CNM365 Chào ngày mới 5 tháng 3 Wikipedia Ngày này năm xưa. Bắt đầu Kinh trập (16:02 UTC, 2014), ngày Lôi Phong tại Trung Quốc. Năm 1936 – Máy bay tiêm kích Supermarine Spitfire (hình) của Anh Quốc tiến hành chuyến bay đầu tiên từ sân bay Eastleigh tại hạt Hampshire. Năm 1940 – Các thành viên của Bộ chính trị Đảng Cộng sản Liên Xô ký một sắc lệnh hành quyết 25.700 "phần tử dân tộc chủ nghĩa và phản cách mạng" người Ba Lan đang bị Liên Xô giam giữ. Năm 1946 – Thủ tướng Anh Quốc Winston Churchill sử dụng cụm từ “Bức màn sắt” trong bài phát biểu của ông tại Westminster College, Missouri, Hoa Kỳ. Năm 1958 – Chính phủ Trung Quốc thành lập Khu tự trị dân tộc Choang Quảng Tây trên cơ sở tỉnh Quảng Tây trước đó. Năm 1970 – Hiệp ước không phổ biến vũ khí hạt nhân có hiệu lực sau khi được 43 quốc gia phê chuẩn.
Supermarine Spitfire
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Spitfire | |
---|---|
Supermarine Spitfire XII Không quân Hoàng gia Anh | |
Kiểu | Máy bay tiêm kích |
Hãng sản xuất | Supermarine |
Chuyến bay đầu tiên | 5 tháng 3 năm 1936 |
Hãng sử dụng chính | Không quân Hoàng gia Anh |
Được chế tạo | 1938-1948 |
Số lượng được sản xuất | 20.351 |
Được sản xuất bởi chi nhánh Supermarine của hãng Vickers-Armstrongs, Spitfire được thiết kế bởi nhà thiết kế chính của công ty là R. J. Mitchell, đã tiếp tục hoàn thiện mẫu thiết kế của mình cho đến khi mất vì ung thư năm 1937; vị trí này trong công ty sau đó do do học trò của ông là Joseph Smith đảm nhiệm.[2]. Nó có cánh dạng bầu dục với mặt cắt ngang mỏng, cho phép có một tốc độ tối đa cao hơn chiếc Hawker Hurricane và các thiết kế hiện đại khác; nó cũng có một kiểu dáng khá đặc trưng, thon thả và mượt mà. Được các phi công ưa thích, Spitfire phục vụ trong suốt cả Thế Chiến II và những năm sau đó, trên nhiều mặt trận và dưới nhiều phiên bản khác nhau.
Spitfire luôn được so sánh với đối thủ chính của nó, chiếc Messerschmitt Bf 109; cả hai đều là những máy bay tiêm kích tốt nhất thời kỳ đó.
Mục lục
Thiết kế và phát triển
Nhà thiết kế chính của hãng Supermarine, R.J. Mitchell, đã từng chiến thắng bốn giải Schneider Trophy trong các cuộc đua thủy phi cơ bằng các thiết kế của ông (Sea Lion II năm 1922, S 5 năm 1927, S 6 năm 1929 và S 6b năm 1931), phối hợp các kiểu động cơ Napier Lion và Rolls-Royce "R" mạnh mẽ với những chú ý tỉ mỉ vào sự suôn thẳng mượt mà. Những chất lượng tương đương như vậy đã có ích cho việc thiết kế một chiếc máy bay tiêm kích, và vào năm 1931, Mitchell chế tạo ra một chiếc máy bay để đáp ứng một tiêu chuẩn của Bộ Hàng không (F7/30) về một kiểu máy bay tiêm kích cánh đơn mới và hiện đại.Dự định đầu tiên về một chiếc máy bay tiêm kích đưa đến kết quả một chiếc máy bay cánh đơn có buồng lái dạng mở, cánh dạng hải âu và một bộ càng đáp lớn cố định, trang bị động cơ Rolls-Royce Goshawk làm mát bằng không khí.[3] Chiếc Supermarine Kiểu 224 không đáp ứng các tiêu chuẩn đặt ra; cũng như mọi thiết kế cạnh tranh khác cũng đều thất bại.
Mitchell nhanh chóng chuyển hướng sự chú tâm của ông đến một thiết kế được cải tiến như một sự đầu tư cá nhân, dưới sự hậu thuẫn của chủ nhân Supermarine là Vickers-Armstrongs. Kiểu thiết kế mới bổ sung càng đáp xếp được, buồng lái kín, hệ thống thở oxy, và một động cơ mạnh mẽ hơn mới được phát triển Rolls-Royce PV-12, sau này được đặt tên là Merlin, sử dụng cho tất cả các phiên bản từ Spitfire Mk I đến Mk IX, sau đó kiểu động cơ Rolls Royce Griffon được sử dụng thay thế.
Đến năm 1935, Bộ Hàng không chứng kiến nhiều tiến bộ trong công nghiệp hàng không đủ để thử lại một kiểu máy bay cánh đơn lần nữa. Họ sau đó loại bỏ thiết kế chiếc Supermarine mới vì nó không mang được vũ khí là tám súng máy như yêu cầu đặt ra, và dường như không còn chỗ để làm điều đó.
Thiết kế cánh dạng elip
Một lần nữa, Mitchell lại có khả năng giải quyết vấn đề. Đã có dư luận cho là sau khi nhìn thấy nhiều kiểu máy bay Heinkel, ông đã quyết định sử dụng cánh dạng elip cho phép có chiều rộng cánh lớn hơn đủ chỗ cho tám súng máy theo yêu cầu, trong khi vẫn giữ được độ cản thấp của kiểu cánh đơn giản thiết kế trước đây. Chuyên viên khí động học của Mitchell là Beverley Shenstone, dù sao, cũng đã chỉ ra rằng kiểu cánh của Mitchell không phải là sự sao chép trực tiếp từ chiếc Heinkel He 70, như nhiều người đã nêu ra. Ngoài việc cánh của chiếc Spitfire mỏng hơn nhiều và có mặt cắt ngang hoàn toàn khác biệt, vấn đề ở chỗ sự phát triển song song trên cùng giải pháp kỹ thuật; cánh dạng elip có hiệu quả nhất trong sự phân phối lực nâng dọc theo sải cánh, và cũng có tính năng bay tốt ở tốc độ chòng chành - một điều luôn gắn bó cùng Mitchell.[4] Cho dù thế nào, cánh dạng elip đã đủ để cho chiếc Kiểu 300 đạt được sự quan tâm của Bộ Hàng không, và họ đã cấp kinh phí bằng một tiêu chuẩn mới, F.10/35, được vạch ra dựa vào chiếc Spitfire.Những đường nét bóng mượt của chiếc Spitfire góp phần khá lớn vào tính chất khí động học tuyệt vời, vẻ thanh nhã mẫu mực và thiết kế trong sáng. Điều này đặc biệt đúng khi dạng cánh elip đồng điệu với dạng máy bay. Thời gian đã chứng minh sự tiên tiến của thiết kế này so với các thiết kế khác đương thời; kiểu cánh elip cho phép đạt đến tốc độ cao hơn mà không mắc phải sự rung động cánh tà do tốc độ Mach, một hiện tượng tiếp tục làm hại nhiều thiết kế mới hơn. Kiểu cánh này cho phép đạt tốc độ an toàn ở Mach 0,83 và tối đa Mach 0,86, cung cấp một góc nhị diện 6° để gia tăng sự ổn định dọc. Dạng elip được chứng minh là dạng cánh hiệu quả nhất tối ưu hóa sự phân phối lực nâng dọc theo cánh, trong khi bề rộng cánh được thu nhỏ dần đưa đến kết quả có một tỉ lệ dài-rộng cánh cao, quan trọng để làm giảm nhẹ lực cản để dòng không khí không bị “gẩy’ trên cánh. Một điều quan trọng đáng kể khác là độ dày cánh thấp so với tỉ lệ bề rộng cánh - cánh mỏng giúp cho dòng không khí hiệu quả, một yếu tố quan trọng khác làm giảm lực cản. Các nỗ lực nhằm duy trì thiết kế cánh mỏng, lực cản thấp đưa đến kết quả là hệ thống càng đáp được xếp ra ngoài khi thu lại, một tư thế nhằm bố trí cơ cấu xếp càng cồng kềnh vào phần dày nhất của cánh gần sát thân, cho phép độ dày của cánh được giảm dần từ trong ra ngoài, duy trì được đặc tính khí động học ưa chuộng được cung cấp bởi kiểu thiết kế này. Tuy vậy điều này lại làm tổn hại đến tính năng điều khiển máy bay trên mặt đất; Spitfire tỏ ra không ổn định khi chạy trên đường lăn do vệt bánh đáp chính khá hẹp.
Dạng cánh elip được chọn do những đóng góp cho ưu thế khí động học, nhưng nó cũng là một loại cánh chế tạo rất phức tạp, trong khi kiểu cánh vuông góc của Messerschmitt Bf 109 lại dễ chế tạo cũng đem lại tính năng bay tương đương (đối chiếu từng phiên bản tương đương) so với Spitfire. Đã có báo cáo cho biết Bf 109 chỉ cần một-phần-ba số giờ công để chế tạo so với chiếc Spitfire.
Một thiếu sót trong thiết kế cánh mỏng của chiếc Spitfire bộc lộ ra khi chiếc máy bay đạt đến tốc độ rất cao. Khi phi công dự định lộn vòng ở tốc độ như vậy, những lực khí động học áp lên các cánh tà đủ mạnh để làm xoắn toàn bộ đầu cánh theo hướng ngược lại hướng lệch của cánh tà, đưa đến hậu quả là chiếc Spitfire lộn vòng theo hướng ngược lại dự tính của phi công.
Tên gọi
Bộ Hàng không đề xuất một số tên gọi cho Vickers-Armstrongs cho chiếc máy bay mới, mà ban đầu tạm gọi là ’’’Kiểu 300’’’, bao gồm cả cái tên không hiện thực Shrew. Tên gọi Spitfire được đề nghị bởi Sir Robert MacLean, giám đốc của Vickers-Armstrongs thời đó, thường gọi đứa con gái Ann của ông là "spitfire nhỏ bé". Tên gọi này có nguồn gốc từ thời Elizabeth, chỉ đến một kiểu người đặc biệt sôi nổi, nồng nhiệt, dữ tợn; và vào thời đó, liên quan đến một bé gái hay phụ nữ có tính cách như thế.[5] Cái tên này trước đó đã được dùng một cách không chính thức cho một thiết kế trước đây của Mitchell, chiếc F.7/30 Kiểu 224. Mitchell được tường thuật đã phát biểu rằng "một cái tên chết tiệt ngớ ngẩn mà người ta có thể chọn được",[6] có thể là gián tiếp liên quan đến một kiểu máy bay không thành công trước đây trong số những thiết kế của ông được đặt cùng một tên đó.Sản xuất
Chiếc nguyên mẫu (K5054) bay lần đầu tiên ngày 5 tháng 5 năm 1936, tại sân bay Southampton (lúc đó còn mang tên là sân bay Eastleigh) chỉ bốn tháng sau chuyến bay đầu tiên của kiểu máy bay hiện đại Hawker Hurricane. Việc thử nghiệm được tiếp tục cho đến ngày 26 tháng 5 năm 1936 khi Đại úy J. "Mutt" Summers, phi công thử nghiệm chính của Vickers (Aviation) Ltd., lái chiếc K5054 đến căn cứ Không quân Hoàng gia RAF Martlesham Heath và bàn giao chiếc máy bay cho đơn vị thử nghiệm của Không quân Hoàng gia Anh.Bộ Hàng không đặt hàng 310 chiếc vào ngày 3 tháng 6 năm 1936, ngay trước khi có các báo cáo thử nghiệm, và các báo cáo thử nghiệm cũng chỉ tiến hành theo cách nhỏ giọt. Công chúng Anh Quốc được thấy chiếc Spitfire lần đầu tiên tại buổi trưng bày hàng không tại sân bay Không quân Hoàng gia Hendon vào ngày thứ bảy 27 tháng 6 năm 1936.
