CNM365 Chào ngày mới 5 tháng 5 Wikipedia Ngày này năm xưa. Bắt đầu Lập hạ (13:59 UTC, 2014, hình hoa sen nở mủa hè), ngày Thiếu nhi tại Nhật Bản và Hàn Quốc, ngày châu Âu, ngày người Ấn Độ đến tại Guyana. Năm 1260 – Dưới sự ủng hộ của một bộ phận tông vương và đại thần, Hốt Tất Liệt tự lập làm hoàng đế của Đế quốc Mông Cổ. Năm 1949 – Hiệp ước London thành lập Ủy hội châu Âu, thể chế đầu tiên hoạt động nhằm nhất thể hóa châu Âu. Năm 1950 – Bhumibol Adulyadej đăng cơ quốc vương Thái Lan tại vương cung ở Bangkok. Năm 1955 – Hiệp định Paris về chấm dứt chiếm đóng có hiệu lực, Cộng hòa Liên bang Đức, tức Tây Đức, giành được chủ quyền hoàn toàn.
Lập hạ
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Hai mươi tư tiết khí | ||
Kinh độ | Tiết khí | Dương lịch |
---|---|---|
Xuân | ||
315° | Lập xuân | 4 - 5/2 |
330° | Vũ thủy | 18 - 19/2 |
345° | Kinh trập | 5 - 6/3 |
0° | Xuân phân | 20 - 21/3 |
15° | Thanh minh | 4 - 5/4 |
30° | Cốc vũ | 20 - 21/4 |
Hạ | ||
45° | Lập hạ | 5 - 6/5 |
60° | Tiểu mãn | 21 - 22/5 |
75° | Mang chủng | 5 - 6/6 |
90° | Hạ chí | 21 - 22/6 |
105° | Tiểu thử | 7 - 8/7 |
120° | Đại thử | 22 - 23/7 |
Thu | ||
135° | Lập thu | 7 - 8/8 |
150° | Xử thử | 23 - 24/8 |
165° | Bạch lộ | 7 - 8/9 |
180° | Thu phân | 23 - 24/9 |
195° | Hàn lộ | 8 - 9/10 |
210° | Sương giáng | 23 - 24/10 |
Đông | ||
225° | Lập đông | 7 - 8/11 |
240° | Tiểu tuyết | 22 - 23/11 |
255° | Đại tuyết | 7 - 8/12 |
270° | Đông chí | 21 - 22/12 |
285° | Tiểu hàn | 5 - 6/1 |
300° | Đại hàn | 20 - 21/1 |
Lập hạ (tiếng Hán: 立夏) là một trong 24 tiết khí của của các lịch Trung Quốc, Việt Nam, Nhật Bản, Triều Tiên. Nó thường bắt đầu vào khoảng ngày 5 hay 6 tháng 5 dương lịch, khi Mặt Trời ở xích kinh 45° (kinh độ Mặt Trời bằng 45°). Đây là một khái niệm trong công tác lập lịch của các nước Đông Á chịu ảnh hưởng của nền văn hóa Trung Quốc cổ đại. Ý nghĩa của tiết khí này, đối với vùng Trung Hoa cổ đại, là Bắt đầu mùa hè.
Theo quy ước, tiết lập hạ là khoảng thời gian bắt đầu từ khoảng ngày 5 hay 6 tháng 5 khi kết thúc tiết cốc vũ và kết thúc vào khoảng ngày 21 hay 22 tháng 5 trong lịch Gregory theo các múi giờ Đông Á khi tiết tiểu mãn bắt đầu.
Lịch Trung Quốc, cũng như lịch ở các nước Đông Á cổ đại bao gồm Việt Nam, bị nhiều người lầm là âm lịch thuần túy, dẫn đến ngộ nhận về việc tiết khí nói chung và lập hạ nói riêng được tính theo chu kỳ của Mặt Trăng quay xung quanh Trái Đất. Trên thực tế lịch Trung Quốc cổ đại là một loại âm dương lịch, trong đó tiết khí, từ thời Hán Vũ Đế, đã được tính theo vị trí của Trái Đất trong chu kỳ chuyển động trên quỹ đạo xung quanh Mặt Trời. Theo cách tính hiện đại, với điểm xuân phân là gốc có kinh độ Mặt Trời bằng 0°, thì thời điểm diễn ra tiết lập hạ ứng với kinh độ Mặt Trời bằng 45°. Ngày diễn ra hay bắt đầu tiết lập hạ do vậy được tính theo cách tính của dương lịch hiện đại và nó thông thường rơi vào ngày 5 hay 6 tháng 5 dương lịch tùy theo từng năm. Tiết khí đứng ngay trước lập hạ là cốc vũ và tiết khí kế tiếp sau là tiểu mãn.
Xem thêm
Hốt Tất Liệt
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nguyên Thế Tổ Tiết Thiện Hãn (元世祖 薛禪汗) |
|
---|---|
Hoàng đế nhà Nguyên, Hoàng đế Trung Hoa, Khả Hãn Mông Cổ (chi tiết...) | |
Hoàng đế nhà Nguyên, Hoàng đế Trung Hoa | |
Tại vị | 18/12[1]/1271 - 18/2/1294 |
Tiền nhiệm | Sáng lập triều đại |
Kế nhiệm | Nguyên Thành Tông |
Khả Hãn Mông Cổ | |
Tại vị | 5/5/1260 - 18/2/1294 |
Tiền nhiệm | Mông Kha hãn |
Kế nhiệm | Hoàng Trạch Đốc hãn |
Thông tin chung | |
Thê thiếp | Chabi Tegulen Nambui |
Tên đầy đủ | Hốt Tất Liệt (Khubilai, Хубилай, 忽必烈) |
Niên hiệu | Trung Thống (中統) 1260 - 1264 Chí Nguyên (至元) 1264 - 1294 |
Thụy hiệu | Thánh đức Thần công Văn vũ Hoàng đế(聖德神公炆武皇帝) Tiết Thiện Hãn (Setsen Hãn, ᠰᠡᠴᠡᠨ ᠬᠠᠭᠠᠨ, Сэцэн хаан) |
Miếu hiệu | Thế Tổ (世祖) |
Hoàng tộc | Dòng họ Borjigin (Боржигин), Bột Nhi Chỉ Cân (孛兒只斤)[2], Bác Nhĩ Tề Cát Đặc (博爾濟吉特)[3] của thị tộc (yasun)[4] Khiyad (Хиад) hay Kì Ác Ôn (奇渥溫)[5] hoặc Khất Nhan (乞顏) |
Thân phụ | Đà Lôi |
Thân mẫu | Sorghaghtani Beki |
Sinh | 23/9/1215 |
Mất | 18/2/1294 Đại Đô (Khanbalic) |
Năm 1260, Hốt Tất Liệt đã trở thành đại hãn của đế quốc Mông Cổ sau khi anh trai ông là đại hãn Mông Kha chết năm trước đó, mặc dù em trai ông là A Lý Bất Ca (Ariq Böke) cũng tự xưng là đại hãn tại kinh đô của đế quốc Mông Cổ vào thời điểm đó là Karakorum. Cuối cùng ông đã giành thắng lợi trước A Lý Bất Ca vào năm 1264, và mặc dù cuộc tranh giành quyền kế vị đã đánh dấu sự kết thúc của sự thống nhất chính trị trong nội bộ đế quốc Mông Cổ, nhưng đế quốc này về tổng thể vẫn là thống nhất và hùng mạnh[9]. Ảnh hưởng của Hốt Tất Liệt vẫn còn mạnh tại hãn quốc Y Nhi và Kim Trướng hãn quốc, các phần phía tây của đế quốc Mông Cổ[10].
Năm 1271, Hốt Tất Liệt thành lập nhà Nguyên, vào thời gian đó kiểm soát các khu vực ngày nay thuộc Mông Cổ, Hoa Bắc, phần lớn miền tây Trung Quốc và các khu vực cận kề, và ông có địa vị của một Hoàng đế Trung Hoa. Năm 1279, quân đội nhà Nguyên cuối cùng đã đánh bại Nam Tống và như thế Hốt Tất Liệt đã trở thành hoàng đế Trung Hoa một cách đầy đủ. Miếu hiệu của ông là Nguyên Thế Tổ (tiếng Trung: 元世祖).
Dưới sự lãnh đạo của ông, đế quốc Mông Cổ đã đạt đỉnh điểm của sự hưng thịnh. Ông đã dời đô từ Hoa Lâm về Đại Đô tức Bắc Kinh ngày nay. Vào năm 1271 ông đã lập triều đại của người Mông Cổ mang tên nhà Nguyên. Năm 1279 quân đội của ông tiêu diệt nhà Nam Tống (1127-1279), thống nhất Trung Quốc.
Tất cả các vương quốc nằm cận kề với đế quốc Mông Cổ đều trở thành các nước chư hầu lệ thuộc. Hốt Tất Liệt còn có ước mộng thôn tính cả Nhật Bản, Đại Việt, Bagan và Java nhưng không thành. Mặc dù rằng Hốt Tất Liệt theo đạo Phật nhưng ông lại cũng để ý đến sự phát triển của đạo Kitô trên thế giới và đã mời các sứ giả truyền đạo này vào Trung Quốc. Ông cũng chú trọng đến việc phát triển các nghề thủ công, khoa học và nghệ thuật. Một trong những người ngoại quốc đã đến thăm triều đình này là Marco Polo.
