CNM365 Chào ngày mới 2 tháng 3 Wikipedia Ngày này năm xưa Ngày Nông dân tại Myanmar, ngày Texas độc lập tại Texas. Năm 1855 – Sa hoàng Nikolai I của Nga qua đời, Hoàng thái tử Aleksandr (hình) nối ngôi hoàng đế, bắt đầu cai trị Đế quốc Nga. Năm 1919 – Các đại biểu cộng sản, cách mạng xã hội, công đoàn họp tại Moskva để thành lập Quốc tế thứ ba. Năm 1939 – Hồng y người Ý Eugenio Pacelli được bầu làm giáo hoàng trong Mật nghị Hồng y, lấy tên thánh Piô XII. Năm 1955 – Quốc vương Campuchia Norodom Sihanouk thoái vị, nhường lại ngôi vương cho phụ thân là Norodom Suramarit. Năm 1992 – Armenia, Azerbaijan, Kazakhstan, Kyrgyzstan, Moldova, San Marino, Tajikistan, Turkmenistan và Uzbekistan gia nhập Liên Hiệp Quốc.
Aleksandr II của Nga
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Để biết về những người cùng tên, xem Alexander II.
Aleksandr II Александр II |
||
---|---|---|
Nga hoàng Aleksandr II qua nét vẽ của Nikolai Yegorovich Sverchkov (1817 - 1898). |
||
Hoàng đế, Sa hoàng nước Nga | ||
Trị vì | 2 tháng 3 năm 1855 – 13 tháng 3 năm 1881 | |
Đăng quang | 7 tháng 9 năm 1855 | |
Tiền nhiệm | Nikolai I | |
Kế nhiệm | Aleksandr III | |
Thông tin chung | ||
Hoàng hậu |
|
|
Tình nhân |
|
|
Hậu duệ |
|
|
Tên đầy đủ | Aleksandr Nikolayevich (Александр Николаевич) | |
Tước vị |
|
|
Hoàng tộc | Nhà Holstein-Gottorp-Romanov | |
Thân phụ | Nikolai I | |
Thân mẫu | Charlotte của Phổ | |
Sinh | 29 tháng 4, 1818 Moskva, Nga |
|
Mất | 13 tháng 3, 1881 (62 tuổi) Sankt-Peterburg, Nga |
|
An táng | Đại giáo đường Thánh Phêrô và Phaolô Pháo đài Thánh Phêrô và Phaolô, Sankt-Peterburg |
|
Tôn giáo | Chính Thống giáo Đông phương | |
Là con của Nga hoàng Nikolai I, ông từng là một học sinh của nhà thơ Vasily Andreyevich Zhukovsky.[5] Nikolai mất năm 1855 và Aleksandr II (36 tuổi[3]) lên ngôi giữa lúc nước Nga gặp bất lợi trong chiến tranh Krym. Thất bại thảm hại của quân Nga trong chiến tranh Krym và nền giáo dục theo xu hướng chủ nghĩa tự do của ông đã thúc đẩy ông thực hiện một cuộc cải cách quy mô lớn. Ông đã thực hiện cuộc cải cách nổi tiếng nhất với "Sắc lệnh giải phóng nông nô" năm 1861,[6] (trong khi chế độ nông nô vốn đã suy sụp kể từ cuộc khởi nghĩa trong các năm 1773 - 1775).[7] theo đó những người nông dân có thể mua đất của địa chủ.[8] Cuộc cải cách của Nga hoàng đã được ủng hộ bởi em trai của ông là Đại Công tước Konstantin Nikolayevich, cùng với những nhân vật khác như J. I. Rostovtsev, D. A. Milyutin, N. A. Milyutin, J. F. Samarin,... Ngoài ra, ông còn đề xướng những cải cách về Đại học (1863), pháp luật (1864), báo chí (1865), quân sự (1870), hay quyền tự trị của chính quyền các tỉnh (1864) và các thành phố (1870).[9] Những cải cách tiến bộ[10] của ông đã thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế Nga theo đường lối chủ nghĩa tư bản.[11]
Về mặt đối ngoại, triều đình Aleksandr bành trướng mạnh mẽ, đặc biệt là ở châu Á. Quân Nga trấn áp của khởi nghĩa Tháng Giêng năm 1863 ở Ba Lan, đánh bại quân Ottoman, chiếm tỉnh Maritime từ tay triều đình Mãn Thanh, chinh phạt các xứ Khiva, Bokhara, Turkestan ở Trung Á, và bán Alaska cho Mỹ với giá 7.2 triệu đô la.[4][6] Trong các năm 1873 - 1874, Liên minh ba hoàng đế (Nga, Đức, Áo-Hung) được thành lập. Năm 1877, sau khi quân khởi nghĩa vùng Balkan bị quân đội Ottoman trấn áp, Aleksandr II tuyên chiến với Ottoman.[12] Thất bại của quân Ottoman trước quân Nga năm 1878 đã dẫn tới Hiệp ước San Stefano và sự hình thành của Nhà nước Bulgaria - nơi vua Aleksandr II được xem là một trong những quốc phụ.[13] Tuy nhiên, các đế quốc Tây Âu can thiệp vào tình hình Nga-Thổ, tại Hội nghị Berlin năm 1878 người Nga đã nhận lấy thất bại về ngoại giao.[9]
Ông trị vì nước Nga trong thời kỳ vàng son của nền văn học quốc gia này,[14] với những nhà văn nổi tiếng như Fyodor Mikhailovich Dostoevsky, Lev Nikolayevich Tolstoy, và Ivan Sergeyevich Turgenev.[15] Dù là một Nga hoàng có tư tưởng tự do nhất,[16][17][18] bên cạnh đó ông cũng là vị vua bằng mọi cách quyết phải giữ ngôi vị "Đấng cầm quyền chuyên chính" của triều đại, ngoài ra cải cách của ông vẫn còn hạn chế, tàn tích của chế độ nông nô vẫn còn.[19] Từ năm 1866, chính quyền Nga hoàng bắt đầu một thời kỳ của những vụ trấn áp. Sau khi "Sắc lệnh giải phóng nông nô" được ban bố, phong trào giải phóng tại Nga bước vào giai đoạn Cách mạng dân chủ tư sản, nói cách đây là giai đoạn của các cuộc đấu tranh do những người Dân tuý (các tầng lớp phi quý tộc bao gồm thương gia, tiểu tư sản, lớp thầy tu bên dưới và nông dân) lãnh đạo.[20] Nước Nga dưới triều Aleksandr II trở thành nơi ra đời của chủ nghĩa khủng bố hiện đại.[15] Trong thập niên 1870 và 1880, những người theo chủ nghĩa dân túy đóng vai trò không nhỏ trong cuộc đấu tranh chống chế độ quân chủ chuyên chế,[21] và Aleksandr II là mục tiêu của nhiều vụ ám sát (1866, 1867, 1879, 1880).[9] Phong trào công nhân Nga cũng thành lập một số tổ chức trong thời gian này.[1]
Nga hoàng Aleksandr II đã cưới Quận chúa Maria Aleksandrovna xứ Hesse từ khi ông còn là Thái tử. Tuy nhiên, cuối năm 1864, trong một chuyến viếng thăm chính thức đến học viện Smolny tại Sankt-Peterburg, ông gặp một nữ sinh tên là Yekaterina Mikhailovna Dolgorukova, và yêu say đắm người phụ nữ này.[22] Ông và Dolgorukova có bốn người con; họ đã gửi thư tình cho nhau trong suốt 15 năm, lại còn cưới nhau khi Hoàng hậu Maria qua đời năm 1880. Tháng 5 năm 2007, người ta đem bán đầu giá 11 bức thư tình được Aleksandr II viết từ tháng 2 năm 1868 cùng với 11 bức thư tình khác do tình nhân trẻ tuổi viết cho nhà vua từ tháng 10 năm 1871.[10][23]
Nếu vua Aleksandr II không bị ám sát, ông sẽ ban hành bản Hiến pháp đầu tiên của nước Nga vào giai đoạn tự do chủ nghĩa như ở châu Âu:[15] vào ngày 13 tháng 3 [cũ 1 tháng 3] năm 1881, ông đã phê duyệt bản hiến pháp Loris-Melikov, theo đó thành lập hai ủy ban lập pháp, gồm những đại biểu được gián tiếp bầu chọn. Tuy nhiên, đúng ngày đó, những thành viên thuộc một tổ chức khủng bố cánh tả là Narodnaya Volya (Dân ý) đã đặt bom ám sát ông.[24] Ông bị thương nặng và qua đời cùng ngày, trong khi nhà cách mạng Ignacy Hryniewiecki - người đã làm nổ quả bom - cũng thiệt hại.[20] Sau đó, Nga hoàng Aleksandr III lên nối ngôi đã duy trì một chính sách chuyên chế hơn, bãi bỏ nhiều cải cách của tiên đế[8] và không chấp thuận hiến pháp Loris-Melikov[25], mở ra một thời kỳ của sự bảo thủ và trấn áp.
Mục lục
Tuổi trẻ
Ông chào đời năm 1818 tại thành phố Moskva,[9][26] là con của Đại Công tước Nga Nikolai và Công chúa Alexandra Fyodorovna - con gái Friedrich Wilhelm III của Phổ và Louise của Mecklenburg-Strelitz. Trước khi cưới Đại Công tước Nikolai và theo Chính Thống giáo Đông phương, công chúa Fyodorovna có tên là Charlotte, còn Nikolai thì trở thành Nga hoàng năm 1825.[6] Thiếu thời, ông đã bộc lộ chút ít tiềm năng cơ bản của mình; đến khi ông lên ngôi năm 1855, tuổi 37, một số người cho rằng hậu thế sẽ xem Aleksandr là một ông vua có khả năng thực hiện những cải cách mang tính thử thách nhất trong lịch sử Nga, kể từ thời vua Pyotr Đại đế (1682 - 1725).Việc giáo dục vị Nga hoàng tương lai được thực hiện dưới sự giám sát của một nhà thơ lãng mạn theo xu hướng tự do, đồng thời cũng là một dịch giả tài ba tên là Vasily Andreyevich Zhukovsky[5], cùng với M. M. Speransky và E. F. Kankrin.[27] Ông được dạy kỹ một vốn kiến thức nông cạn trong rất nhiều môn học, và trở nên rành rọt những ngôn ngữ tiêu biểu ở châu Âu thời hiện đại. Các thầy cho rằng Thái tử Aleksandr là người có thiện ý, hòa đồng, rất giỏi môn khoa học nhưng có thói dễ lùi bước trước khó khăn.[27] Cả thầy Zhukovsky và vua cha Nikolai I đều cố gắng truyền ảnh hưởng vào con người Aleksandr. Năm xưa, bác của ông là Aleksandr I - được giáo dục bởi một ông thầy học theo Jean-Jacques Rousseau và có tư tưởng Cộng hòa người Thụy Sĩ - từng là vị hoàng đế có tư tưởng tự do, hoặc là một người chuyên quyền theo chủ nghĩa nhân đạo ở một mức độ nào đó, nay Aleksandr cũng vậy.[6]
Thưở bé, Aleksandr đã tỏ ra yêu thích những hoạt động quân sự, chẳng hạn như những cuộc duyệt binh hoặc những trò chơi chiến sự.[28] Sau này ông đã trở thành sĩ quan chỉ huy của đội vệ binh. Kể từ khi Aleksandr được tấn phong làm Hoàng thái tử, ông trở thành Hiệu trưởng của một trường quân sự tại Nga. Khác với vua cha, ông không yêu thích quân đội Nga thời bấy giờ. Có người cho rằng ảnh hưởng từ thầy Zhukovsky đã khiến ông không có thiện cảm với quân đội Nga.[29] Các sử gia về sau đã phát hiện rằng ông không có hứng với việc quân sự, và có lẽ đây chỉ là phản ứng của ông đối với thất bại của Hoàng gia Nga trong cuộc Chiến tranh Krym, và đối với những hậu quả mà đất nước phải gánh chịu trong cuộc chiến tranh tàn khốc này. Thái tử Aleksandr đã thực hiện một chuyến hành trình sáu tháng, thăm viếng 20 tỉnh trên khắp nước Nga[30], một việc làm khác thường trong thời kỳ này. Ông cũng thăm viếng nhiều quốc gia giàu mạnh ở Tây Âu.[31] Ông trở thành Thái tử nhà Romanov đầu tiên đến thăm Xibia.[32]
Ngày 2 tháng 3 năm 1855, Nga hoàng Nikolai I lâm bệnh mất, trong lúc chiến tranh Krym còn tiếp diễn. Theo đạo luật về quyền thừa kế ngôi Hoàng đế (ban hành năm 1797),[9] hoàng thái tử Aleksandr lên nối ngôi ở tuổi 36,[6] tức là Hoàng đế Aleksandr II của Nga. Ngày 26 tháng 8 năm 1856, ông làm lễ đăng quang tại Đại giáo đường Uspensky (Cái chết của Đức Mẹ Đồng trinh) ở điện Kremlin (Cẩm Linh).[33]
Những cải cách của Aleksandr II
Bối cảnh lịch sử
Trong thời gian cầm quyền của mình (1825 - 1855), Nga hoàng Nikolai I đã thực hiện những chính sách chuyên chế. Dưới thời Nikolai I, đế quốc Nga lâm vào tình trạng quan liêu và kinh tế suy sụp. Theo đủ thứ hình thứ của chế độ đương thời, trật tự quân đội được thành lập ở kinh đô Sankt-Peterburg. Năm 1825, triều đình Nikolai trấn áp cuộc nổi dậy Tháng Chạp, do những sĩ quan quân đội theo xu hướng tự do cầm đầu.[20] Trong xã hội, địa chủ đối xử với nông nô chẳng khác gì đối xử với loài thú vật.[cần dẫn nguồn]Tuy nhiên, dưới chế độ độc đoán khe khắt của Nga hoàng Nikolai I, nền văn hóa lại phát triển rầm rộ ở thành phố Sankt-Peterburg. Đây là thời đại của nhiều văn nghệ sĩ nổi tiếng tăm trong lịch sử Nga, chẳng hạn như Aleksandr Sergeyevich Pushkin, Mikhail Ivanovich Glinka hay Fyodor Mikhailovich Dostoevsky. Puskin thì đã kết thúc sự nghiệp văn thơ vào năm 1837 khi nhà thơ này chết trong một cuộc đấu súng, để lại cho đời sau những tác phẩm. Còn Glinka là một trong những nhạc sĩ nổi tiếng nhất trong lịch sử Nga, đã bỏ thời gian ra chế tác những vở nhạc kịch và nhạc thính phòng có tiếng tăm tại kinh đô Peterburg. Fyodor Dostoyevsky thì là một nhà văn, từ năm 1837 đến năm 1844 Dostoyevsky cư ngự tại Peterburg, cho ra mắt các tác phẩm.[20] Dostoyevsky trở thành một người bất đồng chính kiến với triều đình Nga hoàng, tham gia trong phong trào trí thức Nga "Petrashevsky". Dù cao trào cách mạng ở Tây Âu năm 1848 (được sự tham gia của một số người Nga như Herzen hay Bakunin) đã kết thúc, Nikolai I vẫn lo sợ chế độ Nga hoàng phải chống nhau một cao trào cách mạng như thế, nên thực hiện chính sách trấn áp. Quan quân đi lùng bắt các thành viên của tổ chức Petrashevsky, bỏ họ vào hầm của pháo đài Thánh Phêrô và Phaolô.[34] Năm 1849 nhà văn này súy nữa thì bị hành hình trước khi được giảm án mà đày sang Xibia.[35]
Mặc dù nền kinh tế lạc hậu, nước Nga cũng dần dần thực hiện những bước tiền trên con đường phát triển kỹ thuật. Vào năm 1837, người ta khai thông một tuyến đường sắt nối liền kinh thành Sankt-Peterburg với "Hoàng Thôn" (Tsarskoye Selo) của Hoàng gia Nga. Năm 1851, người ta lại hoàn thành tuyến đường sắt thứ hai trong lịch sử Nga, kết nối Sankt-Peterburg với Moskva.[20] Trước đó, năm 1851 người ta dựng nên cây cầu vĩnh cửu đầu tiên bắc qua sông Neva, không phải sử dụng những chiếc cầu phao tạm như trước đó nữa. Năm 1853, đế quốc Ottoman - được sự giúp đỡ của quân Anh, Pháp - tuyên chiến với Nga. Chiến tranh Krym bùng nổ và kéo dài cho đến năm 1856.[16]
Từ sau cuộc khởi nghĩa nông dân trong các năm 1773 - 1775, chế độ nông nô Nga suy sụp.[7] Một phong trào nhân đạo đang phát triển, ở những năm sau này đã liên kết với phong trào bãi nô ở Hoa Kỳ trước cuộc nội chiến nước này, tấn công chế độ nông nô. Năm 1859, có 23 triệu nông nô (tổng dân số Nga khi đó là 67,1 triệu người)[36], sống trong những điều kiện thường là tồi tệ hơn so với các nông dân Tây Âu tại các thái ấp thế kỷ 16. Nga hoàng Aleksandr II lên ngôi giữa lúc cuộc chiến tranh Krym vẫn còn tiếp diễn, lợi thế nghiêng về đối phương. Sau khi Sevastopol thất thủ, một cận thần của Nga hoàng là Công tước Gorchakov đã tiến hành đàm phán hóa bình. Với việc ký kết Hiệp ước Paris, cuộc chiến tranh Krym chấm dứt,[37] đế quốc Nga mất vùng lãnh thổ phía nam.[38] Thất bại ê chề trong cuộc chiến tranh Krym đã làm cho đế quốc Nga bị choáng váng và nhục nhã.[20][39] Những vụ hối lộ, trộm cắp và tham nhũng xảy ra ở mọi nơi.[40] Trước tình cảnh đó, nhiều người Nga mong muốn cải cách. Nền kinh tế đất nước cần phải được chấn hưng và và nền chính trị phải được giữ ổn định hơn trước.[20] Với những ý định này, Nga hoàng Aleksandr II đã đề xướng những cải cách tiến bộ:
Giải phóng nông nô năm 1861
“ |
Tốt hơn là hủy bỏ chế độ nông nô từ bên trên còn hơn là chờ cho đến khi nông nô tự giải phóng mình từ bên dưới. |
” |
—Nga hoàng Aleksandr II
|
Triều đình Aleksandr II giải quyết số phận của giai cấp nông nô một cách táo bạo. Những địa chủ người Ba Lan ở các tỉnh thuộc Litva hy vọng rằng tình hình quan hệ giữa họ với các nông nô có thể được dung hòa và trở nên tốt đẹp hơn (thực chất, các địa chủ mong muốn tình hình quan hệ địa chủ - nông nô sẽ trở nên tốt đẹp hơn đối với chính họ), và kiến nghị với triều đình Nga hoàng về hy vọng này. Thế là ông cho phép hình thành những ủy ban " cải thiện thân phận của những người nông dân", và đặt ra những quy định mà theo đó việc cải thiện được thực hiện.
