Sunday, May 4, 2014

Chào ngày mới 5 tháng 5


CNM365 Chào ngày mới 5 tháng 5 Wikipedia Ngày này năm xưa. Bắt đầu Lập hạ (13:59 UTC, 2014, hình hoa sen nở mủa hè), ngày Thiếu nhi tại Nhật Bản và Hàn Quốc, ngày châu Âu, ngày người Ấn Độ đến tại Guyana. Năm 1260 – Dưới sự ủng hộ của một bộ phận tông vương và đại thần, Hốt Tất Liệt tự lập làm hoàng đế của Đế quốc Mông Cổ. Năm 1949Hiệp ước London thành lập Ủy hội châu Âu, thể chế đầu tiên hoạt động nhằm nhất thể hóa châu Âu. Năm 1950Bhumibol Adulyadej đăng cơ quốc vương Thái Lan tại vương cungBangkok. Năm 1955 – Hiệp định Paris về chấm dứt chiếm đóng có hiệu lực, Cộng hòa Liên bang Đức, tức Tây Đức, giành được chủ quyền hoàn toàn.

Lập hạ

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Hai mươi tư tiết khí
Kinh độ Tiết khí Dương lịch
Xuân
315° Lập xuân 4 - 5/2
330° Vũ thủy 18 - 19/2
345° Kinh trập 5 - 6/3
Xuân phân 20 - 21/3
15° Thanh minh 4 - 5/4
30° Cốc vũ 20 - 21/4
Hạ
45° Lập hạ 5 - 6/5
60° Tiểu mãn 21 - 22/5
75° Mang chủng 5 - 6/6
90° Hạ chí 21 - 22/6
105° Tiểu thử 7 - 8/7
120° Đại thử 22 - 23/7
Thu
135° Lập thu 7 - 8/8
150° Xử thử 23 - 24/8
165° Bạch lộ 7 - 8/9
180° Thu phân 23 - 24/9
195° Hàn lộ 8 - 9/10
210° Sương giáng 23 - 24/10
Đông
225° Lập đông 7 - 8/11
240° Tiểu tuyết 22 - 23/11
255° Đại tuyết 7 - 8/12
270° Đông chí 21 - 22/12
285° Tiểu hàn 5 - 6/1
300° Đại hàn 20 - 21/1

Lập hạ (tiếng Hán: 立夏) là một trong 24 tiết khí của của các lịch Trung Quốc, Việt Nam, Nhật Bản, Triều Tiên. Nó thường bắt đầu vào khoảng ngày 5 hay 6 tháng 5 dương lịch, khi Mặt Trờixích kinh 45° (kinh độ Mặt Trời bằng 45°). Đây là một khái niệm trong công tác lập lịch của các nước Đông Á chịu ảnh hưởng của nền văn hóa Trung Quốc cổ đại. Ý nghĩa của tiết khí này, đối với vùng Trung Hoa cổ đại, là Bắt đầu mùa hè.
Theo quy ước, tiết lập hạ là khoảng thời gian bắt đầu từ khoảng ngày 5 hay 6 tháng 5 khi kết thúc tiết cốc vũ và kết thúc vào khoảng ngày 21 hay 22 tháng 5 trong lịch Gregory theo các múi giờ Đông Á khi tiết tiểu mãn bắt đầu.
Lịch Trung Quốc, cũng như lịch ở các nước Đông Á cổ đại bao gồm Việt Nam, bị nhiều người lầm là âm lịch thuần túy, dẫn đến ngộ nhận về việc tiết khí nói chung và lập hạ nói riêng được tính theo chu kỳ của Mặt Trăng quay xung quanh Trái Đất. Trên thực tế lịch Trung Quốc cổ đại là một loại âm dương lịch, trong đó tiết khí, từ thời Hán Vũ Đế, đã được tính theo vị trí của Trái Đất trong chu kỳ chuyển động trên quỹ đạo xung quanh Mặt Trời. Theo cách tính hiện đại, với điểm xuân phân là gốc có kinh độ Mặt Trời bằng 0°, thì thời điểm diễn ra tiết lập hạ ứng với kinh độ Mặt Trời bằng 45°. Ngày diễn ra hay bắt đầu tiết lập hạ do vậy được tính theo cách tính của dương lịch hiện đại và nó thông thường rơi vào ngày 5 hay 6 tháng 5 dương lịch tùy theo từng năm. Tiết khí đứng ngay trước lập hạ là cốc vũ và tiết khí kế tiếp sau là tiểu mãn.