Mục lục
Thời kỳ đầu
Yếu tố có ảnh hưởng đáng kể và rõ nét nhất tới cuộc sống của Hốt Tất Liệt trong thời kỳ trẻ tuổi của ông là sự nghiên cứu và ưa thích nền văn hóa Trung Hoa đương thời. Năm 1251, anh trai ông là Mông Kha, một người theo Hồi giáo, trở thành Đại hãn của đế quốc Mông Cổ và Hốt Tất Liệt được giao quản lý các lãnh thổ phía nam của đế quốc. Trong những năm cai quản này, ông quản lý tốt vùng lãnh thổ đó, làm tăng sản lượng lương thực tại tỉnh Hà Nam và gia tăng các chi phí cho phúc lợi xã hội sau khi nhận thêm Tây An. Những hành động này nhận được sự ủng hộ lớn từ các lãnh chúa Trung Hoa và nó chính là nền tảng cơ bản cho việc xây dựng nhà Nguyên sau này.[11]Năm 1253, Hốt Tất Liệt được lệnh tấn công Vân Nam và ông đã tiêu diệt Vương quốc Đại Lý. Năm 1258, Mông Kha giao cho Hốt Tất Liệt làm chỉ huy cánh quân miền đông và yêu cầu ông hỗ trợ các cuộc tấn công vào Tứ Xuyên và một lần nữa vào Vân Nam. Trước khi Hốt Tất Liệt có thể tới đây vào năm 1259 thì ông nhận được tin là Mông Kha đã chết. Ông tiếp tục tấn công Vũ Hán, nhưng ngay sau khi nhận được tin rằng em trai ông là A Lý Bất Ca đã tổ chức một kurultai tại kinh đô của đế quốc ở Karakorum và lên làm đại hãn. Phần lớn các hậu duệ của Thành Cát Tư Hãn đều chọn A Lý Bất Ca làm đại hãn; tuy nhiên, hai người anh ruột của ông này là Hốt Tất Liệt và Húc Liệt Ngột (Hulegu) lại phản đối.
Hốt Tất Liệt nhanh chóng đạt được thỏa thuận đình chiến với quân đội Nam Tống và quay trở về vùng bình nguyên Mông Cổ ở phương bắc nhằm chống lại tuyên bố của A Lý Bất Ca về chức vụ đại hãn.
Sau khi trở về vùng lãnh thổ của mình, Hốt Tất Liệt triệu tập kurultai của chính mình. Chỉ một lượng nhỏ các thành viên hoàng tộc ủng hộ tuyên bố của Hốt Tất Liệt về quyền thừa kế chức vụ và họ vẫn công bố ông là đại hãn, cho dù đã có tuyên bố dường như là hợp pháp của em trai ông (A Lý Bất Ca).
Điều này sau đó dẫn tới nội chiến giữa hai anh em, dẫn tới sự phá hủy hoàn toàn kinh đô của đế quốc tại Karakorum. Hốt Tất Liệt chỉ giành được thắng lợi sau 4 năm, vào năm 1264. Tuy nhiên, sự kiện này cuối cùng đã đánh dấu sự kết thúc của đế quốc Mông Cổ thống nhất. Các hãn quốc miền tây trở thành độc lập trên thực tế (de facto) và hãn Hải Đô của hãn quốc Sát Hợp Đài (Chagatai), người cai trị phần lớn khu vực Tân Cương và Trung Á ngày nay, còn tiếp tục chống đối ông cho tới tận khi ông này mất vào năm 1301.
Trong thời kỳ nội chiến với A Lý Bất Ca, người quản lý Ích Châu là Li Tan đã nổi dậy chống lại sự cai trị của người Mông Cổ vào tháng 2 năm 1262. Hốt Tất Liệt đã ra lệnh cho Shi Tianze và Shi Shu dẹp loạn Li Tan. Hai đội quân này đánh bại cuộc nổi dậy của Li Tan sau vài tháng và Li Tan bị tử hình. Tử hình cũng là kết cục của Wang Wentong, cha vợ của Li Tan, người từng được chỉ định làm bình chương chính sự (tiếng Trung: 平章政事) của trung thư tỉnh (tiếng Trung: 中書省) trong giai đoạn đầu thời kỳ trị vì của Hốt Tất Liệt và là một trong số các quan lại người Hán được tin cậy nhất của ông. Sự kiện này đã làm ông mất niềm tin vào người Hán. Sau khi trở thành hoàng đế, ông cấm chỉ việc giao các chức vụ quan trọng cho các lãnh chúa gốc Hán.
Hoàng đế nhà Nguyên
Hốt Tất Liệt chấp nhận các mô hình chính trị và văn hóa Trung Hoa, cố gắng giảm thiểu ảnh hưởng của các lãnh chúa địa phương, những người đã nổi lên nắm quyền lực trong thời kỳ cuối của nhà Tống. Tuy nhiên, do mất niềm tin vào người Hán nên ông đã chỉ định người Mông Cổ, người Trung Á, người Hồi giáo và một ít người châu Âu vào các vị trí cao hơn người Hán. Hốt Tất Liệt bắt đầu nghi ngờ người Hán khi con rể của một vị bình chương chính sự người Hán lại nổi dậy chống lại ông trong khi ông đang phải quyết đấu với A Lý Bất Ca tại Mông Cổ[12] cho dù ông vẫn tiếp tục mời và sử dụng một số cố vấn người Hán như Lưu Bỉnh Trung, Hứa Hành và Diêu Xu.Năm Chí Nguyên thứ 8 (1271), Hốt Tất Liệt chính thức tuyên bố lập ra nhà Nguyên và đặt kinh đô tại Đại Đô (tiếng Trung: 大都; Wade-Giles: Ta-tu, nghĩa là "kinh đô lớn", ngày nay là Bắc Kinh) hay còn gọi là Hãn Bát Lý (Khanbaliq) vào năm sau đó. Kinh đô mùa hè của ông đặt tại Thượng Đô (tiếng Trung: 上都, nghĩa là "kinh đô trên", hay Xanadu, gần với Đa Luân (多伦) ngày nay). Để thống nhất Trung Quốc[13], Hốt Tất Liệt bắt đầu một chiến dịch rộng lớn chống lại những lực lượng còn sót lại của Nam Tống vào năm Chí Nguyên thứ 11 (1274) và cuối cùng tiêu diệt Nam Tống vào năm Chí Nguyên thứ 16 (1279), thống nhất toàn bộ Trung Hoa.
Nội Trung Hoa và Mông Cổ[14][15] được chia thành 10 hành trung thư tỉnh (行中書省) hay hành tỉnh (行省) trong thời kỳ trị vì của ông với 1 hành thượng thư tỉnh và 1 hành thị lang tỉnh đứng đầu. Bên cạnh 10 hành tỉnh là khu vực trung tâm (tiếng Trung: 腹裏 = Phúc Lý), bao gồm phần lớn Hoa Bắc ngày nay, được coi là khu vực quan trọng nhất của nhà Nguyên và do trung thư tỉnh tại Đại Đô trực tiếp quản lý. Ngoài ra, Tây Tạng cũng do một cơ quan cấp cao khác là Tuyên chính viện (tiếng Trung: 宣政院) quản lý trực tiếp.
Ông quản lý điều hành công việc triều chính khá tốt, khuyến khích phát triển kinh tế với việc cho xây dựng lại Đại Vận Hà, sửa chữa các tòa nhà công và mở rộng đường đi lối lại. Tuy nhiên, chính sách đối nội của Hốt Tất Liệt cũng bao gồm một số khía cạnh của các truyền thống Mông Cổ cũ, và trong khi Hốt Tất Liệt tiếp tục công việc trị vì của mình thì những truyền thống này va chạm ngày càng thường xuyên hơn với kinh tế và văn hóa xã hội Trung Hoa truyền thống.
Năm 1273, ông cho phát hành một loạt mới các giấy bạc được nhà nước bảo đảm, được sử dụng trong khắp đất nước, mặc dù cuối cùng do thiếu các kỹ năng, kỷ luật tài chính và lạm phát đã làm cho bước đi này trở thành thảm họa kinh tế đối với triều đại này trong những năm sau đó. Việc thanh toán được thực hiện bằng tiền giấy gọi là sáo. Để đảm bảo việc sử dụng nó, chính quyền Hốt Tất Liệt đã sung công vàng, bạc từ các cá nhân cũng như từ thương nhân ngoại quốc. Thay vì thế, các thương nhân được nhận giấy bạc do nhà nước ban hành theo tỷ lệ quy đổi. Điều này giải thích tại sao Hốt Tất Liệt được coi là người đầu tiên tạo ra tiền pháp định. Giấy bạc làm cho việc thu thuế và quản lý một đế quốc rộng lớn trở nên dễ dàng hơn trong khi làm giảm chi phí vận chuyển tiền kim loại[16]. Sau này Gaykhatu (Hải Hợp Đô) của hãn quốc Y Nhi cũng có ý định áp dụng hệ thống này tại Ba Tư và Trung Đông, nhưng đã hoàn toàn thất bại và ông này bị ám sát ngay sau đó.
Ông cũng cho phát triển các bộ môn nghệ thuật châu Á và chấp nhận những khác biệt về tôn giáo, ngoại trừ khi đề cập tới Đạo giáo. Một số người châu Âu đã từng đặt chân tới đây, đáng chú ý trong số này có Marco Polo trong thập niên 1270, người có thể đã từng nhìn thấy kinh đô mùa hè tại Thượng Đô.
Đối ngoại
Hốt Tất Liệt buộc Cao Ly (Triều Tiên) phải trở thành chư hầu vào năm 1260. Nhà Nguyên giúp Nguyên Tông (원종) của Cao Ly bình ổn sự kiểm soát của ông này tại Triều Tiên vào năm 1271. Hốt Tất Liệt cũng có ý định thiết lập mối quan hệ triều cống với các quốc gia khác, nhưng bị cự tuyệt. Dưới áp lực từ các cố vấn người Mông Cổ, Hốt Tất Liệt quyết định xâm lăng Nhật Bản, Myanma, Đại Việt và Java. Những cố gắng thất bại và tốn kém này, cùng với sự lưu thông tiền giấy đã gây ra lạm phát. Tuy nhiên, ông cũng đã buộc các lãnh chúa từ tây bắc và đông bắc phải đầu hàng, đảm bảo sự ổn định tại các khu vực này.Xâm lược Nhật Bản
Tiến sĩ Kenzo Hayashida, một nhà khảo cổ học biển, người đứng đầu nhóm điều tra đã phát hiện ra các mảnh vỡ của hạm đội xâm chiếm lần thứ hai ngoài khơi miền tây Dokdo. Các vật tìm thấy của nhóm này chỉ ra rằng Hốt Tất Liệt rất vội xâm chiếm Nhật Bản cà cố gắng xây dựng hạm đội hùng mạnh chỉ trong vòng 1 năm (một công việc mà đúng ra phải mất ít nhất 5 năm). Điều này buộc nhà Nguyên phải sử dụng mọi loại thuyền có thể, từ những thuyền nhỏ chuyên chạy trên sông, nhằm đạt được sự sẵn sàng sớm hơn. Quan trọng nhất, người Trung Quốc, khi đó dưới sự thống trị của Hốt Tất Liệt, buộc phải dựng ra nhiều tàu thuyền nhanh hơn nhằm đảm bảo góp đủ cơ số tàu thuyền cho cả hai lần xâm chiếm. Hayashida giả đinh rằng, nếu Hốt Tất Liệt sử dụng các tàu thuyền đi biển tiêu chuẩn, được chế tạo tốt, với sống thuyền cong để ngăn cản sự lật úp thì thủy quân của ông có thể đã vượt qua được cuộc hành trình dài này tới Nhật Bản và có thể đã có khả năng chiếm được đất nước này.
