CNM365 Chào ngày mới 25 tháng 2 Wikipedia Ngày này năm xưa Ngày Quyền lực Nhân dân tại Philippines. Năm 1875 – Ái Tân Giác La Tái Điềm lên ngôi hoàng đế triều Thanh khi chưa tròn 4 tuổi, Từ Hi thái hậu và Từ An thái hậu đồng nhiếp chính. Năm 1947 – Hội đồng quản chế Đồng Minh ra Đạo luật số 46, chính thức tuyên bố giải thể nước Phổ (xanh đậm trong bản đồ). Năm 1956 – Trong bài diễn văn Về sùng bái cá nhân và những hậu quả của nó của mình, nhà lãnh đạo Liên Xô Nikita Khrushchev lên án sự sùng bái cá nhân của Stalin. Năm 2009 – Các thành viên của Lực lượng biên phòng Bangladesh nổi loạn tại tổng hành dinh ở thủ đô Dhaka.
Phổ (quốc gia)
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Xin xem các mục từ khác có tên tương tự ở Phổ (định hướng).
|
Nước Phổ phát triển rực rỡ nhất trong thế kỉ 18 và thế kỷ 19. Trong suốt thế kỉ thứ 18, dưới triều đại của ông vua nhà binh Friedrich II Đại Đế (1740 – 1786) - được xem là vị thống soái kiệt xuất nhất trong thời đại của ông,[2][3] Vương quốc Phổ vươn lên đứng trong hàng ngũ các cường quốc hàng đầu châu Âu, là một cường quốc của thế giới. Trong suốt những năm tháng trị quốc, vua Friedrich II Đại Đế rất năng nổ.[4] Nhờ tài năng lãnh đạo xuất sắc và những chiến thuật siêu việt, ông đã phát binh đánh bại được tất cả các quốc gia trên toàn lục địa châu Âu.[5] Cuộc chiến tranh Bảy năm (1756 - 1763) đã chứng tỏ chủ nghĩa anh hùng và sự huy hoàng của nước Phổ, cùng với thiên tài quân sự của ông vua nhà binh Friedrich II Đại Đế, qua việc ông chống lại những kẻ thù hùng mạnh như Đế quốc Nga, Đế quốc Áo và Pháp, mà giữ vững Vương quốc Phổ.[6][7][8][9] Sức mạnh của nước Phổ được ông gia tăng rất lớn, và chiếm được đất từ nước Ba Lan và xứ Franconia.[10]
Cuối triều vua Friedrich II Đại Đế, nước Phổ và thiết lập "Liên minh các Vương hầu" với các tiểu quốc của người Đức.[11] Nếu triều đại của ông gắn liền với triết học Khai sáng thì nước Phổ trong những năm tháng sau này gắn liền với những cuộc chinh phạt tàn khốc của Hoàng đế Pháp là Napoléon Bonaparte và những chính sách "Sắt và Máu" của Thủ tướng Otto von Bismarck.[12] Trong suốt thế kỉ 19, Quân đội Phổ đánh tan tác quân Pháp của Napoléon,[13] Triều đình Phổ đánh bại được phong trào tự do, xây dựng một Nhà nước chuyên chế mới,[14] và Thủ tướng Otto von Bismarck theo đuổi mục tiêu thống nhất nước Đức nhưng không bao gồm Đế quốc Áo, gọi là Giải pháp nước Đức nhỏ. Vương quốc Phổ thống trị miền bắc nước Đức về mặt chính trị, kinh tế, và dân số, và là trụ cột của Liên minh Bắc Đức thành lập vào năm 1867, trở thành Đế chế Đức (Deutsches Reich) vào năm 1871. Trong thế kỷ XIX, quá trình công nghiệp hóa đất nước cũng diễn ra nhanh chóng.[14]
Với sự kết thúc của triều đại Hohenzollern ở Đức theo sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, Phổ trở thành một phần của Cộng hòa Weimar vào năm 1919 với tư cách một quốc gia tự do. Nước Phổ trên thực tế bị chính quyền Quốc xã hủy bỏ vào năm 1934 và chính thức bị phe Đồng Minh khai tử sau Chiến tranh thế giới thứ hai năm 1947.
Kể từ đó, từ "Phổ" chỉ còn được sử dụng giới hạn trong các lĩnh vực lịch sử, địa lý, hoặc văn hóa. Thậm chí ngày nay, có một kiểu phong cách được gọi là "các giá trị Phổ", ví như: tổ chức hoàn hảo, tinh thần hy sinh, tôn trọng luật pháp, tuân phục nhà nước, tinh thần thượng võ, cũng như đáng tin cậy, khoan dung tôn giáo, điều độ, thực tế, tiết kiệm, đúng hẹn, khiêm tốn, và cần mẫn. Rất nhiều người Phổ tin rằng những giá trị đó là nguyên nhân làm đất nước họ trở nên lớn mạnh. Vua Friedrich Wilhelm I đã xây dựng một lực lượng Quân đội Phổ kỷ luật xuất sắc, mang lại chiến thắng cho người con huy hoàng của ông là vua Friedrich II Đại Đế sau này.[15] Với tinh thần kỷ luật khắc khe, nước Phổ hùng mạnh đã trở thành một "Vương quốc Sắt".[1]
Mục lục
- 1 Nguồn gốc quốc hiệu
- 2 Biểu trưng
- 3 Địa lý và dân số
- 4 Lịch sử thời xưa
- 5 Lịch sử nước Phổ (1701 - 1786)
- 6 Lịch sử nước Phổ (1786 - 1850)
- 7 Chiến tranh thống nhất nước Đức
- 8 Đế chế Đức
- 9 Quốc gia Phổ Tự do trong khuôn khổ Cộng hòa Weimar
- 10 Nước Phổ chấm dứt
- 11 Xem thêm
- 12 Chú thích
- 13 Tài liệu tham khảo
- 14 Đọc thêm
- 15 Liên kết ngoài
Nguồn gốc quốc hiệu
Danh xưng "Phổ" trong tiếng Việt là giản xưng của dịch danh Trung văn của quốc hiệu nước Phổ là Phổ Lỗ Tây (普魯西), còn dịch là Phổ Lỗ Sĩ (普魯士).Quốc hiệu nước Phổ bắt nguồn từ tên gọi của người Phổ Lỗ Sĩ cổ, một tộc quần người Balt có liên quan đến người Litva và người Latvia; người Phổ Lỗ Sĩ cổ bị các hiệp sĩ Tơ-tông, (tiếng Đức: Deutscher Orden, tiếng Anh: Teutonic Knights), chinh phục rồi dần bị đồng hóa.
Biểu trưng
Lá cờ của Phổ mang màu trắng và đen, bắt nguồn từ màu áo choàng trắng thêu thánh giá đen của các Hiệp sĩ Teuton (Đức). Lá cờ đen-trắng-đỏ của Liên minh miền bắc nước Đức là tổ hợp của lá cờ này với lá cờ màu trắng-đỏ của đồng minh Hanse, gồm các thành phố tự do Bremen, Hamburg và Lübeck, tạo thành cờ Liên bang miền bắc Đức, sau trở thành cờ của Đế chế Đức vào năm 1871.Kể từ sau Cải cách Tôn giáo, khẩu hiệu của Phổ là Suum cuique (tiếng Anh: to each, his own, tiếng Đức: Jedem das Seine). Ngoài ra nó còn là khẩu hiệu trên Huân chương Đại bàng Đen, dược đặt ra bởi vua Friedrich I (xem huân chương Thập tự Sắt). Trên huy hiệu của Phổ có vẽ một con đại bàng đen trên nền trắng.
Địa lý và dân số
Phổ bắt nguồn từ một lãnh địa nhỏ mà sau này được gọi Đông Phổ, giờ là tỉnh Warmia-Masuria của Ba Lan, lãnh thổ hải ngoại Kaliningrad của Nga và vùng Klaipėda của Litva. Cư dân nguyên thủy của vùng này là người Phổ cổ, sau cải theo đạo Ki-tô và bị Đức hóa. Sau này Phổ được người Đức theo đạo Tin Lành ưa chuộng nên nhiều người di cư đến, cũng như nhiều người người Ba Lan và người Litva đến sống ở các khu vực dọc theo biên giới Phổ.Lãnh thổ Vương quốc Phổ trước khi bị xóa bỏ bao gồm đất Phổ "gốc" (Đông và Tây Phổ), Brandenburg, tỉnh Sachsen (gồm phần lớn bang Sachsen-Anhalt ngày này và một phần bang Thüringen), Pomerania, Rheinland-Pfalz, Nordrhein-Westfalen, Schlesien (ngoại trừ phần Schlesien thuộc Áo), Lausitz, Schleswig-Holstein, Hanover, Hesse-Nassau, và một vài lãnh địa nhỏ nằm tách biệt ở miền nam, như Hohenzollern, đất tổ của Hoàng gia Phổ. Tới năm 1914, Phổ có diện tích 354.490 km². Tháng 5 năm 1939, Phổ có diện tích 297.007 km² và dân số 41.915.040 người. Xứ Neuenburg, nay thuộc tổng Neuchâtel ở Thụy Sĩ cũng là một phần của Vương quốc Phổ từ năm 1707 tới 1848.
Đại đa số người Phổ theo đạo Tin Lành. Phần phía nam của vùng Masuria thuộc Đông Phổ có dân cư là người Masur bị Đức hóa và theo Tin Lành. Điều này lý giải phần nào việc các vương quốc Đức theo Công giáo miền nam, đặc biệt là Áo và Bavaria phản kháng lại rất quyết liệt việc Phổ trở thành bá chủ nước Đức.
Một phần đáng kể dân chúng sống ở Rheinland và một số vùng Nordrhein-Westfalen theo Công giáo Rôma. Tương tự vậy, Tây Phổ, Warmia, Schlesien, và tỉnh Posen có đa phần dân chúng theo Công giáo, vì nước Phổ giành được các vùng đó từ các quốc gia Công giáo như Vương quốc Ba Lan và Đế quốc Áo.
Vùng lãnh thổ Đại Ba Lan là đất phát sinh quốc gia Ba Lan trở thành tỉnh Posen của Phổ sau "Cuộc chia cắt Ba Lan". Người Ba Lan chiếm đa số trong tỉnh (62% là người Ba Lan, 38% là người Đức) chống lại sự thống trị của người Đức, tương tự vậy, vùng Thượng Schlesien có một số lớn dân cư là người Ba Lan.
Theo Hiệp ước Versailles năm 1919, nền Cộng hoà thứ hai của Ba Lan giành lại được hai vùng này, cùng với các khu vực thuộc Tây Phổ nhưng có đa số dân là người Đức. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Đông Phổ, Schlesien, phần lớn Pomerania và một phần của Brandenburg bị Liên bang Xô viết và Ba Lan chiếm.
Lịch sử thời xưa
Vào năm 1226 Công tước Konrad I của Masovia mời các Hiệp sĩ Teuton, một dòng tu chiến binh Đức, đại bản doanh đặt tại thành phố Acre ở Vương quốc Jerusalem, chinh phạt các bộ lạc Phổ trên vùng biên giới lãnh thổ của ông. Sau sáu mươi năm chiến tranh với người Phổ, họ đã dựng nên một quốc gia độc lập mà về sau nắm luôn quyền điều khiển Phổ. Sau khi dòng Hiệp sĩ Thanh gươm của Livonia gia nhập dòng Hiệp sĩ Teuton năm 1237, họ kiểm soát luôn vùng Livonia, bây giờ là Estonia, Latvia và tây Litva.Các Hiệp sĩ này chỉ chịu ở dưới quyền Giáo hoàng Rôma và Hoàng đế Đức. Ban đầu, họ liên hệ mật thiết với Hoàng gia Ba Lan, nhưng về sau, mối quan hệ này bị đổ vỡ khi họ đánh chiếm các vùng đất mà Ba Lan tuyên bố sở hữu là Pomerelia và Danzig (Gdańsk), một thành phố với cư dân chủ yếu là người Đức. Dòng tu Hiệp sĩ Teuton cuối cùng bị đánh bại trong trận chiến Grunwald năm 1410 bởi Liên minh Ba Lan và Litva, thành lập thông qua Hiệp ước liên minh Krewo.
Trong cuộc "chiến tranh Mười ba năm" (1454-1466), Liên minh Phổ, bao gồm các thành phố đồng minh Hasen ở tây Phổ nổi dậy chống lại dòng Hiệp sĩ Teuton và cầu viện vua Ba Lan. Các Hiệp sĩ Teuton buộc phải chấp nhận thần phục vua Kazimierz IV Jagiellonczyk theo Hòa ước Thorn, đồng thời mất đi vùng tây Phổ cho Ba Lan.
Năm 1525, Đại Trưởng lão Albert Brandenburg-Ansbach, thuộc một chi nhánh của nhà Hohenzollern, cải theo đạo Tin lành dòng Lutheran và nhập các lãnh địa còn lại của dòng tu vào Công quốc Phổ. Đây là khu vực nằm phía đông cửa sông Vistula, về sau được gọi là lãnh thổ Phổ "gốc". Lần đầu tiên, các lãnh địa này rơi vào tay một chi nhánh của nhà Hohenzollern, chủ nhân lãnh địa Brandenburg về phía tây với trung tâm là Berlin và đã nằm dưới sự cai trị của nhà Hohenzollern từ thế kỷ 15. Hơn thế nữa, khi từ bỏ dòng tu, Albert có thể lập gia đình và có con.
Phổ và Brandenburg được thống nhất hai thế hệ sau đó. Anna, cháu nội của Albert và là con gái của Công tước Albrecht Friedrich (tại vị 1568-1618), thành hôn với người anh họ là Tuyển hầu Johann Sigismund của xứ Brandenburg.
Khi Albrecht Friedrich qua đời năm 1618 mà không có con trai nối nghiệp, Johann Sigismund được trao quyền thừa kế Phổ, cho tới khi đó vẫn chỉ là vùng đất phong thuộc Ba Lan. Kể từ nay, Công quốc Phổ được sát nhập với lãnh địa Brandenburg. Vùng lãnh địa này được gọi là Brandenburg-Phổ, bao gồm nhiều mảnh lãnh địa nằm rải rác trong Phổ, Brandenburg, cũng như các lãnh địa Cleves và Mark trong vùng Rhineland. Vào năm 1618, vùng đất Đức lâm vào cuộc Chiến tranh Ba mươi năm tàn khốc.[16]
Trong suốt cuộc Chiến tranh ba mươi năm, những lãnh địa rời rạc của nhà Hohenzollern bị nhiều đoàn quân viễn chinh khác nhau giày xéo, đặc biệt là quân của Thụy Điển. Bá tước George William (1619-1640) không có năng lực quân sự, phải chạy trốn khỏi Berlin sang Königsberg, kinh đô truyền thống của Đại công quốc Phổ vào năm 1637. Người kế vị ông ta, Friedrich Wilhelm I (1640-1688), tiến hành cải cách quân đội để bảo vệ lãnh thổ. Năm 1641, Friedrich Wilhelm I sang Warszawa triều kiến vua Ba Lan là Władysław IV Vasa để tỏ lòng trung thành của mình, do lãnh địa Phổ của ông vẫn được coi là đất phong của triều đình Ba Lan cho ông. uy nhiên về sau, lợi dụng tình trạng đối đầu gay go giữa Ba Lan và Thụy Điển trong các cuộc Chiến tranh Bắc Âu, cũng như mối quan hệ thân thiện của ông với nước Nga trong một loạt các cuộc chiến tranh Nga-Ba Lan, Friedrich Wilhelm đã có thể xoay xở để thoát khỏi nghĩa vụ chư hầu với vua Ba Lan. Ông giành được quyền tự chủ cho Phổ trong Hòa ước Wehlau vào năm 1657. Ông xây dựng một lực lượng Quân đội thường trực, với 30.000 quân tinh nhuệ.[17] Đến cả vị anh hùng của Stalin là Nga hoàng Pyotr Đại Đế cũng phải thán phục xứ Phổ của vị Tuyển hầu tước vĩ đại.[18]
Vào năm 1675, ông đánh tan tác quân Thụy Điển trong trận Fehrbellin, qua đó ông trở thành vị "Tuyển hầu tước vĩ đại".[19] Với chiến công hiển hách của ông, dân tộc Đức quay trở lại thời kỳ hùng mạnh.[20] Quân đội Phổ đã giành chiến thắng trong chiến dịch chống Thụy Điển, và chiến thắng tại Fehrbellin trở thành một ký ức cao đẹp của dân tộc Phổ - Brandenburg, về sự phát triển của truyền thống quân sự của họ. Lực lượng Quân sự độc lập đã đặt nền tảng cho Vương triều Hohenzollern đưa nước Phổ lên hàng liệt cường, chứ không phải là những Liên minh đã đưa xứ Phổ đến tình hình tồi tệ như trong cuộc Chiến tranh Ba mươi năm.[17] "Tuyển hầu tước vĩ đại" cũng truyền lệnh cho 20.000 tín đồ Kháng Cách Pháp đến tị nạn trên đất Phổ.[21] Ban đầu ông dựa theo hình mẫu của người Hà Lan mà xây dựng Quân đội, nhưng từ sau 1685, những người Pháp tị nạn đã truyền bá vào xứ Phổ cách rèn luyện quân sự mới nhất của nước Pháp.[17] Tuy ông bị mất một số đất đai mà ông chinh phạt được, ông vẫn luôn được biết bao người châu Âu nể trọng; và, vào năm 1757, khi vị vua kiên quyết Friedrich II Đại Đế tuyệt vọng vì bị nhiều nước vây hãm, Voltaire đã lấy chuyện này ra để khuyên nhà vua hồi phục và đóng vai trò quan trọng trên chính trường châu Âu. Với tư tưởng sắt đá của mình, ông đã nghe theo Voltaire...[22] Vị Tuyển hầu tước vĩ đại cũng gửi một đạo quân đến giúp Hoàng đế Áo là Leopold I đánh đuổi quân Thổ Ottoman ra khỏi kinh thành Viên.[23]
Lịch sử nước Phổ (1701 - 1786)
Vào năm 1701 con trai của Friedrich Wilhelm, Tuyển hầu Friedrich III tự xưng là Vua Friedrich I của Phổ. Để không xúc phạm đến hoàng đế Đức là Leopold I, vì phần lớn lãnh thổ thuộc Phổ nằm trong Đế quốc La Mã thần thánh dân tộc Đức, Friedrich chỉ được phép xưng là "Đức Vua ở Phổ", chứ không phải "Đức Vua của Phổ". Dù vậy, Brandenburg vẫn được hiểu là một phần vủa vương quốc Phổ, hơn là một lãnh địa riêng biệt. Như thế là ông xưng làm Quốc vương đúng 170 năm trước khi vua Wilhelm I xưng làm Hoàng đế nước Đức vào năm 1871.[24] Nước Phổ trở nên thịnh vượng dưới thời vua Friedrich I, ông sử dụng cả ngân sách Hoàng gia để bảo trợ nghệ thuật nước nhà. Không những là một ông vua xa hoa, ông còn gầy dựng một lực lượng Quân đội Phổ bao gồm 40.000 binh sĩ, dù phải đối mặt với những khó khăn do những dịch bệnh và chính sự ăn chơi của ông. Ông cho quân tham chiến với liên quân chống Pháp trong cuộc Chiến tranh Kế vị Tây Ban Nha, và cuộc chiến này có tầm quan trọng quyết định đối với sự trỗi dậy của truyền thống quân sự của dân tộc Phổ. Không những Quân đội Phổ có được danh tiếng trên trận tiền, những tướng tá Phổ như Vương công Leopold I xứ Anhalt-Dessau (còn gọi là "Ông già Dessauer", một công thần dưới các triều vua Friedrich Wilhelm I và Friedrich II Đại Đế sau này[25]) đã học hỏi được những bí quyết giúp danh tướng John Churchill, Quận công Marlborough thứ nhất đập tan tác Quân đội của vua Louis XVI.[17] Từ năm 1740 cho đến năm 1797, mọi Quân vương nước Phổ đều nhận thức rõ việc mở mang bờ cõi. Trong các di chúc chính trị của mình, vị Tuyển hầu tước vĩ đại cùng với các vua Friedrich I, Friedrich Wihelm I và Friedrich II Đại Đế đều cho rằng đang tiến hành một kế hoạch đồ sộ mang tính lịch sử, và qua đó, những vị vua kế tục phải tiếp nối sự nghiệp đang dang dở của vua cha.[26]Vào năm 1713, ông qua đời và Triều đình Phổ không còn xa hoa như xưa.[17] Ông được kế vị bởi người con trai, vua Friedrich Wilhelm I (1713-1740), một "ông vua nhà binh" khắc khổ, không màng đến nghệ thuật, sống tằn tiện và thực tế. Ông thuê mướn những Goliath của các nước khác, một Quân đội thường trực khét tiếng hùng mạnh ở châu Âu, một hệ thống hành chính Phổ rất được ca ngợi và cải cách kinh tế. Lúc ông lên nối ngôi báu, lực lượng Quân đội Phổ chỉ có 40.000 binh sĩ, nhưng sau khi ông qua đời vào năm 1740, họ có đến 80.000 quân tinh nhuệ. Ông chi phí tốn kém cho binh cách, vì nhận thấy tầm quan trọng của một Quân đội hùng mạnh đối với đất nước.[27] Ngay từ năm 1709, khi còn ở ngôi Hoàng thái tử, ông tham chiến cùng Quân đội Phổ trong cuộc Chiến tranh Kế vị Tây Ban Nha, đánh trận Malplaquet.[28] Là vị cha để của bộ máy hành chính Nhà nước Phổ, ông được xem là vị vua vĩ đại nhất của nước Phổ về mặt đối nội.[29] Dù vậy, Quân đội Phổ chỉ xung trận trong một thời gian ngắn trong Đại chiến Bắc Âu, chống quân Thụy Điển. Với tinh thần kỷ luật khắc khe, nhà vua thường mặc chiến bào thay vì những bộ long bào xa xỉ, và đặc điểm này của ông sẽ còn có ở con trai ông là vị vua vinh quang Friedrich II Đại Đế và nhiều vị vua kế tục, cho thấy khi nền quân chủ Phổ của Vương triều Hohenzollern sụp đổ sau cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ nhất.[30]