Xem thêm


Hốt Tất Liệt

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nguyên Thế Tổ Tiết Thiện Hãn
(元世祖 薛禪汗)
Hoàng đế nhà Nguyên, Hoàng đế Trung Hoa, Khả Hãn Mông Cổ (chi tiết...)
YuanEmperorAlbumKhubilaiPortrait.jpg
Hoàng đế nhà Nguyên, Hoàng đế Trung Hoa
Tại vị 18/12[1]/1271 - 18/2/1294
Tiền nhiệm Sáng lập triều đại
Kế nhiệm Nguyên Thành Tông
Khả Hãn Mông Cổ
Tại vị 5/5/1260 - 18/2/1294
Tiền nhiệm Mông Kha hãn
Kế nhiệm Hoàng Trạch Đốc hãn
Thông tin chung
Thê thiếp Chabi
Tegulen
Nambui
Tên đầy đủ Hốt Tất Liệt (Khubilai, Хубилай, 忽必烈)
Niên hiệu Trung Thống (中統) 1260 - 1264
Chí Nguyên (至元) 1264 - 1294
Thụy hiệu Thánh đức Thần công Văn vũ Hoàng đế(聖德神公炆武皇帝)
Tiết Thiện Hãn (Setsen Hãn, ᠰᠡᠴᠡᠨ ᠬᠠᠭᠠᠨ, Сэцэн хаан)
Miếu hiệu Thế Tổ (世祖)
Hoàng tộc Dòng họ Borjigin (Боржигин), Bột Nhi Chỉ Cân (孛兒只斤)[2], Bác Nhĩ Tề Cát Đặc (博爾濟吉特)[3] của thị tộc (yasun)[4] Khiyad (Хиад) hay Kì Ác Ôn (奇渥溫)[5] hoặc Khất Nhan (乞顏)
Thân phụ Đà Lôi
Thân mẫu Sorghaghtani Beki
Sinh 23/9/1215
Mất 18/2/1294
Đại Đô (Khanbalic)
Hốt Tất Liệt (23/9/1215[6] - 18/2/1294[7]) (tiếng Mông Cổ: Qubilai qaghan.svg Хубилай хаан, chữ Hán: 忽必烈; bính âm: Hūbìliè) là đại hãn thứ năm của Mông Cổ đồng thời là người sáng lập ra nhà Nguyên. Ông là con trai thứ hai của Đà Lôi với vợ cả là Sorghaghtani Beki (Toa Lỗ Hòa Thiếp Ni), nhưng là con trai thứ tư[8] khi tính cả các con của các bà vợ bé, cháu nội của Thành Cát Tư Hãn.
Năm 1260, Hốt Tất Liệt đã trở thành đại hãn của đế quốc Mông Cổ sau khi anh trai ông là đại hãn Mông Kha chết năm trước đó, mặc dù em trai ông là A Lý Bất Ca (Ariq Böke) cũng tự xưng là đại hãn tại kinh đô của đế quốc Mông Cổ vào thời điểm đó là Karakorum. Cuối cùng ông đã giành thắng lợi trước A Lý Bất Ca vào năm 1264, và mặc dù cuộc tranh giành quyền kế vị đã đánh dấu sự kết thúc của sự thống nhất chính trị trong nội bộ đế quốc Mông Cổ, nhưng đế quốc này về tổng thể vẫn là thống nhất và hùng mạnh[9]. Ảnh hưởng của Hốt Tất Liệt vẫn còn mạnh tại hãn quốc Y NhiKim Trướng hãn quốc, các phần phía tây của đế quốc Mông Cổ[10].
Năm 1271, Hốt Tất Liệt thành lập nhà Nguyên, vào thời gian đó kiểm soát các khu vực ngày nay thuộc Mông Cổ, Hoa Bắc, phần lớn miền tây Trung Quốc và các khu vực cận kề, và ông có địa vị của một Hoàng đế Trung Hoa. Năm 1279, quân đội nhà Nguyên cuối cùng đã đánh bại Nam Tống và như thế Hốt Tất Liệt đã trở thành hoàng đế Trung Hoa một cách đầy đủ. Miếu hiệu của ông là Nguyên Thế Tổ (tiếng Trung: 元世祖).
Dưới sự lãnh đạo của ông, đế quốc Mông Cổ đã đạt đỉnh điểm của sự hưng thịnh. Ông đã dời đô từ Hoa Lâm về Đại Đô tức Bắc Kinh ngày nay. Vào năm 1271 ông đã lập triều đại của người Mông Cổ mang tên nhà Nguyên. Năm 1279 quân đội của ông tiêu diệt nhà Nam Tống (1127-1279), thống nhất Trung Quốc.
Tất cả các vương quốc nằm cận kề với đế quốc Mông Cổ đều trở thành các nước chư hầu lệ thuộc. Hốt Tất Liệt còn có ước mộng thôn tính cả Nhật Bản, Đại Việt, BaganJava nhưng không thành. Mặc dù rằng Hốt Tất Liệt theo đạo Phật nhưng ông lại cũng để ý đến sự phát triển của đạo Kitô trên thế giới và đã mời các sứ giả truyền đạo này vào Trung Quốc. Ông cũng chú trọng đến việc phát triển các nghề thủ công, khoa học và nghệ thuật. Một trong những người ngoại quốc đã đến thăm triều đình này là Marco Polo.