Để chế tạo Spitfire với số lượng được đặt trước, một xưởng hoàn toàn mới được xây dựng tại Castle Bromwich, gần Birmingham, là một "bản sao" của xưởng ban đầu của hãng Supermarine tại Southampton. Mặc dù kế hoạch được sự lãnh đạo tuyệt đối bởi Lord Nuffield vốn là một chuyên gia về xây dựng quy mô trong công nghiệp động cơ và ô-tô, công việc xây dựng căng thẳng đòi hỏi tay nghề và kỹ thuật vượt ngoài kinh nghiệm của lực lượng lao động tại chỗ, nên đã cần đến nhân viên kinh nghiệm và kỹ sư của Supermarines và Vickers-Armstrongs. Vị trí được xây dựng nhanh chóng từ tháng 7 năm 1938, máy móc được lắp đặt hai tháng sau khi công việc được khởi đầu.
Đã có hơn 20.300 chiếc thuộc mọi phiên bản được chế tạo, bao gồm phiên bản hai chỗ ngồi dùng trong huấn luyện, một số chiếc Spitfire phục vụ cho đến tận những năm 1950. Mặc dù đối thủ chủ yếu thời chiến tranh, chiếc Messerschmitt Bf 109, trong nhiều phiên bản khác nhau, vượt hơn Spitfire về số lượng được sản xuất, Spitfire là kiểu máy bay tiêm kích Anh Quốc duy nhất được sản xuất liên tục trước, trong, và sau Thế Chiến II.
Các phiên bản
Có đến 24 phiên bản của chiếc Spitfire và nhiều tiểu biến thể, bao trùm từ kiểu động cơ Rolls-Royce Merlin đến kiểu Rolls-Royce Griffon, các phiên bản trinh sát hình ảnh tốc độ cao và các cấu hình cánh khác nhau. Chiếc Spitfire phiên bản Mk V là kiểu thông dụng nhất với 6.479 chiếc được chế tạo, tiếp theo sau là 5.665 chiếc phiên bản Mk IX. Nhiều kiểu cánh khác nhau và hằng loạt các vũ khí khác nhau được trang bị cho đa số các phiên bản; kiểu cánh A trang bị tám súng máy 0,303 in, kiểu cánh B có bốn súng máy 0,303 in và hai khẩu pháo Hispano-Suiza HS.404 20 mm, và kiểu cánh C (Universal Wing) có thể gắn bốn pháo 20 mm hoặc hai pháo 20 mm và bốn súng máy 0,303 in. Khi chiến tranh tiếp diễn, kiểu cánh C càng trở nên thông dụng.[7] Biến thể vũ khí cuối cùng là kiểu cánh E gắn hai pháo 20 mm và hai súng máy hạng nặng M2 Browning 0,50 inch.
Supermarine phát triển một phiên bản hai chỗ ngồi sử dụng trong huấn luyện và được đặt tên là T Mk VIII, nhưng không có đơn đặt hàng nào nhận được cho kiểu này và chỉ có một chiếc nguyên mẫu được chế tạo (ký hiệu N32/G-AIDN bởi Supermarine). Tuy nhiên, do không có một kiểu máy bay hai chỗ ngồi huấn luyện chính thức, một số khung máy bay được chuyển đổi sơ sài ngoài chiến trường. Chúng bao gồm một chiếc Mk VB của Không lực Hoàng gia ở Bắc Phi, nơi mà một chỗ ngồi thứ hai được lắp vào chỗ thùng nhiên liệu trên phía trước buồng lái, mặc dù nó không phải là máy bay có hai hệ thống điều khiển bay và được cho là chỉ sử dụng "loanh quanh" trong phi đội. Những chiếc duy nhất có được hai hệ thống điều khiển bay là một số nhỏ máy bay phiên bản Mk IX tại Liên Xô trong chương trình Cho thuê-Cho mượn. Chúng được biết dưới tên gọi Mk IX UTI và khác biệt với kiểu do Supermarine đề nghị là có một nóc buồng lái đôi dạng "nhà kính" hơn là dạng "giọt nước" được nâng cao của chiếc T Mk VIII.
Các phiên bản hải quân
Chiếc Seafire II đã vượt hơn chiếc A6M5 (Zero) về tính năng bay ở cao độ thấp khi hai kiểu máy bay này được thử nghiệm cùng nhau trong không chiến giả. Tuy nhiên, những máy bay tiêm kích hiện đại khác của Đồng Minh như F6F Hellcat và F4U Corsair, được xem là chắc chắn và thực tế hơn để hoạt động trên tàu sân bay. Một ưu thế về tính năng bay đã lấy lại được khi những phiên bản Seafire sau chiến tranh được trang bị động cơ Griffon đã vượt xa các tiền nhiệm trang bị động cơ Merlin. Chiếc Seafire được thay thế bằng chiếc Hawker Sea Fury trên hầu hết các tàu sân bay từ năm 1945. Tên gọi Seafire có được là do rút gọn lại từ ghép Sea Spitfire.
Các phiên bản trang bị động cơ Griffon
Phiên bản Mk XII trang bị động cơ Griffon bay lần đầu tiên vào tháng 8 năm 1942, nhưng chỉ có năm chiếc được đưa ra hoạt động cho đến cuối năm. Phiên bản này có thể đạt đến tốc độ 400 mph khi bay ngang và đạt đến độ cao 10.000 m (30.000 ft) trong vòng dưới tám phút. Mặc dù chiếc Spitfire tiếp tục được cải thiện về tốc độ và vũ khí trang bị, tầm bay xa và trữ lượng nhiên liệu là một vấn đề lớn: nó tỏ ra "hụt chân" trong suốt vòng đời ngoại trừ vai trò trinh sát hình ảnh, khi các khẩu súng được tháo bỏ dành chỗ cho các thùng nhiên liệu bổ sung.Những chiếc Spitfire mới trang bị động cơ Griffon được giới thiệu như là máy bay tiêm kích đánh chặn phòng thủ đảo nhà, nơi mà tầm bay bị hạn chế không phải là một trở ngại. Những chiếc Spitfire nhanh hơn này được sử dụng trong phòng thủ chống lại sự xâm nhập của những chiếc tiêm kích-ném bom tốc độ cao của Đức đến "ném-rồi-chạy" và những quả “bom bay” V-1 bên trên bầu trời Anh Quốc.
Khi những máy bay tiêm kích Mỹ đảm nhận vai trò hộ tống tầm xa cho những cuộc không kích ném bom ban ngày của Không lực Lục quân Hoa Kỳ, những chiếc Spitfire gắn động cơ Griffon dần dần đảm nhiệm vai trò tiêm kích chiếm ưu thế trên không như là máy bay đánh chặn, trong khi các phiên bản gắn động cơ Merlin (chủ yếu là Mk IX và XVI trang bị động cơ Packard) có vai trò tiêm kích-ném bom.
Cho dù các phiên bản gắn động cơ Griffon đánh mất một số tính năng điều khiển được ưa chuộng của các tiền nhiệm gắn động cơ Merlin, chúng giữ lại được ưu thế cơ động khi chiến đấu so với hầu hết các thiết kế máy bay hiện đại của Đức (và cả của Mỹ) tại Châu Âu trong suốt vòng đời của nó.
Những chiếc Spitfire và Seafire gắn động cơ Griffon tiếp tục phục vụ trong nhiều phi đội của Không quân Phụ trợ Hoàng gia và Hải quân Trừ bị Tình nguyện Hoàng gia cho đến khi được tái trang bị vào những năm 1951 - 1952. Chuyến bay Spitfire phục vụ cuối cùng trong Không quân Hoàng gia thực hiện ngày 9 tháng 7 năm 1957 bởi chiếc PS583 từ căn cứ Woodvale, là hoạt động cuối cùng của một chiếc máy bay tiêm kích gắn động cơ piston trong Không quân Hoàng gia Anh Quốc.
Lịch sử hoạt động
Phục vụ ban đầu trong Không quân Hoàng gia
Chiếc Spitfire đầu tiên được đưa vào phục vụ trong Không quân Hoàng gia tại Phi Đội 19 tại căn cứ Không quân Hoàng gia Duxford vào ngày 4 tháng 8 năm 1938, và trong những tuẩn lễ sau đó chiếc máy bay được giao hàng với tộc độ một chiếc mỗi tuần cho cả phi đội 19 và 66 (cùng đặt căn cứ tại Duxford). Phi đội tiếp theo được trang bị Spitfire là Phi đội 41 đóng tại căn cứ Không quân Hoàng gia Catterick, sau đó là các phi đội đóng tại căn cứ Không quân Hoàng gia Hornchurch tại Essex. Cuộc ra mắt công chúng lần đầu tiên của chiếc Spitfire sơn màu của Không quân Hoàng gia là vào Ngày Hàng Không Đế Chế 20 tháng 5 năm 1939 tại cuộc trưng bày ở Duxford, trong đó một phi công đã đáp bằng bụng máy bay của anh sau khi quên hạ càng đáp và bị Bộ Hàng Không phạt 5 Bảng sau đó. Khi Thế Chiến II nổ ra, có khoảng 400 chiếc Spitfire đang phục vụ trong Không quân Hoàng gia, và thêm khoảng 2.000 chiếc đang được đặt hàng.[8]Trong một sự kiện được biết dưới tên Trận chiến Barking Creek vào ngày 6 tháng 9 năm 1939, máy bay Spitfire đã bắn vào một cặp Hawker Hurricane không may mắn thuộc Phi đội 56 Không quân Hoàng gia. Những chiếc Hurricane bị bắn rơi bởi những chiếc Spitfire thuộc Phi đội 74 Không quân Hoàng gia trong một sự cố bắn nhầm bên trên bầu trời Medway, dẫn đến cái chết của Thiếu úy Montague Leslie Hulton-Harrop, phi công Anh đầu tiên thiệt mạng trong Thế Chiến II.
