tiêu của Napoléon về một trận giao chiến quyết định, thay vào đó thoái lui ngày càng sâu vào lãnh thổ Nga. Một nỗ lực kháng cự ngắn ngủi được thực hiện ở Smolensk vào tháng Tám; người Nga bị đánh bại trong một loạt trận, và Napoléon tiếp tục tiến công. Người Nga vẫn trì hoãn đánh nhau, mặc dù trong một vài trường hợp điều này chỉ đạt được do sự ngần ngừ ít thấy ở Napoléon khi cơ hội tới. Do chiến thuật tiêu thổ của quân Nga, người Pháp cảm thấy ngày càng khó để tìm kiếm thức ăn cho bản thân và cho ngựa[111].
Người Nga bấy giờ mới tung ra những trận đánh ở ngoại vi Moskva ngày 7 tháng Chín: trận Borodino khiến cho 44 000 quân Nga và 35 000 quân Pháp tử vong, bị thương hoặc bị bắt, và có lẽ là ngày chiến sự đẫm máu nhất trong lịch sử từ trước tới thời điểm đó[112]. Mặc dù quân Pháp thắng, quân đội Nga đã đương đầu, và đứng vững, trong trận chiến trực diện mà Napoléon đã hi vọng sẽ mang tính quyết định. Napoléon đã ghi chép lại: "Trận khủng khiếp nhất trong mọi trận đánh của tôi là trận trước Moskva. Người Pháp đã chứng tỏ họ xứng đáng với chiến thắng, nhưng người Nga đã chứng tỏ họ bất khả chiến bại"[113].
Quân đội Nga rút xa khỏi Moskva. Napoléon tiến vào thành phố, giả định rằng sự thất thủ của nó sẽ kết thúc chiến tranh và Aleksandr sẽ đàm phán hòa bình. Tuy nhiên, dưới lệnh của tổng đốc thành phố Feodor Rostopchin, thay vì một sự đầu hàng, Moskva bị đốt cháy. Sau một tháng, lo lắng mất quyền kiểm soát ở Pháp, Napoléon và quân đội rút lui[114].
Người Pháp chịu tổn thất to lớn trong quá trình rút quân tai hại, mà một phần là do Mùa Đông Nga [chú thích 8]. Quân đội Pháp bắt đầu với hơn 400 000 quân tiền phương, nhưng vào lúc kết thúc chỉ có ít hơn 40 000 người vượt sông Berezina tháng Mười một 1812[115]. Phía Nga mất 150 000 lính trong trận chiến và hàng trăm nghìn người dân khác thiệt mạng[116].
Chiến tranh Liên minh thứ sáu
Bất chấp những thắng lợi này, các con số tiếp tục ngày càng chống lại Napoleon, và quân Pháp bị khóa chặt bởi một lực lượng đông gấp đôi và do đó thua trong trận Leipzig. Đây có lẽ là trận chiến lớn nhất trong toàn bộ các cuộc chiến tranh của Napoléon và nó gây cho 90 000 người thương vong[119].
Napoleon rút về Pháp với đội quân giảm xuống còn 70 000 lính và 40 000 người tụt khỏi đội hình, chống lại đội quân Liên minh đông gấp hơn ba lần[120]. Nước Pháp bị bao vây: quân Anh dồn ép từ phía nam, các đạo quân Liên minh khác đang nhắm vào tấn công các bang chư hầu Đức. Napoléon thắng một loạt trận xuất sắc trong Chiến dịch Sáu ngày[chú thích 9], tuy nhiên chúng không đủ ý nghĩa để thay đổi cục diện. Quân Liên minh đã đánh bại Napoléon trong những trận đánh quan trọng tại Laon và Arcis-sur-Aube, và tiến chiếm Paris vào tháng Ba 1814[122].[123]
Khi Napoléon đề xuất hành quân tới thủ đô, các thống chế của ông quyết định gây binh biến[124]. Ngày 4 tháng Tư, đứng đầu bởi Thống chế Ney, họ phản kháng Napoleon. Napoléon khẳng định rằng quân đội sẽ theo ông, và Ney đáp lại rằng quân đội sẽ theo những vị tướng của nó. Napoléon không có lựa chọn nào ngoài thoái vị. Ông quyết định nhường ngôi cho con; tuy nhiên, Liên minh từ chối điều này, và Napoléon buộc phải thoái vị không điều kiện vào ngày 11 tháng Tư.
Lưu đày tới Elba
Các Lực lượng Liên minh đã tuyên bố rằng Hoàng đế Napoléon là trở ngại duy nhất cho sự khôi phục nền hòa bình ở châu Âu, Hoàng đế Napoleon, trung thành với lời thề của mình, nay tuyên bố rằng ông từ bỏ, về phần ông cũng như những người thừa kế của ông, ngai vàng của nước Pháp và Ý, và rằng không sự hy sinh nào, ngay cả mạng sống của mình, mà ông không sẵn lòng làm vì lợi ích của nước Pháp.Trong Hiệp ước Fontainebleau, những người chiến thắng đày ông tới Elba, một hòn đảo 12 000 dân ở Địa Trung Hải, cách bờ biển Toscana 20 km. Họ cho ông quyền cai trị hòn đảo và cho phép ông giữ lại danh hiệu hoàng đế. Napoléon đã định tự tử bằng viên thuốc mà ông mang theo mình kể từ một lần suýt bị người Nga bắt được trong đợt rút lui khỏi Moskva. Tuy nhiên độc tính của nó đã giảm sau vài năm, và Napoléon sống sót. Ông chấp nhận lưu đày, trong khi vợ và con trai tìm sự nương náu ở nước Áo[126]. Trong vài tháng đầu ở Elba ông đã tạo dựng một đội quân và cả một lực lượng hải quân nhỏ trên đảo, phát triển các mỏ sắt, và ra những sắc lệnh liên quan đến phương thức canh tác nông nghiệp hiện đại[127].
Thảo ở Cung điện Fontainebleau, 11 tháng Tư 1814.
—Tuyên ngôn thoái vị của Napoleon[125]
Triều đại Một trăm ngày
Trung đoàn số 5 được gửi tới để ngăn chặn ông và nối lại tuyến đường tới nam Grenoble vào mùng 7 tháng Ba 1815. Napoléon tiếp cận đội quân một mình, xuống ngựa và khi đứng trong tầm đạn, ông hét lên: "Ta ở đây. Giết Hoàng đế của các người đi, nếu các người muốn"[129].
Những người lính đáp lại bằng tiếng hô "Hoàng đế Vạn tuế!" ("Vive L'Empereur!") và hành quân cùng Napoléon tới Paris; Louis XVIII bỏ chạy. Ngày 13 tháng Ba, các cường quốc tại Hội nghị Viên đã tuyên bố Napoléon là kẻ ngoài vòng pháp luật, và bốn ngày sau Anh, Nga, Áo và Phổ kết hợp một lần nữa để gửi mỗi nước 15 vạn quân tới chiến trường để chấm dứt nền cai trị của ông[130].
Napoleon đến Paris ngày 20 tháng Ba và cầm quyền trong một thời kì mà ngày nay gọi là Triều đại Một trăm ngày. Đến đầu tháng Sáu lực lượng vũ trang mà ông tập hợp được đạt con số 200 000, và ông quyết định chọn tấn công để đánh bật gọng kìm của quân đội Anh và Phổ. Tập đoàn quân phía Bắc băng qua biên giới tới Vương quốc Liên hiệp Netherlands, nay là Bỉ[131].
Quân đội Napoléon chiến đấu với quân liên minh, chỉ huy bởi Wellington và Gebhard Leberecht von Blücher, trong trận Waterloo ngày 18 tháng Sáu 1815. Quân đội Wellington chịu đựng các đợt tấn công liên tiếp của người Pháp và đẩy lùi họ trên chiến trường trong khi quân Phổ tới tăng viện và phá vỡ sườn phải của đội hình quân Napoleon. Napoléon bị đánh bại bởi ông phải chiến đấu một chọi hai, tấn công một đội quân chiếm được vị trí phòng ngự tuyệt vời trên địa hình ẩm ướt lầy lội.
Sức khỏe của ông ngày hôm đó có thể đã ảnh hưởng tới sự hiện diện và sự hăng hái của ông trên chiến trường, thêm vào sự kiện là cấp dưới có thể đã khiến ông ngã. Một sự kiện khác có ảnh hưởng quan trọng tới kết cục là lực lượng kị binh do tướng Grouchy đã không tiếp ứng kịp thời. Dù vậy, Napoléon đã tiến rất gần tới một chiến thắng chớp nhoáng. Bị áp đảo về số lượng, quân đội Pháp rút khỏi chiến trường trong hỗn loạn, điều cho phép lực lượng Liên minh tiến vào nước Pháp và khôi phục ngai vàng nước Pháp cho Louis XVIII.
Ở ngoài cảng Rochefort, Charente-Maritime, sau khi cân nhắc một cuộc đào thoát sang Hợp chúng quốc, Napoléon chính thức yêu cầu tị nạn chính trị từ đại tá người Anh Frederick Lewis Maitland trên chiến hạm HMS Bellerophon ngày 15 tháng Bảy 1815[132].
Lưu đày ở Saint Helena
Napoleon bị tống giam và sau đó lưu đày tới đảo Saint Helena trên Đại Tây Dương, cách bờ biển Tây Phi 1 870 km. Trong hai tháng đầu tiên ở đây, ông sống trong một căn lều ở khu đất Briars thuộc về một người tên William Balcombe. Napoléon trở nên gần gũi với gia đình này, đặc biệt với cô con gái út tên Lucia Elizabeth người về sau viết cuốn Những hồi ức về Hoàng đế Napoleon[133]. Tình bạn này bị chia cắt vào năm 1818 khi chính quyền Anh bắt đầu nghi ngờ rằng Balcombe đóng vai một người trung gian giữa Napoléon và Paris và đuổi ông này khỏi đảo[134].Napoleon chuyển tới Longwood House vào tháng Mười hai 1815; nó đã rơi vào tình trạng hư nát, ẩm ướt và gió lùa, hại cho sức khỏe. Tờ The Times đã xuất bản những bài báo ám chỉ rằng chính phủ Anh đang cố gắng làm ông chết mau, và ông thường phàn nàn về điều kiện sống trong những bức thư gửi cho tổng đốc và là người canh giữ ông Hudson Lowe[135].
Với sự đỡ đần của một ít người đi theo, Napoléon viết hồi kí và lên án những người giam giữ ông - đặc biệt là Lowe. Sự đối xử của Lowe với Napoléon bị xem là tồi tệ bởi các học giả như Frank MacLynn[136]. Lowe đã gia tăng thêm tình trạng khổ cực của ông bằng những biện pháp bao gồm sự hạn chế việc đi lại của Napoleon, một quy định yêu cầu không món quà nào được gửi cho ông nếu nó đề cập đến danh hiệu hoàng đế của ông, và một văn bản mà những người ủng hộ phải kí đòi hỏi rằng họ sẽ phải ở lại với người tù thời gian không xác định[136]. Năm 1818, The Times tường thuật một tin đồn thất thiệt về sự đào thoát của Napoléon và nói rằng tin tức được chào đón bởi sự thắp nến đồng thời ở nhiều gia đình London[chú thích 10]. Có một sự thông cảm cho ông ở Nghị viện Anh:Nam tước Holland có một diễn văn trước Nghị viện yêu cầu tù nhân phải được đối xử mà không chịu sự tàn nhẫn không cần thiết nào[138]. Napoléon tiếp tục theo dõi thời sự qua tờ The Times và từng hi vọng được thả khi Holland trở thành Thủ tướng. Ông cũng nhận sự giúp đỡ của Nam tước Cochrane, người tham dự vào các cuộc đấu tranh của Chile và Brasil giành độc lập và muốn cứu Napoléon và giúp ông lập nên một đế chế mới ở Nam Mỹ, một viễn cảnh bị sụp đổ bởi cái chết của Napoléon vào năm 1821[139].
Có những âm mưu khác để cứu thoát Napoléon khỏi sự giam cầm bao gồm một âm mưu từ Texas, nơi những người lính lưu đày của Grand Armée muốn một sự phục hưng Đế quốc Napoléon ở Mỹ. Có cả một kế hoạch cứu ông bằng một tàu ngầm sơ khai[140]. Trong thời kì Napoléon bị giam cầm, Nam tước Byron đã viết những vần thơ xem Napoléon như hiện thân của anh hùng lãng mạn, thiên tài bất toàn, cô độc và bị ngược đãi. Tin tức rằng Napoléon khởi sự làm vườn ở Longwood cũng làm dậy lên sự đồng cảm với nhiều gia đình Anh[141].
Qua đời và an táng
Ngay từ cuối năm 1817, đã xuất hiện nhiều dấu hiệu bệnh tật nơi vị cựu Hoàng Đế, một phần cũng vì ông thiếu vận động. Napoléon có triệu chứng bị ung thư bao tử. Bác sĩ riêng của Napoleon, Barry O'Meara, cảnh báo chính quyền về tình trạng sức khỏe suy giảm của người tù mà nguyên nhân chính, theo ông, là sự đối xử khắc nghiệt của viên "cai ngục", Lowe, buộc Napoléon giam thân hàng tháng trời trong nơi cư trú hư nát và ẩm ướt Longwood. O'Meara có một liên lạc thư từ bí mật với một thư kí ở Bộ Hải quân Anh, được biết rằng những lá thư này được đọc bởi lãnh đạo cao cấp: ông hi vọng, bằng cách này, cảnh báo chính phủ, nhưng thực tế không đem lại điều gì.[142] Đã vậy, O' Meara còn bị thuyên chuyển đi nơi khác, thay thế bằng một bác sĩ gốc đảo Corse tên là Francesco Antommarchi.Tháng Hai 1821, sức khỏe Napoléon trở nên suy sụp nhanh chóng, ông phải nằm liệt trên giường. Tháng 4, Napoléon Bonaparte đã đọc lời di chúc cuối cùng, gồm có câu: "Tôi ước muốn nắm xương tàn của tôi nằm bên bờ sông Seine, ở giữa những người dân Pháp mà tôi rất yêu mến. Tôi chết trước thời hạn, bị giết bởi thể chế hoạt đầu Anh và do các kẻ sát nhân được thuê mướn". Ngày 2 tháng Năm hai bác sĩ Anh, những người vừa tới gần đó, chăm sóc cho ông nhưng chỉ có thể kê những liều giảm đau[143]. Ông mất hai ngày sau đó, sau khi trải qua lễ thú tội, xức dầu thánh và ban thánh thể với sự hiện diện của Giám mục Ange Vignali[143]. Những lời cuối cùng của ông là "France, armée, tête d'armée, Joséphine" (Nước Pháp, quân đội, chỉ huy quân đội, Joséphine)[143]. Napoléon đã qua đời lúc 5 giờ 49 phút giờ chiều ngày hôm đó, khi chưa tròn 52 tuổi. Thi thể của ông được mặc bộ quân phục mà ông ưa thích và được phủ lên bằng tấm áo choàng màu xám, tấm áo trận mà ông đã khoác trong trận Marengo.