David Nicolle viết trong The Mongol Warlords rằng "Những mất mát lớn cũng phải gánh chịu khi nói về số thương vong và chi phí vô ích, trong khi huyền thoại về sự bất khả chiến bại của người Mông Cổ đã bị tiêu tan trong khu vực Đông Á". Ông cũng viết rằng Hốt Tất Liệt đã có ý định xâm chiếm lần thứ ba vào Nhật Bản, cho dù phải trả một giá đắt khủng khiếp cho nền kinh tế cũng như cho tiếng tăm của ông và của đội quân Mông Cổ thiện chiến trong 2 lần xâm lược đầu tiên và chỉ có cái chết của ông cùng sự nhất trí của các cố vấn về việc không xâm chiếm nữa mới ngăn được ý định lần thứ ba này.
Năm 1293, thủy quân nhà Nguyên bắt được 100 người Nhật từ Okinawa.
Xâm lược Đại Việt
Lần xâm chiếm thứ hai vào Đại Việt của quân đội nhà Nguyên diễn ra vào cuối năm 1287[17] và được tổ chức tốt hơn so với lần trước, với việc đưa vào lực lượng thủy quân lớn hơn và nhiều lương thực thực phẩm hơn. Quân đội Mông Cổ, dưới sự chỉ huy của Thoát Hoan, tiến tới Vạn Kiếp và hội quân tại đây với quân đội của Ô Mã Nhi và quân Nguyên cũng nhanh chóng giành được thắng lợi ban đầu rồi xuôi dòng về phía đông. Thủy quân của nhà Nguyên nhanh chóng giành được thắng lợi tại Vân Đồn (thuộc tỉnh Quảng Ninh ngày nay) nhưng thuyền chở lương thực, thực phẩm nặng nề đi sau lại bị tướng Trần Khánh Dư đánh tan[17]. Kết quả là quân Mông Cổ tại Thăng Long bị thiếu lương thực, thực phẩm trầm trọng. Không có lương thực, thực phẩm tiếp tế, Thoát Hoan buộc phải rút quân khỏi Thăng Long về Vạn Kiếp. Các nhóm bộ binh của nhà Trần được lệnh tấn công quân đội Mông Cổ tại Vạn Kiếp.
Đầu tháng 3 âm lịch năm 1288 thủy quân của Ô Mã Nhi tiến tới sông Bạch Đằng để đón thuyền lương do Trương Văn Hổ chỉ huy[17]. Một đội thủy quân nhỏ của Đại Việt ra khiêu chiến và nhanh chóng rút lui để nhử thủy quân nhà Nguyên vào bãi cọc nhọn. Quân Nguyên trúng kế và rơi vào trận địa mai phục sẵn của Đại Việt. Hàng nghìn thuyền nhẹ của Đại Việt từ hai bên bờ nhanh chóng xuất hiện, tấn công dữ dội và đánh tan sức kháng cự từ quân Nguyên. Quân đội Mông Cổ cố gắng rút lui ra biển trong sự hoảng loạn. Bị va phải cọc, thuyền của họ bị vỡ hay mắc kẹt, nhiều thuyền bị chìm. Quân Nguyên phải nhảy xuống sông để bơi vào bờ, bị chết đuối rất nhiều. Các tướng như Áo Lỗ Xích, Ô Mã Nhi, Tích Lệ Cơ Ngọc, Sầm Đoàn, Phàn Tiếp v.v bị bắt sống. Cùng thời gian đó, quân đội Đại Việt liên tục tấn công và đánh tan đội quân của Thoát Hoan trên đường rút chạy qua Lạng Sơn. Cố gắng lần hai của Hốt Tất Liệt trong việc xâm chiếm Đại Việt cũng tan thành mây khói.
Mặc dù các thất bại này đã kết thúc giấc mơ của Hốt Tất Liệt trong việc mở rộng lãnh thổ về phía nam, đặc biệt nhằm để kiểm soát con đường gia vị. Tuy nhiên trong giai đoạn 1288-1293, các quốc gia như Đại Việt, Chiêm Thành và Sukhothai đều lần lượt công nhận uy quyền tối cao của Hốt Tất Liệt để tránh xảy ra chiến tranh thêm nữa.
Cuối đời
Hốt Tất Liệt ban đầu có ý định đưa con trai thứ hai là Chân Kim (真金) làm người kế vị ông. Chân Kim đã trở thành người đứng đầu của trung thư tỉnh và tích cực điều hành công việc triều chính theo kiểu Nho giáo. Thật không may, Chân Kim chết năm 1285, 9 năm trước khi Hốt Tất Liệt qua đời. Mặt khác, Hốt Tất Liệt cũng bị bệnh gút nặng trong những năm cuối đời. Ông tăng cân nhanh vì ưa thích ăn các món đặc sản nguồn gốc động vật. Điều này làm gia tăng nhanh lượng purin trong máu của ông, dẫn tới việc làm trầm trọng thêm các vấn đề với bệnh gút và cuối cùng dẫn tới cái chết năm 1294. Việc ăn quá nhiều của ông có thể có liên quan tới cái chết của bà vợ yêu quý nhất của ông cũng như của người ông đã chọn làm người kế vị là Chân Kim. Trước khi chết năm 1294, Hốt Tất Liệt đã chọn con trai của Chân Kim là Thiết Mộc Nhĩ làm thái tử và ông này đã trở thành vị hoàng đế thứ hai của nhà Nguyên, tức là Nguyên Thành Tông.Tiểu thuyết hoá
Hốt Tất Liệt được tiểu thuyết hoá trở thành một nhân vật trong truyện Thần Điêu Hiệp Lữ của Kim Dung. Trong truyện này ông là người đứng ra chiêu nạp đám cao thủ võ lâm Kim Luân Pháp Vương, Tiêu Tương Tử, Doãn Khắc Tây,Sóng Gió Nguyên Triều v.v. âm mưu tiêu diệt các cao thủ Đại Tống.Tham khảo
- Morgan David. The Mongols (Blackwell Publishers; Tái bản, tháng 4 năm 1990), ISBN 0-631-17563-6.
- Rossabi Morris. Khubilai Khan: His Life and Times (Nhà in Đại học California (1-5-1990)) ISBN 0-520-06740-1.
- Saunders J. J. The History of the Mongol Conquests (Nhà in Đại học Pennsylvania (1-3-2001)) ISBN 0-8122-1766-7.
- Man John. "Kublai Khan"
- Man John. "Genghis Khan"
Liên kết ngoài
- Lạm phát dưới thời Hốt Tất Liệt
- Relics of the Kamikaze (Viện Khảo cổ Mỹ)
Ghi chú
- ^ Thành lập nhà Nguyên vào ngày này. Tuy nhiên, chưa thể kiểm soát miền nam Trung Quốc cho tới tận tháng 2 năm 1276, khi hoàng đế Nam Tống bị bắt. Những cuộc kháng cự cuối cùng ở đây còn kéo dài tới năm 1279.
- ^ Kiểu phiên âm này phổ biến ngày nay
- ^ Kiểu phiên âm này phổ biến thời nhà Thanh.
- ^ Trường phái Cambridge cho rằng Khiyad là thị tộc nằm trong họ Borjigin, nhưng các học giả khác cho rằng Borjigin là dòng dõi con trong thị tộc Khiyad lớn hơn, trong khi một số tác giả khác lại cho rằng Khiyad và Borjigin có thể dùng như nhau.
- ^ Phiên bản phiên âm này của tiếng Trung xuất hiện trong lịch sử Trung Quốc thời nhà Nguyên.
- ^ Rossabi, Morris (1988). Khubilai Khan: His Life and Times. Nhà in Đại học California. tr. 13. ISBN 0-520-06740-1.
- ^ Rossabi, Morris (1988). Khubilai Khan: His Life and Times. University of California Press. tr. 227–228. ISBN 0-520-06740-1.