Bước tiến này được tiếp nối bởi một bước tiến quan trọng hơn. Không tham vấn các cố vấn thông thường của mình, Aleksandr hạ lệnh cho Bộ trưởng Bộ Nội vụ gửi một thông tư cho các tỉnh trưởng của phần thuộc châu Âu của Nga, trong đó có chứa một bản sao của các chỉ thị đã được gửi đến quan Toàn quyền xứ Litva, tán dương lòng hào phóng vốn đã được đòi hỏi, cũng như những ý định mang tính yêu nước của các địa chủ xứ Litva, và cho rằng có lẽ các địa chủ ở những tỉnh khác đã bày tỏ một mong muốn tương tự. Trong thông thư này có một đoạn ghi bóng gió: "ở tất cả những tỉnh có nông nô tồn tại, những ủy ban giải phóng được hình thành".
Nhưng công cuộc giải phóng không chỉ là một vấn đề nhân đạo có thể được giải quyết ngay lập tức bởi Sắc lệnh (ukase) của chế độ Nga hoàng. Cuộc giải phóng chứa đựng nhiều vấn đề rất phức tạp, ảnh hưởng sâu sắc đến kinh tế, xã hội, chính trị và tương lai của toàn thể dân tộc Nga.
Aleksandr II còn phải lựa chọn một trong hai phương sách mà người ta đã thỉnh cầu ông thực hiện: hoặc là để nông nô trở thành những người nông dân lệ thuộc về kinh tế và hành chính đối với các địa chủ, hoặc là họ sẽ trở thành một tầng lớp mới: đó là tầng lớp chủ sở hữu ở các công xã độc lập. Trước khi nhà vua ban bố "Sắc lệnh giải phóng nông nô", vào năm 1860 nhà văn nổi tiếng người Nga Ivan Sergeyevich Turgenev đã viết tác phẩm "Đêm Hôm Trước" (On the Eve), thể hiện sự mong muồn của nhân dân Nga đối với cải cách của chế độ Nga hoàng.[34]
Cuối cùng thì Nga hoàng Aleksandr đã ủng hộ phương sách thứ hai. Cụ thể hơn, sáu năm sau khi Aleksandr II lên ngôi, ngày 3 tháng 3 năm 1861, luật giải phóng đã được ký kết và ban bố. Những người tham gia vào việc thực hiện bản tuyên ngôn giải phóng là Đại Công tước Konstantin - em trai của Aleksandr II, Yakov Ivanovich Rostovtsev và Nikolay Alekseyevich Milyutin. Ngày 3 tháng 3 (19 tháng 2 (Lịch Julian) là ngày Aleksandr II được thần dân mến mộ nhất trong đời ông.[9] Với "Sắc lệnh giải phóng nông nô", hoàng đế tuyên bố rằng chế độ nông nô sẽ bị bãi bỏ và toàn bộ nông dân sẽ có thể mua đất từ các địa chủ của họ.[37] Theo "Harmsworth history of the world" thì khoảng 23 triệu người Nga nhận lấy quyền tự do.[43] Tuy nhiên, theo một tài liệu của những tác giả Nga thì khoảng mười triệu người Nga đã thoát khỏi thân phận nông nô, được cấp một số ít đất đai.[44] Những người nông dân Nga trở thành một trong những nhóm nông dân cuối cùng ở châu Âu được tự do. Đến giờ triều đình Nga mới giải phóng nông nô, sau khi chế độ nô lệ đã bị các chính phủ Tây Âu bãi bỏ.[19] Cải cách giải phóng nông nô năm 1861 trở thành cuộc cải cách nổi bật nhất dưới triều Aleksandr II.[26] Cuộc cải cách này được xem là "phong trào xã hội vĩ đại nhất kể từ cuộc Đại cách mạng Pháp" và tạo nên một bước tiến quan trọng cho phong trào giải phóng nhân dân lao động Nga.[6] Nó được vua Aleksandr II thực hiện một năm trước khi Tổng thống Mỹ Abraham Lincoln tuyên bố giải phóng những người nô lệ (1862).[45][46]
Bên cạnh đó, cuộc cải cách - bị xem là nửa vời bịp bợm[47] - vẫn còn hạn chế: những người tá điền canh tác những mảnh đất nào còn bị ép buộc phải trả lệ phí cho những mảnh đất đó.[20] Vì thế, những cải cách của ông đã làm cho người nông dân thất vọng. Ở một số vùng, người nông dân nhận lấy đất đai trong gần 20 năm. Nhiều người bị bắt phải trả lệ phí cao trong khi đất đai của họ thì cằn cỗi và một số người khác thì được giao cho một số lượng đất không thỏa đáng với mong ước của họ. Nhìn chung, cuộc cải cách của ông cũng không đáp ứng được nhu cầu của những người có tư tưởng tiến bộ, vì họ muốn thành lập một nền dân chủ nghị viện và tự do tư tưởng giống như ở Hoa Kỳ và phần lớn các quốc gia châu Âu khác.[37] Sau cuộc cải cách năm 1861, nước Nga chưa thoát khỏi sự phân chia giai cấp, ngoài ra chế độ nông nô xưa vẫn còn tồn tại những vết tích của nó. Tuy nhiên, dù sao thì cuộc cải cách cũng giúp cho chế độ tư bản thế chỗ cho chế độ nông nô xưa, sự phân chia giai cấp Nga cũng không phải là không có chuyển đổi. Vladimir Ilyich Lenin, trong Báo sự thật, có nhận định về cuộc cải cách này:[19]
- ...Và khi chế độ nông nô đã bị xoá bỏ, vào cuối thế kỷ XVIII - đầu thế kỷ XIXI - ở nước Nga, muộn hơn các nơi khác, vào năm 1861 - thì nhà nước tư bản thay thế cho nhà nước phong kiến; nó tuyên bố mọi người đều được tự do, nó nói rằng nó là biểu hiện ý chí của tất cả mọi người, nó không nhận nó là một nhà nước giai cấp; thế là giữa những người xã hội chủ nghĩa đấu tranh cho tự do của toàn thể nhân dân và nhà nước tư bản diễn ra một cuộc đấu tranh, nó vừa đưa đến việc thành lập nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa xô-viết và đang lan tràn khắp thế giới.
Những cải cách khác và sự phát triển của tư bản chủ nghĩa
Ít lâu sau cuộc đàm phán hòa bình nhằm chấm dứt chiến tranh Krym, những thay đổi quan trọng được thực hiện trong luật pháp về công thương nghiệp, và sự tự do mới này đã dẫn đến sự thành lập rất nhiều công ty trách nhiệm hữu hạn, phát triển hệ thống ngân hàng và gia tăng xuất khẩu ngũ cốc. Dưới triều vua Aleksandr II, nền kinh tế Nga đạt được không ít thành quả. Người ta còn dự định xây dựng một mạng lưới đường sắt to lớn, nhằm mục đích khai thách nguồn tài nguyên thiên nhiên của đất nước, và cũng nhằm mục đích gia tăng sức mạnh của nó trong việc phòng thủ và tấn công. Sách Về trí thức Nga - Tập tiểu luận về tầng lớp trí thức Nga ghi nhận:- Nền kinh tế Nga đạt nhiều thành tựu: chiều dài đường sắt tăng từ 965 km lên 22.525 km, quá trình xây dựng đường sắt đã kích thích rất nhiều sự phát triển kinh tế theo chiều hướng tư bản.[44]
Ngoài những cải cách nói trên, Nga hoàng Aleksandr II còn thực hiện những cải cách về quân đội và pháp luật.[20] Trong khi các nước khác ở châu Âu đang thực hiện những cuộc cải cách về quân sự, Nga nhận lấy chiến bại nặng nề trong Chiến tranh Krym không lâu trước đó. Trước tình cảnh này, triều đình Aleksandr II thực hiện việc chỉnh đốn và tái vũ trang Quân đội và Hải quân. Những thay đổi bao gồm chế độ cưỡng bách tòng quân toàn thể mọi người, được bắt đầu vào ngày 1 tháng 1 năm 1874.[48] Theo đó, con trai của những người giàu, nghèo, thuộc các "đẳng cấp" khác nhau đều phải phục vụ trong quân đội.[49] Những cải cách khác là thành lập một đạo quân dự bị và cơ cấu quản hạt có trách nhiệm trông coi việc quân sự (không bị xóa bỏ trong thế kỷ sau đó) hay việc xây dựng những con đường sắt chiến lược. Ngoài ra, việc giáo dục về quân sự đối với các quân đoàn của sĩ quan cũng được chính quyền nhấn mạnh, các trường học quân sự được cải tiến. Nhục hình trong quân sự và một hình phạt khác là làm ô danh các binh sĩ cũng bị bãi bỏ.[50] Cải cách về quân sự năm 1874 được xem là cải cách quan trọng cuối cùng của Aleksandr II.[9]
Năm 1864, triều đình ban bố đạo luật cải tổ luật pháp.[51] Với đạo luật này, hệ thống tư pháp Nga về nhiều mặt quan trọng có thể so sánh được với hệ thống tư pháp các nước phương Tây. Cũng theo đạo luật này, các hội đồng địa phương được thiết lập thông qua việc bầu cử (zemstva). Về những vấn đề giáo dục, y tế, các ngành nghề thủ công, nông nghiệp,… các hội đồng này được quyết tự quyết. Tuy nhiên, quyền bầu cử thành viên lại hạn chế về tay những người giàu có.[37] Ngoài ra, triều đình cũng xóa bỏ những hình phạt có thể gọi là "mọi rợ", cũng như những quy định quản lý xã hội mang tính chuyên chế. Việc thiết lập nhiều trường đại học ở Nga đã đạt thành tựu lớn: đến năm 1897, có đến hơn một trăm nghìn người Nga có trình độ đại học.[44]
Năm 1870, triều đình cũng thực hiện cải cách nữa về chính quyền thành phố.[37] Nhờ có cải cách này, chính quyền thành phố Sankt-Peterburg nhận được quyền tự trị ở mức độ cao nhất.[20] Dù Aleksandr II là vị hoàng đế có tư tưởng tự do, dưới triều ông người Do Thái không được phép thuê nô lệ người Ki-tô giáo, không có đất mà làm chủ và hạn chế đi lữ hành.[52]
Ban thưởng những người trung thành và khuyến khích chủ nghĩa dân tộc Phần Lan phát triển ở Nga
Năm 1863 Nga hoàng Aleksandr II tái lập Nghị viện Phần Lan và thực hiện một số cải cách nhằm gia tăng quyền tự trị của xứ Phần Lan trong đế quốc Nga. Ông cho thành lập đơn vị tiền tệ riêng của Phần Lan - Markka. Sự tự do thương mại đã khiến cho nước ngoài tăng cường đầu tư vào Phần Lan và công nghiệp được mở rộng.Cuối cùng, tiếng Phần Lan được nâng lên từ một ngôn ngữ của dân chúng thành một ngôn ngữ quốc gia ngang hàng với tiếng Thuỵ Điển. Cải cách này đã tạo sự cân xứng không nhỏ trong xã hội. Đến nay, người Phần Lan vẫn xem Aleksandr II như một Nga hoàng có lòng nhân ái.
Những cải cách này có thể được xem như kết quả của một ý nghĩ chính xác rằng cải cách dễ được thực hiện ở một vùng đất thưa dân, thuần nhất hơn là ở nước Nga rộng lớn. Chúng cũng có thể được xem như sự ban thưởng cho lòng trung thành của những thần dân Đông Tây của triều đình Nga trong cuộc chiến tranh Krym và cuộc khởi nghĩa của nhân dân Ba Lan. Việc khuyến khích sự phát triển của ngôn ngữ và chủ nghĩa dân tộc Phần Lan cũng có thể được xem như là một cố gắng để làm giảm bớt những phụ thuộc vào vương quốc Thụy Điển.
Mười ba năm sau khi ông bị ám sát, đài tưởng niệm Nga hoàng Aleksandr "Nhà giải phóng" tại Quảng trường Thượng Nghị viện được xây dựng ở Helsinki năm 1894. Khi đó, Phần Lan vẫn là một công quốc thuộc đế quốc Nga. Dưới tượng đài có ghi niên đại "1863" - tức năm tái lập Nghị viện Phần Lan. Đài tưởng niệm này, nêu rõ lòng biết ơn của nhân dân Phần Lan đối với Nga hoàng Aleksandr II, vẫn tồn tại nguyên vẹn qua nhiều thời kỳ căng thẳng và chiến tranh với Nga dưới nhiều chính thể của quốc gia rộng lớn này về sau.
