CNM365 Chào ngày mới 17 tháng 3 Quốc khánh nước Ireland, Ngày thánh Patrick tại Ireland, Newfoundland và Labrador, Montserrat. Năm 455 – Một ngày sau vụ ám sát hoàng đế Valentinianus III do ông chủ mưu, Petronius Maximus trở thành hoàng đế của Đế quốc Tây La Mã với sự ủng hộ của viện nguyên lão. Năm 916 – Thủ lĩnh Da Luật A Bảo Cơ đăng cơ xưng là "Đại Thánh Đại Minh Thiên hoàng đế", đặt quốc hiệu "Khiết Đan". Năm 1950 – Các nhà nghiên cứu của Đại học California tại Berkeley công bố rằng họ tạo thành được nguyên tố hóa học thứ 98, họ đặt tên cho nguyên tố là "Californi". Năm 1969 – Golda Meir (hình) trở thành Thủ tướng thứ tư của Israel, bà cũng là nữ thủ tướng đầu tiên của quốc gia. Năm 2011 – Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc thông qua Nghị quyết 1973, cho phép thiết lập vùng cấm bay và sử dụng các biện pháp cần thiết để bảo vệ thường dân trong nội chiến Libya.
Golda Meir
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Golda Meir גולדה מאיר |
|
---|---|
Chức vụ
|
|
Thủ tướng Israel thứ 4
|
|
Nhiệm kỳ | 17 tháng 3, 1969 – 3 tháng 6, 1974 |
Tiền nhiệm | Levi Eshkol |
Kế nhiệm | Yitzhak Rabin |
Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Israel
|
|
Nhiệm kỳ | 18 tháng 6, 1956 – 12 tháng 1, 1966 |
Tiền nhiệm | Moshe Sharett |
Kế nhiệm | Abba Eban |
Thông tin chung
|
|
Đảng | Mapai, Alignment, Labor |
Sinh | 3 tháng 5, 1898 Kiev, Đế quốc Nga |
Mất | 8 tháng 12, 1978 (80 tuổi) Jerusalem, Israel |
Tôn giáo | đạo Do Thái |
Meir được bầu giữ chức Thủ tướng Israel ngày 17 tháng 3 năm 1969,[2] sau khi giữ chức Bộ trưởng Lao động và Bộ trưởng Ngoại giao. Bà là người phụ nữ đầu tiên của Israrel và người phụ nữ thứ ba trên thế giới giữ chức vụ này, bà được miêu tả là "Người đàn bà thép" trên chính trường Israel từ lâu trước khi tên hiệu này được gán cho Thủ tướng Anh Margaret Thatcher.[3] Cựu Thủ tướng David Ben-Gurion thường gọi Meir là "người giỏi nhất trong chính phủ "; bà thường được miêu tả là người có "ý chí mạnh mẽ, nói chuyện thẳng thắn, bà của người dân Do Thái".
Năm 1974, sau cuộc chiến tranh Yom Kippur, Meir từ chức Thủ tướng. Bà mất năm 1978 vì bệnh bạch cầu.
Mục lục
- 1 Tuổi trẻ
- 2 Quay trở lại Milwaukee, làm người tuyên truyền chủ nghĩa phục quốc Do thái và giáo viên
- 3 Aliyah
- 4 Các hoạt động Histadrut
- 5 Vai trò chính trị trước khi thành lập nhà nước (Israel)
- 6 Vị trí bộ trưởng
- 7 Chức vụ Thủ tướng
- 8 Giải thưởng
- 9 Di sản
- 10 Các tác phẩm đã xuất bản
- 11 Xem thêm
- 12 Tham khảo
- 13 Ghi chú
- 14 Nguồn
- 15 Đọc thêm
- 16 Liên kết ngoài
Tuổi trẻ
Golda Mabovitch (tiếng Ukraina: Ґольда Мабович) sinh ngày 3 tháng 5 năm 1898, tại Kiev, Đế chế Nga, Ukraina ngày nay, là con của Blume Neiditch (mất năm 1951) và Moshe Mabovitch (mất năm 1944), một người thợ mộc. Meir viết trong tự truyện của mình rằng những ký ức đầu tiên của bà là việc cha mình đóng ván vào cửa trước khi có những tin đồn về một vụ pogrom (tàn sát người Do Thái) sắp xảy a. Bà có hai chị em gái, Sheyna và Tzipke, cùng năm người anh em khác mất khi còn nhỏ. Bà đặc biệt gần gũi với Sheyna.Moshe Mabovitch đi tới thành phố New York tìm việc năm 1903.[4] Khi ông vắng nhà, cả nhà rời tới Pinsk sống cùng gia đình bên ngoại. Năm 1905, Moshe đi tới Milwaukee, Wisconsin, tìm kiếm việc làm lương cao hơn và có được việc làm tại một xưởng thuộc nhà máy xe lửa địa phương. Năm sau đó, ông đã để dành đủ tiền để đưa gia đình sang Mỹ.
Blume điều hành một cửa hàng tạp phẩm ở phía bắc Milwaukee, nơi năm lên tám tuổi Golda đã được giao trách nhiệm trông nom cửa hàng khi mẹ đi chợ mua đồ. Golda theo học Fourth Street Grade School (hiện là Golda Meir School) từ năm 1906 tới năm 1912. Ngay khi còn trẻ đã có tinh thần một người chỉ huy, bà đã tổ chức một cuộc gây quỹ để lấy tiền mua sách cho các bạn học. Sau khi thành lập American Young Sisters Society, bà đã thuê một ngôi nhà và tổ chức những cuộc gặp mặt thường xuyên cho hội. Bà tiếp tục được cử làm người đại diện đọc diễn văn trong buổi lễ tốt nghiệp của lớp, dù khi mới vào học bà chưa biết tiếng Anh.
Năm 14 tuổi, bà theo học tại North Division High School và làm việc bán thời gian. Mẹ bà muốn bà rời trường học và lập gia đình, nhưng bà phản đối. Bà mua một vé tàu tới Denver, Colorado, và tới sống với người chị/em đã lập gia đình của mình, Sheyna Korngold. Hai vợ chồng Korngold thường tổ chức những cuộc gặp mặt giữa những người trí thức tại gia đình mình, tại đây Meir đã tham gia tranh luận về chủ nghĩa phục quốc Do thái, văn học, quyền bầu cử của phụ nữ, hệ thống công đoàn, và các vấn đề khác. Trong tiểu sử của mình, bà viết: "Tới mức độ những niềm tin tương lai của tôi đã được định hình [...] những cuộc nói chuyện cả đêm đó tại Denver đã đóng một vai trò to lớn." Tại Denver, bà cũng gặp Morris Meyerson (17 tháng 12 năm 1893 –25 tháng 5 năm 1951), một người vẽ biển quảng cáo, người sẽ trở thành chồng bà ngày 24 tháng 12 năm 1917.[5]
Quay trở lại Milwaukee, làm người tuyên truyền chủ nghĩa phục quốc Do thái và giáo viên
Năm 1913, bà quay trở lại North Division High, tốt nghiệp năm 1915. Trong thời gian ở đó, bà trở thành một thành viên tích cực của Young Poale Zion, sau này trở thành Habonim, phong trào thanh niên Labor Zionist. Bà phát biểu trước những cuộc mít tinh, đi theo Socialist Zionism và tiếp đón những vị khách từ Palestine.Bà theo học trường cao đẳng sư phạm Milwaukee State Normal School (hiện là University of Wisconsin–Milwaukee), năm 1916, và có lẽ hoàn thành năm 1917. Sau khi tốt nghiệp Milwaukee Normal, bà dạy học tại các trường công ở Milwaukee.
Năm 1917, bà nhận một vị trí tại một Yiddish-speaking Folks Schule ở Milwaukee. Khi ở Folks Schule, bà ngày càng tiếp xúc nhiều với các tư tưởng của Labor Zionism. Năm 1913, bà bắt đầu hẹn hò với Morris Meyerson. Bà là một thành viên nhiệt tình của Labor Zionist còn ông là người theo chủ nghĩa xã hội. Họ đã cùng bỏ việc và tham gia một kibbutz tại Palestine năm 1921.
Khi Golda và Morris cưới năm 1917, việc định cư tại Palestine là điều kiện tiên quyết của bà để đám cưới được diễn ra.[6] Golda đã có ý định lập tức thực hiện một cuộc aliyah (di cư người Do thái về Israel) nhưng các kế hoạch của bà không thành công bởi tất cả các dịch vụ vận chuyển hành khách xuyên Đại Tây Dương khi ấy đều bị hủy bỏ vì Chiến tranh thế giới thứ nhất. Thay vào đó bà đã tập trung sức lực vào những hoạt động Poale Zion.[7] Một thời gian ngắn sau đám cưới, bà tham gia vào một chiến dịch gây quỹ cho Poale Zion khiến bà phải đi khắp nước Mỹ.[6] hai người cùng Sheyna chuyển tới Palestine năm 1921.
Aliyah
Tại Palestin ủy trị Anh, Meir và Meyerson gia nhập một kibbutz. Việc xin gia nhập kibbutz Merhavia tại thung lũng Jezreel ban đầu bị từ chối, nhưng cuối cùng đã được chấp nhận. Những nhiệm vụ của bà gồm nhặt gom quả hạnh, trồng cây, chăm sóc chuồng gà và làm việc trong nhà bếp. Nhận thấy những khả năng lãnh đạo của bà, kibbutz đã chọn bà làm đại diện của mình tại Histadrut, Tổng liên hiệp Lao động.Năm 1924, bà cùng chồng rời kibbutz và sống một thời gian ngắn tại Tel Aviv trước khi định cư tại Jerusalem. Họ có hai con, một con trai là Menachem (sinh năm 1924) và một con gái là Sarah (sinh năm 1926).
Năm 1928, bà được bầu làm thư ký Moetzet HaPoalot (Ủy ban Phụ nữ Lao động), khiến bà phải sống hai năm (1932–34) với tư cách phái viên tại Hoa Kỳ.[8] Các con đi theo bà, nhưng Morris ở lại Jerusalem. Morris và Golda dần xa nhau, nhưng không bao giờ ly hôn.[6] Morris mất năm 1951.
