CNM365 Chào ngày mới 10 tháng 3 Wikipedia Ngày này năm xưa. Năm 1831 – Quốc vương Louis-Philippe I của Pháp ra sắc lệnh thành lập đội quân Lê dương Pháp nhằm phục vụ trong cuộc chiến của Pháp tại Algeria. Năm 1905 – Chelsea F.C. được thành lập tại Luân Đôn, nay là một trong các câu lạc bộ hàng đầu của bóng đá Anh. Năm 1909 – Hiệp ước Anh-Xiêm được ký kết, theo đó Xiêm từ bỏ chủ quyền đối với các quốc gia Mã Lai Kedah, Kelantan, Perlis và Terengganu, các khu vực này trở thành lãnh thổ bảo hộ của Anh. Năm 1945 – Chiến tranh thế giới thứ hai: Các máy bay B-29 của Hoa Kỳ oanh tạc thủ đô Tokyo của Nhật Bản khiến hơn 100.000 dân thường thiệt mạng. Năm 1978 – Nguyên mẫu oanh tạc cơ Mirage 2000, do hãng Dassault Aviation của Pháp thiết kế và chế tạo, thực hiện chuyến bay đầu tiên.
Oanh tạc Tokyo
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Mục lục
Trận không kích Doolittle
Nhiệm vụ các máy bay B-29
Chìa khóa thành công của chiến dịch là các máy bay B-29, với tầm bay lên đến 3.250 hải lý (6.019 km); 90% lượng bom được thả xuống nước Nhật là được thực hiện bởi loại máy bay này. Những đợt không kích ban đầu là do không lực 20 đảm nhiệm, cất cánh từ các sân bay ở Trung Quốc trong chiến dịch Matterhorn dưới quyền của đơn vị chỉ huy và điều phối ném bom XX Bomber Command. Tiếp sau đó, những chiếc B-29 cũng hoạt động dưới quyền XXI Bomber Command từ căn cứ ở quần đảo Bắc Mariana tháng 11-1944. Sau chiến dịch Matterhoren các máy bay B-29 của đơn vị XX Bomber Command chuyển sang hoạt động trong đơn vị XXI Bomber Command ở căn cứ không quân Guam mùa xuân 1945.Trong phi vụ đầu tiên của chiến dịch, 174 máy bay B-29 sử dụng chiến thuật bay tầm thấp và mang theo bom cháy thả xuống Tokyo vào đêm 24–25 tháng 1-1945 gây phá hủy một vùng rộng 3 km2.
Nhằm mục đích tăng bán kính phá hủy cũng như thiệt hại cho người Nhật, Không quân Mỹ đã thay đổi chiến lược ném bom. Trong đợt tiếp theo, đã có 335 máy bay B-29 cất cánh[1] vào đêm 9–10 tháng ba, 279 máy bay trong số đó[1] đã thả xuống Tokyo 1.700 tấn bom, với tổn thất là 14 chiếc B-29.[1] Xấp xỉ một diện tích rộng 16 dặm vuông (41 km²) bị tàn phá và khoảng 100.000 người được ước tính đã chết ngay lập tức trong biển lửa, hơn cả con số thương vong do bom gây ra ở Hiroshima hay Nagasaki.[2][3] Theo Cơ quan khảo sát ném bom chiến lược Hoa Kỳ đã ước tính con số bao gồm 88.000 người chết trong đợt này, 41.000 bị thương, và hơn một triệu cư dân mất nhà cửa. Về phía Sở cứu hỏa Tokyo ước tính con số thiệt hại cao hơn: 97.000 người chết và 125.000 bị thương. Còn theo ước tính của Sở cảnh sát Thủ đô Tokyo thì 124.711 người thương vong bao gồm chết và bị thương và tổng cộng 286.358 tòa nhà bị phá hủy. Tuy nhiên nhà sử học Richard Rhodes cho rằng số người tử vong vượt quá con số 100.000, và số người bị thương trong khoảng một triệu cùng với số nhà bị phá hủy cũng là một triệu. Những ước tính về thiệt hại đã bị hạ thấp hơn thực tế: nhà báo Mark Selden viết trên tờ Japan Focus như sau.
Nơi bị tàn phá nặng nề nhất trong chiến dịch là khu vực nằm về phía Đông của Hoàng cung Tokyo.Con số xấp xỉ 100.000 người chết, được đưa ra đồng thời bởi các cơ quan chính quyền Nhật và Mỹ, cả hai phía trong cuộc chiến đều có những lý do riêng để hạ thấp con số thương vong, đối với tôi dường như con số thực tế đã bị hạ thấp nếu so với mật độ dân số cao của thành phố, điều kiện gió lúc diễn ra chiến dịch cũng như các ghi nhận của những người sống sót. Với mật độ trung bình của Tokyo là 103.000 người một dặm vuông và đạt mức cao nhất là 135.000 người, mật độ dân số cao nhất trên bất cứ thành phố công nghiệp nào khắp thế giới, con số ước tính diện tích tàn phá là 15 dặm vuông (41 km2) thành phố Tokyo là quá ư là phi lý khi mà những cơn gió dữ dội đã khiến ngọn lửa lan nhanh và hàng ngàn người bị mắt kẹt trong bức tường lửa khi trận ném bom xảy khiến cho họ không thể thoát khỏi đám cháy. Ước tính có đến 1,5 triệu người nằm trong vùng bị bao phủ bởi đám cháy[4]
Đến cuối cuộc chiến tranh, hơn 50% diện tích Tokyo bị phá hủy.
Diễn biến
- 19 tháng 2-1945: 119 máy bay B-29 đánh trúng hải cảng và vùng ngoại ô thành phố.
- 25 tháng 2-1945: 174 máy bay B-29 thả bom cháy phá hủy gần 28.000 tòa nhà.
- 4 tháng 3-1945: 159 máy bay B-29 đánh trúng vùng ngoại ô[1]
- 10 tháng 3-1945: 334 máy bay B-29 thả bom cháy phá hủy xấp xỉ 267.000 tòa nhà; tương đương gần 25% thành phố[1] (Chiến dịch Meetinghouse) giết chết 100.000 dân thường.
- 2 tháng 4-1945: >100 máy bay B-29 đánh bom nhà máy sản xuất máy bay Nakajima.
- 3 tháng 4-1945: 68 máy bay B-29 đánh bom nhà máy sản xuất máy bay Koizumi và vùng ngoại ô Tokyo
- 7 tháng 4-1945: 101 máy bay B-29 đánh bom nhà máy sản xuất máy bay Nakajima.
- 13 tháng 4-1945: 327 máy bay B-29 đánh bom kho đạn.
- 15 tháng 4-1945: 109 máy bay B-29 đánh trúng vùng ngoại ô
- 24 tháng 5-1945: 520 máy bay B-29 đánh trúng khu công nghiệp ở vùng ngoại ô phía Nam Hoàng cung Tokyo.
- 26 tháng 5-1945: 464 máy bay B-29 đánh trúng vùng ngoại ô ngay phía Nam Hoàng cung Tokyo.
- 20 tháng 7-1945: 1 máy bay B-29 thả một trái bom bí ngô (một loại vũ khí chiến lược giống như bom hạt nhân) nhưng không trúng Hoàng cung Tokyo[5]
- 8 tháng 8-1945: khoảng 60 máy bay B-29 đánh trúng nhà máy sản xuất máy bay và kho đạn.
- 10 tháng 8-1945: 70 máy bay B-29 đánh trúng một phức hợp kho đạn.
Các đợt oanh kích khác
Ngoài máy bay B-29, các máy bay ném bom động cơ kép và máy bay cường kích cũng tham gia vào chiến dịch.[6]Kết quả
Nền công nghiệp nặng của Tokyo không bị tổn thương cho đến khi bắt đầu chiến dịch, kết quả của nó đã làm thiệt hại trầm trọng nền công nghiệp nhẹ của thành phố này. Một bộ phận cấu thành quan trọng của nền sản xuất nước này góp phần tạo ra các thiết bị nhỏ và gia công các phần thiết bị tiêu tốn nhiều thời gian. Việc sử dụng bom cháy cũng đã giết chết nhiều công nhân phục vụ trong công nghiệp quốc phòng hay khiến cho họ bị mất nhà cửa. Hơn một nửa các cơ sở công nghiệp của thành phố trong chiến tranh tập giữa các khu dân cư và các khu thương mại gần đó; do đó mà chiến dịch đã khiến cho sản lượng công nghiệp sụt giảm còn một nửa.[7]Hoàng cung Tokyo bị vây quanh bởi những khu vực bị phá hủy nặng nề trong chiến tranh. Phần chính của cung điện (Kyūden), nơi đặt Tổnh hành dinh Quân đội Đế quốc bị tàn phá nặng bởi bom máy bay, ngay cả khi đây là một vị trí cấm thả bom bởi mệnh lệnh của Quân đội Không quân Hoa Kỳ.
Hoàng đế Hirohito sau khi nhìn thấy hậu quả của trận oanh tạc vào tháng 3-1945, được cho là đã bắt đầu các cuộc vận động cá nhân nhằm thúc đẩy hòa bình, kết quả là Sự đầu hàng của Nhật Bản 5 tháng sau đó.[8]
Sau chiến tranh, thành phố Tokyo gặp phải vô vàng khó khăn trong việc tái thiết. Trong giai đoạn 1945-1946, thành phố được nhận phần trăm ngân sách tương đương với lượng bom đã trút xuống đây (26.6%), nhưng vào các năm sau ngân sách phân bổ cho thành phố bị cắt giảm để dành cho các nơi khác. Đến năm 1949, Tokyo chỉ nhận được 10.9% trong tổng ngân sách; tại thời điểm đó lạm phát đã làm giảm giá trị của đồng tiền Nhật bởi số tiền chính phủ chi tiêu đã vượt quá số tiền thu được từ thuế. Ban cố vấn Chính quyền chiếm đóng Nhật Bản thông qua đề nghị của Joseph Dodge quyết định bỏ qua việc tái thiết và tập trung vào xây dựng và cải thiện đường sá và vận chuyển. Thành phố Tokyo cũng không trải qua giai đoạn tăng trưởng nhanh của Nhật cho đến thập niên 1950.[9]
Những quả bom không phát nổ vẫn được tìm thấy và được vô hiệu hóa ở Nhật Bản đến cuối năm 2009.[10]
Xem thêm
- Ném bom chiến lược trong Thế chiến II
- Ném bom Kobe trong Thế chiến II
- Trận Okinawa
- Trận Iwo Jima
- Grave of the Fireflies
- Curtis LeMay
- Ném bom Dresden trong Thế chiến II
- bom đạn chưa nổ
Chú thích
- ^ a b c d e Văn phòng nghiên cứu lịch sử Không quân. Không lực Hoa Kỳ trong Thế chiến II: Niên biểu các trận đánh. March 1945. Khôi phục March 3-2009.