Thời kỳ đầu

Yếu tố có ảnh hưởng đáng kể và rõ nét nhất tới cuộc sống của Hốt Tất Liệt trong thời kỳ trẻ tuổi của ông là sự nghiên cứu và ưa thích nền văn hóa Trung Hoa đương thời. Năm 1251, anh trai ông là Mông Kha, một người theo Hồi giáo, trở thành Đại hãn của đế quốc Mông Cổ và Hốt Tất Liệt được giao quản lý các lãnh thổ phía nam của đế quốc. Trong những năm cai quản này, ông quản lý tốt vùng lãnh thổ đó, làm tăng sản lượng lương thực tại tỉnh Hà Nam và gia tăng các chi phí cho phúc lợi xã hội sau khi nhận thêm Tây An. Những hành động này nhận được sự ủng hộ lớn từ các lãnh chúa Trung Hoa và nó chính là nền tảng cơ bản cho việc xây dựng nhà Nguyên sau này.[11]
Năm 1253, Hốt Tất Liệt được lệnh tấn công Vân Nam và ông đã tiêu diệt Vương quốc Đại Lý. Năm 1258, Mông Kha giao cho Hốt Tất Liệt làm chỉ huy cánh quân miền đông và yêu cầu ông hỗ trợ các cuộc tấn công vào Tứ Xuyên và một lần nữa vào Vân Nam. Trước khi Hốt Tất Liệt có thể tới đây vào năm 1259 thì ông nhận được tin là Mông Kha đã chết. Ông tiếp tục tấn công Vũ Hán, nhưng ngay sau khi nhận được tin rằng em trai ông là A Lý Bất Ca đã tổ chức một kurultai tại kinh đô của đế quốc ở Karakorum và lên làm đại hãn. Phần lớn các hậu duệ của Thành Cát Tư Hãn đều chọn A Lý Bất Ca làm đại hãn; tuy nhiên, hai người anh ruột của ông này là Hốt Tất Liệt và Húc Liệt Ngột (Hulegu) lại phản đối.
Hốt Tất Liệt nhanh chóng đạt được thỏa thuận đình chiến với quân đội Nam Tống và quay trở về vùng bình nguyên Mông Cổ ở phương bắc nhằm chống lại tuyên bố của A Lý Bất Ca về chức vụ đại hãn.
Sau khi trở về vùng lãnh thổ của mình, Hốt Tất Liệt triệu tập kurultai của chính mình. Chỉ một lượng nhỏ các thành viên hoàng tộc ủng hộ tuyên bố của Hốt Tất Liệt về quyền thừa kế chức vụ và họ vẫn công bố ông là đại hãn, cho dù đã có tuyên bố dường như là hợp pháp của em trai ông (A Lý Bất Ca).
Điều này sau đó dẫn tới nội chiến giữa hai anh em, dẫn tới sự phá hủy hoàn toàn kinh đô của đế quốc tại Karakorum. Hốt Tất Liệt chỉ giành được thắng lợi sau 4 năm, vào năm 1264. Tuy nhiên, sự kiện này cuối cùng đã đánh dấu sự kết thúc của đế quốc Mông Cổ thống nhất. Các hãn quốc miền tây trở thành độc lập trên thực tế (de facto) và hãn Hải Đô của hãn quốc Sát Hợp Đài (Chagatai), người cai trị phần lớn khu vực Tân CươngTrung Á ngày nay, còn tiếp tục chống đối ông cho tới tận khi ông này mất vào năm 1301.
Trong thời kỳ nội chiến với A Lý Bất Ca, người quản lý Ích Châu là Li Tan đã nổi dậy chống lại sự cai trị của người Mông Cổ vào tháng 2 năm 1262. Hốt Tất Liệt đã ra lệnh cho Shi Tianze và Shi Shu dẹp loạn Li Tan. Hai đội quân này đánh bại cuộc nổi dậy của Li Tan sau vài tháng và Li Tan bị tử hình. Tử hình cũng là kết cục của Wang Wentong, cha vợ của Li Tan, người từng được chỉ định làm bình chương chính sự (tiếng Trung: 平章政事) của trung thư tỉnh (tiếng Trung: 中書省) trong giai đoạn đầu thời kỳ trị vì của Hốt Tất Liệt và là một trong số các quan lại người Hán được tin cậy nhất của ông. Sự kiện này đã làm ông mất niềm tin vào người Hán. Sau khi trở thành hoàng đế, ông cấm chỉ việc giao các chức vụ quan trọng cho các lãnh chúa gốc Hán.