Trận chiến Anh Quốc
R.J. Mitchell và kiểu máy bay Spitfire thường được cho là tạo nên chiến thắng của Trận chiến Anh Quốc. Đây là một quan điểm thường được truyền bá trong văn hóa đại chúng, như trong phim The First of the Few. Tuy nhiên, việc duy trì tinh thần của nhân dân dưới các trận không kích mang tính sống còn, không nghi ngờ gì, chiếc Spitfire và những truyền thuyết của nó góp phần vào công cuộc này.Spitfire là một trong những máy bay tốt nhất của cuộc chiến; ngay cả các phi công, sử gia và người thường đều thường cho rằng nó có tính lôi cuốn thẩm mỹ nhất. Tuy vậy, nó thường được so sánh với chiếc Hawker Hurricane, vốn được sử dụng với số lượng lớn trong những giai đoạn khó khăn của năm 1940. Mặc dù những chiếc Spitfire và Hurricane đời đầu đều trang bị vũ khí giống nhau (tám súng máy 7,696 mm/0,303 inch), việc sắp xếp các khẩu súng trên chiếc Hurricane tốt hơn, cho phép có một sơ đồ hỏa lực chụm hơn. Một tốc độ tối đa thấp hơn và tính năng bay kém hơn ở tầm cao làm cho những chiếc Hurricane trở nên mong manh hơn đối với những máy bay tiêm kích hộ tống Đức. Khi nào có thể, chiến thuật của Không quân Hoàng gia trong Trận chiến Anh Quốc là sử dụng các phi đội Hurricane để tấn công các máy bay ném bom, giữ lại những chiếc Spitfire để đối phó những máy bay tiêm kích hộ tống Đức. Tính chung, Hurricane bắn rơi nhiều máy bay của Không quân Đức hơn chiếc Spitfire, cả tiêm kích lẫn ném bom, chủ yếu là do thành phần nhiều hơn của Hurricane trên bầu trời. Bảy trong mỗi mười máy bay Đức bị tiêu diệt trong Trận chiến Anh Quốc là do phi công Hurricane. Thiệt hại cũng lớn hơn do số lượng máy bay Hurricane nhiều hơn. Phân tích sau chiến tranh cho thấy mặc dù được sử dụng với số lượng ít hơn, tỉ lệ thắng-thua của chiếc Spitfire có nhỉnh hơn chiếc Hurricane.[9]
Các kiểu Mark I và Mark II phục vụ trong suốt trận chiến và sau đó đến tận năm 1941. Cả hai đều được trang bị tám súng máy Browning 0,303 inch. Rất thường gặp trong quá trình Trận chiến Anh Quốc, các máy bay Đức có thể quay trở về căn cứ an toàn với số lượng nhiều đáng ngạc nhiên các lổ đạn 0,303 inch vì các máy bay Không quân Đức nhận được nhiều vỏ giáp tiến bộ hơn tại các vùng trọng yếu. Việc sử dụng một số lượng nhỏ hơn súng máy nặng có cỡ nòng lớn hơn sẽ mang lại hiệu quả hơn, và điều này được điều chỉnh trong các phiên bản Spitfire tiếp theo. Kiểu Mark V đưa vào hoạt động từ đầu năm 1941 và là phiên bản đầu tiên được trang bị pháo tự động hiệu quả và tin cậy (phiên bản Mark IB của 19 phi đội từng được thử gắn hai pháo Hispano-Suiza HS.404 20 mm vào năm 1940, cho dù việc thường xuyên tắc nghẽn làm cho kiểu này bị thay thế bằng máy bay vũ trang thông thường vào tháng 9 năm 1940). Cấu hình "B" gồm hai pháo 20 mm và bốn súng máy 0,303 inch trở thành tiêu chuẩn trong những năm giữa của chiến tranh.
Một kiểu máy bay đương thời, chiếc Messerschmitt Bf 109 của Không quân Đức, có kích thước, tính chất và tính năng bay tương tự với chiếc Spitfire. Một vài lợi thế vốn có giúp cho chiếc Spitfire chiến thắng nhiều trận không chiến, đáng chú ý nhất là độ cơ động: chiếc Spitfire có tốc độ quay vòng lớn hơn chiếc Messerschmitt. Tầm nhìn từ buồng lái tốt cũng có thể là một yếu tố, vì những chiếc Bf 109 đời đầu có một ngăn chật hẹp với các cửa sổ gồm khung gắn nhiều tấm. Công bằng mà nói, chúng ít gây ra sự méo hình ảnh hơn nóc buồng lái được "thổi" từ kính Plexiglass. Khi các phi công Đức thấy cái mà họ nghĩ là chiếc Spitfire mà không rõ kiểu máy bay thực sự, họ thường gọi cho nhau qua vô tuyến và nói "Achtung! Schpitfeur" (Coi chừng, Spitfire đấy), mà sau này dẫn đến cái được gọi là "nỗi ám ảnh Spitfire". Tại Malta, không có khả năng tung ra một cuộc tấn công, một phi công Canada được trang bị một bộ radio đặt trên mặt đất, đã ra những mệnh lệnh giả bằng tiếng Đức và hậu quả là hai chiếc Bf 109 đã bắn rơi lẫn nhau trong sự hoảng loạn tưởng là có một chiếc Spitfire đang đến.[10]
Trong giai đoạn phát triển đầu tiên, động cơ Merlin không được phun nhiên liệu trực tiếp, nên cả Spitfire lẫn Hurricane, không như chiếc Bf 109E, không thể chúc đầu máy bay để bổ nhào lâu được. Điều đó có nghĩa là những máy bay tiêm kích Đức chỉ cần đơn giản bổ nhào hết ga để thoát khỏi cú tấn công, để lại chiếc Spitfire bị khục khặc đàng sau vì nhiên liệu bị gia tốc G âm đẩy hết ra khỏi bộ chế hòa khí. Phi công tiêm kích Không quân Hoàng gia không lâu sau học được cách "lộn nữa vòng" máy bay của họ trước khi bổ nhào nhằm tấn công đối thủ. Việc sử dụng bộ chế hòa khí không phun nhiên liệu đã được tính toán để cung cấp công suất đặc dụng do nhiệt độ thấp, và do đó có nồng độ hỗn hợp nhiên liệu-khí cao hơn được nạp vào động cơ so với hệ thống phun nhiên liệu. Vào tháng 3 năm 1941, một màng chắn kim loại có một lổ thủng được gắn ngang buồng nổi của bộ chế hòa khí. Nó cải thiện được phần nào vấn đề thiếu hụt nhiên liệu khi bổ nhào, và được biết đến dưới cái tên "cái lổ của cô Shilling" vì nó được phát minh bởi một kỹ sư phụ nữ, Beatrice "Tilly" Shilling. Các cải tiến khác được đưa ra trong suốt quá trình phát triển loạt động cơ Merlin, với việc phun nhiên liệu trực tiếp được áp dụng vào năm 1943. Việc sản xuất phiên bản Spitfire Mk XII trang bị động cơ Griffon đã được bắt đầu một năm trước đó.
Tấn công Châu Âu 1941-1943
Việc chiếc Focke-Wulf Fw 190 được đưa vào hoạt động vào cuối năm 1941 dọc theo Eo biển Anh Quốc gây một cú sốc cho Bộ chỉ huy Tiêm kích Không quân Hoàng gia; chiếc máy bay tiêm kích Đức mới tỏ ra vượt trội hơn phiên bản Mark VB đang có trong mọi tính năng ngoại trừ đường kính quay vòng. Số máy bay Spitfire của Bộ chỉ huy Tiêm kích bị thiệt hại nặng nề, và ưu thế trên không chuyển sang phía Không quân Đức hầu như trong suốt năm 1942, cho đến khi phiên bản Mark IX trang bị động cơ Merlin 61 bắt đầu hoạt động với số lượng đáng kể. Trong một cố gắng nhằm đạt được một ít độ cân bằng so với chiếc Fw 190, một số phi đội vẫn đang sử dụng phiên bản Mark V nhận được sự cải tiến đặc biệt với đầu cánh được cắt bớt bốn feet (để cải thiện tốc độ lộn vòng) và giảm số cánh quạt trong bộ siêu tăng áp động cơ Merlin để có tính năng hoạt động tối ưu ở độ cao thấp. Những máy bay này được đặt tên chính thức là LF Mark V, nhưng cũng được các phi công gọi là "Clipped, Clapped and Cropped Spit" (Spitfire bị cắt, vỗ, xén), cũng mang một ý nghĩa khác là trong thực tế nhiều chiếc Spitfire như vậy sau khi cải tiến, sẽ có được những ngày tươi sáng hơn.Khi chiến dịch ném bom chiến lược Mỹ được chuẩn bị tung ra vào giữa năm 1943, nhu cầu cần có máy bay tiêm kích hộ tống khiến phần lớn lực lượng Spitfire của Bộ chỉ huy Tiêm kích được dùng cho vai trò này, khi mà các phi đoàn tiêm kích Mỹ vẫn còn đang được chuẩn bị. Tuy nhiên, tầm bay không đủ dài của chiếc Spitfire khiến các hoạt động hỗ trợ từ phía Không quân Hoàng gia chỉ giới hạn ở phía Bắc nước Pháp và eo biển Anh Quốc. Khi cuộc chiến ngày càng ác liệt trên phần đất Châu Âu bị chiếm đóng, những máy bay tiêm kích của Không lực Mỹ như P-47, P-38 và P-51 chịu đựng gánh nặng bảo vệ những chiếc máy bay ném bom. Các phi đội Spitfire IX phải chờ cho đến thời gian của chúng, cho đến lúc tấn công Châu Âu, trước khi đối địch một cách toàn diện với lực lượng tiêm kích của Không quân Đức.
