CNM365 Chào ngày mới 15 tháng 3 Wikipedia Ngày này năm xưa Ngày Quyền người tiêu dùng Thế giới, ngày Quốc gia tại Hungary (1848). Năm 44 TCN – Nhà độc tài vĩnh viễn của Cộng hòa La Mã Julius Caesar bị hàng chục nguyên lão sát hại tại một buổi họp của Viện Nguyên lão. Năm 1831 – Tác gia người Pháp Victor Hugo xuất bản quyển tiểu thuyết lịch sử Nhà thờ Đức Bà Paris. Năm 1874 – Chính phủ Pháp và triều Nguyễn ký kết Hòa ước Giáp Tuất, công nhận chủ quyền vĩnh viễn của Pháp đối với Nam Kỳ. Năm 1892 – Doanh nhân người Anh John Houlding thành lập câu lạc bộ bóng đá Liverpool, tách ra từ câu lạc bộ bóng đá Everton. Năm 1917 – Sau Cách mạng Tháng Hai, Sa hoàng Nikolai II (hình) thoái vị, trở thành người cuối cùng nắm giữ các tước hiệu Sa hoàng Nga, Đại công tước Phần Lan và Quốc vương Ba Lan.
Nikolai II của Nga
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Mục từ "Nicholas II" dẫn đến bài này. Xin đọc về một vị Giáo hoàng tại Giáo hoàng Nicôla II.
Nikolai II Николай II |
||
---|---|---|
Chân dung của Nikolai II |
||
Hoàng đế, Sa hoàng nước Nga | ||
Trị vì | 1 tháng 11 năm 1894 – 15 tháng 3 năm 1917 | |
Đăng quang | 26 tháng 5 [cũ 14 tháng 5] năm 1896 | |
Tiền nhiệm | Aleksandr III | |
Kế nhiệm | Lật đổ chế độ Nga hoàng Trên thực tế: Georgy Yevgenyevich Lvov (Thủ tướng Chính phủ Lâm thời) |
|
Thông tin chung | ||
Hoàng hậu |
|
|
Tình nhân |
|
|
Hậu duệ |
|
|
Tước vị |
|
|
Hoàng tộc | Nhà Holstein-Gottorp-Romanov | |
Thân phụ | Aleksandr III của Nga | |
Thân mẫu | Dagmar của Đan Mạch | |
Sinh | 21 tháng 5, 1868 Hoàng Thôn, Sankt-Peterburg, Đế quốc Nga |
|
Mất | 17 tháng 7, 1918 (50 tuổi) Yekaterinburg, Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô Viết Liên Bang Nga |
|
An táng | Sankt-Peterburg, Liên bang Nga | |
Tôn giáo | Chính Thống giáo Đông phương | |
Hoàng đế Nikolai II trị quốc từ năm 1894 đến khi thoái vị vào ngày 15 tháng 3 năm 1917. Dưới triều ông, Nga - một trong những đế quốc hùng mạnh nhất thế giới thòi đó - đã lâm vào khủng hoảng kinh tế và quân sự. Những phê phán ông đã gọi ông là Nikolai Kẻ khát máu, vì vụ thảm kịch Khodynka, Ngày chủ nhật đẫm máu, và những vụ trấn áp người Xê-mít xảy ra dưới triều ông. Ông đã đẩy nước Nga vào cuộc chiến tranh với đế quốc Nhật Bản, mà Nga là đế quốc bại trận. Cũng chính ông là người đã ra lệnh tổng động viên quân đội Nga vào tháng 8 năm 1914, đưa Nga vào cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất. Trong cuộc đại chiến, quân Nga tham chiến phe Đồng Minh, cùng quân Anh, Pháp chống lại quân Đức, Áo-Hung.
Năm 1917, phong trào Cách mạng Tháng Hai thắng lợi, Nikolai II phải thoái vị. Đầu tiên, ông và gia đình bị giam lỏng tại Cung điện Aleksandr ở Hoàng Thôn, rồi được chuyển tới Dinh Tổng đốc tại Tobolsk, sau đó lại chuyển tới ngôi nhà Ipatiev tại Yekaterinburg. Đêm ngày 16 rạng sáng ngày 17 tháng 7 năm 1918, Nikolai II, Hoàng hậu, các công chúa và hoàng tử, quan Thái y, đầy tớ của Nga hoàng, nữ tỳ của Hoàng hậu cùng với đầu bếp của Hoàng gia cùng bị những người Bolshevik xử bắn trong một căn phòng. Năm 2000, Nikolai II cùng toàn bộ gia quyến được Giáo hội Chính Thống giáo Nga phong thánh.[4] Năm 2008, theo tuyên bố của Tòa án Tối cao Nga, Nga hoàng Nikolai II và gia đình là những "nạn nhân của các cuộc đàn áp chính trị và đã bị giết một cách bất hợp pháp".[5]
Mục lục
Tiểu sử
Nikolai Aleksandrovich Romanov là con của Nga hoàng Aleksandr III và hoàng hậu Maria Feodorovna của Nga, tức công chúa Dagmar của Đan Mạch. Ông bà nội của ông là Nga hoàng Aleksandr II và hoàng hậu Maria Alexandrovna của Nga, tức là Công chúa Marie xứ Hesse. Ông bà ngoại của ông là vua Christian IX của Đan Mạch và Công chúa Louise xứ Hesse-Kassel. Năm 1881, ông được phong làm Tsaverich, tức Hoàng thái tử.Những bức thư của Nikolai II sau khi vua Aleksandr III mất năm 1894 cho thấy ông vẫn lưu luyến vua cha. Thưở bé, ông thường ghen tỵ với sức khỏe của Aleksandr III, chẳng hạn như khi vua cha nâng được một tảng đá nặng 60 pao bằng một tay. Ông và người mẹ Maria Feodorovna rất yêu thương nhau, thường viết thư gửi cho nhau.[6] Nikolai II có ba người em trai (Alexander [1869-1870], Georgi [1871-1899], và Mikhail [1878-1918]) hai người em gái.