Hoàng đế nhà Nguyên


Tranh vẽ Hốt Tất Liệt khi đi săn, của họa sĩ cung đình Lưu Quán Đạo (刘贯道), khoảng năm 1280.
Hốt Tất Liệt chấp nhận các mô hình chính trị và văn hóa Trung Hoa, cố gắng giảm thiểu ảnh hưởng của các lãnh chúa địa phương, những người đã nổi lên nắm quyền lực trong thời kỳ cuối của nhà Tống. Tuy nhiên, do mất niềm tin vào người Hán nên ông đã chỉ định người Mông Cổ, người Trung Á, người Hồi giáo và một ít người châu Âu vào các vị trí cao hơn người Hán. Hốt Tất Liệt bắt đầu nghi ngờ người Hán khi con rể của một vị bình chương chính sự người Hán lại nổi dậy chống lại ông trong khi ông đang phải quyết đấu với A Lý Bất Ca tại Mông Cổ[12] cho dù ông vẫn tiếp tục mời và sử dụng một số cố vấn người Hán như Lưu Bỉnh Trung, Hứa HànhDiêu Xu.
Năm Chí Nguyên thứ 8 (1271), Hốt Tất Liệt chính thức tuyên bố lập ra nhà Nguyên và đặt kinh đô tại Đại Đô (tiếng Trung: 大都; Wade-Giles: Ta-tu, nghĩa là "kinh đô lớn", ngày nay là Bắc Kinh) hay còn gọi là Hãn Bát Lý (Khanbaliq) vào năm sau đó. Kinh đô mùa hè của ông đặt tại Thượng Đô (tiếng Trung: 上都, nghĩa là "kinh đô trên", hay Xanadu, gần với Đa Luân (多伦) ngày nay). Để thống nhất Trung Quốc[13], Hốt Tất Liệt bắt đầu một chiến dịch rộng lớn chống lại những lực lượng còn sót lại của Nam Tống vào năm Chí Nguyên thứ 11 (1274) và cuối cùng tiêu diệt Nam Tống vào năm Chí Nguyên thứ 16 (1279), thống nhất toàn bộ Trung Hoa.
Nội Trung Hoa và Mông Cổ[14][15] được chia thành 10 hành trung thư tỉnh (行中書省) hay hành tỉnh (行省) trong thời kỳ trị vì của ông với 1 hành thượng thư tỉnh và 1 hành thị lang tỉnh đứng đầu. Bên cạnh 10 hành tỉnh là khu vực trung tâm (tiếng Trung: 腹裏 = Phúc Lý), bao gồm phần lớn Hoa Bắc ngày nay, được coi là khu vực quan trọng nhất của nhà Nguyên và do trung thư tỉnh tại Đại Đô trực tiếp quản lý. Ngoài ra, Tây Tạng cũng do một cơ quan cấp cao khác là Tuyên chính viện (tiếng Trung: 宣政院) quản lý trực tiếp.
Ông quản lý điều hành công việc triều chính khá tốt, khuyến khích phát triển kinh tế với việc cho xây dựng lại Đại Vận Hà, sửa chữa các tòa nhà công và mở rộng đường đi lối lại. Tuy nhiên, chính sách đối nội của Hốt Tất Liệt cũng bao gồm một số khía cạnh của các truyền thống Mông Cổ cũ, và trong khi Hốt Tất Liệt tiếp tục công việc trị vì của mình thì những truyền thống này va chạm ngày càng thường xuyên hơn với kinh tế và văn hóa xã hội Trung Hoa truyền thống.