Dù không triệt để, những cải cách nêu trên của Nga hoàng Aleksandr II - còn gọi là cuộc "đại cải cách" - thường được xem là những sự kiện quan trọng nhất trong lịch sử nước Nga thời cận đại, kể từ thời vua Pyotr Đại đế cho đến khi những phong trào cách mạng Nga năm 1905 và 1907 bùng nổ.[53]
Những hoạt động đối ngoại
Vấn đề Đông phương là vấn đề đầu tiên mà chính sách đối ngoại của Nga hoàng Aleksandr II hướng tới. Chiến bại của quân Nga tại vùng Krym đã làm vị thế quốc tế của Nga bị suy giảm và làm Nga mất đi thế mạnh của họ trên vùng Balkan. Sự trung lập hóa Biển Đen đã khiến cho vùng biển tại biên giới phía nam của nước Nga không được phòng vệ, thế là sự phát triển của miền Nam Nga và phá vỡ sự mở rộng của việc ngoại thương.[12]Dưới triều vua Aleksandr II, các nhà ngoại giao Nga mong muốn xóa bỏ các điều khoản của Hiệp ước Paris. Để thực hiện được ý đồ này, Nga cần phải có một đồng minh đáng tin cậy. Thời bấy giờ, Anh là đối thủ nguy hiểm nhất của Nga, tranh giành thuộc địa với Nga tại vùng Transcaucasia và Trung Á. Đế quốc Áo-Hung thì cố gắng lập lại trật tự tại vùng Balkan. Đế quốc Ottoman thì thực hiện chính sách thân Anh, còn Phổ là một nước yếu. Như vậy Nga cần phải nối lại tình hữu nghị với đế chế Pháp - nước cạnh tranh với đế quốc Anh tại Địa Trung Hải. Để nâng cao vị thế của Nga ở phía Đông, chính quyền Nga hoàng giúp đỡ cuộc khởi nghĩa của tín đồ Ki-tô giáo chống Sultan Ottoman.[12]
Tháng ba năm 1859, Hiệp ước Pháp-Nga được ký kết. Theo đó, Nga hoàng giữ vai trò trung lập trong cuộc chiến của Pháp và Sardinia chống quân Áo-Hung. Tuy nhiên, tin chắc rằng Pháp không ủng hộ Nga trong những vấn đề Nga quan tâm ở phía Đông, Nga hoàng đã cố gắng lập lại tình hữu nghị với Vương quốc Phổ.[12]
Trong một chuyến thăm viếng Liên bang Nga của Tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama, Tổng thống Nga lúc đó là Dmitry Anatolyevich Medvedev đã gởi tặng Obama một bộ sưu tập văn kiện lịch sử. Bộ sưu tập bao gồm 10 bản sao thư của Nga hoàng Aleksandr II gửi Abraham Lincoln - vị tổng thống thứ 16 trong lịch sử Hoa Kỳ - được viết bằng tiếng Anh và tiếng Pháp. Dưới những lá thư đó có dòng ký của Aleksandr II: Người bạn tốt của ngài. Ngoài ra, bộ sưu tập còn chứa một bản sao của bài diễn văn gửi Nga hoàng Aleksandr II của nhân dân các bang miền Bắc Hoa Kỳ nhằm cảm ơn sự cảm thông và giúp đỡ họ của nước Nga trong cuộc nội chiến Hoa Kỳ.[54]
Năm 1874, nhận lời mời của nữ hoàng Anh là Victoria, Nga hoàng Aleksandr II đã thực hiện chuyến viếng thăm đến Vương quốc Anh.[55]
Bán Alaska cho Hoa Kỳ
Thương vụ Alaska đã không được dư luận, đặc biệt là báo chí Mỹ thời đó vui mừng, họ xem đây là “trò điên của ngoại trưởng Seward”, “vườn gấu bắc cực của tổng thống Andrew Johnson”.[56] Dù vậy, ngoại trưởng Mỹ Seward cho rằng thương vụ này là cả một tính toán về chiến lược. Vùng Alaska nằm gần sát với Canada, một phần thuộc đế quốc Anh. Mục đích của việc bán Alaska là Mỹ sẽ cùng liên minh với Nga đương đầu với Anh. Trước đây, Nga là nước ủng hộ phe liên quân trong cuộc nội chiến Hoa Kỳ, trong khi Anh thì ngược lại. Ngày 18 tháng 10 năm 1867, hai bên thực hiện lễ chuyển giao vùng đất Alaska. Tuy nhiên, cho tới năm 1917 (50 năm sau thương vụ Alaska) và tới ngày nay, người Nga đã hối hận về thương vụ Alaska.[56]
Những cuộc bành trướng tại Trung Á
Quan hệ thương mại với Trung Á - một yếu tố rất quan trọng đối với nền kinh tế nước Nga - trở nên rắc rối vì những bất đồng trong nội bộ vùng này. Triều đình Nga hoàng tỏ ra lo ngại trước những cố gắng về ngoại giao của Anh nhằm chiếm lấy các Hãn quốc Kokand và Khiva thông qua vua Afghanistan. Cùng với vua cha Nikolai I và vua con Aleksandr III, Aleksandr II tiếp tục mở mang lãnh thổ của đế quốc Nga rộng lớn.[57]Năm 1864, quân đội Nga bắt đầu tiến đánh các Hãn quốc vùng Trung Á. Mùa xuân năm 1866, họ gặt hái thành công trong những chiến dịch đánh đánh Bukhara. Tháng 3 năm 1868 vua xứ Bukhara tuyên bố một cuộc "thánh chiến" chống Nga hoàng, nhưng bị đánh bại. Tháng 6 năm đó vua xứ Bukhara phải ký một hòa ước bất bình đẳng với chính phủ Nga hoàng.[12]
Nga đã thôn tính được Bukhara, vùng Trung Á còn một Hãn quốc lớn nữa là Khiva. Tuy nhiên, trước khi xâm lược xứ này, chính phủ Nga hoàng quyết định dùng những biện pháp làm giảm sự căng thẳng trong quan hệ với Vương quốc Anh. Năm 1873, sau một thời gian thỏa thuận, hai nước Anh và Nga công nhận Afghanistan là một vùng trung lập, ngoài ra Nga được phép xâm chiếm xứ Khiva. Tháng 2 năm 1873 quân đội Nga mở màn chiến dịch đánh Hãn quốc Khiva. Tháng 5 năm 1873 vua Khiva đầu hàng, sang tháng 8 năm đó vua Khiva phải ký một hiệp ước với đế quốc Nga: xứ Khiva trở thành một chư hầu của Nga hoàng.[12]
Sau khi dập tắt một cuộc khởi nghĩa tại Kokand (1875-1876), ngày 19 tháng 2 năm 1876 Nga hoàng tuyên bố vùng Kokand trở thành một phần của xứ Turkistan thuộc Nga. Tuy nhiên, các Hãn quốc Bukhara và Khiva đã dữ được nền độc lập trên danh nghĩa. Trong các năm 1878 - 1879 Vương quốc Afghanistan cũng bị thực dân Anh xâm chiếm và bảo hộ.
Ngoài ra, đầu thập niên 1870, quân đội Nga hoàng bắt đầu tiến đánh các bộ lạc Turkmen. Triều đình Nga thực hiện chính sách chấp thuận những truyền thống bản địa của dân thuộc địa Trung Á. Người Nga cũng xây dựng luật pháp tại Trung Á. Xung đột nội bộ vùng Trung Á kết thúc. Người Nga và người các nước láng giềng được tự do di cư đến Trung Á.[12]
Thời bấy giờ người Nga cũng tiến đánh vùng Kavkaz và chiếm được nhiều vùng đất. Trong thập niên 1860 Nga hoàng Aleksandr II đã hoàn thành cuộc chinh phạt vùng Kavkaz.[6] Tháng tư năm 1873, hai nước Nga và Đức ký kết hiệp ước quân sự và phòng thủ. Cùng năm đế quốc Áo-Hung và Đức ký kết với Nga một hiệp ước chính trị: "Liên minh ba hoàng đế" được thành lập.
Nhìn chung, dưới triều vua Aleksandr II, nước Nga được mở rộng tới Trung Á - một khu vực có nhiều khoáng sản, chinh phục các quốc gia Turkestan, Bokhara và Khiva trong thập niên 1870, cũng như Vùng liên Caspi.[58]
Chiến tranh chống Ottoman
Trước chiến tranh, Serbia đã được tự trị năm 1833,[60] còn Bulgaria vẫn là xứ thuộc đế quốc Ottoman. Năm 1875, khủng hoảng chính trị xảy ra ở Balkan. Do chính quyền Ottoman đánh sưu cao thuế nặng lên người dân Bosnia và Herzegovina, họ phải nổi dậy đấu tranh. Người Serbia thấy Bosnia Herzegovina làm loạn cũng giúp những người Bulgaria - vốn đã bị trấn áp nặng nề tại đế quốc Ottoman - vùng dậy khởi nghĩa. Chính quyền Ottoman mong muốn dập tắt nhanh chóng các cuộc khởi nghĩa này để lấy trường hợp Bulgaria ra làm bài học cho những người khác và trấn áp khởi nghĩa Bulgaria một cách tàn nhẫn. Trong triều đình Aleksandr II, dù Bộ trưởng Ngoại giao Aleksandr Gorchakov là người phản đối chủ nghĩa Đại Sla-vơ, nhiều triều thần theo chủ nghĩa này.[61] Kể từ cuối thập niên 1860, Nga hoàng Aleksandr II ít quan tâm đến Hoàng gia và xã hội Sankt-Peterburg vì vướng vào mối tình khó giấu giếm với Yekaterina Dolgorukov, hơn nữa, sự mặc cảm tội lỗi của ông đã khiến ông dễ bị tổn thương trước áp lực của các nhà dân tộc chủ nghĩa Đại Sla-vơ - những người đã nhờ bà Hoàng hậu đau yếu bào chữa cho họ khi Serbia tuyên chiến với đế quốc Ottoman vào năm 1876.[6][62] Được Nga xúi dục, Serbia và Montenegro tuyên chiến với đế quốc Ottoman. Tuy nhiên Nga không thể trực tiếp tuyên chiến với Thổ Ottoman vì trong “Liên minh ba hoàng đế”, Áo-Hung không muốn Nga can thiệp quá mạnh mẽ vào vùng Balkan vì họ có tham vọng đối với vùng đất đó. Aleksandr II bèn đề nghị hoàng đế Áo-Hung giữ thái độ trung lập nếu Nga can thiệp vào khủng hoảng chính trị vùng Balkan. Không nhận được sự hồi đáp, Aleksandr đã gửi tiền, quân nhu, và cả “những cựu tướng lĩnh và sĩ quan” đến giúp phong trào khởi nghĩa vùng Balkan. Áo-Hung và đặc biệt và Anh không muốn Nga bảo hộ Thổ Nhĩ Kỳ - đồng minh của họ trong chiến tranh Krym ngày trước. Họ đã triệu tập một Hội nghị Constantinopolis nhưng không thành công. Trong lúc này, chiến tranh vẫn tiếp diễn, phong trào khởi nghĩa đến hồi thất thế. Cuối năm 1876 quân Thổ Ottoman đã áp đảo quân khởi nghĩa. Thổ Nhĩ Kỳ có 400.000 quân trong khi lực lượng khởi nghĩa của Bulgaria, Serbia, và Montenegro chỉ có 105.000 quân.[59]
Cuối năm 1876, người Nga đau xót trước cảnh chính quyền Ottoman trấn áp những người anh em Sla-vơ của họ. Dù nhiều người mong muốn vua Aleksandr II can thiệp vào tình hình Balkan, nhưng ông không muốn tuyên chiến. Ông lo sợ rằng đế quốc Áo-Hung sẽ phản ứng, dẫn đến cuộc chiến với thế lực này. Một hội nghị khác được triệu tập nhưng cũng không thành công. Dù sao thì Hội nghị Luân Đôn đã nghiêm khắc cảnh cáo thái độ bất công của Sultan Ottoman đối với tín đồ Ki-tô giáo. Khi người Thổ phớt lờ cảnh cáo này, đế quốc Áo-Hung cho phép Nga đánh Ottoman. Hoàng đế Áo-Hung sẽ giữ vai trò trung lập trong cuộc chiến sắp tới - mãi cho đến khi họ chiếm được Bosnia và Herzegovina. Những người Serbia, Hy Lạp và Montenegro sẽ giành lại toàn bộ lãnh thổ, Bulgaria và Romania sẽ độc lập, còn Constantinopolis sẽ trở thành một thành phố tự do. Sau những quyết định này, năm 1877, dù tự nhận là một người yêu hòa bình và không sẵn lòng tham chiến,[63] trước áp lực của các nhà dân tộc chủ nghĩa Đại Sla-vơ[61][64] Nga hoàng tuyên bố ông là người bảo vệ của giáo dân Chính Thống giáo Đông phương sống trong đế quốc Ottoman, rồi tuyên chiến với đế quốc này vào ngày 12 tháng 4. Đây là cuộc chiến tranh cuối cùng trong một loạt cuộc chiến tranh Nga-Thổ trong lịch sử.[59] Ngày 10 tháng 5 năm 1877, một xứ thuộc địa của Thổ là Công quốc Romania tuyên bố độc lập.[65] Nga hoàng Aleksandr II phái 1.200.000 quân đến đánh quân Ottoman tại vùng Kavkaz. Tuy nhiên, sự thối nát hết thuốc chữ của quân đội Nga đã khiến cho họ nhận lấy tổn thất nặng nề và cuộc chiến trở nên đẫm máu. Dù Aleksandr II đã cải cách quân đội Nga theo kiểu Phổ, những cải cách này đã không khiến quân đội khắc phục tình trạng vô học của các binh sĩ.[59][64] Tuy nhiên, khả năng chịu đau và chịu khó của người Nga, cũng như niềm khao khát cháy bỏng muốn nhìn thấy cảnh Constantinopolis bị tái chiếm, đã khiến họ chậm rãi tiến về phía trước.[59] Vào tháng 2 năm 1878, cuối cùng quân Nga cũng đánh đuổi quân Thổ và kinh thành Constantinopolis hiện ra trước mắt họ, dù họ tổn thất nặng nề. Ước mơ của biết bao người Nga đã trở thành hiện thực, Constantinopolis nhất định sẽ thất thủ.[59]