Các hoạt động Histadrut
Năm 1934, khi Meir từ Mỹ trở về, bà tham gia Hội đồng Hành pháp của Histadrut và dần lên chức trước khi trở thành lãnh đạo Phái chính trị của nó. Việc chỉ định này là sự huấn luyện quan trọng cho vai trò lãnh đạo Israel của bà trong tương lai.[9]Tháng 7 năm 1938, Meir là quan sát viên người Do thái từ Palestine tại Hội nghị Évian, được Tổng thống Hoa Kỳ Franklin D. Roosevelt kêu gọi triệu tập để thảo luận vấn đề người tị nạn Do thái phải bỏ chạy do sự khủng bố của Phát xít. Các đại biểu từ 32 nước được mời đã nhiều lần thể hiện sự thương cảm của họ với hoàn cảnh của người Do thái ở châu Âu, nhưng cũng xin lỗi về việc nước mình không thể giúp đỡ bằng cách chấp nhận những người đó. Ngoại lệ duy nhất là Cộng hòa Dominica, nước hứa chấp nhận 100,000 người tị nạn với những điều khoản rộng rãi.[10] Meir cảm thấy thất vọng vì kết quả và đã nói với báo chí, "Điều duy nhất tôi hy vọng được thấy trước khi chết và đó là việc dân tộc tôi sẽ không còn phải khẩn cầu sự thông cảm một lần nào nữa."[5]
Vai trò chính trị trước khi thành lập nhà nước (Israel)
Tháng 6 năm 1946, trừng trị phong trào phục quốc Do thái tại Palestine, bắt giữ nhiều lãnh đạo của Yishuv. Meir nắm chức vụ quyền lãnh đạo Phái chính trị của Cơ quan Do thái khi Moshe Sharett bị bắt giam. Vì thế bà dần trở thành người đàm phán chính giữa người Do thái tại Palestine và chính quyền ủy trị Anh. Sau khi được thả, Sharett sang Hoa Kỳ để tham gia các cuộc đàm phán về Kế hoạch phân chia của Liên hiệp quốc, để Meir lãnh đạo Phái chính trị cho tới khi nhà nước được thành lập năm 1948.[9]Tháng 1 năm 1948, người nắm ngân quỹ của Cơ quan Do thái tin rằng Israel không có khả năng gây quỹ nhiều hơn 7-8 triệu dollar từ cộng đồng Do thái Mỹ.[6] Meir đi sang Mỹ và tìm cách gây quỹ $50 dùng vào việc mua vũ khí tại châu Âu cho nhà nước non trẻ.[6] Ben-Gurion đã viết rằng vai trò của Meir là "người phụ nữ Do thái kiếm được tiền khiến việc thành lập nhà nước trở thành hiện thực " sau này sẽ được ghi vào sử sách.[6]
Ngày 10 tháng 5 năm 1948, bốn ngày sau khi nhà nước (Israel) chính thức được thành lập, Meir tới Amman cải trang là một phụ nữ Ả rập cho một cuộc gặp bí mật với Vua Abdullah của Transjordan tại đây bà đã hối thúc nhà vua không tham gia cùng các quốc gia Ả rập tấn công người Do thái. Abdullah yêu cầu bà đừng vội vàng tuyên bố việc thành lập nhà nước. Meir trả lời: "Chúng tôi đã chờ đợi trong 2,000 năm. Thế có vội không?"[11]
Với tư cách lãnh đạo Phái chính trị của Cơ quan Do thái, Meir đã gọi cuộc di cư hàng loạt của người Ả rập trước cuộc Chiến tranh độc lập năm 1948 là "kinh sợ" và coi nó giống với điều đã xảy ra với người Do thái châu Âu tại những vùng bị Phát xít chiếm đóng.[12]
Vị trí bộ trưởng
Meir là một trong 24 người (hai trong số đó là phụ nữ) ký vào Tuyên ngôn độc lập của Israel ngày 14 tháng 5 năm 1948. Sau này bà nhớ lại, "Sau khi ký, tôi đã khóc. Khi còn đi học tôi học lịch sử Mỹ và tôi đã đọc về những người đã ký vào Tuyên ngôn độc lập, tôi không thể tưởng tượng rằng đó là những con người thực sự và họ đã làm một việc thực sự. Và tôi đã ngồi đó và ký vào một bản tuyên ngôn thành lập (nhà nước)." Ngày hôm sau Israel bị liên quân Ai Cập, Syria, Liban, Transjordan, và Iraq, cùng các lực lượng viễn chinh từ các quốc gia Ả rập khác và các phong trào du kích Ả rập tấn công trong cuộc chiến tranh Ả rập – Israel năm 1948. Trong cuộc chiến này, Israel đã chặn được đà tiến của liên quân Ả rập, sau đó tung ra một loạt cuộc tấn công quân sự và mở rộng khu vực lãnh thổ chiếm đóng.Đại sứ toàn quyền tại Moscow
Mang theo hộ chiếu đầu tiên do Israel phát hành,[13][14] Meir được chỉ định làm đại sứ toàn quyền tại Liên bang Xô viết, với nhiệm kỳ bắt đầu ngày 2 tháng 9 năm 1948 và kết thúc vào tháng 3 năm 1949.[15] Ở thời điểm đó, mối quan hệ tốt với Liên bang Xô viết là điều quan trọng để Israel có thể mua vũ khí từ các quốc gia Đông Âu cho cuộc chiến tranh diễn ra ngay sau khi tuyên bố độc lập, trong khi Joseph Stalin và Bộ trưởng ngoại giao Liên xô Vyacheslav Molotov tìm cách xây dựng một mối quan hệ vững chắc với Israel để gia tăng vị thế của Liên xô tại Trung Đông.[16] Quan hệ Liên xô–Israel khá phức tạp vì các chính sách của nước này chống lại các định chế tôn giáo và các phong trào quốc gia, thể hiện ở những hành động đóng cửa các cơ sở Do thái giáo cũng như cấm việc dạy ngôn ngữ Hebrew và việc cấm di cư tới Israel.[17]Trong thời gian ngắn ngủi làm việc ở Liên xô, Meir đã tham gia các hoạt động Rosh Hashanah và Yom Kippur tại Moscow Choral Synagogue,[15] nơi bà được đám đông hàng nghìn người Do thái Nga thét vang tên. Tờ tiền giấy 10,000 shekel được phát hành tháng 11 năm 1984 có chân dung Meir ở một mặt và hình đám đông đang reo hò cổ vũ bà tại Moscow ở mặt kia.[18]
Bộ trưởng Lao động
Năm 1949, Meir được bầu vào Knesset với tư cách thành viên của Mapai và phục vụ liên tục cho tới năm 1974. Từ năm 1949 đến năm 1956, bà giữ chức Bộ trưởng Lao động. Trong khi giữ chức vụ này, Meir đã tiến hành nhiều chính sách an sinh quốc gia, tổ chức hội nhập cho những người nhập cư tham giao vào lực lượng lao động Israel,[19] và đưa ra những chính sách xây dựng nhà ở và đường xá lớn.[20] Năm 1955, theo sự chỉ đạo của Ben-Gurion, bà tham gia tranh cử chức thị trưởng Tel Aviv. Bà thua với hai phiếu của khối tôn giáo, những người từ chối ủng hộ vì bà là một phụ nữ.[21]Bộ trưởng ngoại giao
Năm 1956, bà trở thành Bộ trưởng Ngoại giao dưới quyền Thủ tướng David Ben-Gurion. Người tiền nhiệm bà, Moshe Sharett, đã yêu cầu mọi thành viên trong cơ quan ngoại giao Hebre hóa họ của mình. Ngay khi được chỉ định giữ chức Bộ trưởng ngoại giao, bà đã rút gọn tên "Meyerson" thành "Meir", có nghĩa là "chiếu sáng". Với cương vị bộ trưởng ngoại giao, Meir đã thúc đẩy các quan hệ với các quốc gia mới thành lập tại châu Phi trong nỗ lực tìm kiếm đồng minh trong cộng đồng quốc tế.[20] Nhưng bà cũng tin rằng Israel đã có kinh nghiệm trong việc xây dựng quốc gia để trở thành một hình mẫu cho châu Phi. Trong cuốn tự truyện của mình, bà viết: "Giống như họ, chúng ta đã giũ sạch sự cai trị từ bên ngoài; giống như họ, chúng ta đã tự học cách đòi lại đất đai, cách gia tăng sản lượng mùa màng, cách làm thủy lợi, cách nuôi gia cầm, cách cùng chung sống, và cách tự bảo vệ mình." Israel có thể là một hình mẫu bởi nó "đã bị buộc phải tìm các giải pháp cho những vấn đề mà các quốc gia giàu có, hùng mạnh chưa bao giờ gặp phải".[22]Ngày 29 tháng 10 năm 1957, bà bị thương nhẹ ở chân khi một quả bom Mills được ném vào phòng họp của Knesset. David Ben-Gurion và Moshe Carmel bị thương nặng. Vụ tấn công do Moshe Dwek 25 tuổi thực hiện. Sinh ra tại Aleppo, những động cơ của anh ta được cho là do một sự tranh chấp với Cơ quan Do thái, dù anh ta cũng bị miêu tả là một người 'đầu óc không bình thường'.[23]
Năm 1958, bà được ghi lại là đã ca tụng tác phẩm của Giáo hoàng Pius XII thay mặt cho người Do thái chỉ một thời gian ngắn sau cái chết của Giáo hoàng. Di sản của Giáo hoàng Pius với tư cách một Giáo hoàng trong thời chiến vẫn còn gây tranh cãi tới tận ngày nay.[24]
Cùng năm đó, trong làn sóng di cư tới Israel của người Do thái Ba Lan, Meir đã tìm cách ngăn cản những người Do thái Ba Lan tàn tật và ốm yếu nhập cư vào Israel. Trong một bức thư gửi tới đại sứ Israel tại Warsaw, Katriel Katz, bà đã viết: "Một đề xuất đã được đưa ra tại ủy ban phối hợp để thông báo với chính phủ Ba Lan rằng chúng ta muốn có sự lựa chọn trong aliyah, bởi chúng ta không thể tiếp tục chấp nhận những người ốm yếu và người tàn tật. Xin hãy đưa ý kiến của ông về việc liệu điều này có thể được giải thích cho người Ba Lan mà không gây phương hại tới cuộc di cư."[25]
Đầu thập niên 1960, Meir được chẩn đoán bệnh máu trắng. Tháng 1 năm 1966, bà rời chức Bộ trưởng ngoại giao, với lý do mệt mỏi và sức khỏe, nhưng nhanh chóng quay trở lại đời sống chính trị với chức tổng thư ký Mapai, ủng hộ Thủ tướng Levi Eshkol trong những cuộc xung đột nội bộ đảng.[20]
Chức vụ Thủ tướng
Sau cái chết bất ngờ của Levi Eshkol ngày 26 tháng 2 năm 1969, đảng bầu Meir làm người kế nhiệm ông.[26] Meir quay lại làm việc và nhậm chức ngày 17 tháng 3 năm 1969, giữ chức thủ tướng cho tới năm 1974. Meir duy trì chính phủ liên minh được thành lập năm 1967, sau cuộc chiến tranh sáu ngày, trong đó Mapai liên minh với hai đảng khác (Rafi và Ahdut HaAvoda) để hình thành đảng Lao động Israel.[20]Năm 1969 và đầu thập niên 1970, Meir đã gặp gỡ với nhiều nhà lãnh đạo thế giới để quảng bá tầm nhìn của bà về một nền hòa bình ở Trung Đông, gồm cả Richard Nixon (1969), Nicolae Ceaușescu (1972) và Giáo hoàng Paul VI (1973). Năm 1973, bà đón tiếp thủ tướng Tây Đức, Willy Brandt, tại Israel.[20]
Tháng 8 năm 1970, Meir chấp nhận một sáng kiến hòa bình của Mỹ kêu gọi chấm dứt cuộc chiến tranh tiêu hao và một sự cam kết của Israeli rút quân đội nhằm "đảm bảo và công nhận các đường biên giới " trong khuôn khổ một sự dàn xếp hòa bình tổng thể. Đảng Gahal rời khỏi chính phủ thống nhất để phản đối, nhưng Meir tiếp tục lãnh đạo liên minh còn lại.[27]
Olympics Munich
Tranh cãi với Áo