Niccolo và Maffeo Polo chuyển bức thư của Hốt Tất Liệt cho giáo hoàng Gregory X năm 1271.
Năm 1273, ông cho phát hành một loạt mới các giấy bạc được nhà nước bảo đảm, được sử dụng trong khắp đất nước, mặc dù cuối cùng do thiếu các kỹ năng, kỷ luật tài chính và lạm phát đã làm cho bước đi này trở thành thảm họa kinh tế đối với triều đại này trong những năm sau đó. Việc thanh toán được thực hiện bằng tiền giấy gọi là sáo. Để đảm bảo việc sử dụng nó, chính quyền Hốt Tất Liệt đã sung công vàng, bạc từ các cá nhân cũng như từ thương nhân ngoại quốc. Thay vì thế, các thương nhân được nhận giấy bạc do nhà nước ban hành theo tỷ lệ quy đổi. Điều này giải thích tại sao Hốt Tất Liệt được coi là người đầu tiên tạo ra tiền pháp định. Giấy bạc làm cho việc thu thuế và quản lý một đế quốc rộng lớn trở nên dễ dàng hơn trong khi làm giảm chi phí vận chuyển tiền kim loại[16]. Sau này Gaykhatu (Hải Hợp Đô) của hãn quốc Y Nhi cũng có ý định áp dụng hệ thống này tại Ba TưTrung Đông, nhưng đã hoàn toàn thất bại và ông này bị ám sát ngay sau đó.
Ông cũng cho phát triển các bộ môn nghệ thuật châu Á và chấp nhận những khác biệt về tôn giáo, ngoại trừ khi đề cập tới Đạo giáo. Một số người châu Âu đã từng đặt chân tới đây, đáng chú ý trong số này có Marco Polo trong thập niên 1270, người có thể đã từng nhìn thấy kinh đô mùa hè tại Thượng Đô.

Đối ngoại

Hốt Tất Liệt buộc Cao Ly (Triều Tiên) phải trở thành chư hầu vào năm 1260. Nhà Nguyên giúp Nguyên Tông (원종) của Cao Ly bình ổn sự kiểm soát của ông này tại Triều Tiên vào năm 1271. Hốt Tất Liệt cũng có ý định thiết lập mối quan hệ triều cống với các quốc gia khác, nhưng bị cự tuyệt. Dưới áp lực từ các cố vấn người Mông Cổ, Hốt Tất Liệt quyết định xâm lăng Nhật Bản, Myanma, Đại ViệtJava. Những cố gắng thất bại và tốn kém này, cùng với sự lưu thông tiền giấy đã gây ra lạm phát. Tuy nhiên, ông cũng đã buộc các lãnh chúa từ tây bắc và đông bắc phải đầu hàng, đảm bảo sự ổn định tại các khu vực này.

Xâm lược Nhật Bản


Samurai Suenaga đối mặt với cung tên của người Mông Cổ. Moko Shurai Ekotoba (蒙古襲来絵詞), khoảng năm 1293.
Hốt Tất Liệt hai lần có ý định xâm chiếm Nhật Bản; tuy nhiên, cả 2 lần, người ta tin rằng thời tiết xấu hoặc các lỗi kỹ thuật trong chế tạo tàu thuyền đã phá hủy hạm đội thủy quân của ông. Ý định xâm chiếm thứ nhất diễn ra vào năm 1274, với hạm đội gồm 900 tàu thuyền. Lần xâm chiếm thứ hai diễn ra vào năm 1281, với hạm đội có trên 1.170 thuyền chiến lớn, mỗi chiếc dài tới 73 m (240 ft). Chiến dịch này được tổ chức không tốt và hạm đội của người Triều Tiên đã tới Nhật Bản trước hạm đội của nhà Nguyên khá lâu.
Tiến sĩ Kenzo Hayashida, một nhà khảo cổ học biển, người đứng đầu nhóm điều tra đã phát hiện ra các mảnh vỡ của hạm đội xâm chiếm lần thứ hai ngoài khơi miền tây Dokdo. Các vật tìm thấy của nhóm này chỉ ra rằng Hốt Tất Liệt rất vội xâm chiếm Nhật Bản cà cố gắng xây dựng hạm đội hùng mạnh chỉ trong vòng 1 năm (một công việc mà đúng ra phải mất ít nhất 5 năm). Điều này buộc nhà Nguyên phải sử dụng mọi loại thuyền có thể, từ những thuyền nhỏ chuyên chạy trên sông, nhằm đạt được sự sẵn sàng sớm hơn. Quan trọng nhất, người Trung Quốc, khi đó dưới sự thống trị của Hốt Tất Liệt, buộc phải dựng ra nhiều tàu thuyền nhanh hơn nhằm đảm bảo góp đủ cơ số tàu thuyền cho cả hai lần xâm chiếm. Hayashida giả đinh rằng, nếu Hốt Tất Liệt sử dụng các tàu thuyền đi biển tiêu chuẩn, được chế tạo tốt, với sống thuyền cong để ngăn cản sự lật úp thì thủy quân của ông có thể đã vượt qua được cuộc hành trình dài này tới Nhật Bản và có thể đã có khả năng chiếm được đất nước này.
David Nicolle viết trong The Mongol Warlords rằng "Những mất mát lớn cũng phải gánh chịu khi nói về số thương vong và chi phí vô ích, trong khi huyền thoại về sự bất khả chiến bại của người Mông Cổ đã bị tiêu tan trong khu vực Đông Á". Ông cũng viết rằng Hốt Tất Liệt đã có ý định xâm chiếm lần thứ ba vào Nhật Bản, cho dù phải trả một giá đắt khủng khiếp cho nền kinh tế cũng như cho tiếng tăm của ông và của đội quân Mông Cổ thiện chiến trong 2 lần xâm lược đầu tiên và chỉ có cái chết của ông cùng sự nhất trí của các cố vấn về việc không xâm chiếm nữa mới ngăn được ý định lần thứ ba này.
Năm 1293, thủy quân nhà Nguyên bắt được 100 người Nhật từ Okinawa.