Mặt trận Địa Trung Hải
Những chiếc Spitfire đầu tiên có mặt chiến đấu tại nước ngoài là phiên bản Mark V cất cánh từ sàn đáp tàu sân bay HMS Eagle đến Malta vào tháng 3 năm March 1942. Trong những tháng tiếp theo sau, khoảng 275 chiếc Spitfire được giao đến hòn đảo bị bao vây. Để đối phó tình trạng bụi bặm thường gặp, chiếc Spitfire được gắn một bộ lọc không khí Vokes to dưới mũi máy bay, làm giảm tính năng bay do tăng lực cản trên chiếc máy bay. Phiên bản Spitfire V, và sau này là phiên bản Mark VIII được cải tiến nhiều hơn và tầm bay xa hơn, không lâu sau đã sẵn sàng để hoạt động tại Mặt trận Bắc Phi, và từ đó về sau, đóng vai trò chủ yếu trong Không quân Hoàng gia, Không quân Nam Phi và Không lực Lục quân Hoa Kỳ trong các chiến dịch tại Sicilia và Italy.Sau khi Mussolini bị hạ bệ và thỏa thuận đình chiến vào ngày 9 tháng 9 năm 1943, Không quân Co-Belligerent Italy (ICAF) bắt đầu được trang bị những chiếc máy bay Spitfire Mk V dư ra trong các phi vụ tấn công mặt đất được thực hiện tại Albania kể từ ngày 23 tháng 10 năm 1944. Đến ngày 31 tháng 12 năm 1944 có 17 chiếc Mk V Spitfire được đưa vào hoạt động, và sau đó sở hữu được tổng cộng 40 chiếc MK V. Hai chiếc Spitfire Italy đã bay phi vụ cuối cùng trong cuộc chiến tranh tại Châu Âu vào ngày 5 tháng 5 năm 1945.[11]
Châu Á và Thái Bình Dương
Không quân Hoàng gia Australia, Không quân Hoàng gia Ấn Độ và Không quân Hoàng gia Anh cũng sử dụng những chiếc Spitfire để chống lại các lực lượng Nhật Bản tại Mặt trận Thái Bình Dương. Những chiếc Spitfire đầu tiên tại Viễn Đông là hai chiếc máy bay phiên bản trinh sát hình ảnh (PR IV) bắt đầu hoạt động từ tháng 10 năm 1942. Các trận không kích của Nhật Bản vào phía Bắc Australia trong những năm 1942-1943 đã thúc đẩy sự thành lập Phi đoàn 1 Không quân Hoàng gia Australia vào cuối năm 1942 (bao gồm Phi đội 54 Không quân Hoàng gia Anh, các Phi đội 452 và 457 Không quân Hoàng gia Australia), được trang bị Spitfire Vb. Phi đoàn này đến Darwin vào tháng 2 năm, và tham gia chiến đấu thường xuyên cho đến tận tháng 9. Tại chiến trường Ấn Độ-Miến Điện, những chiếc Spitfire V đầu tiên chỉ có mặt vào tháng 9 năm 1943. Những chiếc Spitfire phiên bản Mk VIII được giao cho Không quân Hoàng gia Australia vào tháng 4 năm 1944. Phi công Spitfire tại Châu Á và Thái Bình Dương đã rất ngạc nhiên khi khám phá ra rằng họ không thể đuổi theo nhiều kiểu máy bay tiêm kích Nhật Bản, như là chiếc A6M-Zero, khi lượn vòng. Điều mỉa mai là, họ buộc phải áp dụng chiến thuật tương tự như các phi công Đức thường dùng khi phải đối mặt với những chiếc Spitfire: sử dụng tốc độ cao đặc biệt là khi bổ nhào, để tấn công nhào xuống, vào những chiếc máy bay Nhật vốn đã đạt đến giới hạn của tầm bay.Ngày D và sau đó
Sau cuộc Đổ bộ Normandy, các phi đội Spitfire được chuyển sang bên kia Eo biển Anh Quốc, hoạt động từ các sân bay chiến thuật dã chiến gần tiền duyên đối phương. Vì các lực lượng không quân Đồng Minh đã chiếm được ưu thế trên không, phi công Spitfire ít có dịp chiến đấu cùng máy bay tiêm kích Đức, tập trung những nỗ lực của họ trên lãnh thổ Đức để tấn công các mục tiêu dưới đất và hỗ trợ chiến thuật cho các đơn vị lục quân. Hệ thống làm mát động cơ Merlin bằng glycol tỏ ra đặc biệt mong manh trước hỏa lực mặt đất cỡ nhỏ, chỉ cần một viên đạn không đúng chỗ là đủ để làm hỏng động cơ.Những phiên bản Spitfire mới hơn và nhanh hơn được giữ lại nước Anh để đối phó cuộc tấn công của những trái bom bay V-1 Đức từ giữa năm 1944, cho dù những máy bay này cũng được bố trí bên kia Eo biển Anh Quốc trước khi cuộc chiến tại Châu Âu kết thúc.
Phục vụ sau chiến tranh
Sau Thế Chiến II, Spitfire được giữ lại phục vụ trong không lực của nhiều nước trên thế giới, và tiếp tục sử dụng cho đến tận thập niên 1960.- Châu Âu
Những chiếc Spitfire đã đóng vai trò quan trọng trong cuộc Nội chiến Hy Lạp, được Không quân Hoàng gia Anh và Không quân Nam Phi sử dụng vào tháng 10 đến tháng 12 năm 1944, và bởi Không quân Hy Lạp từ năm 1946 đến cuối cuộc chiến vào tháng 8 năm 1949.
Sau Thế Chiến II, tám chiếc Spitfire Mk V còn bay được của Không quân Italy được bổ sung bởi 145 chiếc Mk IX (sở hữu trong hai đợt gồm 60 và 85 máy bay). Những chiếc Spitfire được đưa vào hoạt động trong các Phi đoàn 51 và 5 thực hiện các phi vụ trinh sát tại Balkans cũng như phối hợp cùng Lục quân Italy và thực hiện nhiệm vụ phòng thủ. Được các phi công ưa chuộng, Spitfire cũng tham gia nhiều cuộc đua hàng không sau chiến tranh tranh các giải thưởng bao gồm giải Zerbinati. Những chiếc Spitfire Mk IX phục vụ cho đến năm 1950-1952 khi một nhóm nhỏ gồm 30 còn lại được cung cấp cho Không quân Israel (HHA); rồi sau đó, những máy bay cũ của Italy được gửi cho Miến Điện vào năm 1954-1955.[11] Ngày hôm nay, một chiếc Spitfire Mk IX của Không quân Italy, số hiệu MM.4084, đang được trưng bày tại Vigna di Valle, Roma.
- Trung Đông
Các kỷ lục về tốc độ và cao độ
Bắt đầu từ cuối năm 1943, các thử nghiệm bổ nhào tốc độ cao được thực hiện tại Farnborough để khám phá các đặc tính điều khiển của chiếc máy bay khi tốc độ đạt gần đến hàng rào âm thanh (tức là khởi đầu các hiệu ứng do nén). Bởi vì nó là chiếc máy bay đạt được tốc độ nhanh nhất gần tốc độ âm thanh (Mach), chiếc Spitfire XI được chọn để tham gia các thử nghiệm này. Do độ cao cần thiết phải đạt được dùng cho việc bổ nhào này, một kiểu cánh quạt nhẹ Rotol được trang bị để ngăn ngừa quá tải vòng quay động cơ. Trong những thử nghiệm như vậy mà chiếc máy bay số hiệu EN409, do Thiếu tá J. R. Tobin điều khiển đã đạt được tốc độ 975 km/h (606 mph; Mach 0.891) trong một cú bổ nhào 45°. Vào ngày 27 tháng 4 năm 1944 chiếc máy bay đó bị hỏng động cơ trong một lần bổ nhào được thực hiện bởi Thiếu tá A. F. Martindale, cánh quạt và hộp số giảm tốc bị vỡ. Martindale đã lướt thành công quãng đường 30 km (20 dặm) quay trở về sân bay và hạ cánh an toàn.Vào ngày 5 tháng 2 năm 1952, một chiếc Spitfire Mk 19 thuộc Phi đội 81 Không quân Hoàng gia trú đóng tại Hồng Công đã đạt được có lẽ là độ cao cao nhất từng đạt đến bởi một chiếc Spitfire. Viên phi công, Đại úy Ted Powles, đang trong một chiến bay thường xuyên khảo sát nhiệt độ không khí bên ngoài và báo cáo về những điều kiện khí hậu khác tại những cao độ khác nhau nhằm chuẩn bị cho các dịch vụ hàng không trong khu vực. Ông đã đạt đến độ cao danh định 15.240 m (50.000 ft) và độ cao thực là 15.712 m (51.550 ft), là độ cao cao nhất từng được ghi nhận bởi một chiếc Spitfire. Áp lực bên trong buồng lái giảm đến mức dưới an toàn, và trong khi hạ độ cao, ông bị lọt vào một cú bổ nhào không kiểm soát được làm rung lắc máy bay dữ dội. Ông sau cùng lấy lại được sự kiểm soát máy bay ở độ cao khoảng dưới 900 m (3.000 ft), và đã hạ cánh an toàn mà không bị hư hại gì cho chiếc máy bay. Các thiết bị đã ghi nhận được là trong khi bổ nhào, ông đã đạt đến tốc độ 1110 km/h (690 mph) hay Mach 0,94, vốn là tốc độ nhanh nhất đạt được bởi một chiếc máy bay cánh quạt. Ngày nay, người ta hầu như tin rằng con số tốc độ này là kết quả của các sai lầm về công cụ đo và có thể xem như không thực tế.
Các nước sử dụng
- Úc
- Bỉ
- Myanmar
- Canada
- Trung Hoa Dân Quốc
- Đan Mạch
- Egypt
- Pháp
- Germany
- Greece
- Hong Kong
- Ấn Độ
- Ireland
- Israel
- Ý
- Hà Lan
- New Zealand
- Na Uy
- Ba Lan
- [12]
- Bồ Đào Nha
- Philippines
- South Africa
- Liên Xô
- Thụy Điển
- Syria
- Thái Lan
- Thổ Nhĩ Kỳ
- Anh Quốc
- United States
- Nam Tư
Đặc điểm kỹ thuật (Spitfire Mk Vb)
Tham khảo: The Great Book of Fighters[13] và Jane’s Fighting Aircraft of World War II[14]Đặc tính chung
- Đội bay: 01 người
- Chiều dài: 9,12 m (29 ft 11 in)
- Sải cánh: 11,23 m (36 ft 10 in)
- Chiều cao: 3,86 m (11 ft 5 in)
- Diện tích bề mặt cánh: 22,48 m² (242,1 ft²)
- Lực nâng của cánh: 119,91 kg/m² (24,56 lb/ft²)
- Trọng lượng không tải: 2.309 kg (5.090 lb)
- Trọng lượng có tải: 3.000 kg (6.622 lb)
- Trọng lượng cất cánh tối đa: 3.071 kg (6.770 lb)
- Động cơ: 1 x động cơ Rolls-Royce Merlin-45 V12 siêu tăng áp, công suất 1.470 mã lực (1.096 kW) ở độ cao 2.820 m (9.250 ft)
Đặc tính bay
- Tốc độ lớn nhất: 605 km/h (330 knot, 378 mph)
- Tầm bay tối đa: 1. 840 km (991 nm, 1.140 mi)
- Bán kính chiến đấu: 760 km (410 nm, 470 mi)
- Trần bay: 11.300 m (35.000 ft)
- Tốc độ lên cao: 13,5 m/s (2.665 ft/min)
- Tỉ lệ công suất/khối lượng: 0,36 kW/kg (0,22 hp/lb)
Vũ khí
- 2 × pháo tự động Hispano-Suiza HS.404 20 mm (0,787 in), 60 (sau này tăng lên 120) viên đạn mỗi khẩu
- 4 × súng máy Browning M1919 7,7 mm (0,303 in), 350 viên đạn mỗi khẩu
- 2 × 110 kg (250 lb) bom
Tham khảo
- Chú thích
- ^ Morgan, Eric B. and Shacklady, Edward. Spitfire: The History. London: Key Publishing, 1992. ISBN 0-946219-10-9.
- ^ Green, William. Famous Fighters of the Second World War, 3rd ed. New York: Doubleday, 1975. ISBN 0-356-08334-9.
- ^ Avia.russia.ee Accessed 6 March 2007.
- ^ Carpenter, Chris. Flightwise: Part 1, Principles of Aircraft Flight. Shrewsbury, UK: AirLife, 1996. ISBN 1-85310-719-0.
- ^ Wikidictionary: spitfire
- ^ Deighton 1977
- ^ Flintham, Victor. Air Wars and Aircraft: A Detailed Record of Air Combat, 1945 to the Present. New York: Facts on File, 1990. p. 254-263. ISBN 0-8160-2356-5.
- ^ Bader 2004, p. 46.
- ^ Bungay, Stephen. The Most Dangerous Enemy: A History of the Battle of Britain . London, Aurum Press, 2000. ISBN 1-85410-801-8
- ^ Bader 1973, p. 91, 125 164.
- ^ a b Gueli 1998, p. 4-14.
- ^ List of Spitfire I and II aircraft used by Polish Air Force squadrons (PDF file)
- ^ Green, William and Swanborough, Gordon. The Great Book of Fighters. St. Paul, Minnesota: MBI Publishing, 2001. ISBN 0-7603-1194-3.