- ^ Freeman Dyson. Part I: Một thất bại của Tình báo. Technology Review, 1 tháng 11 2006, MIT
- ^ David McNeill. The night hell fell from the sky. Japan Focus, 10 tháng 3 2005.
- ^ Mark Selden. A Forgotten Holocaust: US Bombing Strategy, the Destruction of Japanese Cities and the American Way of War from the Pacific War to Iraq. Japan Focus, 2 tháng 5 2007.
- ^ Norman Polmar. The Enola Gay: The B-29 That Dropped the Atomic Bomb on Hiroshima, tr. 24. Potomac Books (2004) ISBN 1-57488-836-6.
- ^ Air Force Historical Studies Office. U.S. Army Air Forces in World War II: Combat Chronology 1941–1945.
- ^ United States Strategic Bombing Survey, Bản báo cáo tổng kết (Chiến tranh Thái Bình Dương), tr. 18.
- ^ Bradley, F. J. No Strategic Targets Left. "Contribution of Major Fire Raids Toward Ending WWII" p. 38. Turner Publishing Company, limited edition. ISBN 1-56311-483-6.
- ^ Andre Sorensen. The Making of Urban Japan: Cities and Planning from Edo to the Twenty First Century RoutledgeCurzon, 2004. ISBN 0-415-35422-6.
- ^ WWII bomb explodes, Stars and Stripes January 2009
Thông tin thêm
Sách
- Coffey, Thomas M. (1987). Iron Eagle: The Turbulent Life of General Curtis LeMay. Random House Value Publishing. ISBN 0-517-55188-8.
- Crane, Conrad C. (1994). The cigar that brought the fire wind: Curtis LeMay and the strategic bombing of Japan. JGSDF-U.S. Army Military History Exchange. ASIN B0006PGEIQ.
- Frank, Richard B. (2001). Downfall: The End of the Imperial Japanese Empire. Penguin. ISBN 0141001461.
- Grayling, A. C. (2007). Among the Dead Cities: The History and Moral Legacy of the WWII Bombing of Civilians in Germany and Japan. New York: Walker Publishing Company Inc. ISBN 0-8027-1565-6.
- Greer, Ron (2005). Fire from the Sky: A Diary Over Japan. Jacksonville, Arkansas, U.S.A.: Greer Publishing. ISBN 0-9768712-0-3.
- Guillian, Robert (1982). I Saw Tokyo Burning: An Eyewitness Narrative from Pearl Harbor to Hiroshima. Jove Pubns. ISBN 0-86721-223-3.
- Hoyt, Edwin P. (2000). Inferno: The Fire Bombing of Japan, March 9 – August 15, 1945. Madison Books. ISBN 1568331495.
- Jablonski, Edward (1971). “Air War Against Japan”. Airwar Outraged Skies/Wings of Fire. An Illustrated history of Air power in the Second World War. Doubleday. ASIN B000NGPMSQ.
- Lemay, Curtis E.; Bill Yenne (1988). Superfortress: The Story of the B-29 and American Air Power. Công ty McGraw-Hill. ISBN 0-07-037164-4.
- McGowen, Tom (2001). Air Raid!: The Bombing Campaign. Brookfield, Connecticut, U.S.A.: Twenty-First Century Books. ISBN 0-7613-1810-0.
- Shannon, Donald H. (1976). United States air strategy and doctrine as employed in the strategic bombing of Japan. U.S. Air University, Air War College. ASIN B0006WCQ86.
- Smith, Jim; Malcolm Mcconnell (2002). The Last Mission: The Secret History of World War II's Final Battle. Broadway. ISBN 0767907787.
- Werrell, Kenneth P. (1998). Blankets of Fire. Smithsonian. ISBN 1560988711.
Web
Wikimedia Commons có thêm thể loại hình ảnh và tài liệu về Oanh tạc Tokyo |
- 67 thành phố Nhật Bản bị đánh bom trong Thế chiến II.
- B29 Air Raid on Japanese Cities, và hình ảnh.
- Quân đội Không quân Hoa Kỳ trong Thế chiến II.
- The Center of the Tokyo Raid and War Damages / Giới thiệu.
- Barrell, Tony (1997). “Tokyo's Burning”. ABC Online. Australian Broadcasting Corporation. Truy cập ngày 3 tháng 11 năm 2006. Transcript of a radio documentary/commentary on the Tokyo firebombing with excerpts from interviews with participants and witnesses.
- Craven, Wesley Frank; James Lea Cate. “tâp 5: The Pacific: Matterhorn to Nagasaki, tháng 6-1944 đến tháng 8-1945”. The Army Air Forces in World War II. Văn phòng lịch sử Không quân Hoa Kỳ. Truy cập ngày 12 tháng 12 năm 2014. Đã bỏ qua tham số không rõ
|accessyear=
(trợ giúp) - Hansell, Jr., Haywood S. (1986). “The Strategic Air War Against Germany and Japan: A Memoir”. Project Warrior Studies. Văn phòng lịch sử Không quân Hoa Kỳ. Truy cập ngày 12 tháng 12 năm 2014. Đã bỏ qua tham số không rõ
|accessyear=
(trợ giúp)
Thể loại:
Hiệp ước Anh-Xiêm năm 1909 hay Hiệp ước Bangkok năm 1909 là một hiệp ước giữa Anh Quốc và Thái Lan ký ngày 10 tháng ba năm 1909 tại Bangkok[1].
Các thỏa thuận, theo đó người Mã Lai đã không được đại diện, trên thực tế chia các tiểu quốc Mã Lai phía bắc thành hai phần. Khu vực xung quanh các tỉnh ngày nay gồm Pattani (Mã Lai: Patani), Narathiwat (Mã Lai: Menara), Songkhla (Mã Lai: Singgora), Satun (Mã Lai: Setul) và Yala (Mã Lai: Jala) vẫn thuộc chủ quyền Xiêm, trong khi Thái Lan từ bỏ tuyên bố chủ quyền của mình đối với Kedah (tiếng Thái Lan: ไทรบุรี (Saiburi)), Kelantan (tiếng Thái: กลันตัน (Kalantan)), Perlis (tiếng Thái: ปะลิส (Palit)) và Terengganu (tiếng Thái: ตรัง กา นู (Trangkanu)), các khu vực thuộc trong phạm vi ảnh hưởng và bảo hộ của Anh. Bốn tiểu bang, cùng với Johor sau này được gọi là Các bang Mã Lai không liên bang. Ban đầu, Satun và Perlis là một phần của Vương quốc Hồi giáo Mã Lai Kedah nhưng chỉ Satun vẫn còn thuộc Thái Lan. Patani, Narathiwat, Songkhla và Yala trong lịch sử đã được cai trị bởi lịch sử Vương quốc Hồi giáo Mã Lai Patani.
Việc lý do hợp lý Anh phong toả việc tiếp tục chiếm đóng một nửa phía bắc của Malaya của Xiêm là nhằm giá trị nhận thức Thái Lan như làm một vùng đệm thân thiện đối với người Pháp ở Đông Dương.
Trước đây vào năm 1826, cả hai bên ký hiệp ước năm 1909 đã đồng ý với Hiệp ước Burney. Hiệp ước Burney quy định rằng Kedah, Kelantan, Perlis và Terengganu là các tỉnh của Xiêm còn Penang và tỉnh Wellesley thuộc về người Anh, trong khi Thái Lan sẽ không gây trở ngại cho thương mại Anh tại Kelantan và Terengganu.
Thỏa thuận này đã có ảnh hưởng lâu dài trên cả Thái Lan và Liên bang của Malaysia. Đường biên giới giữa hai quốc gia này chủ yếu được xác định bởi hiệp ước này. Hơn nữa, ở một mức độ, phong trào ly khai Pattani là do từ chối của Pattani công nhận sự thống trị của Thái Lan trên khu vực này và cuối cùng thỏa thuận giữa Anh Quốc và Thái Lan.