Khác với vua Louis XIV của Pháp, ông và vua con Friedrich II Đại Đế đều là những ông vua nhà binh.[31] Vua Friedrich Wilhelm I định cư trên 2 vạn người tị nạn Tân giáo từ vùng Salzburg vào các vùng đất thưa dân ở phía đông Phổ, mở mang nó đến tận bờ tây sông Memel và các vùng khác. Ông cũng giành được vùng đất Tây Pomerania cho đến tận sông Peene từ tay Thụy Điển vào năm 1720. Tuy Quốc vương Friedrich Wilhelm I chỉ xưng làm "Đức Vua ở Phổ", dưới triều đại của ông, người ta thường gọi ông là "Đức Vua của Phổ" hơn hẳn Vương hiệu chính thức của ông.[32] Như vua Phổ Friedrich II Đại Đế đã nói sau này, Vương quốc Phổ của ông đã trở thành "xứ Sparta của phương Bắc".[33] Vào thập niên 1730, Chiến tranh Kế vị Ba Lan bùng nổ giữa liên quân Nga - Áo và Pháp, Quốc vương Friedrich Wilhelm I phái một đạo quân do Hoàng thái tử Friedrich đến liên minh với quân Áo, và cuộc chiến tranh kết thúc với chiến bại của quân Pháp.[34] Và, sau khi vua Friedrich Wilhelm qua đời, một "nhân vật kiệt xuất" lên ngai vàng trên đất Đức vào năm 1740 ("que le grand groppe au ryn sera getté") - đúng như nhà tiên tri Nostradamus người Pháp đã tiên đoán, đó là một vị danh tướng lớn trong lịch sử - vua Friedrich II Đại Đế, được coi là bậc thầy của những chiến thuật và chiến lược lừng danh.[3][35] Khác với vua cha Friedrich Wilhelm I, sau này ông không để yên cho nước Nga và Áo được tự do can thiệp vào tình hình Ba Lan, sau khi ông đưa nước Phổ trở thành một liệt cường lớn mạnh chứ không phải là một nước chư hầu của các quốc gia phong kiến phía Đông.[34]
Là một trong những Quân vương ngự trị lâu dài nhất của châu Âu từ thời Trung Cổ đến thời Napoléon, những chiến tích hiển hách của nhà vua, lòng vô cùng dũng cảm và sáng suốt của ông và việc ông đưa từ "thời kỳ Khai sáng" vào từ điển tiếng Đức - đã khiến cho ông được người ta gọi là "Friedrich Đại đế" - cái nhìn của dân tộc Đức đối với ông giống như dân tộc Nhật Bản với Thiên hoàng Minh Trị và dân tộc Nga với vua Pyotr Đại Đế vậy.[36][37][38][39][40][41] Những chiến thắng huy hoàng của ông cũng khiến ông được tôn vinh, trở thành vị anh hùng của đức tin Kháng Cách.[42] Khi còn là Thái tử ông chỉ đam mê triết học và nghệ thuật. Tuy nhiên, ông thể hiện nhiều tài năng về chính trị, quân sự và ngoại giao, và vẫn tiếp tục xây dựng và mở rộng lực lượng Quân đội Phổ hùng cường và kỷ luật, với một lực lượng Kỵ binh không ai sánh kịp.[43]
Như "Amurath kế tục Amurath", ông đã kế vị vua Louis XIV của Pháp ("Louis Mặt Trời") làm vị Bá vương của toàn cõi châu Âu.[44] Trong cuốn sử sách của mình, nhà văn người Anh là Edward Gibbon có ám chỉ về việc chính vị hiệu của Quốc vương Friedrich II Đại Đế đã đẩy mạnh sự phát triển cường thịnh của Đế chế Phổ trong câu "Một vị Hoàng đế Julianus, một vị Nữ hoàng Semiramis sẽ chính vị hiệu ở phương Bắc...".[45] Trong năm đầu tiên lên ngôi vua, ông thống lĩnh Quân đội Phổ tiến đánh Silesia, vùng đất Hohenzollern tranh chấp với nhà Habsburg cai trị đế quốc Áo. Quân đội Phổ chinh phạt được tỉnh này vô cùng nhanh chống, chở thành hoạt động chính trị quan trọng nhất của vua Friedrich II Đại Đế - đây hoàn toàn là quyết định của ông.[46] Trong hai cuộc chiến tranh Silesia (1740 - 1745), nhà vua liên tiếp giành thắng lợi trong cuộc chinh phạt giành Silesia từ đế quốc Áo (1742),[47] sau đó còn bảo vệ tỉnh này với những trận đại thắng tại Hohenfriedberg, Soor hay Hennersdorf (1745) trước quân Áo và quân Sachsen.[48] Với chiến thắng lừng lẫy tại Soor, không những Quốc vương Friedrich II Đại Đế có được danh tiếng với tư cách là một vị lãnh tụ quân sự của châu Âu, mà còn trở thành một vị thống soái bất khả chiến bại.[49] Với những chiến thắng vang dội tại Hohenfriedberg và Soor với chiến thuật "đánh lấn vào sườn" của nhà vua, ông đã che khuất những sai lầm của mình bằng tài năng và lòng dũng cảm của ông. Lực lượng Kỵ binh tinh nhuệ Phổ, do chính ông bỏ công rèn luyện, trở thành lực lượng Kỵ binh hùng mạnh nhất trên lục địa châu Âu, luôn luôn chủ động và táo bạo dưới qưyền những danh tướng kiệt xuất.[50] Nước Phổ trở thành một kình địch hùng mạnh để ngăn cản sự phát triển của nước Áo.[51] Đánh bại quân Áo và đưa nước Phổ lên làm liệt cường tại Đức và châu Âu, ông đã ngăn ngừa việc Vương quốc Pháp trở thành cường quốc bá chủ trên đất Đức.[46][49] Sau đó, ông vẫn tiếp tục quan tâm đến lực lượng Quân đội Phổ, viết sách về nguyên tắc chiến tranh.[52] Trong cuộc Chiến tranh Bảy năm (1756 - 1763), ông phải chống lại một liên minh gồm cả Áo, Pháp, Nga, Thụy Điển và Sachsen: ông tỏ ra là một thiên tài xuất chúng.[53] Như Nữ hoàng Áo là Maria Theresia nói với một viên Thống chế vào năm 1761, bà quyết định đưa Vương triều Brandenburg trở lại thành một cường quốc hạng hai trong cuộc chiến tranh này,[54] nhưng cuối cùng bà đã thất bại.[55]
Tuy bị liên quân chống Phổ vây từ nhiều phía, với tinh thần vô cùng quyết chí và dũng cảm, ông đánh bại từng nước một trong liên quân, ông cực kỳ năng động và giữ vững vai trò bá chủ của Phổ ở vùng Trung Đức,[57] và đến cuối năm 1761, đã mang lại cho liên quân chống Phổ (vốn được thiết lập nhằm xâm chiếm và chia cắt lãnh thổ của nước Phổ) sự khẳng định rằng: chứng nào vị Quân vương kiệt xuất và các vị tướng lĩnh tài ba vẫn còn chiến đấu thì ông không thể nào bị đánh bại.[58][59][60] Quyết không nhượng bộ tỉnh Silesia,[61] ông chủ động ra tay đánh thắng quân Sachsen tại Pirna (1756), đánh thắng quân Áo tại Lobositz (1756) và Praha (1757), đánh thắng liên quân Pháp - Áo tại Rossbach (1757), đánh thắng quân Áo tại Leuthen (1757) đánh thắng quân Nga tại Zorndorf (1758)), đánh thắng liên quân Nga - Áo tại Liegnitz, giữ vững được kinh đô Berlin,[62] đánh thắng quân Áo tại Torgau (1760) - Burkersdorf (1762) và Schweidnitz vào năm 1762 - năm liên quân chống Phổ kiệt quệ, Quân đội Phổ vẫn chiến đấu anh dũng và kiên cường, do đó giành chiến thắng hoàn toàn.[6][63][64][65] Với chiến thắng vang dội của ông tại Rossbach (1757), lần đầu tiên trong lịch sử, dân tộc Đức đã đánh thắng Pháp một cách vẻ vang.[66] Chiến dịch Rossbach - Leuthen trở thành một trong chiến thắng huy hoàng nhất trong lịch sử.[67] Thực chất, ông không phải là không có sai lầm với tư cách là một vị lãnh tụ quân sự, ông chỉ thắng 8 trận trong 16 trận đánh mà ông chinh chiến, nhưng về nhiều mặt, ông có lợi thế hơi các kình địch của ông. Ông phải đơn phương độc mã đi chinh chiến, nhưng việc ông không có đồng minh sát cánh để hội kiến cũng là một lợi thế, và bộ máy chiến tranh của nước Phổ rất đơn giản, do bản thân Quốc vương và quan Thượng thư Bộ Ngoại giao (có hiệu lực) chính là Tổng tư lệnh Quân đội Phổ trên chiến trường. Dưới triều đại của vị vua tài năng, dai sức và quyết đoán như thế, Quân đội Phổ không bao giờ phải tiến hành một cuộc tranh cãi phức tạp, như ở nước Áo dưới triều Habsburg.[68] Em trai ông là Hoàng tử Friedrich Heinrich Ludwig cũng đánh tan tác quân Áo trong trận Freiberg vào năm 1762, ít lâu trước khi Nữ hoàng Áo là Maria Theresia giảng hoà.[69] Nhiều bạn hữu của ông đã hy sinh, làm có những lúc ông đau buồn, nhưng sau đó, vị vua kiên quyết đã hồi phục.[70] Giữa cuộc chiến, có lúc thất bại thảm hại, nhưng ông - cũng như sau những chiến thắng[71] - vẫn bình tĩnh và giữ thế chủ động, dẫn tới những chiến thắng oanh liệt trước những đội quân đông đảo hơn sau này, làm đối phương phải hoảng sợ.[72][73] Một ví dụ cho thấy rõ tài năng của ông trong việc hồi phục sau những chiến bại, giữ cái đầu lạnh và giáng những đòn đau khủng khiếp vào đối phương qua trận Hochkirch (1758): sau thất bại thảm hại, thậm chí con chiến mã của ông bị trúng đạn, nhà vua rút quân về chỗ an toàn, khiến cho đối phương không thể nào truy kích.[68] Cuối cùng, khi cuộc chiến tranh kết thúc, vị Quân vương bất khả chiến bại vẫn thống lĩnh ba quân trên các đỉnh núi tại tỉnh Silesia và tỉnh Sachsen, trong khi liên quân chống Phổ phải thất bại. Theo nhận định của Theodore Ayrauth Dodge, với tư cách là một chiến binh, ông thể hiện rõ ràng: ông vĩ đại hơn vị Hoàng đế lừng danh Napoléon trong thời gian khó khăn.[74] Vị vua quyết đoán và lực lượng Quân đội Phổ hùng cường còn thể hiện sự tàn bạo ác liệt và lạnh lùng qua các cuộc vây hãm Pirna (1756) và Dresden (1760).[75][76] Chính sách giảm giá, cũng như cuộc cướp bóc tàn nhẫn vào xứ Sachsen và xứ Mecklenburg cũng giúp vị vua kiệt xuất Friedrich II Đại Đế giành được thắng lợi.[77]
Chiến thắng của ông tại Leuthen (1757) là một trận đánh kinh điển của chiến thuật "đánh lấn vào sườn" của ông.[78] Thậm chí ông còn đánh vào lãnh thổ Áo vào năm 1758 nhưng không thành công, và tiến hành một cuộc rút quân vô cùng hiển hách.[79] Nước Anh và một số tiểu quốc Đức liên minh với nước Phổ, đánh Pháp và giúp họ đẩy lui quân Pháp ra khỏi đất nước.[80] Kể từ sau thất bại thê thảm tại Rossbach thì quân Pháp chẳng bao giờ dám đối đầu với quân tinh nhuệ Phổ do nhà vua thân chinh thống lĩnh nữa, thay vì đó họ chuyển sau mặt trận phía Tây và luôn luôn bị đạo quân Phổ của Vương công Ferdinand xứ Brunswick đánh tan tác.[57][66] Nhưng Chính phủ Anh xé bỏ liên minh với ông vào các năm 1761-1762, song cùng lúc đó liên minh chống Phổ cũng tan rã, mang lại thắng lợi cho ông.[77][81] Thân chinh thống lĩnh một lực lượng Quân đội hùng hậu,[68] ông thực hiện xuất sắc nhiệm vụ hết sức nặng nề của mình, và lòng dũng cảm, tính trung kiên và tài năng của ông cuối cùng đã đem lại vinh dự cho ông; trong khi đó liên quân chống Phổ đều kiệt quệ cả: sau bảy năm chinh chiến và giữ vững đất nước trước sự tấn công ba cường quốc quân sự Nga, Áo và Pháp, Hiệp định Hubertusburg được ký kết vào năm 1763 với việc nước Áo phải chịu mất tỉnh Silesia, giữ vững nền hòa bình,[60] và giờ đây nước Phổ hoàn toàn là một quốc gia vĩ đại, mang lại chiến bại thảm hại cho liên quân chống Phổ, phá vỡ thế bá chủ của Pháp và Áo ở châu Âu và Đức.[51][58][82] Với cuộc chiến tranh này, Quốc vương Friedrich II Đại Đế, tức Fredericus Rex trở thành một huyền thoại, do ông đã chiến đấu với một liên quân của các nước châu Âu.[83] Với cuộc Chiến tranh Bảy năm, Vương quốc Phổ không những trở thành một cường quốc tiêu biểu của châu Âu, lại còn trở thành một quốc gia hùng mạnh, đóng vai trò thống trị ở miền Bắc Đức và Đế quốc La Mã Thần thánh.[6][10][59] Cùng với Cuộc chiến tranh Kế vị Áo, cuộc Chiến tranh Bảy năm đã đưa nước Phổ trở thành một liệt cường quân sự hùng mạnh nhất trên toàn cõi châu Âu.[84] Vào năm 1763, Quân đội Phổ có 103.000 binh sĩ là người Phổ, 37.000 binh sĩ là người ngoại quốc.[85] Trong văn chương, vị vua - anh hùng, thiên tài quân sự kiệt xuất Friedrich II Đại Đế thường được ví von với những anh hùng Wotan hay Hermann của người Teuton, và cả nhà chinh phạt vĩ đại Cyrus Đại Đế của Đế quốc Ba Tư.[86][87][88]
“ | Muôn tâu Thánh Thượng, chúng thần chiến đấu vì Đức Tin, vì Thánh Thượng và vì Tổ Quốc. | ” |
—Một cựu chiến binh nói với vua Friedrich II Đại Đế sau trận thắng tại Liegnitz (1760)[89]
|
Những chiến bại và chiến thắng của nhà vua nước Phổ trong cuộc Chiến tranh Bảy năm đã mang lại cho ông niềm mến mộ cuồng nhiệt của thần dân, không những đối với ý chí quyết đấu của ông, mà còn đối với cá nhân của ông Theo một Sĩ quan Quân đội Phổ là Johann Wilhelm Archenholtz - đã tham chiến trong bảy năm chinh chiến tàn khốc - trong những năm tháng khốc liệt của cuộc Chiến tranh này, thần dân nước Phổ luôn cùng nhà vua chịu thương chịu khó, và "có phần trong danh tiếng của những chiến công hiển hách của ông". Mọi thần dân thuộc mọi đẳng cấp ở tỉnh Pomerania đã giúp đỡ nhà vua xây dựng một đội quân gồm 5.000 binh sĩ. Các Thánh đường đóng vai trò quan trọng trong việc reo rắc lòng trung quân ái quốc, ca ngợi những chiến công hiển hách của nhà vua, và xem Thiên Chúa cao sao đã phù hộ họ qua việc ban cho họ vua Friedrich II Đại Đế. Một hôm, nhà vua xuất quân thắng trận và một tăng lữ vui sướng tuyên bố rằng, Thiên Chúa đã đưa nước Phổ trở thành vùng đất mạnh hơn cả trong tất cả các vùng đất, và chọn muôn dân Phổ là "thần dân chính yếu của Ngài", và do đó "chúng ta có thể đi trong ánh hào quang của những thần dân được Thiên Chúa lựa chọn".[96] Chiến thắng của nước Phổ trong cuộc Chiến tranh Bảy năm cho thấy sự gắn bó chặt chẽ giữa nhà vua và toàn dân luôn mang lại kết quả vô cùng tốt đẹp, và, với vua Friedrich II Đại Đế trở thành vị anh hùng dân tộc Đức, nhân dân Đức lại được hiểu về sự phi thường của khí phách anh hùng.[98][99]
Lực lượng Hải quân Phổ của dân biển Pomerania đã bảo vệ đất nước chống quân Thụy Điển.[100] Do họ không mạnh bằng Hải quân Thụy Điển, nên bị đánh tan tác vào năm 1759. Tuy nhiên, Hải quân Phổ được tái xây dựng vào năm 1761. Trên bộ, quân Thụy Điển bị một toán Kỵ binh nhẹ Phổ chặn đứng. Quân Thụy Điển chưa hề giao chiến với quân chính quy của vua Phổ, và họ phải làm hòa với ông vào năm 1762.[101]
Vương quốc Phổ cũng được giữ vững trong cuộc chiến tranh Bảy năm tàn khốc là nhờ năm pháo đài lớn: Kolberg, Stettin, Kustrin, Glogau và Breslau. Các tướng tá của vua Phổ đánh tan tác liên quân Nga - Thụy Điển vào năm 1758.[57] Chỉ mỗi Kolberg bị rơi vào tay quân Nga vào năm 1761; và sau đó, bốn pháo đài còn lại vẫn luôn gây khó khăn cho quân Nga cho đến khi cuộc chiến tranh kết thúc.[102] Nhà vua đã giữ vững được các thành trì Magdeburg, Kustrin và Stettin chính là nhờ các đẳng cấp tình nguyện trang bị cho các Trung đoàn.[100] Voltaire, một người bạn thân của ông, từng mô tả đất Phổ của Đại đế Friedrich II: "...buổi sáng Phổ còn là Spartas, buổi chiều Phổ đã là Athena". Từ sau những cuộc chiến tranh đó, nền chính trị Phổ mang tính "bắt cá hai tay" cho tới tận năm 1866. Chiếm được Silesia, vùng đất đai màu mỡ với nhiều thành phố công nghiệp, nước Phổ trở nên giàu có và đông đúc. Nhờ đánh tan tác quân Áo và tất cả các kẻ thù trên trận tiền mà nước Phổ vươn lên thành quốc gia hùng mạnh nhất của vùng Trung Âu, giữ một vai trò quan trọng trong bản đồ Âu châu, với một đội quân khổng lồ[80].[103][104] Chiến tranh Silesia cũng khởi đầu hơn một thế kỷ kình địch và xung đột giữa Phổ với Áo với tư cách là hai quốc gia hùng mạnh nhất của đế quốc La Mã thần thánh dân tộc Đức (dù rằng lãnh thổ cả hai quốc gia này đều trải rộng ra ngoài biên giới của đế quốc). Vào năm 1744, hạt Đông Frisia rơi vào tay Phổ khi dòng vua Cirksena kết thúc mà không có người kế vị. Theo một nhà sử học danh tiếng của nước Đức vào thế kỷ XIX là Leopold von Ranke, một liệt cường phải giữ vững đất nước trước sức tấn công của một liên quân các nước khác. Nói như vậy, nước Phổ của vua Friedrich II Đại Đế rõ ràng là một liệt cường, ít nhất là về mặt quân sự.[105] Vương quốc Phổ vào thế kỷ XVIII cũng giống như Đế quốc Thụy Điển vào thế kỷ XVII, có nền chính trị phát triển hùng cường nhờ những chiến thắng của nhà vua và một lực lượng hùng binh tướng mạnh, cùng với một bộ máy Chính phủ hữu hiệu.[105] Khi cuộc Chiến tranh Bảy năm tàn khốc chấm dứt, nước Phổ chiến thắng mà không phải nợ nần,[106] và nhà vua còn có 25 triệu thaler để chuẩn bị cho chiến dịch kế tiếp.[107] Tuy ông đã xây dựng những công trình nguy nga tránh lệ chứng tỏ sự thịnh vượng của đất nước, Quốc vương Friedrich II Đại Đế không thích bị nịnh hót. Sau khi Quân đội Phổ ca khúc khải hoàn trở về kinh kỳ sau cuộc Chiến tranh Bảy năm, người thợ chạm lừng danh Daniel Chodowiecki định làm nên một bức hình công phu về cảnh này, và nhà vua khuyên Chodowiecki rằng, không nên làm cho bức hình cầu kỳ quá trớn.[108] Nhà vua cũng không tham gia bất kỳ một buổi lễ ăn mừng nào trong ngày khải hoàn của ông.[109] Sau một cuộc chiến khốc liệt, vị vua chiến thắng cũng trở nên ảm đạm khi trở về kinh đô.[110]
Quốc vương Gustav II Adolf và Quốc vương Friedrich II Đại Đế đều là những vị vua - chiến binh, đều giành những chiến thắng lừng lẫy trước những kẻ thù hùng mạnh. Những chiến thắng của nước Phổ vào thế kỷ XVIII, cũng như những chiến thắng của nước Thụy Điển vào thế kỷ XVII, đã in sâu vào tinh thần của dân tộc họ.[111] Trong suốt triều đại của ông, về mặt ngoại giao, ông thường lợi dụng những bất hòa giữa các cường quốc (ví dụ: Áo, Nga); qua đó, ông phá vỡ liên minh của họ, hoặc khuyến khích họ liên minh với nhau, nhờ đó, Vương quốc Phổ có điều kiện phát triển tương đối thuận lợi.[43][51] Trong 23 năm cuối đời, cho tới 1786, ông khuyến khích việc phát triển nhiều vùng ở Phổ, như là Oderbruch. Vào năm 1764, với sự phò tá đắc lực của Hoàng đệ Heinrich - một nhà ngoại giao tài ba, ông liên minh với nước Nga - đây là Liên minh lâu dài nhất trong lịch sử nền quân chủ Phổ, giúp nước Phổ hùng mạnh thoát khỏi tình trạng cô lập sau cuộc chiến tranh Bảy năm. Với liên minh này, Triều đình Phổ của vua Friedrich II Đại Đế dễ dàng hơn trong việc chi phối các chính sách của Triều đình Nga, và trở thành một trong những quan thầy của Triều đình Ba Lan bù nhìn của nước Nga.[34][112] Đồng thời ông không ngừng nỗ lực tăng cường binh lực và gia tăng ngân khố Phổ để bảo vệ vị thế liệt cường của đất nước,[110] sau khi đánh bại liên minh chống Phổ của Áo - Pháp - Nga trong bảy năm chinh chiến,[113] ông còn tham dự vào Cuộc phân chia Ba Lan lần thứ nhất cùng với Áo và Nga (1772) để giành thêm lãnh thổ; sau chiến tranh, châu Âu lục địa kiệt quệ, và Vương quốc Ba Lan và Đại Công quốc Litva có nguy cơ bị chia cắt bởi hai nước Nga và Áo, nên ông quyết định can thiệp.[114] Ba Lan đang trong tình trạng vô chính phủ, và trong chiến tranh, quân Nga thường đóng quân tại đây, có thể thấy vào năm 1761, Quân đội Phổ phá tan tác kho đạn dược của quân Nga tại Ba Lan.[115]