Trái với di nguyện của ông, tổng đốc người Anh cho rằng ông nên được chôn ở St. Helena, trong Thung lũng Willows. Hudson Lowe khăng khăng đòi câu khắc trên bia mộ phải đề "Napoleon Bonaparte"; những thuộc hạ theo đi đày, Montholon và Bertrand muốn Đế hiệu "Napoleon" phải được viết chỉ bằng tên đầu. Kết quả là tấm bia mộ để trống tên[143].
Năm 1840, Louis Philippe I nhận được sự cho phép của Anh để đem di hài Napoléon về Pháp. Di hài được vận chuyển bằng chiến hạm Belle-Poule, được sơn đen trong dịp này, và ngày 29 tháng Mười một nó cập bến ở Chebourg. Di hài tiếp đó được mang bởi tàu hơi nước Normandie tới Le Havre., ngược sông Seine tới Rouen và dừng ở Paris[144].
Ngày 15 tháng Mười hai, tang lễ quốc gia được cử hành. Xe tang di chuyển từ Khải Hoàn Môn xuống đại lộ Champs-Élysées, băng qua Quảng trường Concorde tới Les Invalides (Điện Phế binh) và tới mái vòm ở nhà nguyện St Jérôme nơi nó nằm lại cho đến khi ngôi mộ thiết kế bởi Louis Visconti hoàn thành. Năm 1861, thi hài được táng trong một chiếc quách làm từ đá tràng thạch (porphyry) trong hầm mộ dưới mái vòm của Điện Invalides[144].
Nguyên nhân cái chết
Cuộc khám nghiệm tử thi chỉ ra rằng nguyên nhân cái chết là ung thư dạ dày. Tuy nhiên, François Carlo Antommarchi, bác sĩ riêng của Napoléon và là người chỉ đạo cuộc khám nghiệm, đã không kí vào báo cáo chính thức[145]. Cha của Napoléon cũng qua đời vì ung thư dạ dày nhưng điều này dường như không được biết vào thời điểm mổ tử thi[146]. Antommarchi tìm thấy bằng chứng về một vết loét dạ dày, và đây là cách giải thích tiện lợi nhất đối với chính phủ Anh, những người muốn tránh sự chỉ trích về việc chăm sóc vị hoàng đế Pháp[143].Năm 1955, nhật kí của người hầu phòng của Napoleon, Louis Marchand, xuất hiện trên báo chí. Bản mô tả về Napoléon những tháng trước khi mất khiến cho Sten Forshufvud đề xuất những nguyên nhân khác cho cái chết, bao gồm sự đầu độc arsen từ từ, trong một bài báo trên tờ Nature năm 1961[147]. Arsen được dùng làm thuốc độc vào thời kì đó bởi khi ấy nó không thể bị phát hiện khi áp dụng trong một thời gian dài. Forshufvud, trong một cuốn sách năm 1978 với Ben Weider, lưu ý rằng cơ thể vị hoàng đế được thấy là được bảo quản tốt một cách đáng ngạc nhiên khi di chuyển vào năm 1840. Arsen là một chất có tính bảo quản mạnh, và do đó điều này củng cố giả thuyết đầu độc. Forshufvud và Weider nhận xét rằng Napoléon từng cố hạ bớt cơn khát bất thường bằng uống nhiều si-rô nước mạch ướp hoa cam (orgeat syrup) chứa các hợp chất xianua trong quả hạnh dùng để tạo mùi[147].
Họ khẳng định rằng kali tactrat, được sử dụng để ngăn dạ dày đào thải các chất này và cơn khát là triệu chứng của đầu độc. Giả thuyết của họ là calomen (thủy nhân clorua HgCl2, xưa kia được dùng làm thuốc nhuận tràng) được áp dụng quá liều cho Napoleon, đã giết ông và để lại những tổn thương mô rộng khắp[147]. Một bài báo năm 2007 đã khẳng định loại arsen tìm thấy trên thân tóc Napoléon là loại vô cơ, độc tính cao nhất, và theo nhà độc dược học Patrick Kintz, điều này ủng hộ kết luật rằng cái chết của ông là một vụ ám sát[148].
Giấy dán tường được dùng ở Longwood chứa nồng độ cao hợp chất arsen được sử để nhuộm màu bởi những nhà sản xuất Anh. Chất kết dính, vốn vô hại ở điều kiện nước Anh, có lẽ đã bị mốc trong khí hậu ẩm hơn nhiều ở St. Helena và nhả ra khí arsin (arsen hidrua, AsH3) độc hại. Lý thuyết này đã được loại trừ do nó không giải thích được số liệu về nồng độ hấp thụ arsen tìm thấy trong các phân tích khác[147].
Dù sao, những nghiên cứu hiện đại tỏ ra nghiêng về chứng cớ giải phẫu ban đầu[148]. Các nhà nghiên cứu năm 2008 đã phân tích các mẫu tóc Napoléon khác nhau từ suốt cuộc đời ông, từ gia đình và những người đương thời. Tất cả các mẫu đều có nồng độ arsen rất cao, xấp xỉ gấp 100 lần con số trung bình. Theo các nhà nghiên cứu này, cơ thể Napoléon đã bị nhiễm độc arsen nặng khi còn là một cậu bé, và nồng độ arsen cao trong tóc không phải do sự đầu độc có chủ ý nào; người ta có thể phơi nhiễm liên tục với arsen từ các loại keo và chất nhuộm trong suốt cuộc đời họ[chú thích 11]
Những cải cách lớn
Napoleon đã tiến hành những cải cách lâu dài, liên quan đến giáo dục bậc cao, một đạo luật thuế, hệ thống đường sá và cống thoát nước, và thiết lập nên Ngân hàng Pháp (Banque de France - ngân hàng trung ương của Pháp). Ông thương lượng Giáo ước 1801 với Giáo hội Cơ đốc, tìm cách hòa giải với dân chúng hầu hết theo Thiên Chúa giáo với nền cai trị của ông. Nó được ban hành song song với Bộ Điều khoản Cơ bản (Les Articles Organiques), bộ luật chỉnh đốn tín ngưỡng dân chúng ở Pháp. Cùng năm đó, Bonaparte trở thành Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học Pháp và bổ nhiệm Jean Baptiste Joseph Delambre làm Thư kí Thường trực[53].Tháng Năm 1802, ông lập nên Bắc Đẩu Bội tinh (tiếng Pháp là Légion d'honneur, nghĩa là "Binh đoàn danh dự"), một sự thay thế cho các huân chương hoàng gia và tước hiệu hiệp sĩ cũ, để khuyến khích các thành tích quân sự lẫn dân sự; huân chương này hiện vẫn là phần thưởng danh dự cao nhất ở Pháp ngày nay[150]. Quyền lực ông được tăng cường nhờ Hiến pháp Năm X do ông chỉ đạo biên soạn: "Điều 1. Nhân dân Pháp chỉ đinh, và Thượng viện tấn phong Napoleon-Bonaparte là Tổng tài Thứ nhất suốt đời[151]. Chính sau văn bản này mà ông thường được gọi là Napoléon thay vì Bonaparte[19].
Bộ luật dân sự của Napoleon, Code Civil — nay thường được biết dưới tên Bộ luật Napoleon — được chuẩn bị bởi hai viện lập pháp dưới sự giám sát của Jean Jacques Régis de Cambacérès, vị Tổng tài thứ hai. Napoléon tham gia tích cực vào các phiên họp của Hội đồng Nhà nước để sửa chữa bản thảo. Sự phát triển bộ luật là một thay đổi căn bản về bản chất của hệ thống luật dân sự với sự nhấn mạnh rõ ràng lên các luật phải được viết rõ ràng và có thể tiếp cận được. Các bộ luật khác do Napoléon ấn định nhằm hệ thống hóa luật thương mại và luật hình sự; một Hướng dẫn Luật Hình sự thiết lập lần đầu tiên một cách quy củ các quy trình tố tụng[152].
Trong số các cải cách của Napoleon, đáng kể nhất là luật pháp và hệ thống đo lường. Về ý nghĩa các cải cách của Napoleon, xem phần Di sản.
Bộ luật Napoléon
Đánh giá tầm ảnh hưởng của nó tới Đức, Dieter Langewiesche mô tả bộ luật như một "dự án cách mạng" khuyến khích sự phát triển của một xã hội tư sản ở miền Đức bằng việc mở rộng quyền đối với tài sản tư hữu và một sự đẩy nhanh kết thúc của chế độ phong kiến. Napoléon đã tái cấu trúc thứ từng là Đế quốc La Mã Thần thánh, tạo nên từ hơn một nghìn lãnh địa lớn nhỏ, thành một Liên bang sông Rhine gồm bốn mươi bang; điều này cung cấp cơ sở cho Liên bang Đức và sự thống nhất nước Đức năm 1871[155].
Phong trào hướng tới thống nhất dân tộc ở Ý cũng được thúc đẩy một cách tương tự bởi sự cầm quyền của Napoleon[156]. Những sự thay đổi này góp phần vào sự phát triển nói chung của chủ nghĩa dân tộc và quốc gia dân tộc[157].
Hệ thống đo lường
Napoleon và tôn giáo
Lễ rửa tội của Napoléon diễn ra ở Ajaccio ngày 21 tháng Bảy 1771; ông được nuôi dưỡng trong một gia đình ngoan đạo và nhận một nền giáo dục Thiên Chúa giáo. Tuy nhiên, các thầy giáo của ông đã thất bại trong việc đem lại niềm tin tôn giáo cho ông khi còn nhỏ[162]. Khi trưởng thành, Napoléon được miêu tả như một người "hữu thần với niềm tin và sự tôn kính không tự nguyện với Thiên Chúa giáo"[163]. Ông chưa bao giờ tin vào một vị Chúa hiện hữu; thượng đế với ông là một vị Chúa vắng mặt và xa xôi[162] nhưng ông thừa nhận một cách thực dụng rằng những tôn giáo có tổ chức là yếu tố then chốt của trật tự xã hội[162] và đặc biệt là Thiên Chúa giáo La Mã, mà theo ông, có "những nghi lễ tráng lệ và luân lí cao cả hơn là các đạo luật có ảnh hưởng lên trí tưởng tượng của dân chúng tốt hơn những tôn giáo khác"[162].Napoleon có một hôn lễ dân sự với Joséphine de Beauharnais mà không cử hành nghi lễ tôn giáo nào, vào ngày 9 tháng Ba 1796. Trong chiến dịch Ai Cập, ông thể hiện nhiều sự khoan dung đối với tôn giáo hơn so với bất kì một vị tướng cách mạng nào khác, và thảo luận với các học giả Hồi giáo và cho phép các buổi lễ tôn giáo, nhưng tướng Dupuy, người tham gia chiến dịch cùng ông, về sau tiết lộ sau cái chết của Giáo hoàng Piô VI, về những lí do chính trị cho cách đối xử như vậy: "Chúng ta đang lừa gạt những người Ai Cập với mối quan tâm giả vờ của chúng ta đối với tôn giáo của họ; chẳng phải Bonaparte lẫn chúng ta tin vào tôn giáo này hơn chúng ta đã từng tin vào tôn giáo của ngài Piô quá cố"[chú thích 12]. Trong hồi kí của mình, thư kí của Bonaparte là Bourienne viết về mối quan tâm tôn giáo của Bonaparte theo những lời lẽ tương tự[165].
Chủ nghĩa cơ hội về tôn giáo của ông được tóm tắt trong câu nói nổi tiếng của chính ông: "Chính bằng việc làm cho mình thành người Cơ đốc giáo ta đã đem hòa bình cho Bretagne và Vendée. Chính bằng việc làm cho mình thành người Ý ta đã chinh phục tinh thần ở Ý. Chính bằng việc làm cho mình thành một người Hồi giáo ta đã thiết lập quyền lực ở Ai Cập. nếu ta cai trị một quốc gia Do Thái, ta hẳn nên cho xây lại Đền Solomon"[166].
Napoleon đã tự đội vương miện cho mình làm Hoàng đế Napoléon I vào này 2 tháng Mười hai 1804 ở Nhà thờ Đức Bà Paris với sự ban phúc của Giáo hoàng Piô VII. Ngày 1 tháng Tư 1810, Napoléon kết hôn theo giáo lễ với công chúa nước Áo Marie Louise. Trong một cuộc thảo luận riêng tư với tướng Gourgaud khi đang lưu đầy ở St. Helena, Napoléon bộc lộ các quan điểm duy vật về nguồn gốc con người[chú thích 13] và nghi ngờ tính thần thánh của Jesus, khẳng định rằng thật là ngu xuẩn để tin rằng Socrates, Plato, Muhammad và Anh giáo cần bị nguyền rủa vì không thuộc Thiên Chúa giáo La Mã[chú thích 14]. Tuy nhiên, Napoléon vẫn nhận xức dầu bởi một linh mục khi sắp từ trần[169].
Giáo ước
-
Xem thêm tại [[Giáo ước năm 1801]]
Trong Cách mạng Pháp, Quốc hội Pháp đã đoạt lấy các tài sản của Giáo hội và ban bố Luật Tổ chức dân sự của Tăng lữ, biến Giáo hội thành một bộ phận của Nhà nước, tách nó khỏi quyền lực của Giáo hoàng. Điều này gây nên sự thù địch của những người vùng Vendée đối với sự thay đổi trong mối quan hệ giữa Giáo hội Công giáo và chính phủ Pháp. Các đạo luật sau đó hủy bỏ lịch Gregory truyền thống và các ngày lễ Thiên Chúa giáo.
Trong khi Giáo ước phục hồi một số liên hệ với Giáo hoàng, nó chủ yếu có lợi cho chính quyền; cán cân mối quan hệ nhà nước-nhà thờ nghiêng hẳn theo hướng có lợi cho Napoleon. Giờ đây, Napoléon có thể thu được lợi ích của giới Công giáo trong nước Pháp đồng thời kiểm soát Rome về mặt chính trị. Napoléon từng nói với người em Lucien vào tháng Tư 1801, "Những nhà chinh phục khéo léo không bị vướng víu bởi những thầy tu. Họ có thể vừa kiềm chế chúng vừa sử dụng chúng[170]". Như một phần của Giáo ước, ông giới thiệu một bộ luật song song mang tên Những Điều khoản Cơ bản.
Giải phóng tôn giáo
-
Xem thêm tại [[Napoleon và người Do Thái]]
Ông từng tuyên bố: "Tôi sẽ không bao giờ chấp nhận một đề xuất nào bắt buộc dân tộc Do Thái phải rời Pháp, bởi đối với tôi người Do Thái giống như bất kì công dân nào khác trên đất nước chúng ta. Đẩy người Do Thái khỏi đất nước sẽ làm suy yếu, nhưng đồng hóa họ sẽ làm tăng thêm sức mạnh cho đất nước[172]”. Ông được người Do Thái mến mộ tới mức Giáo hội Chính thống Nga kết tội ông là "kẻ chống lại Jesus và kẻ thù của Chúa Trời"[173].