- ^ Nguyên sử: Bản kỷ, quyển 4, Thế Tổ nhất
- ^ The Encyclopedia Britannica: A Dictionary of Arts, Sciences, Literature and General Information, trang 893
- ^ Mark Borthwick: Pacific Century, Nhà in Westview, 2007, ISBN 0-8133-4355-0
- ^ Yule & Cordier 1923, ch. 5
- ^ John Man: Kublai khan, trang 131
- ^ Rossabi M. Khubilai Khan: His Life and Times, Nhà in Đại học California, trang 76
- ^ Rossabi M. "Khubilai Khan: His Life and Times", Nhà in Đại học California, trang 247
- ^ The Branch Secretariats of the Yuan Empire
- ^ Jack Weatherford: The history of Money, trang 127
- ^ a ă â b c d đ e Kỷ Nhà Trần: Nhân Tông hoàng đế
Hốt Tất Liệt
Nhà Borjigin (1206–1402)
Sinh: 1215 Mất: 1294 |
||
Hiệu | ||
---|---|---|
Tiền vị: Mông Kha |
Khả Hãn của Đế quốc Mông Cổ 1260–1294 |
Kế vị Hoàn Trạch Đốc Hãn (danh nghĩa) |
Tiền vị: Không (sáng lập triều đại) |
Hoàng đế nhà Nguyên 1271-1294 |
Kế vị Nguyên Thành Tông |
Tiền vị: Tống Đế Bính |
Hoàng đế Trung Hoa 1279-1294 |
Sửa | Khả Hãn của Đế quốc Mông Cổ | |
---|---|---|
Thành Cát Tư Hãn (1206-1227) | Đà Lôi (nhiếp chính) (1227-1229) | Oa Khoát Đài (1229-1241) | Nãi Mã Chân (nhiếp chính) (1241-1245) | Quý Do (1246-1248) | Hải Mê Thất (nhiếp chính) (1248-1251)| Mông Kha (1251-1259) | Hốt Tất Liệt (1260-1294) |
|
Thể loại:
Bhumibol Adulyadej hoặc Phumiphon Adunyadet (Thái Lan), phiên âm tiếng Việt là Phu-mi-phôn A-đun-da-đệt, chính thức được gọi là “Đại đế” (tiếng Thái:ภูมิพลอดุลยเดช; IPA: pʰu:mipʰon adunjadeːd; ) (sinh ngày 5 tháng 12 năm 1927), còn được gọi là Vua Rama IX, là vua Thái Lan đăng cơ ngày 9 tháng 6 năm 1946. Bhumibol Aduladej được xem là một trong số những vị quân vương trị vì lâu nhất thế giới. Mặc dù Thái Lan
theo thể chế quân chủ đại nghị, vị quốc vương này đã vài lần can thiệp
vào chính trường, gần đây nhất là trong cuộc khủng hoảng chính trị năm 2005 – 2006. Bhumibol Adulyadej được coi là có công lớn trong nỗ lực kiến tạo tiến trình chuyển đổi dân chủ ở Thái Lan trong thập niên 1990,
mặc dù trong giai đoạn đầu của vương triều, ông đã ủng hộ các chính phủ
quân sự. Ông sử dụng tài sản to lớn của mình để cung cấp tài chính cho
nhiều đề án phát triển, đặc biệt là ở nông thôn. ông được người dân Thái
Lan hết sức yêu kính. Đối với nhiều người dân Thái, nhà vua được sùng
bái gần như một thần linh. Những người chỉ trích (hầu hết bên ngoài Thái
Lan) xem điều này là hệ quả của chính sách đàn áp bất kỳ sự chỉ trích
nào nhắm vào hoàng gia.
Bhumibol được đem về Thái Lan năm 1928, sau khi Hoàng tử Mahidol tốt nghiệp ngành Y tại Đại học Harvard. Sau khi hoàn tất chương trình tiểu học tại trường Mater Dei ở Bangkok, năm 1933, cậu đến Thụy Sĩ để theo học tại École Nouvelle de la Suisse romande, ở Chailly-sur-Lausanne, tốt nghiệp với văn bằng baccalauréat de lettres (Tú tài văn chương Pháp, tiếng Latin và tiếng Hi Lạp). Bhumibol theo học tại Đại học Lausanne khi anh của cậu, Phra Ong Chao Ananda Mahidol, lên ngai ở Thái Lan. Năm 1935, Nhà vua sắc phong em trai và em gái mình trở thành Chao Fa (cấp cao nhất trong vòng các hoàng tử và công chúa). Họ trở về Thái Lan trong năm 1938, nhưng rồi trở lại Thụy Sĩ để tiếp tục học tập cho đến năm 1945.
Vì chưa hoàn tất chương trình học, Nhà vua và bà mẹ quyết định Bhumibol phải trở lại Thuỵ Sĩ. Suốt trong thời gian này, chú của cậu, Rangsit Hoàng tử xứ Chainat, được chỉ định làm Nhiếp chính vương. Đến Thuỵ Sĩ, Bhumibol chuyển sang nghiên cứu Luật và Khoa học Chính trị, những môn học hữu ích cho cậu sau khi nhận lãnh ngai báu. Trong khi sống ở Thuỵ Sĩ, Bhumibol thường xuyên đến Paris, ở đó cậu gặp người em họ xa, Mom Rajawongse Sirkit Kitiakara, con gái của đại sứ Thái tại Pháp. Cậu trở nên khách quen trong ngôi nhà của ông đại sứ. Khi Bhumibol bị mất một mắt trong một tai nạn xe hơi ở Lausanne, Mom Rajawongse Sirkit lại trở thành khách quen của cậu. Cô gái đến gặp mẹ của Bhumibol và được yêu cầu đến học tại Lausanne khi nhà vua tỏ ra quan tâm đến cô và muốn biết nhiều hơn về cô. Bhumibol chọn cho cô Riante Rive, một trường nội trú ở Lausanne. Rồi một lễ đính hôn tổ chức đơn giản ở Lausanne ngày 19 tháng 7 năm 1949. Họ kết hôn ngày 28 tháng 4 năm 1950, chỉ vài tuần trước lễ đăng cơ.
Nhà vua và hoàng hậu Sirikit có bốn người con:
Trong cùng ngày, nhà vua sắc phong Hoàng hậu (Somdej Phra Boromarajini). Mỗi năm lễ đăng quang của nhà vua vào ngày 5 tháng 5 là quốc lễ.
Sau khi hoàng thái hậu Savang Vadhana (สว่างวัฒนา, Sawang Watthana Phra Phanvasa Areekajao) từ trần, nhà vua sống tu trì trong 15 ngày (22 tháng 10 – 5 tháng 11 năm 1956) theo tục lệ. Trong thời gian này, Sirikit được chỉ định làm nhiếp chính. Về sau bà được sắc phong Hoàng hậu Nhiếp chính (Somdej Phra Boromarajininat).
Tháng 10 năm 1973, sau những cuộc biểu tình đông đảo và sau cái chết của nhiều người biểu tình ủng hộ dân chủ dưới sự lãnh đạo của sinh viên, Bhumibol lần đầu tiên khẳng định vai trò của ông trên chính trường Thái Lan bằng cách công khai bày tỏ lập trường ủng hộ những nỗ lực chấm dứt chế độ quân sự của Thanom, ra lệnh mở cửa Cung điện Chitralada đón tiếp các sinh viên đang bị săn đuổi, và tiếp xúc với những thủ lĩnh của phong trào sinh viên đấu tranh. Sau đó, nhà vua bổ nhiệm Viện trưởng Đại học Thammasat, Sanya Dharmasakti, vào chức vụ thủ tướng. Kế tiếp là một chuỗi các chính phủ dân sự lãnh đạo đất nước cho đến năm 1976, Thanom trở về nước sau một thời gian tự ý sống lưu vong, kích hoạt những xung đột mới. Những cuộc phản kháng chống nhà cựu độc tài bắt đầu leo thang, lên đến cao điểm khi hai tờ nhật báo cho đăng tải những hình ảnh giả mạo miêu tả sinh viên Đại học Thammasat treo cổ hình nộm thái tử Vajiralongkorn. Nhiều người dân tin rằng hành động xúc phạm hoàng gia này là có thật, các lực lượng quân đội và dân quân được lệnh tấn công viện đại học, dẫn đến một cuộc thảm sát.
Những rối loạn bùng phát sau đó được sử dụng như một cái cớ để tiến hành cuộc đảo chánh quân sự dẫn đến sự bổ nhiệm Tanin Kraivixien vào chức vụ thủ tướng. Ông này lại bị thay thế bởi Tướng Kriangsak Chomanan trong một cuộc đảo chính quân sự khác trong tháng 10 năm 1977. Năm 1980, Kriangsak được kế nhiệm bởi Tổng Tư lệnh Quân lực, Tướng Prem Tinsulanond, một người ủng hộ nhà vua. Tháng 4 năm 1981, một nhóm sĩ quan quân đội âm mưu đảo chánh, nhưng kế hoạch của họ bị sụp đổ mau chóng khi Prem lẩn tránh đến Khorat, sau đó hoàng gia cũng đến lánh nạn ở Khorat. Hoàng hậu, qua sóng phát thanh, công khai ủng hộ chính phủ Prem. Do lập trường của hoàng gia, nhiều đơn vị quân đội trung thành với quốc vương quay trở lại chiếm giữ thủ đô.
Quốc vương cho đòi Suchinda và nhà lãnh đạo phong trào ủng hộ dân chủ, Thiếu tướng Chamlong Srimuang, đến gặp ông trong một buổi hội kiến được truyền hình. Ngay lúc cao điểm của cuộc khủng hoảng, hình ảnh hai nhân vật chống đối nhau cùng phủ phục trước nhà vua (theo nghi thức hoàng gia) đã gây ấn tượng mạnh mẽ trên toàn dân tộc, dẫn đến quyết định từ chức của Suchinda xảy ra không lâu sau đó. Đó là một trong vài lần hiếm hoi nhà vua can thiệp trực tiếp vào các tranh chấp chính trị. Một cuộc tổng tuyển cử được tiến hành, và từ đó nền dân chủ được phục hồi.
Trong những tuần lễ trước cuộc bầu cử quốc hội vào tháng 4 năm 2006, liên minh chống Thaksin (bao gồm Đảng Dân chủ, Liên minh Nhân dân vì Dân chủ, và Hiệp hội Luật Thái Lan) thỉnh cầu nhà vua bổ nhiệm thủ tướng và nội các thay thế nhằm giải quyết cuộc khủng hoảng, nhưng yêu cầu này vấp phải nhiều sự chống đối. Bhumibol, trong bài diễn văn đọc ngày 26 tháng 4, trả lời rằng “ Thỉnh cầu Quốc vương bổ nhiệm thủ tướng là không dân chủ. Ấy là, tôi xin lỗi, một sự lộn xộn. Đó là điều không hợp lý”.
Một ngày sau khi tuyên bố chiến thắng trong cuộc bầu cử quốc hội, Thaksin đến gặp riêng Quốc vương Bhumibol. Chỉ vài giờ sau đó, hình ảnh của Thaksin đầy nước mắt xuất hiện trên truyền hình toàn quốc tuyên bố từ chối chức vụ thủ tướng và sẽ đi nghỉ xa lánh chính trường.