Nguy cơ thất thủ của Constantinopolis đã khiến cho đế quốc thực dân Anh. Họ không hề muốn Constantinopolis trở thành một "thành phố tự do" tiếp thu nhiều ảnh hưởng từ Nga. Chiến thắng của Nga có thể đe dọa đến Kênh đào Suez mà Anh mới chiếm được và con đường buôn bán của họ tới Ấn Độ. Chính vì vậy họ không đời nào chịu nhìn thấy cảnh Nga kiểm soát các eo biển và đặt ảnh hưởng lên Constantinopolis. Thế là chính phủ Anh gửi một đội tàu chiến đến biển Marmara, lại có đe dọa sẽ cắt đứt quan hệ ngoại giao và tuyên chiến nếu Nga đánh chiếm kinh đô Constantinopolis.[12][59] Cuộc chiến tranh Nga-Thổ cũng làm gia tăng căng thẳng với đế quốc Áo-Hung, vì Áo-Hung cũng có tham vọng ở vùng Balkan.[66] Tương tự như Anh, Áo-Hung cũng đe dọa chiến tranh và gửi một đạo quân đông đảo đến hòng tấn công bên sườn quân Nga. Trước sự can thiệp của các đế quốc Tây Âu, Aleksandr II nhận thấy nước ông không có tiềm lực về quân sự để tham gia một cuộc chiến tranh nữa (mà lần này thì đối phương quá mạnh), bèn tiếc nuối hạ lệnh cho quân sĩ không chiếm đóng Constantinopolis. Sự kiện này đã khiến cho biết bao người Nga thất vọng. Không những thế, ông cũng nhận thấy rằng cứ kéo dài chiến tranh thì nước Nga cũng không có thêm lợi lộc gì, bèn hạ lệnh ngừng bắn.[59] Những nhà ngoại giao và tướng lĩnh theo chủ nghĩa dân tộc Nga đã thuyết phục Nga hoàng buộc triều đình Ottoman phải ký kết Hiệp ước San Stefano.[67] Hiệp ước này được ký kết vào ngày 19 tháng 2 (3 tháng 3) năm 1878, theo đó đế quốc Ottoman phải thừa nhận sự thành lập của Nhà nước Bulgaria (trong đó có Macedonia và Rumelia). Đồng thời Serbia, Montenegro và Romania cũng giành được độc lập,[12][68] lãnh thổ Serbia và Montenegro được mở rộng.[69] Người Bulgaria gọi vua Aleksandr II là "Czar Osvoboditel", tức "vị Nga hoàng giải phóng". Họ còn xem ông như một trong những quốc phụ Bulgaria, và tạc tượng ông tại trái tim của thủ đô Sofia và nhiều thành phố Bulgaria.[13] Cũng theo hiệp ước này quyền kiểm soát của Nga đối với xứ Armenia được củng cố, toàn bộ lực lượng Ottoman trên sông Danube bị tiêu diệt, tất cả các nước đều có quyền ra vào các eo biển, triều đình Ottoman phải cống cho Nga một khoản bồi thường đồ sộ[59] và hứa cải cách xứ Bosnia và Herzegovina.[69] Như vậy là Nga hoàng Aleksandr II phá vỡ thỏa thuận trước đây với hoàng đế Áo-Hung, theo đó Áo-Hung sẽ chiếm lấy Bosna và Hercegovina.[59] Với chiến thắng của quân Nga trong cuộc chiến tranh 1877-1878, Hiệp ước Paris bị hủy bỏ và người Nga đã gỡ được cái nỗi nhục thất bại trong chiến tranh Krym và chiếm được miền Bắc Bessarabia và các thành Kare, Ardagan và Batum.[12] Chiến thắng trước đế quốc Ottoman vào năm 1878 là thành tựu lớn nhất về mặt ngoại giao mà Nga hoàng Aleksandr II đã đạt được trong thời gian cầm quyền của ông.[33]
Hiệp ước San Stefano đã bị nhiều quốc gia phản đối, chủ yếu là Anh và Áo-Hung. Một quốc gia Bulgaria sẽ khiến cho đế quốc Áo-Hung bị ngăn chặn từ biển Aegean và Constantinopolis, còn đế quốc Anh thì rất lo sợ người Nga sẽ mang ảnh hưởng lớn lao vào các eo biển và Kênh đào Suez.[59] Vì vậy, hai đế quốc này tuyên bố rằng họ không công nhận hiệp ước San Stefano, người Nga phải ký một hiệp ước khác với họ. Thủ tướng Đức Otto von Bismarck đã hỗ trợ việc đàm phán dẫn tới cuộc hội đàm Berlin - một thất bại về ngoại giao của Nga. Khi Hội nghị Berlin diễn ra, Nga hoàng Aleksandr II giận dữ, nhưng ông không thể từ chối. Dĩ nhiên là Aleksandr II không đồng ý với việc ký kết một hiệp ước mới, nhưng nếu ông từ chối, chiến tranh nhất định phải nổ ra. Thế là ông đành phải công nhận việc ký kết một hiệp ước mới. Hiệp ước Berlin năm 1878, điều chỉnh lại Hiệp ước San Stefano trước đó, đã được ký kết: đế quốc Ottoman lấy lại được một phần lãnh thổ bị mất của họ, trong số đó có thành Bayazet, đế quốc Áo-Hung chiếm giữ Bosnia và Herzegovina, còn Anh thì nhận lấy đảo Síp.[12] Chiến tranh Nga-Thổ Nhĩ Kỳ (1877 - 1878) chính thức kết thúc.[59]
Quan hệ với các nước Á Đông
Nga hoàng đã ký kết với triều đình Mãn Thanh Hiệp ước Ái Huy năm 1858. Đây là một hiệp ước bất bình đẳng đối với người Trung Quốc, vì theo đó họ phải nhượng cho Nga tất cả mọi vùng đất phía bắc Hắc Long giang cùng với một phần lãnh thổ lớn ở phía Đông Ô Tề Lí Giang cho đế quốc Nga.[70] Theo tác phẩm "Sử Trung Quốc" của Nguyễn Hiến Lê, năm 1860, Nga đứng ra làm "trung gian" trong Hiệp ước Bắc Kinh giữa Anh, Pháp với Trung Quốc, lại bắt Mãn Thanh nhượng toàn bộ miền Bắc Ô Tê Lí Giang cho tới bờ biển và cho phép các nhà buôn người Nga tha hồ tới Bắc Kinh. Triều đình Mãn Thanh đã mất tỉnh Maritime về tay đế quốc Nga hoàng.[6] Ngoài ra, qua hai hiệp ước này, Nga hoàng đã nhận được quyền cai quản vùng biển ấm áp không xa đất nước Mặt trời mọc và chính thức thành lập Hạm đội Thái Bình Dương.[71]
Năm 1855, Hiệp ước Shimoda được ký kết giữa Nhật Bản và nước Nga Sa hoàng. Với Hiệp ước này, Nhật Bản và Nga đã thành lập mối ngoại giao song phương. Ngoài ra, Hiệp ước còn chỉ ra vùng biên giới Nga-Nhật nằm giữa các đảo Iturup (Etorofu), Urup (Uruppu) và hai phần của quần đảo Kuril. Giờ đây tàu thuyền Nga đã được phép ra vào các cảng Shimoda, Hakodate và Nagasaki của Nhật Bản.[72]
Mặc dù cả hai nước vẫn cùng cai quản Sakhalin, người Nhật lại đặt quyền cai quản lên những hòn đảo Iturup, Kunashir (Kunashiri), Shikotan và Khabomai (Habomai) - giữa lúc người chủ của những hòn đảo này chưa được xác định là ai [73].
Đến năm 1875, Hiệp ước Sankt-Peterburg được ký kết giữa đế quốc Nhật và Nga: tất cả các quần đảo Kurile giờ đây nằm dưới quyền kiểm soát của triều đình Nhật hoàng. Đáp lại, Nga được đặt quyền cai quản lên đảo Sakhalin. Mãi đến năm 1905, chiến bại của Nga trong chiến tranh Nga-Nhật (1904 - 1905) đã khiến Nga mất quyền kiểm soát phía nam đảo Sakhalin [73].
Qua những hoạt động bành trướng đã nêu trên, Nga hoàng Aleksandr II là người có những cống hiến không nhỏ đối với sự phát triển của cái được gọi là "chủ nghĩa đế quốc hòa hợp" trong lịch sử Nga.[6]
Bạo loạn dưới thời Aleksandr II
Dưới thời Aleksandr II, triều đình Nga hoàng phải đối phó với một vài cuộc bạo loạn.[20] Năm 1863 một phong trào khởi nghĩa bùng nổ tại Ba Lan, cuối cùng cũng nhận lấy chiến bại vào mùa thu năm 1864.[74] Năm xưa, các thầy của ông đã cho rằng Aleksandr là người dễ lùi bước trước khó khăn, thật vậy, trong những năm 1865 - 1866 ông chán nản vì những cải cách của ông đã không làm cho xã hội nước Nga được hòa thuận.[14] Sang thập niên 1870 Nga hoàng còn phải đối mặt với sự phát triển của trào lưu "chủ nghĩa dân túy" của tầng lớp thanh niên trí thức.[21]Đối phó với phong trào khởi nghĩa Ba Lan
Hàng trăm người Ba Lan bị xử tử, và một số người bị trục xuất đến Xibia. Cái giá của khởi nghĩa đó là sự ủng hộ của Nga đối với công cuộc thống nhất nước Đức do người Phổ lãnh đạo. Được sự ủng hộ của Nga, Thủ tướng Phổ Otto von Bismarck đã đánh bại quân Đan Mạch (1864), Áo (1866) và Pháp (1871).[12] Thế mà hai mươi năm sau, đế chế Đức trở thành một kẻ thù đáng gờm của người Nga trên lục địa.
Tất cả các lãnh thổ của Ba Lan-Litva trước đây đều bị loại trừ khỏi những chính sách tự do được Aleksandr thực hiện. Luật quân nhân ở Litva, được giới thiệu năm 1863, kéo dài trong 40 năm sau. Các ngôn ngữ bản địa, Litva, Ukraina và Belarus hoàn toàn bị loại bỏ khỏi các văn bản được in ra (xem thêm bài Sắc lệnh Ems). Triều đình cũng cấm nói và viết tiếng Ba Lan ở các tỉnh, ngoại trừ Vương quốc Lập hiến Ba Lan, nơi nó chỉ được cho phép dùng trong những cuộc đàm thoại cá nhân.
Chủ nghĩa dân túy và phong trào công nhân
Năm 1877, các nhà cách mạng thực hiện cuộc vận động tích cực và “chớp nhoáng”, theo đó họ kêu gọi nhân dân tại 37 tỉnh thuộc đế quốc Nga (thuộc phần châu Âu) ngay lập tức phải phất cờ khởi nghĩa, chống nhau với chế độ quân chủ chuyên chế Nga hoàng và tầng lớp địa chủ. Tuy vậy, quần chúng nông dân đã không làm theo những lời kêu gọi này. Để nắm bắt tình hình hoạt động của những người dân túy, cảnh sát của triều đình Aleksandr II đã đưa 4 nghìn người vào cơ quan mật vụ.
Tuy nhiên, những người theo chủ nghĩa dân túy đã thay đổi hình thức hoạt động của họ, mà nguyên nhân là do sự bắt buộc của chính cuộc sống. Năm 1876, tại kinh đô Sankt-Peterburg, một hội bí mật mang tên “Ruộng đất và tự do” được Aleksandr Mikhailov, Sophia Lvovna Perovskaya, Georgi Valentinovich Plekhanov,… thiết lập. Hội này đã tách thành hai tổ chức hoạt động riêng biệt: “Chia đều các ruộng đất” và “Dân ý” (năm 1879). Dù nông dân đã tỏ ra thờ ơ trước lời kêu gọi khởi nghĩa, những thành viên của tổ chức “Chia đều các ruộng đất”, lãnh đạo bởi Plekhanov không nản: họ vẫn cố kêu gọi nông dân đấu tranh trong một thời gian nữa. Còn nhóm "Dân ý" thì chủ trương dùng thủ đoạn khủng bố để chiến đấu chống triều đình Romanov, họ cho rằng: nhân dân sẽ vùng lên khởi nghĩa sau khi Nga hoàng bị ám hại. Năm 1880, lực lượng mật vụ và cảnh sát của chế độ Nga hoàng đẩy mạnh việc truy kích tổ chức "Chia đều các ruộng đất", khiến thủ lĩnh Plekhanov và những thành viên khác của tổ chức này phải rời khỏi nước Nga.[1]
Ngoài ra, trong thời gian này phong trào công nhân Nga cũng có:
- “Hội liên hiệp công nhân miền Nam Nga” được thiết lập vào năm 1875.
- “Hội liên hiệp công nhân miền Bắc Nga” tại thành phố Sankt-Peterburg, được thiết lập năm 1878. Hội này tồn tại cho đến năm 1880.[1]
Những vụ ám sát hụt nhằm vào Aleksandr II (1866 - 1880)
Thật vậy, dưới sự lãnh đạo của Ban chấp hành, tổ chức “Dân ý” (Narodnaya Volya) đã thực hiện tổng cộng là tám vụ ám sát nhằm vào Nga hoàng Aleksandr II, nhưng không thành công trong những lần đầu.[1]Một năm sau khi con trưởng của nhà vua mất (1866),[14] Aleksandr II bị nhà cách mạng trẻ tuổi Dimitry Karakozov mưu sát. Ông thoát chết trong gang tất, và, để tưởng niệm sự thoát chết của Nga hoàng (bản thân ông gọi là "sự kiện 4 tháng 4 năm 1866), nhiều nhà thờ và nhà nguyện được xây dựng ở các thành phố Nga. Không những thế, Viktor Hartmann, một kiến trúc sư người Nga, còn dự định xây một cổng đồ sộ để tưởng niệm sự kiện này. Tuy nhiên, đây chỉ là dự định, cánh cổng đồ sộ đó đã không được xây nên. Sau này, trong phần cuối tác phẩm Kartinki s vystavki – Vospominaniye o Viktore Gartmane của Modest Mussorgsky, "Cảnh cổng lớn thành Kiev" được mô tả dựa trên bản phác thảo của Hartmann.
Một số nhà cải cách cũng theo đuổi biện pháp khủng bố để thực hiện cải cách: vào ngày 14 tháng 4 năm 1879, Aleksandr Soloviev, một cựu sinh viên, đã mưu sát Aleksandr. Ông lại thoát chết còn Soloviev bị xử tử vào tháng sau. Ngoài ra, còn có 16 người khác bị tình nghi là khủng bố.[37]
Lo sợ bị ám sát, Nga hoàng Aleksandr II đã bổ nhiệm sáu quan Toàn quyền - những người thực hiện quyển kiểm duyệt khắt khe ở Nga. Tất cả những quyển sách mang tư tưởng tiến bộ đều bị cấm đoán và những người có tư tưởng cách mạng bị chính quyền bắt và bỏ vào nhà ngục.[37] Trong số đó có Peter Kropotkin - một người chỉ trích nền chính trị Nga thời bấy giờ - bị bắt giữ năm 1874.[78]
Vào tháng 12 năm 1879, hai thành viên của tổ chức "Dân ý" là Andrei Zhelyabov và Sophia Perovskaya đã dùng nitrôglyxêrin để phá hoại chiếc xe lửa của Nga hoàng. Tuy vậy, những người khủng bố đã tính toán sai lệch và kết quả là một chiếc xe lửa khác bị phá hoại. Một âm mưu dùng chất nổ để phá chiếc cầu Kamenny ở kinh thành Sankt-Peterburg khi Aleksandr II đi qua chiếc cầu này cũng không thành công.[37]
Sau đó, ông lại trở thành nạn nhân của một vụ ám sát hụt khác do Stefan Khalturin thực hiện. Stefan Khalturin là một thợ mộc, tham gia trong tổ chức khủng bố "Dân ý".[79] Stefan Khalturin đến kiếm việc ở Cung điện Mùa Đông, được cho phép ngủ tại đó. Thế là Stefan Khalturin đem những gói thuốc nổ dynamit vào phòng của mình và giấu giếm chúng dưới bộ đồ giường của Khalturin.
Vào ngày 17 tháng 2 năm 1880, theo lệnh của tổ chức "Dân ý", Khalturin đặt mìn trong một tầng hầm dưới phòng ăn trong Cung điện Mùa Đông. Quả mìn sẽ nổ vào lúc Nga hoàng Aleksandr II ăn tối, theo tính toán của tổ chức "Dân ý". Rủi thay cho những nhà cách mạng, khách của ông là Vương công Alexander xứ Bulgaria đến trễ, vì thế Aleksandr chưa ngồi vào bàn ăn. Thế là ông lại thoát khỏi một vụ ám sát khác dù 67 người bị giết và bị thương trong vụ nổ.
Cái chết của Aleksandr II
Nga hoàng Aleksandr II nhất định phải chết... Ông ta sẽ chết, và chúng ta - kẻ thù của ông ta, đao phủ của ông ta - cũng sẽ chết.... Có bao nhiêu người phải hy sinh để đất nước được tự do?... Tôi là một người có số phận chết yểu, tôi sẽ không thấy chiến thắng của chúng ta, tôi sẽ không được sống trong một ngày, một giờ chiến thắng huy hoàng của chúng ta, nhưng tôi tin rằng, với cái chết của tôi, tôi sẽ làm tròn nghĩa vụ của mình, và không có một ai trên thế giới này có thể đòi hỏi tôi làm một điều gì nữa....