Do người em con chú của Aleksandr III, Đại Công tước Nikolai Nikolayevich, cũng có tên là Nikolai, vị Đại Công tước này được Hoàng gia gọi là "Nicholasha" để tránh nhầm lẫn với Nga hoàng tương lai. Thông qua mẹ ông, Nikolai II là cháu của một số vua chúa, trong số đó có George I của Hy Lạp, Frederick VIII của Đan Mạch, Hoàng hậu Alexandra của Anh và Vương phi Thyra xứ Hanover.
Nga hoàng Nikolai II, cùng với Hoàng đế Đức Wilhelm II, vua Anh George V đều là cháu của nữ hoàng Anh Victoria.[7] Nikolai II, Hoàng hậu Nga Alexandra, và Hoàng đế Đức Wilhelm II đều là anh em họ của vua Anh George V. Mẹ của Nikolai, Hoàng hậu Marie (Công chúa Dagmar của Đan Mạch), là chị của vợ vua Edward VII là Hoàng hậu Alexandra - mẹ của George V. Vợ Nikolai II là con gái của Công chúa Alice - con gái của nữ hoàng Anh Nữ hoàng Victoria, vì vậy bà cháu gọi vua Edward VII bằng bác (bên họ mẹ) và là em họ của Hoàng đế Wilhelm II; và cùng là hậu duệ trực tiếp của Nữ hoàng Victoria. Wilhelm II là con của Hoàng đế Đức Friedrich III và công chúa Vicky - con gái cả của nữ hoàng Victoria. Wilhelm II - anh họ của Hoàng hậu Nga Alexandra - và Nikolai II đều là con cháu của vua nước Phổ Friedrich Wilhelm III.
Hoàng thái tử nước Nga
Năm 13 tháng 3 năm 1881, ông trở thành Hoàng thái tử (Tsarevich) còn cha ông thì trở thành Nga hoàng Aleksandr III, sau khi ông nội Nikolai là Nga hoàng Aleksandr II bị tổ chức "Dân ý" ám sát. Ông và nhiều hoàng thân khác đã chứng kiến được sự kiện này khi đang ở Cung điện Mùa Đông tại kinh thành Sankt-Peterburg.[8] Vì lý do an toàn, Nga hoàng Aleksandr III và Hoàng gia thường sống ở Cung điện Gatchina phía ngoài Sankt-Peterburg, chứ không phải là Cung điện Mùa Đông.Một cuộc hành trình với những mục đích mang tính giáo dục là một phần quan trọng của việc dạy cho các hoàng thân Nga làm quen với hoạt động nhà nước. Năm 1890, Nga hoàng Aleksandr III tuyên bố thiết lập tuyến đường sắt xuyên Xibia. Thái tử Nikolai đã tham gia lễ khai mạc tuyến đường sắt trên Xibia, và từ nơi này, nhà vua hạ lệnh cho ông thực hiện chuyến hành trình khắp thế giới - mà người ta gọi là "Cuộc hành trình về phía Đông của Nikolai II". Năm đó ông đã 22 tuổi, mới hoàn thành khóa học tại Học viện sĩ quan cận vệ đã, và cũng đã hoàn tất chương trình đào tạo nhân văn của Đại học tổng hợp quốc gia. Bấy giờ, nước Nga đã làm chủ của một đội Hải quân hùng hậu. Vì thế, với chuyến du hành này Nikolai học được về công việc ngoại giao cũng như với sóng nước trên biển. Ông cùng đoàn tàu đã hành trình dọc bờ Đại Tây Dương qua Địa Trung Hải và Ấn Độ, tới nhiều hải cảng có tên tuổi ở Hy Lạp, Ấn Độ, Xiêm La,… Công tước Esper Ukhtomsky - người được Thái tử rất tin cậy - là người tư vấn cho Thái tử thực hiện chuyến Đông du trong những năm 1890 - 1891.[9] Đến ngày 28 tháng 3 năm 1891 Thái tử nước Nga đến cửa sông Đồng Nai, sau đó cập bến cảng Sài Gòn. Ngay trên bến cảng, Toàn quyền Đông Dương khi đó là Jules Georges Piquet cùng quan quân triều Nguyễn và Pháp đã tổ chức đón tiếp. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử một chính khách người Nga đến thăm Việt Nam - bấy giờ còn nằm dưới ách đô hộ của đế quốc Pháp.[10] Đến Nhật Bản, ông bị một người Nhật mưu sát hụt tại Otsu.