Trong thập niên 1970khoảng 200,000 người Do Thái-Liên xô di cư đã được cho phép rời Liên bang Xô viết tới Israel qua nước Áo. Khi bảy người di cư trong số này bị bắt làm con tin tại biên giới Áo-Tiệp Khắc bởi các chiến binh Ả rập Palestine vào tháng 9 năm 1973, Thủ tướng Áo Bruno Kreisky đã đóng cửa cơ sở quá cảnh Do thái tại Schönau, Hạ Áo. Vài ngày sau tại Vienna, Meir đã tìm cách thuyết phục Kreisky mở cửa lại cơ sở đó bằng cách viện dẫn tới chính nguồn gốc Do thái của ông, và đã miêu tả lập trường của ông như là "chịu thua cuộc trước sự đe dọa của khủng bố". Kreisky không thay đổi lập trường, vì thế Meir phải bực tức quay trở lại Israel.[30] Vài tháng sau Áo mở cửa một trại quá cảnh mới.[31]Chiến tranh Yom Kippur
Trong những ngày trước cuộc chiến tranh Yom Kippur, tình báo Israel đã không xác định rõ được việc sắp xảy ra một cuộc tấn công. Tuy nhiên, ngày 5 tháng 10 năm 1973, Meir đã nhận được thông tin chính thức rằng các lực lượng Syria đang tràn vào Cao nguyên Golan. Bà thủ tướng đã được cảnh báo bởi các báo cáo, và cảm thấy rằng tình hình khiến bà nhớ lại những điều đã xảy ra trước cuộc chiến tranh sáu ngày. Tuy nhiên, các cố vấn của bà thuyết phục bà không nên lo ngại, nói rằng họ sẽ được thông báo đầy đủ trước khi cuộc chiến nổ ra. Điều này là bình thường khi ấy, bởi sau cuộc chiến tranh sáu ngày, hầu hết người Israel cảm thấy rằng người Ả rập sẽ không dám tấn công trước. Vì thế, dù đã có một nghị quyết được thông qua trao cho bà quyền yêu cầu ra lệnh tổng động viên quân đội (thay vì một nghị quyết của chính phủ như bình thường), Meir đã không sớm huy động các lực lượng Israel. Ngay sau đó, dù cuộc chiến đã trở nên rất rõ ràng. Sáu giờ trước khi những hành động thù địch diễn ra, Meir đã gặp Bộ trưởng quốc phòng Moshe Dayan và tướng David Elazar. Trong khi Dayan tiếp tục cho rằng cuộc chiến sẽ không diễn ra và vì thế chỉ cần động viên không quân và hai sư đoàn, Elazar ủng hộ tổng động viên quân đội và tung ra những cuộc tấn công tổng lực trước vào phía các lực lượng Syria.[32]Meir đồng ý việc tổng động viên nhưng đứng về phía Dayan về lập trường với một cuộc tấn công phủ đầu, nêu lý do Israel cần viện trợ nước ngoài Bà tin rằng Isral không thể phụ thuộc vào các quốc gia châu Âu để có những thiết bị quân sự, và nước duy nhất có thể hỗ trợ Israel là Hoa Kỳ. Sợ rằng Mỹ có thể thận trọng trong việc can thiệp nếu Israel bị coi là bên gây ra những hành động thù địch, Meir quyết định phản đối cuộc tấn công phủ đầu. Bà đã lập tức thông báo tới Washington về quyết định của mình. Ngoại trưởng Mỹ khi ấy là Henry Kissinger sau này đã xác nhận đánh giá của Meir bằng cách phát biểu rằng nếu Israel đã tung ra một cuộc tấn công phủ đầu thì họ chẳng thể nhận được gì "nhiều hơn một cái móng tay".[33]
Từ chức
Sau cuộc chiến tranh Yom Kippur, chính phủ của Meir bị đặt câu hỏi về sự thiếu chuẩn bị cho cuộc chiến. Ủy ban Agranat được chỉ định để điều tra cuộc chiến đã bác bỏ "trách nhiệm trực tiếp" của bà, và những hành động liên quan trong buổi sáng ngày diễn ra cuộc chiến tranh Yom Kippur;“ | Bà đã hành động một cách khôn ngoan, với sự tỉnh táo và nhanh chóng, ủng hộ việc tổng động viên các nguồn lực, như được tổng tham mưu trưởng đề xuất, dù có những vấn đề chính trị khó khăn phải cân nhắc, vì thế đã thực hiện được phần công việc khó khăn nhất để bảo vệ đất nước.[33] | ” |
Năm 1975, bà xuất bản cuốn tự truyện của mình, My Life.[33][35]
Theo tác giả Victor John Ostrovsky bà đã có một mối quan hệ từ lâu với bộ trưởng không bộ Yisrael Galili.[36]
Cái chết
Ngày 8 tháng 12 năm 1978, Meir chết vì ung thư bạch cầu tại Jerusalem ở tuổi 80. Bốn ngày sau, ngày 12 tháng 12, Meir được chôn cất tại Núi Herzl ở Jerusalem.[37]Giải thưởng
Năm 1975, Meir được trao Israel Prize vì sự cống hiến đặc biệt của bà cho xã hội và nhà nước Israel.[33][38] Năm 1974, Meir được vinh danh World Mother bởi tổ chức American Mothers.[39] Năm 1974 Meir được trao James Madison Award for Distinguished Public Service bởi American Whig–Cliosophic Society thuộc đại học Princeton.[40]Di sản
Thể hiện trong phim ảnh và nghệ thuật
Câu chuyện về Meir đã trở thành chủ đề cho nhiều tác phẩm hư cấu. Năm 1977, Anne Bancroft đóng vai Meir trong vở kịch Golda của William Gibson trên sân khấu Broadway. Nữ diễn viên Australia Judy Davis đóng vai Meir thời trẻ trong bộ phim truyền hình A Woman Called Golda (1982), cùng với Leonard Nimoy. Ingrid Bergman đóng vai Golda khi đã có tuổi cùng trong bộ phim đó. Năm 2003, nữ diễn viên người Do thái Mỹ Tovah Feldshuh đóng vai bà trên sân khấu kịch Broadway trong vở Golda's Balcony, vở kịch thứ hai của Gibson về cuộc đời của Meir. Vở kịch gây tranh cãi trong hàm ý của nó rằng Meir đã cân nhắc sử dụng vũ khí hạt nhân trong chiến tranh Yom Kippur.Valerie Harper thể hiện bà trong phiên bản phim của Golda's Balcony.[41] Nữ diễn viên phụ Colleen Dewhurst đóng vai bà trong bộ phim truyền hình năm 1986 Sword of Gideon.[42] Năm 2005, nữ diễn viên Lynn Cohen đóng vai Meir trong bộ phim của Steven Spielberg Munich. Sau đó, Tovah Feldshuh một lần nữa đóng vai bà trong bộ phim Pháp sử dụng tiếng Anh O Jerusalem năm 2003. Nữ diễn viên Ba Lan Beata Fudalej đóng vai bà trong bộ phim năm 2009 The Hope của Márta Mészáros.[43]
Tưởng niệm
- Trường Golda Meir, Milwaukee, Wisconsin[44]
- Thư viện Golda Meir, Đại học Wisconsin–Milwaukee, Wisconsin
- Đại lộ Golda Meir, Jerusalem, Israel (và nhiều phố khác cùng các khu vực và trường học tại Israel)
- Trung tâm Trình diễn Nghệ thuật Golda Meir, Tel Aviv
- Quảng trường Golda Meir, thành phố New York [45]
- Trung tâm Lãnh đạo Chính trị Golda Meir tại Metropolitan State University of Denver[46]
- Golda Meir House, Denver, Colorado[5][47]
- Golda Meir House, Newton, Massachusetts
-
Goldameyer.jpgTấm bảng tưởng niệm tại Kiev
-
Quảng trường Golda Meir tại New York City phía nam Quảng trường Thời đại
Trong văn hóa
Tại Israel, thuật ngữ "giày của Golda" (na'alei Golda), một sự ám chỉ tới kiểu giày chỉnh hình cứng cáp mà bà yêu thích, đã trở thành cách nói trại cho tất cả những thứ cổ lỗ và xấu xí.[48]Thăm dò ý kiến
Năm 2005, bà được bầu là người Israel vĩ đại thứ 75 trong mọi thời đại, trong một cuộc thăm dò ý kiến bởi trang tin Ynet của Israel nhằm xác định ai là người được dân chúng coi là thuộc 200 người Israel vĩ đại nhất.[49]Các tác phẩm đã xuất bản
- This is Our Strength (1962) – tuyển chọn các ghi chép của Golda Meir
- My Father's House (1972)
- My Life (1975). Putnam, ISBN 0-399-11669-9.
Xem thêm
Tham khảo
- ^ “Golda Meir Center (Reference on name pronunciation)”. Mscd.edu. Truy cập ngày 2 tháng 9 năm 2011.
- ^ Golda Meir becomes Israeli Prime Minister, History Today]
- ^ Golda Meir, a BBC News profile.
- ^ “Golda Meir’s American Roots”. Ajhs.org. Truy cập ngày 2 tháng 9 năm 2011.
- ^ a b c Golda Meir: An Outline Of A Life Metropolitan State College of Denver
- ^ Lỗi chú thích: Thẻ
<ref>
sai; không có nội dung trong thẻ ref có tênHA
- ^ Elinor Burkett Golda Meir; The Iron Lady of the Middle East, Gibson Square, ISBN 978-1-906142-13-1 p. 37.
- ^ Golda Meir, Encyclopedia of Zionism and Israel, ed. Raphael Patai, New York, 1971, vol.II, pp. 776–77
- ^ a b "Golda Meir", Encyclopedia Judaica, Keter, 1972, Jerusalem, vol. 11, pp. 1242–45
- ^ “MJHnyc.org” (PDF). Truy cập ngày 2 tháng 9 năm 2011.
- ^ “Golda Meir: Peace and Arab Acceptance Were Goals of Her 5 Years as Premier”. The New York Times. 9 tháng 12 năm 1978.
- ^ Margolick, David. "Endless War" The New York Times, May 4, 2008
- ^ “Golda”. The Emery/Weiner School. Bản gốc lưu trữ tháng 7 năm 2011.
- ^ Pine, Dan. “Golda Meir’s life was devoted to building Zionism”. San Francisco Jewish Community Publications. Bản gốc lưu trữ tháng 8 năm 2012. Truy cập ngày 15 tháng 7 năm 2005.
- ^ a b Yossi Goldstein, "Doomed to Fail: Golda Meir's Mission to Moscow (Part 1)", The Israel Journal of Foreign Affairs Vol. 5 No. 3 (September 2011), p. 131
- ^ Yossi Goldstein, "Doomed to Fail: Golda Meir's Mission to Moscow (Part 1)", The Israel Journal of Foreign Affairs Vol. 5 No. 3 (September 2011), p. 134 and 137
- ^ Yossi Goldstein, "Doomed to Fail: Golda Meir's Mission to Moscow (Part 1)", The Israel Journal of Foreign Affairs Vol. 5 No. 3 (September 2011), p. 138
- ^ Call Uncle Sam News Behind the News, June 10, 2001
- ^ http://www.morim-madrichim.org/en/GetFile/r/3703/biographiesrosamadpdf?firstreq=1
- ^ a b c d e "Golda Meir", Encyclopædia Britannica, Micropædia, 1974, 15th edition, p. 762
- ^ My Life. p. 232. She 'wasn't very pleased' with B.G. and was 'enraged' by the religious bloc.
- ^ Golda Meir, My Life, (NY: Dell Publishing Co., 1975), pp. 308–09
- ^ Robert William St. John, Ben Gurion. Jarrods Publishers (Hutchinson Group), London. 1959. pp. 304–306.
- ^ “Jewish gratitude for the Help of Pope Pius XII who helped them against the perverse regime of the Nazis”. Catholicapologetics.info. Truy cập ngày 2 tháng 9 năm 2011.
- ^ “Golda Meir wanted to keep sick Poles from making aliyah”. Jewish Telegraphic Agency. 9 tháng 12 năm 2009.
- ^ 1969: Israel elects first female leader BBC News
- ^ "Golda Meir" Encyclopedia Judaica, Keter, Jerusalem, 1972, pp. 1242–44.
- ^ Hostages killed in gun battle Daily Telegraph, September 5, 1972
- ^ Morris, B. (10 tháng 3 năm 1999). Righteous Victims: A History of the Zionist–Arab conflict, 1881–2000. New York: Vintage Books. ISBN 0-679-74475-4.
- ^ Avner, Yehuda (2010). The Prime Ministers: An Intimate Narrative of Israeli Leadership. The Toby Press. tr. 219. ISBN 978-1-59264-278-6.
- ^ “(German)”. Historisch.apa.at. 28 tháng 9 năm 1973. Truy cập ngày 2 tháng 9 năm 2011.