Với chiến thắng về ngoại giao của nước Đức trước Nga và Áo,[116] ông đạt được thành quả quan trọng hơn cả so với hai nước kia:[117] nhờ đó Công quốc Đông Phổ kết nối với những vùng đất khác của vua Friedrich II Đại Đế, hoàn thiện việc thống nhất các lãnh thổ Phổ và tiếp tục thể hiện vai trò liệt cường của Vương quốc Phổ.[4] Trong cuộc Chiến tranh Bảy năm, vùng Đông Phổ bị Nga chiếm đóng nhưng họ vẫn luôn chống Nga, trung thành với nhà vua; sau ngày nhà vua thắng trận, với cuộc chia cắt Ba Lan này, vùng Đông Phổ được giữ vững, hoàn toàn thoát khỏi mối lo sợ về việc quân Nga sẽ xâm lược trở lại.[116][118] Giờ đây, với tư cách là Bá chủ của vùng Tây Phổ, ông mở được những vùng biên cương chiến lược của đất nước đến sông Wisla và sông Netze. Nhà vua xây nên kênh đào Bromberg cho đến sông Oder, giúp ông hòa nhập sông Wisla với các đường hàng hải nội địa của các lãnh thổ cũ của ông.[119] Với những cuộc chinh phạt huy hoàng của ông, ông trở thành nhà chinh phạt nổi tiếng nhất của nước Phổ, và là vị thống soái kiệt xuất nhất trong thời đại của ông. Quân đội của ông tuy ít, nhưng nhờ kỷ luật và thiên tài của ông, dẫn đến một loạt chiến thắng oanh liệt trước liên quân chống Phổ.[120][121][122]
Với một lực lượng Quân đội đầy danh tiếng, ảnh hưởng của nền quân sự nước Phổ còn ảnh hưởng đến nước Nga, nước Pháp và nước Áo láng giềng. Vị vua vĩ đại Friedrich II Đại Đế - một trong những nhân vật phi thường của thế giới thời bấy giờ - vô cùng năng nổ trong việc xây dựng lực lượng Quân đội Phổ, ông cũng thường tiến hành duyệt binh, làm cho cả châu Âu phải bái phục. Người ta cũng mong muốn đến viếng thăm kinh thành Berlin, để chhg kiến tận mắt những Trung đoàn quân phục xanh đầy danh tiếng của ông.[125] Cũng trong thời gian đó ông mở cửa biên giới Phổ cho những người chạy trốn khỏi áp bức tôn giáo ở các phần khác của châu Âu, như là người Huguenots. Ông thực hiện chính sách tự do tôn giáo và gia tăng quyền lợi của những người Do Thái trên đất Phổ.[126] Vào năm 1750, ông ra Thánh chỉ phán rằng người Do Thái được quyền làm chủ các Trường học, Giáo đường và Nhà nguyện của họ.[127] Ông thực Vương quốc Phổ trở thành một vùng đất hứa, giống như Hoa Kỳ với dân nhập cư đi tìm tự do trong thế kỉ 19. Trong khi Hoàng đế Áo Joseph II thất bại trong chính sách này, vị vua vĩ đại của nước Phổ đã thành công.[51] Ông cũng xây một Tân Hoàng cung (Neues Palais) vô cùng hoành tráng ở thành phố Potsdam, thể hiện nền quân chủ Phổ sau khi giành chiến thắng trước liên quân chống Phổ trong cuộc Chiến tranh Bảy năm (1763), thể hiện những tham vọng của nhà vua và thực lực của nước Phổ đang trên đà lớn mạnh và phú cường, không thể nào bị cuộc Chiến tranh Bảy năm tàn phá.[125][128][129][130] Hoàng cung lừng lẫy này được xây theo kiến trúc barốc.[131] Với một loạt cung vua phủ chúa, thành phố Potsdam trở thành "Versailles trên đất Đức".[132] Là nhân vật chủ chốt trong nền chính trị châu Âu thời bấy giờ, Quốc vương Friedrich II Đại Đế xưng hiệu "Đức Vua của Phổ" vào năm 1772, đánh dấu một bước tiến quan trọng trong công cuộc giành độc lập của người Phổ khỏi Đế quốc La Mã Thần thánh.[133]
Vua Friedrich Đại đế thực hành chủ nghĩa Khai sáng chuyên chế, với những thành công vang dội trong việc nội chính. Không những là một thiên tài quân sự, nhà ngoại giao kiệt xuất, ông là vị vua đưa nước Phổ trở nên thịnh vượng, trở thành vị bạo chúa "Khai Sáng" hoàn hảo nhất trên lục địa châu Âu trong nửa sau thế kỷ XVIII, được nhân dân yêu mến.[51] Tuy bạo ngược khi đối phó với ngoại bang, nhà vua đối xử hào phóng với muôn dân, trị vì giỏi và làm việc chăm chỉ, vì sự thịnh vượng của toàn dân nước Phổ.[4] Bản thân ông cũng là một vị vua - triết gia, nhà văn, nhạc sĩ, nhà bảo trợ của khoa học và nghệ thuật; là một vị vua huy hoàng không kém vua Louis XIV của Pháp, ông cũng đồng thời là vị vua theo chủ nghĩa Khắc Kỷ.[134][135][136] Với tư cách là một nhạc sĩ tài năng, ông thường chơi thổi sáo, ngay cả lúc chinh chiến.[137] Là bạn thân đồng thời là độc giả của Voltaire, ông được gọi là "Friedrich Độc đáo", ông có vốn kiến thức uyên thâm, do suốt đời, ông rất thích đọc sách, và đam mê những tác phẩm của Fénelon, Descartes, Molière, Pierre Bayle, Boileau, Bossuet, Corneile, Racine, John Locke, Wolff, Gottfried Leibniz, Cicero, Julius Caesar, Lucian, Horace, Plutarch,v.v... và hàng trăm tác gia khác.[138] Tuy có lúc tình bạn giữa nhà vua và Voltaire bị rạn nứt (1753), ông hồi phục lại qua những lá thư hết lời ca ngợi đại văn hào kiệt xuất này.[139] Tuy là vị vua - chiến binh vĩ đại nhất của nước Phổ, ông cũng thể hiện niềm yêu hòa bình.[140] Ngay từ năm 1745, sau chiến thắng trong hai cuộc chiến tranh Silesia, người chiến binh tham vọng này tuyên bố sẽ không đẩy châu Âu vào chiến tranh nữa.[49] Vào năm 1749, ông phá tan tành một âm mưu gây chiến tranh Kế vị Thụy Điển của Nữ hoàng Nga Elizaveta Petrovna, nhờ vào phản ứng quyết đoán và năng nổ của ông.[141] Giữa lúc cuộc Chiến tranh Kế vị Áo còn tiếp tục kéo dài cho đến năm 1748, với toàn thể các nước đều kiệt quệ, ông trị vì đất nước thái bình thịnh trị, trở thành một vị Quân vương sáng suốt, hiếu hòa và nhân đạo chủ nghĩa, bước vào thời đại hoàng kim của ông trong cung điện Sanssouci, nơi ông trở thành vô cùng gần gũi với nhân đạo chủ nghĩa và được mệnh danh là "Nhà triết học của khu Sanssouci".[49][142] Đây là một công trình kiến trúc barôc do một người bạn hữu của nhà vua xây dựng.[143] Cuộc Chiến tranh Bảy năm cũng hoàn toàn là một cuộc chiến tranh bảo vệ lãnh thổ và địa vị cường quốc của nước Phổ: Những nỗ lực, hy sinh và những chiến công anh hùng của ông đã mang lại niềm tự hào cho toàn thể dân tộc Đức về sự suy yếu của nước Pháp hùng mạnh, cũng như sức mạnh và tầm ảnh hưởng của nước Phổ vang xa với chiến thắng trong cuộc chiến tranh này (1763). Giữ cuộc chiến tranh, và sau chiến thắng trong cuộc chiến tranh Bảy năm, ông vẫn tiếp tục lao đầu vào nghiên cứu các tác phẩm triết học, thơ ca, sử học, ví dụ như triết học Khắc Kỷ mà ông đam mê.[144] Sau những năm tháng huy hoàng, trước khi mất, ông vẫn còn yêu thích cái nắng.[145]
Không những là một ông vua cần cù siêng năng, ông còn đam mê âm nhạc.[146] Là vị vua dẫn dắt nền văn hóa đồ sộ của nước nhà trở nên tiến bộ hơn, ông ví von mình với Moses trên bán đảo Sinai, và ông cũng giống như Moses vậy.[147][148] Do văn võ song toàn, ông được xem là vị vua vĩ đại hơn cả Napoléon.[149]
“ | Chúng ta đang gần như quên lãng một nước Phổ làm gương cho không ít các nước khác. Nước Nhật Bản là một trong số đó, họ noi theo nước Phổ, nên thỉnh thoảng gọi là "Vương quốc Phổ của Á châu". | ” |
—Nis Petersen, chuyên gia về vua Friedrich II Đại Đế, phụ trách bộ môn Lịch sử Trường Cao đẳng Quốc gia Jersey[150]
|
Sau đó, vào năm 73 tuổi, ông lại còn đánh bại một âm mưu chiếm lĩnh xứ Bayern của liên minh Áo - Nga qua việc thiết lập "Liên minh các Vương hầu" (1785) thắng lợi, tiếp tục thể hiện vai trò cường quốc của Vương quốc Phổ.[155][156][157][158][159] "Liên minh các Vương hầu" cũng là cống hiến cuối cùng của nhà vua nước Phổ đối với nền chính trị châu Âu và cả thế giới, đỉnh cao của những chiến thắng mà ông đạt được trong suốt cuộc đời ông, là một chiến thắng lừng lẫy đưa Vương quốc Phổ thoát khỏi sự đe dọa nguy hiểm nhất trong lúc đó. nâng cao thanh thế của nước Phổ.[51][160][161][162] Là minh chủ của "Liên minh các Vương hầu", đây là lần đầu tiên nước Phổ hòng thống nhất các vua chư hầu người Đức thành một Đế chế Đức do Quốc vương nước Phổ thống trị.[163] Lại một lần nữa, ông vươn lên thành vị quan thầy của những ai chống lại những âm mưu của Hoàng đế trong Đế quốc La Mã Thần thánh.[164] Tuy say mê văn hóa Pháp, vị vua vĩ đại này trở thành một vị anh hùng dân tộc của nước Đức vì những chiến thắng đáng nhớ của ông trước các đạo quân xâm lược đất Đức.[165] Hoàng đế Joseph II phải bỏ cuộc, và việc thành lập Liên minh cho thấy vua Friedrich II Đại Đế - kẻ hủy diệt vĩ đại của Đế quốc La Mã Thần thánh[166] - trầm mình trong ánh nắng hoàng hôn chói lọi của cuộc đời của một vị anh hùng dân tộc Đại Đức.[154] Trước đây, Hoàng đế Joseph II đã từng thăm viếng ông và ca ngợi vị anh hùng này rất nhiều.[167]
Dưới triều đại huy hoàng của ông, nước Phổ lên tới tột đỉnh hoàng kim.[169][170] Với triều đại trị vì lâu dài đến 46 năm, ông đã mở mang lãnh thổ nước Phổ, quốc gia hùng mạnh này rộng lên gấp đôi.[43][171] Ông đã đề xướng nhiều chính sách về nội trị, quân sự và ngoại giao đã truyền cảm hứng không nhỏ cho chủ nghĩa dân tộc, cũng như chủ nghĩa quân phiệt Phổ.[43] Một năm sau thắng lợi với "Liên minh các Vương hầu", ông vua - chiến binh Friedrich II Đại Đế - vị minh chủ của Liên minh này - ngã bệnh qua đời (1786),[155] để lại một nước Phổ hùng mạnh, sánh vai với Áo trong việc thống trị vùng Trung Âu. Trong suốt đời, ông luôn thể hiện một vị vua kỷ cương khắc khe, kỷ cương với cả bản thân mình, và là "một thiên tài đích thực xuất sắc nhất đã lên kế vị ngai vàng vào thời kỳ cận đại" - theo nhận định của nhà sử học người Anh là John Dalberg-Acton, Nam tước Acton thứ nhất (Huân tước Acton).[172][173] Khi ông lên nối ngôi, nước Phổ là một nước yếu nhất trong các cường quốc châu Âu, nhưng với ông, nước Phổ sánh vai với mọi cường quốc trên toàn cõi châu Âu - đây là công lớn của ông.[174] Chiến lược và những chiến thắng của người chiến binh vĩ đại xưa trước liên quân chống Phổ trong cuộc Chiến tranh Bảy năm, tài năng của ông và bộ máy Chính phủ Phổ, sẽ còn được Hoàng đế Pháp Napoléon Bonaparte, đại thi hào người Đức Johann Wolfgang von Goethe, thi hào người Đức Christian Friedrich Daniel Schubart, nhà chính trị tự do chủ nghĩa nước Phổ Heinrich Friedrich Karl vom und zum Stein, Quốc trưởng Đức Quốc Xã Adolf Hitler phải thán phục.[60][86][87][175][176][177][178] Đương thời, các chính sách của vua Friedrich II Đại Đế và Chính phủ Phổ cũng luôn được vua xứ Torino thán phục.[179][180] Là vị vua thắng trận trong mọi cuộc chiến tranh, ông được xem là một vị vua giỏi hơn cả vua Louis XIV và các vị vua nhà Bourbon của Pháp. Khác với vua Louis XIV, ông nói:[4]
“ | Trẫm là công bộc đầu tiên của Quốc gia. | ” |
—Friedrich II Đại Đế
|
Với vua Friedrich II Đại Đế, một cường quốc Kháng Cách hùng mạnh của người Đức trỗi dậy mạnh mẽ, nên trong cuộc Chiến tranh Bảy năm, Giáo hoàng Vatican đã thể hiện thái độ thù địch với nước Phổ.[184] Thành công của vua Phổ là thất bại thảm hại nhất của Toà Thánh Rôma kể từ thời Thánh Martin Luther.[100] Vào năm 1786, nước Phổ là quốc gia đông dân thứ 13, rộng lớn thứ 10 nhưng có Quân đội đông đảo thứ ba trên toàn cõi châu Âu. Chính nhờ một lực lượng Quân đội tinh nhuệ mà vua Friedrich II Đại Đế vẫn luôn giữ được thế mạnh của mình dù liên minh giữa ông với các cường quốc khác (Ví dụ: Nga) thường tan rã. Quân đội Phổ hùng mạnh đến mức mà một viên Sĩ quan phụ tá của nhà vua trong cuộc Chiến tranh Bảy năm là Georg Heinrich Berenhost phải để đời một câu nói đáng nhớ:[185]
“ | Nền quân chủ Phổ không phải là một Quốc gia có Quân đội, nhưng là một Quân đội có Quốc gia. Đất nước Phổ thực chất chỉ là nơi cắm trại của toàn quân. | ” |
—Georg Heinrich Berenhost
|
Lịch sử nước Phổ (1786 - 1850)
Sau khi vua Friedrich II Đại Đế qua đời, Vương quốc Phổ trở nên suy yếu, do không có những vị vua tài ba. Với bộ máy Chính phủ Phổ do ông gầy dựng nên, nước Phổ cần phải có một ông vua kiệt xuất như ông, và do không có những ông vua kiệt xuất như vậy, nước Phổ suy yếu.[51] Do vua Friedrich II Đại Đế không có con, ông truyền ngôi cho người cháu gọi ông bằng bác là vua Friedrich Wilhelm II - một ông vua không sáng suốt và nhìn xa trông rộng như ông. Khác với bác của mình, Quốc vương Friedrich Wilhelm II đã thi hành chính sách phản động, phản cách mạng và bài bác Hội Tam Điểm.[186][187][188] Ông vua phản động này đã tiến hành chính sách kiểm duyệt và để đám sủng thần lũng đoạn triều chính.[189][190] Một thời kỳ lịch sử đã qua đi sau khi vua Friedrich II Đại Đế về cõi vĩnh hằng.[191] Với sự kiện ấy, trào lưu Khai Sáng xuống dốc nghiêm trọng trên đất Đức sau năm 1786, và cuối cùng cũng tan biến vào thập niên 1790. Vua Friedrich Wilhelm II trọng dụng một viên cận thần cực kỳ bảo thủ là Johann Christoph Wöllner - vốn đã bị tiên vương Friedrich II Đại Đế chê trách.[192] Ông cũng sáp nhập thêm một phần Ba Lan qua các cuộc Phân chia của Ba Lan sau đó. Tuy mở rộng đáng kể bờ cõi nước Phổ, nhưng ông không có tài năng về chính trị và quân sự.[193]Ông trở thành một vị vua mất lòng dân.[194] Người kế vị ông, vua Friedrich Wilhelm II (1797-1840) tuyên bố hợp nhất giáo hội Tin Lành dòng Luther Phổ và giáo hội Kháng Cách. Quốc vương Friedrich Wilhelm III không giỏi lắm, phải lệ thuộc vào các quan đại thần.[190] Nước Phổ đóng vai trò đóng vai trò chủ đạo trong Chiến tranh Cách mạng Pháp. Tuy nhiên sau Hòa ước Basel năm 1795, Phổ im hơi lặng tiếng trong hơn một thập kỉ, chỉ tham chiến một lần nữa với Pháp vào năm 1806 khi thương lượng với Pháp về vùng ảnh hưởng của Phổ ở Đức đổ vỡ. Trong lúc này, những chiến công hiển hách của Quốc vương Friedrich II Đại Đế năm xưa, vẫn còn được ghi nhớ trong lòng muôn dân Đức.[5] Trong trận Jena-Auerstedt, Quân đội Phổ bị quân Pháp của Napoléon Bonaparte đánh thất bại nặng nề, khiến cho vua Friedrich Wilhelm III (1797-1840) và Hoàng gia phải chạy sang Memel tạm thời lánh nạn. Tuy nền quân chủ Phổ đã gần như sụp đổ, họ vẫn chiến đấu với sự hỗ trợ của Đế quốc Nga. Một viên tướng tài năng là Gerhard von Scharnhorst cầm đầu đạo quân Phổ tại vùng Đông Phổ, với sự hỗ trợ của Quân đội Nga đông đảo hơn ông đã đánh Pháp trong trận Eylau bất phân thắng bại.[195] Tuy nhiên, quân Pháp đánh tan tác Quân đội Nga trong trận Friedland (1807), buộc Nga hoàng Aleksandr I phải làm hòa,[196] và liên minh Nga - Phổ yểu thọ chấm dứt.[197] Vào năm đó, Hoàng đế Napoléon Bonaparte đến kinh thành Berlin và ca ngợi vị tiên vương Friedrich II Đại Đế. Không những Napoléon mà danh tiếng lẫy lừng của vị vua nước Phổ này cũng làm nhiều người Pháp khác thán phục.[198]
Trong lịch sử nước Phổ, Pháo đài Kolberg nổi tiếng là đã hứng chịu đến năm cuộc vây hãm, nổi bật hơn cả là cuộc vây hãm của quân Pháp vào năm 1807.[199] Tướng August Neidhardt von Gneisenau chống trả quyết liệt, với sự hỗ trợ của nhân dân yêu nước ông đã giam chân được quân Pháp.[200] Cuộc chống trả của Gnesenau đã giành thắng lợi, do đó ông được ban Huy chương cao quý.[201] Sau chiến công anh hùng này, ông nhiệt liệt hoan nghênh việc cải cách Quân đội Phổ, và trở thành một trong những viên chỉ huy xuất sắc nhất của Quân đội Phổ.[202] Chiến công của Quân đội Phổ tại Kolberg đã được đưa lên màn ảnh nước Đức vào thời Đức Quốc Xã sau này.[203]
Với thất bại của Quân đội Nga tại Friedland,[196] theo Hiệp ước Tilsit 1807, Vương quốc Phổ mất đi khoảng một nửa lãnh thổ, đặc biệt là các khu vực chiếm được từ các cuộc Phân chia Ba Lan thứ hai và thứ ba, các vùng này giờ thuộc về Đại công quốc Warsaw. Hơn thế nữa, vua Phổ buộc phải liên minh với Pháp và tham gia vào Hệ thống phong tỏa Lục địa. Đáp lại thất bại này, những Bộ trưởng chủ trương cải cách như Stein và Hardenberg tiến hành hiện đại hóa nước Phổ, bao gồm giải phóng nông dân khỏi chế độ nông nô, giải phóng và ban quyền công dân cho người Do Thái, thiết lập thể chế tự trị cho các đô thị. Hệ thống trường học được sắp xếp lại, và vào năm 1810 ban hành tự do thương mại. Quá trình cải cách quân đội hoàn thành vào năm 1813 với việc ban hành chế độ quân dịch.