Xâm lược Đại Việt

Quân đội nhà Nguyên cũng hai lần xâm chiếm Đại Việt. Lần xâm chiếm đầu tiên (lần thứ hai của đế quốc Mông Cổ) bắt đầu vào tháng 12 âm lịch năm 1284[17] khi quân đội Mông Cổ dưới sự chỉ huy của Trấn Nam vương Thoát Hoan (con trai thứ chín của Hốt Tất Liệt) và A Lý Hải Nha, vượt qua biên giới và nhanh chóng chiếm được Thăng Long (nay là Hà Nội) vào đầu tháng 1 âm lịch năm 1285 sau thắng lợi của đội quân do Ô Mã Nhi chỉ huy tại Vạn KiếpPhả Lại (đông bắc Thăng Long)[17]. Cùng thời gian đó, đội quân do Toa Đô chỉ huy sau khi tấn công Chiêm Thành bằng đường qua Lão Qua cũng di chuyển về phía bắc và nhanh chóng tiến tới Nghệ An (phía bắc miền Trung Việt Nam ngày nay) vào cuối tháng 1 âm lịch[17], tại đây đội quân nhà Trần dưới sự chỉ huy của Trần Kiện nhanh chóng đầu hàng. Tháng 2 âm lịch, Trần Bình Trọng đánh quân Nguyên tại bãi Đà Mạc, bị thua và bị giết. Tháng 3 âm lịch, Trần Lộng, Trần Ích Tắc và gia thuộc cũng đầu hàng quân Nguyên. Tuy nhiên, hai vua Trần và Quốc công tiết chế Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn đã thay đổi chiến thuật từ phòng ngự sang phản công và một lần nữa đánh bại quân Mông Cổ. Tháng 4 âm lịch, tướng Trần Nhật Duật giành thắng lợi trong trận Hàm Tử (nay thuộc tỉnh Hưng Yên). Tháng 5 âm lịch, tướng Trần Quang Khải đánh bại Toa Đô tại Chương Dương (nay thuộc Hà Nội) và sau đó các vua Trần đã giành thắng lợi trong trận chiến lớn tại Tây Kết nơi Toa Đô bị giết chết. Ô Mã Nhi trốn qua cửa sông Thanh Hoá, hai vua Trần đuổi theo nhưng không kịp, bắt được hơn 5 vạn dư đảng đem về, Ô Mã Nhi chỉ còn một chiếc thuyền vượt biển trốn thoát[17]. Trong khi đó, đội quân của Thoát HoanLý Hằng bị Trần Hưng Đạo đánh bại tại Vạn Kiếp, phải bỏ chạy về Tư Minh. Lý Hằng bị bắn chết còn Thoát Hoan phải chui vào ống đồng mới thoát được[17]. Hốt Tất Liệt đã thất bại trong cố gắng đầu tiên của mình nhằm xâm chiếm Đại Việt.
Lần xâm chiếm thứ hai vào Đại Việt của quân đội nhà Nguyên diễn ra vào cuối năm 1287[17] và được tổ chức tốt hơn so với lần trước, với việc đưa vào lực lượng thủy quân lớn hơn và nhiều lương thực thực phẩm hơn. Quân đội Mông Cổ, dưới sự chỉ huy của Thoát Hoan, tiến tới Vạn Kiếp và hội quân tại đây với quân đội của Ô Mã Nhi và quân Nguyên cũng nhanh chóng giành được thắng lợi ban đầu rồi xuôi dòng về phía đông. Thủy quân của nhà Nguyên nhanh chóng giành được thắng lợi tại Vân Đồn (thuộc tỉnh Quảng Ninh ngày nay) nhưng thuyền chở lương thực, thực phẩm nặng nề đi sau lại bị tướng Trần Khánh Dư đánh tan[17]. Kết quả là quân Mông Cổ tại Thăng Long bị thiếu lương thực, thực phẩm trầm trọng. Không có lương thực, thực phẩm tiếp tế, Thoát Hoan buộc phải rút quân khỏi Thăng Long về Vạn Kiếp. Các nhóm bộ binh của nhà Trần được lệnh tấn công quân đội Mông Cổ tại Vạn Kiếp.