- Ném bom chiến lược trong Thế chiến II
- Thập niên 1940
- Lịch sử Tokyo
- Chiến dịch quần đảo Nhật Bản
- Thảm sát trong Thế chiến thứ hai
- Xung đột năm 1945
Hiệp ước Anh-Xiêm năm 1909
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Thời tiền sử |
Thời sơ sử |
Trước khi người Thái tới Raktamaritika Langkasuka Srivijaya Tambralinga Dvaravati Lavo Supannabhum Hariphunchai Phù Nam Đế quốc Khmer |
Những nhà nước Thái đầu tiên Singhanavati - Lan Na - Nan - Phayao Kao - Nakhon Si Thammarat - Sukhothai |
Vương quốc Ayutthaya (1351–1767) |
Vương triều Thonburi (1768–1782) |
Vương triều Chakri (1782 – nay) Vương quốc Rattanakosin (1768-1932) Thời kỳ 1932-1973 Thời kỳ 1973-nay |
Các thỏa thuận, theo đó người Mã Lai đã không được đại diện, trên thực tế chia các tiểu quốc Mã Lai phía bắc thành hai phần. Khu vực xung quanh các tỉnh ngày nay gồm Pattani (Mã Lai: Patani), Narathiwat (Mã Lai: Menara), Songkhla (Mã Lai: Singgora), Satun (Mã Lai: Setul) và Yala (Mã Lai: Jala) vẫn thuộc chủ quyền Xiêm, trong khi Thái Lan từ bỏ tuyên bố chủ quyền của mình đối với Kedah (tiếng Thái Lan: ไทรบุรี (Saiburi)), Kelantan (tiếng Thái: กลันตัน (Kalantan)), Perlis (tiếng Thái: ปะลิส (Palit)) và Terengganu (tiếng Thái: ตรัง กา นู (Trangkanu)), các khu vực thuộc trong phạm vi ảnh hưởng và bảo hộ của Anh. Bốn tiểu bang, cùng với Johor sau này được gọi là Các bang Mã Lai không liên bang. Ban đầu, Satun và Perlis là một phần của Vương quốc Hồi giáo Mã Lai Kedah nhưng chỉ Satun vẫn còn thuộc Thái Lan. Patani, Narathiwat, Songkhla và Yala trong lịch sử đã được cai trị bởi lịch sử Vương quốc Hồi giáo Mã Lai Patani.
Việc lý do hợp lý Anh phong toả việc tiếp tục chiếm đóng một nửa phía bắc của Malaya của Xiêm là nhằm giá trị nhận thức Thái Lan như làm một vùng đệm thân thiện đối với người Pháp ở Đông Dương.
Trước đây vào năm 1826, cả hai bên ký hiệp ước năm 1909 đã đồng ý với Hiệp ước Burney. Hiệp ước Burney quy định rằng Kedah, Kelantan, Perlis và Terengganu là các tỉnh của Xiêm còn Penang và tỉnh Wellesley thuộc về người Anh, trong khi Thái Lan sẽ không gây trở ngại cho thương mại Anh tại Kelantan và Terengganu.
Thỏa thuận này đã có ảnh hưởng lâu dài trên cả Thái Lan và Liên bang của Malaysia. Đường biên giới giữa hai quốc gia này chủ yếu được xác định bởi hiệp ước này. Hơn nữa, ở một mức độ, phong trào ly khai Pattani là do từ chối của Pattani công nhận sự thống trị của Thái Lan trên khu vực này và cuối cùng thỏa thuận giữa Anh Quốc và Thái Lan.
Tham khảo
- ^ U.S. Department of State, Bureau of Intelligence and Research, Office of the Geographer, "International Boundary Study: Malaysia - Thailand Boundary," No. 57, 15 tháng 11 năm 1965.
Thể loại:
Phù Nam (tiếng Phạn: नाम / Phnom) là một quốc gia cổ trong lịch sử Đông Nam Á, xuất hiện khoảng đầu Công Nguyên, ở khu vực hạ lưu và châu thổ sông Mê Kông. Theo nhiều thư tịch cổ Trung Quốc, thì trong thời kỳ hưng thịnh, vương quốc này về phía Đông, đã kiểm soát cả vùng đất phía Nam Trung Bộ (Việt Nam), về phía Tây đến thung lũng sông Mê Nam (Thái Lan), về phía Nam đến phần phía Bắc bán đảo Mã Lai.
Quốc gia này tồn tại cho đến khoảng nửa thế kỷ 7 (sau năm 627) thì bị sáp nhập vào lãnh thổ của Chân Lạp. Mãi đến thế kỷ 17-thế kỷ 18, phần lãnh thổ xưa kia được coi là trung tâm của Phù Nam, tách khỏi Chân Lạp để trở thành một bộ phận của lãnh thổ Việt Nam, tức Nam Bộ ngày nay.
Yếu tố sắc tộc-ngôn ngữ của cư dân Phù Nam vẫn còn đang được tranh luận, chưa thể đưa ra được kết luận cụ thể từ các bằng chứng hiện có. Một số giả thuyết cho rằng đa phần dân cư Phù Nam nói các tiếng thuộc nhóm ngôn ngữ Môn-Khmer, một số khác cho là ngữ hệ Nam Đảo, giả thuyết khác cho rằng Phù Nam là một xã hội đa sắc tộc.
Kinh đô của Phù Nam, theo sách Lương Thư và Tân Đường thư là thành Đặc Mục, ông G.Coedes cho đó là phiên âm của tiếng Phạn là Vyadhapura (pura:thành phố/kinh đô, Vyadha:người đi săn), và thành này ở gần ngọn núi Ba Phnom ở làng Banam, thuộc tỉnh Prey Veng (Campuchia) ngày nay[3]. Ngược lại, một số tác giả như P.pelliot (1903), P. Dupont (1955), L.Malleret (1962) không tán thành thuyết đó, họ cho rằng kinh đô của Phù Nam có thể là Angkor Borei do nhiều hiện vật khảo cổ có niên đại và phong cách Phù Nam tìm thấy ở đây.[4]
Vương triều của Kaundinya tồn tại khoảng hơn 150 năm, trải qua 3 đời vua. Các thư tịch cổ của Trung Quốc phiên âm tên 3 vị vua này là Hỗn Điền, Hỗn Bàn (127-217), và Hỗn Bàn Bàn (217-220).[6]
Cho đến giờ chưa phát hiện được tư liệu nào nói về thời kỳ tiếp sau Phạm Tầm. Các nhà khoa học cho rằng vào khoảng giữa thế kỷ 4, quyền cai trị Phù Nam một lần nữa lại vào tay người Ấn Độ. Lương thư và Tấn thư có nhắc tới một người là Thiên Trúc Thiên Đàn đã triều cống Mục Đế. Các nhà khoa học sau này cho đó là người Ấn Độ tên là Chandan hoặc Chandana.[8]
Đến đầu hoặc giữa thế kỷ 5, vẫn là người Ấn Độ nắm quyền cai trị Phù Nam. Lương thư cho biết một người Thiên Trúc là Kiều Chân Như mà các nhà khoa học sau này cho rằng đó có thể là một người Brahman Ấn Độ cũng lại tên là Kaudinya đã thay đổi chế độ nhà nước Phù Nam sang theo kiểu Ấn Độ.[9] Kiều Trần Như ở ngôi khoảng năm 470 đến 514, tự xưng là Người bảo vệ thánh kinh Vê đa. Vào thời kỳ này, nhiều thương gia Phù Nam sang buôn bán ở Quảng Châu (Trung Quốc).[10]
Khi Kaundinya mất, con là Sri Indravarman (Lương thư phiên âm là Tri Lê Đà Bạt Ma) lên thay, và đã cho sứ sang triều cống Tống Văn Đế (nhà Lưu Tống) vào những năm 438, 453 và 438. Cũng theo Lương thư, thì năm 431-432, nước Lâm Ấp muốn đánh Giao Châu của người Việt, nên có nên yêu cầu vua Phù Nam giúp sức, nhưng Phù Nam đã từ chối.
Khi Sri Indravarman mất, người nối ngôi là Jayavarman (Lương thư phiên âm là Đồ Tà Bạt Ma). Jayavarman đã phái một nhà sư Ấn Độ tên Nagasena đem lễ vật sang tặng vua Nam Tề năm 484, và yêu cầu nhà vua giúp mình đánh Lâm Ấp nhưng bị từ chối khéo. Các nhà khoa học đã phát hiện bia ký viết bằng chữ Sanskrit cho hay dưới thời Jayavarman Phù Nam đã xây dựng nhiều công trình thủy lợi, biến nhiều vùng đầm lầy rộng lớn ở hạ lưu sông Mê Kông thành những vùng đồng bằng phì nhiêu, trù phú. Năm 514, Jayavarman mất.
Kế vị ngôi là Rudravarman (Lương thư phiên âm là Lưu Đà Bạt Ma), con cả của Jayavarman. Đây là ông vua cuối cùng của Phù Nam. Vào năm 517 và 539, nhà vua đều có sai sứ sang Trung Quốc triều cống.
Sách Lược sử vùng đất Nam Bộ Việt Nam (tr. 20) viết:
Căn cứ năm 627, sứ giả Phù Nam còn đến tiến cống nhà Đường, nên có thể suy ra nước Phù Nam bị tiêu diệt phải sau năm này.[14]
Sau khi Chân Lạp đánh bại Phù Nam, trong sách Trung Quốc đã xuất hiện tên gọi Thủy Chân Lạp để chỉ phần lãnh thổ Phù Nam trên vùng đất Nam Bộ (Việt Nam); và cũng để phân biệt với vùng đất Lục Chân Lạp, tức là vùng đất gốc của Vương quốc Chân Lạp.[15]
Mặc dầu chiếm đoạt được, nhưng trên thực tế, việc cai quản vùng lãnh thổ mới này đối với Chân Lạp gặp rất nhiều khó khăn. Trước hết, với truyền thống quen khai thác các vùng đất cao, dân số còn ít ỏi, người Khmer khi đó khó có khả năng tổ chức khai thác trên quy mô lớn một vùng đồng bằng mới bồi lấp, còn ngập nước và sình lầy. Hơn nữa, việc khai khẩn đất đai trên lãnh thổ của Lục Chân Lạp đòi hỏi rất nhiều thời gian và sức lực. Việc cai trị xứ Thủy Chân Lạp vì vậy vẫn phải giao cho những người thuộc dòng dõi Vua Phù Nam.
Theo những tài liệu bi kí còn lại có thể thấy rằng, vào thế kỷ thứ 8 tại vùng trung tâm của Phù Nam trước đây vẫn còn tồn tại một tiểu quốc tên là Aninditapura, do một người thuộc dòng dõi vua Phù Nam tên là Baladitya trị vì. Và khi Phù Nam tan rã là lúc nhiều vương quốc nhỏ ở Đông Nam Á nổi lên thay thế vai trò đế quốc hàng hải của vương quốc này, mà nổi bật là vương quốc Srivijaya ở đảo Sumatra và vương quốc Sailendra ở đảo Java, thuộc Indonesia ngày nay.