Trị vì
Tháng 5 năm 1896, sau khi vua cha Aleksandr III qua đời, Thái tử Nikolai lên nối ngôi. Giống như các vua đời trước, ông được xem là “đệ nhất tín đồ của Chính Thống giáo nước Nga”. Ông đã làm lễ đăng quang tại Đại giáo đường Upensky, trong điện Kremli. Khi đó, cho dù triều đình Nga đóng đô tại Sankt-Peterburg và Hoàng gia Nga ngụ tại Cung điện Mùa Đông, các Nga hoàng vẫn tổ chức lễ đăng quang tại Đại giáo đường Upensky (Cái chết của Đức Mẹ Đồng Trinh) ở Moskva, dưới sự chỉ đạo của Thượng phụ. Điều này thể hiện sự sùng Chính Thống giáo Đông phương đã lưu truyền qua các thế hệ Hoàng gia Nga.[11]Thời bấy giờ có nhà văn nổi tiếng Lev Nikolayevich Tolstoy (1828 - 1910) là người đã truyền bá tư tưởng cách mạng cho nhân dân Nga, đặc biệt là tầng lớp học sinh, thông qua thơ văn. Nhờ có nhà văn này mà trong đầu người Nga đã có tư tưởng cách mạng. Thấy vậy, Giáo hội Nga tố cáo Lev Nikolayevich Tolstoy tội tuyên truyền sai lệch và khai trừ nhà văn. Vài ba vạn học sinh thành phố Sankt-Peterburg tỏ ra bất bình, gây náo loạn vào năm 1901. Họ kiện lên Nga hoàng Nikolai II, cho rằng nhà văn L. N. Tolstoy bị oan. Nikolai II không đồng ý với họ, và truyền lệnh bắt họ phải im lặng. Ngày 17 tháng 3 năm 1901, học sinh Sankt-Peterburg bèn nổi dậy, cờ xí của họ toàn mang màu đỏ, ám chỉ rằng cách mạng không thể không đổ máu. Họ còn công bố một bản Tuyên ngôn rất dài, tố cáo Nikolai II và quyết định phải vùng dậy, lật đổ Hoàng gia và giành lấy quyền tự do. Cùng ngày, xảy ra xô xát giữa quân triều đình và các học sinh. Quân triều đình áp đảo các học sinh về trang bị và quan số. Vì vậy, quân triều đình đã dập tắt được cuộc loạn của học sinh. Hai bên đều thiệt hại nặng nề, tổ chức "Chữ thập đỏ" phái người đến giúp binh lính triều đình, chẳng khác nào kết quả của một cuộc chiến giữa hai đại đế quốc.[12]
Tuy thất bại, các lực lượng học sinh đã tập hợp lại, toan đấu tranh với triều đình thêm một lần nữa. Học sinh trú ẩn ở nhiều nơi, việc bắt và hành hình tất cả các học sinh là điều khó đối với triều đình Nikolai II, vì vậy Nga hoàng khó có thể mà dùng vũ lực để ổn định tình hình. Sau đó, học sinh còn gửi thư đe dọa đến các Bộ trưởng của vua Nikolai II. Nga hoàng đành phải chủ trì một cuộc họp trong cung, cho phép Tolstoy được phục hồi vai vế trong Giáo hội, và cũng hạ lệnh cho học sinh được miễn làm lính đồng thời thực hiện cải cách về chế độ trường đại học. Sự kiện này đã khiến cho lực lượng học sinh chấm dứt hoạt động. Thủ đô Sankt-Peterburg kết thúc cuộc náo loạn sau một tuần lễ.[12]
Triều đại ông chứng kiến một thời kì sóng gió trong lịch sử Nga.[11] Trong cuộc Chiến tranh Nga-Nhật (1904 - 1905), đế quốc Nga bại trận và mất nhiều đất. Ông còn tuyên chiến với Đức năm 1914, đẩy nhân dân Nga vào cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất và khiến cho nước Nga rơi vào tình trạng bi thảm. Triều đình Nga tỏ ra bất lực, không có có khả năng trị vì như trước nữa. Các phong trào Cách mạng liên tiếp nổ ra, tiêu biểu là Cách mạng Nga 1905.
Ngày 6 tháng 8 năm 1905, Nikolai II “Tuyên ngôn và đạo luật về việc thành lập Đuma Quốc gia”. Tầng lớp quý tộc, tư sản, trí thức và một số người đại diện nông dân giàu có chiếm đa số trong Đuma Quốc gia. Sau 12 năm hoạt động, Đuma Quốc gia Nga giải thể khi Cách mạng Tháng Hai 1917 bùng nổ.[13]
Năm 1917, ông bị hạ bệ trong cuộc Cách mạng Tháng Hai. Cuộc cách mạng tư sản này đã đánh đổ chế độ phong kiến lâu đời của nước Nga.[14] Theo quyết định của Xô Viết Ural,[15] ông bị xử bắn tại Yekaterinburg. Nikolai cùng vợ, con trai, bốn con gái, ngự y của Hoàng gia, đầy tớ của Nga hoàng, nữ tỳ của hoàng hậu và đầu bếp của Hoàng gia bị những người Bolshevik hành quyết trong một căn phòng vào đêm ngày 16 rạng sáng ngày 17 tháng 7 năm 1918.
Quan hệ với Phật giáo
Nga hoàng Nikolai II là một tín đồ ngoan đạo của Chính Thống giáo Đông phương, thậm chí được Giáo hội Chính Thống giáo Nga tôn thánh sau khi bị sát hại. Tuy nhiên, theo Minh Thạnh, ông là “một nhân vật mà chúng ta không thể không nhắc đến khi tìm hiểu về Phật giáo Nga”, “xứng đáng ghi nhận như là một vị vua có phần đóng góp cho sự phát triển của mình cho sự phát triển của Phật giáo”. Thật vậy, dưới triều đại ông, đạo Phật trên toàn nước Nga, đạt được bước phát triển quan trọng.[11]Là một Nga hoàng cầm quyền chuyên chính của đế quốc Nga, ông kế thừa quan điểm về một nước Nga có lãnh thổ ở cả châu Á lẫn châu Âu, một đất nước đa sắc tộc, đa tôn giáo. Với quan điểm này, dĩ nhiên là ông tôn trọng đạo Phật - được xem là “tôn giáo tượng trưng cho nền văn phương Đông”.[11]
Dưới triều vua Aleksandr III, Vương công Esper Ukhtomsky là người được Nikolai rất tin tưởng. Esper Ukhtomsky - vốn am hiểu và ủng hộ sự phát triển của đạo Phật - đã đến xứ Buryat, một vùng đất theo Phật giáo nằm trong đế quốc Nga.
Năm 1905, ông đã phong chức Đại sứ Nga ở Bắc Kinh cho Pokotilov - một nhà phương Đông học, cũng là bạn và người có cùng quan điểm với Vương công Ukhtomsky.