Sau khi Napoléon thất bại ở Nga, nước Phổ rút khỏi liên minh với Pháp và tham gia vào Liên minh thứ 6 trong cuộc chiến tranh Giải phóng (Befreiungskriege) chống lại sự chiếm đóng của Pháp. Quân đội Phổ đóng vai trò quyết định trong chiến dịch năm 1813 giữa quân Pháp và Liên quân chống Phổ (Phổ, Áo, Nga, v.v...).[13] Vào năm 1813, dù quân Pháp chiến đấu dũng cảm, quân Pháp giành chiến thắng kiểu Pyrros trước Quân đội Phổ trong trận Bautzen, và Quân đội Phổ giành chiến thắng trong trận Leipzig cùng năm đó.[204][205] Vào năm 1814, Quân đội Phổ còn tiến đánh kinh thành Paris của Pháp, giành chiến thắng và vua Napoléon phải thoái vị.[206] Vị Hoàng đế này trở vệ từ nơi lưu đày không lâu sau đó, và Quân đội Phổ dưới sự chỉ huy của Thống chế Gebhard Leberecht von Blücher góp phần quyết định trong chiến thắng Waterloo năm 1815, đánh dấu sự thất bại hoàn toàn của Napoléon. Danh tiếng của nước Phổ lan truyền trên khắp cõi châu Âu. Tờ báo "Times" ở thủ đô Luân Đôn (Anh Quốc) có bình luận:[207]
“ | Hầu như tất cả mọi chiến thắng quyết định sự sa ngã của nhà chinh phạt này (Napoléon) đều có nước Phổ tham gia. Quân đội Phổ luôn luôn tham chiến trong cả hai trận đánh tại Lutzen và Bautzen; Quân đội Phổ cũng luôn luôn tham chiến trong cả hai trận đánh tại Grossberen và Leipzig; Quân đội Phổ cũng luôn luôn tham chiến trong những trận đánh trên nước Pháp, và cuối cùng, Quân đội Phổ luôn luôn tham chiến trong trận đánh tại Waterloo. Người chiến binh Phổ đã thể hiện anh ta là người chiến binh xuất sắc nhất trong những chiến dịch này. | ” |
—Tờ báo Times
|
Nửa đầu của thế kỉ thứ 19 chứng kiến cuộc đấu tranh dai dẳng trong nước Đức giữa những người theo chủ nghĩa tự do muốn một có liên bang Đức thống nhất dưới một hiến pháp dân chủ, và những người theo chủ nghĩa bảo thủ, muốn duy trì nước Đức như là một tập hợp chắp vá bởi các tiểu quốc quân chủ độc lập, với Phổ và Áo tranh giành ảnh hưởng. Do Phổ có ưu thế về lãnh thổ và dân số nên các tiểu quốc Đức bắt đầu gia nhập vùng tự do kinh tế do Phổ lập ra vào năm 1820. Phổ được hưởng rất nhiều lợi ích từ việc lập ra Liên hiệp Thuế quan Đức (Zollverein), bao gồm hầu hết các tiểu quốc Đức, ngoại trừ Áo. Quốc vương Friedrich Wilhelm III từng hứa hẹn sẽ ban hành Hiến pháp, nhưng đến khi ông qua đời vào năm 1840 thì lời hứa này vẫn không được thực hiện. Những người có tư tưởng tiến bộ và chủ nghĩa tự do trên khắp Vương quốc sẽ còn gửi gắm hy vọng vào tân vương Friedrich Wilhelm IV.[211] Quốc vương Friedrich Wilhelm IV lên ngôi vua lúc đã 45 tuổi. Ông là một người khó hiểu, kể cả đối với những người đương thời rất am hiểu về ông. Khác với các bậc tiên vương Friedrich II Đại Đế, Friedrich Wilhelm II và Friedrich Wilhelm III đều được nuôi dạy dưới tinh thần và những giá trị của trào lưu Khai Sáng. Ngược lại, vua Friedrich Wilhelm IV được dạy dỗ bởi các danh sĩ của chủ nghĩa lãng mạn.[212]
Ông trở thành một vị vua lãng mạn bảo thủ, ông tin vào thần quyền của Nhà vua.[213] Ông thi hành chính sách phản động, chống cải cách.[214] Ông là một trong những người đã tạo ra một tinh thần bảo thủ ở châu Âu từ sau làn sóng Cách mạng năm 1848 cho đến khi chế quân chủ Đức sụp đổ vào năm 1918. Vào năm 1848 những người theo chủ nghĩa tự do có một cơ hội khi các cuộc cách mạng bùng nổ khắp châu Âu. Vua Friedrich Wilhelm IV đã đồng ý triệu tập Quốc hội và thông qua một bản Hiến pháp. Khi Quốc hội Frankfurt phong Friedrich Wilhelm IV làm hoàng đế của một nước Đức thống nhất, ông từ chối với lý do ông không thể nhận vương miện từ Quôc hội lập ra từ cách mạng mà không được sự ủng hộ của các hoàng gia Đức khác.
Quốc hội Frankfurt bị buộc phải giải tán vào năm 1849, và vua Friedrich Wilhelm IV sử dụng quyền lực của mình để ban hành hiến pháp đầu tiên của Phổ vào năm 1849. Bản Hiến pháp bảo thủ này cho phép lập ra hai Nghị viện. Hạ nghị viện, hay Landtag, được bầu ra bởi tất cả những công dân có khả năng đóng thuế. Những người này được chia làm 3 giai cấp, và trọng lượng lá phiếu phụ thuộc vào số tiền họ đóng thuế. Phụ nữ và những người không có khả năng đóng thuế không có quyền bầu cử. Qui định này khiến cho một phần ba số cử tri có thể chọn ra đến 85% số nghị viên, về thực chất là đảm bảo sự thống trị của những người giàu có trong xã hội. Thượng viện, sau được đổi tên là Herrenhaus (tức "Viện Nguyên Lão"), được chỉ định bởi nhà vua. Nhà vua có toàn quyền hành pháp, và các bộ trưởng chỉ phải chịu dưới quyền nhà vua. Kết quả là sự thống trị của giai cấp lãnh chúa, được gọi là Junker, được bảo đảm nguyên vẹn, nhất là ở các tỉnh miền đông.
Bên cạnh những chính sách bảo thủ, Quốc vương Friedrich Wilhelm IV cũng có chút ít đóng góp đối với nền văn hóa phương Tây, ông tích cực khuyến khích khoa học phát triển ở các Trường Đại học.[214] Nhà vua cũng cũng hạ lệnh cho xuất bản một loạt tác phẩm của tiên vương Friedrich II Đại Đế, từ năm 1846 cho đến năm 1857. Trong thời kỳ này, một họa sĩ tỉnh Silesia là Adolf Menzel có vẽ một loạt bức tranh về vua Friedrich II Đại Đế, ví dụ như "Vua Friedrich Đại Đế trong những chuyến thị sát" (1854). Ông trở thành một trong những họa sĩ vĩ đại nhất của người Đức, ảnh hưởng đến nhiều họa sĩ đương thời. Quốc vương Friedrich II Đại Đế và chủ nghĩa anh hùng của ông ảnh hưởng vô cùng lớn đến nước Đức thời đó.[182]
Chiến tranh thống nhất nước Đức
Vào năm 1862 Vua Wilhelm I bổ nhiệm Otto von Bismarck làm Thủ tướng Phổ. Bismarck quyết tâm đánh bại cả những người theo trường phái tự do và trường phái bảo thủ bằng cách tạo ra một nước Đức thống nhất hùng mạnh, dưới sự lãnh đạo của giai cấp thống trị Phổ và hệ thống quan chức, chứ không phải do những người theo chủ nghĩa dân chủ tự do. Ông cho rằng vua Phổ chỉ có thể nhận được sự ủng hộ của nhân dân nếu ông đứng ra lãnh đạo cuộc đấu tranh thống nhất nước Đức. Vì thế Bismarck đã dẫn dắt nước Phổ qua ba cuộc chiến tranh để đưa vua Wilhelm I lên ngôi Hoàng đế Đức.Chiến tranh Schleswig
Vương quốc Đan Mạch vào thời gian đó liên hiệp trực tiếp với các công quốc Schleswig và Holstein, cả hai công quốc này đều có các mối liên hệ mật thiết với nhau. Tuy nhiên chỉ có Holstein thuộc về Liên minh các quốc gia Đức (German Confederation). Chính quyền Đan Mạch ở Copenhagen muốn sát nhập Schleswig vào Đan Mạch nên đã làm bùng nổ cuộc Chiến tranh Schleswig lần thứ nhất (1848-1851), với Phổ lãnh đạo Liên minh các quốc gia Đức chống lại Đan Mạch. Mặc dù về mặt quân sự, Đan Mạch bị thất bại, nhưng các đế quốc Âu châu làm áp lực buộc Phổ phải trao trả Schleswig và Holstein về cho Đan Mạch, đổi lại Đan Mạch phải hứa sẽ không tìm cách sát nhập Schleswig nữa. Phổ cũng mất vị thế lãnh đạo trong Liên minh các quốc gia Đức cho Áo trong Thỏa ước Olmütz vào năm 1850, vì Nga lúc đó ủng hộ Áo.Năm 1863, Đan Mạch ban hành một hiến pháp chung cho cả Đan Mạch và Schleswig. Việc này làm nổ ra một cuộc xung đột mới với Liên minh các quốc gia Đức, khiến Liên minh phê chuẩn chiếm đóng Holstein, còn quân Đan Mạch phải rút khỏi vùng đất này. Năm 1864, quân Áo-Phổ vượt biên giới Holstein và Schleswig, làm nổ ra cuộc Chiến tranh Schleswig lần thứ hai. Quân Áo-Phổ đánh bại quân Đan Mạch, buộc Đan Mạch phải chịu mất cả hai vùng đất này. Theo Thỏa ước Gastein ký kết năm 1865, Phổ chịu trách nhiệm quản lý Schleswig, còn Holstein là trách nhiệm của Áo.
Chiến tranh Áo-Phổ
Bismarck nhận ra rằng cơ chế quản lý kép Schleswig và Holstein chỉ là một giải pháp tình thế, đồng thời sự căng thẳng cũng tăng dần lên giữa Phổ và Áo. Nguyên nhân sâu xa của cuộc chiến tranh Áo-Phổ (1866) là sự tranh chấp ngôi bá chủ nước Đức giữa Áo và Phổ, sự bất đồng về Schleswig và Holstein chỉ là ngòi lửa thổi bùng cuộc chiến tranh.Đứng về phía nước Áo là những bang miền nam (bao gồm Bavaria và Württemberg), một số bang miền trung và lãnh địa Hannover ở miền bắc nước Đức; về phía Phổ là đa phần các bang phía bắc nước Đức, một số tiểu bang miền trung và Ý. Quân Phổ được vũ trang tốt hơn hẳn quân Áo, dưới quyền chỉ huy của đại tướng Helmuth von Moltke đã đánh thắng trận chiến quyết định Königgrätz. Nước Áo thua trận, mất quyền bá chủ vào tay nước Phổ và phải rời Liên minh các quốc gia Đức. Trong khi năm xưa vua Friedrich II Đại Đế giành chiến thắng là nhờ lòng dũng cảm và tài năng của chính ông, Thủ tướng Bismarck sẽ không thành công trong sự nghiệp dài lâu của mình nếu không có Đại tướng Helmuth von Moltke.[31] Bismarck chủ trương liên minh với Áo trong tương lai, nên không đặt bất kỳ yêu sách lãnh thổ nào lên Đế quốc Áo. Hòa ước Praha năm 1866 mang lại cho nước Phổ các vùng đất vốn là đồng minh của Áo như Vương quốc Hannover, vùng Hesse-Kassel, Công quốc Nassau, thành phố Frankfurt, toàn bộ miền Schleswig-Holstein, và như vậy đã giúp kết nối tất cả vùng đất thuộc Phổ. Cùng năm, Liên minh các quốc gia Đức giải tán và được thay thế bằng Liên bang miền bắc Đức gồm Phổ và 26 tiểu bang khác vào năm sau.
Thoạt tiên chỉ là một liên minh quân sự, các thành viên của liên minh chấp thuận một hiến pháp cho phép Phổ có một vai trò lãnh đạo trên toàn liên minh, và thực tế là Phổ chiếm tới bốn phần năm diện tích và dân số liên minh. Bản hiến pháp mới được thảo bởi Bismarck là tiền đề cơ bản cho Hiến pháp Đế chế Đức sau này. Nhà vua Phổ và Thủ tướng Phổ trở thành Tổng thống và Thủ tướng của Liên minh miền bắc Đức. Tổng thống có quyền lực hành pháp và chức vị này được dành riêng cho Hoàng gia Hohenzollern trị vì nước Phổ. Dưới Tổng thống là thủ tướng và hai viện. Hạ nghị viện được bầu bằng hình thức phổ thông đầu phiếu, còn Thượng viện, có nhiều quyền lực hơn, được chọn ra bởi thủ hiến các bang. Phổ nắm 17 trong số 43 ghế Thượng viện và có khả năng kiểm soát Thượng viện dễ dàng thông qua liên minh với các bang khác.
Theo kết quả đàm phán hòa bình, các bang miền nam Đức về nguyên tắc vẫn giữ được nền độc lập của mình, được nước Phổ "bảo hộ". Thêm vào đó, các liên minh phòng ngự tương hỗ được ký kết, nhưng Bismarck giữ bí mật về các liên minh này cho tới tận năm 1867, khi nước Pháp định sáp nhập Luxemburg.
Chiến tranh Pháp-Phổ
Nước Áo, do tiếp tục liên kết với Hungary, nên không gia nhập Đế quốc, và như vậy giải pháp nước Đức nhỏ, tức là một liên minh Đế quốc Đức không bao gồm nước Áo hình thành. Ngày 18 tháng 1 năm 1871, nhân dịp 170 năm lễ đăng quang của Friedrich đệ nhất nước Phổ, vua Wilhelm I của Phổ đăng quang như một Hoàng đế người Đức (chứ không phải là Hoàng đế nước Đức) trong đại sảnh Hall of Mirror tại Lâu đài Versailles, ngoại vi Paris, trong lúc thủ đô của Pháp vẫn đang bị quân Đức bao vây.
Đế chế Đức
Hoàng đế Wilhelm I được lòng thần dân Đức, và cả Thủ tướng Bismarck.[215] Sau khi ông qua đời vào năm 1888, Hoàng đế Friedrich III lên nối ngôi.[216] Khoảng thời gian hai thập niên kế tiếp sự thống nhất nước Đức là thời kỳ hoàng kim của nước Phổ. Nếu như nước Phổ tiếp tục có được những nhà lãnh đạo tầm cỡ như Bismarck thì quyền lực kinh tế và chính trị của Phổ có lẽ đã có thể biến nó thành trung tâm của nền văn minh Châu Âu một cách hòa bình.Hoàng đế Friedrich III có lẽ cũng là một ông vua tài năng. Khi còn ở ngôi Thái tử, ông đã thống lĩnh Quân đội Phổ trong những cuộc chiến tranh 1866 - 1871 để gần gũi hơn với thần dân. Ông tin tưởng vào chủ nghĩa tự do và Hiến pháp. Do Thủ tướng Bismarck đã củng cố cho các thế lực bảo thủ thật quá hùng mạnh, người ta tin tưởng vào vị tân Hoàng đế sẽ đem lại chủ nghĩa tự do cho muôn dân. Có lẽ đây là một trong những mong ước cuối cùng về chủ nghĩa tự do ở nước Đức.[216] Tuy nhiên, ông bị lâm trọng bệnh chỉ sau khi lên ngôi được có 99 ngày vào năm 1888. Trong suốt triều đại ngắn ngủi của ông, Thủ tướng Bismarck vẫn điều hành Chính phủ Đức.[216] Ông cưới Công chúa Victoria, con gái đầu lòng của Nữ hoàng Victoria của Anh, nhưng cậu con trai đầu lòng Wilhelm của họ bị tổn thương thể xác từ khi sinh ra, và có thể còn bị tổn thương trí tuệ nữa.