Từ cuối thế kỷ 8, vương quốc Sailendre hùng mạnh đã xâm chiếm toàn bộ Thủy Chân Lạp đồng thời đưa Lục Chân Lạp vào vị trí chư hầu của mình, tới đầu thế kỷ 9, Sailendra suy yếu mới từ bỏ vùng đất Thủy Chân Lạp.
Tại di chỉ Bình Tả (xã Đức Hòa, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An), trong đợt khai quật vào tháng 2 năm 1987 do Lê Trung Khá chủ trì, đã phát hiện một di vật có tên Bhavavarman (tên một hoàng thân Phù Nam) viết bằng chữ Phạn cổ. Đây là một cứ liệu chính xác cho phép gắn liền văn hóa khảo cổ Óc Eo với Vương quốc Phù Nam trong lịch sử.[17]
Sau năm 1975, thêm nhiều lần khai quật khảo cổ ở Óc Eo và nhiều nơi khác nữa, thì thấy nền văn hóa này phân bố rất phong phú trên địa bàn các tỉnh như Long An, Đồng Tháp, An Giang, Kiên Giang, Thành phố Hồ Chí Minh...[18]. Tất cả theo sách Lược sử vùng đất Nam Bộ Việt Nam, đã khẳng định rằng Óc Eo là một nền văn hóa có nguồn gốc bản địa, mà chủ nhân của nó là những cư dân Phù Nam. Nền văn hóa này phát triển trên nền tảng văn hóa Đồng Nai, có quan hệ mật thiết với nền văn hóa Sa Huỳnh ở miền Trung, và có quan hệ giao lưu rộng rãi với các nước ở bên ngoài (qua dấu tích vật chất, cho thấy có sự liên hệ khá mật thiết với Trung Quốc, Ấn Độ, Tây Á và Địa Trung Hải).[19]
Từ điển Văn hóa Đông Nam Á cho biết chi tiết:
Kế đến là Ngô thư thời Tam Quốc (220-280). Theo sách này thì vào tháng Chạp năm Xích Ô thứ 6 (243), vua Phù Nam là Phạm Chiên có sai sứ đến dâng nhạc công và phương vật cho vua Ngô là Tôn Quyền (182 – 252).
Thời gian sau, khi đánh chiếm Giao Châu và Cửu Chân, vua Ngô cũng đã sai người đến các nước phương Nam; thì các nước là Phù Nam, Lâm Ấp (Chămpa), Minh Đường thảy đều sai sứ đến dâng cống.[28]
Lương thư còn cho biết vua Ngô là Tôn Quyền đã sai Chu Ứng (Tchou Ying) và Khang Thái (Kang Tai) đi sứ các nước phía Nam, trong số đó có Phù Nam. Sau khi đi sứ về, Khang Thái có viết quyển Phù Nam thổ tục còn gọi là Phù Nam truyện.
Các sách có niên đại muộn hơn vào các thế kỷ 6 và 7 như Trần thư, Tùy thư, Thông điển, Tân Đường thư... đều có ghi chép về đất nước Phù Nam. Trích một vài đoạn:
Nơi đây, cũng đã phát hiện được 5 kiến trúc bằng gạch và 12 ngôi mộ xây bằng gạch có kích thước lớn nhỏ khác nhau. Trong và quanh mộ, ngoài những hiện vật bằng vàng, bằng gốm, đất nung còn có hai tượng thần Visnu bằng đá có kích cỡ khá lớn...Bằng kỹ thuật chuyên ngành, các nhà khảo cổ đã phân tích một số mẫu vật & kết luận rằng khu di tích khảo cổ Gò Thành có niên đại từ thế kỷ 4 đến thế kỷ 8. Đây là một khu di chỉ đặc biệt vì nó còn lưu giữ khá nguyên vẹn và phong phú về nhiều loại hình di chỉ như: di chỉ cư trú, di chỉ mộ táng, và nhất là di chỉ kiến trúc với nhiều đền tháp ở cạnh nhau có quy mô khác nhau, rất hoành tráng, tuy chỉ còn phần nền...
Cùng với những di chỉ trên, những di vật và mộ táng được phát hiện rất nhiều ở nơi khác như: Bình Tả (Long An), Gò Cây Duối-Thanh Điền, Tây Ninh, Đá Nổi (Kiên Giang), ND 11 (Khu kinh tế mới Lê Minh Xuân, huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh), Di chỉ Cây Gáo (Đồng Nai) v.v...đã khẳng định rằng Óc Eo là một nền văn hóa có nguồn gốc bản địa, mà chủ nhân của nó là những cư dân Phù Nam.
Sau, nhờ những nguồn thư tịch cổ của Trung Quốc và các cuộc khai quật khảo cổ[33], các nhà nghiên cứu mới có đủ bằng chứng để xác định hai quốc gia này không phải là một.
Tùy thư chép:
Bài Phế đô của vương quốc Phù Nam, đã đăng trên báo Tuổi Trẻ[39] nêu ba giả thuyết:
Phù Nam
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Loạt bài Các vương quốc cổ ở Việt Nam |
|||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
|
Phù Nam (1-630) |
Chân Lạp (550-802) |
Đế quốc Khmer (802-1432) |
Thời kỳ hậu Angkor (1432-1863) |
Thời thuộc Pháp (1863-1953) |
Sau độc lập (từ 1954) |
Cộng hòa Khmer (1970-1975) |
Campuchia Dân chủ (1975-1979) |
CHND Campuchia (1979-1993) |
Vương quốc Campuchia (1993-nay) |
Quốc gia này tồn tại cho đến khoảng nửa thế kỷ 7 (sau năm 627) thì bị sáp nhập vào lãnh thổ của Chân Lạp. Mãi đến thế kỷ 17-thế kỷ 18, phần lãnh thổ xưa kia được coi là trung tâm của Phù Nam, tách khỏi Chân Lạp để trở thành một bộ phận của lãnh thổ Việt Nam, tức Nam Bộ ngày nay.
Yếu tố sắc tộc-ngôn ngữ của cư dân Phù Nam vẫn còn đang được tranh luận, chưa thể đưa ra được kết luận cụ thể từ các bằng chứng hiện có. Một số giả thuyết cho rằng đa phần dân cư Phù Nam nói các tiếng thuộc nhóm ngôn ngữ Môn-Khmer, một số khác cho là ngữ hệ Nam Đảo, giả thuyết khác cho rằng Phù Nam là một xã hội đa sắc tộc.
Mục lục
Tên gọi
Chung quanh cái tên gọi Phù Nam, hiện vẫn còn đang tranh cãi. Ý kiến được nhiều người tán đồng, đó là Phù Nam do chữ Fou Nan mà ra (gọi theo cách phát phát âm của người Trung Hoa). Từ ngữ này xuất phát từ ngôn ngữ Môn-Khmer cổ: Bonam, mà ngày nay nó được đọc là phnom, có nghĩa là núi, hoặc đồi. Tuy nhiên theo GS. Lương Ninh, một danh từ chung chỉ núi non không thể là nguồn gốc của tên đất nước, mà phải là cái khác, quý báu hơn: tên tộc người bản địa: Bnam.[1]. Theo đó các vua Phù Nam là những người thuộc dòng Vua Núi - Kurung bnam[2].Kinh đô của Phù Nam, theo sách Lương Thư và Tân Đường thư là thành Đặc Mục, ông G.Coedes cho đó là phiên âm của tiếng Phạn là Vyadhapura (pura:thành phố/kinh đô, Vyadha:người đi săn), và thành này ở gần ngọn núi Ba Phnom ở làng Banam, thuộc tỉnh Prey Veng (Campuchia) ngày nay[3]. Ngược lại, một số tác giả như P.pelliot (1903), P. Dupont (1955), L.Malleret (1962) không tán thành thuyết đó, họ cho rằng kinh đô của Phù Nam có thể là Angkor Borei do nhiều hiện vật khảo cổ có niên đại và phong cách Phù Nam tìm thấy ở đây.[4]
Lịch sử vắn tắt
Truyền thuyết dựng nước
Theo Khang thịnh sứ giả của Ngô Tôn Quyền thời Tam Quốc chép trong sách Phù Nam thổ tục thì ông vua đầu tiên của nước Phù Nam, có lẽ là một quí tộc người Ấn Độ hay là một tăng lữ Bà-la-môn tên là Hỗn Điền.[5] Một số học giả phương Tây cho rằng truyền thuyết Hỗn Điền là dị bản của truyền thuyết Ấn Độ về Kaundinya.[6]Vương triều của Kaundinya tồn tại khoảng hơn 150 năm, trải qua 3 đời vua. Các thư tịch cổ của Trung Quốc phiên âm tên 3 vị vua này là Hỗn Điền, Hỗn Bàn (127-217), và Hỗn Bàn Bàn (217-220).[6]
Hưng thịnh
Ngô Văn Doanh (2009) dẫn Lương thư cho biết rằng quốc vương cuối cùng của vương triều Kaundinya làm vua được 3 năm thì mất. Một vị tướng của Phù Nam mà Lương thư của Trung Quốc phiên âm là Phạm Mạn lên làm vua, lập ra vương triều họ Phạm. Theo Lương thư, làm vua được 3 năm thì Phạm Mạn mất. Con ông là Phạm Kinh Sinh nối ngôi, làm vua được khoảng 5 năm, đến năm 245 thì bị người anh họ tên Phạm Chiên giết chết để đoạt ngôi. Một người con khác của Phạm Mạn là Phạm Trường đã nổi dậy lật đổ được Phạm Chiên, nhưng cũng lập tức bị tướng của Chiên là Phạm Tầm giết. Phạm Tầm lên làm vua. Phù Nam dưới vương triều họ Phạm trở nên hùng mạnh. Phạm Mạn đã đem quân đi chinh phạt được tới hơn 10 nước, mở rộng đáng kể lãnh thổ. Phạm Chiên đã thúc đẩy quan hệ ngoại giao với Ấn Độ. Còn Phạm Tầm đã thúc đẩy quan hệ ngoại giao với nhà Tấn ở Trung Quốc. Người Phù Nam đã có chữ viết, kiểu chữ viết có nguồn gốc Ấn Độ.[7]Cho đến giờ chưa phát hiện được tư liệu nào nói về thời kỳ tiếp sau Phạm Tầm. Các nhà khoa học cho rằng vào khoảng giữa thế kỷ 4, quyền cai trị Phù Nam một lần nữa lại vào tay người Ấn Độ. Lương thư và Tấn thư có nhắc tới một người là Thiên Trúc Thiên Đàn đã triều cống Mục Đế. Các nhà khoa học sau này cho đó là người Ấn Độ tên là Chandan hoặc Chandana.[8]
Đến đầu hoặc giữa thế kỷ 5, vẫn là người Ấn Độ nắm quyền cai trị Phù Nam. Lương thư cho biết một người Thiên Trúc là Kiều Chân Như mà các nhà khoa học sau này cho rằng đó có thể là một người Brahman Ấn Độ cũng lại tên là Kaudinya đã thay đổi chế độ nhà nước Phù Nam sang theo kiểu Ấn Độ.[9] Kiều Trần Như ở ngôi khoảng năm 470 đến 514, tự xưng là Người bảo vệ thánh kinh Vê đa. Vào thời kỳ này, nhiều thương gia Phù Nam sang buôn bán ở Quảng Châu (Trung Quốc).[10]
Khi Kaundinya mất, con là Sri Indravarman (Lương thư phiên âm là Tri Lê Đà Bạt Ma) lên thay, và đã cho sứ sang triều cống Tống Văn Đế (nhà Lưu Tống) vào những năm 438, 453 và 438. Cũng theo Lương thư, thì năm 431-432, nước Lâm Ấp muốn đánh Giao Châu của người Việt, nên có nên yêu cầu vua Phù Nam giúp sức, nhưng Phù Nam đã từ chối.