Đầu tháng 3 âm lịch năm 1288 thủy quân của Ô Mã Nhi tiến tới sông Bạch Đằng để đón thuyền lương do Trương Văn Hổ chỉ huy[17]. Một đội thủy quân nhỏ của Đại Việt ra khiêu chiến và nhanh chóng rút lui để nhử thủy quân nhà Nguyên vào bãi cọc nhọn. Quân Nguyên trúng kế và rơi vào trận địa mai phục sẵn của Đại Việt. Hàng nghìn thuyền nhẹ của Đại Việt từ hai bên bờ nhanh chóng xuất hiện, tấn công dữ dội và đánh tan sức kháng cự từ quân Nguyên. Quân đội Mông Cổ cố gắng rút lui ra biển trong sự hoảng loạn. Bị va phải cọc, thuyền của họ bị vỡ hay mắc kẹt, nhiều thuyền bị chìm. Quân Nguyên phải nhảy xuống sông để bơi vào bờ, bị chết đuối rất nhiều. Các tướng như Áo Lỗ Xích, Ô Mã Nhi, Tích Lệ Cơ Ngọc, Sầm Đoàn, Phàn Tiếp v.v bị bắt sống. Cùng thời gian đó, quân đội Đại Việt liên tục tấn công và đánh tan đội quân của Thoát Hoan trên đường rút chạy qua Lạng Sơn. Cố gắng lần hai của Hốt Tất Liệt trong việc xâm chiếm Đại Việt cũng tan thành mây khói.
Mặc dù các thất bại này đã kết thúc giấc mơ của Hốt Tất Liệt trong việc mở rộng lãnh thổ về phía nam, đặc biệt nhằm để kiểm soát con đường gia vị. Tuy nhiên trong giai đoạn 1288-1293, các quốc gia như Đại Việt, Chiêm ThànhSukhothai đều lần lượt công nhận uy quyền tối cao của Hốt Tất Liệt để tránh xảy ra chiến tranh thêm nữa.

Cuối đời


Lãnh thổ nhà Nguyên khi Hốt Tất Liệt chết, năm 1294
Hốt Tất Liệt ban đầu có ý định đưa con trai thứ hai là Chân Kim (真金) làm người kế vị ông. Chân Kim đã trở thành người đứng đầu của trung thư tỉnh và tích cực điều hành công việc triều chính theo kiểu Nho giáo. Thật không may, Chân Kim chết năm 1285, 9 năm trước khi Hốt Tất Liệt qua đời. Mặt khác, Hốt Tất Liệt cũng bị bệnh gút nặng trong những năm cuối đời. Ông tăng cân nhanh vì ưa thích ăn các món đặc sản nguồn gốc động vật. Điều này làm gia tăng nhanh lượng purin trong máu của ông, dẫn tới việc làm trầm trọng thêm các vấn đề với bệnh gút và cuối cùng dẫn tới cái chết năm 1294. Việc ăn quá nhiều của ông có thể có liên quan tới cái chết của bà vợ yêu quý nhất của ông cũng như của người ông đã chọn làm người kế vị là Chân Kim. Trước khi chết năm 1294, Hốt Tất Liệt đã chọn con trai của Chân Kim là Thiết Mộc Nhĩ làm thái tử và ông này đã trở thành vị hoàng đế thứ hai của nhà Nguyên, tức là Nguyên Thành Tông.