- ^ Jane, Fred T. “The Supermarine Spitfire.” Jane’s Fighting Aircraft of World War II. London: Studio, 1946. p. 139-141. ISBN 1 85170 493 0.
- Thư mục tham khảo
- Bader, Douglas. Fight for the Sky: The Story of the Spitfire and Hurricane. London: Cassell Military Books, 2004. ISBN 0-304-35674-3.
- Bungay, Stephen. The Most Dangerous Enemy - A History of the Battle Of Britain. London: Aurum, 2006. ISBN 1-85410-801-8.
- Deighton, Len. Fighter: The True Story of the Battle of Britain. London: Grafton 1977. ISBN 0-7858-1208-3.
- Dibbs, John and Holmes, Tony. Spitfire: Flying Legend. Southampton UK: Osprey Publishing, 1997. ISBN 1-84176-005-6.
- Flintham, Victor. Air Wars and Aircraft: A Detailed Record of Air Combat, 1945 to the Present. New York: Facts on File, 1990. ISBN 0-8160-2356-5.
- Gueli, Marco. "Spitfire con Coccarde Italiane (Spitfire in Italian service)." Storia Militare n.62, November 1998.
- Palfrey, Brett R. and Whitehead, Christopher. Supermarine Spitfire - History of a Legend. Royal Air Force (RAF). [1] Access date: 27 December 2006.
- Quill. Jeffrey. Spitfire: A Test Pilot’s Story. London: Arrow Books, 1983. ISBN 0-09-937020-4.
- Price, Alfred. The Spitfire Story. London: Silverdale Books, 1995. ISBN 1-85605-702-X.
- Spick, Mike. Supermarine Spitfire. New York: Gallery Books, 1990. ISBN 0-8317-1403-4.
- Bungay, Stephen. The Most Dangerous Enemy: A History of the Battle of Britain . London, Aurum Press, 2000. ISBN 1-85410-801-8
Liên kết ngoài
- The Spitfire Society
- The Spitfire Society: Spitfire Marks
- http://www.supermarine-spitfire.co.uk/spitfire.html
- Combat History of the Supermarine Spitfire - The Defence of Malta (1942)
- Warbird Alley: Spitfire page - Information about Spitfires still flying today
- K5054 - Supermarine Type 300 prototype Spitfire & production aircraft history
- The Supermarine Spitfire in Indian Air Force Service
- The Spitfire : Seventy Years On - Includes images of the factory
- Y2K Spitfire Restoration Project
- Spitfire drawings online
- A rare colour photo of a Spitfire Supermarine Mk VB in flight during the Second World War
- Birmingham - the workshop of the war
- Supermarine Spitfire Mk VIII - Temora Aviation Museum page
- Supermarine Spitfire Mk XVI - Temora Aviation Museum page
- National Heritage Warbird Foundation
- Giới thiệu sơ Spitfire
Nội dung liên quan
Máy bay liên quan
Wikimedia Commons có thêm thể loại hình ảnh và tài liệu về Supermarine Spitfire |
Máy bay tương tự
- Bell P-39
- Curtiss P-40
- Dewoitine D.520
- Focke Wulf Fw 190
- Hawker Hurricane
- Hawker Tempest
- Heinkel He 112
- Kawasaki Ki-61 Hien
- Macchi MC.202 Folgore
- Macchi C.205 Veltro
- Martin-Baker M.B.5
- Messerschmitt Bf 109
- Mikoyan-Gurevich MiG-3
- North American P-51 Mustang
- Yakovlev Yak-9
Trình tự thiết kế
Walrus - Spitfire - Sea Otter - Spiteful - Attacker - Seagull - Swift - ScimitarDanh sách liên quan
- Danh sách máy bay chiến đấu
- Danh sách máy bay quân sự Anh Quốc
- Danh sách máy bay trong Chiến tranh Thế giới II
- Danh sách máy bay tiêm kích
|
|
|
|
Thể loại:
Quảng Tây (Tiếng Tráng: Gvangjsih; chính tả kiểu cũ: Gvaŋзsiƅ; chữ Hán giản thể: 广西; chữ Hán phồn thể: 廣西; bính âm: Guǎngxī), tên đầy đủ Khu tự trị dân tộc Choang Quảng Tây (Tiếng Tráng: Gvangjsih Bouxcuengh Swcigih (Quảng Tây người Tráng tự trị khu); chính tả kiểu cũ: Gvaŋзsiƅ Bouчcueŋƅ Sɯcigiƅ; chữ Hán giản thể: 广西壮族自治区 (Quảng Tây Tráng tộc tự trị khu); chữ Hán phồn thể: 廣西壯族自治區; bính âm: Guǎngxī Zhuàngzú Zìzhìqū) là một khu tự trị của dân tộc Choang tại Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.
Vào cuối đời nhà Thanh, ở huyện Quế Bình, miền đông Quảng Tây, đã nổ ra Khởi nghĩa Kim Điền (金田起义) vào ngày 11 tháng 1 năm 1851, khởi đầu của phong trào khởi nghĩa nông dân vĩ đại Thái Bình Thiên Quốc. Cửa ải Trấn Nam Quan (ngày nay là Hữu Nghị Quan) trên biên giới với Việt Nam cũng là nơi diễn ra trận đánh Trấn Nam Quan (镇南关战役) nổi tiếng vào ngày 23 tháng 3 năm 1885, trong Chiến tranh Pháp-Thanh. Trong trận đánh này, mũi tấn công của quân Pháp đã bị lực lượng Trung Quốc của tướng Phùng Tử Tài (冯子才) đánh bại, một sự kiện lịch sử rất được những người yêu nước Trung Hoa ca tụng.
Sau ngày thành lập Trung Hoa Dân Quốc, Quảng Tây trở thành căn cứ của một trong những tập đoàn quân phiệt hùng mạnh nhất của Trung Quốc: Tập đoàn Quảng Tây (Quế hệ) cũ. Do Lục Vinh Đình (陆荣廷) và những người khác lãnh đạo, tập đoàn này đã vươn ra kiểm soát cả các tỉnh Hồ Nam và Quảng Đông ở liền kề. Đầu thập niên 1920, Tập đoàn Quảng Tây cũ bị thất bại, và được thay thế bằng Tập đoàn Quảng Tây mới, do Lý Tông Nhân và Bạch Sùng Hi cầm đầu. Quảng Tây còn được nhắc đến bởi Khởi nghĩa Bách Sắc (百色起义), một cuộc khởi nghĩa cộng sản do Đặng Tiểu Bình lãnh đạo vào năm 1929. Các căn cứ cộng sản đã được thiết lập mặc dù cuối cùng đều bị lực lượng Quốc dân Đảng tiêu diệt.
Vào năm 1944 gần kết thúc Thế chiến II, Nhật Bản chiếm đóng Quảng Tây sau Chiến dịch Ichigo (hay còn gọi là Chiến dịch Dự Tương Quế (豫湘桂战役) trong một nỗ lực thu tóm tuyến đường sắt Hồ Nam-Quảng Tây và thiết lập một vùng đất nối với Đông Dương Pháp thuộc. Người Nhật đã chiến thắng và một loạt các thành phố chính ở Quảng Tây trở thành thuộc địa của Nhật Bản.
Nằm ở xa phía nam, lực lượng cộng sản kiểm soát Quảng Tây muộn hơn. Chính quyền tỉnh thay đổi vào tháng 12 năm 1949, hai tháng sau khi thành lập nước Cộng hòa Nhân dân. Vào năm 1958, Quảng Tây được chuyển đổi thành Khu tự trị dân tộc Tráng/Choang theo đề nghị của Thủ tướng Chu Ân Lai. Quyết định này được đưa ra do người Tráng là một trong những dân tộc thiểu số lớn nhất ở Trung Hoa, và tập trung nhiều ở Quảng Tây; tuy nhiên người Tráng vẫn chỉ chiếm thiểu số trong dân số Quảng Tây. Suốt chiều dài lịch sử, Quảng Tây là vùng đất nội lục (không có biển). Năm 1952 một phần nhỏ của bờ biển Quảng Đông được chuyển giao cho Quảng Tây, từ đó vùng đất này được thông với biển. Năm 1955 chuyển giao lại, và năm 1965 tiếp nhận lại.
Mặc dù có sự phát triển công nghiệp nặng diễn ra trong tỉnh trong suốt những năm 1960 và 1970, vẫn còn rất nhiều các danh lam thắng cảnh du lịch hấp dẫn mọi người trên khắp thế giới. Thậm chí mức tăng trưởng kinh tế ở Trung Quốc trong những năm 1990 dường như để Quảng Tây tụt lại phía sau. Tuy nhiên trong những năm gần đây đã có sự tăng trưởng mạnh về công nghiệp hóa và tập trung hóa cây trồng. GDP đầu người đã tăng nhanh chóng do các ngành công nghiệp ở Quảng Đông phải tìm kiếm các địa điểm sản xuất tại các khu vực có giá nhân công rẻ hơn.
Quảng Tây là vùng núi. Dãy Nam Lĩnh nằm ở ranh giới phía đông bắc, với Việt Thành Lĩnh (越城岭) và Hải Dương Sơn (海洋山) là những nhánh ngắn của Nam Lĩnh. Gần vào giữa tỉnh hơn có các núi Đại Dao Sơn (大瑶山) và Đại Minh Sơn (大明山). Về phía bắc có các núi Đô Dương Sơn (都阳山) và Phượng Hoàng Sơn (凤凰山), còn ở vùng ranh giới đông nam có núi Vân Khai Đại Sơn (云开大山). Đỉnh núi cao nhất Quảng Tây là Miêu Nhi Sơn, thuộc dãy Việt Thành Lĩnh, cao 2141 m.
Nhiều con sông cắt qua các dãy núi tạo thành các thung lũng. Hầu hết các sông này đều thuộc lưu vực sông Tây Giang:
Quảng Tây có bờ biển ngắn nằm bên Vịnh Bắc Bộ. Các hải cảng chính là Bắc Hải, Khâm Châu và Phòng Thành Cảng.
Quảng Tây có khí hậu cận nhiệt đới. Mùa hè thường dài và nóng. Nhiệt độ trung bình hàng năm từ 17 - 23 °C, trong khi lượng mưa hàng năm từ 1250 - 1750 mm.
Thành phố chính: Nam Ninh, Bắc Hải, Quế Lâm, Liễu Châu. Thị xã tiêu biểu: Long Môn, Tam Giang, Dương Sóc.