Khi Sri Indravarman mất, người nối ngôi là Jayavarman (Lương thư phiên âm là Đồ Tà Bạt Ma). Jayavarman đã phái một nhà sư Ấn Độ tên Nagasena đem lễ vật sang tặng vua Nam Tề năm 484, và yêu cầu nhà vua giúp mình đánh Lâm Ấp nhưng bị từ chối khéo. Các nhà khoa học đã phát hiện bia ký viết bằng chữ Sanskrit cho hay dưới thời Jayavarman Phù Nam đã xây dựng nhiều công trình thủy lợi, biến nhiều vùng đầm lầy rộng lớn ở hạ lưu sông Mê Kông thành những vùng đồng bằng phì nhiêu, trù phú. Năm 514, Jayavarman mất.
Kế vị ngôi là Rudravarman (Lương thư phiên âm là Lưu Đà Bạt Ma), con cả của Jayavarman. Đây là ông vua cuối cùng của Phù Nam. Vào năm 517 và 539, nhà vua đều có sai sứ sang Trung Quốc triều cống.
Diệt vong
Giữa thế kỷ 5, Chân Lạp nổi lên, chiếm thành Đặc Mục kinh đô của Phù Nam, hợp nhất lãnh thổ Phù Nam với Chân Lạp. Nhà vua Phù Nam phải bỏ chạy và lập triều đình lưu vong tại Na Phất Na (vùng Angkor Borei). Phù Nam diệt vong.Sách Lược sử vùng đất Nam Bộ Việt Nam (tr. 20) viết:
- Sau một thời rực rỡ, đế quốc Phù Nam bắt đầu suy thoái vào cuối thế kỷ thứ 6. Nước Cát Miệt [11], một thuộc quốc của Phù Nam, đến thế kỷ này đã nhanh chóng phát triển thành một vương quốc độc lập và hùng mạnh. Nhân sự suy yếu của Phù Nam, Chân Lạp đã tấn công & chiếm lấy một phần lãnh thổ (tương đương với vùng đất Nam Bộ mà sau này Việt Nam chiếm được từ Chân Lạp) của đế chế này vào đầu thế kỷ 7...
- Nước Chân Lạp ở về phía Tây Nam nước Lâm Ấp, nguyên là một chư hầu của Phù Nam. Vua nước ấy là Ksatriya Citrasena đánh chiếm và tiêu diệt Phù Nam.[12]
Căn cứ năm 627, sứ giả Phù Nam còn đến tiến cống nhà Đường, nên có thể suy ra nước Phù Nam bị tiêu diệt phải sau năm này.[14]
Sau khi Chân Lạp đánh bại Phù Nam, trong sách Trung Quốc đã xuất hiện tên gọi Thủy Chân Lạp để chỉ phần lãnh thổ Phù Nam trên vùng đất Nam Bộ (Việt Nam); và cũng để phân biệt với vùng đất Lục Chân Lạp, tức là vùng đất gốc của Vương quốc Chân Lạp.[15]
Mặc dầu chiếm đoạt được, nhưng trên thực tế, việc cai quản vùng lãnh thổ mới này đối với Chân Lạp gặp rất nhiều khó khăn. Trước hết, với truyền thống quen khai thác các vùng đất cao, dân số còn ít ỏi, người Khmer khi đó khó có khả năng tổ chức khai thác trên quy mô lớn một vùng đồng bằng mới bồi lấp, còn ngập nước và sình lầy. Hơn nữa, việc khai khẩn đất đai trên lãnh thổ của Lục Chân Lạp đòi hỏi rất nhiều thời gian và sức lực. Việc cai trị xứ Thủy Chân Lạp vì vậy vẫn phải giao cho những người thuộc dòng dõi Vua Phù Nam.
Theo những tài liệu bi kí còn lại có thể thấy rằng, vào thế kỷ thứ 8 tại vùng trung tâm của Phù Nam trước đây vẫn còn tồn tại một tiểu quốc tên là Aninditapura, do một người thuộc dòng dõi vua Phù Nam tên là Baladitya trị vì. Và khi Phù Nam tan rã là lúc nhiều vương quốc nhỏ ở Đông Nam Á nổi lên thay thế vai trò đế quốc hàng hải của vương quốc này, mà nổi bật là vương quốc Srivijaya ở đảo Sumatra và vương quốc Sailendra ở đảo Java, thuộc Indonesia ngày nay.
Từ cuối thế kỷ 8, vương quốc Sailendre hùng mạnh đã xâm chiếm toàn bộ Thủy Chân Lạp đồng thời đưa Lục Chân Lạp vào vị trí chư hầu của mình, tới đầu thế kỷ 9, Sailendra suy yếu mới từ bỏ vùng đất Thủy Chân Lạp.
Văn hóa
Tại di chỉ Bình Tả (xã Đức Hòa, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An), trong đợt khai quật vào tháng 2 năm 1987 do Lê Trung Khá chủ trì, đã phát hiện một di vật có tên Bhavavarman (tên một hoàng thân Phù Nam) viết bằng chữ Phạn cổ. Đây là một cứ liệu chính xác cho phép gắn liền văn hóa khảo cổ Óc Eo với Vương quốc Phù Nam trong lịch sử.[17]
Sau năm 1975, thêm nhiều lần khai quật khảo cổ ở Óc Eo và nhiều nơi khác nữa, thì thấy nền văn hóa này phân bố rất phong phú trên địa bàn các tỉnh như Long An, Đồng Tháp, An Giang, Kiên Giang, Thành phố Hồ Chí Minh...[18]. Tất cả theo sách Lược sử vùng đất Nam Bộ Việt Nam, đã khẳng định rằng Óc Eo là một nền văn hóa có nguồn gốc bản địa, mà chủ nhân của nó là những cư dân Phù Nam. Nền văn hóa này phát triển trên nền tảng văn hóa Đồng Nai, có quan hệ mật thiết với nền văn hóa Sa Huỳnh ở miền Trung, và có quan hệ giao lưu rộng rãi với các nước ở bên ngoài (qua dấu tích vật chất, cho thấy có sự liên hệ khá mật thiết với Trung Quốc, Ấn Độ, Tây Á và Địa Trung Hải).[19]
Từ điển Văn hóa Đông Nam Á cho biết chi tiết:
- Ở di chỉ Óc Eo đã phát hiện ra nhiều di chỉ khác nhau như di chỉ cư trú, di chỉ kiến trúc tôn giáo, di chỉ mộ táng... cùng rất nhiều hiện vật quý như tượng thờ, linh vật, phù điêu, con dấu, tiền tệ, di vật bằng vàng, đồ trang sức bằng đá quý, vật dụng bằng đá, đồ gốm, vật dụng bằng gỗ, cốt động vật, cốt thực vật...
- Qua phân tích các mẫu vật, đã xác định được niên đại của di chỉ Óc Eo là cuối thế kỷ 2 đến thế kỷ 5. Các hiện vật khảo cổ đã nói lên tầm quan trọng rất lớn trong nền văn hóa được mang tên là Óc Eo ở Đông Nam Á. Theo các nhà nghiên cứu, Óc Eo đã từng là một cảng quan trọng của nhà nước Phù Nam.[20]
- Hai nhà nghiên cứu là Võ Sĩ Khải & Lê Trung Khá, sau khi tìm thấy hai sọ cổ (cư dân của nền văn hóa Phù Nam) ở Gò Tháp (Đồng Tháp) & Óc Eo năm 1984, đã cho biết rằng: “Hai sọ cổ này mang những đặc điểm thường gặp phải ở số đông người Thượng hiện nay; và thường được xếp vào tiểu chủng hay loại hình nhân chủng Indonésien.[22]. Trong quá trình phát triển, có sự tiếp xúc và cộng cư với những yếu tố nhân chủng khác.