Hình ảnh trong văn hóa
Napoleon đã trở thành một biểu tượng văn hóa thế giới, hiện thân của thiên tài quân sự và quyền lực chính trị. Sử gia Martin van Creveld mô tả ông như "con người tài ba nhất từng sống"[174]. Kể từ khi ông qua đời, rất nhiều thành thị, con đường, tàu và cả các nhân vật hoạt hình được đặt theo tên ông. Ông được minh họa trong hàng trăm bộ phim và được thảo luận trong hàng nghìn cuốn sách và bài báo[175].Trong thời kì Chiến tranh Napoléon ông bị báo chí Anh quốc xem như một bạo chúa nguy hiểm, rình rập xâm lược. Một khúc hát cho trẻ em cảnh báo trẻ nhỏ rằng Bonaparte ăn ngấu nghiến những đứa trẻ hư; một "ông ba bị"[176]. Báo chí phái Bảo thủ Anh đôi khi mô tả Napoléon lùn hơn nhiều chiều cao trung bình của con người, và hình ảnh này kéo dài dai dẳng. Sự ngộ nhận về chiều cao của ông cũng là kết quả của sự khác biệt giữa các đơn vị đo là pouce của Pháp (2.71 cm) và inch của Anh (2.54 cm); ông cao khoảng 1.7 mét, chiều cao trung bình thời bấy giờ[chú thích 15]. Napoléon thường được bao quanh bởi các cận vệ cao lớn và biệt hiệu le petit caporal (hạ sĩ bé) là một tiếng thân mật thể hiện sự thân thiết được ghi nhận giữa ông với những người lính hơn là chiều cao của ông[178].
Năm 1908, nhà phân tâm học Alfred Adler lấy Napoléon để mô tả một phức cảm thấp kém (inferiority complex) trong đó những người lùn có cư xử hiếu chiến để bù đắp cho sự thiếu chiều cao; điều này gợi cảm hứng cho thuật ngữ Phức cảm Napoleon[179]. Nhân vật hình mẫu về Napoléon là một "bạo chúa bé nhỏ" lùn một cách tức cười và điều này đã trở thành một sáo ngữ (cliché) trong văn hóa đại chúng. Ông thường được minh họa mang một mũ nồi rộng với cử chỉ tay đưa lên áo gi-lê — liên hệ với bức tranh năm 1812 của Jacques-Louis David[180].
Di sản
Quân sự
Trong lĩnh vực tổ chức quân đội, Napoléon đã vay mượn nhiều từ các nhà lý thuyết trước đó như Jacques Hippolyte, và từ các cuộc cải cách của những chính phủ Pháp tiền nhiệm, đồng thời phát triển nhiều thứ đã có sẵn. Ông tiếp tục chính sách, ra đời từ thời Cách mạng, về thăng chức dựa trên công trạng[181].Quân đoàn thay thế sư đoàn làm đơn vị quân đội lớn nhất, và pháo tự hành được tích hợp vào các khẩu đội dự bị, hệ thống nhân sự trở nên linh hoạt hơn và kỵ binh trở lại làm một đội hình quan trọng trong lý thuyết quân sự Pháp. Các phương pháp này ngày nay được xem là các đặc điểm chủ yếu của học thuyết quân sự Napoleon[181]. Mặc dù ông đã củng cố việc thực hành chế độ tòng quân cưỡng bức hiện đại được đưa ra bởi Hội đồng Đốc chính, một trong các chiếu chỉ đầu tiên của nhà Bourbon phục hưng là chấm dứt nó[182].
Các đối thủ của Napoléon học tập từ các cách tân của ông. Tầm quan trọng được tăng cường của hỏa lực pháo sau 1807 bắt nguồn từ việc ông tạo lên một lực lượng pháo có tính cơ động cao, tăng cường số lượng pháo và thay đổi trong cách vận dụng chúng. Kết quả của những yếu tố này là Napoleon, thay vì dựa vào bộ binh làm xói mòn sức phòng thủ của kẻ địch, giờ có thể sử dụng hỏa lực tập trung như một mũi nhọn để khoét một lỗ thủng trong phòng tuyến của kẻ địch và sau đó khai thác lỗ thủng đó bằng bộ binh và kỵ binh hỗ trợ. McConachy bác bỏ lập luận cho rằng sự phụ thuộc tăng lên vào pháo binh bởi quân đội Pháp bắt đầu từ 1807 là một sản phẩm tự nhiên của chất lượng suy giảm của bộ binh Pháp và sau này là sự yếu thế của Pháp về số lượng kỵ binh[183]. Vũ khí và các loại kĩ thuật quân sự khác nhìn chung không đổi trong kỷ nguyên Cách mạng và thời Napoleon, nhưng sự vận động tác chiến của thế kỉ 18 đã chứng kiến những thay đổi đáng kể[184]. Ảnh hưởng lớn nhất của Napoléon là trong cách ông chỉ đạo chiến tranh. Antoine-Henri Jomini đã giải thích các phương pháp của Napoléon trong một cuốn sách giáo khoa được sử dụng rộng rãi đã ảnh hướng tới tất cả các quân đội châu Âu và Mỹ[185]. Napoléon được nhà lí thuyết quân sự đầy ảnh hưởng Carl von Clausewitz xem như một thiên tài trong nghệ thuật tiến hành chiến tranh, và các nhà sử học xếp ông vào một trong những chỉ huy quân sự vĩ đại nhất[186]. Wellington, khi được hỏi được hỏi ai là vị tướng vĩ đại nhất thời đó, đã trả lời: "Trong thời đại này, trong những thời đại đã qua, [cũng như] trong bất kỳ thời đại nào, [đó là] Napoleon"[187].
Dưới thời Napoleon, đã xuất hiện một sự nhấn mạnh mới vào sự hủy diệt, chứ không phải ưu thế chiến thuật, đối với kẻ thù. Các cuộc xâm lược và lãnh thổ địch xảy ra trên những mặt trận rộng lớn hơn, thứ làm cho các cuộc chiến tranh hao tiền tốn của hơn và có tính dứt điểm hơn. Hệ quả chính trị của chiến tranh tăng lên rõ rệt; sự thất trận đối với một cường quốc châu Âu đáng kể hơn nhiều việc mất các nước vùng đệm cô lập. Những nền hòa bình tựa Hòa bình Carthage (nền hòa bình khắc nghiệt với phe bại trận) bện chặt với toàn thể các nỗ lực dân tộc, làm khuếch trương hiện tượng Cách mạng của chiến tranh tổng lực[188].
Chủ nghĩa Bonaparte
Chỉ trích
Napoleon đã chấm dứt thời kì vô luật pháp và hỗn loạn hậu Cách mạng Pháp[190]. Tuy nhiên, ông bị các đối thủ xem là một tên bạo chúa, một kẻ cướp ngôi[191].Những người chỉ trích ông cáo buộc rằng ông không hề băn khoăn lắm khi đối mặt với viễn cảnh chiến tranh và cái chết của hàng ngàn người, biến việc tìm kiếm một nền thống trị đồng thuận sang một chuỗi những xung đột trên khắp châu Âu và phớt lờ các hòa ước và hiệp định. Vai trò của ông trong Cách mạng Haiti và quyết định phục hồi chế độ nô lệ ở các thuộc địa hải ngoại của Pháp gây nên tranh cãi và làm ảnh hưởng tới hình ảnh của ông[192].
Napoléon đã thể chế hóa sự cướp bóc ở các lãnh thổ chinh phục được: các bảo tàng Pháp chứa đựng những tác phẩm nghệ thuật vơ vét bởi quân đội của ông trên khắp châu Âu. Các vật tạo tác được đem tới Bảo tàng Louvre để tạo nên một bảo tàng trung ương vĩ đại; ví dụ của ông về sau thành nguồn cảm hứng cho những kẻ bắt chước khét tiếng hơn[193]. Ông bị đem so sánh với Adolf Hitler, nổi tiếng nhất bởi nhà sử học Pieter Grey năm 1947[194]. Tuy nhiên David G. Chandler, chuyên gia về lịch sử Napoléon chỉ trích so sánh trên: “Không gì có thể hạ cấp người trước [Napoléon] và làm tăng giá trị cho kẻ sau [Hitler] hơn” [195].
Những người chỉ trích cũng lập luận rằng di sản thực sự của Napoléon phải phản ánh sự mất mát vị thế của nước Pháp và những cái chết vô ích do nền cai trị của ông đem lại: sử gia Victor Davis Hanson viết, "Xét cho cùng, kỷ lục quân sự là không phải tranh cãi - 17 năm chiến tranh, chừng sáu triệu người chết, nước Pháp khánh kiệt, các thuộc địa hải ngoại bị mất"[196]. McLynn lưu ý với độc giả rằng, "Ông có thể xem như người đã kéo chậm đời sống kinh tế châu Âu cả một thế hệ bởi những biến động do những cuộc chiến tranh của ông[191]. Tuy nhiên, Vincent Cronin đáp lại rằng những chỉ trích như vậy dựa vào một tiền đề không đầy đủ rằng Napoléon chịu hoàn toàn trách nhiệm cho những cuộc chiến mang tên ông, trong khi thực tế nước Pháp là nạn nhân của một loạt những mối liên minh nhằm hủy diệt những lí tưởng của Đại Cách mạng Pháp[197]. Mặt khác, một cuộc thăm dò ý kiến xuất bản trên báo Le Figaro năm 2005 cho thấy gần 40% người Pháp coi ông là "một tay độc tài đã dùng mọi cách để thỏa mãn sự thèm khát quyền lực của mình".[198]
Tuyên truyền và tưởng niệm
Học giả Hazareesingh năm 2004 đã xem xét hình ảnh và sự tưởng niệm Napoléon trong ngữ cảnh chính trị-xã hội của nó. Theo đó, nó đóng một vai trò quan trọng trong những thách thức chính trị tập thể đối với nền quân chủ Bourbon những năm 1815-1830. Người dân ở mọi tầng lớp và mọi khu vực trên nước Pháp, đặc biệt là các cựu binh thời kì Napoleon, gợi đến di sản của Napoléon và những mối liên hệ của nó đối với những lý tưởng của cuộc cách mạng 1789[200]. Những tin đồn lan nhanh về sự quay về của Napoléon từ đảo St. Helena và Napoléon như một cảm hứng cho chủ nghĩa ái quốc, sự tự do tập thể lẫn cá nhân, cùng với sự vận động chính trị đã tự thể hiện trong những chất liệu có tính nổi loạn, đáng chú ý là sự thể hiện các họa tiết ba màu (cách mạng) và hoa hồng (nhà Bonaparte), và những hoạt động tổ chức những ngày kỷ niệm cuộc đời và triều đại Napoléon trong khi phá hoại những ngày lễ hoàng gia, và chứng tỏ mục tiêu thành công và thịnh hành của những người ủng hộ Napoléon các loại nhằm liên tục làm mất ổn định nền cai trị của nhà Bourbon[200].
Datta (2005) chỉ ra rằng sau sự sụp đổ của chủ nghĩa quân phiệt Boulanger vào cuối những năm 1880, huyền thoại Napoléon đã tách li khỏi chính trị đảng phái và hồi sinh trong văn hóa đại chúng. Tập trung phân tích một số tác phẩm văn học thời Belle Époque, Datta xem xét cách các tác giả và nhà phê bình thời kì này khai thác huyền thoại Napoléon cho những mục đích chính trị và văn hóa đa dạng[201]. Quy giảm về một nhân vật phụ, hình ảnh hư cấu mới về Napoléon không còn là một nhân vật lịch sử thế giới mà là một nhân vật gần gũi hơn, phỏng theo những nhu cầu của mỗi cá nhân và được tiếp nhận như sự giải trí đại chúng. Trong nỗ lực của các tác giả để thể hiện vị hoàng đế như một biểu tượng của sự thống nhất quốc gia, những người đề xướng lẫn đả kích Đệ tam Cộng hòa sử dụng huyền thoại này như một phương tiện để thăm dò những nỗi lo về giới và những nỗi sợ về quá trình dân chủ hóa đi kèm với kỉ nguyên của văn hóa và chính trị quần chúng[201].
Các Hội nghị Napoléon Quốc tế được tổ chức thường xuyên và có sự tham gia của các thành viên của giới quân sự Pháp và Mỹ, các chính trị gia Pháp và các học giả đến từ nhiều quốc gia khác nhau[202].
Được dự tính hoàn thành vào năm 2014, Công viên giải trí Napoleonland ở gần Montereau-Fault-Yonne trên vị trí diễn ra chiến thắng của Napoléon trong trận Montereau sẽ có nội dung hoạt động liên quan đến cuộc đời ông.
Di sản ngoài nước Pháp
Napoleon chịu trách nhiệm cho việc lật đổ nhiều Chế độ cũ (Ancien Régime) - những nền quân chủ điển hình ở châu Âu và lan truyền các giá trị chính thống của Cách mạng Pháp tới các quốc gia khác. Đặc biệt, chủ nghĩa dân tộc Pháp của Napoléon đã có ảnh hưởng lên sự phát triển của chủ nghĩa dân tộc ở những miền khác - thường là một cách không chủ ý. Một ví dụ là chủ nghĩa dân tộc Đức của Fichte đã thách thức sự chinh phục nước Đức của Napoleon. Napoléon cũng là tác giả tạo ra cơ sở cờ tam sắc xanh-trắng-đỏ của nước Ý trong thời kì ông cai trị đất nước này.Đạo luật Napoléon là sự hệ thống hóa luật pháp bao gồm luật dân sự, luật gia đình và luật hình sự mà ông áp đặt lên các lãnh thổ bị chinh phục. Sau sự sụp đổ của Napoleon, bộ luật này không những vẫn tồn tại ở nhiều quốc gia bao gồm Hà Lan, Bỉ, một phần của Ý và Đức, mà còn được dùng làm cơ sở cho nhiều phần của những bộ luật ngoài châu Âu bao gồm Cộng hòa Dominica, bang Lousiana của Hoa Kỳ và tỉnh Quebec của Canada[203].
Ở Ba Lan hồi ức về Napoléon rất mạnh mẽ, do sự ủng hộ của ông với nền tự chủ và đối lập lại Nga, đạo luật của ông, sự kết thúc chế độ nông nô, và việc hình thành bộ máy quan liêu trung lưu hiện đại[204].
Một số nhà lãnh đạo chịu ảnh hưởng bởi Napoleon. Muhammad Ali của Ai Cập tìm kiếm liên minh với nước Pháp của Napoléon và tìm cách hiện đại hóa Ai Cập theo các cách thức của chính quyền Pháp. Vào thế kỉ 20, Adolf Hitler từng bày tỏ sự tôn kính Napoléon bằng cách viếng mộ 3 ngày sau khi sau khi Đức chiếm được Pháp (1940) trong Thế chiến thứ hai. Hitler được cho là đã nói rằng đây là "một trong những khoảnh khắc lớn nhất trong đời tôi". Hôm sau, Hitler lại thăm mộ Napoléon trong chuyến tham quan Paris, và trong suốt chiến tranh, vị lãnh tụ Đức Quốc xã đã đặt các túi cát quanh mộ Napoléon để tránh sự hư hại do bom đạn gây ra[198].