Trong một bài diễn văn hiếm hoi được truyền hình đọc trước các thẩm phán cao cấp, Bhumibol yêu cầu ngành tư pháp hành động để giải quyết cuộc khủng hoảng chính trị. Ngày 8 tháng 5 năm 2006, Toà án Hiến pháp tuyên bố không công nhận kết quả cuộc bầu cử tháng 4 và ra lệnh tổ chức một vòng tuyển cử mới.
Điều này dấy lên những tranh luận về việc quyền lực của nhà vua là cao hơn hiến pháp hay không. Thượng nghị sĩ Kaewsan Atibhodi, một cựu thành viên của Uỷ ban Soạn thảo Hiến pháp, nhận xét rằng theo điều 7 của Hiến pháp năm 1997: “bất cứ điều khoản nào của hiến pháp, khi được áp dụng trong bất cứ trường hợp nào phải phù hợp với việc thực thi hiến pháp trong thể chế dân chủ với Quốc vương là Nguyên thủ Quốc gia”. Theo cách giải thích của Kaewasan, điều khoản này dành cho nhà vua quyền phủ quyết khi Thượng viện bổ nhiệm Wisut Montriwat: “Bất cứ điều gì [Quốc vương] xem là không ích lợi cho nhân dân và không công bằng, Hoàng thượng có quyền phủ quyết”.
Ảnh hưởng sâu rộng của Bhumibol trên công luận Thái được thể hiện sau vụ bạo động Phnom Penh năm 2003 ở Campuchia, khi hàng trăm người Thái, phẫn nộ do đại sứ quán Thái Lan ở Phnom Penh bị đốt, tụ tập bên ngoài đại sứ quán Campuchia tại Bangkok, giật đổ tường và tìm cách tràn vào toà nhà. Nhưng khi Tổng Giám đốc Cảnh sát Quốc gia, Sant Sarutanonda, bảo cho đám đông biết rằng ông vừa nhận được một cuộc điện đàm từ Arsa Sarasin, thư ký nhà vua, chuyển lời của nhà vua kêu gọi bình tĩnh, tình thế khó khăn đã được giảI quyết trong hoà bình.
Hoạt động trong nhiều lĩnh vực từ giới thiệu giống cây trồng đến bảo tồn nước, từ thoát nước vùng đầm lầy đến bảo vệ rừng, trong mục tiêu phát triển bền vững, Dự án Phát triển Hoàng gia được chia thành tám thể loại phụ thuộc vào khu vực kinh tế mà nó nhắm vào: nông nghiệp, môi trường, y tế, huấn nghiệp, tài nguyên nước, truyền thông, phúc lợi xã hội và những lĩnh vực khác.
Chúng có thể được phân loại như sau:
Ngoài ra, nhà vua còn là hoạ sĩ, nhiếp ảnh gia, tác giả và dịch giả. Tác phẩm Phra Mahachanok của ông dựa trên câu truyện cổ Jakata về kinh Phật. Chuyện kể về Thong Daeng là câu chuyện về con chó Khun Thong Daeng. Ông là vị vua duy nhất có bằng sáng chế năm 1993 cho một công trình xử lý nước thải tên “Chai Pattana”, và một vài bằng sáng chế khác cho qui trình tạo mưa từ năm 1955: bằng sáng chế tạo mưa “sandwich” năm 1999 và sau này là bằng sáng chế “supersandwich” năm 2004.
Ngay sau khi tạp chí Forbes công bố Quốc vương Bhumibol là nhân vật hoàng gia giàu nhất thế giới, ngày 23 tháng Tám năm 2008, Bộ Ngoại giao Thái Lan đã ra thông cáo nói rằng thông tin mà tờ tạp chí này đưa ra là không chính xác và mâu thuẫn.
Nội dung bị kiểm duyệt trên website của Nhà xuất bản Đại học Yale miêu tả cuốn sách nói về “câu chuyện bất ngờ về cuộc đời (quốc vương Bhmibol Adulyadej) và 60 năm trị vì – làm thế nào mà một cậu bé trưởng thành ở phương Tây lại được người dân sùng bái như một vị Phật sống, và làm thế nào mà một vị vua được mọi người nhìn xem là tốt lành cho đất nước và có vai trò phi chính trị, trong thực tế, lại can thiệp sâu vào chính trường, chuyên chế, và ngay cả tàn bạo …. Trái với hình ảnh được mọi người chấp nhận về một quân vương đức độ và bình đẳng, Handley miêu tả cách thuyết phục về một vương triều phản dân chủ, hợp tác với những đồng minh trong các tập đoàn kinh tế và giới quân phiệt Thái nhằm bảo vệ một triều đại phong kiến lâu đời chỉ thay đổi trong hình thức cai trị mà thôi. Tổng biên tập Nhà xuất bản Đại học Yale gọi cuốn sách là “một quyển tiểu sử dẫn giải”. Sau khi được xuất bản, tính xác thực của cuốn sách sẽ được công khai thẩm tra.
William Stevenson, người đã có cơ hội tiếp xúc với triều đình và hoàng gia, viết cuốn tiểu sử Revolution King (Ông vua cách mạng – ISBN 1-84119-451-4) trong năm 2001. Một bài viết đăng trên tạp chí Time nói rằng ý tưởng cho cuốn sách được gợi ý bởi Bhumibol. Theo một số người, cuốn sách cho thấy một sự hiểu biết thân cận về đời tư của nhà vua. Thế nhưng, cuốn sách vẫn bị cấm tại Thái Lan và Văn phòng Hoàng gia cảnh cáo các phương tiện truyền thông Thái không nên nhắc nhở đến cuốn sách, chỉ trích cuốn sách là sử dụng tư liệu không chính xác, không tôn trọng nhà vua (nhắc đến biệt danh “Lek” gọi trong nhà của Bhumibol), và đưa ra giả thuyết gây nhiều tranh cãi về cái chết của Quốc vương Ananda. “Từ ban đầu, nhà vua đã nói là cuốn sách sẽ gây nguy hiểm cho ông và cho tôi”, lời của Stevenson.
Ngày 5 tháng 12 năm 1977, Công chúa Siridhorn nhận lãnh tước hiệu "Sayam Boromrajakumari" (Công chúa nước Xiêm). Tước hiệu của công chúa thường được dịch sang Anh ngữ là “Công chúa thừa kế”, mặc dù tước hiệu chính thức của cô trong tiếng Anh chỉ đơn giản là “Công chúa”. Về sau, hiến pháp được tu chính để cho phép Hội đồng Tư vấn chọn một công chúa thừa kế ngai vàng, song điều khoản này chỉ có thể thực thi trong trường hợp không có người thừa kế. Tu chính án này vẫn được duy trì trong Phần 23 của “Hiến pháp Nhân dân” năm 1997 hiện hành. Như vậy, Công chúa Siridhorn là nhân vật thứ hai trong thứ bậc thừa kế ngai vàng.
Những bản hiến pháp gần đây đã sửa đổi Luật Kế thừa Hoàng gia, dành đặc quyền cho quốc vương. Theo Gothom Arya, cựu uỷ viên hội đồng bầu cử, điều này cho phép nhà vua chọn một hoàng tử hoặc công chúa để thừa kế ngai vàng.
Bhumibol Adulyadej
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
- Đây là một tên người Thái Lan; họ tên được viết theo thứ tự tên trước họ sau: Tên là Adulyadej (A-đun-da-đệt)., họ là {{{2}}}.
Bhumibol Adulyadej Rama IX của Thái Lan |
|
---|---|
Vua Thái Lan | |
Tại vị | 9 tháng 6, 1946 đến nay |
Đăng quang | 6 tháng 5 năm 1950 |
Tiền nhiệm | Ananda Mahidol |
Thông tin chung | |
Phối ngẫu | Sirikit |
Hậu duệ | Ubol Ratana Maha Vajiralongkorn Maha Chakri Sirindhorn Chulabhorn Walailak |
Hoàng tộc | Triều Chakri |
Thân phụ | Mahidol Adulyadej |
Thân mẫu | Srinagarindra |
Sinh | 5 tháng 12, 1927 Cambrige, Hoa Kỳ |
Mục lục
- 1 Thiếu thời
- 2 Kế vị và hôn nhân
- 3 Lễ Đăng cơ và các danh hiệu
- 4 Xung đột chính trị
- 5 Khủng hoảng năm 1992
- 6 Khủng hoảng năm 2005 – 2006
- 7 Quyền lực của Quốc vương
- 8 Những đề án của Hoàng gia
- 9 Kỷ niệm 60 năm trị vì
- 10 Đời riêng
- 11 Tài sản hoàng gia
- 12 Tiểu sử
- 13 Thừa kế ngai vàng
- 14 Xem thêm
- 15 Liên kết ngoài
Thiếu thời
Chào đời tại Bệnh viện Mount Auburn ở Cambridge, tiểu bang Massachusetts, Hoa Kỳ, Bhumibol là con trai út của Mahidol Adulyadej, Hoàng tử xứ Songkla (con trai của Vua Chulalongkorn) và Mom Sangwal (sau này là Somdej Phra Sri Nakarindhara Boromaratchachonnani). Khi mới sinh, ông mang tên Thái là Pra Worawongse Ther Phra Ong Chao Bhumibol Adulyadej (พระวรวงศ์เธอ พระองค์เจ้าภูมิพลอดุลยเดช), cho thấy bà mẹ là thứ dân. Nếu ra đời trước đó vài năm, trước khi chú của cậu, Vua Prajadhipok, thông qua đạo luật cho phép con của một hoàng tử và một thường dân được gọi là Phra Ong Chao (hoàng thân với địa vị thấp hơn một Chao Fa), cậu đã phải nhận danh hiệu Mom Chao (cấp thấp nhất trong vòng các hoàng thân Thái), giống anh chị của cậu.Bhumibol được đem về Thái Lan năm 1928, sau khi Hoàng tử Mahidol tốt nghiệp ngành Y tại Đại học Harvard. Sau khi hoàn tất chương trình tiểu học tại trường Mater Dei ở Bangkok, năm 1933, cậu đến Thụy Sĩ để theo học tại École Nouvelle de la Suisse romande, ở Chailly-sur-Lausanne, tốt nghiệp với văn bằng baccalauréat de lettres (Tú tài văn chương Pháp, tiếng Latin và tiếng Hi Lạp). Bhumibol theo học tại Đại học Lausanne khi anh của cậu, Phra Ong Chao Ananda Mahidol, lên ngai ở Thái Lan. Năm 1935, Nhà vua sắc phong em trai và em gái mình trở thành Chao Fa (cấp cao nhất trong vòng các hoàng tử và công chúa). Họ trở về Thái Lan trong năm 1938, nhưng rồi trở lại Thụy Sĩ để tiếp tục học tập cho đến năm 1945.