Đề xuất của Mikhail Tarielovich, Bá tước Loris-Melikov
Trong thời gian này, Bộ Công an Nga thiết lập Tổ chức Mật vụ thời Nga hoàng, còn gọi là "Okhrana". Theo lệnh của Bộ trưởng Nội vụ Loris-Melikov, những người làm tay trong bắt đầu tham gia các tổ chức chính trị chủ trương vận động cải cách xã hội thời bấy giờ.
Vào tháng 1 năm 1881, Bá tước Loris-Melikov đề xuất những dự định của mình với Nga hoàng Aleksandr II. Trong những dự định này có việc mở rộng quyền lực của các Zemstvo. Sự mở rộng này sẽ giúp cho mỗi zemstov có thể gửi các đại biểu đến một Hội đồng Quốc gia được gọi là "Gosudarstvenny Soviet". Hội đồng Quốc gia này có quyền ban hành luật pháp. Aleksandr II lo ngại rằng nếu thực hiện những đề xuất của Loris-Melikov, Hội đồng Quốc gia sẽ nhận được quá nhiều quyền lợi. Vì thế, thay vì ban bố ngay Hiến pháp, ông triệu tập một uỷ ban có vai trò xem xét những đề xuất của Loris-Melikov.[37]
Tháng 2 năm 1881, Tổ chức Mật vụ Okhrana đã phát hiện ra một âm mưu ám sát Nga hoàng do Andrei Zhelyabov thực hiện. Zhelyabov bị bắt giữ nhưng từ chối cung cấp bất cứ một thông tin nào về âm mưu này. Zhelyabov lại còn nói một cách tự tin rằng cảnh sát đừng mong rằng họ sẽ bảo vệ được tính mạng của Nga hoàng Aleksandr II.[37]
Diễn biến vụ ám sát (1881)
Sau nhiều lần thoát chết, đến ngày 13 tháng 3 (tức ngày 1 tháng 3 theo Lịch cũ) năm 1881, Nga hoàng Aleksandr II cuối cùng cũng trở thành nạn nhân của một âm mưu ám sát. Trớ trêu thay, trong ngày hôm đó, ông đã phê duyệt một bản Tuyên cáo—còn gọi là Hiến pháp Loris-Melikov—theo đó thành lập hai ủy ban lập pháp, gồm những đại biểu được gián tiếp bầu chọn.[25] Những sự kiện xảy ra sau đó đã khiến cho những dự định của Loris-Melikov không bao giờ được thực hiện. Cũng trong ngày hôm đó người vợ mới của Nga hoàng là Yekaterina Dolgorukov đã khuyên ông không nên ra ngoài đường vì bà có linh cảm rằng ông sẽ gặp khó khăn. Ông đã làm cho bà bớt lo lắng bằng việc ôm ấp Dolgorukov trên một cái bàn trong căn phòng của bà và bỏ lại bà ở đó. Quả nhiên, vài tiếng sau Aleksandr II bị thương nặng, được mang về cung điện về mất do thiếu quá nhiều máu:[83][84]
Từ nhiều năm trước, cứ mỗi Chủ Nhật thì Nga hoàng lại đến Manezh để chứng kiến cuộc duyệt binh của các vệ sĩ. Ngày hôm đó, trên đường tới Manezh cũng như trên đường về, ông ngồi trên một chiếc xe ngựa kín, được hộ tống bởi sáu người Cozak, cùng một chỗ ngồi thứ bảy nằm ở phía bên trái người đánh xe. Theo sau xe của Aleksandr II có hai chiếc xe trượt tuyết chở cảnh sát trưởng và người đứng đầu toán vệ binh của Nga hoàng. Như thường lệ, bọn họ phải đi theo đường kênh Ekaterina và vượt qua cầu Pevchesky. Các thành viên hội "Dân ý" đã theo dõi Nga hoàng trên suốt quãng đường[37] Nằm hai bên đường là những lề đường chật hẹp dành cho người dân thường. Trên một góc phố gần kênh Ekaterina, Sophia Perovskaya ra hiệu cho Nikolai Rysakov và Timofei Mikhailov đặt bom tại xe ngựa Hoàng đế. Một thành viên trẻ của tổ chức "Dân ý" (Narodnaya Volya), Nikolai Rysakov, đang cầm một cái hộp nhỏ màu trắng được bao bọc bởi một chiếc khăn mùi xoa:
Sau một lúc do dự tôi đã thả bom. Tôi đặt nó dưới những chiếc móng ngựa với suy nghĩ rằng nó sẽ làm nổ tung chiếc xe ngựa Hoàng đế… Quả bom nổ đã khiến tôi bị đập vào hàng rào.[85]Quả bom nổ: một người Cozak thiệt mạng, người lái xe và dân bên đường bị thương trầm trọng và chỉ làm hỏng chiếc xe ngựa có khả năng chống các can nhiễu từ bên ngoài, một món quà của hoàng đế Pháp Napoléon III tặng Aleksandr II. Ông hoảng sợ, nhưng không bị sao. Ít lâu sau đó Nikolai Rysakov bị bắt. Cảnh sát trưởng Dvorzhitsky nghe thấy tiếng Rysakov gọi một ai đó trong đám đông. Trong lúc đó, Aleksandr II khăng khăng đòi rời khỏi xe để băng bó cho những người bị thương.[37] Một thành viên trẻ khác của hội Dân ý, Ignacy Hryniewiecki, đứng bên hàng rào của kênh Ekaterina, đã giơ cả hai bàn tay lên và thả một thứ gì đó xuống chân Aleksandr. Người ta cho rằng Hryniewiecki đã nói "vẫn còn sớm để cầu nguyện Chúa".[86] Đó là một quả bom: nó đã giết chết cả Nga hoàng lẫn Hryniewiecki.[37] Sau này cảnh sát trưởng Dvorzhitsky đã viết:
“ |
Một quả bom nổ, nó làm tôi đau đầu, bị cháy, bị thương và ngã
xuống đất. Đột nhiên, giữa màn khói và tuyết mờ, tôi nghe thấy tiếng kêu
cứu yếu ớt của Thánh thượng! Bằng mọi sức lực mà tôi có, tôi cố vực dậy
và chạy tới chỗ Thánh hoàng bị thương. Lúc đó, tôi thấy Hoàng thượng
nửa ngồi, nửa hấp hối, tựa lên cánh tay trái của vua. Nghĩ rằng vua chỉ
bị thương nặng, tôi có gắng đỡ vua nhưng hai chân của Hoàng thượng bị
gãy, và máu chảy ra. Lúc đó có hai mươi người ở trên vỉa hè và đường
phố, ít ra thì họ đều có vết thương. Một số người cố gắng đứng dậy, một
số người khác thì cố gắng lê chân, còn một số người khác thì tìm cách
thoát khỏi những cái xác ngã vào họ. Tuyết, mảnh vỡ và máu giúp cho
người ta có thể nhìn thấy những mảnh quần áo, cầu vai rách, những mảnh
đao kiếm bị gãy và những mảnh thịt người vấy máu. |
” |
—Dvorzhitsky[87]
|
Một chiếc xe trượt tuyết đã chở Nga hoàng tới Cung điện Mùa Đông. Trớ trêu thay, người nằm trên chiếc xe chính là ông vua đã thực hiện cải cách nông nô1 vào năm 1861 - gần hai mươi năm trước ngày ông bị ám sát. Aleksandr II chết do mất quá nhiều máu, hai chân ông bị gãy, bụng ông bị xé ra còn khuôn mặt ông thì bị cắt xén.[88] Các thành viên Hoàng gia Romanov đều kéo nhau đến hiện trường. Hay tin, Dolgorukov chạy vào căn phòng của Aleksandr II và tình cờ nhìn thấy thi thể Nga hoàng, bà khóc "Sasha! Sasha!"[89] Trong hồi ký của mình, Đại Công tước Aleksandr Mikhailovich cho biết chiếc áo khoác màu hồng và trắng của Dolgorukov đã được nhúng vào máu của Aleksandr II.[90]
Vị Nga hoàng hấp hối được làm lễ ban thánh thể và lễ xức dầu lần cuối cùng. Người ta hỏi quan Thái y Sergey Petrovich Botkin rằng Nga hoàng còn có thể sống được bao nhiêu lâu nữa, Botkin nói "còn 15 phút nữa".[91] Lúc 3 giờ rưỡi ngày hôm đó, Aleksandr II qua đời tại Cung điện Mùa Đông,[9] Thái tử Aleksandr Aleksandrovich lên nối ngôi ở tuổi 36. Theo Olga Liubatovich, gần trưa, người ta loan tin về cái chết của vua Aleksandr II và việc nối ngôi của vua Aleksandr III, người dân Nga bắt đầu tụ họp tại các giáo đường Do Thái và thánh đường Ki-tô giáo để tuyên thệ trung thành với Nga hoàng.[37]
Vụ ám sát đã gây trở ngại lớn đối với phong trào cải cách. Một trong những ý tưởng cuối cùng của Nga hoàng Aleksandr II là thiết lập một nghị viện thông qua việc bầu cử, tức Đuma. Vào ngày áp chót trong cuộc đời Aleksandr II, viện Đuma đã được hình thành nhưng ông chưa tuyên bố với nhân dân Nga. Trong khoảng 48 giờ, ông đã dự định tuyên bố về kế hoạch thành lập Đuma của ông cho nhân dân Nga. Nếu ông không bị ám sát, nước Nga có thể chuyển hóa thành một quốc gia quân chủ lập hiến thay vì xảy ra những vụ trấn áp của Aleksandr III. Việc làm đầu tiên của Nga hoàng Aleksandr III sau lễ đăng quang là xóa bỏ những dự án này. Mãi đến năm 1905, một phong trào cách mạng bùng nổ tại Nga, khiến Nga hoàng Nikolai II - con trai Aleksandr III - phải tuyên bố thành lập viện Đuma Quốc gia Nga (1906). Thế mà Đuma Quốc gia này đã giải tán ít lâu sau đó.[92]
Nga hoàng Aleksandr II được chôn chất tại Đại giáo đường Thánh Phêrô và Phaolô tại kinh đô Sankt-Peterburg. Tại địa điểm xảy ra vụ ám sát ông, Thánh đường Chúa Ki-Tô Cứu Thế Trên Vũng Máu được xây nên.[33]
Hậu quả thứ hai của vụ ám sát này là làn sóng sát hại người Do Thái lan rộng tại đế quốc Nga, trong các năm 1891 - 1892 [93].
Một hậu quả thứ ba vụ ám sát là sự trấn áp dân quyền tại Nga và lực lượng cảnh sát - vốn ít hung bạo hơn dưới thời Aleksandr II - lại trở nên hung bạo như trước. Cái chết của Nga hoàng Aleksandr II được chứng kiến trực tiếp bởi con trai ông là Aleksandr III và cháu nội ông là Nikolai II. Cả hai Nga hoàng này đều nguyện thề rằng họ sẽ không chết giống như Aleksandr II. Trong số những người díu líu tới vụ ám sát Aleksandr II, Nikolai Sablin tự tử trước khi ông ta có thể bị bắt còn Gesia Gelfman thì chết trong ngục tù. Sophia Perovskaya, Andrei Zhelyabov, Nikolai Kibalchich, Nikolai Rysakov và Timofei Mikhailov bị trep cổ vào ngày 3 tháng 4 năm 1881.[37] Aleksandr III và Nikolai II đã dùng lực lượng Okhrana để bắt giam những người phản kháng, diệt trừ những "băng nhóm phản nghịch" bị tình nghi và ngày càng trấn áp quyền tự do cá nhân của người dân Nga.
Gia quyến
Hồi còn chưa có vợ, Aleksandr thực hiện chuyến thăm cấp Nhà nước đến Vương quốc Anh năm 1838. Ông - lớn hơn nữ hoàng trẻ Victoria chỉ một tuổi - thực sự đã ở gần với Victoria trong thời gian ngắn. Nữ hoàng Victoria cưới người anh họ của mình, Vương công Albert của Saxe-Coburg vào tháng 2 năm 1840. Vào ngày 16 tháng 4 năm 1841, ở tuổi 23, Hoàng thái tử Aleksandr cưới Quận chúa Marie của Hesse ở kinh thành Sankt-Peterburg. Về sau Marie được đặt cái tên Nga "Maria Aleksandrovna".(Maria Aleksandrovna là con gái hợp pháp của Ludwig II, Đại công tước của Hesse và bởi Rhine và Quận chúa Wilhelmina của Baden, mặc dù có một số tin đồn nhảm nghi ngờ bà là con của người tình Wilhelmina, Nam tước August von Senarclens de Grancy, người cha về sinh lý của bà.Chú thích trống (trợ giúp) Aleksandr II đã nhận thấy nghi ngờ về quan hệ cha con của vợ mình).
Cuộc hôn nhân đã đem lại cho Nga hoàng Aleksandr II và Hoàng hậu Maria Aleksandrovna sáu người con trai và hai người con gái:
- Antoinette Bayer (20 tháng 6 năm 1856 – 24 tháng 1 năm 1948), con của Wilhelmine Bayer
- Michael-Bogdan Oginski (10 tháng 10 năm 1848 – 25 tháng 3 năm 1909), con của nữ bá tước Olga Kalinovskya (1818–1854)
- Joseph Raboxicz
- Charlotte Henriette Sophie Jansen (15 tháng 11 năm 1844 – tháng 7 năm 1915), con của Sophie Charlotte Dorothea Von Behse (1828–1886)
Aleksandr II và Yekaterina M. Dolgorukov
Cuộc tình đã bị Hoàng gia Nga và các quan trong triều phản đối kịch liệt. Người ta cho rằng Yekaterina Mikhailovna Dolgorukova đã hợp tác với những tên thương nhân bất lương[98], có mưu đồ chiếm đoạt ngôi Hoàng hậu và thao túng Nga hoàng trong việc trị quốc. Một số hoàng thân còn nghĩ đến chuyện các con của Yekaterina sẽ cướp quyền thực kế của những người thừa tự hợp pháp của Nga hoàng. Năm 1880, lo sợ rằng Dolgorukova sẽ bị ám sát, ông đã đưa Dolgorukova và các con của bà đến tầng ba của Cung điện Mùa Đông. Các triều thần đã truyền miệng rằng bà Hoàng hậu hấp hối Maria bị Nga hoàng bắt phải nghe tiếng các con của Dolgorukova chuyển động, dù những căn phòng của Dolgorukova có khoảng cách rất cao so với nơi Hoàng hậu ở.[99]
Trong hồi ký của mình, Đại Công tước Alexander Mikhailovich ghi nhận rằng Nga hoàng đối xử như một cậu thiếu niên khi Yekaterina có mặt, còn Yekaterina cũng hết sức yêu quý ông.[100] Có lần, Nga hoàng có ý định phong chức Đại Công tước cho con trưởng của Yekaterina là George. Dù Yekaterina đã phản đối: "Sasha, vì Thượng Đế, xin Hoàng thượng đừng làm như vậy!", ý đồ này đã khiến Hoàng gia lo sợ rằng ông sẽ tấn phong Yekaterina làm Hoàng hậu, rồi truất phế những người thừa tự hợp pháp của ông rồi thay thế họ bằng những thành viên trong "gia đình thứ hai" của ông. Hoàng gia cũng bực bội khi họ nghe Yekaterina Dolgorukova gọi Nga hoàng bằng cái tên thân mật "Sasha." Theo ghi nhận của Đại Công tước Alexander Mikhailovich, cha của Mikhailovich là Đại Công tước Mikhail Nikolaevich của Nga đã xin lỗi Yekaterina vì thái độ lạnh nhạt của Hoàng gia đối với bà.[101]
Đến ngày 6 tháng 7 năm 1880, gần một tháng sau khi Hoàng hậu Maria mất (ngày 8 tháng 6 năm đó), Aleksandr II chính thức kết hôn không đăng đối với Dolgorukova, có 4 người con. Cuộc hôn nhân đã làm cho Hoàng gia và nhân dân không vui, nhưng ông buộc họ phải chấp thuận. Ông phong Dolgorukov làm "Vương phi Yurievskaya" và hợp pháp hóa các con của bà, dù họ - với tư cách là những đứa con của một cuộc hôn nhân không đăng đối - không có quyền kế vị ngôi vua.[102] Trong một chuyến đến Krym, ông đã đi cùng Yekaterina M. Dolgorukova, bị giới quan chức Nga nói xấu sau lưng.[80] Mệt mỏi trước sự chỉ trích của người thân, ít lâu sau cuộc hôn nhân ông bèn gửi thư cho em gái là công nương Olga Nikolaevna xứ Württemberg; trong thư ông cho rằng Dolgorukova không hề tham gia việc triều chính, dù có những người đã đồn bậy về Dolgorukova.[103] Sau một năm Nga hoàng Aleksandr và Vương phi Yekaterina Mikhailovna Dolgorukova sống với nhau, ông bị ám sát (1881). Trước đó, nhà vua đã có dự định phong người phụ nữ này làm Hoàng hậu.[6]
Những bức thư tình được bán đấu giá
Wikisource có văn bản gốc Anh ngữ liên quan với bài: |
Ngày 15 tháng 5 năm 2007, theo dự kiến các bức thư tình của Aleksandr II sẽ được đem đấu giá. Đó là 11 bức thư từ tháng 2 năm 1868, và 11 bức thư khác từ tháng 10 năm 1871, được ông viết tặng những tình nhân trẻ tuổi. Theo ước tính, mỗi bức thư sẽ được trả khoảng 3.000 - 15.000 euro.[23]
Phần lớn những bức thư được viết bằng tiếng Pháp. Hồi đó, ngôn ngữ này được giới quý tộc ở Nga sử dụng thịnh hành. Bộ phim "Kẻ tội đồ cao thượng" năm 1959, với sự diễn xuất của nữ diễn viên Romy Schneider người Áo, đã lấy cảm hứng từ những bức thư này.