Di sản
Năm 2008, kênh truyền hình Rossia cùng với Viện Lịch sử Nga thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Nga và Quỹ ý kiến xã hội đã tổ chức của cuộc thăm dò dư luận xã hội mang tên "Tên của nước Nga - Sự lựa chọn lịch sử năm 2008". Tính đến ngày 14 tháng 7 năm đó, trên website cuộc cuộc tham dò này, nhân vật lịch sử đứng đầu trong số những người được nhân dân Nga xem là tiêu biểu cho nước Nga là Iosif Vissarionovich Stalin - một nhà lãnh đạo Liên bang Xô viết. Những nhân vật lịch sử được nhiều người bình chọn nhất sau Stalin là Nga hoàng Nikolai II và nhà lãnh đạo Vladimir Ilyich Lenin.[16]Con cái
Sau đây là những người con của Nga hoàng Nikolai II và Hoàng hậu Alexandra:Chân dung | Tên | Sinh | Mất | Chú thích |
---|---|---|---|---|
Nữ Đại Công tước Olga Nikolaevna của Nga | 15 tháng 11 [cũ 3 tháng 11] năm 1895 | 17 tháng 7 năm 1918 | bị những người Bolshevik bắn ở Yekaterinburg | |
Nữ Đại Công tước Tatiana Nikolaevna của Nga | 10 tháng 6 [cũ 29 tháng 5] năm 1897 | 17 tháng 7 năm 1918 | bị những người Bolshevik bắn ở Yekaterinburg | |
Nữ Đại Công tước Maria Nikolaevna của Nga | 26 tháng 6 [cũ 14 tháng 6] năm 1899 | 17 tháng 7 năm 1918 | bị những người Bolshevik bắn ở Yekaterinburg | |
Nữ Đại Công tước Anastasia Nikolaevna của Nga | 18 tháng 6 [cũ 5 tháng 6] năm 1901 | 17 tháng 7 năm 1918 | bị những người Bolshevik bắn ở Yekaterinburg | |
Thái tử Aleksei Nikolayevich | 12 tháng 8 [cũ 30 tháng 7] năm 1904 | 17 tháng 7 1918 | bị những người Bolshevik bắn ở Yekaterinburg |
Xem thêm
Chú thích
- ^ Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga năm 1917 (Nguyễn Anh Thái (chủ biên) - Lịch sử Thế giới hiện đại, NxbGD - 2009)
- ^ Năm 1831, Nga hoàng Nikolai I đã bị phế truất khỏi vương vị Ba Lan, nhưng triều đình Nga đã sớm đoạt lại quyền kiểm soát đất nước này làm thành một phần của Nga và truất phế vua riêng của Ba Lan. Sau đó, các Nga hoàng tiếp tục sử dụng vương hiệu này. Xem Khởi nghĩa tháng 11.
- ^ Danh hiệu đầy đủ của Nikolai II là Божьей поспешествующей милостью, Мы, Николай Второй, Император и Самодержец Всероссийский, Московский, Киевский, Владимирский, Новгородский; Царь Казанский, Царь Астраханский, Царь Польский, Царь Сибирский, Царь Херсонеса Таврического, Царь Грузинский; Государь Псковский и Великий Князь Смоленский, Литовский, Волынский, Подольский и Финляндский; Князь Эстляндский, Лифляндский, Курляндский и Семигальский, Самогитский, Белостокский, Корельский, Тверский, Югорский, Пермский, Вятский, Болгарский и иных; Государь и Великий Князь Новагорода низовския земли, Черниговский, Рязанский, Полотский, Ростовский, Ярославский, Белозерский, Удорский, Обдорский, Кондийский, Витебский, Мстиславский и всея северныя страны Повелитель; и Государь Иверския, Карталинския и Кабардинския земли и области Арменския; Черкасских и Горских Князей и иных Наследный Государь и Обладатель, Государь Туркестанский; Наследник Норвежский, Герцог Шлезвиг-Голштейнский, Стормарнский, Дитмарсенский и Ольденбургский и прочая, и прочая, и прочая».
- ^ Tìm thấy hài cốt con trai Sa hoàng?
- ^ “Nga: Sa hoàng Nicholas Đệ nhị là nạn nhân của các cuộc đàn áp chính trị”. 14 thàng1, 2010. Truy cập 25 thàng 12, 2012.
- ^ Book - The letters of Tsar Nicholas and Empress Marie : being confidential correspondence between Nicholas II, last of the Tsars, and his mother, Dowager Empress Maria Feodorovna / edited by Edward J. Bing - London : Nicholson and Watson, 1937.
- ^ Những sự thật kỳ lạ có thể bạn không biết (2)
- ^ Massie, R, Nicholas and Alexandra, p.38
- ^ “Sa hoàng Nicholas II và Phật giáo Nga”.
- ^ Bản mẫu:Chú thích bào
- ^ a b c d Thư Viện Hoa Sen
- ^ a b Bản mẫu:Chú thích bào
- ^ Mục từ Viện Đuma Quốc gia Nga trong Bách khoa toàn thư Việt Nam
- ^ “Sở Khoa học Đồng Tháp - 91 năm Cách mạng Tháng Mười Nga”.
- ^ Mục từ Nikôlai II trong Từ điển Bách khoa Toàn thư Việt Nam
- ^ Những biểu tượng quốc gia
Tài liệu tham khảo
- The Sokolov Report, in Victor Alexandrov, "The End of The Romanovs", London: 1966
- Boris Antonov, Russian Czars, St.Petersburg, Ivan Fiodorov Art Publishers (ISBN 5-93893-109-6)
- Michael M. Baden, Chapter III: Time of Death and Changes after Death. Part 4: Exhumation, In: Spitz, W.U. & Spitz, D.J. (eds): Spitz and Fisher’s Medicolegal Investigation of Death. Guideline for the Application of Pathology to Crime Investigations (Fourth edition). Charles C. Thomas, pp.: 174-183, Springfield, Illinois: 2006
- Paul Grabbe, "The Private World of the Last Czar" New York: 1985
- Ferro, Marc, Nicholas II: Last of the Czars. New York: Oxford University Press (USA), 1993 (hardcover, ISBN 0-19-508192-7); 1995 (paperback, ISBN 0-19-509382-8)
- Genrikh Ioffe, Revoliutsiia i sud'ba Romanovykh Moscow: Respublika, 1992 (tiếng Nga)
- Coryne Hall & John Van der Kiste, Once A Grand Duchess : Xenia, Sister of Nicholas II, Phoenix Mill, Sutton Publishing Ltd., 2002 (hardcover, ISBN 0-7509-2749-6)
- Greg King, The Court of the Last Czar: Pomp, Power and Pageantry in the Reign of Nicholas II 2006
- Greg King and Penny Wilson, "The Fate of the Romanovs" 2003
- Dominic Lieven, Nicholas II: Emperor of All the Russias. 1993.