Kế vị và hôn nhân
Bhumibol kế vị ngai vàng sau khi anh của ông, Vua Ananda Mahidol, mất ngày 9 tháng 6 năm 1946, trong một sự kiện được miêu tả là một tai nạn liên quan đến vũ khí xảy ra trong Hoàng Cung ở Bangkok. Nỗi đau buồn sâu sắc khi mất người anh mà Bhumibol luôn ngưỡng mộ được bộc lộ trong một bức thư riêng, … (Tôi) không ngừng suy nghĩ về anh ấy, dù chỉ trong phút chốc. Tôi luôn nghĩ rằng, trong suốt cuộc đời mình, sẽ không bao giờ chia lìa khỏi anh. Nhưng định mệnh thật nghiệt ngã. (Tôi) không hề nghĩ đến ngai báu, chỉ nghĩ rằng mình là người em bé bỏng của anh”.Vì chưa hoàn tất chương trình học, Nhà vua và bà mẹ quyết định Bhumibol phải trở lại Thuỵ Sĩ. Suốt trong thời gian này, chú của cậu, Rangsit Hoàng tử xứ Chainat, được chỉ định làm Nhiếp chính vương. Đến Thuỵ Sĩ, Bhumibol chuyển sang nghiên cứu Luật và Khoa học Chính trị, những môn học hữu ích cho cậu sau khi nhận lãnh ngai báu. Trong khi sống ở Thuỵ Sĩ, Bhumibol thường xuyên đến Paris, ở đó cậu gặp người em họ xa, Mom Rajawongse Sirkit Kitiakara, con gái của đại sứ Thái tại Pháp. Cậu trở nên khách quen trong ngôi nhà của ông đại sứ. Khi Bhumibol bị mất một mắt trong một tai nạn xe hơi ở Lausanne, Mom Rajawongse Sirkit lại trở thành khách quen của cậu. Cô gái đến gặp mẹ của Bhumibol và được yêu cầu đến học tại Lausanne khi nhà vua tỏ ra quan tâm đến cô và muốn biết nhiều hơn về cô. Bhumibol chọn cho cô Riante Rive, một trường nội trú ở Lausanne. Rồi một lễ đính hôn tổ chức đơn giản ở Lausanne ngày 19 tháng 7 năm 1949. Họ kết hôn ngày 28 tháng 4 năm 1950, chỉ vài tuần trước lễ đăng cơ.
Nhà vua và hoàng hậu Sirikit có bốn người con:
- Công chúa Ubol Ratana, sinh ngày 5 tháng 4 năm 1951 ở Lausanne, Thuỵ Sĩ;
- Thái tử Maha Vajiralongkorn, sinh ngày 28 tháng 7 năm 1952;
- Công chúa Maha Chakri Sirindhorn, sinh ngày 2 tháng 4 năm 1955;
- Công chúa Chulabhorn Walailak, sinh ngày 4 tháng 7 năm 1957.
Lễ Đăng cơ và các danh hiệu
Bhumibol đăng cơ ngày 5 tháng 5 năm 1950 tại Hoàng Cung ở Bangkok. Tên nghi lễ của nhà vua, theo truyền thống cổ là::พระบาทสมเด็จพระปรมินทรมหาภูมิพลอดุลยเดช มหิตลาธิเบศรามาธิบดี จักรีนฤบดินทร์ สยามินทราธิราช บรมนาถบพิตร (Phrabat Somdej Phra Paramindra Maha Bhumibol Adulyadej Mahitaladhibet Ramadhibodi Chakrinarubodindara Sayamindaradhiraj Boromanatbophit )Trong cùng ngày, nhà vua sắc phong Hoàng hậu (Somdej Phra Boromarajini). Mỗi năm lễ đăng quang của nhà vua vào ngày 5 tháng 5 là quốc lễ.
Sau khi hoàng thái hậu Savang Vadhana (สว่างวัฒนา, Sawang Watthana Phra Phanvasa Areekajao) từ trần, nhà vua sống tu trì trong 15 ngày (22 tháng 10 – 5 tháng 11 năm 1956) theo tục lệ. Trong thời gian này, Sirikit được chỉ định làm nhiếp chính. Về sau bà được sắc phong Hoàng hậu Nhiếp chính (Somdej Phra Boromarajininat).
Xung đột chính trị
Trong thời gian đầu trị vì, khi chính quyền bị đặt dưới quyền kiểm soát của nhà độc tài Plaek Pibulsonggram, Bhumibol không có thực quyền và chẳng làm gì khác hơn là thủ giữ một vai trò nghi lễ cho chính phủ quân sự. Sau khi Plaek Pibulsonggram bị lật đổ, trong thời gian cầm quyền của chính phủ Sarit Dhanarajata, vương triều được hồi sinh. Bhumibol tham dự các buổi lễ công cộng, du hành đến các địa phương và bảo trợ nhiều đề án phát triển. Lúc nầy, nghi thức phủ phục trước nhà vua khi được tiếp kiến, bị cấm bởi Vua Chulalongkorn (Rama V) được phục hồi cùng với sự hồi sinh của dòng tu Thammayut Nikaya (một dòng tu thuộc Phật giáo Tiểu thừa được hoàng gia bảo trợ). Lần đầu tiên kể từ khi chế độ quân chủ chuyên chế bị lật đổ, một buổi lễ rước thuyền hoàng gia trên sông Chao Phraya được tổ chức, người dân tụ tập chào đón nhà vua khi ông trên đường đến dâng phục trang cho các đền chùa. Một số nghi lễ từ triều đại Chakri như lễ cày ruộng (tiếng Thái:พิธีพืชมงคล) cũng được phục hồi. Chính sự liên kết mật thiết với quốc vương đã giúp mang đến cho Sarit và chế độ quân sự tính hợp pháp. Sau cái chết của Sarit, chính sách ủng hộ hoàng gia của ông được tiếp tục duy trì bởi Thống chế Thanom Kittikachorn.Tháng 10 năm 1973, sau những cuộc biểu tình đông đảo và sau cái chết của nhiều người biểu tình ủng hộ dân chủ dưới sự lãnh đạo của sinh viên, Bhumibol lần đầu tiên khẳng định vai trò của ông trên chính trường Thái Lan bằng cách công khai bày tỏ lập trường ủng hộ những nỗ lực chấm dứt chế độ quân sự của Thanom, ra lệnh mở cửa Cung điện Chitralada đón tiếp các sinh viên đang bị săn đuổi, và tiếp xúc với những thủ lĩnh của phong trào sinh viên đấu tranh. Sau đó, nhà vua bổ nhiệm Viện trưởng Đại học Thammasat, Sanya Dharmasakti, vào chức vụ thủ tướng. Kế tiếp là một chuỗi các chính phủ dân sự lãnh đạo đất nước cho đến năm 1976, Thanom trở về nước sau một thời gian tự ý sống lưu vong, kích hoạt những xung đột mới. Những cuộc phản kháng chống nhà cựu độc tài bắt đầu leo thang, lên đến cao điểm khi hai tờ nhật báo cho đăng tải những hình ảnh giả mạo miêu tả sinh viên Đại học Thammasat treo cổ hình nộm thái tử Vajiralongkorn. Nhiều người dân tin rằng hành động xúc phạm hoàng gia này là có thật, các lực lượng quân đội và dân quân được lệnh tấn công viện đại học, dẫn đến một cuộc thảm sát.
Những rối loạn bùng phát sau đó được sử dụng như một cái cớ để tiến hành cuộc đảo chánh quân sự dẫn đến sự bổ nhiệm Tanin Kraivixien vào chức vụ thủ tướng. Ông này lại bị thay thế bởi Tướng Kriangsak Chomanan trong một cuộc đảo chính quân sự khác trong tháng 10 năm 1977. Năm 1980, Kriangsak được kế nhiệm bởi Tổng Tư lệnh Quân lực, Tướng Prem Tinsulanond, một người ủng hộ nhà vua. Tháng 4 năm 1981, một nhóm sĩ quan quân đội âm mưu đảo chánh, nhưng kế hoạch của họ bị sụp đổ mau chóng khi Prem lẩn tránh đến Khorat, sau đó hoàng gia cũng đến lánh nạn ở Khorat. Hoàng hậu, qua sóng phát thanh, công khai ủng hộ chính phủ Prem. Do lập trường của hoàng gia, nhiều đơn vị quân đội trung thành với quốc vương quay trở lại chiếm giữ thủ đô.