Tới năm 29 tuổi, Wilhelm lên ngôi vua, trở thành Wilhelm II. Trước đó, ông từng trải qua một thời niên thiếu đầy khó khăn và xung đột với mẹ. Ông trở nên một người thiếu kinh nghiệm sống, thiển cận và hết sức bảo thủ, thiếu óc phán đoán, nhiều lúc rất xấu tính, làm cho cho bạn bè và đồng minh dần xa lánh. Mặc dù, hoặc có lẽ vì là họ hàng gần của dòng họ Windsor nước Anh và dòng họ Romanov nước Nga, mà William trở thành địch thủ, và cuối cùng là kẻ thù không đội trời chung của họ.
Sau khi sa thải Bismarck, người kiến tạo nên các liên minh, vào năm 1890, Wilhelm bắt tay vào một kế hoạch quân sự đầy phiêu lưu, khiến cho nước Đức trở nên cô lập. Nhà vua cũng đưa nước Đức đạt đến đỉnh cao về sức mạnh và công nghệ, và xây dựng một lực lượng Hải quân hùng hậu thứ hai trên toàn thế giới.[215] Việc hoàng đế Wilhelm đánh giá sai cuộc xung đột với Serbia và sự tổng động viên gấp rút của các quốc gia Châu Âu đã dẫn đến thảm họa Chiến tranh thế giới thứ nhất. Để rút khỏi chiến tranh, những người Bolshevik Nga phải chấp nhận cái giá mất một phần lãnh thổ miền Tây của đế quốc Nga, trong đó có một vài vùng giáp gianh với Phổ, cho nước Đức theo Hòa ước Brest-Litovsk vào năm (1918). Nước Đức tuy nhiên chỉ kiểm soát các vùng lãnh thổ đó được vài tháng, vì quân đội Đức bị quân Hiệp ước đánh bại và Cách mạng Đức bùng nổ.
Quốc gia Phổ Tự do trong khuôn khổ Cộng hòa Weimar
Sau cuộc Cách mạng Đức vào năm 1918, hoàng đế Wilhelm II phải thoái vị. Phổ được tuyên bố là một nước "Tự do" độc lập (tiếng Đức: Freistaat, Cộng hòa) thuộc Cộng hòa Weimar vừa được thành lập, và tới năm 1920 thiết lập hiến pháp dân chủ.Tất cả các vùng lãnh thổ mà Đức bị mất trong Hòa ước Versailles nguyên đều thuộc về Phổ: bao gồm vùng Alsace-Lorraine về Pháp, Eupen và Malmedy về Bỉ; Bắc Schleswig về Đan Mạch, lãnh thổ Memel đưa về Litva; khu vực Hultschin sang Tiệp Khắc. Các khu vực rộng lớn mà Phổ đã sáp nhập trong cuộc Chia cắt Ba Lan, như là các tỉnh Posen và Tây Phổ, cũng như vùng phía đông của Thượng Silesia về Cộng hòa Ba Lan thứ II. Danzig trở thành Thành phố tự do Danzig dưới quyền quản lý của Hội Quốc Liên. Ngoài ra, vùng Saar mới được thành lập cũng gồm chủ yếu các lãnh thổ cũ của Phổ.
Vì Phổ bị mất các lãnh thổ này, nên cũng như trước khi có cuộc "Chia cắt Ba Lan", Phổ không còn một hành lang nối liền Đông Phổ và phần còn lại của nước Đức. Để đến được Đông Phổ người ta phải dùng đường thủy ("Dịch vụ đường biển Đông Phổ") hoặc bằng hành lang Ba Lan.
Chính phủ Đức nghiêm túc xem xét khả năng tách nước Phổ thành nhiều tiểu bang, nhưng cuối cùng các tư tưởng truyền thống thắng thế và nước Phổ trở thành một "Nước Phổ tự do" (Freistaat Preußen), và là bang lớn nhất nằm trong Cộng hòa Weimar - chiếm tới 60% lãnh thổ. Từ khi các đặc quyền cũ của Phổ bị xóa bỏ, cộng với sự kết hợp với các vùng có đông đảo giai cấp lao động như khu công nghiệp Ruhr và vùng "Berlin đỏ", Phổ trở thành thành trì của phe cánh tả, được cai quản bởi một liên minh của Đảng Xã hội Dân chủ Đức và Đảng Công giáo Trung lập trong suốt những năm của thập niên 1920.
Từ năm 1919 đến năm 1932, liên minh của Đảng Dân chủ Xã hội, Công giáo Trung lập, và Đảng Dân chủ Đức nắm quyền điều hành nước Phổ; từ 1921 đến 1925 các chính phủ liên minh bao gồm cả Đảng Nhân dân Đức. Không giống như các bang khác trong Liên bang Đức, chính quyền của các đảng phái dân chủ, chiếm đa số ở Phổ, không bao giờ bị lâm vào khủng hoảng. Tuy vậy ở vùng Đông Phổ và các khu vực công nghiệp, Đảng Quốc gia Xã hội Đức, tức đảng Nazi, của Adolf Hitler có ảnh hưởng ngày càng mạnh và có nhiều người ủng hộ, đặc biệt là từ các thành phần trung lưu nghèo và các thành phần lao động ở tầng lớp hạ lưu. Ngoại trừ vùng Thượng Silesia của Phổ theo Giáo hội Công giáo Rôma, đảng Nazi tới năm 1932 trở thành đảng lớn nhất ở Phổ. Tuy nhiện, các đảng phái dân chủ gom lại vẫn chiếm đa số, trong khi những người cộng sản và phát xít ở phe đối lập.
Otto Braun người Đông Phổ, nguyên Tổng thống-Thủ tướng Phổ liên tục từ năm 1920 đến năm 1932, được xem như là một trong những thành viên đảng Xã hội Dân chủ có năng lực nhất trong lịch sử. Ông, cùng với Bộ trưởng Nội vụ Carl Severing đã thi hành một số cải cách hợp thời, sau này là khuôn mẫu cho nước Cộng hòa Liên bang Đức. Chẳng hạn như, ông đặt ra "bỏ phiếu bất tín nhiệm có tính xây dựng" để chỉ cho phép bãi nhiệm Thủ tướng nếu có một đa số chắc chắn bỏ phiếu người kế nhiệm. Bằng cách này chính quyền của nhà nước Phổ có thể tồn tại nếu là không có một "đa số cấp tiến" mới đủ mạnh để thách thức chính phủ. Nhìn tổng thể, đa số các sử gia cho rằng nhà nước Phổ vào thời gian này thành công hơn nhà nước Đức.
Khác với hình ảnh quân phiệt trước chiến tranh, Phổ là trụ cột nền dân chủ của Cộng hòa Weimar. Chính thể này chỉ bị sụp đổ sau cuộc "đảo chính" của Thủ tướng Liên bang Đức (Reich Chancellor) Franz von Papen. Trong cuộc đảo chính này, Chính quyền Liên bang (Reich) giải tán nhà nước Phổ vào ngày 20 tháng 7 năm 1932, dưới cớ là Chính quyền Phổ đã không còn kiểm soát được an ninh (sự kiện ngày Chủ nhật Đẫm máu ở Altona, Hamburg). Papen tuyên bố là Ủy viên Liên bang tại Phổ và tự nắm lấy chính quyền. Cuộc đảo chính khiến cho mọi việc càng trở nên dễ dàng hơn cho Adolf Hitler, khi ông ta chiếm toàn bộ bộ máy chính quyền Phổ, bao gồm cả lực lượng cảnh sát chỉ nửa năm sau.
Nước Phổ chấm dứt
Sau khi Hitler được bổ nhiệm làm Quốc trưởng mới, phe Nazis nhân cơ hội Franz von Papen vắng mặt để bổ nhiệm Hermann Göring chức Ủy viên Liên bang cho Bộ nội vụ của Phổ. Cuộc bầu cử Reichstag vào ngày 5 tháng 3 năm 1933 củng cố thêm sức mạnh của Đảng Quốc Xã, mặc dù họ không chiếm được đa số tuyệt đối.Vì Nhà quốc hội Đức (Reichstag) đã bị đốt cháy một vài tuần trước đó, trụ sở Reichstag mới được mở ở Nhà thờ Garrison tại Potsdam vào 21 tháng 3 năm 1933 với sự hiện diện của Tổng thống Paul von Hindenburg. Trong một cuộc gặp mang tính tuyên truyền giữa Hitler và NSDAP, "đám cưới của nước Phổ cũ và nước Đức mới" được ăn mừng để lấy lòng những thành phần bảo hoàng Phổ, thành phần bảo thủ, và những người theo chủ nghĩa quốc gia và vận động họ bầu cho luật Enabling Act.
Nhà nước tập quyền tạo ra bởi đảng Nazis theo "Luật tái thiết Đế chế ("Gesetz über den Neuaufbau des Reiches", ngày 30 tháng 1 1934) và "Luật các Thống đốc Liên bang" ("Reichsstatthaltergesetz", 30 tháng 1 1935), các bang trên thực tế bị giải thể. Chính phủ Liên bang được điều hành bởi các thống đốc được chỉ định bởi Quốc trưởng. Song song đó, tổ chức của đảng trong các quận (Gau) trở nên ngày càng quan trọng, viên chức chịu trách nhiệm một quận (biệt danh Gauleiter) cũng được chỉ định bởi Quốc trưởng, là người đứng đầu của đảng NSDAP.
Trong nước Phổ chính sách này còn được tiếp tục xa hơn nữa. Từ năm 1934 hầu hết các bộ được hợp nhất và chỉ còn một vài bộ là còn giữ được tính độc lập. Hitler chính thức trở thành Toàn quyền Phổ, tuy nhiên các trách nhiệm của ông ta được thực hiện bởi Hermann Göring, với tư cách là Thủ tướng Phổ.
Theo "Luật Đại Hamburg" ("Groß-Hamburg-Gesetz"), một số vùng lãnh thổ được chuyển đổi. Phổ được mở rộng vào 1 tháng 4 1937, chẳng hạn, bằng việc sự sát nhập thành phố Tự do Hanseatic Lübeck.
Các vùng đất của Phổ chuyển giao cho Ba Lan sau Hòa ước Versailles được sát nhập trở lại trong Chiến tranh thế giới thứ hai (1939 - 1945). Tuy vậy, đa số các vùng này không được nhập lại vào Phổ mà được gán cho một vùng Gaue riêng của nước Đức Quốc xã.
Trong suốt cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ hai, nền văn hóa Friedrich hãy còn ảnh hưởng đến chính quyền Đức Quốc Xã. Vua Friedrich II Đại Đế luôn được Adolf Hitler so sánh với ông ta. Bản lĩnh anh hùng của nhà vua đã cho thấy một lịch sử hùng mạnh của nước Phổ. Trong những thời khắc khó khăn cuối cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ hai, ông ta luôn luôn mang theo bức chân dung vua Friedrich II Đại Đế do họa sĩ Graff vẽ, và ông ta cho rằng, bức tranh này đã giúp cho ông ta trở nên tự tin hơn trong những khi nghe tin dữ.[217] Tuy nhiên, nhà sử học vĩ đại người Đức là Gerhard Ritter phản đối. Khi Adolf cho rằng mình là kẻ thừa kế của nước Phổ trong Ngày lễ Potsdam vào năm 1933, nhà sử học Gerhard Ritter cho rằng, đây là sự xuyên tạc lịch sử. Ông liền viết một cuốn tiểu sử được đánh giá rất cao về vị vua anh hùng - Khắc Kỷ Friedrich II Đại Đế[22], qua đó ông chỉ trích Hitler bằng việc ghi nhận về những tham vọng chiến tranh có hạn chế của nhà vua, đồng thời, vị vua anh minh gắn bó với trào lưu Khai Sáng, khác viết tên trùm phát xít bạo ngược Hitler.[218][219][220]
Cùng với sự chấm dứt của Đảng Quốc gia Xã hội vào năm 1945 là sự phân chia Đức thành các vùng chiếm đóng. Các vùng phía đông của đường biên Oder-Neisse, (bao gồm Silesia, Ngoại Pomerania, Đông Brandenburg, và nam Đông Phổ), rơi vào tay Ba Lan (một phần ba phía bắc của Đông Phổ, bao gồm cả Königsberg, nay là Kaliningrad, về Liên bang Xô viết). Ngày nay Kaliningrad Oblast là một vùng lãnh thổ hải ngoại của Nga nằm giữa Litva và Ba Lan. Có khoảng 10 triệu người Đức đã bị trục xuất khỏi những vùng đất này như là một phần của cuộc di tản của người Đức khỏi Đông Âu.
Điều luật số 46 ra ngày 25 tháng 2 năm 1947 của Hội đồng cai quản quân Đồng minh chính thức tuyên bố giải tán những phần còn lại của nước Phổ. Trong vùng chiếm đóng của Quân đội Liên Xô, trở thành Đông Đức vào năm 1949, những vùng đất Phổ khi trước được tổ chức lại thành các bang Brandenburg và Saxony-Anhalt, với những phần còn lại của tỉnh Pomerania được giao về cho Mecklenburg-Tây Pomerania. Những bang này đã bị giải tán vào năm 1952 để trở thành các quận, nhưng được tái lập sau khi chủ nghĩa cộng sản sụp đổ vào năm 1990.
Phần lãnh thổ phía tây bị quân Đồng minh chiếm đóng trở thành Tây Đức vào năm 1949. Các lãnh thổ cũ của Phổ được chia cho các bang Bắc Rhine-Westphalia, Hạ Saxony, Hesse, Rhineland-Palatinate, và Schleswig-Holstein. Các vùng Württemberg-Baden và Württemberg-Hohenzollern sát nhập với Baden tạo ra bang Baden-Württemberg.
Sau khi Liên bang Xô Viết tan rã, một số lượng nhỏ người gốc Đức từ Kazakhstan đã bắt đầu định cư tại vùng Kaliningrad của Liên bang Nga, vốn là phần phía bắc của Đông Phổ. Đó là một phần của làn sóng nhập cư vào khu vực này, trước đó là một khu vực cấm. Vào khoảng 2005, khoảng 6.000 (0.6% dân số) là dân gốc Đức sống ở đây, đa số từ các vùng khác của Nga.
Sau sự thống nhất nước Đức vào năm 1990 một kế hoạch được đưa ra để sát nhập các bang Berlin và Brandenburg. Mặc dù một số người đề nghị tên của bang mới này là "Prussia", tức Phổ, nhưng không có cái tên nào được chọn, và bang có lẽ sẽ được gọi là "Berlin-Brandenburg" hoặc "Brandenburg". Tuy vậy sự sát nhập này đã bị bác bỏ vào năm 1996 trong cuộc trưng cầu dân ý, bởi đa số cử tri ở Tây Berlin. Cũng sau khi nước Đức thống nhất, thi hài của ông vua lừng lẫy Friedrich II Đại Đế (vốn từng được mai táng ở Nhà thờ Công sự (Potsdam) trước khi Nhà thờ bị phá hủy trong cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ hai[221]) được đưa về Cung điện Sanssouci mà mai táng vào tháng 8 năm 1991, theo ước muốn của ông, là chôn cất ông cũng với những chú chó săn thỏ của ông, sau biết bao biến cố lịch sử.[222]
Xem thêm
Chú thích
- ^ a b Christopher M. Clark, Iron kingdom: the rise and downfall of Prussia, 1600-1947, trang 777
- ^ SYLCANUS URBAN, THE GENTLEMAN'S MAGAZINE: AND HISTORICAL CHRONICLE. VOLUME LX, trang 765
- ^ a b Philip J. Haythornthwaite, Invincible generals: Gustavus Adolphus, Marlborough, Frederick the Great, George Washington, Wellington
- ^ a b c d Gregorio F. Zaide, World history, trang 273
- ^ a b Encyclopaedia Britannica, inc, The Britannica book of the war, trang 31
- ^ a b c Seven Years War
- ^ Kha Xuân Kiều, Hà Nhân Học, Những nhân vật quân sự nổi tiếng thế giới, trang 325
- ^ Gerhard Ritter, Frederick the Great: a historical profile, trang 118
- ^ Charles Booth Brackenbury, Frederick the Great, G. P. Putnam, trang 256
- ^ a b David W. Del Testa, Florence Lemoine, John Strickland, Government leaders, military rulers, and political activists, trang 64
- ^ Gerhard Ritter, Frederick the Great: a historical profile, trang 198
- ^ Christopher M. Clark, Iron kingdom: the rise and downfall of Prussia, 1600-1947
- ^ a b Christopher M. Clark, Iron kingdom: the rise and downfall of Prussia, 1600-1947, trang 371
- ^ a b Carl Cavanagh Hodge, Encyclopedia of the Age of Imperialism, 1800-1914, Tập 2, trang 573
- ^ Christopher M. Clark, Iron kingdom: the rise and downfall of Prussia, 1600-1947, trang 195
- ^ Christopher M. Clark, Iron kingdom: the rise and downfall of Prussia, 1600-1947, trang 19
- ^ a b c d e Christopher Duffy, Frederick the Great: A Military Life, trang XVI
- ^ Christopher M. Clark, Iron kingdom: the rise and downfall of Prussia, 1600-1947, trang 674
- ^ Christopher M. Clark, Iron kingdom: the rise and downfall of Prussia, 1600-1947, trang 47
- ^ Christopher M. Clark, Iron kingdom: the rise and downfall of Prussia, 1600-1947, trang 657
- ^ Gerhard Ritter, Frederick the Great: a historical profile, trang 179
- ^ a b c Gerhard Ritter, Frederick the Great: a historical profile, trang 114
- ^ Christopher M. Clark, Iron kingdom: the rise and downfall of Prussia, 1600-1947, trang 51
- ^ Christopher M. Clark, Iron kingdom: the rise and downfall of Prussia, 1600-1947, trang 552
- ^ Christopher Duffy, Frederick the Great: A Military Life, trang 318
- ^ Christopher M. Clark, Iron kingdom: the rise and downfall of Prussia, 1600-1947, trang 101
- ^ Christopher M. Clark, Iron kingdom: the rise and downfall of Prussia, 1600-1947, trang 95
- ^ Christopher M. Clark, Iron kingdom: the rise and downfall of Prussia, 1600-1947, trang 97
- ^ Christopher M. Clark, Iron kingdom: the rise and downfall of Prussia, 1600-1947, trang 85
- ^ Christopher M. Clark, Iron kingdom: the rise and downfall of Prussia, 1600-1947, trang 84
- ^ a b Gerhard Ritter, Frederick the Great: a historical profile, trang 10
- ^ Carlton Joseph Huntley Hayes, A political and social history of modern Europe, Tập 1, trang 37
- ^ Richard L. Gawthrop, Pietism and the making of eighteenth-century Prussia, trang 1
- ^ a b c Gerhard Ritter, Frederick the Great: a historical profile, trang 187
- ^ Mario Reading, The Complete Prophecies of Nostradamus, trang 464
- ^ H. W. Koch, A History of Prussia, các trang 100-102. Trang 161
- ^ Tuy nhiên, theo ghi nhận của Paul Kuritz, người ta gọi ông là Friedrich Đại đế do ông đã phản đối chủ nghĩa quân phiệt của vua cha, tập trung năng lực của mình vào nền văn hoá và nghệ thuật. Xem "The making of theatre history", trang 245
- ^ Robert S. Albert, Genius and eminence, trang 84
- ^ William Theodore De Bary, Sources of East Asian Tradition: The modern period], trang 482
- ^ Baron John Emerich Edward Dalberg Acton Acton, Ernest Alfred Benians, The Cambridge modern history, Tập 6, trang 725
- ^ The King and the Page
- ^ C B Brackenbury, C. B. Brackenbury, Frederick the Great, trang 182
- ^ a b c d Kha Xuân Kiều, Hà Nhân Học, Những nhân vật quân sự nổi tiếng thế giới, trang 320
- ^ A. W. Holland, Germany, trang 221
- ^ The Merchants' Magazine and Commercial Review, Tập 1, trang 103
- ^ a b c Christopher M. Clark, Iron kingdom: the rise and downfall of Prussia, 1600-1947, trang 183
- ^ Bruce Adelson, Arthur Meier Schlesinger, Baron Von Steuben: American General, trang 8
- ^ Heinrich Von Treitschke, George Haven Putnam, Confessions of Frederick the Great and the Life of Frederick the Great, trang 19
- ^ a b c d Gerhard Ritter, Frederick the Great: a historical profile, trang 92
- ^ C B Brackenbury, C. B. Brackenbury, Frederick the Great, trang 115
- ^ a b c d e f g Radhey Shyam Chaurasia, History of Europe, trang 135
- ^ a b Stanley Sandler, Ground warfare: an international encyclopedia, Tập 1, trang 296
- ^ Society of American Military Engineers, The Military engineer, Tập 23, trang 62
- ^ Christopher Duffy, Frederick the Great: A Military Life, trang 292
- ^ Christopher Duffy, Frederick the Great: A Military Life, trang 242
- ^ Daniel Coit Gilman, The New international encyclopaedia, Tập 18, trang 12
- ^ a b c Gerhard Ritter, Frederick the Great: a historical profile, trang 116
- ^ a b Roger Osborne, Civilization: a new history of the Western world, trang 252
- ^ a b c John S. D. Eisenhower, Bitter Woods, trang 21
- ^ Bruce Adelson, Arthur Meier Schlesinger, Baron Von Steuben: American General, trang 12
- ^ C B Brackenbury, C. B. Brackenbury, Frederick the Great, các trang 232-233.