- Andrei Maylunas and Sergei Mironenko, A Lifelong Passion: Nicholas & Alexandra 1999
- Marvin Lyons, Nicholas II The Last Czar, London, Routledge & Kegan Paul, 1974 (hardcover, ISBN 0-7100-7802-1)
- Shay McNeal, "The Secret Plot to Save the Czar" 2001
- Robert K. Massie, Nicholas and Alexandra 1967
- Robert K. Massie, The Romanovs. The Final Chapter 1995, ISBN 0-394-58048-6
- Bernard Pares, "The Fall of the Russian Monarchy" London: 1939, reprint London: 1988
- John Perry [cần làm rõ nghĩa ] and Konstantin Pleshakov, The Flight of the Romanovs. 1999.
- Edvard Radzinsky, The Last Tsar: The Life and Death of Nicholas II (1992) ISBN 0-385-42371-3
- Mark D. Steinberg and Vladimir M. Khrustalev, The Fall of the Romanovs: Political Dreams and Personal Struggles in a Time of Revolution, New Haven: Yale University Press, 1995.
- Anthony Summers and Tom Mangold, The File on the Czar. 1976.
- Richard Tames, Last of the Czars, London, Pan Books Ltd, 1972
- Andrew M. Verner, The Crisis of the Russian Autocracy: Nicholas II and the 1905 Revolution 1990
- Ian Vorres, The Last Grand Duchess, London, Finedawn Publishers, 1985 (hardcover)
- Richard Wortman, Scenarios of Power: Myth and Ceremony in Russian Monarchy, vol. 2 2000
- Prince Felix Yussupov, Lost Splendour
- Elisabeth Heresch, "Nikolaus II. Feigheit, Lüge und Verrat". F.A.Herbig Verlagsbuchhandlung, München, 1992
- The Complete Wartime Correspondence of Czar Nicholas II and the Empress Alexandra, April 1914 – March 1917. Edited by Joseph T. Furhmann Fuhrmann. Westport, Conn. and London: 1999
- Letters of Czar Nicholas and Empress Marie Ed. Edward J. Bing. London: 1937
- Letters of the Czar to the Czaritsa, 1914–1917 Trans. from Russian translations from the original English. E. L. Hynes. London and New York: 1929.
- Nicky-Sunny Letters: correspondence of the Czar and Czaritsa, 1914–1917. Hattiesburg, Miss: 1970.
- The Secret Letters of the Last Czar: Being the Confidential Correspondence between Nicholas II and his Mother, Dowager Empress Maria Feodorovna. Ed. Edward J. Bing. New York and Toronto: 1938
- Willy-Nicky Correspondence: Being the Secret and Intimate Telegrams Exchanged Between the Kaiser and the Czar. Ed. Herman Bernstein. New York: 1917.
- Paul Benckendorff, Last Days at Czarskoe Selo. London: 1927
- Sophie Buxhoeveden, The Life and Tragedy of Alexandra Fedorovna, Empress of Russia: A Biography London: 1928
- Pierre Gilliard, Thirteen Years at the Russian Court New York: 1921
- A. A. Mossolov (Mosolov), At the Court of the Last Czar London: 1935
- Anna Vyrubova, Memories of the Russian Court London: 1923
- A.Yarmolinsky, editor, "The Memoirs of Count Witte" New York & Toronto: 1921
- Sir George Buchanan (British Ambassador) My Mission to Russia & Other Diplomatic Memories (2 vols, Cassell, 1923)
- Meriel Buchanan, Dissolution of an Empire, Cassell, 1932
- Gleb Botkin, The Real Romanovs, Fleming H. Revell Co, 1931
- Mark D. Steinberg and Vladimir M. Khrustalev, The Fall of the Romanovs: Political Dreams and Personal Struggles in a Time of Revolution. New Haven: Yale University Press, 1995
- “The Personality Of The Czar: An Explanation, By A Russian Official Of High Authority”. The World's Work: A History of Our Time VIII: 5414–5430. October năm 1904.
Liên kết ngoài
Wikimedia Commons có thêm thể loại hình ảnh và tài liệu về Nikolai II của Nga |
- The Execution of Czar Nicholas II, 1918, EyeWitness to History.
- Brief Summary of Czar
- Abdication Proclamation, 2 March 1917 (the signature was put in pencil) (translation included)
- Alexander Palace Time Machine
- Nicholas and Alexandra Exhibition
- Frozentears.org A Media Library to Nicholas II and his Family.
- Scientists Reopen Czar Mystery
- Ipatiev House — Romanov Memorial An immensely detailed site on the historical context, circumstances and drama surrounding the Romanov's execution.
- (tiếng Nga) The Murder of Russia's Imperial Family, Nicolay Sokolov. Investigation of execution of the Romanov Imperial Family in 1918.
- (tiếng Nga) Nikolay II — Life and Death, Edvard Radzinski. Later published in English as The Last Czar: the Life and Death of Nicholas II.
- New Russian Martyrs. Czar Nicholas and His Family. A story of life, canonization. Photoalbum.
- Russian History Magazine Articles about the Romanovs from Atlantis magazine.