- ^ Interview with Abraham Rabinovich: The Yom Kippur War as a Turning Point History News Network]
- ^ a b c d e Meir, Golda (1975). My Life. G. P. Putnam's Sons.
- ^ Biography of Golda Meir Zionism and Israel
- ^ Golda Meir Virtual Jerusalem
- ^ Ostrovsky, Victor and Hoy, Claire (1990) By Way of Deception – The making and unmaking of a Mossad Officer ISBN 0-312-05613-3. p. 190.
- ^ Golda Meir tại Find a Grave
- ^ “Israel Prize Official Site – Recipients in 1975 (in Hebrew)”.
- ^ “Past National Mothers of The Year”.
- ^ “UN Secretariat Item: Letter - The American Whig-Cliosophic Society : James Madison Award for Distinguished Public Service - 1974 - Golda Meir”. Archives-trim.un.org. Truy cập ngày 25 tháng 11 năm 2012.
- ^ IMDb.com
- ^ IMDb.com
- ^ Mészáros wraps production on historical drama The Hope Screen Daily. February 26, 2009
- ^ Fourth Street School Wisconsin Historical Society
- ^ By wallyg Wally Gobetz+ Add Contact. “Golda Meir Square”. Flickr.com. Truy cập ngày 2 tháng 9 năm 2011.
- ^ “Golda Meir Center”. Mscd.edu. Truy cập ngày 2 tháng 9 năm 2011.
- ^ Golda Meir House U.S. Library of Congress
- ^ Haaretz.com[liên kết hỏng]
- ^ גיא בניוביץ' (20 tháng 6 năm 1995). “הישראלי מספר 1: יצחק רבין – תרבות ובידור”. Ynet. Truy cập ngày 10 tháng 7 năm 2011.
Ghi chú
- ^ tiếng Hebrew: גּוֹלְדָּה מֵאִיר [ɡolˈda] hay [ˈɡolda] [meˈʔiʁ];[1] tiếng Ả Rập: جولدا مائير Gulda Ma'air
Nguồn
- Avner, Yehuda (2010). The Prime Ministers: An Intimate Narrative of Israeli Leadership. The Toby Press. ISBN 978-1-59264-278-6.
- Burkett, Elinor (2008). Golda Meir: The Iron Lady of the Middle East. Gibson Square. ISBN 978-1-906142-13-1.
Đọc thêm
- Agres, Elijahu (1969). Golda Meir: Portrait of a Prime Minister. Sabra Books. ISBN 0-87631-020-X.
- Fallaci, Oriana (1976). Interview With History. Houghton Mifflin. ISBN 0-395-25223-7.
- Martin, Ralph G. (1988). Golda Meir: The Romantic Years. Ivy Books. ISBN 0-8041-0536-7.
- Meir, Menahem (1983). My Mother Golda Meir: A Son's Evocation of Life With Golda Meir. Arbor House Publishing Company. ISBN 0-87795-415-1.
- Syrkin, Marie (1969). Golda Meir: Israel's Leader. Putnam.
- Syrkin, Marie (1963). Golda Meir: Woman with a Cause.
Liên kết ngoài
Wikiquote có sưu tập danh ngôn về: |
Wikimedia Commons có thêm thể loại hình ảnh và tài liệu về Golda Meir |
- Prime Minister Golda Meir – Israeli Prime Minister's Office.
- Knesset Member, Golda Meir – Knesset profile.
- Israeli Ministry of Foreign Affairs.
- Jewish Agency For Israel.
- Women's International Center.
- Picturing Golda Meir – Photographs from the Collection at the UWM Libraries.
- Bản mẫu:Internet Archive short film
- Bản mẫu:Internet Archive short film
Chức vụ | ||
---|---|---|
Tiền vị: Yigal Allon Quyền |
Thủ tướng Israel | Kế vị Yitzhak Rabin |
Chức vụ Đảng | ||
Tiền vị: Yigal Allon Quyền |
Lãnh đạo Đảng Liên kết | Kế vị Yitzhak Rabin |
|
|
Thể loại:
Ngày thánh Patrick (tiếng Irish: Lá Fhéile Pádraig) là một ngày lễ đạo, ăn mừng trên toàn thế giới vào ngày 17 tháng ba. Nó được gắn liền với Thánh Patrick vào khoảng năm AD 387–461 sau công nguyên, là một vị thánh bảo hộ được biết tới nhiều nhất ở Ireland, và cùng với sự tiến đến đạo công giáo của nước Ireland.[1] Nó được ăn mừng bởi giáo hội và giáo hội Anh giáo (đặc biệt là giáo hội của Ireland),[2] Chính Thống giáo Đông phương, Giáo hội Luther.
Ngày lễ thánh Patrick được công khai chính thức là ngày lễ quốc gia vào
khoảng thế kỷ 17, và dần dần nó đã trở thành ngày lễ trường kỳ tượng
trưng cho nên văn hóa của người Irish.[3]
Ngày này thường được gắn liền với các cuộc làm lễ ở các nhà thờ,[3][4] mặc đồ xanh lá cây (đặc biệt là cây shamrock),[5] và cùng với mùa chay. Mùa chay là mùa các giáo dân công giáo phải nhịn ăn thịt,[5][6][7], rượu bia vào các thứ sáu hàng tuần cho đến khi mùa chay kết thúc.[3][5][6][7]
Ngày thánh Patrick là ngày lễ lớn tầm quốc gia ở Cộng hòa Ireland,[8] Bắc Ireland,[9] Newfoundland và Labrador và trong Montserrat. Nó được ăn mừng và kỷ niệm bởi những người có nguồn gốc Irish. Vì do người Irish nhiều trăm năm trước đã di cư với số lượng lớn lên như các nước ở đảo Britain, Canada, và Hoa Kỳ, Argentina, Úc, New Zealand và một một số nước khác.
Hai lá thư thực sự từ ngài khi ngài còn sống được lấy làm nguồn tư liệu chủ yếu khi viết về tiểu sử của ngài.[15] Khi ngài còn là chàng thanh niên 16 tuổi, ngài bị người Irish bắt khi đang ở Wales. Ngài bị bắt giam 6 năm trước khi ngài trốn thoát được và trở về với gia đình. Sau khi theo đạo công giáo, ngài trở về Ireland với chức giám mục cai quản vùng Bắc và Tây của đảo Ireland, nhưng ông biết rất ít về khu vực ông được chỉ thị để cai quản. Vào thế kỷ thứ bảy, ông được phong chức thành thánh bảo hộ của Ireland.
- Sinh 1898
- Mất 1978
- Chính trị gia đảng Liên kết
- Đại sứ Israel tại Liên xô
- Người Mỹ di cư tới Palestine ủy trị Anh
- Người Mỹ hậu duệ người Do thái Ukraina
- Giáo viên Mỹ
- Người Mỹ theo chủ nghĩa phục quốc Do thái
- Người được chôn tại Mount Herzl
- Lãnh đạo thời Chiến tranh Lạnh
- Người nhận giải cống hiến xã hộ và nhà nước Israel
- Người nhận giải phụ nữ Israel
- Người Do thái Israel
- Chính trị gia đảng Lao động Israel
- Lãnh đạo đảng Israel
- Chính trị gia Do thái
- Thành viên Viện đại biểu (Palestine ủy trị)
- Thành viên Knesset
- Thủ tướng Israel
- Người ký Tuyên ngôn Độc lập Israel
Ngày thánh Patrick
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Ngày thánh Patrick | |
---|---|
Thánh Patrick được miêu tả trên kiến cửa sổ màu |
|
Tên gọi khác | Ngày thánh Patrick (St) Ngày thánh Paddy Ngày thánh Patty |
Cử hành bởi | Người Irish và người gốc Irish, Đạo công giáo, Chính Thống giáo Đông phương, Giáo hội Luther |
Kiểu | Công giáo, quốc gia, dân tộc |
Ý nghĩa | Lễ ăn mừng của thánh Patrick, cùng với ngày đạo công giáo đến với nước Ireland[1] |
Ngày | Ngày 17 tháng ba |
Tổ chức | Tham gia các cuộc biểu hành, tham dự céilithe, mặc Shamrock (dấu hiệu Irish), mặc đồ xanh lá cây, uống bia, rượu của người Irish |
Hoạt động | tham gia lễ hoặc thờ phụng. |
Ngày này thường được gắn liền với các cuộc làm lễ ở các nhà thờ,[3][4] mặc đồ xanh lá cây (đặc biệt là cây shamrock),[5] và cùng với mùa chay. Mùa chay là mùa các giáo dân công giáo phải nhịn ăn thịt,[5][6][7], rượu bia vào các thứ sáu hàng tuần cho đến khi mùa chay kết thúc.[3][5][6][7]
Ngày thánh Patrick là ngày lễ lớn tầm quốc gia ở Cộng hòa Ireland,[8] Bắc Ireland,[9] Newfoundland và Labrador và trong Montserrat. Nó được ăn mừng và kỷ niệm bởi những người có nguồn gốc Irish. Vì do người Irish nhiều trăm năm trước đã di cư với số lượng lớn lên như các nước ở đảo Britain, Canada, và Hoa Kỳ, Argentina, Úc, New Zealand và một một số nước khác.
Thánh Patrick
Hai lá thư thực sự từ ngài khi ngài còn sống được lấy làm nguồn tư liệu chủ yếu khi viết về tiểu sử của ngài.[15] Khi ngài còn là chàng thanh niên 16 tuổi, ngài bị người Irish bắt khi đang ở Wales. Ngài bị bắt giam 6 năm trước khi ngài trốn thoát được và trở về với gia đình. Sau khi theo đạo công giáo, ngài trở về Ireland với chức giám mục cai quản vùng Bắc và Tây của đảo Ireland, nhưng ông biết rất ít về khu vực ông được chỉ thị để cai quản. Vào thế kỷ thứ bảy, ông được phong chức thành thánh bảo hộ của Ireland.
Nguồn gốc màu xanh lá cây
Nguồn gốc ban đầu thì màu được liên kết với Thánh Patrick là màu xanh nước biển nhưng theo thời gian màu xanh lá cây dần dần trở nên thịnh hành hơn.[16] Green ribbons and shamrocks were worn in celebration of St Patrick's Day as early as the 17th century.[17] Ngài được biết tới như đã dùng lá shamrock, lá ba ngọn màu xanh lá cây, để giải thích về Chúa Ba Ngôi cho những người Irish cổ nguồn gốc người Celt. Cùng với sự mặc đồ và trưng đồ màu xanh lá cây của lá shamrock trở nên nổi tiếng và xuất hiện khắp những nơi ăn mừng ngày thánh Patrick.[18][19] Trong cuộc nổi loạn vào năm 1798, trong niềm hy vọng để đánh dấu một cú đánh lớn trong chính trị, những người lính theo phe phản loạn mặc đồ xanh lá cây vào ngày 17 tháng ba với mong muốn được nhiều người chú ý tới.[16] Câu "the wearing of the green", nghĩa là mặc lá shamrock lên người, bắt nguồn từ bài hát cùng tên "The Wearing of the Green."Chú thich
- ^ a b Kevin Meethan, Alison Anderson, Steven Miles. Tourism, Consumption & Representation. CAB International.
- ^ "St Patrick's Day celebrations". Church of Ireland Notes from The Irish Times. Official Church of Ireland website. 12 March 2011.
- ^ a b c Circles of Tradition: Folk Arts in Minnesota. Minnesota Historical Society Press. Truy cập ngày 13 tháng 11 năm 2010. “In nineteenth-century America it became a celebration of Irishness more than a religious occasion, though attending Mass continues as an essential part of the day.”