- ^ a b Friedrich Kohlrausch, A history of Germany: from the earliest period to the present time, các trang 596-598.
- ^ Charles Robert Leslie Fletcher, An Introductory History of England: From Charles the II to the Battle of Waterloo, trang 217
- ^ B Brackenbury, C. B. Brackenbury, Frederick the Great, trang 243
- ^ a b Gerhard Ritter, Frederick the Great: a historical profile, trang 115
- ^ B Brackenbury, C. B. Brackenbury, Frederick the Great, trang 181
- ^ a b c Christopher M. Clark, Iron kingdom: the rise and downfall of Prussia, 1600-1947, trang 204
- ^ Christopher Duffy, Frederick the Great: A Military Life, trang 241
- ^ Gerhard Ritter, Frederick the Great: a historical profile, trang 111
- ^ Heinrich Von Treitschke, George Haven Putnam, Douglas Sladen, Confessions of Frederick the Great and the Life of Frederick the Great, trang 158
- ^ C B Brackenbury, C. B. Brackenbury, Frederick the Great, trang 181
- ^ C B Brackenbury, C. B. Brackenbury, Frederick the Great, trang 230
- ^ Theodore Ayrault Dodge, Great Captains, trang 176
- ^ C B Brackenbury, C. B. Brackenbury, Frederick the Great, trang 219
- ^ C B Brackenbury, C. B. Brackenbury, Frederick the Great, trang 130
- ^ a b Gerhard Ritter, Frederick the Great: a historical profile, trang 125
- ^ Christopher M. Clark, Iron kingdom: the rise and downfall of Prussia, 1600-1947, trang 202
- ^ Christopher Duffy, Frederick the Great: A Military Life, trang 161
- ^ a b Bruce Adelson, Arthur Meier Schlesinger, Baron Von Steuben: American General, trang 13
- ^ Gerhard Ritter, Frederick the Great: a historical profile, trang 186
- ^ Gerhard Ritter, Frederick the Great: a historical profile, trang 128
- ^ Erich Meissner, German in Peril, trang 22
- ^ a b THE COLUMBIA VIKING DESK ENCYCLOPEDIA, trang 383
- ^ Gerhard Ritter, Frederick the Great: a historical profile, trang 134
- ^ a b T. C. W. Blanning, The Culture of Power and the Power of Culture: Old Regime Europe 1660-1789, trang 230
- ^ a b Michael A. Meyer, The origins of the modern Jew: Jewish identity and European culture in Germany, 1749-1824, trang 23
- ^ Alex Natan, Brian Keith-Smith, German men of letters: Literary essays, trang 99
- ^ Gerhard Ritter, Frederick the Great: A Historical Profile, trang 133
- ^ William Francis Collier, The great events of history from the beginning of the Christian era to the 19th century, trang 298
- ^ A. Henry Higginson, The book of the horse, trang 208
- ^ Christopher M. Clark, Iron kingdom: the rise and downfall of Prussia, 1600-1947, trang 219
- ^ Gerhard Ritter, Frederick the Great: a historical profile, trang 132
- ^ Gerhard Ritter, Frederick the Great: a historical profile, trang 133
- ^ Christopher M. Clark, Iron kingdom: the rise and downfall of Prussia, 1600-1947, trang 225
- ^ a b Christopher M. Clark, Iron kingdom: the rise and downfall of Prussia, 1600-1947, trang 220
- ^ Christopher M. Clark, Iron kingdom: the rise and downfall of Prussia, 1600-1947, trang 222
- ^ Heinrich Von Treitschke, George Haven Putnam, Doughlas Sladen, Confessions of Frederick the Great and the Life of Frederick the Great, trang 130
- ^ Heinrich Von Treitschke, George Haven Putnam, Confessions of Frederick the Great and the Life of Frederick the Great, trang 158
- ^ a b c Heinrich Von Treitschke, George Haven Putnam, Douglas Sladen, Confessions of Frederick the Great and the Life of Frederick the Great, trang 155
- ^ Christopher Duffy, Frederick the Great: A Military Life, trang 228
- ^ Christopher Duffy, The fortress in the age of Vauban and Frederick the Great, 1660-1789, trang 119
- ^ Bruce Adelson, Arthur Meier Schlesinger, Baron Von Steuben: American General, trang 14
- ^ Samuel Willard Crompton, Waterloo, trang 30
- ^ a b Hamish M. Scott, The emergence of the Eastern powers, 1756-1775, trang 42
- ^ Heinrich Von Treitschke, George Haven Putnam, Douglas Sladen, Confessions of Frederick the Great and the Life of Frederick the Great, trang 12
- ^ Heinrich Von Treitschke, George Haven Putnam, Douglas Sladen, Confessions of Frederick the Great and the Life of Frederick the Great, trang 13
- ^ Christopher M. Clark, Iron kingdom: the rise and downfall of Prussia, 1600-1947, trang 227
- ^ Christopher M. Clark, Iron kingdom: the rise and downfall of Prussia, 1600-1947, trang 216
- ^ a b Gerhard Ritter, Frederick the Great: a historical profile, trang 185
- ^ Peter H. Wilson, The Thirty Years War: Europe's tragedy, trang 187
- ^ Gerhard Ritter, Frederick the Great: a historical profile, trang 188
- ^ Bernard Pares, Russia and the Peace, trang 95
- ^ Christopher Duffy, Frederick the Great: A Military Life, trang 263
- ^ Christopher Duffy, Frederick the Great: A Military Life, trang 224
- ^ a b Heinrich Von Treitschke, George Haven Putnam, Confessions of Frederick the Great and the Life of Frederick the Great, trang 163
- ^ a b C B Brackenbury, C. B. Brackenbury, Frederick the Great, các trang 251-254.
- ^ Heinrich Von Treitschke, George Haven Putnam, Douglas Sladen, Confessions of Frederick the Great and the Life of Frederick the Great, trang 156
- ^ Christopher Duffy, Frederick the Great: A Military Life, trang 266
- ^ Winston Groom, A Storm in Flanders: The Ypres Salient, 1914-1918: Tragedy and Triumph on the Western Front, trang 32
- ^ The Case of the Distinguised Corpses, Will Lang, Life Magazine, Mar 6, 1950
- ^ John Jacob Anderson, A Manual of General History - Being an Outline History of the World from the Creation to the Present Time. with Numerous Engravings and Maps. for the Use of Colleges High-Schools, Academies, Etc., trang 330
- ^ a b Alice Birkhead, Heroes of Modern Europe, các trang 135-136
- ^ a b Birdsall S. Viault, Schaum's Outline of Modern European History, trang 127
- ^ a b Hamish M. Scott, The emergence of the Eastern powers, 1756-1775, trang 97
- ^ Paul Hyland, Olga Gomez, Francesca Greensides, The Enlightenment: a sourcebook and reader, trang 63
- ^ David G. Thomas, Swimming: steps to success, trang 16
- ^ Derek Fraser, The buildings of Europe: Berlin, trang 136
- ^ Earl Steinbicker, Daytrips Germany, trang 306
- ^ Hugh Montgomery-Massingberd, Burke's royal palaces of Europe, trang 78
- ^ Heinrich Von Treitschke, George Haven Putnam, Douglas Sladen, Confessions of Frederick the Great and the Life of Frederick the Great, trang 194
- ^ Illustrated Encyclopaedia of World History, trang 392
- ^ World and Its Peoples, trang 328
- ^ Bởi Ellen Judy Wilson, Peter Hanns Reill, Encyclopedia of the Enlightenment, trang 451
- ^ Emmanuel Le Roy Ladurie, Jean-François Fitou, Saint-Simon and the court of Louis XIV, trang 9
- ^ Louis Crompton, "Homosexuality & Civilization", trang 504, nguyên văn bài thơ trong trang 505, trang 508, trang 515.
- ^ Christopher M. Clark, Iron kingdom: the rise and downfall of Prussia, 1600-1947, trang 185
- ^ Christopher M. Clark, Iron kingdom: the rise and downfall of Prussia, 1600-1947, trang 184
- ^ Gerhard Ritter, Frederick the Great: a historical profile, trang 42
- ^ Heinrich Von Treitschke, George Haven Putnam, Confessions of Frederick the Great and the Life of Frederick the Great, trang 179
- ^ Gerhard Ritter, Frederick the Great: a historical profile, trang 96
- ^ Gerhard Ritter, Frederick the Great: a historical profile, trang 44
- ^ Gerhard Ritter, Frederick the Great: a historical profile, trang 38
- ^ Gerhard Ritter, Frederick the Great: a historical profile, trang 127
- ^ Christopher Duffy, Frederick the Great: A Military Life, trang 281
- ^ Gerhard Ritter, Frederick the Great: a historical profile, trang 95
- ^ Michael O'Loghlin, Frederick the Great and his musicians: the viola da gamba music of the Berlin school, trang 32
- ^ Heinrich Von Treitschke, George Haven Putna, Confessions of Frederick the Great and the Life of Frederick the Great, các trang 19-22. Trang 202: "...Moses..."
- ^ Mary Lindemann, Liaisons dangereuses: sex, law, and diplomacy in the age of Frederick the Great, trang 73
- ^ James, Barry: 200 Years Later, Frederick the Great Still Makes Trouble, International Herald Tribune, August 15 1991[liên kết hỏng]
- ^ Dieudonné Thiébault, Original anecdotes of Frederick the Great, King of Prussia: and of his family, his court, his ministers, his academies, and his literary friends, Tập 2, trang 69
- ^ Brendan Simms, "The Impact of Napoleon: Prussian High Politics, Foreign Policy and the Crisis of the Executive, 1797-1806", Cambridge University Press, 2002, tr. 149
- ^ Christopher Duffy, Frederick the Great: A Military Life, trang 278
- ^ a b Christopher Duffy, Frederick the Great: A Military Life, trang 279
- ^ a b C B Brackenbury, C. B. Brackenbury, Frederick the Great, các trang 257-258.
- ^ Avner Falk, Napoleon against himself: a psychobiography, trang 68
- ^ William Edward Hartpole Lecky, A History of England in the Eighteenth Century, trang 363
- ^ Edmond Fitzmaurice, Charles William Ferdinand, Duke of Brunswick: An Historical Study, 1735-1806, trang 24
- ^ George Madison Priest, Germany Since 1740, trang 34
- ^ W. F. Reddaway, "Frederick the Great and the Rise of Prussia", các trang 148-153, trang 274, trang 288, trang 336, trang 344.
- ^ Arthur B. Gunlicks, "The Länder and German federalism", Manchester University Press, 2003, trang 16
- ^ Thomas Carlyle, History of Friedrich the Second called Frederick the Great, Tập 6, trang 189, trang 294: "Catin du Nord", trang 495: this is the victory summit of Friedrich's Public History... Friedrich's last feat in the world.....
- ^ Antti P. Balk, Saints & Sinners: An Account of Western Civilization, Thelema Publications, 2008, trang 661
- ^ Christopher M. Clark, Iron kingdom: the rise and downfall of Prussia, 1600-1947, trang 217
- ^ Ephraim Lipson, Europe in the XIXth & XXth centuries, 1815-1939, trang 61
- ^ Gerhard Ritter, Frederick the Great: a historical profile, trang 199
- ^ Christopher Duffy, Frederick the Great: A Military Life, trang 265
- ^ Williamson Simpson Oldham, Clayton E. Jewett, Rise and fall of the Confederacy: the memoir of Senator Williamson S. Oldham, CSA, trang 141
- ^ George Sand, The Countess of Rudolstadt, Tập 1-2, trang 8
- ^ Friedrich Kapp, Life of Frederick William von Steuben: major general in the Revolutionary Army, trang 47
- ^ The Kingfisher History Encyclopedia, trang 292
- ^ Charles Downer Hazen, Modern European History, trang 13
- ^ Famous Men of Modern Times - Frederick the Great
- ^ Heinrich Von Treitschke, George Haven Putnam, Confessions of Frederick the Great and the Life of Frederick the Great, trang 23
- ^ George Peabody Gooch, Germany and the French Revolution, Tập 1, trang 6
- ^ Neil Grant, Oxford Children's History of the World, Tập 2, trang 108
- ^ Paul G. Partington, Who's who on the postage stamps of Eastern Europe, Scarecrow Press, 1979, trang 393
- ^ Owen Connelly, On War and Leadership: The Words of Combat Commanders from Frederick the Great to Norman Schwarzkopf, trang 11
- ^ Heinrich Von Treitschke, George Haven Putnam, Douglas Sladen, Confessions of Frederick the Great and the Life of Frederick the Great, trang 170
- ^ Heinrich Von Treitschke, George Haven Putnam, Douglas Sladen, Confessions of Frederick the Great and the Life of Frederick the Great, trang 182
- ^ Christopher Duffy, Frederick the Great: A Military Life, trang XII
- ^ a b Christopher Duffy, Frederick the Great: A Military Life, trang 283
- ^ Christopher M. Clark, Iron kingdom: the rise and downfall of Prussia, 1600-1947, trang 228
- ^ Heinrich Von Treitschke, George Haven Putnam, Douglas Sladen, Confessions of Frederick the Great and the Life of Frederick the Great, trang 153
- ^ Christopher M. Clark, Iron kingdom: the rise and downfall of Prussia, 1600-1947, trang 215
- ^ John H. Zammito, The genesis of Kant's critique of judgment, trang 11
- ^ Eric Dorn Brose, German history, 1789-1871: from the Holy Roman Empire to the Bismarckian Reich, trang 26
- ^ James J. Sheehan, German history, 1770-1866, trang 292
- ^ Adrian Johns, Piracy: the intellectual property wars from Gutenberg to Gates, trang 55
- ^ a b Gerhard Ritter, Frederick the Great: a historical profile, trang 154
- ^ Gerhard Ritter, Frederick the Great: a historical profile, trang 201
- ^ Graeme Garrard, Counter-enlightenments: from the eighteenth century to the present, trang 56
- ^ Fredrick William II (King of Prussia)
- ^ Joseph A. Biesinger, Germany: a reference guide from the Renaissance to the present, trang 392
- ^ Peter Paret, The cognitive challenge of war: Prussia 1806, trang 83
- ^ a b David Nicholls, Napoleon: a biographical companion, trang 108
- ^ Christopher M. Clark, Iron kingdom: the rise and downfall of Prussia, 1600-1947, trang 308
- ^ Christopher M. Clark, Iron kingdom: the rise and downfall of Prussia, 1600-1947, trang 307
- ^ Christopher Duffy, Red storm on the Reich: the Soviet march on Germany, 1945, trang 232
- ^ Christopher M. Clark, Iron kingdom: the rise and downfall of Prussia, 1600-1947, trang 325
- ^ Harold Everett Stearns, Germany's military heroes of the Napoleonic era in her post-war historical drama: currents of German nationalism in recent historical plays, trang 45
- ^ James J. Sheehan, German history, 1770-1866, trang 308
- ^ Christopher M. Clark, Iron kingdom: the rise and downfall of Prussia, 1600-1947, trang 661
- ^ Houghton Mifflin Company, The Houghton Mifflin dictionary of biography, trang 561
- ^ Lieutenant - General, A Nation Trained in Arms Or a Militia, trang 76
- ^ a b Samuel Willard Crompton, Waterloo, trang 34
- ^ Frederick Franklin Schrader, 1683-1920, trang 58
- ^ John Adam Cramb, Germany and England, trang 23
- ^ Samuel Willard Crompton, Waterloo, trang 32
- ^ Christopher M. Clark, Iron kingdom: the rise and downfall of Prussia, 1600-1947, Trang XVIII
- ^ Christopher M. Clark, Iron kingdom: the rise and downfall of Prussia, 1600-1947, trang 435
- ^ Christopher M. Clark, Iron kingdom: the rise and downfall of Prussia, 1600-1947, trang 436
- ^ R. Larry Todd, Mendelssohn and his world, trang 145
- ^ a b Jeffrey A. Bell, Industrialization and imperialism, 1800-1914: a biographical dictionary, trang 130
- ^ a b Joseph A. Biesinger, Germany: a reference guide from the Renaissance to the present, trang 740
- ^ a b c Joseph A. Biesinger, Germany: a reference guide from the Renaissance to the present, trang 388
- ^ Christopher M. Clark, Iron kingdom: the rise and downfall of Prussia, 1600-1947, trang 662
- ^ Weeks, Gregory "Ritter, Gerhard A." pages 996-998 from The Encyclopedia of Historians and Historical Writing, Fitzroy Dearborn Publishers: London 1999 page 997.
- ^ Schwabe, Klaus "Gerhard Ritter" pages 83-103 from Paths of Continuity Washington, D.C.: German Historical Institute, 1994 page 95.
- ^ Schwabe, Klaus "Gerhard Ritter" pages 83-103 from Paths of Continuity Washington, D.C.: German Historical Institute, 1994 pages 94-95.
- ^ Christopher M. Clark, Iron kingdom: the rise and downfall of Prussia, 1600-1947, trang 655
- ^ Christopher M. Clark, Iron kingdom: the rise and downfall of Prussia, 1600-1947, trang 690
Tài liệu tham khảo
- Illustrated Naval and Military Magazine: A monthly journal devoted to all subjects connected with Her Majesty's land and sea forces, Tập 2. 1885.
- Gerhard Ritter, Frederick the Great: A Historical Profile, University of California Press, 1975. ISBN 0520027752. Cuốn này đã được nhà sử học quân sự người Mỹ là Peter Paret biên dịch sang tiếng Anh.
- Bruce Adelson, Arthur Meier Schlesinger, Baron Von Steuben: American General, Infobase Publishing, 2001. ISBN 0791063933.
- Dorpalen, Andreas "Gerhard Ritter" from Deutsche Historiker, edited by Hans-Ulrich Wehler, Göttingen: Vandenhoeck & Ruprecht, 1973.
- Peter Paret, The cognitive challenge of war: Prussia 1806, Princeton University Press, 2009. ISBN 0691135819.
- C B Brackenbury, C. B. Brackenbury, Frederick the Great, BiblioBazaar, LLC, 2009. ISBN 1110850220.
- Hartmut Lehmann, James Van Horn Melton, Paths of Continuity: Central European Historiography from the 1930s to the 1950s, Cambridge University Press, 2003. ISBN 0521531217.
- Erich Meissner, Germany in Peril, READ BOOKS, 2007. ISBN 1406708429.
- Encyclopaedia Britannica, inc, The Britannica book of the war, The Encyclopaedia Britannica, 1914.
- John S. D. Eisenhower, Bitter Woods, Battery Pr, 1969. ISBN 0898391067.
- Peter H. Wilson, The Thirty Years War: Europe's tragedy, Harvard University Press, 2009. ISBN 0674036344.
- Baron Thomas Babington Macaulay Macaulay, Life of Frederick the Great, Delisser & Procter, 1859.
- Barraclough, Geoffrey. The Origins of Modern Germany (2d ed., 1947)
- Charles Robert Leslie Fletcher, An Introductory History of England: From Charles the II to the Battle of Waterloo, E.P. Dutton & co., 1910.
- Society of American Military Engineers, The Military engineer, Tập 23, Society of American Military Engineers, 1931.
- Christopher Duffy, Frederick the Great: A Military Life, Routledge, 1988, ISBN 0415002761.
- Hamish M. Scott, The emergence of the Eastern powers, 1756-1775, Cambridge University Press, 2001. ISBN 052179269X.
- Christopher M. Clark, Iron Kingdom: The Rise and Downfall of Prussia, 1600-1947, (2009), Harvard University Press, 2006. ISBN 0674023854.
- Friedrich, Karin (2000). The Other Prussia. Royal Prussia, Poland and Liberty, 1569–1772. Cambridge: Cambridge University Press. ISBN 978-0-521-58335-0. Truy cập ngày 13 tháng 4 năm 2011.
- Christopher Duffy, The military experience in the age of reason, Routledge, 1987. ISBN 0710210248.