Hôn nhân và con cái
Napoleon kết hôn với Joséphine de Beauharnais năm 1796, khi ông 26 tuổi; còn bà là một góa phụ 32 tuổi mà người chồng trước bị xử tử trong Cách mạng. Khi bà gặp Bonaparte, bà được biết đến với tên "Rose", một cái tên mà ông không ưa. Ông gọi bà là "Joséphine", và từ đó bà mang tên này. Bonaparte thường gửi các bức thư tình trong các chiến dịch của mình[205]. Ông chính thức thừa nhận con trai riêng của bà Eugène và em họ Stéphanie và sắp xếp các hôn lễ hoàng gia cho họ. Joséphine có một con gái riêng là Hortense, cưới em trai Bonaparte là Louis[206].Joséphine có nhiều nhân tình, bao gồm một trung úy người Hungary, Hippolyte Charles, trong chiến dịch Ý của Napoleon[207]. Napoléon biết được đầy đủ mức độ mối quan hệ của bà với Charles khi ở Ai Cập, và một bức thư ông viết cho anh trai nói về chủ đề này bị người Anh chặn được. Lá thư xuất hiện trên các báo chí ở London và Paris, gây cho Napoléon nỗi xấu hổ to lớn. Napoléon cũng có những mối quan hệ của riêng mình: trong chiến dịch Ai Cập ông đã chiếm Pauline Bellisle Foures, vợ của một sĩ quan cấp thấp, làm nhân tình của mình[208][chú thích 16].
Trong khi các nhân tình của ông có những đứa con bởi ông, Joséphine không sinh được một người thừa kế, có thể vì hoặc những ám ảnh về sự bắt giam trong Thời kỳ Khủng bố hoặc lần bà từng phá thai ở tuổi 20[210]. Napoléon sau cùng chọn lựa li dị để ông có thể tái hôn để tìm người thừa kế. Tháng Ba 1810, ông cưới Marie Louise, nữ Đại Công tước Áo, và cháu của Marie Antoinette thông qua một đám cưới vắng mặt; do đó ông đã kết hôn với một gia đình đế vương Đức[211].
Họ duy trì hôn nhân cho tới khi ông mất, mặc dù bà không đi đày cùng ông ở Elba và do đó không nhìn thấy chồng lần nữa. Họ có một đứa con, Napoleon Francis Joseph Charles (1811–1832), từ lúc sinh ra đã được phong Vua của người La Mã. Đứa trẻ về sau trở thành Napoléon II năm 1814 và tại vị chỉ hai tuần. Ông hoàng được ban danh hiệu Công tước Reichstadt năm 1818 và chết do bệnh lao ở tuổi 21, mà không có con cái[211].
Napoleon cũng công nhận hai đứa con ngoài giá thú khác: Charles Léon (1806–1881) sinh bởi Eléonore Denuelle de La Plaigne[212] và Bá tước Alexandre Joseph Colonna-Walewski (1810–1868) bởi Nữ bá tước Marie Walewska[212]. Ông có thể có bốn đứa trẻ ngoài giá thú không được thừa nhận nữa, như Karl Eugin von Mühlfeld bởi Victoria Kraus[213]; Hélène Napoleone Bonaparte (1816–1910) bởi Albine de Montholon; và Jules Barthélemy-Saint-Hilaire, người mà mẹ hiện còn chưa rõ[214].
Tước hiệu và huy hiệu
Hoàng đế Napoléon I của Pháp
|
||
Chức vụ | ||
---|---|---|
Tiền vị: Hội đồng Đốc chính Pháp |
Tổng tài Lâm thời của Pháp 11 tháng 11 – 12 tháng 12 năm 1799 Cùng với: Roger Ducos và Emmanuel Joseph Sieyès |
Trở thành Tổng tài |
Chức vụ mới
Chế độ Tổng tài thiết lập
|
Tổng tài thứ nhất của Pháp 12 tháng Mười hai 1799 – 18 tháng năm 1804 Cùng với: Jean Jacques Régis de Cambacérès (Tổng tài thứ hai) Charles-François Lebrun (Tổng tài thứ ba) |
Trở thành Hoàng đế |
Hiệu | ||
Trống ngôi
Cách mạng Pháp
Người cuối cùng giữ danh hiệu
Louis XVI của Phápnhư là Vua của người Pháp |
Hoàng đế của người Pháp
18 tháng Năm 1804 – 11 tháng Tư 1814 |
Kế vị Louis XVIII của Pháp như là Vua của Pháp và Navarre |
Trống ngôi
Người cuối cùng giữ danh hiệu
Karl V, Hoàng đế Thánh chế La Mãnhư là nhà quân chủ cuối cùng đăng quang ở cùng ngôi vị, 1530 |
Vua của Ý 17 tháng Ba 1805 – 11 tháng Tư 1814 |
Trống ngôi
Danh hiệu được kế thừa bởi
Vittorio Emanuele II của Savoy |
Tiền vị: Louis XVIII của Pháp như là Vua của Pháp và Navarre |
Hoàng đế của người Pháp
20 tháng Ba – 22 tháng Sáu 1815 |
Kế vị Louis XVIII của Pháp như là Vua của Pháp và Navarre (Napoleon II chỉ theo nguyện vọng của ông) |
Chức vụ mới
Nhà nước thành lập
|
Bảo hộ công của Liên bang sông Rhine 12 tháng Bảy 1806 – 19 tháng Mười 1813 |
Liên bang sông Rhine giải thể |
Tước hiệu thừa kế trên danh nghĩa | ||
Chức vụ mới | — DANH NGHĨA — Hoàng đế của người Pháp 11 tháng Tư 1814 – 20 tháng Ba 1815 |
Trống ngôi
Danh hiệu được kế thừa bởi
Napoleon II |
Phả hệ tổ tiên
[hiện]Tổ tiên của Napoléon Bonaparte |
---|
Chú thích
- ^ Trong một số sách ghi phiên âm Hán-Việt là Nã Phá Luân
- ^ Tên của ông cũng được đánh vần làNabulione, Nabulio, Napolionne, và Napulione.[3]
- ^ Tuy nhiên trừ tên gọi, dường như không có liên hệ nào giữa ông với Định lí Napoleon[15].
- ^ Các sách thường gọi ông là Bonaparte trong giai doạn trước khi ông nhậm chức Tổng tài thứ nhất suốt đời.[19]
- ^ Một số truyện sử khẳng định ông bị tống giam ở Pháo đài Carré ở Antibes nhưng không có bằng chứng rõ ràng nào cho điều này[29].
- ^ Claude Ribbe đưa ra cáo buộc rằng người Pháp đã sử dụng những phòng hơi ngạt trong cuộc chiến này[72].
- ^ Bản thân thuật ngữ du kích-guerrilla- sinh ra từ đây.
- ^ Một thuật ngữ, có khi còn mang tên Mùa Đông Xô Viết, Sương giá Nga, chỉ nhiệt độ cực thấp và thay đổi nhanh chóng ở phần Nga thuộc châu Âu, thường được dùng để giải thích các thất bại quân sự trên miền đất này
- ^ Với quân số 30 000 chống lại 120 000 quân Liên minh, Napoléon gây ra tổn thất gần 18 000 người cho đối phương, gấp hơn 5 lần người Pháp, khiến cho một số sử gia cho rằng đây là chiến dịch đánh đẹp nhất của Napoleon[121].
- ^ Một tục lệ trong đó các gia đình đặt nến ở cửa số hướng ra phố để báo trước một tin tốt lành[137].
- ^ Cơ thể có thể chịu đựng một liều lượng arsen lớn nếu nó xâm nhập thường xuyên và từ từ, và arsen có thời từng được rao truyền là thuốc trị bách bệnh[149].
- ^ “Nous trompons les Égyptiens par notre simili attachement à leur religion, à laquelle Bonaparte et nous ne croyons pas plus qu'à celle de Pie le défunt.”[164]
- ^ "Tôi nghĩ rằng vật chất làm nên con người là một chất nhớt, được hun nóng bởi mặt trời và và thổi hồn bởi các các dòng điện. Cái làm nên động vật —một con bò, chẳng hạn— mà không phải vật chất có tổ chức? Chao, khi chúng ta thấy rằng khuôn khổ thể chất của chúng ta tương tự chúng, có lẽ chúng ta không tin rằng chúng ta chỉ là những vật chất được tổ chức chất hơn... ý tưởng đơn giản nhất hàm chứa trong sự thờ cúng mặt trời, thứ đem lại sự sống cho vạn vật. Tôi nhắc lại, tôi nghĩ con người được tạo ra trong không khí được sưởi ấm bởi mặt trời, và sau một thời gian nào đó điều đó năng lực sinh sôi này chấm dứt"[167].
- ^ "Tôi không tin rằng Jesus Kitô từng tồn tại. Tôi sẽ tin vào tôn giáo Cơ đốc nếu nó bắt đầu từ khởi thủy thế giới. Cho rằng Socrates, Plato, người Hồi giáo, và tất cả người Anh cần bị nguyền rủa là quá ngu xuẩn. Jesus hẳn là đã chết, giống như nhiều kẻ cuồng tín tự tuyên bố họ là những nhà tiên tri hoặc đấng Cứu thế được mong chờ. Hàng năm có nhiều kẻ như vậy"[168].
- ^ Chiều cao của Napoleon là 5 ft 2 in Pháp theo bác sĩ Antommarchi khi giải phẫu thi thể ông[177].
- ^ Một đêm, trong lúc quan hệ bất chính với nữ diễn viên Marguerite George, Napoléon bị hôn mê nặng. Lần này cùng với những cơn đau nhỏ khác khiến cho các sử gia tranh cãi liệu ông có bị động kinh không và ở mức độ nào[209].
Trích dẫn
- ^ Schom, Alan (1998). Napoléon Bonaparte . New York: HarperPerennial. ISBN 0-06-092-958-8.
- ^ McLynn 1998, tr.6
- ^ a ă Dwyer 2008, tr.xv
- ^ The other conquest. Google Books. Truy cập ngày 3 tháng 8 năm 2011.
- ^ French Fortifications, 1715–1815. Google Books. 30 tháng 11 năm 2009. Truy cập ngày 3 tháng 8 năm 2011.
- ^ McLynn 1998, tr.2
- ^ Cronin 1994, tr.20–21
- ^ Harvey, R. The War of Wars, Robinson, 2006. tr. 58-61.
- ^ “Cathedral—Ajaccio”. La Fondation Napoléon. Truy cập ngày 31 tháng 5 năm 2008.
- ^ Cronin 1994, tr.27
- ^ a ă â Roberts 2001, tr.xvi
- ^ McLynn 1998, tr.18
- ^ Dwyer 2008, tr.29
- ^ McLynn 1998, tr.21
- ^ Wells 1992, tr.74
- ^ McLynn 1998, tr.23
- ^ a ă Dwyer 2008, tr.42
- ^ McLynn 1998, tr.26
- ^ a ă McLynn 1998, tr.290
- ^ McLynn 1998, tr.37
- ^ McLynn 1998, tr.55
- ^ McLynn 1998, tr.61
- ^ a ă â b c d Roberts 2001, tr.xviii
- ^ Dwyer 2008, tr.132
- ^ McLynn 1998, tr.76
- ^ a ă Dwyer 2008, tr.145-9
- ^ Chandler 1973, tr.30
- ^ Boycott-Brown 2001, tr.88-92
- ^ Dwyer 2008, tr.155
- ^ Bourrienne, Memoirs of Napoleon, tr. 39.
- ^ Bourrienne, Memoirs of Napoleon, tr. 38.
- ^ Dwyer 2008, tr.157
- ^ McLynn 1998, tr.76 và 84
- ^ McLynn 1998, tr.92
- ^ Dwyer 2008, tr.26
- ^ Dwyer 2008, tr.164
- ^ McLynn 1998, tr.93
- ^ a ă McLynn 1998, tr.96
- ^ McLynn 1998, tr.102
- ^ McLynn 1998, tr.129
- ^ Dwyer 2008, tr.284-5
- ^ McLynn 1998, tr.132
- ^ McLynn 1998, tr.145
- ^ McLynn 1998, tr.142
- ^ Harvey 2006, tr.179
- ^ McLynn 1998, tr.135
- ^ Dwyer 2008, tr.306
- ^ Dwyer 2008, tr.305
- ^ Dwyer 2008, tr.322
- ^ a ă â Watson 2003, tr.13-14
- ^ a ă Amini 2000, tr.12
- ^ Dwyer 2008, pp.342
- ^ a ă Alder 2002
- ^ McLynn 1998, tr.175
- ^ McLynn 1998, tr.179
- ^ Dwyer 2008, tr.372
- ^ a ă â b c d đ Roberts 2001, tr.xx
- ^ Dwyer 2008, pp.392
- ^ Dwyer 2008, tr.411-24
- ^ McLynn 1998, tr.189
- ^ McLynn 1998, tr.193
- ^ Dwyer 2008, tr.442
- ^ a ă â Connelly 2006, tr.57
- ^ Dwyer 2008, tr.444
- ^ Dwyer 2008, tr.455
- ^ McLynn 1998, tr.215
- ^ McLynn 1998, tr.224
- ^ a ă McLynn 1998, tr.235
- ^ a ă Schom 1997, tr.302
- ^ McLynn 1998, tr.265
- ^ Jackson 2004, tr.33
- ^ Ribbe 2007
- ^ Connelly 2006, tr.70
- ^ McLynn 1998, tr.243
- ^ McLynn 1998, tr.296
- ^ McLynn 1998, tr.297
- ^ Woolley, Reginald Maxwell (1915). Coronation Rites. Cambridge University Press. tr. 106–107.
- ^ a ă McLynn 1998, tr.321
- ^ McLynn 1998, tr.332
- ^ a ă Goetz 2005, tr.301
- ^ David G. Chandler, The Campaigns of Napoleon, trang 432
- ^ Todd Fisher & Gregory Fremont-Barnes, The Napoleonic Wars: The Rise and Fall of an Empire. trang 54
- ^ Schom 1997, tr.414
- ^ McLynn 1998, tr.350
- ^ Cronin 1994, tr.344
- ^ a ă Karsh 2001, tr.11
- ^ Karsh 2001, tr.12
- ^ McLynn 1998, tr.356
- ^ McLynn 1998, tr.370
- ^ McLynn 1998, tr.426
- ^ McLynn 1998, tr.497
- ^ Gates 2001, tr.20
- ^ Chandler 1995, tr.631
- ^ McLynn 1998, tr.408
- ^ Harvey 2006, tr.631
- ^ Gates 2001, tr.177
- ^ Gates 2001, tr.467
- ^ Napoleon Bonaparte, Memorial de Sainte-Helene, Vol 1 (Paris: Garnier fretes, 1961 (1823), các trang. 609–610
- ^ M. Surhone, Lambert (2010). War of the Fifth Coalition. VDM Publishing. tr. 29. ISBN 9786130908935.
- ^ Tucker, Spencer (2009). A Global Chronology of Conflict: From the Ancient World to the Modern Middle East: From the Ancient World to the Modern Middle East. ABC-CLIO. tr. 1067–1068. ISBN 1851096728.