- ^ Edna Barth. Shamrocks, Harps, and Shillelaghs: The Story of the St. Patrick's Day Symbols. Sandpiper. Truy cập ngày 13 tháng 11 năm 2010. “For most Irish-Americans, this holiday is partly religious and partly festive. St. Patrick's Day church services are followed by parades and parties, Irish music, songs, and dances.”
- ^ a b c Circles of Tradition: Folk Arts in Minnesota. Minnesota Historical Society Press. Truy cập ngày 13 tháng 11 năm 2010. “The religious occasion did involve the wearing of shamrocks, an Irish symbol of the Holy Trinity, and the lifting of Lenten restrictions on drinking.”
- ^ a b John Nagle. Multiculturalism's Double-Bind. Ashgate Publishing. Truy cập ngày 13 tháng 11 năm 2010. “Like many other forms of carnival, St. Patrick's Day is a feast day, a break from Lent in which adherents are allowed to temporarily abandon rigorous fasting by indulging in the forbidden. Since alcohol is often proscribed during Lent the copious consumption of alcohol is seen as an integral part of St. Patrick's day.”
- ^ a b James Terence Fisher. Communion of Immigrants: A History of Catholics in America. Oxford University Press. Truy cập ngày 13 tháng 11 năm 2010. ‘The 40-day period (not counting Sundays) prior to Easter is known as Lent, a time of prayer and fasting. Pastors of Irish- American parishes often supplied "dispensations" for St. Patrick s Day, enabling parishioners to forego Lenten sacrifices in order to celebrate the feast of their patron saint.’
- ^ “Public holidays in Ireland”. Citizens Information Board. Truy cập ngày 13 tháng 11 năm 2010.
- ^ “Bank holidays”. NI Direct. Truy cập ngày 13 tháng 11 năm 2010.
- ^ O'Rahilly, Thomas Francis (1942), The Two Patricks: A Lecture on the History of Christianity in Fifth-century Ireland, Dublin: Dublin Institute for Advanced Studies, tr. 43–44
- ^ Ball, Martin J.; Fife, James (2002), The Celtic Languages, USA: Routledge, tr. 82–83, ISBN 0-415-28080-X
- ^ tiếng Irish cũ is a Q-Celtic language, which means that the sound /p/ in other languages is converted to the sound /k/.
- ^ St Patrick in the Catholic Encyclopedia (1913).
- ^ Common Worship: Services and Prayers for the Church of England, The Calendar, p. 7
- ^ Macthéni, Muirchú maccu; White, Newport John Davis (1920). St. Patrick, his writings and life. New York: The Macmillan Company. tr. 31–51, 54–60.
- ^ a b History.com. History.com. Truy cập 17 March 2010.
- ^ The Wearing of the Green: A History of St. Patrick's Day. Routledge. 2002. ISBN 9780415180047.
- ^ “St. Patrick's Day: Fact vs. Fiction”. tr. 2. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2009.
- ^ “Holiday has history”. Truy cập ngày 21 tháng 3 năm 2009.
Xem thêm
Wikimedia Commons có thêm thể loại hình ảnh và tài liệu về Ngày thánh Patrick |
Thể loại:
Chính Thống giáo Đông phương là nhánh Kitô giáo lớn thứ nhì trên thế giới, sau Giáo hội Công giáo Rôma. Đây là nhóm các giáo hội Kitô giáo đại diện cho truyền thống Kitô giáo Đông phương.
Chính Thống giáo truy nguyên nguồn gốc của họ về Kitô giáo sơ khai và
tuyên bố họ mới là sự tiếp nối duy nhất và chính thống của giáo hội do
Chúa Kitô thiết lập, xem chính mình là Giáo hội Duy nhất, Thánh thiện, Công giáo và Tông truyền. Trong thiên niên kỉ đầu của Kitô giáo, Chính Thống giáo Đông phương và Công giáo Rôma cùng là một giáo hội, mặc dù có một số khác biệt giữa đông phương và tây phương. Vào thế kỷ 11, các khác biệt này dẫn đến cuộc Ly giáo Đông - Tây năm 1054, phân chia thành Chính Thống giáo Đông phương và Công giáo Rôma.
Tín hữu Chính Thống giáo vẫn xem giáo hội của mình là truyền thống Kitô giáo trung thành nhất với các giá trị thần học bắt nguồn từ thời hội thánh tiên khởi. Giáo hội cấu trúc tổ chức bao gồm các giáo phận độc lập cùng chia sẻ một nền thần học, đặt dưới quyền cai quản của các Giám mục có nhiệm vụ bảo vệ các truyền thống giáo hội được lưu truyền từ Mười hai Sứ đồ qua quyền tông truyền, đặc biệt là Thánh Anrê.
Tín hữu Chính Thống giáo xem giáo hội của họ là:
Theo dòng lịch sử, các giáo hội Chính Thống chịu ảnh hưởng văn hóa Hi Lạp liên kết với Alexandria, Constantinopolis (nay là Istanbul), cùng các thành phố khác thuộc nền văn minh Hi Lạp; trong khi đó Giáo hội Rôma liên kết với La Mã thuộc văn hóa Latin và phương Tây. Sự khác biệt ngày càng gia tăng khi Đế chế La Mã bị chia cắt thành hai phần: phương Đông và phương Tây.
Theo các ước tính, số tín hữu Chính Thống giáo là từ 150-350 triệu người[1]. Chính Thống Đông phương cũng là tôn giáo phổ biến nhất ở Belarus (89%), Bulgaria (86%), Cộng hòa Cyprus (88%), Gruzia (89%), Hy Lạp (98%), Macedonia (70%), Moldova (98%), Montenegro (84%), România (89%), Nga(76%)[2], Serbia (88%), và Ukraina (83%)[3]. Tại Bosnia và Herzegovina, tỷ lệ này là 31%, tại Kazakhstan là 48%, tại Estonia là 13% và 18% ở Latvia. Thêm vào đó là các cộng đồng Chính Thống giáo ở châu Phi, châu Á, Úc, Bắc Mỹ và Nam Mỹ.
Theo quan điểm Chính Thống giáo, Thánh Kinh luôn được giải thích trong nội hàm của Thánh Truyền. Thánh Truyền đã hình thành và quy điển Thánh Kinh. Tín hữu Chính Thống giáo tin rằng Thánh Kinh không độc lập với giáo hội, do dó, cách duy nhất để hiểu Thánh Kinh là giải thích Thánh Kinh trong nội dung truyền thống giáo hội.[8]
Thánh Truyền còn bao gồm lễ nghi, ảnh thánh, phán quyết của các công đồng và giáo huấn của các Giáo phụ. Từ sự đồng thuận của các Giáo phụ (consensus patrum) mà người ta có thể hiểu biết sâu sắc và đầy đủ hơn về đời sống của giáo hội. Tín hữu Chính Thống giáo tin rằng quan điểm của từng giáo phụ riêng lẻ không được xem là vô ngộ (không sai lầm), nhưng sự đồng thuận của các giáo phụ sẽ giúp mang đến một sự hiểu biết chân xác về Thánh Kinh và các giáo thuyết, nhờ sự hướng dẫn của Chúa.[9]
Nổi bật giữa các thánh là Nữ Đồng trinh Maria, Theotokos (“Mẹ Thiên Chúa”). Theotokos là người được Thiên Chúa tuyển chọn để trở nên Mẹ của Chúa Giê-su, Đấng là Chúa thật và là Người thật. Chính Thống giáo tin rằng ngay từ lúc hoài thai, Đức Giê-su đã vừa là Thiên Chúa trọn vẹn vừa là Người trọn vẹn. Maria được gọi là Theotokos là sự xác quyết thần tính của Đấng được hoài thai trong thân xác của bà. Tín hữu Chính Thống giáo tin rằng Maria là đồng trinh khi sinh hạ Chúa Giê-su, bà không bị đau đớn, cũng không bị tổn thương, và bà đồng trinh mãi mãi. Do vị trí đặc biệt của Maria trong công cuộc cứu rỗi, bà được tôn trọng hơn các thánh khác.[11] Do sự thánh khiết trong cuộc đời các thánh, thân thể và vật dụng của họ được giáo hội xem là thánh tích. Người ta thuật lại nhiều phép lạ liên quan đến các thánh tích, như chữa bệnh và chữa lành các vết thương.
Dù được xem là một phần của Kinh Thánh, sách Khải Huyền, theo quan điểm Chính Thống giáo, là sách thần bí. Không chỉ có rất ít luận giải về nội dung, sách Khải Huyền không bao giờ được đọc trong các lễ thờ phượng trong nhà thờ.
Các bức tượng với thế đứng tự do (miêu tả ba chiều) hầu như không được chấp nhận trong Chính Thống giáo, một phần do giáo hội chống lại tục lệ thờ lạy ngẫu tượng của người Hy Lạp ngoại giáo thời cổ đại. Trong khi đó, tranh ảnh thánh thường được dùng để trang trí vách nhà thờ.[14] Phần lớn nhà ở của tín hữu Chính Thống giáo đều dành một chỗ cho gia đình cầu nguyện, thường là bức vách về hướng đông, ở đây người ta treo nhiều tranh thánh.
Tranh ảnh thường được trưng bày chung với nến hoặc đèn dầu. (Nến sáp ong và đèn dầu olive được chuộng hơn do tự nhiên và sạch sẽ). Ngoài công dụng chiếu sáng, nến và đèn dầu còn biểu trưng cho "Ánh Sáng Thế gian", tức là Chúa Giêsu.
Trong ngôn ngữ của Chính Thống giáo, thuật từ “Sự Huyền nhiệm” được dùng để chỉ tiến trình hợp nhất với Thiên Chúa. Nước, dầu, bánh, rượu nho…. là các phương tiện được Chúa sử dụng để đem con dân Chúa đến gần ngài. Tiến trình này được vận hành như thế nào là một sự “huyền nhiệm” khó có thể diễn đạt trong ngôn ngữ loài người.
Những nghi thức tôn giáo mà Kitô giáo phương Tây gọi là Bí tích (Sacraments), phương Đông gọi là Huyền nhiệm Thiêng liêng (Sacred Mysteries). Trong khi Giáo hội Công giáo Rôma có bảy bí tích, và phần lớn cộng đồng Kháng Cách công nhận hai bí tích (Báp têm và Tiệc Thánh), Chính Thống giáo không hạn chế số lượng. Tuy nhiên, có bảy Huyền nhiệm lớn trong Chính Thống giáo: Tiệc Thánh, Báp têm, Kiên tín, Xưng tội, Xức dầu thánh, Hôn phối, và Tấn phong.
Chỉ có các Giám mục được yêu cầu phải sống độc thân, giáo hội cho phép linh mục và phó tế lập gia đình, và nên kết hôn trước khi được phong chức. Nhìn chung, linh mục giáo xứ được khuyến khích kết hôn, như vậy họ có đủ kinh nghiệm để khuyên bảo tín hữu trong các vấn đề hôn nhân và gia đình. Linh mục độc thân thường là tu sĩ sống trong các tu viện. Linh mục hoặc phó tế góa vợ không nên tái hôn, thường những người này sẽ vào tu viện. Tương tự, vợ góa của các linh mục cũng không nên tái hôn, mà vào tu viện khi con cái đã trưởng thành. Trước đây, phụ nữ có thể đảm nhiệm chức vụ phó tế. Tân Ước và các bản văn khác có đề cập đến vấn đề này. Các nữ phó tế từng được giao các chức trách mục vụ và giáo nghi.[19] Mặc dù truyền thống này không được duy trì (lần cuối cùng phong chức phó tế cho một phụ nữ là trong thế kỷ 19), ngày nay xem ra không có lý do gì ngăn cản phụ nữ đảm trách chức phó tế.