- Russia's Last Czar Declared Victim of Repression - October 2008 (TIME magazine)
Nikolai II của Nga
Nhánh thứ của Nhà Oldenburg
Sinh: 18 tháng 5 1868 Mất: 17 tháng 7 1918 |
||
Hiệu | ||
---|---|---|
Tiền vị: Aleksandr III |
Hoàng đế/Sa hoàng nước Nga 1 tháng 11 năm 1894 – 15 tháng 3 năm 1917 |
Chế độ Nga hoàng bị phế bỏ |
Vua Ba Lan 1 tháng 11 năm 1894 – 15 tháng 3 năm 1917 |
||
Đại công tước xứ Phần Lan 1 tháng 11 năm 1894 – 15 tháng 3 năm 1917 |
Trống ngôi
Danh hiệu được kế thừa bởi
Vương công Frederick Charles xứ Hessenhư là King-elect |
|
Russian royalty | ||
Tiền nhiệm: Aleksandr III của Nga |
Thái tử nước Nga 1881–1894 |
Kế nhiệm: George của Nga |
Thể loại:
- Bài có liên kết cần khu biệt nghĩa
- Sinh 1868
- Mất 1918
- Thống chế Anh
- Nhà Holstein-Gottorp-Romanov
- Hiệp sĩ Garter
- Hiệp sĩ Golden Fleece
- Người Sankt-Peterburg
- Vua Phần Lan
- Hoàng đế Nga
- Thánh Nga
- Người Nga trong Chiến tranh thế giới thứ nhất
- Thánh Ki-tô giáo thế kỉ 20
- Người thời Edward
- Tỷ phú Nga
- Vua Ba Lan
Hòa ước Giáp Tuất (1874)
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Hoà ước Giáp Tuất 1874 là bản hiệp định thứ hai giữa triều Nguyễn và Pháp, được ký vào ngày 15 tháng 3 năm 1874 với đại diện của triều Nguyễn là Lê Tuấn - Chánh sứ toàn quyền đại thần, Nguyễn Văn Tường - Phó sứ toàn quyền đại thần và đại diện của Pháp là Dupré - Toàn quyền đại thần, Thống đốc Nam Kỳ. Hoà ước gồm có 22 điều khoản với nội dung chính là thay thế bản Hòa ước Nhâm Tuất 1862,
công nhận chủ quyền vĩnh viễn của Pháp ở Nam Kỳ, lệ thuộc về chủ quyền
ngoại giao, mở cửa cho Pháp tự do buôn bán tại các cảng biển và trên sông Hồng cùng tự do truyền đạo.
Sau khi củng cố Nam Kỳ, nhân sự rối ren ở Bắc Kỳ, Pháp đã quyết định từng bước tiến ra với mục đích chiếm lấy Bắc Kỳ. Để mục đích được thuận lợi, Pháp ra những yêu sách rất ngang ngược với triều đình Huế về các quyền lợi ở Bắc Kỳ rồi đưa quân ra và chiếm lần lượt các thành Hà Nội, Nam Định, Ninh Bình, Hải Dương.
Tình hình diễn ra ở Bắc Kỳ cũng như sự chiếm đóng các tỉnh Tây Nam Kỳ dẫn tới vi phạm vào bản Hòa ước Nhâm Tuất 1862 mà hai bên đã ký, và dẫn tới việc Pháp thay thế hiệp ước mới bằng bản Hoà ước Giáp Tuất 1874 có lợi hơn cho Pháp .
Trước cái chết của F. Garnier, phía Pháp đồng ý nghị hòa. Nguyễn Văn Tường thay mặt cho triều đình Huế ký hiệp ước Giáp Tuất (1874). Theo đó thì có hai điểm chính:
Phó đề đốc Dupré, Lê Tuấn và Nguyễn Văn Tường
Nguyên nhân ký hoà ước
Sau khi ký Hoà ước Nhâm Tuất 1862, Pháp chiếm đóng và cai trị 3 tỉnh miền Đông Nam Kỳ và quyết định xâm chiếm và lấy nốt 3 tỉnh miền Tây còn lại của Nam Kỳ, đến năm 1867 họ đã lấy nốt thành công 3 tỉnh còn lại sau khi Kinh lược sứ Phan Thanh Giản biết không chống đỡ nổi đã quyết định giao các thành cho PhápSau khi củng cố Nam Kỳ, nhân sự rối ren ở Bắc Kỳ, Pháp đã quyết định từng bước tiến ra với mục đích chiếm lấy Bắc Kỳ. Để mục đích được thuận lợi, Pháp ra những yêu sách rất ngang ngược với triều đình Huế về các quyền lợi ở Bắc Kỳ rồi đưa quân ra và chiếm lần lượt các thành Hà Nội, Nam Định, Ninh Bình, Hải Dương.
Tình hình diễn ra ở Bắc Kỳ cũng như sự chiếm đóng các tỉnh Tây Nam Kỳ dẫn tới vi phạm vào bản Hòa ước Nhâm Tuất 1862 mà hai bên đã ký, và dẫn tới việc Pháp thay thế hiệp ước mới bằng bản Hoà ước Giáp Tuất 1874 có lợi hơn cho Pháp .
Tình hình
Francis Garnier lúc bấy giờ đã chiếm được thành Hà Nội nhưng lực lượng quân sự của triều đình Huế vẫn còn, do Hoàng Tá Viêm cầm đầu. Quân của Hoàng Tá Viêm phối hợp với quân Cờ Đen của Lưu Vĩnh Phúc vây Hà Nội. Garnier đem quân đi đánh thì bị phục kích giết chết tại Cầu Giấy.Trước cái chết của F. Garnier, phía Pháp đồng ý nghị hòa. Nguyễn Văn Tường thay mặt cho triều đình Huế ký hiệp ước Giáp Tuất (1874). Theo đó thì có hai điểm chính:
- Triều đình công nhận Nam Kỳ là thuộc địa của Pháp;
- Pháp đồng ý trao trả Hà Nội và các tỉnh đã bị chiếm ở Bắc Kỳ cho triều đình Huế.
Nội dung
- Điều 1: Sẽ có hòa bình, hữu nghị và bền vững giữa nước Pháp và Vương Quốc An Nam.
- Điều 2: Tổng Thống Cộng hòa Pháp quốc thừa nhận quyền lực của vua nước An Nam và quyền độc lập hoàn toàn đối với bất kỳ một thế lực ngoại bang nào, tuyên hứa viện trợ, giúp đỡ và là chỗ nương tựa cần thiết của nhà vua nếu được yêu cầu mà không phải chịu một phí tổn nào, để duy trì nền hòa bình trên khắp các vùng đất nước, để chống trả bất cứ một sự tấn công nào và để dẹp bỏ tình trạng cướp bóc đang quấy phá một phần vùng biển của Vương quốc.