- ^ Books Llc (2010). 1809 in the United Kingdom: War of the Fifth Coalition, Battle of the Basque Roads, Battle of Talavera, Battle of Les Sables-D'Olonne. General Books LLC. tr. 24. ISBN 9781155997926.
- ^ Books Llc (2010). 1809 in the United Kingdom: War of the Fifth Coalition, Battle of the Basque Roads, Battle of Talavera, Battle of Les Sables-D'Olonne. General Books LLC. tr. 50. ISBN 9781155997926.
- ^ McLynn 1998, tr.470
- ^ McLynn 1998, tr.433–5
- ^ McLynn 1998, tr.472.
- ^ McLynn 1998, tr.378
- ^ McLynn 1998, tr.495
- ^ McLynn 1998, tr.507
- ^ McLynn 1998, tr.506
- ^ McLynn 1998, tr.504—505
- ^ Harvey 2006, tr.773
- ^ McLynn 1998, tr.518
- ^ Markham 1988, tr.194
- ^ McLynn 1998, tr.522
- ^ Markham 1988, tr.190 và 199
- ^ McLynn 1998, tr.541
- ^ McLynn 1998, tr.549
- ^ McLynn 1998, tr.565
- ^ Chandler 1995, tr.1020
- ^ Fremont-Barnes 2004, tr.14
- ^ Chandler, David. Dictionary of the Napoleonic wars, Wordsworth editions, 1999.pgs.87, 90, 286-87, 459
- ^ McLynn 1998, tr.585
- ^ Alan Forrest, Napoleon, Quercus, 2011. ISBN 0857387596.
- ^ Gates 2003, tr.259
- ^ “Napoleon's act of abdication”. Bulletin des lois de la Republique Française. Truy cập ngày 28 tháng 8 năm 2009.
- ^ McLynn 1998, tr.593-4
- ^ McLynn 1998, tr.597
- ^ McLynn 1998, tr.604
- ^ McLynn 1998, tr.605
- ^ McLynn 1998, tr.607
- ^ Chesney 2006, tr.35
- ^ Cordingly 2004, tr.254
- ^ Balcombe 1845
- ^ Thomson 1969, tr.77–9
- ^ Schom 1997, tr.769–770
- ^ a ă McLynn 1998, tr.642
- ^ Woodward 2005, tr.51–9
- ^ McLynn 1998, tr.644
- ^ Macaulay 1986, tr.141
- ^ Wilkins 1972
- ^ McLynn 1998, tr.651
- ^ Albert Benhamou, Inside Longwood – Barry O'Meara's clandestine letters, 2012
- ^ a ă â b c McLynn 1998, tr.655
- ^ a ă Driskel 1993, tr.168
- ^ McLynn 1998, tr.656
- ^ Johnson 2002, tr.180–1
- ^ a ă â b Cullen 2008, tr.146–48
- ^ a ă Cullen 2008, tr.156
- ^ Cullen 2008, tr.50
- ^ Blaufarb 2007, tr.101–2
- ^ Edwards 1999, tr.55
- ^ McLynn 1998, 255
- ^ Wanniski 1998, tr.184
- ^ Wood 2007, tr.55
- ^ Scheck 2008, Chapter: The Road to National Unification
- ^ Astarita 2005, tr.264
- ^ Alter 2006, các trang.61–76
- ^ Hallock, William; Wade, Herbert T (1906). “Outlines of the evolution of weights and measures and the metric system”. London: The Macmillan Company. tr. 66–69.
- ^ Denis Février. “Un historique du mètre” (bằng tiếng Pháp). Ministère de l'Economie, des Finances et de l'Industrie. Truy cập ngày 10 tháng 3 năm 2011.
- ^ Thierry Sabot (1 tháng 10 năm 2000). “Les poids et mesures sous l’Ancien Régime” [The weights and measures of the Ancien Régime] (bằng tiếng Pháp). histoire-genealogie. Truy cập ngày 10 tháng 2 năm 2011.
- ^ O'Connor 2003
- ^ a ă â b “L'Empire et le Saint-Siège”. Napoleon.org. Truy cập ngày 15 tháng 6 năm 2011.
- ^ “Revue des Deux Mondes – 1867 – tome 71, tr.386” (bằng tiếng Pháp). Fr.wikisource.org. Truy cập ngày 15 tháng 6 năm 2011.
- ^ Jacques Bainville, Napoléon I, tr.94
- ^ “Bonaparte and Islam.”. Center for History and New Media at George Mason University. Truy cập ngày 12 tháng 7 năm 2012.
- ^ “Napoleon: Man of Peace”. Napoleon-series.org. 17 tháng 11 năm 1999. Truy cập ngày 4 tháng 11 năm 2011.
- ^ Talk Of Napoleon At St. Helena'' (1903), pp. 270–271
- ^ Talk Of Napoleon At St. Helena'' (1903), pp. 276–277
- ^ Louis Antoine Fauvelet de Bourrienne, Memoirs of Napoleon Bonaparte, tr. 586. Google. 1839. Truy cập ngày 5 tháng 2 năm 2011.
- ^ Aston, Nigel (2002). Christianity and Revolutionary Europe c. 1750–1830. Cambridge University Press. ISBN 0-521-46027-1.
- ^ McLynn 1998, tr.436
- ^ Schwarzfuchs 1979, tr.50
- ^ Cronin 1994, tr.315
- ^ van Crevald, Martin (1987). Command in War. Massachusetts: Harvard University Press. tr. 64. ISBN 0-674-14441-4.
- ^ “Napoleon Bonaparte (Character)”. IMDB. Truy cập ngày 12 tháng 10 năm 2008. and Bell 2007, tr.13
- ^ Roberts 2004, tr.93
- ^ Dunan 1963
- ^ “Sarkozy height row grips France”. BBC. 8 tháng 9 năm 2009. Truy cập ngày 13 tháng 9 năm 2009.
- ^ Hall 2006, tr.181
- ^ Bordes 2007, tr.118
- ^ a ă Archer et al 2002, tr.397
- ^ Flynn 2001, tr.16
- ^ Bruce McConachy, "The Roots of Artillery Doctrine: Napoleonic Artillery Tactics Reconsidered," Journal of Military History 2001 65(3): 617–640. in JSTOR; online
- ^ Archer et al 2002, tr.383
- ^ John Shy, "Jomini" in Peter Paret, ed. Makers of Modern Strategy: From Machiavelli to the Nuclear Age (1986).
- ^ Archer et al 2002, tr.380
- ^ Roberts 2001, tr.272
- ^ Archer et al 2002, tr.404
- ^ Outhwaite 2003 tr.50
- ^ Abbott 2005,p.3
- ^ a ă McLynn 1998, tr.666
- ^ Repa, Jan (2 tháng 12 năm 2005). “Furore over Austerlitz ceremony”. BBC. Truy cập ngày 5 tháng 4 năm 2010.
- ^ Poulos 2000
- ^ Geyl 1947
- ^ Chandler 1973, tr. xliii
- ^ Hanson 2003
- ^ Cronin 1994, pp.342–3
- ^ a ă French Fuhrer: Genocidal Napoleon was as barbaric as Hitler, historian claims
- ^ Alan Forrest, "Propaganda and the Legitimation of Power in Napoleonic France." French History, 2004 18(4): tr. 426–445
- ^ a ă Sudhir Hazareesingh, "Memory and Political Imagination: the Legend of Napoleon Revisited." French History, 2004 18(4): tr463–483
- ^ a ă Venita Datta, "'L'appel Au Soldat': Visions of the Napoleonic Legend in Popular Culture of the Belle Epoque." French Historical Studies 2005 28(1): tr.1–30
- ^ “Call for Papers: International Napoleonic Society, Fourth International Napoleonic Congress”. La Fondation Napoléon. Truy cập ngày 27 tháng 6 năm 2008.
- ^ “Napoleonic Code”. Encyclopeadia Britannica. Truy cập ngày 13 tháng 4 năm 2012.
- ^ Andrzej Nieuwazny, "Napoleon and Polish identity." History Today, May 1998 v48 n5 pp. 50–55
- ^ McLynn 1998, tr.117
- ^ McLynn 1998, tr.271
- ^ McLynn 1998, tr.118
- ^ McLynn 1998, tr.188
- ^ McLynn 1998, tr.284
- ^ McLynn 1998, tr.100
- ^ a ă McLynn 1998, tr.663
- ^ a ă McLynn 1998, tr.630
- ^ McLynn 1998, tr.423
- ^ Lowndes 1943
Tham khảo
- Abbott, John (2005). Life of Napoleon Bonaparte. Kessinger Publishing. ISBN 1417970634.
- Alder, Ken (2002). The Measure of All Things—The Seven-Year Odyssey and Hidden Error That Transformed the World. Free Press. ISBN 074321675X.
- Alter, Peter (2006). Trong T. C. W. Blanning and Hagen Schulze. Unity and Diversity in European Culture c. 1800. Oxford University Press. ISBN 0197263828.
- Amini, Iradj (2000). Napoleon and Persia. Taylor & Francis. ISBN 0934211582.
- Archer, Christon I.; John R. Ferris, Holger H. Herwig (2002). World History of Warfare. University of Nebraska Press. ISBN 0803244231.
- Astarita, Tommaso (2005). Between Salt Water And Holy Water: A History Of Southern Italy. W. W. Norton & Company. ISBN 0393058646.
- Balcombe Abell, Lucia Elizabeth (1845). Recollections of the Emperor Napoleon. J. Murray. OCLC 9123757.
- Bell, David (2007). The First Total War. Houghton Mifflin Harcourt. ISBN 0618349650.
- Bertman, Sandra (2002). “Execution of the Defenders of Madrid, 3 May 1808”. New York University. Truy cập ngày 18 tháng 11 năm 2008.
- Blaufarb, Rafe (2007). Napoleon: Symbol for an Age, A Brief History with Documents. Bedford. ISBN 0312431104.
- Bordes, Philippe (2007). Jacques-Louis David. Yale University Press. ISBN 0300123469.
- Chandler, David (1973). The Campaigns of Napoleon, Volume 1. 9780025236608. ISBN 0025236601.
- Chandler, David (1995). The Campaigns of Napoleon. Simon & Schuster. ISBN 0025236601.
- Chandler, David (2002). Napoleon. Leo Cooper. ISBN 0850527503.
- Chesney, Charles (2006). Waterloo Lectures:A Study Of The Campaign Of 1815. Kessinger Publishing. ISBN 1428649883.
- Connelly, Owen (2006). Blundering to Glory: Napoleon's Military Campaigns. Rowman & Littlefield. ISBN 0742553183.
- Cordingly, David (2004). The Billy Ruffian: The Bellerophon and the Downfall of Napoleon. Bloomsbury. ISBN 158234468X.
- Cronin, Vincent (1994). Napoleon. HarperCollins. ISBN 0006375219.
- Cullen, William (2008). Is Arsenic an Aphrodisiac?. Royal Society of Chemistry. ISBN 0854043632.
- Driskel, Paul (1993). As Befits a Legend. Kent State University Press. ISBN 0873384849.
- Dunan, Marcel (1963). “Napoleon's height” (bằng tiếng Pháp). La Fondation Napoléon. Truy cập ngày 11 tháng 1 năm 2009.
- Dwyer, Philip (2008). Napoleon:The Path to Power 1769–1799. Bloomsbury. ISBN 9780747566779.
- Edwards, Catharine (1999). Roman Presences. Cambridge University Press. ISBN 052159197X.
- Flynn, George Q. (2001). Conscription and democracy: The Draft in France, Great Britain, and the United States. Greenwood Publishing Group. ISBN 031331912X.
- Fremont-Barnes, Gregory; Todd Fisher (2004). The Napoleonic Wars: The Rise and Fall of an Empire. Osprey. ISBN 1841768316.
- Fulghum, Neil (2007). “Death Mask of Napoleon”. University of North Carolina. Truy cập ngày 4 tháng 8 năm 2008.
- Gates, David (2001). The Spanish Ulcer: A History of the Peninsular War. Da Capo Press. ISBN 0306810832.
- Gates, David (2003). The Napoleonic Wars, 1803–1815. Pimlico. ISBN 0712607196.
- Geyl, Pieter (1982) [1947]. Napoleon For and Against. Penguin Books. ISBN 0452000572.
- Goetz, Robert (2005). 1805: Austerlitz: Napoleon and the Destruction of the Third Coalition. Greenhill Books. ISBN 1853676446.
- Hall, Stephen (2006). Size Matters. Houghton Mifflin Harcourt. ISBN 0618470409.
- Hanson, Victor Davis (2003). “The Claremont Institute: The Little Tyrant, A review of Napoleon: A Penguin Life”. The Claremont Institute. Truy cập ngày 30 tháng 5 năm 2008.
- Harvey, Robert (2006). The War of Wars. Robinson. ISBN 9781845296353.
- Hindmarsh, J. Thomas; John Savory (2008). “The Death of Napoleon, Cancer or Arsenic?”. Clinical Chemistry (American Association for Clinical Chemistry) 54: 2092. doi:10.1373/clinchem.2008.117358. Truy cập ngày 10 tháng 10 năm 2010.
- Jackson, John (2004). Race, Racism, and Science. ABC-CLIO. ISBN 1851094482.
- Johnson, P. (2002). Napoleon: A life. Penguin Books. ISBN 0670030783.
- Karsh, Inari (2001). Empires of the Sand: The Struggle for Mastery in the Middle East, 1789–1923. Harvard University Press. ISBN 0674005414.
- Kladstrup, Don; Petie Kladstrup (2005). Champagne: How the World's Most Glamorous Wine Triumphed Over War and Hard Times. William Morrow. ISBN 0060737921.
- Lowndes, Marie Adelaide Belloc (1943). Where Love And Friendship Dwelt. Macmillan. OCLC 67554055.
- Macaulay, Neill (1986). Dom Pedro: The Struggle for Liberty in Brazil and Portugal, 1798–1834. Duke University Press. ISBN 0822306816.
- Markham, Felix (1988). Napoleon. Mass Market Paperback. ISBN 0451627989.
- McLynn, Frank (1998). Napoleon. Pimlico. ISBN 0712662472.
- O'Connor, J; E F Robertson (2003). “The history of measurement”. St Andrew's University. Truy cập ngày 18 tháng 7 năm 2008.
- Outhwaite, William (2003). The Blackwell Dictionary of Modern Social Thought. Blackwell. ISBN 0631221646.
- Poulos, Anthi (2000). “1954 Hague Convention for the Protection of Cultural Property in the Event of Armed Conflict”. International Journal of Legal Information (HeinOnline).
- Ribbe, Claude (2007). Napoleon's Crimes: A Blueprint for Hitler. Oneworld Publications. ISBN 1851685332.
- Roberts, Andrew (2001). Napoleon and Wellington. Weidenfeld and Nicholson. ISBN 0297646079.
- Roberts, Chris (2004). Heavy Words Lightly Thrown. Granta. ISBN 1862077657.
- Scheck, Raffael (2008). Germany, 1871–1945: A Concise History. Berg. ISBN 184520817X.