Tiểu thuyết hoá

Hốt Tất Liệt được tiểu thuyết hoá trở thành một nhân vật trong truyện Thần Điêu Hiệp Lữ của Kim Dung. Trong truyện này ông là người đứng ra chiêu nạp đám cao thủ võ lâm Kim Luân Pháp Vương, Tiêu Tương Tử, Doãn Khắc Tây,Sóng Gió Nguyên Triều v.v. âm mưu tiêu diệt các cao thủ Đại Tống.

Tham khảo

  • Morgan David. The Mongols (Blackwell Publishers; Tái bản, tháng 4 năm 1990), ISBN 0-631-17563-6.
  • Rossabi Morris. Khubilai Khan: His Life and Times (Nhà in Đại học California (1-5-1990)) ISBN 0-520-06740-1.
  • Saunders J. J. The History of the Mongol Conquests (Nhà in Đại học Pennsylvania (1-3-2001)) ISBN 0-8122-1766-7.
  • Man John. "Kublai Khan"
  • Man John. "Genghis Khan"

Liên kết ngoài

Ghi chú

  1. ^ Thành lập nhà Nguyên vào ngày này. Tuy nhiên, chưa thể kiểm soát miền nam Trung Quốc cho tới tận tháng 2 năm 1276, khi hoàng đế Nam Tống bị bắt. Những cuộc kháng cự cuối cùng ở đây còn kéo dài tới năm 1279.
  2. ^ Kiểu phiên âm này phổ biến ngày nay
  3. ^ Kiểu phiên âm này phổ biến thời nhà Thanh.
  4. ^ Trường phái Cambridge cho rằng Khiyad là thị tộc nằm trong họ Borjigin, nhưng các học giả khác cho rằng Borjigin là dòng dõi con trong thị tộc Khiyad lớn hơn, trong khi một số tác giả khác lại cho rằng Khiyad và Borjigin có thể dùng như nhau.
  5. ^ Phiên bản phiên âm này của tiếng Trung xuất hiện trong lịch sử Trung Quốc thời nhà Nguyên.
  6. ^ Rossabi, Morris (1988). Khubilai Khan: His Life and Times. Nhà in Đại học California. tr. 13. ISBN 0-520-06740-1.
  7. ^ Rossabi, Morris (1988). Khubilai Khan: His Life and Times. University of California Press. tr. 227–228. ISBN 0-520-06740-1.
  8. ^ Nguyên sử: Bản kỷ, quyển 4, Thế Tổ nhất
  9. ^ The Encyclopedia Britannica: A Dictionary of Arts, Sciences, Literature and General Information, trang 893
  10. ^ Mark Borthwick: Pacific Century, Nhà in Westview, 2007, ISBN 0-8133-4355-0
  11. ^ Yule & Cordier 1923, ch. 5
  12. ^ John Man: Kublai khan, trang 131
  13. ^ Rossabi M. Khubilai Khan: His Life and Times, Nhà in Đại học California, trang 76
  14. ^ Rossabi M. "Khubilai Khan: His Life and Times", Nhà in Đại học California, trang 247
  15. ^ The Branch Secretariats of the Yuan Empire
  16. ^ Jack Weatherford: The history of Money, trang 127
  17. ^ a ă â b c d đ e Kỷ Nhà Trần: Nhân Tông hoàng đế
Hốt Tất Liệt
Nhà Borjigin (1206–1402)
Sinh: 1215 Mất: 1294
Hiệu
Tiền vị:
Mông Kha
Khả Hãn của Đế quốc Mông Cổ
1260–1294
Kế vị
Hoàn Trạch Đốc Hãn
(danh nghĩa)
Tiền vị:
Không
(sáng lập triều đại)
Hoàng đế nhà Nguyên
1271-1294
Kế vị
Nguyên Thành Tông
Tiền vị:
Tống Đế Bính
Hoàng đế Trung Hoa
1279-1294
Sửa Khả Hãn của Đế quốc Mông Cổ
Thành Cát Tư Hãn (1206-1227) | Đà Lôi (nhiếp chính) (1227-1229) | Oa Khoát Đài (1229-1241) | Nãi Mã Chân (nhiếp chính) (1241-1245) | Quý Do (1246-1248) | Hải Mê Thất (nhiếp chính) (1248-1251)| Mông Kha (1251-1259) | Hốt Tất Liệt (1260-1294)

No comments:

Post a Comment