- Chế độ nhà nước là chế độ phong kiến. Vương quyền được kết hợp chặt chẽ với thần quyền, tôn giáo được sử dụng như một công cụ hữu hiệu của giai cấp thống trị.
- Xã hội đã có sự phân hóa giàu nghèo thành các tầng lớp quý tộc, bình dân và nô lệ.
- Thuế là nguồn thu nhập chính của quốc gia. Thuế có thể đóng bằng vàng, bạc, châu ngọc, hương liệu...
- Pháp luật được thi hành theo quan niệm "thần đoán" (xem đoạn trích sử Nam Tề ở phần Trong thư tịch cổ).
- Về tín ngưỡng chủ yếu là đạo Bà-la-môn và đạo Phật.
- Đặc điểm hình thể và cách ăn mặc của cư dân Phù Nam có những nét giống với các dân tộc bản địa ở miền cao nguyên Đông Dương.
- Chữ viết là loại chữ Phạn (Sanskrit) có nguồn gốc từ bộ chữ cái của người Pallava, ở Ấn Độ.[23].
-
- Có 2 giả thuyết về ngôn ngữ của dân cư Phù Nam, có thể là nhóm ngôn ngữ Mã Lai-Đa Đảo thuộc ngữ hệ Nam Đảo[24] hoặc là nhóm ngôn ngữ Môn-Khmer[25].
- Ăn ở: Lương thực chính là lúa gạo. Cất nhà trên cọc gỗ, mái lợp bằng lá thốt nốt hoặc ngói. Louis Malleret khi đã tiến hành khai quật ở Óc Eo đã nhận xét rằng: phần lớn kiến trúc ở đây được lợp mái bằng ngói, một kiểu khác hẳn ở Angkor.[26]
- Tang lễ: người chết được chôn cất theo 4 cách: thủy táng, hỏa táng, điểu táng và chôn cất. Theo Tấn thư thì tang lễ và hôn lễ của Phù Nam gần giống với Lâm Ấp (tức Chămpa).
- Nhiều ngành nghề khá phát triển, như: luyện kim, nấu thủy tinh, chế tác ngọc, gốm màu, gạch, kim hoàn, xây dựng, tạc tượng, nghề cá, trồng lúa nước (lúa sạ), đóng tàu lớn, dệt vải, thêu thùa, làm muối, làm giấy (bằng bông gòn)...
- Có kinh nghiệm & tài nghệ trong việc làm thủy lợi để cải tạo đất đai.
- Có nền thương nghiệp, đặc biệt là ngoại thương khá phát triển.
- Giỏi săn bắt & chăn nuôi (biết thuần dưỡng cả voi).
- Thú tiêu khiển: Ca múa (loại hình nghệ thuật này rất phát triển), săn bắt, chọi gà...
- Trên đây là những nét phát họa của một nền văn minh xuất hiện sớm nhất ở miền Nam bán đảo Inđôchina. Văn minh đó của Phù Nam tiếp thu những tinh hoa của nền văn minh Ấn Độ. Nhưng tất cả những điều mà chúng ta biết đều chứng tỏ rằng ngay từ thuở ban đầu, văn minh Ấn Dộ chỉ là đến ghép trên miếng đất cũ của nền văn hóa Đông Nam Á bản địa vốn có sẵn, để hình thành một nền văn minh và một nền nghệ thuật hết sức độc đáo.[27]
Trong thư tịch cổ
Quyển sách đầu tiên đề cập đến Vương quốc Phù Nam là Dị vật chí của Dương Phù thời Đông Hán (25-220).Kế đến là Ngô thư thời Tam Quốc (220-280). Theo sách này thì vào tháng Chạp năm Xích Ô thứ 6 (243), vua Phù Nam là Phạm Chiên có sai sứ đến dâng nhạc công và phương vật cho vua Ngô là Tôn Quyền (182 – 252).
Thời gian sau, khi đánh chiếm Giao Châu và Cửu Chân, vua Ngô cũng đã sai người đến các nước phương Nam; thì các nước là Phù Nam, Lâm Ấp (Chămpa), Minh Đường thảy đều sai sứ đến dâng cống.[28]
Lương thư còn cho biết vua Ngô là Tôn Quyền đã sai Chu Ứng (Tchou Ying) và Khang Thái (Kang Tai) đi sứ các nước phía Nam, trong số đó có Phù Nam. Sau khi đi sứ về, Khang Thái có viết quyển Phù Nam thổ tục còn gọi là Phù Nam truyện.
Các sách có niên đại muộn hơn vào các thế kỷ 6 và 7 như Trần thư, Tùy thư, Thông điển, Tân Đường thư... đều có ghi chép về đất nước Phù Nam. Trích một vài đoạn:
- Nam Tề thư
- Người Phù Nam thường buôn vàng bạc, tơ lụa. Con cái nhà quý tộc thường mặc xà-rông bằng lụa the. Đàn bà thì mặc một thứ áo vải luồn qua đầu. Người nghèo thì quấn một mảnh vải thô quanh mình. Họ đúc nhẫn và vòng đeo tay bằng vàng, làm bát đĩa bằng ngọc. Họ đốn cây lấy gỗ làm nhà và rào vườn tược chung quanh nhà. Nhà vua ở trong một nhà lầu có tầng gác. Dọc bờ biển, người ta trồng cây thốt nốt lá dài dùng để lợp nhà. Người ta đóng những chiếc thuyền dài tám, chín trượng (tức hơn 20m), rộng sáu, bảy phần mười trượng. Mũi thuyền và lái thuyền giống như đầu và đuôi cá. Nhà vua ngự trên mình voi. Đàn bà có thể cưỡi voi đi. Họ thích chơi chọi gà. Họ không có nhà tù. Khi có kiện cáo, tranh chấp, họ vứt nhẫn vàng hoặc trứng vào nước sôi. Ai dúng tay lấy ra mà không bị bỏng thì người ấy được kiện. Hoặc người ta bắt cầm ở tay một chiếc xích nung đỏ rồi đi bảy bước. Ai có tội thì bàn tay bị cháy bỏng, người vô tội thì chẳng có việc gì. Cũng có khi người ta nhận những người kiện xuống nước. Người có tội thì chìm hẳn dưới nước, người vô tội thì nổi lên...
- Dưới đời vua Kaunđinya Giayavacman, phong tục của đất nước này là tôn thờ thần Mahaxvara. Thần luôn xuống ngự trên đỉnh Môtan.[29]
- Lương thư
- Nước Phù Nam ở phía Nam quận Nhật Nam, trong một vịnh lớn ở phía Tây biển. Nước cách Nhật Nam chừng 7.000 lý và cách Lâm Ấp hơn 3.000 lý về phía Tây Nam. Đô thành cách biển 500 lý. Một con sông lớn từ Tây Bắc chảy về phía Đông và đổ ra biển. Nước rộng hơn 3.000 lý. Đất thấp và bằng phẳng. Khí hậu và phong tục đại để giống Lâm Ấp...
- ...Họ (cư dân Phù Nam) không đào giếng gần nhà ở. Mấy chục gia đình chung nhau xây một cái bể chứa nước để dùng. Họ có tục sùng bái các vị thần trên trời. Họ đúc tượng thần để thờ, tượng có một mặt bốn tay hay tượng bốn mặt tám tay; mỗi tay cầm một vật gì đó, hoặc một đứa bé con, hoặc một con chim, một con thú nào đó, hoặc một hình mặt trời hay Mặt Trăng. Nhà vua thường ngự giá trên mình voi, các cung phi và đình thần cũng vậy. Khi vua ngồi, đầu gối chân phải gấp thẳng đứng, đầu gối chân trái gấp bằng sát đất (tư thế thường thấy ở các pho tượng thần Khơ-me và Án Độ). Trước mặt vua, người ta trải một tấm vải trên đặt những lọ bằng vàng và những lư hương. Khi có tang, người ta có tục cạo râu và cạo đầu. Về mai táng có bốn cách: hoặc vứt xác chết xuống dòng sông, hoặc hỏa táng, hoặc đào huyệt chôn, hoặc vứt ngoài đồng nội cho quạ chim mổ xẻ.[30]
- Tấn thư
- Đất rộng 3.000 lý, có những thành phố xây tường, có lâu đài và nhà ở. Đàn ông Phù Nam xấu và đen, quấn tóc, ở truồng và đi chân không. Tính đơn giản và không trộm cắp. Họ chăm công việc nhà nông, gieo 1 năm gặt 3 năm. Họ thích trang trí bằng điêu khắc, chạm trổ; nộp thuế bằng vàng, bạc, hạt châu, hương liệu. Họ có sách vở, thư viện và nhiều vật khác. Chữ viết giống người Hồ. Ma chay cưới hỏi đại để giống Lâm Ấp.[31]
- Phù Nam thổ tục
- Vương Quốc Phù Nam bề ngang rộng 399 lý, có nhiều đô thị, có tường cao bao quanh và bên trong có nhà ở... Nước da người dân màu đen, tóc quăn, xấu xí...Đàn ông đóng khố, đàn bà mặc cái chăn tròng từ cổ tới chân, xỏ lỗ tai để đeo bông tòn ten.
- Nếp sống tuy rất đơn giản nhưng họ không trộm cắp. Họ làm nghề nông theo lối cổ, gieo trồng một lần gặt hái luôn trong 3 năm. Họ thích điêu khắc và dùng đục chạm trổ rất khéo; nhiều món đồ dùng để ăn cơm như chén đĩa đều làm bằng bạc. Dân chúng đóng thuế bằng vàng bạc, trân châu & dầu thơm...Họ biết đọc sách & có văn khố. Văn tự của họ giống như nét chữ của dân Hồ, một sắc dân ở Trung Á dùng Ấn tự...Cảnh vật trong xứ rất đẹp...