- Điều 3: Để đáp lại sự bảo hộ này đức Hoàng thượng - Vua nước An Nam thỏa thuận phù hợp chính sách ngoại giao của mình với chính sách ngoại giao của nước Pháp và không có gì thay đổi với những mối liên hệ ngoại giao hiện có của đức vua. Sự giao ước chính trị này không áp dụng vào bản Thương ước. Tuy nhiên, trong bất cứ trường hợp nào, đức Hoàng thượng vua nước An Nam có thể ký kết Thương ước với bất cứ một nước nào khác không phù hợp với Thương ước đã được ký kết giữa nước Pháp và Vương Quốc An Nam, mà không báo trước với Chính Phủ của nước Pháp.
- Điều 4: Tổng Thống Cộng Hòa Pháp quốc cam kết tặng hoàng thượng Vua nước An Nam:
- Năm chiếc tàu chạy máy hơi nước tổng cộng là 500 mã lực, trong tình trạng toàn hảo về mặt máy móc và bồn đun nước sôi, cùng với súng ống đạn dược và đồ phụ tùng đúng như chế độ quân sự quy định;
- Một trăm khẩu trọng pháo loại 70 ly và và 160 ly, với 200 viên đạn cho mỗi khẩu súng, một ngàn khẩu súng và 500 ngàn viên đạn. Tàu và súng ống đạn dược sẽ được chở tới Nam Kỳ và chuyển giao trong thòi hạn tối đa là 1 năm kể từ ngày trao đổi hòa ước đã được hai phía chuẩn phê;
- Những huấn luyện viên quân sự và hải quân đủ số cần thiết để tái lập quân đội và hạm đội của hoàng thượng;
- Những kỹ sư và trưởng xưởng để điều hành những công trình do đức Hoàng thượng đề xướng;
- Những chuyên viên tài chánh để tổ chức các cơ cấu thuế khóa và hải quan trong Vương quốc;
- Những giáo sư để thành lập một trường đại học ở Huế. Ngài tổng thống cũng cam kết cung ứng cho đức Vua những tàu chiến, súng óng đạn dược cần thiết.
- Điều 5: Đức Hoàng thượng Vua nước An Nam công nhận chủ quyền toàn vẹn của nước Pháp trên các vùng lãnh thổ do nớc Pháp hiện đang chiếm giữ và bao gồm trong trong các ranh giới như sau:
- Điều 6: Nước Pháp miễn cho đức Vua không phải trả những phần tiền chiến phí cũ còn thiếu.
- Điều 7: Đức Hoàng thượng cam kết một cách chính thức, qua trung gian chuyển giao của chính phủ Pháp, trả nợ số tiền chiến phí còn thiếu nước Tây Ban Nha là một triệu đồng đô la - hối xuất 0.72 lượng (bạc) cho mỗi đô la- và hoàn trả số nợ nầy bằng cách lấy phân nửa số thu nhập các thuế quan đánh trên bất cứ mặt hàng hóa nào trên các bến cảng được mở ra cho Đức Hoàng thượng cam kết một cách chính thức, qua trung gian chuyển giao của chính phủ Pháp, trả nợ số tiền chiến phí còn thiếu nước Tây Ban Nha là một triệu đồng đô la - hối xuất 0.72 lượng (bạc) cho mỗi đô la- và hoàn trả số nợ nầy bằng cách lấy phân nửa số thu nhập các thuế quan đánh trên bấu mặt hàng hóa nào trên các bến cảng được mở ra cho những người Âu, Mỹ. Số tiền thâu được mỗi năm nộp vào Kho bạc ở Sài Gòn để trả cho chính phủ Tây Ban Nha, lập biên nhận gởi cho chính phủ An Nam.
- Điều 8: Tổng thống Cộng Hòa Pháp và Hoàng thượng đức Vua ban bố đại xá trọn vẹn và giải trừ tất cả mọi sai áp cầm giữ trên các tài sản của những công dân nước mình từ trước cho đến khi hai bên ký kết hòa ước vì họ có dính líu hợp tác với phía bên nầy hay phía bên kia.
- Điều 9: Nhận biết rằng đạo Gia tô truyền dạy con người theo đàng lành, Hoàng thượng đức Vua từ bỏ và chống lại mọi sự ngăm cấm nhằm mục đích chống đạo này và cho phép thần dân của Hoàng thượng theo đạo và truyền đạo một cách tự do.
- Điều 10: Triều đình An Nam có thể mở một trường cao đẳng ở Sài Gòn đặt dưới quyền giám thị của giám đốc Nha Nội Vụ và chương trình dạy học ở trường ấy không có điều gì đi ngược với đạo lý và sự thi hành quyền lực của người Pháp được mang ra giảng dạy. Tự do tín ngưỡng được áp dụng nơi trường học đó.
- Điều 11: Triều đình An Nam thỏa thuận mở các thương cảng ở Thị Nại, trong tỉnh Bình Định, ở Ninh Hải trong tỉnh Hải Dương, tỉnh thành Hà Nội, và đường thủy vận sông Nhỉ Hà từ ngoài biển lên tới tỉnh Vân Nam.
- Điều 12: Người Pháp hay người Pháp gốc An Nam và những người ngoại quốc nói chung nếu tuân hành luật pháp của xứ sở thì có thể gây dựng, sở hữu và tự quyết định một cách tự do đối với tất cả những công cuộc làm ăn buôn bán và kỹ nghệ nơi các tỉnh thành đã được đề cặp ở trên. Chính phủ của hoàng thượng sẽ tùy theo trường hợp mà cắt đặt đất đai cần thiết cho công cuộc thiết đặt cơ sở của họ.
- Điều 13: Tại mỗi cửa thương khẩu đã được mở, nước Pháp sẽ cử nhiệm một toà Lãnh sự hoặc một Cơ quan Trợ tá có thẩm quyền đầy đủ với thành phần nhân sự không quá 100 người, để gìn giữ an ninh và bảo vệ uy quyền của toà lãnh sự, để thi hành nhiệm vụ cảnh sát đối với những người ngoại quốc cho đến khi nào tất cả mọi lo âu vê mặt nầy không còn nữa nhờ ở việc thiết đặt các mối liên hệ tốt đẹp qua sự thi hành Hòa ước một cách trung chính.