Trong các lá thư này, Aleksandr II cho rằng ông "sẽ trao cả thể xác và tâm hồn" cho tình nhân chỉ mới 20 tuổi - Vương phi Yekaterina Dolgorukova. Sau khi vua Aleksandr II qua đời, Dolgorukova sang định cư ở Biarritz, nước Pháp. Dù chính quyền Nga rất muốn lấy các lá thư tình đó về, bà quyết định giữ chúng lại bên mình.[23] Người đứng đầu nhà đấu giá Christie’s ở Paris (Pháp), ông Christoph Auvermann giải thích:
“ |
Đối với Hoàng tộc, việc để lộ những bức thư tình của Nga hoàng là
một điều đáng xấu hổ bởi chúng là bằng chứng chứng minh cho tính "trăng
hoa" của Nga hoàng. |
” |
—Christoph Auvermann[23]
|
Nhận định
- …Bất chấp nhiều thành tựu kinh tế, sự xung đột tinh thần giữa trí thức Nga và chính quyền chuyên chế của Nga hoàng vẫn ngày càng gia tăng. Vì sao lại như vậy? Ta có thể hiểu được phần nào tình trạng dị thường này khi xem xét những đặc thù của triều đại Nga hoàng Alexandr II (1818-1881), một nhân vật lịch sử nhận được những đánh giá đầy mâu thuẫn của hậu thế.
- Một mặt, trong thời kỳ trị vì của Alexandr II (1855-1881) nước Nga đã có nhiều tiến bộ rất quan trọng về kinh tế và văn hóa: Năm 1861 chế độ nông nô bị bãi bỏ khiến cho khoảng 10 triệu nông nô trở thành người tự do và được cấp một chút ít đất đai… Nền kinh tế Nga đạt nhiều thành tựu… quá trình xây dựng đường sắt đã kích thích rất nhiều sự phát triển kinh tế theo chiều hướng tư bản…
- Mặt khác, các bằng chứng lịch sử cho thấy Alexandr II không có phẩm chất của một minh quân. Ông bãi bỏ chế độ nông nô chỉ vì hoàn cảnh thúc ép với câu nói: “Tốt hơn là hủy bỏ chế độ nông nô từ bên trên còn hơn là chờ cho đến khi nông nô tự giải phóng mình từ bên dưới.“ Việc bãi bỏ chế độ nông nô trên thực tế không đem lại lợi ích cho nông nô mà chỉ đem lại lợi ích cho các chức sắc nhà nước kiểu như lý trưởng, chánh tổng, là những người có quyền chia ruộng đất và thu thuế. Về quan điểm chính trị thì Alexandr II là kẻ bảo hoàng quyết giữ địa vị thiên tử cho dòng tộc bằng mọi giá, đời sống cá nhân có một số bê bối tình ái không giấu giếm được nên bị giới quý tộc bảo thủ lợi dụng gây thêm sức ép theo hướng phản động chuyên chế. Có lẽ vì vậy mà sự căng thẳng với giới trí thức vẫn gia tăng. Năm 1866 Alexandr II bị mưu sát và chỉ thoát chết trong gang tấc. Cuộc trấn áp dân chúng sau đó đã khởi đầu cho thời kỳ đàn áp dã man các phong trào phản kháng. Nhiều vụ mưu sát Nga hoàng vẫn tiếp tục và năm 1881 Alexandr II bị giết chết trong một vụ đánh bom.
Chương trình truyền hình trực tiếp "Tin tức trong tuần" (Vesti Nedeli) ngày chủ nhật 28 tháng 12 năm 2008 đã tổng kết chính thức: Đại Công tước nổi tiếng Aleksandr Yaroslavich Nevsky vào thế kỷ XIII được bình chọn là biểu tượng của nước Nga. Ngoài ra, Aleksandr II - một trong những vị Nga hoàng kiệt xuất của triều đại Romanov[15] - cũng là một trong những nhân vật lịch sử nhận được không ít phiếu bình chọn.[104][105]
Trong tiểu thuyết
Nhân vật Aleksandr II được đề cập đến trong hai tập đầu truyện "Michael Strogoff" của Jules Gabriel Verne, được xuất bản năm 1876 khi Nga hoàng Aleksandr II vẫn còn trị quốc. Trong truyện này, giữa một buổi yến tiệc linh đình, nhà vua đã rời khỏi phòng khiêu vũ trong Cung điện Mới, khi hay tin về những sự kiện nghiêm trọng xảy ra ở phía bên kia biên giới vùng Ural. Một cuộc bạo động dữ dội bùng nổ, quân nổi dậy đe dọa chiếm những tỉnh Xibia từ tay triều đình Nga hoàng.[106]Nhà văn Jules Gabriel Verne miêu tả rất tích cực về Aleksandr II, cho thấy ông là một vị vua sáng suốt và quyết đoán, đối phó với cuộc nổi dậy một cách tự tin và dứt khoát. Chủ nghĩa tự do của Aleksandr được nhấn mạnh trong cuộc đối thoại giữa Nga hoàng và viên cảnh sát trưởng - người đã nói:
- "Bẩm Hoàng thượng, trong thời gian này KHÔNG có ai trở về từ Xibia hết ạ!"
- "Vậy à? Thôi, chừng nào mà Trẫm đây còn chưa băng, người ta ĐƯỢC QUYỀN trở về từ Xibia!" [106]
Tổ phụ
Tổ tiên của Aleksandr II của Nga |
---|
Xem thêm
Chú thích
- ^ a b c d e f g h Lịch sử nước Nga thời kỳ TBCN sau CM tháng 10
- ^ Radzinsky, Edvard, Alexander II: The Last Great Tsar (2005) ISBN 0-7432-7332-X
- ^ a b c "A History of Russia: Since 1855", Walter Moss, tr. 23
- ^ a b Những Tổng thống và những Nga hoàng
- ^ a b The McGraw-Hill encyclopedia of world biography, vol. 1. McGraw-Hill, 1973. ISBN 978-0-07-079633-1; p. 113
- ^ a b c d e f g h i j k l m n o Tsar Alexander: bio from the Encyclopedia Britannica
- ^ a b Mục từ Nga trong Bách khoa toàn thư Việt Nam
- ^ a b BBC
- ^ a b c d e f g h i Aleksandr II trong trang rin.ru
- ^ a b Harding, Luke (16 tháng 5 năm 2007). “"From Russia with lust: Tsar's erotic letters to young mistress auctioned"”. "Guardian Unlimited" (London). Truy cập 28 tháng 1 năm 2008.
- ^ Từ chính sách “Cộng sản thời chiến” đến chính sách kinh tế mới
- ^ a b c d e f g h i j k l m The Foreign Policy during Alexander II
- ^ a b Bulgaria National Day
- ^ a b c d "A History of Russia: Since 1855", Walter Moss, tr. 24
- ^ a b c d e Tổng quan về sách "Alexander II: The Last Great Tsar"
- ^ a b Bonnie C. Marshall, sách đã dẫn, tr. 7
- ^ Christopher Hodapp, Alice Von Kannon, The Templar Code for Dummies, For Dummies, 2007, tr. 287
- ^ Norman Davies, "Europe East and West", tr. 23, Jonathan Cape, 2006, tr. 23
- ^ a b c Lenin, Báo sự thật: Bàn về nhà nước
- ^ a b c d e f g h i j k Thành phố St.Peterburgs
- ^ a b Mục từ Chủ nghĩa dân túy trong Từ điển Bách khoa Toàn thư Việt Nam
- ^ a b c Radzinsky (2005), pp. 194-198
- ^ a b c d e Bán đấu giá thư tình của Nga hoàng
- ^ Edvard Radzinsky, Alexander II: The Last Great Tsar (Free Press: New York, 2005) pp. 261, 391 & 404-421.
- ^ a b This Day in History - 13 tháng 3 năm 1881, truy cập ngày 11 tháng 11 năm 2009
- ^ a b Alexander II (emperor of Russia) -- Britannica Online Encyclopedia
- ^ a b c The Evolution of the Social and Political System, Alexander II. The Abolishment of Serfdom.
- ^ "Russia in the age of Alexander II, Tolstoy and Dostoevsky", tr. 11
- ^ A Biography of Alexander II ~ written by Jeff Schmidt
- ^ Edvard Radzinsky, Alexander II: the Last Great Tsar, p. 63.
- ^ Edvardx Radzinsky, Alexander II: The Last Great Tsar, pp. 65-69, 190-191 & 199-200.
- ^ Edvard Radzinsky, Alexander II: The Last Great Tsar, p. 62.
- ^ a b c d Alexander II (Alexander Nikolaevich)
- ^ a b c Fyodor Dostoevski (1821- 1881)
- ^ Đại văn hào Nga Fedor Dostoyevski: Yêu không phải trò đùa
- ^ Trích đoạn từ "Dân nông nô hóa tại Nga", phát hành trong Демоскоп Weekly, số 293 - 294, 18/6 tới 1/7/2007
- ^ a b c d e f g h i j k l m n o p q r s Alexander II
- ^ Bonnie C. Marshall, "The snow maiden and other Russian tales", Libraries Unlimited, 2004, tr. 77
- ^ Edvard Radzinsky, Alexander II: The Last Great Tsar, p. 107.
- ^ Edvard, Radzinsky, Alexander II: The Last Great Tsar p. 107.
- ^ Russia :: From Alexander II to Nicholas II -- Britannica Online Encylopedia
- ^ a b Dostoievski - Sự nghiệp và di sản - Phần III
- ^ Mee, Arthur; Hammerton, J. A.; Innes, Arthur D.;"Harmsworth history of the world: Volume 7", 1907, Carmelite House, London; at page 5193.
- ^ a b c d Nhiều tác giả (Nga), Về trí thức Nga - Tập tiểu luận về tầng lớp trí thức Nga, dịch giả: La Thành - Phạm Nguyên Trường, NXB Tri thức, 2009, xem Lời giới thiệu
- ^ Tạp chí LIFE, ngày 27 tháng 8 năm 1945, 112 trang, tập 19, số 9, mã số ISSN 0024-3019, do Time Inc xuất bản tr. 89
- ^ Tạp chí LIFE, tr. 92
- ^ Văn học Nga
- ^ Edvard Radzinsky, Alexander II: The Last Great Tsar p. 150.
- ^ Edvard Radzinsky, Alexander II: The Last Great Tsar, p. 150.
- ^ Edvard Radzinsky, Alexander II: The Last Great Tsar, pp. 150-151.
- ^ An Introduction to Russian History (1976), edited by Robert Auty and Dimitri Obolensky, chapter by John Keep, page 238
- ^ Duffy, James P., Vincent L. Ricci, "Czars: Russia's Rulers for Over One Thousand Years", p. 324
- ^ Alexander II: Emancipation and Reform in Russia 1855-1881
- ^ Lạc quan có chừng mực
- ^ Tổng Thống Nga Putin thăm chính thức Vương Quốc Anh
- ^ a b c d Đường hầm nối liền Siberia và Alaska
- ^ Khám phá mới về nguồn gốc quốc huy nước Nga
- ^ Riasonovsky tr. 349
- ^ a b c d e f g h i j k l Russo-Turkish War 1877-78 ~written by Josiah Koons
- ^ Mục từ Nam Tư trong Từ điển Bách khoa Toàn thư Việt Nam
- ^ a b Pan-Slavism, The Columbia Encyclopedia, Sixth Edition, 2008
- ^ Facts about Pan-Slavism: Alexander II of Russia, as discussed in Alexander II (emperor of Russia): Life: -- Encyclopædia Britannica
- ^ Alexander II Liberator 29 tháng 4 năm 1818 – 13 tháng 3 năm 1881
- ^ a b Microform Collection: Russo-Turkish War, 1877-1878
- ^ Chronology of events from 1856 to 1997 period relating to the Romanian monarchy on Kent State University website, Ohio, United States
- ^ Riasonovsky tr. 386-7
- ^ Russia - Transformation of Russia in the Nineteenth Century
- ^ Serbia công nhận nhà nước Montenegro độc lập (16/06/2006) - Cổng thông tin điện tử Tỉnh Lào Cai
- ^ a b Treaty of San Stefano trong trang Infoplease.com
- ^ Russia and China end 300 year old border dispute
- ^ Nhiệm vụ thú vị với Hạm đội Thái Bình Dương
- ^ J. Thomas Rimer, A hidden fire: Russian and Japanese cultural encounters, 1868-1926, Stanford University Press, 1995, tr. 190
- ^ a b “Sẽ xảy ra xung đột trực diện Nga, Nhật về quần đảo Kuril?”. Báo Đất Việt điện tử. 12 tháng 7 năm 2009. Truy cập 16 tháng 4 năm 2013.
- ^ The Polish Revolt of 1863
- ^ Vũ Long (13 tháng 10 năm 2008). “Cây ngay không thể chết đứng”. Chuyên đề An ninh Thế giới, Báo Công an nhân dân điện tử. Truy cập 16 tháng 4 năm 2013.
- ^ Developments in the Polish Lands, 1795-1918
- ^ Quốc tế I (1864-1876)
- ^ Peter Kropotkin: Biography
- ^ Stephan Khalturin
- ^ a b Avrahm Yarmolinsky, Road to Revolution: A Century of Russian Radicalism, 1956. Chapter 14: Sic Semper Tyrannis.
- ^ "A History Of Russia Volume 2: Since 1855", tr. 38
- ^ "The Russian Empire: A Multi-Ethnic History", tr. 301
- ^ Radzinsky (2005), pp. 409-410
- ^ Hé lộ về bệnh án của các Hoàng đế Nga
- ^ Radzinsky, Edvard, Alexander II: The Last Great Tsar,(Freepress 2005) p. 413
- ^ Robert K. Massie, Nicholas and Alexandra, Dell Publishing Company, New York, p.16
- ^ Ibid.p.415
- ^ Massie, p.16
- ^ Radzinsky (2005), p. 419
- ^ Maylunas and Mironenko (1997), p. 7
- ^ Ibid. 419
- ^ Thông tin cơ bản về Viện Duma quốc gia Nga, dẫn nguồn từ Phòng Chính trị Kinh tế Đối ngoại, Sở Ngoại vụ Thành phố Hồ Chí Minh ngày 24-3-2006
- ^ Khánh Duy (28 tháng 3 năm 2010). “Lịch sử xung đột Trung Đông từ cổ sử tới hiện đại”. Chuyên trang Tuần Việt Nam, Báo điện tử VietNamNet. Truy cập 17 tháng 4 năm 2013.