Nhìn từ tổng thể, trước khi nước Trung Quốc mới thành lập, Quảng Tây giống như toàn quốc, vẫn bảo lưu đặc điểm tái sinh sản dân số truyền thống. Một là tăng trưởng dân số có sự tăng mạnh giảm mạnh mang tính chu kỳ. Khi kẻ thống trị thu thuế ít, xã hội ổn định, kinh tế phồn vinh, dân số tăng gấp; Khi kẻ thống trị vơ vét bóp nặn (sưu cao thuế nặng), xã hội bất ổn định, kinh tế tiêu điều, dân số giảm mạnh. Hai là tỷ lệ sinh cao, tỷ lệ tử vong cao, tỷ lệ tăng trưởng tự nhiên thấp. Theo điều tra, trước năm 1949, tỷ lệ dân số tử vong của Trung Quốc là 25%0 - 33%0, tỷ lệ tử vong trẻ em chiếm 1/5 – 1/4 số dân số ra đời, tỷ lệ dân số ra đời đạt tới 35‰ - 38‰. Sau khi nước Trung Quốc mới thành lập, quá trình phát triển của dân số Quảng Tây về đại thể đã trải qua mấy giai đoạn sau:
Giai đoạn thứ nhất, thời kỳ cao trào sinh đẻ thứ nhất (1953 - 1958). Trong thời kỳ này, chính quyền mới đã dẹp yên tình hình rối loạn của chiến tranh, đồng thời đã tiến hành cải cách đất đai ở trong phạm vi toàn tỉnh, đã ngăn chặn hiệu quả hiện tượng nghèo hoá của kinh tế nông thôn, tỷ lệ tử vong của dân số liên tục hạ xuống, còn tỷ lệ sinh dân số tương đối cao, tổng số dân số từ 19,76 triệu người tăng lên đến 21,86 triệu người, trung bình năm tăng 420.000 người, tỷ lệ tăng trưởng dân số tự nhiên gần 21‰.
Giai đoạn thứ hai, thời kỳ thoái trào sinh đẻ thứ nhất (1959 - 1961). Trong thời gian này, do chịu ảnh hưởng của “đại nhảy vọt” “cộng sản phong”, phát triển của kinh tế quốc dân đã gặp trắc trở nghiêm trọng, mức sống của nhân dân hạ thấp nhanh chong, thêm vào liên tục gặp phải thiên tai, gây nên tỷ lệ sinh dân số giảm mạnh, tỷ lệ tử vong tăng đột ngột, tổng số dân số từ 22,05 triệu người giảm xuống còn 21,59 triệu người, trung bình năm giảm 230.000 người, tỷ lệ tăng trưởng tự nhiên dân số là -10,5‰.
Giai đoạn thứ ba, thời kỳ cao trào sinh đẻ dân số thứ hai (1962-1972). Trong thời kỳ này, do quan niệm cũ “đông con nhiều phúc” của mọi người chưa thay đổi, chính phủ càng buông tuồng hành vi sai lầm “đông con nhiều phúc”, do đó khi thiên tai vừa qua, cách làm “cộng sản phong” vừa mới được sửa chữa, liền xuất hiện cao trào tăng trưởng dân số thứ hai. Tổng dân số từ 22,18 triệu người tăng lên đến 29,73 triệu người, trung bình năm tăng 755.000 người, tỷ lệ tăng dân số tự nhiên là 29,7‰, còn cao hơn gần 4 phần nghìn so với mức trung bình toàn quốc. Trong thời kỳ này dân số tăng tịnh của Quảng Tây là 7,55 triệu người, đã hình thành cao trào sinh đẻ dân số lần thứ hai sau khi thành lập nước. Chính lần cao trào sinh dân số này, đã tăng thêm một bước cơ số dân số của Quảng Tây, đã tăng thêm khó khăn chồng chất cho việc thực hiện chính sách sinh đẻ kế hoạch sau thập niên 80 thế kỷ 20 của Quảng Tây, đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến tốc độ của phát triển kinh tế và xã hội của Quảng Tây.
Giai đoạn thứ tư, thời kỳ thoái trào sinh đẻ dân số thứ hai (1973-1984). Trong thời kỳ này, do Đảng và chính phủ quyết tâm nắm chặt sinh đẻ kế hoạch, cuối cùng làm cho tỷ lệ sinh hạ xuống một chút, từ đó làm cho tỷ lệ tăng trưởng dân số tự nhiên cũng hạ thấp từng năm, từ 28,3%0 năm 1973 hạ dần xuống còn 19,6‰.
Giai đoạn thứ năm, giai đoạn hạ xuống sau khi tỷ lệ tăng trưởng dân số tự nhiên xuất hiện tăng trở lại rõ rệt (sau năm 1985). Kể từ nửa cuối năm 1984, nhà nước bắt đầu từng bước nới lỏng diện quan tâm đối với sinh hai. Do các nguyên nhân như kích thích nội tại của chế độ trách nhiệm bao thầu gia đình đối với mong muốn sinh đẻ của nông dân và xuất hiện sự yếu kém trong quản lý khi thể chế mới cũ thay thế, cũng như khó khăn mà lưu động dân số mang đến cho quản lý sinh đẻ kế hoạch và kết cấu tuổi tác v.v, kể từ sau năm 1985, tỷ lệ sinh và tỷ lệ tăng trưởng tự nhiên dân số trong toàn phạm vi khu tự trị xuất hiện sự tăng trở lại mạnh. Dân số tăng tịnh hàng năm từ 670.000 người năm 1985 tăng lên đến 920.000 người năm 1990, tỷ lệ tăng trưởng tự nhiên cũng từ 17,6%0 tăng lên đến 22,2‰. Tình hình phát triển này đã thu hút sự quan tâm mạnh mẽ của các nhân sĩ hữu quan, Trung ương Đảng, Quốc vụ viện càng hết sức coi trọng, đồng thời chỉ rõ, người lãnh đạo đảng chính phủ các khu vực chịu trách nhiệm chính đối với sinh đẻ kế hoạch. Sau năm 1990, tỷ lệ sinh và tỷ lệ tăng trưởng tự nhiên của dân số Quảng Tây xuất hiện xu thế hạ xuống theo năm, đến năm 2000, tỷ lệ tăng trưởng tự nhiên đạ hạ xuống còn 8‰.
Dân số Quảng Tây năm 2000 là 47,51 triệu, tương đương với 81,2% dân số nước Pháp, 57,9% dân số nước Đức, 80,8% dân số nước Anh, tuy nhiên tổng giá trị sản xuất quốc dân bình quân đầu người lại thấp hơn nhiều so với trình độ của những quốc gia này, còn không bằng 3% trình độ bình quân đầu người của các quốc gia nói trên. Khu tự trị là nơi tập trung nhiều Người Tráng, hơn 14 triệu, một trong những dân tộc thiểu số chính ở Trung Quốc. Hơn 90% người Tráng ở Trung Quốc sống ở Quảng Tây, đặc biệt là ở khu vực trung tâm và phía Tây. Cũng có một số lượng khá người dân tộc thiểu số Người Đồng và Người Miêu. Dân tộc thiểu số khác gồm: Người Dao, Người Hồi, Người Di, Lô Lô, Người Thủy, và Người Kinh (người Việt).
Những người dân tộc thiểu số ở Quảng Tây như người Tráng và người Đồng đều rất quan tâm đến du lịch. Phía bắc của tỉnh, tiếp giáp với Quý Châu, là quê hương của ruộng bậc thang Long Môn được coi là một trong những ruộng dốc nhất trên thế giới. Không xa đó là Huyện tự trị Đồng tộc Tam Giang.
Video yêu thích
http://www.youtube.com/user/hoangkimvietnam
Trở về trang chính
Hoàng Kim, hoangkim, hoangkimvietnam, Ngọc Phương Nam, Chào ngày mới Thung dung, Dạy và học, Cây Lương thực, Tin Nông nghiệp Việt Nam, Food Crops, Cassava in Vietnam, Khát khao xanh, Dayvahoc, Học mỗi ngày, Danh nhân Việt , Food Crops News, Điểm chính, CNM365, Kim LinkedIn, KimTwitter, KimFaceBook Đọc lại và suy ngẫm, Việt Nam tổ quốc tôi, Tình yêu cuộc sống, Thơ cho con
- Máy bay Supermarine
- Máy bay tiêm kích Anh 1930–1939
- Máy bay trinh sát quân sự Anh 1930–1939
- Máy bay huấn luyện quân sự Anh 1930–1939
- Máy bay chiến đấu
- Máy bay quân sự
- Máy bay tiêm kích
- Máy bay tiêm kích đánh chặn
- Máy bay trinh sát
- Máy bay huấn luyện
- Máy bay một động cơ
- Máy bay cánh quạt
- Máy bay cánh dưới
- Máy bay hoạt động trên tàu sân bay
- Máy bay trong Thế Chiến II
Quảng Tây
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Tên tắt: 桂 (bính âm: Quế) | |
Xuất xứ tên gọi | 广 quảng - rộng 西 - tây |
Kiểu hành chính | Khu tự trị |
Thủ phủ và thành phố lớn nhất |
Nam Ninh |
Bí thư khu ủy Quảng Tây | Bành Thanh Hoa (彭清华) |
Chủ tịch | Trần Vũ (陈武) |
Diện tích | 236.700 km² (thứ 9) |
Dân số (2010) - Mật độ |
46.026.629 (thứ 11) 194/km² (thứ 20) |
GDP (2011) - trên đầu người |
1171,4 tỉ NDT (185,9 tỉ USD) NDT (thứ 18) 25.315 NDT (3.919 USD) NDT (thứ 27) |
HDI (2008) | 0,776 (thứ 20) — trung bình |
Các dân tộc chính (2000) | Hán - 62% Choang - 32% Dao - 3% Miêu - 1% Động - 0,7% Ngật Lão - 0,4% |
Ngôn ngữ và phương ngôn | Quan thoại, tiếng Quảng Đông, tiếng Choang, tiếng Khách Gia, Bình thoại |
Cấp địa khu | 14 |
Cấp huyện | 109 |
Cấp hương (31 tháng 12, 2004) |
1396 |
ISO 3166-2 | CN-45 |
Website chính thức: http://www.gxi.gov.cn (chữ Hán giản thể) |
|
Nguồn lấy dữ liệu dân số và GDP: 《中国统计年鉴—2005》/ Niên giám thống kê Trung Quốc 2005 ISBN 7503747382 Nguồn lấy dữ liệu dân tộc: 《2000年人口普查中国民族人口资料》/ Tư liệu nhân khẩu dân tộc dựa trên điều tra dân số năm 2000 của Trung Quốc ISBN 7105054255 |
Mục lục
Tên gọi "Quảng Tây"
Quảng Tây là giản xưng của "Quảng Nam Tây lộ" (广南西路) từ thời nhà Tống. "Quảng" 广 có nghĩa là "mở rộng", và được đặt cho vùng này kể từ thời nhà Tây Tấn trở đi. "Quảng Tây" và tỉnh láng giềng Quảng Đông có tên gọi chung là "Lưỡng Quảng" (两广). Tên gọi tắt của khu tự trị này là "Quế" 桂, lấy theo tên Quế Lâm là một thành phố lớn trong khu tự trị.Lịch sử
Vùng đất này chính thức thuộc về Trung Quốc từ năm 214 trước Công nguyên, khi Quân đội nhà Tần xâm chiếm hầu hết miền Nam Trung Hoa ngày nay. Tên gọi "Quảng Tây" bắt nguồn từ thời nhà Tống, khi khu vực này được tổ chức thành một lộ, gọi là Quảng Nam Tây Lộ. Vào cuối đời nhà Nguyên, vùng này được tổ chức thành một tỉnh với tên gọi được rút gọn thành "Quảng Tây". Trong sáu thế kỷ tiếp theo, Quảng Tây vẫn là một tỉnh của Trung Quốc cho đến khi được Chính phủ Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa chuyển thành một khu tự trị dành cho dân tộc thiểu số đông đảo ở đây.Vào cuối đời nhà Thanh, ở huyện Quế Bình, miền đông Quảng Tây, đã nổ ra Khởi nghĩa Kim Điền (金田起义) vào ngày 11 tháng 1 năm 1851, khởi đầu của phong trào khởi nghĩa nông dân vĩ đại Thái Bình Thiên Quốc. Cửa ải Trấn Nam Quan (ngày nay là Hữu Nghị Quan) trên biên giới với Việt Nam cũng là nơi diễn ra trận đánh Trấn Nam Quan (镇南关战役) nổi tiếng vào ngày 23 tháng 3 năm 1885, trong Chiến tranh Pháp-Thanh. Trong trận đánh này, mũi tấn công của quân Pháp đã bị lực lượng Trung Quốc của tướng Phùng Tử Tài (冯子才) đánh bại, một sự kiện lịch sử rất được những người yêu nước Trung Hoa ca tụng.