- Điều 14: Về phía thần dân của Hoàng thượng, họ có thể tự do lưu thông, cư trú, sở hữu và buôn bán ở nước Pháp và tại những lãnh thổ thuộc địa của Pháp đúng theo luật lệ. Để bảo đảm cho họ được che chở bảo vệ, Hoàng Thượng có thể tùy ý cắt cử những những nhân viên của tới cư trú ở các thương cảng hay tỉnh thành do Hoàng Thượng chọn lựa.
- Điều 15: Công dân Pháp, Âu Châu, Nam Kỳ Hạ hay những công dân ngoại quốc khác muốn sinh sống ở tại các vùng chọn lựa vừa kể ở trên thì các đương sự phải đăng ký tại cơ quan Trú Sứ Pháp để nơi đây thông báo chính quyền sở tại.
- Điều 16: Tất cả những việc tranh tụng giữa những công dân Pháp với nhau hoặc giữa người Pháp với người ngoại quốc khác sẽ được phân xử bởi trú sứ Pháp.
- Điều 17: Những vụ phạm pháp đại hình hay tiểu hình của những người Pháp hay của người ngoại quốc xảy ra trên lãnh thổ nước An Nam phải được trình báo và phán xử bởi các tòa án có thẩm quyền ở Sài Gòn. Khi có sự yêu cầu của viên Trú sứ Pháp, các chức quyền địa phương phi dùng mọi nõ lực để truy bắt tên hoặc bọn tội phạm và giải giao đến viên Trú sứ..
- Điều 18: Khi có kẻ bất lương phá rối hoặc cướp giật trên phần lãnh thổ của Pháp rồi chạy trốn sang sang lãnh thổ của nước An Nam thì chức quyền địa phương khi được thông báo phải gắng sức truy lùng bắt kẻ phạm pháp để giải giao cho chức quyền Pháp.
- Điều 19: Trong trường hợp một người dân của nước Pháp hay của ngoại quốc qua đời trên lãnh thổ của nước An Nam hoặc là một người dân của nước An Nam qua đời trên lãnh thổ của Pháp thì tài sản của người quá cố sẽ được giao trả cho những người thừa kế của họ; nếu những người thừa kế vắng mặt thì viên Trú Sứ sẽ có nhiệm vụ gọi những người thừa kế luật định để chuyển giao.
- Điều 20: Để bảo đảm và tạo điều kiện dễ dàng cho việc thi hành các điều khoản và những quy định trên bản hiệp ước nầy, một năm sau kể từ ngày ký chuẩn phê, ngài Tổng Thống Cộng Hoà Pháp Quốc sẽ bổ nhiệm một viên Trú Sứ ngang hàng với một quan Thượng Thư bên cạnh hoàng Thượng đức Vua An Nam. Viên Trú Sứ có nhiệm vụ bảo toàn mối liên lạc hữu nghị, giữa Các Thành Viên Cao Cấp của hai bên đối ước và giám sát việc thi hành theo lương tâm các điều khoản của bản Hòa Ước.
- Điều 21: Hòa Ước nầy thay thế Hòa Ước năm 1862, và chính phủ Pháp có trách nhiệm tìm kiếm sự đồng thuận của chính phủ Tây Ban Nha. Trong trường hợp chính phủ Tây Ban Nha không chấp nhận những sự thay đổi để thay thế Hòa Ước 1862 thì Hòa Ước nầy chỉ có hiệu lực giữa nước Pháp và nước An Nam mà thôi, và những điều ước cũ có liên hệ tới Tây Ban Nha vẫn còn hiệu lực chấp hành. Trong trường nầy, nước Pháp sẽ đảm nhận việc trả tiền bồi thường chiến phí và sẽ thay thế vai trò chủ nợ của Tây Ban Nha đối với con nợ là nước An Nam để được hoàn trả đúng theo những quy định nơi điều thứ 7 của hoà ước hiện tại.
- Điều 22: Hoà ước nầy được thực hiện một cách vĩnh viễn, sẽ được chuẩn phê và nghi thức chuẩn phê sẽ được tổ chức và trao đổi tại Huế, trong vòng thời hạn một năm hoặc sớm hơn nếu có thể được. Hòa Ước sẽ được phát hành và có hiệu lực kể từ ngay sau khi trao đổi. Bởi các lẽ ấy, các quan khâm sai đã lần lược ấn ký vào bản Hòa Ước nầy.
Phó đề đốc Dupré, Lê Tuấn và Nguyễn Văn Tường
Tham khảo
- Bang giao Đại Việt - triều Nguyễn, NXB Văn hoá Thông tin 2005
Xem thêm
|
Thể loại:
Video yêu thích
http://www.youtube.com/user/hoangkimvietnam
Trở về trang chính
Hoàng Kim, hoangkim, hoangkimvietnam, Ngọc Phương Nam, Chào ngày mới Thung dung, Dạy và học, Cây Lương thực, Tin Nông nghiệp Việt Nam, Food Crops, Cassava in Vietnam, Khát khao xanh, Dayvahoc, Học mỗi ngày, Danh nhân Việt , Food Crops News, Điểm chính, CNM365, Kim LinkedIn, KimTwitter, KimFaceBook Đọc lại và suy ngẫm, Việt Nam tổ quốc tôi, Tình yêu cuộc sống, Thơ cho con
Video yêu thích
http://www.youtube.com/user/hoangkimvietnam
Trở về trang chính
Hoàng Kim, hoangkim, hoangkimvietnam, Ngọc Phương Nam, Chào ngày mới Thung dung, Dạy và học, Cây Lương thực, Tin Nông nghiệp Việt Nam, Food Crops, Cassava in Vietnam, Khát khao xanh, Dayvahoc, Học mỗi ngày, Danh nhân Việt , Food Crops News, Điểm chính, CNM365, Kim LinkedIn, KimTwitter, KimFaceBook Đọc lại và suy ngẫm, Việt Nam tổ quốc tôi, Tình yêu cuộc sống, Thơ cho con
No comments:
Post a Comment