- ^ Alexander III
- ^ Tarsaidze (1970), p. 92
- ^ "A History of Russia: Since 1855 ", Walter Moss, tr. 24
- ^ Tarsaidze (1970
- ^ Bergamini (1969), p. 353
- ^ Radzinsky (2005), p. 300
- ^ Radzinsky (2005), p. 378
- ^ Radzinsky (2005), p. 378-380
- ^ Radzinsky (2005), p. 368
- ^ Radzinsky (2005), p. 233
- ^ Biểu tượng Nga mang tên Aleksandr Nevsky
- ^ Biểu tượng Nga mang tên Aleksandr Nevsky (trang 2)
- ^ a b Jules Verne, "Michael Strogoff", Tập 2 [1] Cảnh sát trưởng nói nhỏ: "there was a time, sire, when NONE returned from Siberia." Nga hoàng đáp: "Well, whilst I live, Siberia is and shall be a country whence men CAN return".
Tài liệu tham khảo
- Tarsaidze, Alexandre (1970). Katia: Wife Before God. Macmillan. ISBN B000J1KZAU
- Riasanovsky Nicholas V. và Mark D. Steinberg. A History of Russia. Ấn bản lần 7. New York: Nhà in Đại học Oxford, 2004, 800 trang. ISBN 0-19-515394-4
- Moss, Walter G., Alexander II and His Times: A Narrative History of Russia in the Age of Alexander II, Tolstoy, and Dostoevsky. London: Anthem Press, 2002. online
- Radzinsky, Edvard, Alexander II: The Last Great Tsar. New York: The Free Press, 2005.
- Edward Crankshaw, Shadow of the Winter Palace: Russia's Drift to Revolution, 1825–1917, Perseus Books Group, ISBN 0-306-80940-0 (0-306-80940-0).
- https://www-cgsc.army.mil/carl/download/csipubs/baumann/baumann_ch2_pt1.pdf. On the conquests in Central Asia in the 1860s by people such as General Mikhail Grigorevich Chernyayev, (Cherniaev), (Russian: Михаил Григорьевич Черняев, 24 tháng 10 năm 1828 – 16 tháng 8 năm 1898), còn gọi là. The Lion of Tashkent".
- Larissa Zakharova, Alexander II: Portrait of an Autocrat and His Times, Softcover, Westview Press, ISBN 0-8133-1491-7 (0-8133-1491-7).
- Ben Eklof (Editor), Larissa Zakharova (Editor), John Bushnell (Editor), Softcover, "Russia's Great Reforms, 1855–1881", (Indiana-Michigan Series in Russian and East European Studies). ISBN 0-253-20861-0 (0-253-20861-0)
- Russia in the Nineteenth Century: Autocracy, Reform, And Social Change, 1814–1914, by Alexander Polunow, Thomas C. Owen, Larissa G. Zakharova Softcover, M E Sharpe Inc, ISBN 0-7656-0672-0 (0-7656-0672-0)
- Walter Moss, "A History of Russia: Since 1855", Anthem Press, 2005
- Từ điển Bách khoa Toàn thư Việt Nam
- Mironenko, Sergei and Maylunas, Andrei (1997). A Lifelong Passion: Nicholas and Alexandra: Their Own Story. Doubleday. ISBN 0-385-48673-1
- Kappeler, Andreas (2001). The Russian Empire: A Multi-Ethnic History. London: Longman. tr. 301. ISBN 0-5822-3415-8.
- Moss, Walter Gerald (2005). A History Of Russia Volume 2: Since 1855. Anthem Series Russian, East European and Eurasian Studies. London: Anthem Press. tr. 38. ISBN 1-8433-1034-1.
Liên kết ngoài
Wikimedia Commons có thêm thể loại hình ảnh và tài liệu về Aleksandr II của Nga |
- The Assassination of Tsar Alexander II from In Our Time (BBC Radio 4)
- Insidious Siberian
- Youtube - The Assassination of Alexander II of Russia
- Chủ nghĩa tư bản trở thành hệ thống thế giới
- The Tsar Liberator - by Nick Nicolason
- Emancipation reform of 1861 in Russia
- Sơ lược lịch sử Nga - Nước Nga trong tôi
|
|
Thể loại:
Norodom Sihanouk (tiếng Khmer: នរោត្តម សីហនុ, phát âm như "Nô-rô-đôm Xi-ha-núc"; 31 tháng 10 năm 1922 tại Phnôm Pênh – 15 tháng 10 năm 2012 tại Bắc Kinh) là cựu Quốc vương, Thái thượng vương của Vương quốc Campuchia.
Ông từng là vua của Campuchia trong nhiều giai đoạn cho đến ngày thoái vị để nhường ngôi cho quốc vương Norodom Sihamoni (7 tháng 10 năm 2004). Sihanouk là con trai của cựu quốc vương Norodom Suramarit và vương hậu Sisowath Kossamak. Sihanouk đã đảm nhiệm nhiều chức vụ khác nhau kể từ 1941, nhiều vị trí đến nỗi Sách kỷ lục Guiness đã đưa ông vào danh sách các chính khách giữ nhiều chức vụ nhất, bao gồm 2 lần làm vua, 2 lần thái tử, 1 lần chủ tịch nước, 2 lần thủ tướng và một lần quốc trưởng Campuchia và nhiều chức vụ khác nữa của chính phủ lưu vong. Phần lớn là chức vụ hình thức, kể cả lần cuối làm vua (trị vì nhưng không cai trị). Thời gian trị vì thực sự của ông hoàng này là từ 9 tháng 11 năm 1953 đến 18 tháng 3 năm 1970 (khi bị Lon Nol phế truất chức vụ Quốc trưởng).
Thời kỳ này, vua Sihanouk có xu hướng dân tộc chủ nghĩa và bắt đầu yêu cầu Pháp trao trả chủ quyền và về nước.[cần dẫn nguồn] Ngày 15/6/1952, do tình hình chính trị bất ổn Sihanouk đã giải tán nội các Huy Kanthol và thay ông này làm Thủ tướng. Ngày 11/1/1953, ông cũng giải tán luôn Quốc hội và cho bắt giữ 17 đảng viên Dân chủ, giam họ 8 tháng mà không hề xét xử. Cũng trong giai đoạn này Norodom Sihanouk thực hiện chiến dịch mà ông gọi là 'Thánh chiến cho Độc lập' bằng các cuộc vận động ngoại giao ở Montreal, Washington và Tokyo. Trong thời gian này, ông cũng không chịu về Phnom Penh, mà ở Siem Reap và Battambang[1]. Ông làm việc này với mục tiêu giành độc lập hoàn toàn cho Campuchia trong vòng ba năm.[1]
Tháng 5 năm 1953, ông sang tị nạn tại Thái Lan và từ chối hồi hương cho đến khi có độc lập. Ông về nước ngày 9 tháng 11 năm 1953. Người Pháp trong khi đang thua trận ở miền Bắc Việt Nam, không còn sức lực đối phó với một tiền tuyến thứ hai nên đồng ý giao trả chủ quyền lại cho Campuchia vào ngày 9/11/1953, trước khi Việt Nam và Lào giành được độc lập.[1].
Ngày 2 tháng 3 năm 1955, ông thoái vị nhường ngôi cho cha mình là Suramarit. Sau đó ông giữ chức Thủ tướng vài tháng. Đầu tháng 4/1955, ông tuyên bố thành lập đảng Sangkum Reastr Niyum (Cộng đồng Xã hội Chủ nghĩa Bình dân) do ông lãnh đạo. Trong cuộc bầu cử Quốc hội ngày 11/9/1955, bằng các biện pháp ép buộc và dọa dẫm, đảng Sangkum Reastr Niyum giành 83% số phiếu và toàn bộ số ghế trong Quốc hội[1].
Từ 18/4/1955 đến 24/4/1955, Sihanouk dẫn đầu một đoàn đại biểu đi Bandung dự hội nghị của Phong trào Không liên kết[1]. Từ năm 1956 Sihanouk bắt đầu trở nên thân thiết với Mao Trạch Đông, Chu Ân Lai và Kim Il-sung. Sau này ông vẫn gắn bó với Trung Quốc đến mức sống những ngày cuối đời ở đất nước này[1].
Sau khi cha ông mất năm 1960, Sihanouk không đề cử ai làm Quốc vương mà được Quốc hội bổ nhiệm vào chức Quốc trưởng với danh vị hoàng thân[1].
Khi Chiến tranh Việt Nam xảy ra, Sihanouk tán thành chính sách Bên thứ 3 chủ trương Campuchia trung lập, đứng ngoài cuộc chiến, cùng đồng thời có quan hệ ngoại giao với cả Trung Quốc và Hoa Kỳ. Năm 1963, ông khước từ cứu trợ của Hoa Kỳ[1].
Trong giai đoạn 1966-1967, Sihanouk đã đàn áp chính trị loại bỏ các đảng cánh tả ở Campuchia. Ông đàn áp đảng Pracheachon cánh tả bằng cách buộc tội thành viên của đảng này hoạt động phục vụ Hà Nội[2] nhưng cũng làm mất lòng phe hữu do ông không nhận thức được tình hình kinh tế suy thoái do việc thực hiện quốc hữu hóa và độc quyền nhiều ngành công nghiệp, dịch vụ[1] (bị trầm trọng thêm bởi việc mất đi nguồn xuất khẩu gạo, do lực lượng Quân đội Nhân dân Việt Nam thu mua mất) và do sự hiện diện ngày càng tăng của lực lượng quân sự cộng sản trên đất Campuchia[2]. Việc đàn áp phe tả và mất tín nhiệm trước phe hữu cùng với những thay đổi trong chính sách ngoại giao làm cho thái độ cân bằng các bên để giữ thế trung lập khó duy trì được.
Hoàng thân Sirik Matak – người được chính phủ Pháp loại bỏ để trao ngôi vị cho Sihanouk - đã được giao chức Phó Thủ tướng. Sau khi mất quyền lực, Hoàng thân Sihanouk đến Bắc Kinh và bắt đầu ủng hộ Khmer Đỏ trong cuộc chiến lật đổ chính phủ Lon Nol ở Phnom Penh. Sihanouk đã đến nhiều nước trên thế giới để kêu gọi sự ủng hộ cho Khmer Đỏ. Khi nước Cộng hòa Khmer rơi vào tay Khmer Đỏ vào năm 1975, Hoàng thân Sihanouk trở thành nguyên thủ quốc gia hình thức của chính phủ mới khi Pol Pot còn nắm quyền lực. Ngày 4 tháng 4 năm 1976, Sihanouk từ chức vì sự tàn bạo của Khmer đỏ và nghỉ hưu. Sihanouk sang tị nạn tại Trung Quốc và Bắc Triều Tiên. Việc Sihanouk đứng đầu Khmer Đỏ trong suốt 6 năm từ 1971 đến 1976 là điều mà giới trí thức Campuchia không bao giờ quên được[1].
Năm 1978, quân đội Việt Nam sang lãnh thổ Campuchia đánh đổ Khmer Đỏ. Tháng 1/1979, Sihanouk tiếp tục tới Liên Hiệp Quốc ở New York để vận động cho Khmer Đỏ và kêu gọi Liên Hiệp Quốc gửi quân đến Campuchia tấn công quân Việt Nam[1].
Năm 1982, ông trở thành Chủ tịch Chính phủ Liên hiệp Campuchia Dân chủ bao gồm: Đảng Funcinpec của mình, Mặt trận giải phóng Campuchia của Son Sann và Khmer Đỏ. Quân Việt Nam rút khỏi Campuchia năm 1989, để lại chính phủ thân Việt Nam của Thủ tướng Hun Sen lãnh đạo Nước cộng hòa Nhân dân Campuchia.
Năm 1993, Sihanouk lại trở thành quốc vương Campuchia và con trai ông, thái tử Norodom Ranariddh làm thủ tướng. Theo Hiến pháp của Campuchia, quốc vương chỉ "trị vì nhưng không cai trị". Do bệnh tật, ông phải đi lại chữa trị ở Bắc Kinh nhiều lần. Thú tiêu khiển của Sihanouk: sáng tác âm nhạc bằng các thứ tiếng khác nhau (tiếng Khmer, tiếng Pháp và tiếng Anh), đạo diễn nhiều bộ phim và chỉ huy dàn nhạc. Ông có website riêng. Tháng 1 năm 2004, ông tự chuyển sang sống lưu vong tại Bình Nhưỡng, sau đó là Bắc Kinh, lấy lý do sức khỏe kém, ông tuyên bố thoái vị ngày 7 tháng 10 năm 2004. Hiến pháp Campuchia không cho phép tự thoái vị. Chea Sim, Chủ tịch Thượng viện Campuchia, tạm nắm giữ chức Quyền nguyên thủ Nhà nước cho đến ngày 14 tháng 10 khi Hội đồng Tôn vương bầu Norodom Sihamoni – một trong những người con trai của Sihanouk - lên làm quốc vương mới.
- Hoàng đế Nga
- Nhà Holstein-Gottorp-Romanov
- Vua Phần Lan
- Người Nga trong chiến tranh Krym
- Vua Ba Lan
- Vua bị ám sát
- Nạn nhân khủng bố Nga
- Hiệp sĩ Garter
- Hiệp sĩ Golden Fleece
- Người Moskva
- Sinh 1818
- Mất 1881
- Chôn cất ở Đại giáo đường Thánh Phêrô và Phaolô, Sankt-Peterburg
- Người nhận Huy chương Thánh Georghi cấp I
Norodom Sihanouk
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Norodom Sihanouk phát âm tiếng Khmer: /nɔɾoːdɔm siːhanuʔ/ phát âm tiếng Pháp: /noʀodɔm sjanuk/ |
|
---|---|
Sihanouk năm 1983 |
|
Quốc vương | |
24 tháng 9, 1993 – 7 tháng 10, 2004 |
|
Sisowath Monivong (đến 1941); Chea Sim (đến 1991) |
|
Norodom Suramarit (từ 1955); Norodom Sihamoni (từ 2004) |
|
Thủ tướng Campuchia đầu tiên Thủ tướng đầu tiên của Campuchia thời thuộc địa |
|
|
|
không có | |
Sơn Ngọc Thành | |
Quốc trưởng | |
19 tháng 8, 1975–2 tháng 4, 1976 14 tháng 11 năm 1991 – 24 tháng 9 năm 1993 |
|
Thông tin chung | |
Thê thiếp | Phat Kanhol 1942- Sisowath Pongsanmoni 1942-1951 Norodom Thavet Norleak 1943-Sisowath Monikessan 1944- Kanitha Norodom Norleak 1946- Mam Manivan Phanivong 1949- Norodom Monineath |
Sinh | 31 tháng 10, 1922 Phnôm Pênh, Campuchia |
Mất | 15 tháng 10, 2012 (89 tuổi) Bắc Kinh, CHND Trung Hoa |
Tôn giáo | Phật giáo |
Ông từng là vua của Campuchia trong nhiều giai đoạn cho đến ngày thoái vị để nhường ngôi cho quốc vương Norodom Sihamoni (7 tháng 10 năm 2004). Sihanouk là con trai của cựu quốc vương Norodom Suramarit và vương hậu Sisowath Kossamak. Sihanouk đã đảm nhiệm nhiều chức vụ khác nhau kể từ 1941, nhiều vị trí đến nỗi Sách kỷ lục Guiness đã đưa ông vào danh sách các chính khách giữ nhiều chức vụ nhất, bao gồm 2 lần làm vua, 2 lần thái tử, 1 lần chủ tịch nước, 2 lần thủ tướng và một lần quốc trưởng Campuchia và nhiều chức vụ khác nữa của chính phủ lưu vong. Phần lớn là chức vụ hình thức, kể cả lần cuối làm vua (trị vì nhưng không cai trị). Thời gian trị vì thực sự của ông hoàng này là từ 9 tháng 11 năm 1953 đến 18 tháng 3 năm 1970 (khi bị Lon Nol phế truất chức vụ Quốc trưởng).