- Schom, Alan (1997). Napoleon Bonaparte. HarperCollins. ISBN 9780060172145.
- Schwarzfuchs, Simon (1979). Napoleon, the Jews and the Sanhedrin. Routledge. ISBN 0197100236.
- Thomson, Kathleen (1969). “Balcombe, Alexander Beatson (1811–77)”. Australian Dictionary of Biography Online. Truy cập ngày 27 tháng 5 năm 2008.
- Wanniski, Jude (1998). The Way the World Works. Regnery Gateway. ISBN 0895263440.
- Watson, William (2003). Tricolor and crescent. Greenwood Publishing Group. ISBN 0275974707. Truy cập ngày 12 tháng 6 năm 2009.
- Wells, David (1992). The Penguin Dictionary of Curious and Interesting Geometry. Penguin Books. ISBN 0140118136.
- Wilkins, William (1972) [1944]. Napoleon's Submarine. New English Library. ISBN 0450010287.
- Wilson, J (2 tháng 8 năm 1975). “Dr. Archibald Arnott: Surgeon to the 20th Foot and Physician to Napoleon”. British Medical Journal (vol.3). PMC 1674241. PMID 1097047. Truy cập ngày 7 tháng 6 năm 2008.
- Wood, Philip (2007). The Law and Practice of International Finance Series. Sweet & Maxwell. ISBN 1847032109.
- Woodward, Chris (July năm 2005). “Napoleon's Last Journey” (7). History Today. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 4 năm 2008. Truy cập ngày 12 tháng 7 năm 2008.
Liên kết ngoài
Tìm hiểu thêm về Napoleon Bonaparte ở các dự án khác của Wikipedia: | |
Định nghĩa ở Wiktionary | |
Nội dung đa phương tiện ở Commons | |
Tư liệu học tập ở Wikiversity | |
Tin tức ở Wikinews | |
Câu nói nổi tiếng ở Wikiquote | |
Văn bản ở Wikisource | |
Sách ở Wikibooks |
- The Napoleonic Guide
- Napoleon Series
- International Napoleonic Society
- Memoirs of Napoleon, tiếng Anh, miễn phí tại Dự án Gutenberg
- John Holland RoseThe Life of Napoleon I, tiếng Anh, miễn phí tại Dự án Gutenberg
- John Gibson LockhartThe History of Napoleon Buonaparte, tiếng Anh, miễn phí tại Dự án Gutenberg
- William Milligan SloaneThe Life of Napoleon I., tiếng Anh, miễn phí tại Dự án Gutenberg Vol. 1/4
- William Milligan SloaneThe Life of Napoleon I., tiếng Anh, miễn phí tại Dự án Gutenberg Vol. 3/4
Cảnh báo: Từ khóa xếp mặc định “Napoléon I của Pháp” ghi đè từ khóa trước, “Napoléon I”.
Thể loại:
Nikolai II, cũng viết là Nicolas II (tiếng Nga: Николай II, Николай Александрович Романов, chuyển tự. Nikolay II, Nikolay Alexandrovich Romanov [nʲɪkɐˈlaj ftɐˈroj, nʲɪkɐˈlaj əlʲɪkˈsandrəvʲɪʨ rɐˈmanəf], phiên âm tiếng Việt là Nicôlai II Rômanốp[1] hay Ni-cô-la II) (19 tháng 5 năm 1868 – 17 tháng 7 năm 1918) là vị Hoàng đế, hay Sa hoàng cuối cùng trong lịch sử Nga, cũng là Đại Công tước Phần Lan và Vua Ba Lan trên danh nghĩa.[2] Tên đầy đủ của Nikolai II là Nikolai Aleksandrovich Romanov (tiếng Nga: Николай Александрович Романов). Tước hiệu chính thức của ông là Nikolai Đệ nhị, Hoàng đế và Đấng cai trị chuyên chính của toàn nước Nga[3]. Hiện nay, do sự phong thánh ông được Giáo hội Chính Thống giáo Nga xem là Thánh Nikolai Người chịu nổi thống khổ.
Hoàng đế Nikolai II trị quốc từ năm 1894 đến khi thoái vị vào ngày 15 tháng 3 năm 1917. Dưới triều ông, Nga - một trong những đế quốc hùng mạnh nhất thế giới thòi đó - đã lâm vào khủng hoảng kinh tế và quân sự. Những phê phán ông đã gọi ông là Nikolai Kẻ khát máu, vì vụ thảm kịch Khodynka, Ngày chủ nhật đẫm máu, và những vụ trấn áp người Xê-mít xảy ra dưới triều ông. Ông đã đẩy nước Nga vào cuộc chiến tranh với đế quốc Nhật Bản, mà Nga là đế quốc bại trận. Cũng chính ông là người đã ra lệnh tổng động viên quân đội Nga vào tháng 8 năm 1914, đưa Nga vào cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất. Trong cuộc đại chiến, quân Nga tham chiến phe Đồng Minh, cùng quân Anh, Pháp chống lại quân Đức, Áo-Hung.
Năm 1917, phong trào Cách mạng Tháng Hai thắng lợi, Nikolai II phải thoái vị. Đầu tiên, ông và gia đình bị giam lỏng tại Cung điện Aleksandr ở Hoàng Thôn, rồi được chuyển tới Dinh Tổng đốc tại Tobolsk, sau đó lại chuyển tới ngôi nhà Ipatiev tại Yekaterinburg. Đêm ngày 16 rạng sáng ngày 17 tháng 7 năm 1918, Nikolai II, Hoàng hậu, các công chúa và hoàng tử, quan Thái y, đầy tớ của Nga hoàng, nữ tỳ của Hoàng hậu cùng với đầu bếp của Hoàng gia cùng bị những người Bolshevik xử bắn trong một căn phòng. Năm 2000, Nikolai II cùng toàn bộ gia quyến được Giáo hội Chính Thống giáo Nga phong thánh.[4] Năm 2008, theo tuyên bố của Tòa án Tối cao Nga, Nga hoàng Nikolai II và gia đình là những "nạn nhân của các cuộc đàn áp chính trị và đã bị giết một cách bất hợp pháp".[5]
Những bức thư của Nikolai II sau khi vua Aleksandr III mất năm 1894 cho thấy ông vẫn lưu luyến vua cha. Thưở bé, ông thường ghen tỵ với sức khỏe của Aleksandr III, chẳng hạn như khi vua cha nâng được một tảng đá nặng 60 pao bằng một tay. Ông và người mẹ Maria Feodorovna rất yêu thương nhau, thường viết thư gửi cho nhau.[6] Nikolai II có ba người em trai (Alexander [1869-1870], Georgi [1871-1899], và Mikhail [1878-1918]) hai người em gái.
Do người em con chú của Aleksandr III, Đại Công tước Nikolai Nikolayevich, cũng có tên là Nikolai, vị Đại Công tước này được Hoàng gia gọi là "Nicholasha" để tránh nhầm lẫn với Nga hoàng tương lai. Thông qua mẹ ông, Nikolai II là cháu của một số vua chúa, trong số đó có George I của Hy Lạp, Frederick VIII của Đan Mạch, Hoàng hậu Alexandra của Anh và Vương phi Thyra xứ Hanover.
Nga hoàng Nikolai II, cùng với Hoàng đế Đức Wilhelm II, vua Anh George V đều là cháu của nữ hoàng Anh Victoria.[7] Nikolai II, Hoàng hậu Nga Alexandra, và Hoàng đế Đức Wilhelm II đều là anh em họ của vua Anh George V. Mẹ của Nikolai, Hoàng hậu Marie (Công chúa Dagmar của Đan Mạch), là chị của vợ vua Edward VII là Hoàng hậu Alexandra - mẹ của George V. Vợ Nikolai II là con gái của Công chúa Alice - con gái của nữ hoàng Anh Nữ hoàng Victoria, vì vậy bà cháu gọi vua Edward VII bằng bác (bên họ mẹ) và là em họ của Hoàng đế Wilhelm II; và cùng là hậu duệ trực tiếp của Nữ hoàng Victoria. Wilhelm II là con của Hoàng đế Đức Friedrich III và công chúa Vicky - con gái cả của nữ hoàng Victoria. Wilhelm II - anh họ của Hoàng hậu Nga Alexandra - và Nikolai II đều là con cháu của vua nước Phổ Friedrich Wilhelm III.
Một cuộc hành trình với những mục đích mang tính giáo dục là một phần quan trọng của việc dạy cho các hoàng thân Nga làm quen với hoạt động nhà nước. Năm 1890, Nga hoàng Aleksandr III tuyên bố thiết lập tuyến đường sắt xuyên Xibia. Thái tử Nikolai đã tham gia lễ khai mạc tuyến đường sắt trên Xibia, và từ nơi này, nhà vua hạ lệnh cho ông thực hiện chuyến hành trình khắp thế giới - mà người ta gọi là "Cuộc hành trình về phía Đông của Nikolai II". Năm đó ông đã 22 tuổi, mới hoàn thành khóa học tại Học viện sĩ quan cận vệ đã, và cũng đã hoàn tất chương trình đào tạo nhân văn của Đại học tổng hợp quốc gia. Bấy giờ, nước Nga đã làm chủ của một đội Hải quân hùng hậu. Vì thế, với chuyến du hành này Nikolai học được về công việc ngoại giao cũng như với sóng nước trên biển. Ông cùng đoàn tàu đã hành trình dọc bờ Đại Tây Dương qua Địa Trung Hải và Ấn Độ, tới nhiều hải cảng có tên tuổi ở Hy Lạp, Ấn Độ, Xiêm La,… Công tước Esper Ukhtomsky - người được Thái tử rất tin cậy - là người tư vấn cho Thái tử thực hiện chuyến Đông du trong những năm 1890 - 1891.[9] Đến ngày 28 tháng 3 năm 1891 Thái tử nước Nga đến cửa sông Đồng Nai, sau đó cập bến cảng Sài Gòn. Ngay trên bến cảng, Toàn quyền Đông Dương khi đó là Jules Georges Piquet cùng quan quân triều Nguyễn và Pháp đã tổ chức đón tiếp. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử một chính khách người Nga đến thăm Việt Nam - bấy giờ còn nằm dưới ách đô hộ của đế quốc Pháp.[10] Đến Nhật Bản, ông bị một người Nhật mưu sát hụt tại Otsu.
Thời bấy giờ có nhà văn nổi tiếng Lev Nikolayevich Tolstoy (1828 - 1910) là người đã truyền bá tư tưởng cách mạng cho nhân dân Nga, đặc biệt là tầng lớp học sinh, thông qua thơ văn. Nhờ có nhà văn này mà trong đầu người Nga đã có tư tưởng cách mạng. Thấy vậy, Giáo hội Nga tố cáo Lev Nikolayevich Tolstoy tội tuyên truyền sai lệch và khai trừ nhà văn. Vài ba vạn học sinh thành phố Sankt-Peterburg tỏ ra bất bình, gây náo loạn vào năm 1901. Họ kiện lên Nga hoàng Nikolai II, cho rằng nhà văn L. N. Tolstoy bị oan. Nikolai II không đồng ý với họ, và truyền lệnh bắt họ phải im lặng. Ngày 17 tháng 3 năm 1901, học sinh Sankt-Peterburg bèn nổi dậy, cờ xí của họ toàn mang màu đỏ, ám chỉ rằng cách mạng không thể không đổ máu. Họ còn công bố một bản Tuyên ngôn rất dài, tố cáo Nikolai II và quyết định phải vùng dậy, lật đổ Hoàng gia và giành lấy quyền tự do. Cùng ngày, xảy ra xô xát giữa quân triều đình và các học sinh. Quân triều đình áp đảo các học sinh về trang bị và quan số. Vì vậy, quân triều đình đã dập tắt được cuộc loạn của học sinh. Hai bên đều thiệt hại nặng nề, tổ chức "Chữ thập đỏ" phái người đến giúp binh lính triều đình, chẳng khác nào kết quả của một cuộc chiến giữa hai đại đế quốc.[12]
Tuy thất bại, các lực lượng học sinh đã tập hợp lại, toan đấu tranh với triều đình thêm một lần nữa. Học sinh trú ẩn ở nhiều nơi, việc bắt và hành hình tất cả các học sinh là điều khó đối với triều đình Nikolai II, vì vậy Nga hoàng khó có thể mà dùng vũ lực để ổn định tình hình. Sau đó, học sinh còn gửi thư đe dọa đến các Bộ trưởng của vua Nikolai II. Nga hoàng đành phải chủ trì một cuộc họp trong cung, cho phép Tolstoy được phục hồi vai vế trong Giáo hội, và cũng hạ lệnh cho học sinh được miễn làm lính đồng thời thực hiện cải cách về chế độ trường đại học. Sự kiện này đã khiến cho lực lượng học sinh chấm dứt hoạt động. Thủ đô Sankt-Peterburg kết thúc cuộc náo loạn sau một tuần lễ.[12]
Triều đại ông chứng kiến một thời kì sóng gió trong lịch sử Nga.[11] Trong cuộc Chiến tranh Nga-Nhật (1904 - 1905), đế quốc Nga bại trận và mất nhiều đất. Ông còn tuyên chiến với Đức năm 1914, đẩy nhân dân Nga vào cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất và khiến cho nước Nga rơi vào tình trạng bi thảm. Triều đình Nga tỏ ra bất lực, không có có khả năng trị vì như trước nữa. Các phong trào Cách mạng liên tiếp nổ ra, tiêu biểu là Cách mạng Nga 1905.
Ngày 6 tháng 8 năm 1905, Nikolai II “Tuyên ngôn và đạo luật về việc thành lập Đuma Quốc gia”. Tầng lớp quý tộc, tư sản, trí thức và một số người đại diện nông dân giàu có chiếm đa số trong Đuma Quốc gia. Sau 12 năm hoạt động, Đuma Quốc gia Nga giải thể khi Cách mạng Tháng Hai 1917 bùng nổ.[13]
Năm 1917, ông bị hạ bệ trong cuộc Cách mạng Tháng Hai. Cuộc cách mạng tư sản này đã đánh đổ chế độ phong kiến lâu đời của nước Nga.[14] Theo quyết định của Xô Viết Ural,[15] ông bị xử bắn tại Yekaterinburg. Nikolai cùng vợ, con trai, bốn con gái, ngự y của Hoàng gia, đầy tớ của Nga hoàng, nữ tỳ của hoàng hậu và đầu bếp của Hoàng gia bị những người Bolshevik hành quyết trong một căn phòng vào đêm ngày 16 rạng sáng ngày 17 tháng 7 năm 1918.
Là một Nga hoàng cầm quyền chuyên chính của đế quốc Nga, ông kế thừa quan điểm về một nước Nga có lãnh thổ ở cả châu Á lẫn châu Âu, một đất nước đa sắc tộc, đa tôn giáo. Với quan điểm này, dĩ nhiên là ông tôn trọng đạo Phật - được xem là “tôn giáo tượng trưng cho nền văn phương Đông”.[11]
Dưới triều vua Aleksandr III, Vương công Esper Ukhtomsky là người được Nikolai rất tin tưởng. Esper Ukhtomsky - vốn am hiểu và ủng hộ sự phát triển của đạo Phật - đã đến xứ Buryat, một vùng đất theo Phật giáo nằm trong đế quốc Nga.