- Haffner, Sebastian. The Rise and Fall of Prussia (1998) 192 pp
- Holborn, Hajo. A History of Modern Germany (3 vol 1959-64); col 1: The Reformation; vol 2: 1648-1840 online and text search; vol 3. 1840-1945
- Jeep, John M. Medieval Germany: An Encyclopedia (2001), 928pp, 650 articles by 200 scholars cover A.D. 500 to 1500 excerpt and text search
- Christopher Duffy, Red storm on the Reich: the Soviet march on Germany, 1945, Routledge, 1991. ISBN 0415035899.
- Stanley Sandler, Ground warfare: an international encyclopedia, Tập 1. ABC-CLIO, 2002. ISBN 1576073440.
- THE COLUMBIA VIKING DESK ENCYCLOPEDIA, 1968.
- Koch, H. W. History of Prussia (1987), short scholarly history
- Maehl, William Harvey. Germany in Western Civilization (1979), 833pp
- Reinhardt, Kurt F. Germany: 2000 Years (2 vols., 1961), stress on cultural topics
- Shennan, M. The Rise of Brandenburg Prussia (1997), on 1600-1740 excerpt and text search
- Taylor, A. J. P. The Course of German History: A Survey of the Development of German History since 1815. (2001). 280pp; online edition
- Heinrich Von Treitschke, George Haven Putnam, Confessions of Frederick the Great and the Life of Frederick the Great, The Minerva Group, Inc., 2001. ISBN 0898755360.
- Friedrich Kohlrausch, A history of Germany: from the earliest period to the present time, Chapman and Hall, 1844.
- World and Its Peoples, Marshall Cavendish, 2009. ISBN 0761478892.
- Samuel Willard Crompton, Waterloo, Infobase Publishing, 2002. ISBN 0791071103.
- Carlton Joseph Huntley Hayes, A political and social history of modern Europe, Tập 1,
- R. Larry Todd, Mendelssohn and his world, Princeton University Press, 1991. ISBN 0691027153.
- Jeffrey A. Bell, Industrialization and imperialism, 1800-1914: a biographical dictionary, Greenwood Publishing Group, 2002, ISBN 0313314519.
- Joseph A. Biesinger, Germany: a reference guide from the Renaissance to the present, Infobase Publishing, 2006. ISBN 0816045216.
- John Adam Cramb, Germany and England, E. P. Dutton & Co., 1914.
- Carl Cavanagh Hodge, Encyclopedia of the Age of Imperialism, 1800-1914, Tập 2, Greenwood Publishing Group, 2007, ISBN 0313334048.
Đọc thêm
- Mario Reading, The Complete Prophecies of Nostradamus, Sterling Publishing Company, Inc., 2009, trang 464. ISBN 1906787395.
- William Theodore De Bary, Sources of East Asian Tradition: The modern period, Columbia University Press, 2008, trang 482. ISBN 0231143230.
Liên kết ngoài
Wikimedia Commons có thêm thể loại hình ảnh và tài liệu về Phổ (quốc gia) |
- Preussen.de (website of the House of Hohenzollern).
- (tiếng Đức) Preußen-Chronik.de[liên kết hỏng]
- Administrators of Prussian provinces
- (tiếng Anh) Prussian Cultural Heritage Foundation website
- Anh Stiftung Preußischer Kulturbesitz (picture archive).
- Foundation for Prussian Palaces and Gardens Berlin-Brandenburg
- (tiếng Đức) Constitutional deed for the Prussian state ("Imposed Constitution" – December 5, 1848) (full text).
- (tiếng Đức) Constitutional deed for the Prussian state ("Revised Constitution" – January 31, 1850) (full text).
- Map of Prussia in 1690
- Administrative Subdivision of the Kingdom of Prussia, 1900/10
|
Thể loại:
Về sùng bái cá nhân và những hậu quả của nó
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Về tệ nạn sùng bái cá nhân và những hậu quả của nó (tiếng Nga:О культе личности и его последствиях), thường được biết là Diễn văn bí mật hoặc Báo cáo của Khrushchyov, là bài báo cáo trước Đại hội Đảng Cộng sản Liên Xô lần thứ 20 ngày 25 tháng 2 năm 1956 của nhà lãnh đạo Xô Viết Nikita Sergeyevich Khrushchyov mà trong đó ông đã phê phán những hành động được thực hiện dưới chế độ của Stalin, đặc biệt là những vụ thanh trừng các lãnh đạo cao cấp của Đảng Cộng sản Liên Xô và quân đội, trong khi vẫn ra vẻ ủng hộ lý tưởng cộng sản bằng việc viện dẫn chủ nghĩa Lenin.
Bài diễn văn là một cột mốc lịch sử chính trong thời tan băng của Khrushchyov[1][2]. Nó cũng chính là một dấu hiệu tranh chấp quyền lực nghiêm trọng trong hàng ngũ lãnh đạo Xô Viết mà Khrushchyov đã làm hết sức mình để tấn công uy thế của những người còn tồn tại trong một thời kỳ thống trị của chủ nghĩa Stalin, đặc biệt là Lavrentiy Pavlovich Beria. Bề ngoài thì bài diễn văn được trình bày như nỗ lực kéo Đảng Cộng sản Liên Xô lại gần hơn chủ nghĩa Lenin. Tuy nhiên mục tiêu của Khrushchyov chủ yếu là thu góp sự ủng hộ của mọi người về chuyện ông đã cho bắt giữ và hành quyết Beria vào mùa hè năm 1953[3], cũng như hợp thức hóa quyền lực mới giành lại từ tay những người trung thành với Stalin là Vyacheslav Mikhailovich Molotov và Georgii Maximilianovich Malenkov.
Bài diễn văn được biết đến như là bài diễn văn bí mật vì nó được đọc tại một phiên họp kín, và bài viết thực sự của nó chỉ được in ra vào năm 1989 trong tạp chí Izvestiya TseKa KPSS (Các báo cáo của Ủy ban Trung ương Đảng), số 3, tháng 3 năm 1989, mặc dù nhiều đảng viên đã được thông báo về bài diễn văn một tháng sau khi Khrushchyov đọc nó.
Cảm hứng cho bài "Diễn văn Bí mật" đến cả từ sự hiểu biết khôn khéo về chính trị của Khrushchyov và những sự thật đang hé lộ về các trại lao động khổ sai và các tù nhân của chúng. Viên chức cao cấp của Đảng Cộng sản là Anastas Mikoyan, một đồng minh của Khrushchyov, đã gặp mặt các tù nhân trại lao động khổ sai vừa mới được thả ra và nhận thấy rằng hiện tượng bắt người vô cớ càng ngày càng thịnh hành và rộng khắp hơn là người ta tưởng; ông lập tức chuyển các thông tin này đến cho Khrushchyov, người đang chuẩn bị tạo động thái hành động chính trị của mình[4]. Nói chuyện với Mikoyan, một trong các tù nhân là Alexei Snegov phát biểu rằng "nếu ông [Mikoyan và Khrushchyov] không tự ly khai với Stalin tại Đại hội Đảng lần đầu tiên sau khi ông ta chết, và nếu ông không kể tội của ông ấy ra thì ông sẽ trở thành người đồng lõa tự nguyện trong những tội ác này"[4]. Một tù nhân khác, Olga Shatunovskaya, kể lại câu chuyện bà gặp một điệp viên của Nhật Bản, người đã nói với bà rằng "bọn Bolshevik khốn kiếp của bà ở tù mà chẳng biết lý do vì sao"[4] trong khi công nhận tội của mình là quá rõ ràng.
Bài diễn văn được soạn thảo dựa vào các kết quả của một ủy ban đặc biệt của Đảng Cộng sản (Petr Nikolaevich Pospelov - chủ tịch, P. D. Komarov, Averky Aristov, Nikolay Mikhailovich Shvernik), được biết như là Ủy ban Pospelov, được sắp xếp tại một khóa họp của đoàn chủ tịch Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô vào ngày 31 tháng 1 năm 1955. Mục đích trực tiếp của ủy ban là điều tra những vụ trấn áp các đại biểu của Đại hội Đảng Cộng sản Liên Xô lần thứ 17 năm 1934.
Đại hội đảng lần thứ 17 được chọn cho các cuộc điều tra là vì nó được biết đến như là "Đại hội của kẻ chiến thắng" trong đất nước của chủ nghĩa xã hội "toàn thắng", và vì thế con số to lớn những "kẻ thù" trong số những người tham dự đại hội cần phải giải thích.
Ủy ban này trưng bằng chứng là trong thời gian từ 1937–1938 (đỉnh điểm của thời kỳ được biết đến như là Đại thanh trừng) trên một triệu rưởi cá nhân đã bị bắt vì "các hoạt động chống Xô Viết" trong số đó trên 680.000 bị hành quyết[5][6].
Trong khi Khrushchyov không do dự chỉ ra những thủ đoạn xấu xa của chủ nghĩa Stalin về những vụ thanh trừng quân đội, đảng và ban lãnh đạo trong Chiến tranh vệ quốc vĩ đại, ông rất cẩn thận tránh né bất cứ lời chỉ trích nào về chính sách công nghiệp hóa của Stalin hoặc lý thuyết của Đảng Cộng sản. Khi thảo luận về những cuộc trấn áp hàng loạt thì cũng thấy rõ ràng rằng có sự thiếu vắng, phải nói là cố tình, bất cứ một lời đề cập nào về các vụ bắt bớ ngẫu nhiên các công dân bình thường, bởi vì những sự cố này cũng giống như sự tàn bạo của việc tập thể hóa đã phục vụ lợi ích Đảng và nhà nước[7]. Khrushchyov, nói cho cùng, thì cũng là một người trung thành của Đảng Cộng sản, và ông luôn miệng tán dương chủ nghĩa Lenin và lý tưởng cộng sản trong bài diễn văn của mình như ông luôn miệng kết tội các hành động của Stalin. Theo lý lẽ của Khrushchyov, Stalin là nạn nhân chủ yếu của hiệu quả độc hại của sự tôn sùng cá nhân[8] mà qua các sai trái của ông đã đưa đẩy ông từ một phần tử quan trọng của những chiến thắng của Lenin thành một người mang bệnh hoang tưởng, dễ dàng bị ảnh hưởng bởi "kẻ thù điên dại của Đảng ta" đó là Beria[9].
Cho dù có tố cáo các cuộc trấn áp chính trị nhưng việc xúc tiến phục hồi lại danh dự cho các nạn nhân của các cuộc trấn áp chính trị thì lại chậm chạp tuy việc phóng thích các tù nhân chính trị từ các trại lao động được khởi sự chẳng bao lâu sau khi Stalin qua đời. Tuy nhiên, các nạn nhân của Vụ xử án Moskva chỉ được giải oan tất cả mọi tội lỗi vào năm 1988.
Ngày 5 tháng 3 năm 1956, Đoàn chủ tịch Đảng ra lệnh đọc Báo cáo của Khrushchyov tại các cuộc họp của các tổ chức cộng sản và Komsomol với lời mời đến các người không phải là thành viên. Như thế toàn văn bài báo cáo đã được biết đến rộng rãi tại Liên Xô vào năm 1956, và cái tên "Bài diễn văn bí mật" là một cái tên nhầm lẫn. Nhưng, toàn văn bài diễn văn không được chính thức phổ biến ra công chúng cho đến năm 1989. Có thể là, mặc dù không có bằng chứng, Mikoyan và Khrushchyov là kiến trúc sư của những cuộc đọc lại bài diễn văn tại các địa phương cũng như tiết lộ bài diễn văn cho Rettie qua Orlov; con trai của Mikoyan là Sergo, và con trai của Khrushchyov là Sergi đã đưa ra những lời làm chứng mặc dù khó mà xác minh được lời làm chứng về ý định của hai người cha[4][11].
Tuy nhiên, lời văn của bài diễn văn chỉ từ từ được tiết lộ tại các quốc gia Đông Âu. Nó cũng chưa bao giờ được những người lãnh đạo tiết lộ đến thành viên của các đảng cộng sản Tây phương của mình, và đa số những người cộng sản Tây phương chỉ được biết đến chi tiết của lời văn sau khi một tờ báo của Mỹ xuất bản một phiên bản của nó vào giữa năm 1956.
Nội dung của bài diễn văn tới được phương Tây qua một con đường vòng quanh. Như đã có nói ở trên, một vài bản của bài diễn văn được gởi đi theo lệnh của Bộ Chính trị Liên Xô đến các nhà lãnh đạo các quốc gia Khối phía Đông. Ngay sau khi bài diễn văn đã được phổ biến, một nhà báo Ba Lan Viktor Grayevsky đến viếng thăm bạn gái của mình là Lucia Baranowski đang làm việc với tư cách là một thư ký cấp thấp tại văn phòng của đệ nhất bí thư của Đảng Cộng sản Ba Lan Edward Ochab. Trên bàn làm việc của bà là một sách nhỏ dày với rìa màu đỏ và dòng chữ: "Đại hội đảng lần thứ 20, diễn văn của Đồng chí Khrushchyov". Grayevsky đã có nghe qua lời đồn về bài diễn văn và vì là nhà báo nên ông rất hứng thú để đọc nó. Baranowski cho phép ông mang tài liệu này về nhà đọc.
Thật ngẫu nhiên khi Grayevsky lại là người Do Thái và vừa thực hiện một chuyến đi đến Israel để thăm người cha đang bịnh của mình. Ông đã có ý di cư đến đó. Sau khi đọc xong bài diễn văn, ông mang nó đến tòa đại sứ Israel và đưa cho Yaakov Barmor, người đã giúp Grayevsky thực hiện chuyến đi thăm người cha đang bịnh của mình. Barmor là một đại diện của Shin Bet (cơ quan tình báo Israel); ông chụp hình tài liệu và gởi các bức ảnh chụp về Israel.
Vào trưa ngày 13 tháng 4 năm 1956, Shin Bet tại Israel nhận được các bức ảnh chụp. Trước đó hai cơ quan tình báo Israeli và Hoa Kỳ đã bí mật đồng ý hợp tác về các vấn đề an ninh. James Jesus Angleton là trưởng ban phản gián của CIA và đặc trách liên hệ bí mật với tình báo Israel. Các bức ảnh chụp được đưa đến ông. Vào này 17 tháng 4 năm 1956, sau khi các bức ảnh chụp tới tay giám đốc CIA Allen Dulles, ông này nhanh chóng thông báo cho Tổng thống Dwight D. Eisenhower. Sau khi xem xét bài diễn văn có phải là thật hay không, CIA tiết lộ bài diễn văn này cho báo The New York Times vào đầu tháng 6[12].
Năm 1961, xác của Stalin bị đưa ra khỏi lăng Lenin và được chôn bên ngoài bức tường của Điện Kremli.
Năm 1956, một vài tháng sau đại hội lần thứ 20, bài diễn văn bí mật này của Khrushchyov được xuất bản khắp thế giới.
Vào lúc đó, tướng Moshe Dayan, một nhà quân sự chính trị Israel, người sau này đã chiến thắng liên quân Ai Cập - Syria đã nói rằng Liên Xô sẽ biến mất trong vòng 30 năm, và ông chỉ dự đoán với sai sai lệch 5 năm về sự sụp đổ của Liên Xô vào năm 1991.[cần dẫn nguồn]
Bài diễn văn là một cột mốc lịch sử chính trong thời tan băng của Khrushchyov[1][2]. Nó cũng chính là một dấu hiệu tranh chấp quyền lực nghiêm trọng trong hàng ngũ lãnh đạo Xô Viết mà Khrushchyov đã làm hết sức mình để tấn công uy thế của những người còn tồn tại trong một thời kỳ thống trị của chủ nghĩa Stalin, đặc biệt là Lavrentiy Pavlovich Beria. Bề ngoài thì bài diễn văn được trình bày như nỗ lực kéo Đảng Cộng sản Liên Xô lại gần hơn chủ nghĩa Lenin. Tuy nhiên mục tiêu của Khrushchyov chủ yếu là thu góp sự ủng hộ của mọi người về chuyện ông đã cho bắt giữ và hành quyết Beria vào mùa hè năm 1953[3], cũng như hợp thức hóa quyền lực mới giành lại từ tay những người trung thành với Stalin là Vyacheslav Mikhailovich Molotov và Georgii Maximilianovich Malenkov.
Bài diễn văn được biết đến như là bài diễn văn bí mật vì nó được đọc tại một phiên họp kín, và bài viết thực sự của nó chỉ được in ra vào năm 1989 trong tạp chí Izvestiya TseKa KPSS (Các báo cáo của Ủy ban Trung ương Đảng), số 3, tháng 3 năm 1989, mặc dù nhiều đảng viên đã được thông báo về bài diễn văn một tháng sau khi Khrushchyov đọc nó.
Mục lục
Lịch sử
Vấn đề trấn áp hàng loạt đã được công nhận trước khi bài diễn văn được đọc.Cảm hứng cho bài "Diễn văn Bí mật" đến cả từ sự hiểu biết khôn khéo về chính trị của Khrushchyov và những sự thật đang hé lộ về các trại lao động khổ sai và các tù nhân của chúng. Viên chức cao cấp của Đảng Cộng sản là Anastas Mikoyan, một đồng minh của Khrushchyov, đã gặp mặt các tù nhân trại lao động khổ sai vừa mới được thả ra và nhận thấy rằng hiện tượng bắt người vô cớ càng ngày càng thịnh hành và rộng khắp hơn là người ta tưởng; ông lập tức chuyển các thông tin này đến cho Khrushchyov, người đang chuẩn bị tạo động thái hành động chính trị của mình[4]. Nói chuyện với Mikoyan, một trong các tù nhân là Alexei Snegov phát biểu rằng "nếu ông [Mikoyan và Khrushchyov] không tự ly khai với Stalin tại Đại hội Đảng lần đầu tiên sau khi ông ta chết, và nếu ông không kể tội của ông ấy ra thì ông sẽ trở thành người đồng lõa tự nguyện trong những tội ác này"[4]. Một tù nhân khác, Olga Shatunovskaya, kể lại câu chuyện bà gặp một điệp viên của Nhật Bản, người đã nói với bà rằng "bọn Bolshevik khốn kiếp của bà ở tù mà chẳng biết lý do vì sao"[4] trong khi công nhận tội của mình là quá rõ ràng.
Bài diễn văn được soạn thảo dựa vào các kết quả của một ủy ban đặc biệt của Đảng Cộng sản (Petr Nikolaevich Pospelov - chủ tịch, P. D. Komarov, Averky Aristov, Nikolay Mikhailovich Shvernik), được biết như là Ủy ban Pospelov, được sắp xếp tại một khóa họp của đoàn chủ tịch Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô vào ngày 31 tháng 1 năm 1955. Mục đích trực tiếp của ủy ban là điều tra những vụ trấn áp các đại biểu của Đại hội Đảng Cộng sản Liên Xô lần thứ 17 năm 1934.
Đại hội đảng lần thứ 17 được chọn cho các cuộc điều tra là vì nó được biết đến như là "Đại hội của kẻ chiến thắng" trong đất nước của chủ nghĩa xã hội "toàn thắng", và vì thế con số to lớn những "kẻ thù" trong số những người tham dự đại hội cần phải giải thích.
Ủy ban này trưng bằng chứng là trong thời gian từ 1937–1938 (đỉnh điểm của thời kỳ được biết đến như là Đại thanh trừng) trên một triệu rưởi cá nhân đã bị bắt vì "các hoạt động chống Xô Viết" trong số đó trên 680.000 bị hành quyết[5][6].
Trong khi Khrushchyov không do dự chỉ ra những thủ đoạn xấu xa của chủ nghĩa Stalin về những vụ thanh trừng quân đội, đảng và ban lãnh đạo trong Chiến tranh vệ quốc vĩ đại, ông rất cẩn thận tránh né bất cứ lời chỉ trích nào về chính sách công nghiệp hóa của Stalin hoặc lý thuyết của Đảng Cộng sản. Khi thảo luận về những cuộc trấn áp hàng loạt thì cũng thấy rõ ràng rằng có sự thiếu vắng, phải nói là cố tình, bất cứ một lời đề cập nào về các vụ bắt bớ ngẫu nhiên các công dân bình thường, bởi vì những sự cố này cũng giống như sự tàn bạo của việc tập thể hóa đã phục vụ lợi ích Đảng và nhà nước[7]. Khrushchyov, nói cho cùng, thì cũng là một người trung thành của Đảng Cộng sản, và ông luôn miệng tán dương chủ nghĩa Lenin và lý tưởng cộng sản trong bài diễn văn của mình như ông luôn miệng kết tội các hành động của Stalin. Theo lý lẽ của Khrushchyov, Stalin là nạn nhân chủ yếu của hiệu quả độc hại của sự tôn sùng cá nhân[8] mà qua các sai trái của ông đã đưa đẩy ông từ một phần tử quan trọng của những chiến thắng của Lenin thành một người mang bệnh hoang tưởng, dễ dàng bị ảnh hưởng bởi "kẻ thù điên dại của Đảng ta" đó là Beria[9].