Mục lục
Thời niên thiếu
Sihanouk học tiểu học tại Phnom Penh, trường Pháp École François Baudoin, học trung học tại Sài Gòn tại trường Lycée Chasseloup Laubat (nay là Trường Lê Quý Đôn, TP. HCM) cho đến khi lên ngôi, sau đó học tại trường binh bị Saumur, Pháp. Khi vua Sisowath Monivong (ông ngoại của Sihanouk) băng hà vào ngày 23 tháng 4 năm 1941, Hội đồng Tôn vương đưa Sihanouk lên ngôi vua. Ông đăng quang tháng 11 năm 1941.Thời kỳ trị vì
Giai đoạn 1941-1945
Trong giai đoạn 1941 - 1945 vua Sihanouk chưa bộc lộ xu hướng dân tộc chủ nghĩa của mình. Khi người Pháp bắt giữ, khép án chung thân và đày ra Côn Đảo các trí thức tập hợp xung quanh Viện Phật giáo và báo Khmer Nagarawatta vì lên kế hoạch bắt giữ các quan chức Pháp và tuyên bố độc lập sau khi một phần đất ở miền Tây Campuchia bị Thái Lan chiếm, Sihanouk đã không bày tỏ thái độ phản đối.[1]Giai đoạn 1945-1953
Tháng 3 năm 1945, sau khi Nhật đảo chính Pháp ở Campuchia, cơ quan an ninh quân sự Kempeitai khuyên Norodom Sihanouk nên tuyên bố độc lập và lãnh đạo chính quyền mới của Campuchia[1]. Sau khi quân đội Đồng minh tái chiếm Đông Dương vào cuối năm 1945, người Pháp trở lại Campuchia, Sihanouk hợp tác trở lại với người Pháp, do đó người Pháp cho phép chính quyền Sihanouk tổ chức bầu cử Quốc hội năm 1946. Trong cuộc bầu cử 1946, Đảng Dân chủ được cả người Pháp và Hoàng gia hậu thuẫn giành được 50 trong số 69 ghế, trong khi Đảng Tự do của Hoàng thân Norindeth chỉ được 16 ghế. Sau cuộc bầu cử năm 1951, Đảng dân chủ vẫn giữ 53 ghế còn Đảng Tự do 18 ghế. Quốc hội này đã thông qua bản Hiến pháp thành lập chính thể quân chủ lập hiến.[1].Thời kỳ này, vua Sihanouk có xu hướng dân tộc chủ nghĩa và bắt đầu yêu cầu Pháp trao trả chủ quyền và về nước.[cần dẫn nguồn] Ngày 15/6/1952, do tình hình chính trị bất ổn Sihanouk đã giải tán nội các Huy Kanthol và thay ông này làm Thủ tướng. Ngày 11/1/1953, ông cũng giải tán luôn Quốc hội và cho bắt giữ 17 đảng viên Dân chủ, giam họ 8 tháng mà không hề xét xử. Cũng trong giai đoạn này Norodom Sihanouk thực hiện chiến dịch mà ông gọi là 'Thánh chiến cho Độc lập' bằng các cuộc vận động ngoại giao ở Montreal, Washington và Tokyo. Trong thời gian này, ông cũng không chịu về Phnom Penh, mà ở Siem Reap và Battambang[1]. Ông làm việc này với mục tiêu giành độc lập hoàn toàn cho Campuchia trong vòng ba năm.[1]
Tháng 5 năm 1953, ông sang tị nạn tại Thái Lan và từ chối hồi hương cho đến khi có độc lập. Ông về nước ngày 9 tháng 11 năm 1953. Người Pháp trong khi đang thua trận ở miền Bắc Việt Nam, không còn sức lực đối phó với một tiền tuyến thứ hai nên đồng ý giao trả chủ quyền lại cho Campuchia vào ngày 9/11/1953, trước khi Việt Nam và Lào giành được độc lập.[1].
Giai đoạn 1954-1964
Ngày 17/2/1955 Sihanouk cho mở một cuộc trưng cầu dân ý với câu hỏi:"Người dân có hài lòng với việc Quốc vương thực hiện cam kết Thánh chiến Hoàng gia của mình hay không?" Kết quả cuộc trưng cầu dân ý là 99,9% người được hỏi trả lời “Có”[1].Ngày 2 tháng 3 năm 1955, ông thoái vị nhường ngôi cho cha mình là Suramarit. Sau đó ông giữ chức Thủ tướng vài tháng. Đầu tháng 4/1955, ông tuyên bố thành lập đảng Sangkum Reastr Niyum (Cộng đồng Xã hội Chủ nghĩa Bình dân) do ông lãnh đạo. Trong cuộc bầu cử Quốc hội ngày 11/9/1955, bằng các biện pháp ép buộc và dọa dẫm, đảng Sangkum Reastr Niyum giành 83% số phiếu và toàn bộ số ghế trong Quốc hội[1].
Từ 18/4/1955 đến 24/4/1955, Sihanouk dẫn đầu một đoàn đại biểu đi Bandung dự hội nghị của Phong trào Không liên kết[1]. Từ năm 1956 Sihanouk bắt đầu trở nên thân thiết với Mao Trạch Đông, Chu Ân Lai và Kim Il-sung. Sau này ông vẫn gắn bó với Trung Quốc đến mức sống những ngày cuối đời ở đất nước này[1].
Sau khi cha ông mất năm 1960, Sihanouk không đề cử ai làm Quốc vương mà được Quốc hội bổ nhiệm vào chức Quốc trưởng với danh vị hoàng thân[1].
Khi Chiến tranh Việt Nam xảy ra, Sihanouk tán thành chính sách Bên thứ 3 chủ trương Campuchia trung lập, đứng ngoài cuộc chiến, cùng đồng thời có quan hệ ngoại giao với cả Trung Quốc và Hoa Kỳ. Năm 1963, ông khước từ cứu trợ của Hoa Kỳ[1].
Giai đoạn 1965-1969
Nhưng đến năm 1965, sau khi Mỹ đưa quân vào Việt Nam bảo vệ Việt Nam Cộng hòa, ông cắt đứt quan hệ ngoại giao với Mỹ và Anh[1]. Mùa xuân 1965, ông thỏa thuận với Trung Quốc và Bắc Việt Nam cho phép sự hiện diện của các căn cứ Việt Nam ở sát biên giới Campuchia - Việt Nam đồng thời cho phép viện trợ của Trung Quốc cho Việt Nam thông qua các cảng Campuchia. Campuchia được đền bù bằng cách Trung Quốc mua gạo của Campuchia với giá cao. Ông cũng nhiều lần lên tiếng rằng chiến thắng của phe cộng sản ở Đông Nam Á là không thể tránh khỏi và cho rằng chủ nghĩa Mao đáng để mọi người thi đua. Chính sách hữu hảo với Trung Quốc của ông bị phá sản do thái độ cực đoan của Trung Quốc vào thời kỳ cao trào của Cách mạng văn hóa.Trong giai đoạn 1966-1967, Sihanouk đã đàn áp chính trị loại bỏ các đảng cánh tả ở Campuchia. Ông đàn áp đảng Pracheachon cánh tả bằng cách buộc tội thành viên của đảng này hoạt động phục vụ Hà Nội[2] nhưng cũng làm mất lòng phe hữu do ông không nhận thức được tình hình kinh tế suy thoái do việc thực hiện quốc hữu hóa và độc quyền nhiều ngành công nghiệp, dịch vụ[1] (bị trầm trọng thêm bởi việc mất đi nguồn xuất khẩu gạo, do lực lượng Quân đội Nhân dân Việt Nam thu mua mất) và do sự hiện diện ngày càng tăng của lực lượng quân sự cộng sản trên đất Campuchia[2]. Việc đàn áp phe tả và mất tín nhiệm trước phe hữu cùng với những thay đổi trong chính sách ngoại giao làm cho thái độ cân bằng các bên để giữ thế trung lập khó duy trì được.
Bị phế truất và hợp tác với Khmer Đỏ
Ngày 18 tháng 3, 1970, trong lúc ông đang ở nước ngoài, Lon Nol - thủ tướng chính phủ - cho quân đội bắt giữ chính quyền dân sự ở Phnompenh và bố trí xe tăng bao vây toà nhà Quốc hội sau đó triệu tập Quốc Hội bỏ phiếu phế truất Sihanouk khỏi vị trí Quốc trưởng và trao quyền lực khẩn cấp cho Lon Nol. Việc đàn áp đối lập và các chính sách kinh tế sai lầm của Sihanouk, cũng như thái độ xích lại gần Việt Nam và Trung Quốc của ông cùng với áp lực của Lon Nol khiến Quốc hội bỏ phiếu bãi nhiệm ông.[1] Sihanouk gọi đây là âm mưu đảo chính của CIA và buộc phải đi an dưỡng ở biệt thự riêng của gia đình ông tại Riviera một thời gian[1].Hoàng thân Sirik Matak – người được chính phủ Pháp loại bỏ để trao ngôi vị cho Sihanouk - đã được giao chức Phó Thủ tướng. Sau khi mất quyền lực, Hoàng thân Sihanouk đến Bắc Kinh và bắt đầu ủng hộ Khmer Đỏ trong cuộc chiến lật đổ chính phủ Lon Nol ở Phnom Penh. Sihanouk đã đến nhiều nước trên thế giới để kêu gọi sự ủng hộ cho Khmer Đỏ. Khi nước Cộng hòa Khmer rơi vào tay Khmer Đỏ vào năm 1975, Hoàng thân Sihanouk trở thành nguyên thủ quốc gia hình thức của chính phủ mới khi Pol Pot còn nắm quyền lực. Ngày 4 tháng 4 năm 1976, Sihanouk từ chức vì sự tàn bạo của Khmer đỏ và nghỉ hưu. Sihanouk sang tị nạn tại Trung Quốc và Bắc Triều Tiên. Việc Sihanouk đứng đầu Khmer Đỏ trong suốt 6 năm từ 1971 đến 1976 là điều mà giới trí thức Campuchia không bao giờ quên được[1].
Năm 1978, quân đội Việt Nam sang lãnh thổ Campuchia đánh đổ Khmer Đỏ. Tháng 1/1979, Sihanouk tiếp tục tới Liên Hiệp Quốc ở New York để vận động cho Khmer Đỏ và kêu gọi Liên Hiệp Quốc gửi quân đến Campuchia tấn công quân Việt Nam[1].
Năm 1982, ông trở thành Chủ tịch Chính phủ Liên hiệp Campuchia Dân chủ bao gồm: Đảng Funcinpec của mình, Mặt trận giải phóng Campuchia của Son Sann và Khmer Đỏ. Quân Việt Nam rút khỏi Campuchia năm 1989, để lại chính phủ thân Việt Nam của Thủ tướng Hun Sen lãnh đạo Nước cộng hòa Nhân dân Campuchia.
Lần trị vì cuối cùng
Các đảng phái ở Campuchia đã đàm phán đến năm 1991 và các bên đã đòng ý ký thỏa thuận hòa giải toàn diện ở Paris. Ngày 14 tháng 11 năm 1991, Hoàng thân Norodom Sihanouk trở về Campuchia sau 13 năm lưu vong. Trong cuộc bầu cử 1993, đảng Nhân dân Cách mạng Campuchia thất cử. Sihanouk đã can thiệp để buộc con trai là Hoàng thân Ranariddh và đảng FUNCIPEC của ông này tiếp nhận Hun Sen làm đồng thủ tướng nhằm đổi lấy việc trở lại ngai vàng. Sau đó Hun Sen thực hiện đảo chính đổ máu lật đổ Hoàng thân Ranariddh vào năm 1997[1].Năm 1993, Sihanouk lại trở thành quốc vương Campuchia và con trai ông, thái tử Norodom Ranariddh làm thủ tướng. Theo Hiến pháp của Campuchia, quốc vương chỉ "trị vì nhưng không cai trị". Do bệnh tật, ông phải đi lại chữa trị ở Bắc Kinh nhiều lần. Thú tiêu khiển của Sihanouk: sáng tác âm nhạc bằng các thứ tiếng khác nhau (tiếng Khmer, tiếng Pháp và tiếng Anh), đạo diễn nhiều bộ phim và chỉ huy dàn nhạc. Ông có website riêng. Tháng 1 năm 2004, ông tự chuyển sang sống lưu vong tại Bình Nhưỡng, sau đó là Bắc Kinh, lấy lý do sức khỏe kém, ông tuyên bố thoái vị ngày 7 tháng 10 năm 2004. Hiến pháp Campuchia không cho phép tự thoái vị. Chea Sim, Chủ tịch Thượng viện Campuchia, tạm nắm giữ chức Quyền nguyên thủ Nhà nước cho đến ngày 14 tháng 10 khi Hội đồng Tôn vương bầu Norodom Sihamoni – một trong những người con trai của Sihanouk - lên làm quốc vương mới.
Qua đời
Sihanouk qua đời vì bệnh tim tại thủ đô Bắc Kinh của Trung Quốc vào lúc 2 giờ 25 phút ngày 15 tháng 10 năm 2012 theo giờ địa phương. Hai ngày sau, Quốc vương Norodom Sihamoni tới Bắc Kinh mang di hài cha mình về Campuchia.Tang lễ
Sau một tuần tang lễ vào tháng 10 năm 2012, thi hài ông được lưu giữ trong Cung điện Hoàng gia để người dân tới bày tỏ sự tôn kính cuối cùng. Vào ngày 4 tháng 2 năm 2013 (sau ba tháng được lưu giữ trong Cung điện Hoàng gia), Campuchia tiến hành lễ hỏa thiêu thi hài cựu quốc vương Norodom Sihanouk. Một phần tro cốt của ông được rải gần nơi hợp lưu của 4 con sông tại Phnom Penh. Trong khi phần tro cốt còn lại sẽ được đưa về cung điện hoàng gia vào ngày 7 tháng 2 năm 2013, nằm cạnh cô con gái Kunthea Buppha, theo ý nguyện của cựu quốc vương.Tham khảo
Liên kết ngoài
Wikimedia Commons có thêm thể loại hình ảnh và tài liệu về Norodom Sihanouk |
Thể loại:
Video yêu thích
http://www.youtube.com/user/hoangkimvietnam
Trở về trang chính
Hoàng Kim, hoangkim, hoangkimvietnam, Ngọc Phương Nam, Chào ngày mới Thung dung, Dạy và học, Cây Lương thực, Tin Nông nghiệp Việt Nam, Food Crops, Cassava in Vietnam, Khát khao xanh, Dayvahoc, Học mỗi ngày, Danh nhân Việt , Food Crops News, Điểm chính, CNM365, Kim LinkedIn, KimTwitter, KimFaceBook Đọc lại và suy ngẫm, Việt Nam tổ quốc tôi, Tình yêu cuộc sống, Thơ cho con
http://www.youtube.com/user/hoangkimvietnam
Trở về trang chính
Hoàng Kim, hoangkim, hoangkimvietnam, Ngọc Phương Nam, Chào ngày mới Thung dung, Dạy và học, Cây Lương thực, Tin Nông nghiệp Việt Nam, Food Crops, Cassava in Vietnam, Khát khao xanh, Dayvahoc, Học mỗi ngày, Danh nhân Việt , Food Crops News, Điểm chính, CNM365, Kim LinkedIn, KimTwitter, KimFaceBook Đọc lại và suy ngẫm, Việt Nam tổ quốc tôi, Tình yêu cuộc sống, Thơ cho con
No comments:
Post a Comment