Năm 1905, ông đã phong chức Đại sứ Nga ở Bắc Kinh cho Pokotilov - một nhà phương Đông học, cũng là bạn và người có cùng quan điểm với Vương công Ukhtomsky.
Video yêu thích
- Sinh 1769
- Mất 1821
- Napoléon Bonaparte
- Vua Pháp
- Vua Ý
- Đế nhất Đế chế Pháp
- Gia đình Bonaparte
- Tướng Pháp
- Cách mạng Pháp
- Người thuận tay trái
- Tướng Pháp trong chiến tranh Napoléon
Nikolai II của Nga
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Mục từ "Nicholas II" dẫn đến bài này. Xin đọc về một vị Giáo hoàng tại Giáo hoàng Nicôla II.
Nikolai II Николай II |
||
---|---|---|
Chân dung của Nikolai II |
||
Hoàng đế, Sa hoàng nước Nga | ||
Trị vì | 1 tháng 11 năm 1894 – 15 tháng 3 năm 1917 | |
Đăng quang | 26 tháng 5 [cũ 14 tháng 5] năm 1896 | |
Tiền nhiệm | Aleksandr III | |
Kế nhiệm | Lật đổ chế độ Nga hoàng Trên thực tế: Georgy Yevgenyevich Lvov (Thủ tướng Chính phủ Lâm thời) |
|
Thông tin chung | ||
Hoàng hậu |
|
|
Tình nhân |
|
|
Hậu duệ |
|
|
Tước vị |
|
|
Hoàng tộc | Nhà Holstein-Gottorp-Romanov | |
Thân phụ | Aleksandr III của Nga | |
Thân mẫu | Dagmar của Đan Mạch | |
Sinh | 21 tháng 5, 1868 Hoàng Thôn, Sankt-Peterburg, Đế quốc Nga |
|
Mất | 17 tháng 7, 1918 (50 tuổi) Yekaterinburg, Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô Viết Liên Bang Nga |
|
An táng | Sankt-Peterburg, Liên bang Nga | |
Tôn giáo | Chính Thống giáo Đông phương | |
Hoàng đế Nikolai II trị quốc từ năm 1894 đến khi thoái vị vào ngày 15 tháng 3 năm 1917. Dưới triều ông, Nga - một trong những đế quốc hùng mạnh nhất thế giới thòi đó - đã lâm vào khủng hoảng kinh tế và quân sự. Những phê phán ông đã gọi ông là Nikolai Kẻ khát máu, vì vụ thảm kịch Khodynka, Ngày chủ nhật đẫm máu, và những vụ trấn áp người Xê-mít xảy ra dưới triều ông. Ông đã đẩy nước Nga vào cuộc chiến tranh với đế quốc Nhật Bản, mà Nga là đế quốc bại trận. Cũng chính ông là người đã ra lệnh tổng động viên quân đội Nga vào tháng 8 năm 1914, đưa Nga vào cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất. Trong cuộc đại chiến, quân Nga tham chiến phe Đồng Minh, cùng quân Anh, Pháp chống lại quân Đức, Áo-Hung.
Năm 1917, phong trào Cách mạng Tháng Hai thắng lợi, Nikolai II phải thoái vị. Đầu tiên, ông và gia đình bị giam lỏng tại Cung điện Aleksandr ở Hoàng Thôn, rồi được chuyển tới Dinh Tổng đốc tại Tobolsk, sau đó lại chuyển tới ngôi nhà Ipatiev tại Yekaterinburg. Đêm ngày 16 rạng sáng ngày 17 tháng 7 năm 1918, Nikolai II, Hoàng hậu, các công chúa và hoàng tử, quan Thái y, đầy tớ của Nga hoàng, nữ tỳ của Hoàng hậu cùng với đầu bếp của Hoàng gia cùng bị những người Bolshevik xử bắn trong một căn phòng. Năm 2000, Nikolai II cùng toàn bộ gia quyến được Giáo hội Chính Thống giáo Nga phong thánh.[4] Năm 2008, theo tuyên bố của Tòa án Tối cao Nga, Nga hoàng Nikolai II và gia đình là những "nạn nhân của các cuộc đàn áp chính trị và đã bị giết một cách bất hợp pháp".[5]
Mục lục
Tiểu sử
Nikolai Aleksandrovich Romanov là con của Nga hoàng Aleksandr III và hoàng hậu Maria Feodorovna của Nga, tức công chúa Dagmar của Đan Mạch. Ông bà nội của ông là Nga hoàng Aleksandr II và hoàng hậu Maria Alexandrovna của Nga, tức là Công chúa Marie xứ Hesse. Ông bà ngoại của ông là vua Christian IX của Đan Mạch và Công chúa Louise xứ Hesse-Kassel. Năm 1881, ông được phong làm Tsaverich, tức Hoàng thái tử.Những bức thư của Nikolai II sau khi vua Aleksandr III mất năm 1894 cho thấy ông vẫn lưu luyến vua cha. Thưở bé, ông thường ghen tỵ với sức khỏe của Aleksandr III, chẳng hạn như khi vua cha nâng được một tảng đá nặng 60 pao bằng một tay. Ông và người mẹ Maria Feodorovna rất yêu thương nhau, thường viết thư gửi cho nhau.[6] Nikolai II có ba người em trai (Alexander [1869-1870], Georgi [1871-1899], và Mikhail [1878-1918]) hai người em gái.
Do người em con chú của Aleksandr III, Đại Công tước Nikolai Nikolayevich, cũng có tên là Nikolai, vị Đại Công tước này được Hoàng gia gọi là "Nicholasha" để tránh nhầm lẫn với Nga hoàng tương lai. Thông qua mẹ ông, Nikolai II là cháu của một số vua chúa, trong số đó có George I của Hy Lạp, Frederick VIII của Đan Mạch, Hoàng hậu Alexandra của Anh và Vương phi Thyra xứ Hanover.
Nga hoàng Nikolai II, cùng với Hoàng đế Đức Wilhelm II, vua Anh George V đều là cháu của nữ hoàng Anh Victoria.[7] Nikolai II, Hoàng hậu Nga Alexandra, và Hoàng đế Đức Wilhelm II đều là anh em họ của vua Anh George V. Mẹ của Nikolai, Hoàng hậu Marie (Công chúa Dagmar của Đan Mạch), là chị của vợ vua Edward VII là Hoàng hậu Alexandra - mẹ của George V. Vợ Nikolai II là con gái của Công chúa Alice - con gái của nữ hoàng Anh Nữ hoàng Victoria, vì vậy bà cháu gọi vua Edward VII bằng bác (bên họ mẹ) và là em họ của Hoàng đế Wilhelm II; và cùng là hậu duệ trực tiếp của Nữ hoàng Victoria. Wilhelm II là con của Hoàng đế Đức Friedrich III và công chúa Vicky - con gái cả của nữ hoàng Victoria. Wilhelm II - anh họ của Hoàng hậu Nga Alexandra - và Nikolai II đều là con cháu của vua nước Phổ Friedrich Wilhelm III.
Hoàng thái tử nước Nga
Năm 13 tháng 3 năm 1881, ông trở thành Hoàng thái tử (Tsarevich) còn cha ông thì trở thành Nga hoàng Aleksandr III, sau khi ông nội Nikolai là Nga hoàng Aleksandr II bị tổ chức "Dân ý" ám sát. Ông và nhiều hoàng thân khác đã chứng kiến được sự kiện này khi đang ở Cung điện Mùa Đông tại kinh thành Sankt-Peterburg.[8] Vì lý do an toàn, Nga hoàng Aleksandr III và Hoàng gia thường sống ở Cung điện Gatchina phía ngoài Sankt-Peterburg, chứ không phải là Cung điện Mùa Đông.Một cuộc hành trình với những mục đích mang tính giáo dục là một phần quan trọng của việc dạy cho các hoàng thân Nga làm quen với hoạt động nhà nước. Năm 1890, Nga hoàng Aleksandr III tuyên bố thiết lập tuyến đường sắt xuyên Xibia. Thái tử Nikolai đã tham gia lễ khai mạc tuyến đường sắt trên Xibia, và từ nơi này, nhà vua hạ lệnh cho ông thực hiện chuyến hành trình khắp thế giới - mà người ta gọi là "Cuộc hành trình về phía Đông của Nikolai II". Năm đó ông đã 22 tuổi, mới hoàn thành khóa học tại Học viện sĩ quan cận vệ đã, và cũng đã hoàn tất chương trình đào tạo nhân văn của Đại học tổng hợp quốc gia. Bấy giờ, nước Nga đã làm chủ của một đội Hải quân hùng hậu. Vì thế, với chuyến du hành này Nikolai học được về công việc ngoại giao cũng như với sóng nước trên biển. Ông cùng đoàn tàu đã hành trình dọc bờ Đại Tây Dương qua Địa Trung Hải và Ấn Độ, tới nhiều hải cảng có tên tuổi ở Hy Lạp, Ấn Độ, Xiêm La,… Công tước Esper Ukhtomsky - người được Thái tử rất tin cậy - là người tư vấn cho Thái tử thực hiện chuyến Đông du trong những năm 1890 - 1891.[9] Đến ngày 28 tháng 3 năm 1891 Thái tử nước Nga đến cửa sông Đồng Nai, sau đó cập bến cảng Sài Gòn. Ngay trên bến cảng, Toàn quyền Đông Dương khi đó là Jules Georges Piquet cùng quan quân triều Nguyễn và Pháp đã tổ chức đón tiếp. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử một chính khách người Nga đến thăm Việt Nam - bấy giờ còn nằm dưới ách đô hộ của đế quốc Pháp.[10] Đến Nhật Bản, ông bị một người Nhật mưu sát hụt tại Otsu.
Trị vì
Tháng 5 năm 1896, sau khi vua cha Aleksandr III qua đời, Thái tử Nikolai lên nối ngôi. Giống như các vua đời trước, ông được xem là “đệ nhất tín đồ của Chính Thống giáo nước Nga”. Ông đã làm lễ đăng quang tại Đại giáo đường Upensky, trong điện Kremli. Khi đó, cho dù triều đình Nga đóng đô tại Sankt-Peterburg và Hoàng gia Nga ngụ tại Cung điện Mùa Đông, các Nga hoàng vẫn tổ chức lễ đăng quang tại Đại giáo đường Upensky (Cái chết của Đức Mẹ Đồng Trinh) ở Moskva, dưới sự chỉ đạo của Thượng phụ. Điều này thể hiện sự sùng Chính Thống giáo Đông phương đã lưu truyền qua các thế hệ Hoàng gia Nga.[11]Thời bấy giờ có nhà văn nổi tiếng Lev Nikolayevich Tolstoy (1828 - 1910) là người đã truyền bá tư tưởng cách mạng cho nhân dân Nga, đặc biệt là tầng lớp học sinh, thông qua thơ văn. Nhờ có nhà văn này mà trong đầu người Nga đã có tư tưởng cách mạng. Thấy vậy, Giáo hội Nga tố cáo Lev Nikolayevich Tolstoy tội tuyên truyền sai lệch và khai trừ nhà văn. Vài ba vạn học sinh thành phố Sankt-Peterburg tỏ ra bất bình, gây náo loạn vào năm 1901. Họ kiện lên Nga hoàng Nikolai II, cho rằng nhà văn L. N. Tolstoy bị oan. Nikolai II không đồng ý với họ, và truyền lệnh bắt họ phải im lặng. Ngày 17 tháng 3 năm 1901, học sinh Sankt-Peterburg bèn nổi dậy, cờ xí của họ toàn mang màu đỏ, ám chỉ rằng cách mạng không thể không đổ máu. Họ còn công bố một bản Tuyên ngôn rất dài, tố cáo Nikolai II và quyết định phải vùng dậy, lật đổ Hoàng gia và giành lấy quyền tự do. Cùng ngày, xảy ra xô xát giữa quân triều đình và các học sinh. Quân triều đình áp đảo các học sinh về trang bị và quan số. Vì vậy, quân triều đình đã dập tắt được cuộc loạn của học sinh. Hai bên đều thiệt hại nặng nề, tổ chức "Chữ thập đỏ" phái người đến giúp binh lính triều đình, chẳng khác nào kết quả của một cuộc chiến giữa hai đại đế quốc.[12]
Tuy thất bại, các lực lượng học sinh đã tập hợp lại, toan đấu tranh với triều đình thêm một lần nữa. Học sinh trú ẩn ở nhiều nơi, việc bắt và hành hình tất cả các học sinh là điều khó đối với triều đình Nikolai II, vì vậy Nga hoàng khó có thể mà dùng vũ lực để ổn định tình hình. Sau đó, học sinh còn gửi thư đe dọa đến các Bộ trưởng của vua Nikolai II. Nga hoàng đành phải chủ trì một cuộc họp trong cung, cho phép Tolstoy được phục hồi vai vế trong Giáo hội, và cũng hạ lệnh cho học sinh được miễn làm lính đồng thời thực hiện cải cách về chế độ trường đại học. Sự kiện này đã khiến cho lực lượng học sinh chấm dứt hoạt động. Thủ đô Sankt-Peterburg kết thúc cuộc náo loạn sau một tuần lễ.[12]
Triều đại ông chứng kiến một thời kì sóng gió trong lịch sử Nga.[11] Trong cuộc Chiến tranh Nga-Nhật (1904 - 1905), đế quốc Nga bại trận và mất nhiều đất. Ông còn tuyên chiến với Đức năm 1914, đẩy nhân dân Nga vào cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất và khiến cho nước Nga rơi vào tình trạng bi thảm. Triều đình Nga tỏ ra bất lực, không có có khả năng trị vì như trước nữa. Các phong trào Cách mạng liên tiếp nổ ra, tiêu biểu là Cách mạng Nga 1905.
Ngày 6 tháng 8 năm 1905, Nikolai II “Tuyên ngôn và đạo luật về việc thành lập Đuma Quốc gia”. Tầng lớp quý tộc, tư sản, trí thức và một số người đại diện nông dân giàu có chiếm đa số trong Đuma Quốc gia. Sau 12 năm hoạt động, Đuma Quốc gia Nga giải thể khi Cách mạng Tháng Hai 1917 bùng nổ.[13]
Năm 1917, ông bị hạ bệ trong cuộc Cách mạng Tháng Hai. Cuộc cách mạng tư sản này đã đánh đổ chế độ phong kiến lâu đời của nước Nga.[14] Theo quyết định của Xô Viết Ural,[15] ông bị xử bắn tại Yekaterinburg. Nikolai cùng vợ, con trai, bốn con gái, ngự y của Hoàng gia, đầy tớ của Nga hoàng, nữ tỳ của hoàng hậu và đầu bếp của Hoàng gia bị những người Bolshevik hành quyết trong một căn phòng vào đêm ngày 16 rạng sáng ngày 17 tháng 7 năm 1918.