Khủng hoảng năm 1992
Trong năm 1992, Bhumibol thủ giữ một vai trò quan trọng trong tiến trình chuyển đổi đất nước Thái Lan sang nền dân chủ. Cuộc đảo chính ngày 23 tháng 2 năm 1991 lại đặt Thái Lan dưới sự cai trị của một chế độ độc tài quân sự. Sau cuộc tổng tuyển cử năm 1992, các chính đảng chiếm đa số mời Tướng Suchinda Kraprayoon, người lãnh đạo cuộc chính biến, làm thủ tướng. Động thái này gây ra nhiều bất bình, tăng cường độ các xung đột dẫn đến các cuộc biểu tình và gây ra nhiều thương vong khi quân đội được gọi đến để trấn áp các cuộc tụ tập. Tình thế trở nên đáng quan ngại khi cả hai phía đều không có dấu hiệu nhượng bộ khiến tình trạng bạo động càng leo thang.Quốc vương cho đòi Suchinda và nhà lãnh đạo phong trào ủng hộ dân chủ, Thiếu tướng Chamlong Srimuang, đến gặp ông trong một buổi hội kiến được truyền hình. Ngay lúc cao điểm của cuộc khủng hoảng, hình ảnh hai nhân vật chống đối nhau cùng phủ phục trước nhà vua (theo nghi thức hoàng gia) đã gây ấn tượng mạnh mẽ trên toàn dân tộc, dẫn đến quyết định từ chức của Suchinda xảy ra không lâu sau đó. Đó là một trong vài lần hiếm hoi nhà vua can thiệp trực tiếp vào các tranh chấp chính trị. Một cuộc tổng tuyển cử được tiến hành, và từ đó nền dân chủ được phục hồi.
Khủng hoảng năm 2005 – 2006
Nhà vua cũng bị lôi cuốn vào cuộc khủng hoảng chính trị tại Thái Lan trong năm 2005-2006. Tháng 4 năm 2005, Thủ tướng Thaksin Shinawatra chủ toạ một buổi lễ công quả tại Chùa Emerald Buddha, thánh địa của Phật giáo Thái Lan. Tờ Phoochatkarn, một nhật báo ở Bangkok, cho rằng Thaksin cướp quyền quốc vương qua hành động chủ toạ buổI lễ. Chủ báo Phoochatkan, Sondhi Limthongkul, đẩy mạnh việc sử dụng các khẩu hiệu như “Chúng ta yêu Quốc vương”, “Chúng ta chiến đấu cho Quốc vương”, “Trả quyền lực về cho Nhà Vua” như là một công cụ trong các cuộc biểu tình chống Thaksin. Trong thực tế, Bhumibol đã chuẩn thuận cho Thaksin chủ toạ buổi lễ, song Sondhi cứ tiếp tục sử dụng các khẩu hiệu ủng hộ hoàng gia nhẳm trong các cuộc biểu tình chống Thaksin cho đến khi Thaksin phải tuyên bố từ chức, sau một cuộc hội kiến với Bhumibol.Trong những tuần lễ trước cuộc bầu cử quốc hội vào tháng 4 năm 2006, liên minh chống Thaksin (bao gồm Đảng Dân chủ, Liên minh Nhân dân vì Dân chủ, và Hiệp hội Luật Thái Lan) thỉnh cầu nhà vua bổ nhiệm thủ tướng và nội các thay thế nhằm giải quyết cuộc khủng hoảng, nhưng yêu cầu này vấp phải nhiều sự chống đối. Bhumibol, trong bài diễn văn đọc ngày 26 tháng 4, trả lời rằng “ Thỉnh cầu Quốc vương bổ nhiệm thủ tướng là không dân chủ. Ấy là, tôi xin lỗi, một sự lộn xộn. Đó là điều không hợp lý”.
Một ngày sau khi tuyên bố chiến thắng trong cuộc bầu cử quốc hội, Thaksin đến gặp riêng Quốc vương Bhumibol. Chỉ vài giờ sau đó, hình ảnh của Thaksin đầy nước mắt xuất hiện trên truyền hình toàn quốc tuyên bố từ chối chức vụ thủ tướng và sẽ đi nghỉ xa lánh chính trường.
Trong một bài diễn văn hiếm hoi được truyền hình đọc trước các thẩm phán cao cấp, Bhumibol yêu cầu ngành tư pháp hành động để giải quyết cuộc khủng hoảng chính trị. Ngày 8 tháng 5 năm 2006, Toà án Hiến pháp tuyên bố không công nhận kết quả cuộc bầu cử tháng 4 và ra lệnh tổ chức một vòng tuyển cử mới.
Quyền lực của Quốc vương
Mặc dù Thái Lan đã chuyển đổi thành công để trở thành một đất nước dân chủ, Bhumibol vẫn tiếp tục hành xử quyền lực rộng lớn trên quốc gia này, một phần là do tình cảm nồng nhiệt người dân dành cho nhà vua, phần khác là do thiếu một định nghĩa rõ ràng trong Hiến pháp Thái Lan về quyền lực dành cho quốc vương. Tình trạng này trở nên nổi bật trong cuộc tranh luận xoay quanh việc bổ nhiệm chức danh Tổng Kiểm toán. Tháng 7 năm 2004, Toà án Hiến pháp ra phán quyết cho rằng việc Uỷ ban Kiểm toán Nhà nước bổ nhiệm Jaruvan Maintaka vào chức vụ này là vi hiến, nhưng Jaruvan từ chối chấp nhận phán quyết nếu không có một sắc chỉ của quốc vương. Tháng 2 năm 2006, Uỷ ban Kiểm toán tái xác nhận sự bổ nhiệm khi tìm thấy một bản ghi nhớ từ Văn phòng Thư ký Quốc vương cho thấy sự ủng hộ của nhà vua dành cho Jaruvan.Điều này dấy lên những tranh luận về việc quyền lực của nhà vua là cao hơn hiến pháp hay không. Thượng nghị sĩ Kaewsan Atibhodi, một cựu thành viên của Uỷ ban Soạn thảo Hiến pháp, nhận xét rằng theo điều 7 của Hiến pháp năm 1997: “bất cứ điều khoản nào của hiến pháp, khi được áp dụng trong bất cứ trường hợp nào phải phù hợp với việc thực thi hiến pháp trong thể chế dân chủ với Quốc vương là Nguyên thủ Quốc gia”. Theo cách giải thích của Kaewasan, điều khoản này dành cho nhà vua quyền phủ quyết khi Thượng viện bổ nhiệm Wisut Montriwat: “Bất cứ điều gì [Quốc vương] xem là không ích lợi cho nhân dân và không công bằng, Hoàng thượng có quyền phủ quyết”.
Ảnh hưởng sâu rộng của Bhumibol trên công luận Thái được thể hiện sau vụ bạo động Phnom Penh năm 2003 ở Campuchia, khi hàng trăm người Thái, phẫn nộ do đại sứ quán Thái Lan ở Phnom Penh bị đốt, tụ tập bên ngoài đại sứ quán Campuchia tại Bangkok, giật đổ tường và tìm cách tràn vào toà nhà. Nhưng khi Tổng Giám đốc Cảnh sát Quốc gia, Sant Sarutanonda, bảo cho đám đông biết rằng ông vừa nhận được một cuộc điện đàm từ Arsa Sarasin, thư ký nhà vua, chuyển lời của nhà vua kêu gọi bình tĩnh, tình thế khó khăn đã được giảI quyết trong hoà bình.
Những đề án của Hoàng gia
Bhumibol tham gia tích cực vào đời sống kinh tế và xã hội của đất nước, chủ yếu là qua một loạt các đề án phát triển kinh tế mà ông đề xuất, tổ chức và tài trợ. Mặt nam và tây của Điện Chitralada, hầm ủ, nhà máy và nông trang chế biến chỉ là phần nhỏ của chương trình phát triển gọi là “những đề án hoàng gia”, từ các đề án nghiên cứu (thường là thuộc lĩnh vực nông nghiệp), trường học xen ca, huấn nghiệp, bảo tồn nước đến các dự án phát triển điền địa (không thể liệt kê hết). Có hơn 3.000 đề án khởi xướng bởi quốc vương và được triển khai trên toàn quốc, nhắm vào mục tiêu cải thiện điều kiện sống của dân nghèo ở vùng nông thôn Thái Lan.Hoạt động trong nhiều lĩnh vực từ giới thiệu giống cây trồng đến bảo tồn nước, từ thoát nước vùng đầm lầy đến bảo vệ rừng, trong mục tiêu phát triển bền vững, Dự án Phát triển Hoàng gia được chia thành tám thể loại phụ thuộc vào khu vực kinh tế mà nó nhắm vào: nông nghiệp, môi trường, y tế, huấn nghiệp, tài nguyên nước, truyền thông, phúc lợi xã hội và những lĩnh vực khác.
Chúng có thể được phân loại như sau:
- Đề án đích thân nhà vua hướng dẫn và thí nghiệm, thường dựa vào những tư vấn của các chuyên gia và được triển khai trong giai đoạn đầu bởi ngân quỹ riêng của nhà vua. Một khi đề án đạt được những kết quả khả quan, nhà vua chuyển giao đề án cho chính quyền để phát triển xa hơn.
- Đề án của Quốc vương và Hoàng hậu, ví dụ như đề án vụ mùa thay thế nhằm chặn đứng việc trồng thuốc phiện, phá rừng và đốt rừng để canh tác, vẫn được duy trì bởi người dân các bộ tộc. Nhà vua cung ứng tư vấn và sự trợ giúp để người dân trồng các loại cây ăn trái và hoa, đem lại lợi tức cao hơn cũng như cải thiện điều kiện thời tiết.
- Đề án được điều hành bởi tư nhân nhưng dựa trên những chỉ dẫn của nhà vua, gồm có Bách khoa Toàn thư cho Đề án Thanh niên, Đề án Từ điển, và Đề án Phát triển Làng xã Hợp tác Din Daeng.