Nơi di chỉ
Giới thiệu một vài di chỉ tiêu biểu[32]:Di chỉ Gò Cây Thị (Óc Eo)
Di chỉ Gò Cây Thị thuộc xã Vọng Thê, huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang; là một di chỉ cung đình mang tính tôn giáo, gồm tiền điện, chính điện và 4 ô ngăn; đã được nhà khảo cổ Pháp Louis Malleret khai quật đầu tiên vào năm 1944 (từ tháng 2 đến tháng 4). Di chỉ có diện tích 488,8m2, có dạng gần vuông, quay mặt về hướng Đông, nằm trên cánh đồng Óc Eo, cách di tích khu di tích Nam Linh Sơn (núi Ba Thê) khoảng 1600m về phía Đông. Ở quanh khu di chỉ này, Louis Malleret còn tìm được 8 ngôi mộ táng. Hiện vật tìm thấy trong mộ hoặc xung quanh mộ, gồm những thỏi đất nung, mảnh gốm mịm, hạt chuỗi, đá quý, vàng lá, xương răng lợn, xương trâu bò, sừng hươu, than củi…Di chỉ Gò Tháp
Di chỉ Gò Tháp thuộc huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp, được thám sát vào năm 1931, 1943 và 1984. Đây là khu di chỉ có các loại hình: cư trú, mộ táng và kiến trúc.Di chỉ Gò Thành
Di chỉ Gò Thành thuộc ấp Tân Thành (xã Tân Thuận Bình, huyện Chợ Gạo, tỉnh Tiền Giang), được L. Malleret phát hiện năm 1941. Trong nhiều lần khai quật tiếp theo vào những năm: 1979, 1988, 1989, 1990, đã phát hiện ở độ sâu khoảng 1,5 đến 3 m, có nhiều gốm cổ bị vỡ; nhiều vòi bình; nhiều di cốt trâu bò, heo và xương cá; nhiều dấu vết tro, than, vỏ trái cây, lá dừa nước; cùng với vài cọc gỗ có dấu vết gia công.Nơi đây, cũng đã phát hiện được 5 kiến trúc bằng gạch và 12 ngôi mộ xây bằng gạch có kích thước lớn nhỏ khác nhau. Trong và quanh mộ, ngoài những hiện vật bằng vàng, bằng gốm, đất nung còn có hai tượng thần Visnu bằng đá có kích cỡ khá lớn...Bằng kỹ thuật chuyên ngành, các nhà khảo cổ đã phân tích một số mẫu vật & kết luận rằng khu di tích khảo cổ Gò Thành có niên đại từ thế kỷ 4 đến thế kỷ 8. Đây là một khu di chỉ đặc biệt vì nó còn lưu giữ khá nguyên vẹn và phong phú về nhiều loại hình di chỉ như: di chỉ cư trú, di chỉ mộ táng, và nhất là di chỉ kiến trúc với nhiều đền tháp ở cạnh nhau có quy mô khác nhau, rất hoành tráng, tuy chỉ còn phần nền...
Di chỉ Gò Cây Tung
Di chỉ Gò Cây Tung thuộc ấp Thới Thuận, xã Thới Sơn, huyện Tịnh Biên, tỉnh An Giang, được phát hiện và khai quật vào năm 1994 và 1995. Tại đây, người ta đã phát hiện nhiều ngôi mộ cổ với 23 bộ xương người, trong đó có 9 nam, 7 nữ, còn 7 cá thể chưa rõ giới tính... Ngoài ra, người ta còm tìm được nhiều hiện vật phong phú, bao gồm đồ gốm có vẻ màu, hơn 40 chiếc rìu đá (có hình tứ giác) cùng bàn mài, chày nghiền...Cùng với những di chỉ trên, những di vật và mộ táng được phát hiện rất nhiều ở nơi khác như: Bình Tả (Long An), Gò Cây Duối-Thanh Điền, Tây Ninh, Đá Nổi (Kiên Giang), ND 11 (Khu kinh tế mới Lê Minh Xuân, huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh), Di chỉ Cây Gáo (Đồng Nai) v.v...đã khẳng định rằng Óc Eo là một nền văn hóa có nguồn gốc bản địa, mà chủ nhân của nó là những cư dân Phù Nam.
Phù Nam & Chân Lạp
Sách Lịch sử Campuchia viết: Cho tới nay, vẫn còn không ít người cho rằng nước Phù Nam là tiền thân của nước Chân Lạp. Quan điểm nhầm lẫn này được nêu ra đầu tiên trong các công trình nghiên cứu của các học giả của Trường Viễn Đông bác cổ từ nửa đầu thế kỷ 20.Sau, nhờ những nguồn thư tịch cổ của Trung Quốc và các cuộc khai quật khảo cổ[33], các nhà nghiên cứu mới có đủ bằng chứng để xác định hai quốc gia này không phải là một.
Tùy thư chép:
- Chân Lạp ở về phía Tây Nam nước Lâm Ấp. Nguyên trước là thuộc quốc của Phù Nam. Sau họ ngày một hùng cường, vua Chân Lạp là Ksatriya Citrasena chiếm được Phù Nam và bắt thần phục...[34]
- Nước Phù Nam ở phía Nam quận Nhật Nam, trong một vịnh lớn ở phía Tây biển. Nước cách Nhật Nam chừng 7.000 lý và cách Lâm Ấp hơn 3.000 lý về phía Tây Nam. Đô thành cách biển 500 lý...
- Nước Phù Nam ở cách quận Nhật Nam bảy ngàn lý về phía Nam…, đất thấp như Hoàn Xương, có thói quen lập những thành phố bọc tường…Vua của họ đóng đô ở thành Đặc Mục. Thành ấy bị Chân Lạp đánh bất ngờ, phải dời đến thành phố Na Phất Na ở phía Nam...[35]
- Vị trí của mỗi nước đều đã được xác định khá rõ ràng, tuy hai nước này có những mối quan hệ với nhau về nhiều mặt.
- Ban đầu, nước Chân Lạp là một thuộc quốc của Phù Nam, sau dần lớn mạnh, không những cởi bỏ được ách thống trị và còn bắt Phù Nam thần phục lại mình. Sự kiện này xảy ra vào khoảng nửa thế kỷ 7 (sau năm 627). Từ đấy trở đi, có thể nói Phù Nam đã bị diệt vong và đất nước của họ bị sát nhập vào lãnh thổ của Chân Lạp.
Bí ẩn về sự tiêu vong
Chu Đạt Quan, một sứ thần nhà Nguyên trên đường sang kinh đô Ăngkor vào khoảng tháng 7 năm Bính Thân (1296), đã miêu tả cảnh Thủy Chân Lạp trong sách Chân Lạp phong thổ ký như sau:- Từ chỗ vào Chân Bồ[37] trở đi, hầu hết là rừng thấp cây rậm. Sông dài cảng rộng, kéo dài mấy trăm dặm cổ thụ rậm rạp, mây leo um tùm, tiếng chim muông chen lẫn nhau ở trong đó. Đến nửa cảng mới thấy ruộng đồng rộng rãi, tuyệt không có một tấc cây. Nhìn xa chỉ thấy cây lúa rờn rờn mà thôi. Trâu rừng họp nhau thành từng đàn trăm ngàn con, tụ tập ở đấy. Lại có giồng đất đầy tre dài dằng dặc mấy trăm dặm. Loại tre đó, đốt có gai, măng rất đắng.[38]
Bài Phế đô của vương quốc Phù Nam, đã đăng trên báo Tuổi Trẻ[39] nêu ba giả thuyết:
- Thứ nhất: do thiên tai (một trận hồng thủy). Nhưng theo nhiều nhà khoa học thế giới thì kỷ tan rã băng hà cuối cùng cách đây ít ra cũng đã 8.000 năm. Những trận động đất hay những cơn sóng thần cục bộ như xảy ra ở Nam Á vừa rồi khó có khả năng xóa được cả một vương quốc như Phù Nam.
- Thứ hai: do đại dịch bệnh. Nhưng qua các cuộc khai quật, thì thấy những bộ hài cốt cổ, không có dấu hiệu bị nhiễm dịch bệnh và đều được táng đàng hoàng trong mộ.
- Thứ ba: do những cuộc ngoại xâm tàn sát. Và nghi vấn ngoại ban ấy chính là người Java (Mã Lai). Nhưng thư tịch cổ không thấy ghi như thế và cũng chưa tìm được chứng cứ để xác định...
- Vào khoảng giữa thế kỷ 6, nước Phù nam nhanh chóng bước vào thời kỳ tàn tạ. Nền văn minh Phù Nam cổ kính trước sau chỉ được nảy nở ở một số đô thị lớn tập trung dân cư, còn ở các vùng nông thôn rộng lớn thì cuộc sống ở đây không có ai quan tâm đến. Công tác thủy nông không được coi trọng nữa, khiến cho những vụ lũ lụt của sông Mê Kông gây những tai họa khủng khiếp cho các cánh đồng ruộng trũng, biến những vùng đồng bằng vốn phì nhiêu thành những vùng đồng lầy vô dụng ở miền hạ lưu sông Mê Kông; và làng mạc tiêu điều, cư dân xơ xác phải di cư đến những rẻo cao. Ngoài ra, việc Ruđravacman lên ngôi bất hợp pháp khiến xuất hiện nhiều nhóm phái chống đối, ly khai cát cứ thành những vùng độc lập. Để rồi, Phù Nam bị Chân Lạp chinh phục, và hợp nhất tạo thành quốc gia Khmer, mà Bhavaraman I có thể coi là người sáng lập.[40]
- Những chuyển biến trong cơ cấu cư dân (Phù Nam), sự không thích ứng với những điều kiện chính trị, kinh tế và văn hóa dưới thời (lệ thuộc) Chân Lạp, tình trạng chiến tranh triền miên giữ Chân Lạp (trong đó có Phù Nam) trên địa bàn Nam Trung Bộ và Đông Nam Bộ, và những ảnh hưởng của các cuộc tấn công của đế quốc Nguyên Mông vào các nước Đông Nam Á vào thế kỷ 13 đã là “những nguyên nhân trực tiếp và gián tiếp đưa quá trình hoang hoá của vùng đất Gia Định và đồng bằng Nam Bộ nói chung”. Các cộng đồng dân tộc bản địa (Phù Nam) sinh sống trên đồng bằng châu thổ từ nhiều thế kỷ đã từ từ rút về sống co thủ ở miền cao trong những điều kiện hoang sơ, chỉ giữ lại trong ký ức hình ảnh của biển cả và một thời “hoàng kim” mà ngày nay chỉ còn tìm lại được qua một số tập quán, trong huyền thoại và những truyền thuyết dân gian.[41]
Xem thêm
Chú thích
- ^ Lương Ninh (2006), Nước Phù Nam, NXB. Đại học Quốc Gia Thành phố Hồ Chí Minh, tr 39 - 40
- ^ Lương Ninh (2006), Nước Phù Nam, NXB. Đại học Quốc Gia Thành phố Hồ Chí Minh, tr 40
- ^ Lược theo Giáo trình du lịch (tr. 97), Lịch sử Camphchia (tr. 32)
- ^ Lương Ninh (2006), Nước Phù Nam, NXB. Đại học Quốc Gia Thành phố Hồ Chí Minh, tr 43
- ^ Lương thư và Nam Tề thư chép tương tự. Ở bài soạn này, xin các bạn đọc lưu ý là tên các vị vua Phù Nam, mỗi sách phiên âm mỗi khác. Và các năm tháng ở trong bài, chỉ có tính tương đối.