Trong thế kỷ thứ tư, hội thánh phát triển sâu rộng trên nhiều xứ sở, cũng là lúc xuất hiện nhiều giáo thuyết mới, đáng kể nhất là học thuyết Arius. Học thuyết này gây nhiều ảnh hưởng, đồng thời là nguyên nhân của những tranh luận thần học bên trong hội thánh. Constantine quyết định triệu tập một công đồng lớn nhằm xác lập các quan điểm thần học cho giáo hội.
Một số trong những môn đồ của Cyril và Methodius như Clement, Naum (thuộc dòng dõi quý tộc Bulgaria), và Angelarius, trở lại Bulgaria. Tại đây, họ được Tsar Boris I đón tiếp. Trong một thời gian ngắn, những người này dạy các chức sắc Bulgaria bảng mẫu tự Glagolitic và các văn bản Kinh Thánh. Năm 893, ngôn ngữ Slav được công nhận là ngôn ngữ chính thức của giáo hội và nhà nước. Những thành công tại Bulgaria giúp đẩy mạnh các hoạt động qui đạo của các dân tộc Slav, đáng kể nhất là dân tộc Rus’, thủy tổ của các sắc dân Belarus, Nga, và Ukraine.
Một trong những yếu tố dẫn đến sự thành công trong công cuộc truyền giáo cho các dân tộc Slav là các nhà truyền giáo sử dụng ngôn ngữ địa phương thay vì tiếng Latin, không giống cách các giáo sĩ Roma vẫn làm. Hiện nay, Giáo hội Chính Thống Nga là giáo hội lớn nhất trong cộng đồng Chính Thống giáo.
Cuộc ly giáo được cho là dẫn tới sự chiếm đóng và cướp phá thành Constantinople trong cuộc thập tự chinh thứ tư vào năm 1204. Sự kiện cướp phá Nhà thờ Hagia Sophia (Thánh Trí) và nỗ lực thiết lập Đế quốc Latin nhằm thay thế Đế quốc Byzantine vẫn là một mối hiềm khích giữa hai phía kéo dài cho đến ngày nay. Năm 2004, Giáo hoàng John Paul II chính thức xin lỗi về việc tàn phá thành Constantinople năm 1204; và lời xin lỗi được Thượng phụ Bartholomew thành Constantinople chấp nhận. Tuy nhiên, nhiều đồ vật bị đánh cắp như thánh tích, tài sản và nhiều món đồ khác, vẫn chưa được hoàn trả, nhưng còn lưu giữ ở phương Tây, nhất là ở Venice.
Năm 1272 tới năm 1274 đã có những nỗ lực hàn gắn phương Đông và phương Tây tại Công đồng Lyon II, cũng như năm 1439 tại Công đồng Florence. Nhưng cả hai công đồng đều bị cộng đồng Chính Thống giáo bác bỏ. Năm 1964, Giáo hoàng Phaolô VI và Thượng phụ Đại kết Athenagoras I đã có cuộc gặp ở Jerusalem và vào năm sau đó, vạ tuyệt thông năm 1054 đã được hai giáo hội xóa bỏ.
Những bất đồng ngấm ngầm vẫn tồn tại trong vòng các giáo hội cấp quốc gia, một phần là do sự khác biệt trong lập trường đối với Phong trào Đại kết. Trong khi Thượng phụ thành Constantinople và các Giám mục ở Bắc Mỹ tập hợp xung quanh Hội đồng Giám mục Chính Thống giáo châu Mỹ, thì các Giám mục România mở các cuộc đàm phán với Giáo hội Công giáo Rôma. Mặt khác, nhiều người, trong đó có các tu sĩ Núi Athos, các Giám mục Nga, Serbia, cùng các chức sắc Hi Lạp và Bulgaria xem phong trào đại kết là một sự thỏa hiệp về thần học. Thay vì vậy, theo họ, Chính Thống giáo nên rao giảng chân lý trong tình yêu thương hầu có thể lôi kéo các tín hữu thuộc các giáo phái khác nhau đến với đức tin Chính Thống giáo.
Hiện nay, Chính Thống giáo Đông phương có khoảng 350 triệu tín hữu.
- Ngày lễ công giáo
- Christian festivals and holy days
- Ngày lễ ở Canada
- Ngày lễ ở Úc
- Ngày lễ của Mễ
- Holidays in Ireland
- Holidays in the United States
- Irish-American culture
- Văn hóa Irish
- Truyện dân gian Irish
- Ngày lễ vào tháng ba
- Ngày quốc gia
- Diễu hành
- Ngày thánh
- 17th century in Ireland
- Thế kỷ 18th trong Ireland
- Thế kỷ 19th trong Ireland
- Thế kỷ 20th trong Ireland
- Thế kỷ 21st trong Ireland
- Saint Patrick's Day
- Ireland
- Văn hóa Ireland
Chính Thống giáo Đông phương
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Kitô giáo | ||
|
||
|
||
|
Tín hữu Chính Thống giáo vẫn xem giáo hội của mình là truyền thống Kitô giáo trung thành nhất với các giá trị thần học bắt nguồn từ thời hội thánh tiên khởi. Giáo hội cấu trúc tổ chức bao gồm các giáo phận độc lập cùng chia sẻ một nền thần học, đặt dưới quyền cai quản của các Giám mục có nhiệm vụ bảo vệ các truyền thống giáo hội được lưu truyền từ Mười hai Sứ đồ qua quyền tông truyền, đặc biệt là Thánh Anrê.
Tín hữu Chính Thống giáo xem giáo hội của họ là:
- Hội thánh nguyên thủy được thiết lập bởi Chúa Giê-su Ki-tô và các sứ đồ.
- Giáo huấn và truyền thống giáo hội được bảo tồn bởi các tín hữu thời kỳ hội thánh sơ khai được lưu truyền từ các sứ đồ, cùng các truyền thống khác được phát triển sau này nhằm mở rộng và làm sáng tỏ các giáo huấn nguyên thủy.
- Tân Ước viết cho tín hữu thời kỳ hội thánh sơ khai và trình bày các giáo lý đã có sẵn của hội thánh (ngụ ý Giáo hội là nền tảng của Tân Ước).
Theo dòng lịch sử, các giáo hội Chính Thống chịu ảnh hưởng văn hóa Hi Lạp liên kết với Alexandria, Constantinopolis (nay là Istanbul), cùng các thành phố khác thuộc nền văn minh Hi Lạp; trong khi đó Giáo hội Rôma liên kết với La Mã thuộc văn hóa Latin và phương Tây. Sự khác biệt ngày càng gia tăng khi Đế chế La Mã bị chia cắt thành hai phần: phương Đông và phương Tây.
Mục lục
Cấu trúc
Chính Thống giáo xem Chúa Giê-su là đầu của hội thánh và hội thánh là thân thể của ngài. Người ta tin rằng thẩm quyền và ân điển của Thiên Chúa được truyền trực tiếp xuống các Giám mục và chức sắc giáo hội qua việc đặt tay – một nghi thức được khởi xướng bởi các sứ đồ, và sự nối tiếp lịch sử liên tục này là yếu tố căn bản của giáo hội (Công vụ 8:17; 1Tim 4:14; Heb 6:2). Mỗi Giám mục cai quản giáo phận của mình. Nhiệm vụ chính của Giám mục là gìn giữ các truyền thống và qui tắc của giáo hội khỏi bị vi phạm. Các Giám mục có thẩm quyền ngang nhau và không được can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. Về mặt hành chính, các Giám mục và các giáo phận được tổ chức thành các nhóm tự quản, trong đó các Giám mục họp ít nhất hai lần mỗi năm để bàn bạc về các vấn đề liên quan đến giáo phận của họ. Khi xuất hiện các học thuyết dị giáo, một “đại” công đồng được triệu tập qui tụ tất cả Giám mục. Giáo hội xem bảy công đồng đầu tiên (từ thế kỷ 4 đến thế kỷ 8) là quan trọng nhất mặc dù các hội nghị khác cũng góp phần định hình quan điểm của Chính Thống giáo. Những công đồng này không thiết lập giáo lý cho hội thánh nhưng chỉ so sánh các học thuyết mới với các xác tín truyền thống của giáo hội. Học thuyết nào không phù hợp với truyền thống giáo hội bị xem là dị giáo và bị loại trừ khỏi giáo hội. Các công đồng được tổ chức theo thể thức dân chủ dựa trên nguyên tắc mỗi Giám mục một lá phiếu. Dù được phép dự họp và phát biểu tại công đồng, quan lại triều đình Rôma hay Byzantine, tu viện trưởng, linh mục, tu sĩ hoặc tín đồ không có quyền bầu phiếu. Trước cuộc Đại Ly giáo năm 1054, Giám mục thủ đô La Mã, tức Giáo hoàng, dù không có mặt tại tất cả công đồng, vẫn được xem là chủ tọa công đồng và được gọi là “Người đứng đầu giữa những người bình đẳng”. Một trong những nghị quyết của công đồng thứ nhì, được khẳng định bởi các công đồng sau, là Giám mục thành Constantinople (Constantinople được xem là Rôma mới) được dành vị trí thứ hai. Sau khi tách khỏi Rôma, vị trí chủ tọa công đồng được dành cho Thượng phụ thành Constantinople với danh hiệu “Người đứng đầu giữa những người bình đẳng”, thể hiện sự bình đẳng của chức vụ này trong phương diện hành chính và tâm linh. Người đảm nhiệm chức vụ này không được xem là đầu của hội thánh hoặc giáo chủ.Theo các ước tính, số tín hữu Chính Thống giáo là từ 150-350 triệu người[1]. Chính Thống Đông phương cũng là tôn giáo phổ biến nhất ở Belarus (89%), Bulgaria (86%), Cộng hòa Cyprus (88%), Gruzia (89%), Hy Lạp (98%), Macedonia (70%), Moldova (98%), Montenegro (84%), România (89%), Nga(76%)[2], Serbia (88%), và Ukraina (83%)[3]. Tại Bosnia và Herzegovina, tỷ lệ này là 31%, tại Kazakhstan là 48%, tại Estonia là 13% và 18% ở Latvia. Thêm vào đó là các cộng đồng Chính Thống giáo ở châu Phi, châu Á, Úc, Bắc Mỹ và Nam Mỹ.