Sau ngày thành lập Trung Hoa Dân Quốc, Quảng Tây trở thành căn cứ của một trong những tập đoàn quân phiệt hùng mạnh nhất của Trung Quốc: Tập đoàn Quảng Tây (Quế hệ) cũ. Do Lục Vinh Đình (陆荣廷) và những người khác lãnh đạo, tập đoàn này đã vươn ra kiểm soát cả các tỉnh Hồ Nam và Quảng Đông ở liền kề. Đầu thập niên 1920, Tập đoàn Quảng Tây cũ bị thất bại, và được thay thế bằng Tập đoàn Quảng Tây mới, do Lý Tông Nhân và Bạch Sùng Hi cầm đầu. Quảng Tây còn được nhắc đến bởi Khởi nghĩa Bách Sắc (百色起义), một cuộc khởi nghĩa cộng sản do Đặng Tiểu Bình lãnh đạo vào năm 1929. Các căn cứ cộng sản đã được thiết lập mặc dù cuối cùng đều bị lực lượng Quốc dân Đảng tiêu diệt.
Vào năm 1944 gần kết thúc Thế chiến II, Nhật Bản chiếm đóng Quảng Tây sau Chiến dịch Ichigo (hay còn gọi là Chiến dịch Dự Tương Quế (豫湘桂战役) trong một nỗ lực thu tóm tuyến đường sắt Hồ Nam-Quảng Tây và thiết lập một vùng đất nối với Đông Dương Pháp thuộc. Người Nhật đã chiến thắng và một loạt các thành phố chính ở Quảng Tây trở thành thuộc địa của Nhật Bản.
Nằm ở xa phía nam, lực lượng cộng sản kiểm soát Quảng Tây muộn hơn. Chính quyền tỉnh thay đổi vào tháng 12 năm 1949, hai tháng sau khi thành lập nước Cộng hòa Nhân dân. Vào năm 1958, Quảng Tây được chuyển đổi thành Khu tự trị dân tộc Tráng/Choang theo đề nghị của Thủ tướng Chu Ân Lai. Quyết định này được đưa ra do người Tráng là một trong những dân tộc thiểu số lớn nhất ở Trung Hoa, và tập trung nhiều ở Quảng Tây; tuy nhiên người Tráng vẫn chỉ chiếm thiểu số trong dân số Quảng Tây. Suốt chiều dài lịch sử, Quảng Tây là vùng đất nội lục (không có biển). Năm 1952 một phần nhỏ của bờ biển Quảng Đông được chuyển giao cho Quảng Tây, từ đó vùng đất này được thông với biển. Năm 1955 chuyển giao lại, và năm 1965 tiếp nhận lại.
Mặc dù có sự phát triển công nghiệp nặng diễn ra trong tỉnh trong suốt những năm 1960 và 1970, vẫn còn rất nhiều các danh lam thắng cảnh du lịch hấp dẫn mọi người trên khắp thế giới. Thậm chí mức tăng trưởng kinh tế ở Trung Quốc trong những năm 1990 dường như để Quảng Tây tụt lại phía sau. Tuy nhiên trong những năm gần đây đã có sự tăng trưởng mạnh về công nghiệp hóa và tập trung hóa cây trồng. GDP đầu người đã tăng nhanh chóng do các ngành công nghiệp ở Quảng Đông phải tìm kiếm các địa điểm sản xuất tại các khu vực có giá nhân công rẻ hơn.
Các đơn vị hành chính của Quảng Tây
Bản đồ | # | Tên | Thủ phủ | Hán tự Bính âm |
tiếng Choang | Dân số (2010) |
---|---|---|---|---|---|---|
— Địa cấp thị — | ||||||
1 | Bách Sắc | Hữu Giang | 百色市 Bǎisè Shì |
Baksaek Si | 3.466.800 | |
2 | Hà Trì | Kim Thành Giang | 河池市 Héchí Shì |
Hozciz Si | 3.369.200 | |
3 | Liễu Châu | Thành Trung | 柳州市 Liǔzhōu Shì |
Liujcouh Si | 3.758.700 | |
4 | Quế Lâm | Tượng Sơn | 桂林市 Guìlín Shì |
Gveilinz Si | 4.748.000 | |
5 | Hạ Châu | Bát Bộ | 贺州市 Hézhōu Shì |
Hohcouh Si | 1.954.100 | |
6 | Sùng Tả | Giang Châu | 崇左市 Chóngzuǒ Shì |
Cungzcoj Si | 1.994.300 | |
7 | Nam Ninh | Thanh Tú | 南宁市 Nánníng Shì |
Namzningz Si | 6.661.600 | |
8 | Lai Tân | Hưng Tân | 来宾市 Láibīn Shì |
Leizbingz Si | 2.099.700 | |
9 | Quý Cảng | Cảng Bắc | 贵港市 Guìgǎng Shì |
Gveigangj Si | 4.118.800 | |
10 | Ngô Châu | Vạn Tú | 梧州市 Wúzhōu Shì |
Ngouzcouh Si | 2.882.200 | |
11 | Phòng Thành Cảng | Cảng Khẩu | 防城港市 Fángchénggǎng Shì |
Fangzcwngzgangj Si | 866.900 | |
12 | Khâm Châu | Khâm Nam | 钦州市 Qīnzhōu Shì |
Ginhcouh Si | 3.079.700 | |
13 | Bắc Hải | Hải Thành | 北海市 Běihǎi Shì |
Baekhaij Si | 1.539.300 | |
14 | Ngọc Lâm | Ngọc Châu | 玉林市 Yùlín Shì |
Yoglinz Si | 5.487.400 |
Địa lý
Nằm ở phía nam Trung Quốc, Quảng Tây giáp giới với Vân Nam phía tây, Quý Châu phía bắc, Hồ Nam phía đông bắc, và Quảng Đông phía đông nam. Nó cũng có biên giới với Việt Nam phía tây nam (giáp các tỉnh Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn và Quảng Ninh của Việt Nam) và Vịnh Bắc Bộ phía nam.Quảng Tây là vùng núi. Dãy Nam Lĩnh nằm ở ranh giới phía đông bắc, với Việt Thành Lĩnh (越城岭) và Hải Dương Sơn (海洋山) là những nhánh ngắn của Nam Lĩnh. Gần vào giữa tỉnh hơn có các núi Đại Dao Sơn (大瑶山) và Đại Minh Sơn (大明山). Về phía bắc có các núi Đô Dương Sơn (都阳山) và Phượng Hoàng Sơn (凤凰山), còn ở vùng ranh giới đông nam có núi Vân Khai Đại Sơn (云开大山). Đỉnh núi cao nhất Quảng Tây là Miêu Nhi Sơn, thuộc dãy Việt Thành Lĩnh, cao 2141 m.
Nhiều con sông cắt qua các dãy núi tạo thành các thung lũng. Hầu hết các sông này đều thuộc lưu vực sông Tây Giang:
Hệ thống sông Tây Giang | ||||
---|---|---|---|---|
Hạ Giang (贺江) | Tây Giang (西江) | |||
Li Giang (漓江) | Quế Giang (桂江) | |||
sông Bắc Bàn (北盘江) | sông Hồng Thủy (红水河) | Kiềm Giang (黔江) | Tầm Giang (浔江) | |
sông Nam Bàn (南盘江) | ||||
Dung Giang (融江) | Liễu Giang (柳江) | |||
Long Giang (龙江) | ||||
Hữu Giang (右江) | Ung Giang (邕江) | Úc Giang (郁江) | ||
Tả Giang (左江) |
Quảng Tây có khí hậu cận nhiệt đới. Mùa hè thường dài và nóng. Nhiệt độ trung bình hàng năm từ 17 - 23 °C, trong khi lượng mưa hàng năm từ 1250 - 1750 mm.
Thành phố chính: Nam Ninh, Bắc Hải, Quế Lâm, Liễu Châu. Thị xã tiêu biểu: Long Môn, Tam Giang, Dương Sóc.