- ^ a b Ngô Văn Doanh (2009), trang 15.
- ^ Ngô Văn Doanh (2009), trang 16-17.
- ^ Ngô Văn Doanh (2009), trang 17-18.
- ^ Dẫn lại từ Ngô Đăng Doanh (2009), trang 18.
- ^ Giáo trình Du lịch.
- ^ Cát Miệt, do người Hoa phiên âm từ Khmer. Về sau quốc gia này có tên gọi là Chân Lạp. (chú thích lấy ở sách Lược sử vùng đất Nam Bộ Việt Nam, tr. 19).
- ^ Tùy thư, Quyển 82, Liệt truyện 47, tờ 5. (Tư liệu khoa Sử, Đại học Quốc gia Hà Nội, H. 1949).
- ^ Tân Đường thư, Quyển 222 hạ, Liệt truyện 147 hạ, tờ 3 (Bản chữ Hán, Tư liệu khoa Sử, Đại học Quốc gia Hà Nội, H. 1948.
- ^ Lược sử vùng đất Nam Bộ Việt Nam, tr. 20.
- ^ Mã Đoan Lâm, Văn hiến thông khảo, Quyển 332, Tứ duệ khảo, tờ 9. (Tư liệu khoa Sử, Đại học Quốc gia Hà Nội, H. 875.
- ^ Óc Eo: tên một cánh đồng nay thuộc xã Vọng Thê, huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang.
- ^ Theo Địa chí văn hóa TP. HCM, tập I, phần 2, tr. 119.
- ^ Cuộc khai quật đầu tiên của Malleret đã tiến hành với 24 điểm. Cho tới nay, trên sườn núi Ba Thê và cánh đồng Óc Eo đã có trên 50 địa điểm có giá trị khảo cổ học đã được ghi nhận và nghiên cứu. Tính đến năm 1975, bộ sưu tập về văn hóa Óc Eo - Ba Thê đã có 3.969 hiện vật. Trong đó bao gồm: 498 đồ vàng, 137 đồ bạc, 4 chì, 83 thiếc, 149 đồ đồng, 2.749 đồ đá màu (trong đó có 2.522 chuỗi hạt, 79 đồ đá khác, 285 đất nung, 7 đồ gỗ và một số hiện vật không xác định rõ)
- ^ Lược sử vùng đất Nam Bộ Việt Nam, tr. 17.
- ^ Từ điển Văn hóa Đông Nam Á, tr. 305.
- ^ Lược theo Giáo trình du lịch (tr. 101-102) và Lịch sử Campuchia (tr. 40-44)
- ^ Địa chí văn hóa TP. HCM (tập I, phần 2, tr. 113) & Giáo trình du lịch (tr. 99). Sách Lược sử vùng đất Nam Bộ Việt Nam ghi cư dân Phù Nam mang đặc điểm nhân chủng Tiền Mã Lai (Protomalais).
- ^ Ghi theo Lược sử vùng đất Nam Bộ (tr. 18). Giáo trình du lịch cho rằng chữ Brami, là thứ chữ đã được dùng ở Ấn Độ từ thế kỷ 3 đến thế kỷ 5. (tr. 99)
- ^ Ngô Văn Doanh (2009), trang 14. Ý kiến này phù hợp với ghi nhận của Lương thư (sử nhà Lương, Trung Quốc).
- ^ Giáo trình du lịch (tr. 98)
- ^ Louis Malleret. L’Archéologie du delta du Mékong, Tome 3, Paris, 1963, tr. 314.
- ^ Lịch sử Campuchia, tr. 44.
- ^ Ngô thư, Ngô chủ truyện (quyển 47, tờ 31). Dẫn lại theo Lược sử vùng đất Nam Bộ Việt Nam, tr. 14.
- ^ Mahaxvara, là một trong những tên gọi của thần Civa. Đoạn trích này in trong sách Lịch sử Campuchia, tr.41-42.
- ^ Sử nhà Lương. Đoạn trích in trong sách Lịch sử Campuchia, tr.42.
- ^ P.Pelliot, Le Fou Nan, Hanoi, 1903 & Lược sử vùng đất Nam Bộ Việt Nam, tr. 18.
- ^ Lược theo Giáo trình du lịch, tr. 111-114.
- ^ Võ Sĩ Khải viết: Căn cứ vào những kết quả nghiên cứu gần đây, có thể thấy những di tích khảo cổ học mang dấu ấn Chân Lạp trên đất Nam Bộ trước thế kỳ 16 không nhiều và ảnh hưởng văn minh Angkor ở vùng này cũng không đậm nét. (Địa chí văn hóa TP. HCM tập I, tr. 183.
- ^ Tùy thư, Quyển 82, Liệt truyện 47, tờ 5. Tư liệu khoa sử, Đại học Quốc Hà Nội, H. 1949.
- ^ Tân Đường thư. (bản chữ Hán). Tư liệu khoa sử, Đại học Quốc Hà Nội, H.1948.
- ^ Lược theo Lịch sử Campuchia, tr. 28-29.
- ^ Vùng Bà Rịa ngày nay.
- ^ Chu Đạt Quan, Chân Lạp phong thổ ký. Nxb Thế giới, Hà Nội, 2006, tr.45.
- ^ Xem Phế đô của vương quốc Phù Nam
- ^ Lịch sử Campuchia, tr. 47-48.
- ^ Địa chí văn hóa TP. Hồ Chí Minh, tập I, tr. 118.
Tham khảo chính
- Lược sử vùng đất Nam Bộ (in lần thứ 2) do GS TSKH Vũ Minh Giang chủ biên. Sách của Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam tổ chức biên soạn, NXB thế giới ấn hành, Hà Nội, 2008.
- Lịch Sử Camphchia do Phạm Việt Trung, Nguyễn Xuân Kỳ, Đỗ Văn Nhung biên soạn. Nxb Đại Học & THCN, 1982.
- Địa chí văn hóa TP. HCM, tập I, phần 2 do Võ Sĩ Khải biên soạn. Nxb TP. HCM, 1987.
- Ngô Văn Doanh, Từ điển Văn hóa Đông Nam Á phổ thông. Nxb VH-TT, 1999.
- Ngô Văn Doanh (2009), "Vương quốc Phù Nam (khái quát những giai đoạn lịch sử)", Nghiên cứu Đông Nam Á, số tháng 3, trang 13-20.
- Kiến thức phục vụ thuyết minh du lịch (gọi tắt là Giáo trình du lịch) giáo trình do Hiệp hội du lịch TP HCM biên soạn, Nxb Tp. HCM ấn hành năm 1995.
- Lương Ninh, Vương quó̂c Phù Nam: lịch sử và văn hóa [Fu Nan: history and culture], Hà NộI, Việ̣̂n văn hóa và Nhà xuá̂t bản Văn hóa thông tin, 2005.
Chú thích
Tham khảo
Wikimedia Commons có thêm thể loại hình ảnh và tài liệu về Phù Nam |
Thể loại:
http://www.youtube.com/user/hoangkimvietnam
Trở về trang chính
Hoàng Kim, hoangkim, hoangkimvietnam, Ngọc Phương Nam, Chào ngày mới Thung dung, Dạy và học, Cây Lương thực, Tin Nông nghiệp Việt Nam, Food Crops, Cassava in Vietnam, Khát khao xanh, Dayvahoc, Học mỗi ngày, Danh nhân Việt , Food Crops News, Điểm chính, CNM365, Kim LinkedIn, KimTwitter, KimFaceBook Đọc lại và suy ngẫm, Việt Nam tổ quốc tôi, Tình yêu cuộc sống, Thơ cho con
- Phù Nam
- Quốc gia cổ trong lịch sử Việt Nam
- Quốc gia cổ trong lịch sử Campuchia
- Quốc gia cổ trong lịch sử Thái Lan
http://www.youtube.com/user/hoangkimvietnam
Trở về trang chính
Hoàng Kim, hoangkim, hoangkimvietnam, Ngọc Phương Nam, Chào ngày mới Thung dung, Dạy và học, Cây Lương thực, Tin Nông nghiệp Việt Nam, Food Crops, Cassava in Vietnam, Khát khao xanh, Dayvahoc, Học mỗi ngày, Danh nhân Việt , Food Crops News, Điểm chính, CNM365, Kim LinkedIn, KimTwitter, KimFaceBook Đọc lại và suy ngẫm, Việt Nam tổ quốc tôi, Tình yêu cuộc sống, Thơ cho con
No comments:
Post a Comment