Quan hệ với Phật giáo
Nga hoàng Nikolai II là một tín đồ ngoan đạo của Chính Thống giáo Đông phương, thậm chí được Giáo hội Chính Thống giáo Nga tôn thánh sau khi bị sát hại. Tuy nhiên, theo Minh Thạnh, ông là “một nhân vật mà chúng ta không thể không nhắc đến khi tìm hiểu về Phật giáo Nga”, “xứng đáng ghi nhận như là một vị vua có phần đóng góp cho sự phát triển của mình cho sự phát triển của Phật giáo”. Thật vậy, dưới triều đại ông, đạo Phật trên toàn nước Nga, đạt được bước phát triển quan trọng.[11]Là một Nga hoàng cầm quyền chuyên chính của đế quốc Nga, ông kế thừa quan điểm về một nước Nga có lãnh thổ ở cả châu Á lẫn châu Âu, một đất nước đa sắc tộc, đa tôn giáo. Với quan điểm này, dĩ nhiên là ông tôn trọng đạo Phật - được xem là “tôn giáo tượng trưng cho nền văn phương Đông”.[11]
Dưới triều vua Aleksandr III, Vương công Esper Ukhtomsky là người được Nikolai rất tin tưởng. Esper Ukhtomsky - vốn am hiểu và ủng hộ sự phát triển của đạo Phật - đã đến xứ Buryat, một vùng đất theo Phật giáo nằm trong đế quốc Nga.
Năm 1905, ông đã phong chức Đại sứ Nga ở Bắc Kinh cho Pokotilov - một nhà phương Đông học, cũng là bạn và người có cùng quan điểm với Vương công Ukhtomsky.
Di sản
Năm 2008, kênh truyền hình Rossia cùng với Viện Lịch sử Nga thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Nga và Quỹ ý kiến xã hội đã tổ chức của cuộc thăm dò dư luận xã hội mang tên "Tên của nước Nga - Sự lựa chọn lịch sử năm 2008". Tính đến ngày 14 tháng 7 năm đó, trên website cuộc cuộc tham dò này, nhân vật lịch sử đứng đầu trong số những người được nhân dân Nga xem là tiêu biểu cho nước Nga là Iosif Vissarionovich Stalin - một nhà lãnh đạo Liên bang Xô viết. Những nhân vật lịch sử được nhiều người bình chọn nhất sau Stalin là Nga hoàng Nikolai II và nhà lãnh đạo Vladimir Ilyich Lenin.[16]Con cái
Sau đây là những người con của Nga hoàng Nikolai II và Hoàng hậu Alexandra:Chân dung | Tên | Sinh | Mất | Chú thích |
---|---|---|---|---|
Nữ Đại Công tước Olga Nikolaevna của Nga | 15 tháng 11 [cũ 3 tháng 11] năm 1895 | 17 tháng 7 năm 1918 | bị những người Bolshevik bắn ở Yekaterinburg | |
Nữ Đại Công tước Tatiana Nikolaevna của Nga | 10 tháng 6 [cũ 29 tháng 5] năm 1897 | 17 tháng 7 năm 1918 | bị những người Bolshevik bắn ở Yekaterinburg | |
Nữ Đại Công tước Maria Nikolaevna của Nga | 26 tháng 6 [cũ 14 tháng 6] năm 1899 | 17 tháng 7 năm 1918 | bị những người Bolshevik bắn ở Yekaterinburg | |
Nữ Đại Công tước Anastasia Nikolaevna của Nga | 18 tháng 6 [cũ 5 tháng 6] năm 1901 | 17 tháng 7 năm 1918 | bị những người Bolshevik bắn ở Yekaterinburg | |
Thái tử Aleksei Nikolayevich | 12 tháng 8 [cũ 30 tháng 7] năm 1904 | 17 tháng 7 1918 | bị những người Bolshevik bắn ở Yekaterinburg |
Xem thêm
Chú thích
- ^ Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga năm 1917 (Nguyễn Anh Thái (chủ biên) - Lịch sử Thế giới hiện đại, NxbGD - 2009)
- ^ Năm 1831, Nga hoàng Nikolai I đã bị phế truất khỏi vương vị Ba Lan, nhưng triều đình Nga đã sớm đoạt lại quyền kiểm soát đất nước này làm thành một phần của Nga và truất phế vua riêng của Ba Lan. Sau đó, các Nga hoàng tiếp tục sử dụng vương hiệu này. Xem Khởi nghĩa tháng 11.
- ^ Danh hiệu đầy đủ của Nikolai II là Божьей поспешествующей милостью, Мы, Николай Второй, Император и Самодержец Всероссийский, Московский, Киевский, Владимирский, Новгородский; Царь Казанский, Царь Астраханский, Царь Польский, Царь Сибирский, Царь Херсонеса Таврического, Царь Грузинский; Государь Псковский и Великий Князь Смоленский, Литовский, Волынский, Подольский и Финляндский; Князь Эстляндский, Лифляндский, Курляндский и Семигальский, Самогитский, Белостокский, Корельский, Тверский, Югорский, Пермский, Вятский, Болгарский и иных; Государь и Великий Князь Новагорода низовския земли, Черниговский, Рязанский, Полотский, Ростовский, Ярославский, Белозерский, Удорский, Обдорский, Кондийский, Витебский, Мстиславский и всея северныя страны Повелитель; и Государь Иверския, Карталинския и Кабардинския земли и области Арменския; Черкасских и Горских Князей и иных Наследный Государь и Обладатель, Государь Туркестанский; Наследник Норвежский, Герцог Шлезвиг-Голштейнский, Стормарнский, Дитмарсенский и Ольденбургский и прочая, и прочая, и прочая».
- ^ Tìm thấy hài cốt con trai Sa hoàng?
- ^ “Nga: Sa hoàng Nicholas Đệ nhị là nạn nhân của các cuộc đàn áp chính trị”. 14 thàng1, 2010. Truy cập 25 thàng 12, 2012.
- ^ Book - The letters of Tsar Nicholas and Empress Marie: being confidential correspondence between Nicholas II, last of the Tsars, and his mother, Dowager Empress Maria Feodorovna / edited by Edward J. Bing - London: Nicholson and Watson, 1937.
- ^ Những sự thật kỳ lạ có thể bạn không biết (2)
- ^ Massie, R, Nicholas and Alexandra, p.38
- ^ “Sa hoàng Nicholas II và Phật giáo Nga”.
- ^ Bản mẫu:Chú thích bào
- ^ a ă â b Thư Viện Hoa Sen
- ^ a ă Bản mẫu:Chú thích bào
- ^ Mục từ Viện Đuma Quốc gia Nga trong Bách khoa toàn thư Việt Nam
- ^ “Sở Khoa học Đồng Tháp - 91 năm Cách mạng Tháng Mười Nga”.
- ^ Mục từ Nikôlai II trong Từ điển Bách khoa Toàn thư Việt Nam
- ^ Những biểu tượng quốc gia
Tài liệu tham khảo
- The Sokolov Report, in Victor Alexandrov, "The End of The Romanovs", London: 1966
- Boris Antonov, Russian Czars, St.Petersburg, Ivan Fiodorov Art Publishers (ISBN 5-93893-109-6)
- Michael M. Baden, Chapter III: Time of Death and Changes after Death. Part 4: Exhumation, In: Spitz, W.U. & Spitz, D.J. (eds): Spitz and Fisher’s Medicolegal Investigation of Death. Guideline for the Application of Pathology to Crime Investigations (Fourth edition). Charles C. Thomas, pp.: 174-183, Springfield, Illinois: 2006
- Paul Grabbe, "The Private World of the Last Czar" New York: 1985
- Ferro, Marc, Nicholas II: Last of the Czars. New York: Oxford University Press (USA), 1993 (hardcover, ISBN 0-19-508192-7); 1995 (paperback, ISBN 0-19-509382-8)
- Genrikh Ioffe, Revoliutsiia i sud'ba Romanovykh Moscow: Respublika, 1992 (tiếng Nga)
- Coryne Hall & John Van der Kiste, Once A Grand Duchess: Xenia, Sister of Nicholas II, Phoenix Mill, Sutton Publishing Ltd., 2002 (hardcover, ISBN 0-7509-2749-6)
- Greg King, The Court of the Last Czar: Pomp, Power and Pageantry in the Reign of Nicholas II 2006
- Greg King and Penny Wilson, "The Fate of the Romanovs" 2003
- Dominic Lieven, Nicholas II: Emperor of All the Russias. 1993.
- Andrei Maylunas and Sergei Mironenko, A Lifelong Passion: Nicholas & Alexandra 1999
- Marvin Lyons, Nicholas II The Last Czar, London, Routledge & Kegan Paul, 1974 (hardcover, ISBN 0-7100-7802-1)
- Shay McNeal, "The Secret Plot to Save the Czar" 2001
- Robert K. Massie, Nicholas and Alexandra 1967
- Robert K. Massie, The Romanovs. The Final Chapter 1995, ISBN 0-394-58048-6
- Bernard Pares, "The Fall of the Russian Monarchy" London: 1939, reprint London: 1988
- John Perry [cần làm rõ nghĩa ] and Konstantin Pleshakov, The Flight of the Romanovs. 1999.
- Edvard Radzinsky, The Last Tsar: The Life and Death of Nicholas II (1992) ISBN 0-385-42371-3
- Mark D. Steinberg and Vladimir M. Khrustalev, The Fall of the Romanovs: Political Dreams and Personal Struggles in a Time of Revolution, New Haven: Yale University Press, 1995.
- Anthony Summers and Tom Mangold, The File on the Czar. 1976.
- Richard Tames, Last of the Czars, London, Pan Books Ltd, 1972
- Andrew M. Verner, The Crisis of the Russian Autocracy: Nicholas II and the 1905 Revolution 1990
- Ian Vorres, The Last Grand Duchess, London, Finedawn Publishers, 1985 (hardcover)
- Richard Wortman, Scenarios of Power: Myth and Ceremony in Russian Monarchy, vol. 2 2000
- Prince Felix Yussupov, Lost Splendour
- Elisabeth Heresch, "Nikolaus II. Feigheit, Lüge und Verrat". F.A.Herbig Verlagsbuchhandlung, München, 1992
- The Complete Wartime Correspondence of Czar Nicholas II and the Empress Alexandra, April 1914 – March 1917. Edited by Joseph T. Furhmann Fuhrmann. Westport, Conn. and London: 1999
- Letters of Czar Nicholas and Empress Marie Ed. Edward J. Bing. London: 1937
- Letters of the Czar to the Czaritsa, 1914–1917 Trans. from Russian translations from the original English. E. L. Hynes. London and New York: 1929.
- Nicky-Sunny Letters: correspondence of the Czar and Czaritsa, 1914–1917. Hattiesburg, Miss: 1970.
- The Secret Letters of the Last Czar: Being the Confidential Correspondence between Nicholas II and his Mother, Dowager Empress Maria Feodorovna. Ed. Edward J. Bing. New York and Toronto: 1938
- Willy-Nicky Correspondence: Being the Secret and Intimate Telegrams Exchanged Between the Kaiser and the Czar. Ed. Herman Bernstein. New York: 1917.
- Paul Benckendorff, Last Days at Czarskoe Selo. London: 1927
- Sophie Buxhoeveden, The Life and Tragedy of Alexandra Fedorovna, Empress of Russia: A Biography London: 1928
- Pierre Gilliard, Thirteen Years at the Russian Court New York: 1921
- A. A. Mossolov (Mosolov), At the Court of the Last Czar London: 1935
- Anna Vyrubova, Memories of the Russian Court London: 1923
- A.Yarmolinsky, editor, "The Memoirs of Count Witte" New York & Toronto: 1921
- Sir George Buchanan (British Ambassador) My Mission to Russia & Other Diplomatic Memories (2 vols, Cassell, 1923)
- Meriel Buchanan, Dissolution of an Empire, Cassell, 1932
- Gleb Botkin, The Real Romanovs, Fleming H. Revell Co, 1931
- Mark D. Steinberg and Vladimir M. Khrustalev, The Fall of the Romanovs: Political Dreams and Personal Struggles in a Time of Revolution. New Haven: Yale University Press, 1995
- “The Personality Of The Czar: An Explanation, By A Russian Official Of High Authority”. The World's Work: A History of Our Time VIII: 5414–5430. October năm 1904.
Liên kết ngoài
Wikimedia Commons có thêm thể loại hình ảnh và tài liệu về Nikolai II của Nga |
- The Execution of Czar Nicholas II, 1918, EyeWitness to History.
- Brief Summary of Czar
- Abdication Proclamation, 2 March 1917 (the signature was put in pencil) (translation included)
- Alexander Palace Time Machine
- Nicholas and Alexandra Exhibition
- Frozentears.org A Media Library to Nicholas II and his Family.
- Scientists Reopen Czar Mystery
- Ipatiev House — Romanov Memorial An immensely detailed site on the historical context, circumstances and drama surrounding the Romanov's execution.
- (tiếng Nga)
The Murder of Russia's Imperial Family, Nicolay Sokolov. Investigation of execution of the Romanov Imperial Family in 1918.
- (tiếng Nga)
Nikolay II — Life and Death, Edvard Radzinski. Later published in English as The Last Czar: the Life and Death of Nicholas II.
- New Russian Martyrs. Czar Nicholas and His Family. A story of life, canonization. Photoalbum.
- Russian History Magazine Articles about the Romanovs from Atlantis magazine.
- Russia's Last Czar Declared Victim of Repression - October 2008 (TIME magazine)
Nikolai II của Nga
Nhánh thứ của Nhà Oldenburg
Sinh: 18 tháng 5 1868 Mất: 17 tháng 7 1918 |
||
Hiệu | ||
---|---|---|
Tiền vị: Aleksandr III |
Hoàng đế/Sa hoàng nước Nga 1 tháng 11 năm 1894 – 15 tháng 3 năm 1917 |
Chế độ Nga hoàng bị phế bỏ |
Vua Ba Lan 1 tháng 11 năm 1894 – 15 tháng 3 năm 1917 |
||
Đại công tước xứ Phần Lan 1 tháng 11 năm 1894 – 15 tháng 3 năm 1917 |
Trống ngôi
Danh hiệu được kế thừa bởi
Vương công Frederick Charles xứ Hessenhư là King-elect |
|
Russian royalty | ||
Tiền nhiệm: Aleksandr III của Nga |
Thái tử nước Nga 1881–1894 |
Kế nhiệm: George của Nga |
http://www.youtube.com/user/hoangkimvietnam
Trở về trang chính
Hoàng Kim, hoangkim, hoangkimvietnam, Ngọc Phương Nam, Chào ngày mới Thung dung, Dạy và học, Cây Lương thực, Tin Nông nghiệp Việt Nam, Food Crops, Cassava in Vietnam, Khát khao xanh, Dayvahoc,Học mỗi ngày, Danh nhân Việt , Food Crops News, Điểm chính, CNM365, Kim LinkedIn, KimTwitter, KimFaceBook Đọc lại và suy ngẫm, Việt Nam tổ quốc tôi, Tình yêu cuộc sống, Thơ cho con
No comments:
Post a Comment