Giáo lý
Ba Ngôi
Tín hữu Chính Thống giáo tin một Thiên Chúa duy nhất, hiện hữu trong Ba Ngôi vị (Hypostases) là Cha và Con và Thánh Linh. Chúa Cha tự hữu, Chúa Con sinh bởi Chúa Cha và Chúa Thánh Linh nhiệm xuất từ Chúa Cha. Thiên Chúa là Ba Ngôi hiệp nhất trong một Bản thể (Ousia), không lẫn giữa các ngôi với nhau, cũng không phân chia bản thể – Thiên Chúa duy nhất là Đấng tự hữu, hằng hữu, vĩnh cửu, và phi vật chất.[4] Xác tín này được trình bày trong bản Tín điều Nicaea.[5]Tội lỗi và sự Cứu rỗi
Bản chất của con người, trước khi sa ngã, là tinh tuyền và vô tội. Nhưng hành động bất tuân Thiên Chúa của Adam và Eva trong Vườn Eden đã để tội lỗi và sự bại hoại thâm nhập vào bản chất tinh tuyền ấy. Tình trạng bất khiết này đã ngăn cản con người hưởng Vương quốc Thiên đàng. Song, khi Thiên Chúa hóa thân thành người trên dương thế, ngài đã thay đổi bản chất ấy bằng cách hiệp nhất con người với Thiên Chúa; do đó, Chúa Kitô thường được gọi là “Adam mới”. Bằng cách trở thành người, chết trên cây thập tự, và sống lại, ngài đã thánh hóa các phương tiện ân điển, nhờ đó chúng ta được trở lại với tình trạng tinh tuyền nguyên thủy và phục hòa với Thiên Chúa. Điều này Chính Thống giáo gọi là được cứu khỏi tình trạng bệnh tật của tội lỗi. Quyền năng của sự cứu rỗi giải thoát mọi người công chính khỏi quyền lực trói buộc của tội lỗi, kể từ buổi sáng thế, trong đó có cả Adam và Eva.Phục sinh
Sự Phục sinh của Chúa Giê-su là sự kiện quan trọng nhất mà lịch phụng vụ Chính Thống giáo đặt làm trọng tâm. Thống giáo tin đây là một sự kiện lịch sử và Chúa Giê-su thật sự sống lại trong thân xác. Chúa Giê-su, Con Thiên Chúa, bị đóng đinh, sau khi chết, đến ngày thứ ba Ngài sống lại để cứu rỗi nhân loại. Ngài đã giải thoát loài người khỏi quyền lực của hỏa ngục. Như thế, mọi kẻ tin Ngài đều có thể thông phần vào sự sống vĩnh hằng.Thánh Kinh và Thánh Truyền
Chính Thống giáo xem mình là sự nối tiếp lịch sử từ hội thánh tiên khởi được thành lập bởi Chúa Giê-su và các sứ đồ.[6] Đức tin được truyền dạy bởi Chúa Giê-su và các sứ đồ mặc lấy sức sống bởi Chúa Thánh Linh trong ngày Lễ Ngũ Tuần, được lưu truyền qua nhiều thế hệ, được gọi là Thánh Truyền (Truyền thống thánh).[7] Lời chứng chủ yếu và có thẩm quyền cho Thánh Truyền là Kinh Thánh, được viết ra và được chuẩn thuận bởi các sứ đồ để ký thuật chân lý được mặc khải và lịch sử tiên khởi của hội thánh. Bởi vì Thánh Kinh được linh hứng, nên được xem là trọng tâm của sự sống hội thánh.Theo quan điểm Chính Thống giáo, Thánh Kinh luôn được giải thích trong nội hàm của Thánh Truyền. Thánh Truyền đã hình thành và quy điển Thánh Kinh. Tín hữu Chính Thống giáo tin rằng Thánh Kinh không độc lập với giáo hội, do dó, cách duy nhất để hiểu Thánh Kinh là giải thích Thánh Kinh trong nội dung truyền thống giáo hội.[8]
Thánh Truyền còn bao gồm lễ nghi, ảnh thánh, phán quyết của các công đồng và giáo huấn của các Giáo phụ. Từ sự đồng thuận của các Giáo phụ (consensus patrum) mà người ta có thể hiểu biết sâu sắc và đầy đủ hơn về đời sống của giáo hội. Tín hữu Chính Thống giáo tin rằng quan điểm của từng giáo phụ riêng lẻ không được xem là vô ngộ (không sai lầm), nhưng sự đồng thuận của các giáo phụ sẽ giúp mang đến một sự hiểu biết chân xác về Thánh Kinh và các giáo thuyết, nhờ sự hướng dẫn của Chúa.[9]
Theotokos và các Thánh
Chính Thống giáo tin rằng sự chết và sự tách rời linh hồn khỏi thể xác vốn là điều không bình thường, là hậu quả của tình trạng sa ngã của loài người. Họ cũng tin rằng hội thánh bao gồm người sống và người đã khuất. Mọi người đang sống trên thiên đàng đều là thánh, dù tên tuổi của họ có được biết đến hay không. Tuy nhiên, có những vị thánh đặc biệt mà Chúa muốn chúng ta biết để noi theo. Khi một vị thánh được đa số trong giáo hội thừa nhận, một buổi lễ vinh danh được cử hành cho vị thánh này. Điều này không có nghĩa là phong thánh cho vị ấy, nhưng chỉ đơn giản là thừa nhận vị thánh và công bố cho toàn thể hội thánh được rõ. Các thánh được tôn kính nhưng không được sùng bái. Sự thờ phượng chỉ dành cho Thiên Chúa.[10]Nổi bật giữa các thánh là Nữ Đồng trinh Maria, Theotokos (“Mẹ Thiên Chúa”). Theotokos là người được Thiên Chúa tuyển chọn để trở nên Mẹ của Chúa Giê-su, Đấng là Chúa thật và là Người thật. Chính Thống giáo tin rằng ngay từ lúc hoài thai, Đức Giê-su đã vừa là Thiên Chúa trọn vẹn vừa là Người trọn vẹn. Maria được gọi là Theotokos là sự xác quyết thần tính của Đấng được hoài thai trong thân xác của bà. Tín hữu Chính Thống giáo tin rằng Maria là đồng trinh khi sinh hạ Chúa Giê-su, bà không bị đau đớn, cũng không bị tổn thương, và bà đồng trinh mãi mãi. Do vị trí đặc biệt của Maria trong công cuộc cứu rỗi, bà được tôn trọng hơn các thánh khác.[11] Do sự thánh khiết trong cuộc đời các thánh, thân thể và vật dụng của họ được giáo hội xem là thánh tích. Người ta thuật lại nhiều phép lạ liên quan đến các thánh tích, như chữa bệnh và chữa lành các vết thương.
Chung Thời học
Chính Thống giáo tin rằng khi chết linh hồn “tạm thời” tách rời khỏi thể xác, có thể sẽ ở một thời gian ngắn trên đất; sau khi chịu xét xử tạm thời sẽ được đưa đến một trong hai nơi chốn (trạng thái): trong lòng tổ phụ Abraham là nơi an lạc (Paradise) hoặc trong bóng tối của âm phủ (Sheol hay Hades). Linh hồn ở trong tình trạng này cho đến ngày Phán xét Cuối cùng, khi đó linh hồn và thể xác được hợp nhất.[12] Theo quan điểm này, tình yêu và lời cầu nguyện của người công chính có thể mang lại lợi ích cho các linh hồn đang ở âm phủ cho đến khi họ ứng hầu trong ngày phán xét chung thẩm.[13] Đó là lý do giáo hội dành những ngày đặc biệt để cầu nguyện cho người chết. Chính thống giáo không công nhận giáo lý về Luyện ngục (Purgatory) như Công giáo Rôma nhưng cả hai giáo hội đều nhấn mạnh tới sự cầu nguyện cho những người đã chết là những người trong âm phủ hoặc những người được cứu rỗi nhưng đang được thanh luyện trong Luyện ngục.Dù được xem là một phần của Kinh Thánh, sách Khải Huyền, theo quan điểm Chính Thống giáo, là sách thần bí. Không chỉ có rất ít luận giải về nội dung, sách Khải Huyền không bao giờ được đọc trong các lễ thờ phượng trong nhà thờ.
Truyền thống
Hội họa và Kiến trúc
Kiến trúc Giáo đường
Kiến trúc giáo đường mang nhiều ý nghĩa biểu tượng; có lẽ hình ảnh lâu đời nhất và nổi bật nhất là khái niệm xem nhà thờ là biểu trưng cho con tàu Noah (từng cứu nhân loại khỏi họa diệt vong gây ra bởi cơn Đại Hồng thủy), nay hội thánh cứu con người khỏi bị nhấn chìm trong cơn lũ của nhiều loại cám dỗ. Vì vậy, hầu hết nhà thờ Chính Thống giáo được xây dựng theo hình chữ nhật, hoặc hình thập tự giá với cánh ngang là chỗ dành cho ca đoàn.Ảnh thánh
Thuật từ Icon (hay Ikon) có nguồn gốc từ Hi văn eikona, có nghĩa là hình ảnh. Chính Thống giáo tin rằng những bức tranh thánh (icon) đầu tiên của Chúa Giêsu và Nữ Đồng trinh Maria được ghi lại bởi Thánh sử Luca, tác giả quyển Tin Mừng thứ ba.Các bức tượng với thế đứng tự do (miêu tả ba chiều) hầu như không được chấp nhận trong Chính Thống giáo, một phần do giáo hội chống lại tục lệ thờ lạy ngẫu tượng của người Hy Lạp ngoại giáo thời cổ đại. Trong khi đó, tranh ảnh thánh thường được dùng để trang trí vách nhà thờ.[14] Phần lớn nhà ở của tín hữu Chính Thống giáo đều dành một chỗ cho gia đình cầu nguyện, thường là bức vách về hướng đông, ở đây người ta treo nhiều tranh thánh.
Tranh ảnh thường được trưng bày chung với nến hoặc đèn dầu. (Nến sáp ong và đèn dầu olive được chuộng hơn do tự nhiên và sạch sẽ). Ngoài công dụng chiếu sáng, nến và đèn dầu còn biểu trưng cho "Ánh Sáng Thế gian", tức là Chúa Giêsu.
Huyền nhiệm
Theo thần học Chính Thống giáo, mục tiêu của đời sống Kitô giáo là đạt đến theosis, sự hợp nhất huyền nhiệm giữa con người và Thiên Chúa, theo như cách diễn đạt của Athanasius thành Alexandria trong tác phẩm Incarnation, “Ngài (Chúa Giê-su) là Thần Linh trở thành người để con người có thể trở thành thần linh (θεοποιηθῶμεν)”.[15][16][17][18]Trong ngôn ngữ của Chính Thống giáo, thuật từ “Sự Huyền nhiệm” được dùng để chỉ tiến trình hợp nhất với Thiên Chúa. Nước, dầu, bánh, rượu nho…. là các phương tiện được Chúa sử dụng để đem con dân Chúa đến gần ngài. Tiến trình này được vận hành như thế nào là một sự “huyền nhiệm” khó có thể diễn đạt trong ngôn ngữ loài người.
Những nghi thức tôn giáo mà Kitô giáo phương Tây gọi là Bí tích (Sacraments), phương Đông gọi là Huyền nhiệm Thiêng liêng (Sacred Mysteries). Trong khi Giáo hội Công giáo Rôma có bảy bí tích, và phần lớn cộng đồng Kháng Cách công nhận hai bí tích (Báp têm và Tiệc Thánh), Chính Thống giáo không hạn chế số lượng. Tuy nhiên, có bảy Huyền nhiệm lớn trong Chính Thống giáo: Tiệc Thánh, Báp têm, Kiên tín, Xưng tội, Xức dầu thánh, Hôn phối, và Tấn phong.
Chức sắc
Từ buổi sơ khai, giáo hội phát triển đến nhiều nơi, các nhà lãnh đạo hội thánh tại mỗi địa phương được gọi là episkopoi (người cai quản – Hi văn ἐπίσκοπος), tức là Giám mục. Một chức vụ khác được thiết lập trong hội thánh là presbyter (trưởng lão – Hi văn πρεσβύτερος), sau trở thành “prester”, rồi “priest” (thầy tư tế hoặc linh mục), và diakonos (διάκονος, người phục vụ), về sau thành deacon (chấp sự hoặc phó tế).Chỉ có các Giám mục được yêu cầu phải sống độc thân, giáo hội cho phép linh mục và phó tế lập gia đình, và nên kết hôn trước khi được phong chức. Nhìn chung, linh mục giáo xứ được khuyến khích kết hôn, như vậy họ có đủ kinh nghiệm để khuyên bảo tín hữu trong các vấn đề hôn nhân và gia đình. Linh mục độc thân thường là tu sĩ sống trong các tu viện. Linh mục hoặc phó tế góa vợ không nên tái hôn, thường những người này sẽ vào tu viện. Tương tự, vợ góa của các linh mục cũng không nên tái hôn, mà vào tu viện khi con cái đã trưởng thành. Trước đây, phụ nữ có thể đảm nhiệm chức vụ phó tế. Tân Ước và các bản văn khác có đề cập đến vấn đề này. Các nữ phó tế từng được giao các chức trách mục vụ và giáo nghi.[19] Mặc dù truyền thống này không được duy trì (lần cuối cùng phong chức phó tế cho một phụ nữ là trong thế kỷ 19), ngày nay xem ra không có lý do gì ngăn cản phụ nữ đảm trách chức phó tế.