Kỷ niệm 60 năm trị vì
Đại lễ mừng 60 năm nhà vua đăng quang bao gồm một chuỗi các hoạt động lễ hội tôn vinh triều đại Bhumibol như lễ rước thuyền hoàng gia trên Sông Chao Phraya, bắn pháo hoa, triển lãm nghệ thuật, hoà nhạc và khiêu vũ. Vào dịp này Tổng Thư ký Liên Hiệp Quốc trao tặng Quốc vương Huy chương Thành quả Trọn đời vì Phát triển Nhân loại. Lễ kéo dài từ ngày 9 tháng 6 đến 12-13 tháng 6. Ngày 9 tháng 6, nhà vua và hoàng hậu xuất hiện trên ban công Điện Ananta Samakhom trước hàng trăm ngàn người dân. Lễ rước thuyền hoàng gia tổ chức ngày 12 tháng 6 với sự tham dự của quốc vương và hoàng hậu cùng khách mời hoàng tộc đến từ 25 quốc gia. Ngày 13 tháng 6, một quốc yến chiêu đãi khách hoàng tộc được tổ chức tại Điện Rama IX ở Hoàng Cung, tất cả kênh truyền hình Thái Lan đều tường thuật sự kiện lịch sử nàyĐời riêng
Bhumibol là một nhạc công và sáng tác nhạc jazz tài năng. Nhà vua được trao tặng danh hiệu thành viên danh dự Viện Âm nhạc và Nghệ thuật Vienna vào lúc 32 tuổi. Ông thường trình diễn nhạc jazz trên sóng phát thanh của đài Or Sor, cũng đã công diễn với những huyền thoại nhạc jazz như Benny Goodman, Jack Teagarden, Lionel Hampton và Maynard Ferguson. Các ca khúc được nhà vua sáng tác được yêu thích tại các cuộc tụ họp công cộng và được trình diễn trong các buổi hoà nhạc. Bạn có thể thưởng thức chúng tại đây [1].Ngoài ra, nhà vua còn là hoạ sĩ, nhiếp ảnh gia, tác giả và dịch giả. Tác phẩm Phra Mahachanok của ông dựa trên câu truyện cổ Jakata về kinh Phật. Chuyện kể về Thong Daeng là câu chuyện về con chó Khun Thong Daeng. Ông là vị vua duy nhất có bằng sáng chế năm 1993 cho một công trình xử lý nước thải tên “Chai Pattana”, và một vài bằng sáng chế khác cho qui trình tạo mưa từ năm 1955: bằng sáng chế tạo mưa “sandwich” năm 1999 và sau này là bằng sáng chế “supersandwich” năm 2004.
Tài sản hoàng gia
Bhumibol là một trong những người giàu nhất thế giới, nhờ đó nhà vua có thể tài trợ nhiều dự án. Tài sản của nhà vua và hoàng gia Thái được quản lý bởi Văn phòng Tài sản Hoàng gia (CPB). Số tài sản này ước tính từ 2 đến 8 tỉ USD. Tổng Giám đốc CPB hiện nay là Chirayu Issarangkul Na Ayuthaya. Qua CPB nhà vua sở hữu nhiều loại tài sản rải rác khắp Thái Lan cũng như cổ phần trong nhiều công ty, kể cả Siam Cement (tập đoàn công nghiệp lớn nhất Thái Lan), và Ngân hàng Thương mại Siam (trong số những ngân hàng lớn nhất). Có khoảng 36.000 tài sản các loại của CPB được cho thuê mướn. Các tài sản sở hữu bởI CPB còn có Khách sạn Bốn mùa, Chợ đêm Suan Lum và Central World Tower.Ngay sau khi tạp chí Forbes công bố Quốc vương Bhumibol là nhân vật hoàng gia giàu nhất thế giới, ngày 23 tháng Tám năm 2008, Bộ Ngoại giao Thái Lan đã ra thông cáo nói rằng thông tin mà tờ tạp chí này đưa ra là không chính xác và mâu thuẫn.
Tiểu sử
Nhà báo Mỹ Paul Handley, 13 năm sống ở Thái Lan, năm 2005 viết quyển tiểu sử The King Never Smiles (Ông vua không bao giờ cười - ISBN 0-300-10682-3), được xuất bản bởi Nhà xuất bản Đại học Yale vào tháng 7 năm 2006. Tháng 1 năm 2006, Bộ Thông tin và Truyền thông Thái Lan ra lệnh cấm và phong toả website của Nhà xuất bản Đại học Yale. Trong một thông báo đề ngày 19 tháng 1 năm 2006, Tổng Giám đốc Cảnh sát Quốc gia Kowit Wattana nói rằng quyển sách có “nội dung ảnh hưởng đến an ninh quốc gia và đạo đức nhân dân”.Nội dung bị kiểm duyệt trên website của Nhà xuất bản Đại học Yale miêu tả cuốn sách nói về “câu chuyện bất ngờ về cuộc đời (quốc vương Bhmibol Adulyadej) và 60 năm trị vì – làm thế nào mà một cậu bé trưởng thành ở phương Tây lại được người dân sùng bái như một vị Phật sống, và làm thế nào mà một vị vua được mọi người nhìn xem là tốt lành cho đất nước và có vai trò phi chính trị, trong thực tế, lại can thiệp sâu vào chính trường, chuyên chế, và ngay cả tàn bạo …. Trái với hình ảnh được mọi người chấp nhận về một quân vương đức độ và bình đẳng, Handley miêu tả cách thuyết phục về một vương triều phản dân chủ, hợp tác với những đồng minh trong các tập đoàn kinh tế và giới quân phiệt Thái nhằm bảo vệ một triều đại phong kiến lâu đời chỉ thay đổi trong hình thức cai trị mà thôi. Tổng biên tập Nhà xuất bản Đại học Yale gọi cuốn sách là “một quyển tiểu sử dẫn giải”. Sau khi được xuất bản, tính xác thực của cuốn sách sẽ được công khai thẩm tra.
William Stevenson, người đã có cơ hội tiếp xúc với triều đình và hoàng gia, viết cuốn tiểu sử Revolution King (Ông vua cách mạng – ISBN 1-84119-451-4) trong năm 2001. Một bài viết đăng trên tạp chí Time nói rằng ý tưởng cho cuốn sách được gợi ý bởi Bhumibol. Theo một số người, cuốn sách cho thấy một sự hiểu biết thân cận về đời tư của nhà vua. Thế nhưng, cuốn sách vẫn bị cấm tại Thái Lan và Văn phòng Hoàng gia cảnh cáo các phương tiện truyền thông Thái không nên nhắc nhở đến cuốn sách, chỉ trích cuốn sách là sử dụng tư liệu không chính xác, không tôn trọng nhà vua (nhắc đến biệt danh “Lek” gọi trong nhà của Bhumibol), và đưa ra giả thuyết gây nhiều tranh cãi về cái chết của Quốc vương Ananda. “Từ ban đầu, nhà vua đã nói là cuốn sách sẽ gây nguy hiểm cho ông và cho tôi”, lời của Stevenson.
Thừa kế ngai vàng
Ngày 28 tháng 12 năm 1972, con trai duy nhất của Quốc vương Bhumibol, Hoàng tử Vajralongkorn, được ban tước hiệu "Somdej Phra Boroma Orasadhiraj Chao Fah Maha Vajiralongkorn Sayam Makutrajakuman" (Thái tử nước Xiêm), và được chọn làm người thừa kế ngai vàng chiếu theo Luật Thừa kế Hoàng gia năm 1924.Ngày 5 tháng 12 năm 1977, Công chúa Siridhorn nhận lãnh tước hiệu "Sayam Boromrajakumari" (Công chúa nước Xiêm). Tước hiệu của công chúa thường được dịch sang Anh ngữ là “Công chúa thừa kế”, mặc dù tước hiệu chính thức của cô trong tiếng Anh chỉ đơn giản là “Công chúa”. Về sau, hiến pháp được tu chính để cho phép Hội đồng Tư vấn chọn một công chúa thừa kế ngai vàng, song điều khoản này chỉ có thể thực thi trong trường hợp không có người thừa kế. Tu chính án này vẫn được duy trì trong Phần 23 của “Hiến pháp Nhân dân” năm 1997 hiện hành. Như vậy, Công chúa Siridhorn là nhân vật thứ hai trong thứ bậc thừa kế ngai vàng.
Những bản hiến pháp gần đây đã sửa đổi Luật Kế thừa Hoàng gia, dành đặc quyền cho quốc vương. Theo Gothom Arya, cựu uỷ viên hội đồng bầu cử, điều này cho phép nhà vua chọn một hoàng tử hoặc công chúa để thừa kế ngai vàng.
Xem thêm
|
Liên kết ngoài
Wikimedia Commons có thêm thể loại hình ảnh và tài liệu về Bhumibol Adulyadej |
- The Sixtieth Anniversary Celebrations of His Majesty's Accession to the Throne - official website for Diamond Jubilee
- A Visionary Monarch - provides a lot of insights on his visions and contributions to the country.
- Crown Property Bureau (in Thai)
- The Golden Jubilee Network - has many subjects on the King, including his projects, speeches, and his royal new year card.
- Office of the Royal Development Projects Board
- Supreme Artist - see works of art created by the King.
- The King's Birthplace
- Palaces of the King - provides information of palaces in Thailand.
- Thai monarchy
- Thailand's Guiding Light
- Thailand: How a 700-Year-Old System of Government Functions - article by David Lamb (LA Times staff writer) on Bhumibol
Thể loại:
Video yêu thích
http://www.youtube.com/user/hoangkimvietnam
Trở về trang chính
Hoàng Kim, hoangkim, hoangkimvietnam, Ngọc Phương Nam, Chào ngày mới Thung dung, Dạy và học, Cây Lương thực, Tin Nông nghiệp Việt Nam, Food Crops, Cassava in Vietnam, Khát khaoch xanh, Dayvahoc,Học mỗi ngày, Danh nhân Việt , Food Crops News, Điểm chính, CNM365, Kim LinkedIn, KimTwitter, KimFaceBook Đọc lại và suy ngẫm, Việt Nam tổ quốc tôi, Tình yêu cuộc sống, Thơ cho con
Video yêu thích
http://www.youtube.com/user/hoangkimvietnam
Trở về trang chính
Hoàng Kim, hoangkim, hoangkimvietnam, Ngọc Phương Nam, Chào ngày mới Thung dung, Dạy và học, Cây Lương thực, Tin Nông nghiệp Việt Nam, Food Crops, Cassava in Vietnam, Khát khaoch xanh, Dayvahoc,Học mỗi ngày, Danh nhân Việt , Food Crops News, Điểm chính, CNM365, Kim LinkedIn, KimTwitter, KimFaceBook Đọc lại và suy ngẫm, Việt Nam tổ quốc tôi, Tình yêu cuộc sống, Thơ cho con
No comments:
Post a Comment