Kinh tế
Các loại ngũ cốc và lương thực quan trọng của Quảng Tây gồm: gạo, ngô, khoai và lúa mỳ. Hoa màu có: mía đường, lạc, thuốc lá và đay. Quảng Tây có trữ lượng thiếc, măng gan, indium nhiều hơn bất cứ tỉnh nào của Trung Quốc. Trong những năm gần đây, Quảng Tây đã tụt hậu so với tỉnh Lưỡng Quảng là Quảng Đông về kinh tế. GDP danh nghĩa năm 2004 của Quảng Tây là 332 tỷ NDT (41,19 tỷ USD), xếp thứ 17 các tỉnh Trung Quốc. GDP đầu người là 680 USD.Dân cư
Quảng Tây là một trong những nơi bắt nguồn sớm nhất của loài người cổ của Trung Quốc, thời kỳ Nguyên cổ Quảng Tây đã có hoạt động của loài người. Tuy nhiên do điều kiện tự nhiên của Quảng Tây cổ đại khắc nghiệt, khai thác nông nghiệp thiếu nghiêm trọng, thủ công nghiệp và thương nghiệp từ xưa đến nay lạc hậu, trình độ phát triển kinh tế và số lượng dân số thời gian dài thấp hơn khu vực Trung Nguyên và khu vực lân cận như Hồ Nam, Quảng Đông, Giang Tây, Phúc Kiến v.v, vì vậy cho đến năm 1912 thời kỳ đầu dân quốc, toàn tỉnh Quảng Tây chỉ có 1,7589 triệu hộ, 9,1606 triệu người. Năm 1912 – 1926, biên độ tăng dân số khá lớn, từ 9,1606 triệu người tăng lên đến 10,633 triệu người, tăng trưởng trung bình năm 104.800 người. Năm 1926 – 1931, do trong thời kỳ này “chiến tranh Tưởng Quế” bùng nổ, nhiều năm liên tiếp tình hình chiến tranh hỗn loạn, xã hội không yên ổn, kinh tế văn hoá bị phá hoại nghiêm trọng, tăng trưởng dân số bị ảnh hưởng, từ 10,633 triệu người tăng đến 10,778 triệu người, tăng trưởng bình quân hàng năm chỉ là 29.000 người. Năm 1932 – 1944, dân số tăng nhanh chóng, từ 11,819 triệu người tăng lên đến 14,9707 triệu người, dân số tăng trung bình năm là 262.600 người.‚ Đây là do năm 1932 cho đến đêm trước kháng chiến xã hội Quảng Tây tương đối yên ổn, kinh tế văn hoá dần dần phát triển, người dân được bồi dưỡng sinh lợi. Trong thời gian chiến tranh, năm 1939 – 1940, mặc dù có quân Nhật xâm lược Nam Quảng Tây, tài sản sinh mệnh của nhân dân bị tổn thất nhất định, song thời gian chỉ là 1 năm, khu vực chỉ hơn 10 huyện, mà khi đó Quảng Tây là hậu phương lớn của kháng chiến, xã hội tương đối ổn định, lượng lớn dân bị nạn của khu chiến tranh đổ về Quảng Tây, đã thúc đẩy tăng trưởng nhanh chóng của dân số Quảng Tây. Năm 1944 – 1945, quân Nhật xâm nhập toàn diện vào Quảng Tây, toàn tỉnh 80 huyện thị bị xâm chiếm, sinh mệnh tài sản của nhân dân bị tổn thất nặng nề, dân số từ 14,9707 triệu người hạ xuống còn 14,5458 triệu người. Sau khi kháng chiến kết thúc, dân số tăng trưởng trở lại, năm 1948 tăng đến 14,6727 triệu người, tăng 126.900 người năm 1945, dân số tăng trung bình năm 42.300 người.Nhìn từ tổng thể, trước khi nước Trung Quốc mới thành lập, Quảng Tây giống như toàn quốc, vẫn bảo lưu đặc điểm tái sinh sản dân số truyền thống. Một là tăng trưởng dân số có sự tăng mạnh giảm mạnh mang tính chu kỳ. Khi kẻ thống trị thu thuế ít, xã hội ổn định, kinh tế phồn vinh, dân số tăng gấp; Khi kẻ thống trị vơ vét bóp nặn (sưu cao thuế nặng), xã hội bất ổn định, kinh tế tiêu điều, dân số giảm mạnh. Hai là tỷ lệ sinh cao, tỷ lệ tử vong cao, tỷ lệ tăng trưởng tự nhiên thấp. Theo điều tra, trước năm 1949, tỷ lệ dân số tử vong của Trung Quốc là 25%0 - 33%0, tỷ lệ tử vong trẻ em chiếm 1/5 – 1/4 số dân số ra đời, tỷ lệ dân số ra đời đạt tới 35‰ - 38‰. Sau khi nước Trung Quốc mới thành lập, quá trình phát triển của dân số Quảng Tây về đại thể đã trải qua mấy giai đoạn sau:
Giai đoạn thứ nhất, thời kỳ cao trào sinh đẻ thứ nhất (1953 - 1958). Trong thời kỳ này, chính quyền mới đã dẹp yên tình hình rối loạn của chiến tranh, đồng thời đã tiến hành cải cách đất đai ở trong phạm vi toàn tỉnh, đã ngăn chặn hiệu quả hiện tượng nghèo hoá của kinh tế nông thôn, tỷ lệ tử vong của dân số liên tục hạ xuống, còn tỷ lệ sinh dân số tương đối cao, tổng số dân số từ 19,76 triệu người tăng lên đến 21,86 triệu người, trung bình năm tăng 420.000 người, tỷ lệ tăng trưởng dân số tự nhiên gần 21‰.
Giai đoạn thứ hai, thời kỳ thoái trào sinh đẻ thứ nhất (1959 - 1961). Trong thời gian này, do chịu ảnh hưởng của “đại nhảy vọt” “cộng sản phong”, phát triển của kinh tế quốc dân đã gặp trắc trở nghiêm trọng, mức sống của nhân dân hạ thấp nhanh chong, thêm vào liên tục gặp phải thiên tai, gây nên tỷ lệ sinh dân số giảm mạnh, tỷ lệ tử vong tăng đột ngột, tổng số dân số từ 22,05 triệu người giảm xuống còn 21,59 triệu người, trung bình năm giảm 230.000 người, tỷ lệ tăng trưởng tự nhiên dân số là -10,5‰.
Giai đoạn thứ ba, thời kỳ cao trào sinh đẻ dân số thứ hai (1962-1972). Trong thời kỳ này, do quan niệm cũ “đông con nhiều phúc” của mọi người chưa thay đổi, chính phủ càng buông tuồng hành vi sai lầm “đông con nhiều phúc”, do đó khi thiên tai vừa qua, cách làm “cộng sản phong” vừa mới được sửa chữa, liền xuất hiện cao trào tăng trưởng dân số thứ hai. Tổng dân số từ 22,18 triệu người tăng lên đến 29,73 triệu người, trung bình năm tăng 755.000 người, tỷ lệ tăng dân số tự nhiên là 29,7‰, còn cao hơn gần 4 phần nghìn so với mức trung bình toàn quốc. Trong thời kỳ này dân số tăng tịnh của Quảng Tây là 7,55 triệu người, đã hình thành cao trào sinh đẻ dân số lần thứ hai sau khi thành lập nước. Chính lần cao trào sinh dân số này, đã tăng thêm một bước cơ số dân số của Quảng Tây, đã tăng thêm khó khăn chồng chất cho việc thực hiện chính sách sinh đẻ kế hoạch sau thập niên 80 thế kỷ 20 của Quảng Tây, đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến tốc độ của phát triển kinh tế và xã hội của Quảng Tây.
Giai đoạn thứ tư, thời kỳ thoái trào sinh đẻ dân số thứ hai (1973-1984). Trong thời kỳ này, do Đảng và chính phủ quyết tâm nắm chặt sinh đẻ kế hoạch, cuối cùng làm cho tỷ lệ sinh hạ xuống một chút, từ đó làm cho tỷ lệ tăng trưởng dân số tự nhiên cũng hạ thấp từng năm, từ 28,3%0 năm 1973 hạ dần xuống còn 19,6‰.
Giai đoạn thứ năm, giai đoạn hạ xuống sau khi tỷ lệ tăng trưởng dân số tự nhiên xuất hiện tăng trở lại rõ rệt (sau năm 1985). Kể từ nửa cuối năm 1984, nhà nước bắt đầu từng bước nới lỏng diện quan tâm đối với sinh hai. Do các nguyên nhân như kích thích nội tại của chế độ trách nhiệm bao thầu gia đình đối với mong muốn sinh đẻ của nông dân và xuất hiện sự yếu kém trong quản lý khi thể chế mới cũ thay thế, cũng như khó khăn mà lưu động dân số mang đến cho quản lý sinh đẻ kế hoạch và kết cấu tuổi tác v.v, kể từ sau năm 1985, tỷ lệ sinh và tỷ lệ tăng trưởng tự nhiên dân số trong toàn phạm vi khu tự trị xuất hiện sự tăng trở lại mạnh. Dân số tăng tịnh hàng năm từ 670.000 người năm 1985 tăng lên đến 920.000 người năm 1990, tỷ lệ tăng trưởng tự nhiên cũng từ 17,6%0 tăng lên đến 22,2‰. Tình hình phát triển này đã thu hút sự quan tâm mạnh mẽ của các nhân sĩ hữu quan, Trung ương Đảng, Quốc vụ viện càng hết sức coi trọng, đồng thời chỉ rõ, người lãnh đạo đảng chính phủ các khu vực chịu trách nhiệm chính đối với sinh đẻ kế hoạch. Sau năm 1990, tỷ lệ sinh và tỷ lệ tăng trưởng tự nhiên của dân số Quảng Tây xuất hiện xu thế hạ xuống theo năm, đến năm 2000, tỷ lệ tăng trưởng tự nhiên đạ hạ xuống còn 8‰.
Dân số Quảng Tây năm 2000 là 47,51 triệu, tương đương với 81,2% dân số nước Pháp, 57,9% dân số nước Đức, 80,8% dân số nước Anh, tuy nhiên tổng giá trị sản xuất quốc dân bình quân đầu người lại thấp hơn nhiều so với trình độ của những quốc gia này, còn không bằng 3% trình độ bình quân đầu người của các quốc gia nói trên. Khu tự trị là nơi tập trung nhiều Người Tráng, hơn 14 triệu, một trong những dân tộc thiểu số chính ở Trung Quốc. Hơn 90% người Tráng ở Trung Quốc sống ở Quảng Tây, đặc biệt là ở khu vực trung tâm và phía Tây. Cũng có một số lượng khá người dân tộc thiểu số Người Đồng và Người Miêu. Dân tộc thiểu số khác gồm: Người Dao, Người Hồi, Người Di, Lô Lô, Người Thủy, và Người Kinh (người Việt).
- Người Hán (汉族): 27,02 triệu (62%)
- Người Tráng (壮族): 14,21 triệu
- Người Dao (瑶族): 1,47 triệu
- Người Miêu (苗族): 46 vạn
- Người Đồng (侗族): 30 vạn
- Người Ngật Lão (仫佬族): 17 vạn
- Người Mao Nam (毛南族): 7,4 vạn
- Người Hồi (回族): 3,3 vạn
- Người Bố Y (布依族): 2,1 vạn
- Người Kinh/Người Việt (京族): 2 vạn
- Người Thủy (水族): 1,5 vạn
- Người Tạng (彝族): 9.712 người
- Người Mãn (满族): 9.576 người
Văn hóa
Quảng Tây nổi tiếng vì sự đa dạng ngôn ngữ. Ví dụ ở thủ phủ Nam Ninh, có tới bốn phương ngữ được nói: Quan thoại Phương Nam, Quảng Đông thoại, Bình Thoại, và tiếng Tráng.Các trường cao đẳng, đại học
- Đại học Sư phạm Quảng Tây
- Đại học Quảng Tây
- Đại học dân tộc Quảng Tây
- Đại học Y khoa Quảng Tây
- Học viện Sư phạm Quảng Tây
- Học viện Công nghệ Điện tử Quế Lâm
Du lịch
Điểm du lịch hấp dẫn nhất ở Quảng Tây là Quế Lâm, một thành phố nổi tiếng khắp Trung Quốc và trên thế giới vì vẻ ngoạn mục của nó bên bờ Li Giang (漓江) với các đỉnh núi karst vây quanh. Đây từng là thủ phủ của Quảng Tây, và Tĩnh Giang vương thành (靖江王城), nơi ở trước đây của các ông hoàng cũng mở cửa cho dân chúng. Từ Quế Lâm xuôi về phía nam là thị trấn Dương Sóc (阳朔), một điểm đến nổi tiếng của du khách nước ngoài đặc biệt là khách du lịch ba-lô.Những người dân tộc thiểu số ở Quảng Tây như người Tráng và người Đồng đều rất quan tâm đến du lịch. Phía bắc của tỉnh, tiếp giáp với Quý Châu, là quê hương của ruộng bậc thang Long Môn được coi là một trong những ruộng dốc nhất trên thế giới. Không xa đó là Huyện tự trị Đồng tộc Tam Giang.
Xem thêm
Tham khảo
Liên kết ngoài
Wikimedia Commons có thêm thể loại hình ảnh và tài liệu về Quảng Tây |
|
http://www.youtube.com/user/hoangkimvietnam
Trở về trang chính
Hoàng Kim, hoangkim, hoangkimvietnam, Ngọc Phương Nam, Chào ngày mới Thung dung, Dạy và học, Cây Lương thực, Tin Nông nghiệp Việt Nam, Food Crops, Cassava in Vietnam, Khát khao xanh, Dayvahoc, Học mỗi ngày, Danh nhân Việt , Food Crops News, Điểm chính, CNM365, Kim LinkedIn, KimTwitter, KimFaceBook Đọc lại và suy ngẫm, Việt Nam tổ quốc tôi, Tình yêu cuộc sống, Thơ cho con
No comments:
Post a Comment