Lịch sử
Hội thánh Tiên khởi
Kitô giáo phát triển mau chóng trên toàn lãnh thổ Đế quốc La Mã, một phần nhờ tiếng Hi Lạp là chuyển ngữ (lingua franca) được sử dụng rộng rãi trong dân chúng, phần khác là do thông điệp Kitô giáo được xem là mới và khác với các tôn giáo cũ của người La Mã và người Hi Lạp. Phao-lô và các sứ đồ khác đi khắp nơi trong Đế chế, trong đó có vùng Tiểu Á, thiết lập hội thánh trong các cộng đồng dân cư, từ thành Jerusalem và Xứ Thánh, đến Antioch và vùng phụ cận, đến La Mã, Alexandria, Athens, Thessalonika, và Byzantium. Byzantium về sau chiếm vị trí nổi bật ở phương đông, được mệnh danh là La Mã mới. Trong thời kỳ này, Kitô giáo cũng là mục tiêu của nhiều đợt bách hại, nhưng hội thánh vẫn tiếp tục phát triển. Năm 324, Hoàng đế Constantine chấm dứt các cuộc bách hại.Trong thế kỷ thứ tư, hội thánh phát triển sâu rộng trên nhiều xứ sở, cũng là lúc xuất hiện nhiều giáo thuyết mới, đáng kể nhất là học thuyết Arius. Học thuyết này gây nhiều ảnh hưởng, đồng thời là nguyên nhân của những tranh luận thần học bên trong hội thánh. Constantine quyết định triệu tập một công đồng lớn nhằm xác lập các quan điểm thần học cho giáo hội.
Các Công đồng
Chính Thống giáo công nhận chín công đồng, được triệu tập từ năm 325 (Công đồng Nicaea) đến năm 1341 hoặc 1351 (Công đồng Constantinople thứ hai). Các công đồng này được triệu tập để giải quyết các tranh chấp thần học, đồng thời xác lập giáo lý và giáo luật cho Chính Thống giáo.Các Dân tộc Slav
Trong thế kỷ thứ 9 và 10, Chính Thống giáo phát triển về phía đông châu Âu, đến lãnh thổ Rus’ ở Kiev (một quốc gia thời Trung Cổ - tiền thân của Nga, Ukraina và Belarus) nhờ những nỗ lực của Cyril và Methodius. Khi Rastislav, vua Moravia, yêu cầu Byzantium gởi giáo viên đến dạy người Moravia bằng ngôn ngữ của họ, Hoàng đế Byzantine, Michael III, chọn hai anh em Cyril và Methodius. Vì mẹ của họ là người Slav đến từ Thessaloniki, cả hai đều có thể sử dụng phương ngữ Slav để dịch Kinh Thánh và các sách kinh cầu nguyện. Khi các bản dịch của họ được những người sử dụng các phương ngữ khác sao chép, một ngôn ngữ văn chương gọi là tiếng Slav giáo hội cổ được hình thành. Được sai phái truyền giáo cho người Slav ở vùng Đại Moravia, Cyril và Methodius phải cạnh tranh với các giáo sĩ người Frank đến từ giáo phận Rôma. Năm 886, các môn đồ của họ bị trục xuất khỏi Moravia.Một số trong những môn đồ của Cyril và Methodius như Clement, Naum (thuộc dòng dõi quý tộc Bulgaria), và Angelarius, trở lại Bulgaria. Tại đây, họ được Tsar Boris I đón tiếp. Trong một thời gian ngắn, những người này dạy các chức sắc Bulgaria bảng mẫu tự Glagolitic và các văn bản Kinh Thánh. Năm 893, ngôn ngữ Slav được công nhận là ngôn ngữ chính thức của giáo hội và nhà nước. Những thành công tại Bulgaria giúp đẩy mạnh các hoạt động qui đạo của các dân tộc Slav, đáng kể nhất là dân tộc Rus’, thủy tổ của các sắc dân Belarus, Nga, và Ukraine.
Một trong những yếu tố dẫn đến sự thành công trong công cuộc truyền giáo cho các dân tộc Slav là các nhà truyền giáo sử dụng ngôn ngữ địa phương thay vì tiếng Latin, không giống cách các giáo sĩ Roma vẫn làm. Hiện nay, Giáo hội Chính Thống Nga là giáo hội lớn nhất trong cộng đồng Chính Thống giáo.
Đại Ly giáo
Thế kỷ 11 chứng kiến cuộc Đại Ly giáo, chia cắt giáo hội thành hai phần, phương Tây với Giáo hội Công giáo Rôma, và phương Đông với Giáo hội Chính Thống Đông phương. Ngoài những bất đồng về thần học như mệnh đề Filioque, và thẩm quyền của Giáo hoàng, những dị biệt về văn hóa và ngôn ngữ giữa hai nền văn hóa Latin và Hi Lạp cũng là những nhân tố quan trọng thúc đẩy sự chia cắt. Trước đó đã nảy sinh những bất đồng giữa hai nửa giáo hội.Cuộc ly giáo được cho là dẫn tới sự chiếm đóng và cướp phá thành Constantinople trong cuộc thập tự chinh thứ tư vào năm 1204. Sự kiện cướp phá Nhà thờ Hagia Sophia (Thánh Trí) và nỗ lực thiết lập Đế quốc Latin nhằm thay thế Đế quốc Byzantine vẫn là một mối hiềm khích giữa hai phía kéo dài cho đến ngày nay. Năm 2004, Giáo hoàng John Paul II chính thức xin lỗi về việc tàn phá thành Constantinople năm 1204; và lời xin lỗi được Thượng phụ Bartholomew thành Constantinople chấp nhận. Tuy nhiên, nhiều đồ vật bị đánh cắp như thánh tích, tài sản và nhiều món đồ khác, vẫn chưa được hoàn trả, nhưng còn lưu giữ ở phương Tây, nhất là ở Venice.
Năm 1272 tới năm 1274 đã có những nỗ lực hàn gắn phương Đông và phương Tây tại Công đồng Lyon II, cũng như năm 1439 tại Công đồng Florence. Nhưng cả hai công đồng đều bị cộng đồng Chính Thống giáo bác bỏ. Năm 1964, Giáo hoàng Phaolô VI và Thượng phụ Đại kết Athenagoras I đã có cuộc gặp ở Jerusalem và vào năm sau đó, vạ tuyệt thông năm 1054 đã được hai giáo hội xóa bỏ.
Giáo hội Ngày nay
Mặc dù tính độc lập và quyền tự trị của các giáo phận là đặc điểm của cấu trúc tổ chức và văn hóa bản địa của Chính Thống giáo, hầu hết các giáo phận này đều hiệp thông với nhau. Gần đây, các mối quan hệ đã được phục hồi giữa Giáo hội Chính Thống ngoài Nga và Thượng phụ Moscow, hai cộng đồng này của Chính Thống giáo Nga đã tách rời khỏi nhau từ thập niên 1920, do các lý do chính trị trong thời Soviet.Những bất đồng ngấm ngầm vẫn tồn tại trong vòng các giáo hội cấp quốc gia, một phần là do sự khác biệt trong lập trường đối với Phong trào Đại kết. Trong khi Thượng phụ thành Constantinople và các Giám mục ở Bắc Mỹ tập hợp xung quanh Hội đồng Giám mục Chính Thống giáo châu Mỹ, thì các Giám mục România mở các cuộc đàm phán với Giáo hội Công giáo Rôma. Mặt khác, nhiều người, trong đó có các tu sĩ Núi Athos, các Giám mục Nga, Serbia, cùng các chức sắc Hi Lạp và Bulgaria xem phong trào đại kết là một sự thỏa hiệp về thần học. Thay vì vậy, theo họ, Chính Thống giáo nên rao giảng chân lý trong tình yêu thương hầu có thể lôi kéo các tín hữu thuộc các giáo phái khác nhau đến với đức tin Chính Thống giáo.
Hiện nay, Chính Thống giáo Đông phương có khoảng 350 triệu tín hữu.
Chú thích
- ^ [1]
- ^ “RUSSIAN PUBLIC OPINION RESEARCH CENTER (tiếng Nga)”. Truy cập ngày 10 tháng 11 năm 2007.
- ^ [2]
- ^ Ware, pp. 208–211
- ^ Ware p. 202
- ^ Ware, p. 8
- ^ Ware, pp. 195–196
- ^ Ware, pp. 199–200
- ^ Ware, pp. 202–207
- ^ Ware, pp. 255–256
- ^ Ware, pp. 257–258
- ^ The Longer Catechism of The Orthodox, Catholic, Eastern Church, an Eastern Orthodox catechism from 1830, by Metropolitan Philaret. Start with item 366 or 372.
- ^ The Longer Catechism, Item 377.
- ^ Ware p. 271
- ^ Athanasius of Alexandria, On the Incarnation of the Word, §54.
- ^ ”Và bởi sự vinh hiển nhân đức ấy, Ngài lại ban lời hứa rất quí rất lớn cho chúng ta, hầu cho nhờ đó anh em được lánh khỏi sự hư nát của thế gian bởi tư dục đến, mà trở nên người dự phần bản thể của Thiên Chúa.” – 2Peter 1:4
- ^ ”Ta đã nói: Các ngươi là thần, Hết thảy đều là con trai của Đấng Chí Cao.” – Thi thiên 82:6
- ^ ”Chúa Giê-su đáp rằng: Trong luật pháp của các ngươi há chẳng chép rằng: Ta đã phán: Các ngươi là thần, hay sao? Nếu luật pháp gọi những kẻ được lời Thiên Chúa phán đến là thần…” – Phúc âm Gioan 10: 34-35
- ^ Karras, Valerie A. (June năm 2004). “Female Deacons in the Byzantine Church”. Church History 73 (2): 272–316. ISSN 0009-6407.
Tham khảo
- The Orthodox Church. Ware, Timothy. Penguin Books, 1997. (ISBN 0-14-014656-3)
- The Orthodox Church; 455 Questions and Answers. Harakas, Stanley H. Light and Life Publishing Company, 1988. (ISBN 0-937032-56-5)
Liên kết ngoài
Wikimedia Commons có thêm thể loại hình ảnh và tài liệu về Chính Thống giáo Đông phương |
- The Orthodox Study Bible
- An Online Orthodox Catechism published by the Russian Orthodox Church
- OrthodoxWiki
- Church Jurisdictions (Orthodox) tại Dự án thư viện mở (trang đề nghị)
Thể loại:
Video yêu thích
http://www.youtube.com/user/hoangkimvietnam
Trở về trang chính
Hoàng Kim, hoangkim, hoangkimvietnam, Ngọc Phương Nam, Chào ngày mới Thung dung, Dạy và học, Cây Lương thực, Tin Nông nghiệp Việt Nam, Food Crops, Cassava in Vietnam, Khát khao xanh, Dayvahoc, Học mỗi ngày, Danh nhân Việt , Food Crops News, Điểm chính, CNM365, Kim LinkedIn, KimTwitter, KimFaceBook Đọc lại và suy ngẫm, Việt Nam tổ quốc tôi, Tình yêu cuộc sống, Thơ cho con
http://www.youtube.com/user/hoangkimvietnam
Trở về trang chính
Hoàng Kim, hoangkim, hoangkimvietnam, Ngọc Phương Nam, Chào ngày mới Thung dung, Dạy và học, Cây Lương thực, Tin Nông nghiệp Việt Nam, Food Crops, Cassava in Vietnam, Khát khao xanh, Dayvahoc, Học mỗi ngày, Danh nhân Việt , Food Crops News, Điểm chính, CNM365, Kim LinkedIn, KimTwitter, KimFaceBook Đọc lại và suy ngẫm, Việt Nam tổ quốc tôi, Tình yêu cuộc sống, Thơ cho con
No comments:
Post a Comment