Cho dù có tố cáo các cuộc trấn áp chính trị nhưng việc xúc tiến phục hồi lại danh dự cho các nạn nhân của các cuộc trấn áp chính trị thì lại chậm chạp tuy việc phóng thích các tù nhân chính trị từ các trại lao động được khởi sự chẳng bao lâu sau khi Stalin qua đời. Tuy nhiên, các nạn nhân của Vụ xử án Moskva chỉ được giải oan tất cả mọi tội lỗi vào năm 1988.
Các báo cáo của bài diễn văn
Khrushchyov mở đầu bài diễn văn ngay sau khi nửa đêm; mất đến 4 tiếng đồng hồ để đọc bài diễn văn. Ngay sau đó, các báo cáo trong bài diễn văn đã được chuyển ra Tây phương bởi thông tín viên John Rettie của hãng thông tấn Reuters, người đã được Kostya Orlov cho biết về bài diễn văn này vài giờ trước khi Rettie đến giờ rời Liên Xô đi Stockholm; vì thế nó được tường thuật trong hệ thống truyền thông của phương Tây vào đầu tháng 3. Rettie tin rằng bài diễn văn này là từ chính Khrushchyov qua một người trung gian[10].Ngày 5 tháng 3 năm 1956, Đoàn chủ tịch Đảng ra lệnh đọc Báo cáo của Khrushchyov tại các cuộc họp của các tổ chức cộng sản và Komsomol với lời mời đến các người không phải là thành viên. Như thế toàn văn bài báo cáo đã được biết đến rộng rãi tại Liên Xô vào năm 1956, và cái tên "Bài diễn văn bí mật" là một cái tên nhầm lẫn. Nhưng, toàn văn bài diễn văn không được chính thức phổ biến ra công chúng cho đến năm 1989. Có thể là, mặc dù không có bằng chứng, Mikoyan và Khrushchyov là kiến trúc sư của những cuộc đọc lại bài diễn văn tại các địa phương cũng như tiết lộ bài diễn văn cho Rettie qua Orlov; con trai của Mikoyan là Sergo, và con trai của Khrushchyov là Sergi đã đưa ra những lời làm chứng mặc dù khó mà xác minh được lời làm chứng về ý định của hai người cha[4][11].
Tuy nhiên, lời văn của bài diễn văn chỉ từ từ được tiết lộ tại các quốc gia Đông Âu. Nó cũng chưa bao giờ được những người lãnh đạo tiết lộ đến thành viên của các đảng cộng sản Tây phương của mình, và đa số những người cộng sản Tây phương chỉ được biết đến chi tiết của lời văn sau khi một tờ báo của Mỹ xuất bản một phiên bản của nó vào giữa năm 1956.
Nội dung của bài diễn văn tới được phương Tây qua một con đường vòng quanh. Như đã có nói ở trên, một vài bản của bài diễn văn được gởi đi theo lệnh của Bộ Chính trị Liên Xô đến các nhà lãnh đạo các quốc gia Khối phía Đông. Ngay sau khi bài diễn văn đã được phổ biến, một nhà báo Ba Lan Viktor Grayevsky đến viếng thăm bạn gái của mình là Lucia Baranowski đang làm việc với tư cách là một thư ký cấp thấp tại văn phòng của đệ nhất bí thư của Đảng Cộng sản Ba Lan Edward Ochab. Trên bàn làm việc của bà là một sách nhỏ dày với rìa màu đỏ và dòng chữ: "Đại hội đảng lần thứ 20, diễn văn của Đồng chí Khrushchyov". Grayevsky đã có nghe qua lời đồn về bài diễn văn và vì là nhà báo nên ông rất hứng thú để đọc nó. Baranowski cho phép ông mang tài liệu này về nhà đọc.
Thật ngẫu nhiên khi Grayevsky lại là người Do Thái và vừa thực hiện một chuyến đi đến Israel để thăm người cha đang bịnh của mình. Ông đã có ý di cư đến đó. Sau khi đọc xong bài diễn văn, ông mang nó đến tòa đại sứ Israel và đưa cho Yaakov Barmor, người đã giúp Grayevsky thực hiện chuyến đi thăm người cha đang bịnh của mình. Barmor là một đại diện của Shin Bet (cơ quan tình báo Israel); ông chụp hình tài liệu và gởi các bức ảnh chụp về Israel.
Vào trưa ngày 13 tháng 4 năm 1956, Shin Bet tại Israel nhận được các bức ảnh chụp. Trước đó hai cơ quan tình báo Israeli và Hoa Kỳ đã bí mật đồng ý hợp tác về các vấn đề an ninh. James Jesus Angleton là trưởng ban phản gián của CIA và đặc trách liên hệ bí mật với tình báo Israel. Các bức ảnh chụp được đưa đến ông. Vào này 17 tháng 4 năm 1956, sau khi các bức ảnh chụp tới tay giám đốc CIA Allen Dulles, ông này nhanh chóng thông báo cho Tổng thống Dwight D. Eisenhower. Sau khi xem xét bài diễn văn có phải là thật hay không, CIA tiết lộ bài diễn văn này cho báo The New York Times vào đầu tháng 6[12].
Tóm lược
Cơ cấu cơ bản của bài diễn văn như sau:- Bác bỏ sự tôn sùng cá nhân Stalin
- Trích dẫn các lời kinh điển của chủ nghĩa Marx-Lenin lên án "tôn sùng cá nhân"
- Di chúc của Lenin và những nhận xét của Nadezhda Konstantinovna Krupskaya về đạo đức của Stalin
- Trước Stalin, cuộc chiến với chủ nghĩa Trotsky chỉ toàn là về lý tưởng; Stalin đã giới thiệu khái niệm "kẻ thù của nhân dân" được dùng như "khẩu pháo hạng nặng"
- Stalin đã vi phạm các nội qui Đảng về lãnh đạo tập thể
- Trấn áp số đông các Lão thành Bolshevik và đại biểu Đại hội Đảng XVII, đa số họ là công nhân và đã gia nhập Đảng Cộng sản trước năm 1920. Trong số 1.966 đại biểu, có 1.108 bị gán cho tội "bọn phản cách mạng", 848 bị hành quyết, và 98 trong 139 thành viên và ứng cử viên Ủy ban Trung ương bị gán tội "kẻ thù của nhân dân"
- Sau cuộc trấn áp này, Stalin thậm chí ngưng xem xét ý kiến của tập thể
- Các thí dụ về những vụ trấn áp một số người Bolshevik nổi tiếng được trình bày chi tiết
- Stalin đã ra lệnh gia tăng việc khủng bố hành hạ: "NKVD (công an mật vụ Liên Xô) có lịch trình trễ đến 4 năm"
- Âm mưu tiến hành ngụy tạo cho các "kế hoạch" vạch mặt số đông kẻ thù
- Ngông cuồng thổi phồng vai trò của Stalin trong Chiến tranh Vệ quốc Vĩ đại (Đệ nhị Thế chiến)
- Các vụ trục xuất toàn bộ các dân tộc
- Âm mưu của các bác sĩ (cho là các bác sĩ người Do Thái âm mưu giết các nhà lãnh đạo Xô Viết) và Vụ việc Mingrelian (vụ gán tội cho các thành viên của Đảng Cộng sản tỉnh Mingrelian thuộc Gruzia là ly khai và hợp tác với phương Tây)
- Các biểu hiện của sự sùng bái cá nhân gồm có: Các bài hát, tên các thành phố,...
Trích dẫn
- "Sau khi Stalin mất, Ban chấp hành trung ương (BCHTW) đã nghiêm khắc và từng bước tiến hành kiểm điểm việc đề cao vai trò của một cá nhân, biến cá nhân đó thành kẻ siêu phàm với những phẩm chất siêu nhiên, tương tự như chúa trời, là điều không thể chấp nhận được và xa lạ với tinh thần học thuyết Mác-Lênin. Một con người dường như biết hết tất cả, nhìn thấy hết tất cả, suy nghĩ thay cho mọi người, có thể làm được tất cả và không hề sai lầm trong mọi hành động."
- "Chúng ta cần nghiêm túc xem xét và phân tích một cách đúng đắn vấn đề này, nhằm loại bỏ mọi khả năng tái diễn dưới bất kì hình thức nào những việc tương tự đã xảy ra dưới thời Stalin, một người đã thể hiện tinh thần hoàn toàn bất phục tùng tính tập thể trong lãnh đạo và trong công việc, đã sử dụng bạo lực trắng trợn để đàn áp không những đối với những quan điểm đối lập, mà còn đối với tất cả những gì bị coi là không phù hợp với quan điểm của mình, do tính khí thất thường và độc đoán. Stalin không dùng phương pháp thuyết phục, giải thích, hợp tác kiên nhẫn, mà dùng biện pháp áp đặt quan điểm của mình, đòi hỏi mọi người phải phục tùng vô điều kiện. Ai dám chống lại và tìm cách chứng tỏ quan điểm của mình, sự đúng đắn của minh, kẻ đó sẽ bị loại trừ khỏi tập thể lãnh đạo và sau đó sẽ bị hủy diệt về mặt tinh thần và thể xác. Điều này đặc biệt nghiêm trọng vào thời kì sau đại hội lần thứ XVII, khi rất nhiều nhà hoạt động xuất sắc trung thực của đảng, trung thành với sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản, và hàng loạt các đảng viên nòng cốt đã là nạn nhân của sự bạo ngược của Stalin."
- "Stalin sáng tác ra cái khái niệm "kẻ thù của nhân dân". Thuật từ này tự động khiến không cần thiết phải xem xét rằng những sai trái về lý tưởng của một người hoặc nhiều người trong một vụ án gây nhiều tranh cải cần được chứng minh. Nó làm cho có thể sử dụng trấn áp tàn ác nhất, vi phạm tất cả các nội qui pháp lý cách mạng, chống lại bất cứ ai trong bất cứ cách nào không đồng tình với Stalin, chống lại những ai bị nghi ngờ là có thái độ thù địch... Nói tóm lại, bằng chứng duy nhất phạm tội thật sự được dùng, ngược lại tất cả các nội qui của khoa học pháp lý hiện thời, là sự tự thú của những người tự tố cáo mình. Như cuộc điều tra sau cùng đã chứng minh, "tự thú" được lấy qua những cuộc hành hạ thân xác chống người bị buộc tội. Điều này dẫn đến sự vi phạm quá mức nền pháp lý cách mạng và dẫn đến sự thật là nhiều cá nhân hoàn toàn vô tội... trở thành những nạn nhân."
- "Vladimir Lenin yêu cầu đối phó không khoan nhượng với kẻ thù của Cách mạng và của tầng lớp lao động và khi thấy cần thiết thì dùng đến những phương thức tàn nhẫn như thế... Lenin đã dùng những phương thức như thế, tuy nhiên, chỉ chống lại kẻ thù giai cấp thực sự [và] chỉ trong những trường hợp cần thiết nhất khi giai cấp bóc lột vẫn còn hiện hữu và cố tìm cách chống đối cách mạng... Stalin thì khác, đã sử dụng những phương thức cực độ và những cuộc trấn áp hàng loạt vào lúc mà Cách mạng đã chiến thắng, khi mà nhà nước Xô Viết đã được củng cố,...khi mà Đảng ta đã vững mạnh chính trị và đã củng cố cả số lượng và tư tưởng."
- "Nhiều ngàn người cộng sản vô tội và thật thà đã chết như là kết quả của những sự xuyên tạc ác độc các trường hợp như thế...như là kết quả của việc thực hiện ép cung bắt tố cáo chống mình và chống người khác. Trong kiểu cách tương tự, nhiều trường hợp đã được ngụy tạo để chống các viên chức nỗi bật của nhà nước và Đảng -- Kosior, Chubar, Postyshev, Kosarev, và những người khác... Việc hành xử xấu xa đó đã được bỏ qua nhờ NKVD (công an mật vụ Nga) đã soạn sẳn danh sách của những người... mà sự kết án đã được định sẵn từ trước... Trấn áp hàng loạt có một ảnh hưởng tiêu cực đến điều kiện chính trị đạo đức của Đảng, tạo ra một tình hình bất ổn, góp phần làm lan rộng sự nghi ngờ không lành mạnh, và gieo mầm nghi kị trong hành ngũ những người cộng sản."
- "Trong kiểu tương tự, chúng ta hãy lấy các bộ phim quân sự và lịch sử của chúng ta làm thí dụ và một vài tác phẩm sáng tác văn chương. Chúng làm cho chúng ta giống như phát bịnh. Mục tiêu thực sự của chúng là tuyên truyền đề tài ca ngợi Stalin như là một tài năng quân sự. Chúng ta hãy nhớ lại bộ phim, Sự sụp đổ Bá Linh (The Fall of Berlin). Stalin đóng chỉ có một mình ở đây. Ông ta ra lệnh trong một đại sảnh mà trong đó có nhiều chiếc ghế không có ai ngồi. Chỉ có một người tiến tới ông ta để báo cáo điều gì đó -- người đó chính là Poskrebyshev, người cầm mộc trung thành của ông. [cười phá lên] Và bộ tư lệnh quân sự đâu rồi? Bộ chính trị đâu rồi? Chính phủ đâu rồi? Họ đang làm gì, và họ đang bận công việc gì? Không có gì về họ được nói đến trong bộ phim. Stalin đóng cho mọi người, ông không có tính đến bất cứ người nào. Ông không có thăm dò ý kiến của ai. Mọi thứ được trình chiếu cho nhân dân xem trong các ánh sáng giả tạo này. Tại sao? Để phủ quanh ông cái hào quang vinh dự - ngược lại những điều thật và sự thật lịch sử."
- "Tất cả những hành động quái ác mà người khởi xướng ra chúng là Stalin và những hành động đó là những sự vi phạm xất láo chống những nguyên lý căn bản của Chủ nghĩa Lenin [đằng sau] các chính sách dành cho các dân tộc của nhà nước Xô Viết. Chúng ta muốn nói đến những vụ trục xuất hàng loạt toàn bộ dân tộc từ nơi gốc gác của họ, cùng với tất cả những người cộng sản và Komsomol mà không chừa một ai... Như thế, đến cuối năm 1943 khi mà đã có một sự thay đổi chắc chắn hoàn cảnh tại mặt trận theo chiều hướng có lợi cho Liên Xô, một quyết định liên quan đến việc trục xuất tất cả người Karachays khỏi vùng đất mà họ đã sống đã được đưa ra và tiến hành. Cùng giai đoạn này, lúc cuối tháng 12 năm 1943, số phận của những người Kalmyks thuộc Cộng hòa Tự trị Kalmyk cũng đã đến. Tháng 3 năm 1944, tất cả người Chechen và Ingushetia bị trục xuất và Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Xô viết Tự trị Chechen-Ingushetia bị giải thể... Người Ukraina tránh được số phận chỉ vì họ quá đông và không có chỗ để trục xuất họ. Ngược lại nếu có đủ chỗ thì [Stalin] cũng đã sẽ trục xuất họ." [cười phá lên]
- "Tôi nhớ lại những ngày đầu tiên khi cuộc xung đột giữa Liên Xô và Nam Tư bắt đầu bùng lên. Có lần khi tôi từ Kiev đến Moskva, tôi được mời đến thăm Stalin. Ông đang chỉ một bản sao của lá thư vừa mới được gởi cho Tito và hỏi tôi, "đồng chí có đọc lá thư này chưa?" Không đợi cho tôi trả lời, ông nói tiếp, "tôi chỉ cần lắc ngón tay út của tôi -- là Tito không còn nữa. Hắn sẽ đổ ngay." Chúng ta đã trả giá đắt cho điều này "Lắc ngón tay út." Lời tuyên bố đó phản ánh chứng điên cuồng hám danh của Stalin, nhưng ông ta đã từng hành động bằng cách đó: "tôi chỉ cần lắc ngón tay út của tôi -- là không còn Kosior nữa"; "tôi chỉ cần lắc ngón tay út của tôi một lần nữa thì Postyshev và Chubar sẽ không còn nữa"; "tôi chỉ cần lắc ngón tay út của tôi lần nữa -- thì Voznesensky, Kuznetsov và nhiều người khác sẽ biến mất." Nhưng chuyện này không xảy ra đối với Tito. Không cần biết bao nhiều lần và mạnh yếu ra sao lúc Stalin lắc, không chỉ ngón tay út của ông ta mà mọi thứ khác mà ông có thể lắc, Tito vẫn không đổ. Tại sao? Lý do là, trong khoảng khắc bất đồng này của các đồng chí Nam Tư của chúng ta, Tito có cả một Nhà nước và một dân tộc có một sự giáo dục nghiêm túc về tự do và độc lập đang đứng đằng sau ông, một dân tộc ủng hộ các nhà lãnh đạo của mình. Các đồng chí thấy chứng điên cuồng hám danh của Stalin đã đưa ông ta đến được gì. Ông ta hoàn toàn mất ý thức về thực tế. Ông ta đã chứng tỏ sự nghi kị và sự kiêu căng của ông ta không chỉ trong quan hệ với cá nhân tại Liên Xô mà còn trong quan hệ với toàn bộ các đảng và quốc gia."
Kết cục
Bài diễn văn của Khrushchyov đã phơi bày nhiều sự thật và gây ấn tượng mạnh mẻ đến hàng triệu tâm trí con người. Nó đã làm thay đổi bầu không khí chính trị của Chiến tranh Lạnh bằng sự chung sống hòa bình và đã ảnh hưởng đến sự giải tỏa và hòa hoãn, được biết đến như là thời tan băng của Khrushchyov.Năm 1961, xác của Stalin bị đưa ra khỏi lăng Lenin và được chôn bên ngoài bức tường của Điện Kremli.
Năm 1956, một vài tháng sau đại hội lần thứ 20, bài diễn văn bí mật này của Khrushchyov được xuất bản khắp thế giới.
Vào lúc đó, tướng Moshe Dayan, một nhà quân sự chính trị Israel, người sau này đã chiến thắng liên quân Ai Cập - Syria đã nói rằng Liên Xô sẽ biến mất trong vòng 30 năm, và ông chỉ dự đoán với sai sai lệch 5 năm về sự sụp đổ của Liên Xô vào năm 1991.[cần dẫn nguồn]
Chú thích
- ^ Tompson, William J., Khrushchev: A Political Life. New York: St. Martin's Press, 1995
- ^ William Taubman, Khrushchev: The Man and His Era, London: Free Press, 2004
- ^ Nicholas V. Riasanovsky, A History of Russia, Oxford: Oxford University Press, 2005, 530-1.
- ^ a b c d Tamara Eidelman, Khrushchev's secret speech, Russian Life 49, no.1 (2006): 45
- ^ Soviet Repression Statistics:...This figure was based on the NKVD official figures of 682.000 shot in 1937–38 following sentence on NKVD...
- ^ Большой террор»: 1937–1938.
- ^ William Henry Chamberlain, Khrushchev's War with Stalin's Ghost, Russian Review 21, no. 1 (1962): 3
- ^ William Henry Chamberlain, Khrushchev's War with Stalin's Ghost, Russian Review 21, no. 1 (1962): 4
- ^ Nikita S. Khrushchev, The Secret Speech–On the Cult of Personality, Fordham University Modern History Sourcebook, Truy cập ngày 12 tháng 9, 2007.
- ^ Ngày Khrushchev tố cáo Stalin
- ^ William Taubman, Khrushchev: The Man and His Era (New York, NY: W.W. Norton and Company, 2003), 283.
- ^ Trao đổi bí mật
Xem thêm
Liên kết ngoài
- Về sùng bái cá nhân và những hậu quả của nó, Tủ sách nghiên cứu
- Lời văn có chú giải của "Bài diễn văn bí mật"
- Một sự bác bỏ "Chủ nghĩa Stalin" trong "Bài diễn văn bí mật" của Khrushchyov năm 1956
- Ngày Khrushchyov tố cáo Stalin: cựu thông tín viên hãng Reuters John Rettie nhớ lại cách mà ông đã tường thuật bài diễn văn của Khrushchyov đến thế giới
- Chính trị chết người: Tội diệt chủng của giết người hàng loạt của Xô Viết từ năm 1917
Thể loại:
(18.12.1878 – 2.3.1953) là Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô từ năm 1922 đến năm mất 1953; từ 1941 là Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng. Stalin còn là Tổng tư lệnh quân đội, hàm Đại nguyên soái Liên Xô. Ông là nhà lãnh đạo tối cao của Liên bang Xô viết từ giữa thập niên 1920 cho đến khi qua đời. Ông có công lãnh đạo Liên Xô giành thắng lợi trong cuộc Chiến tranh Xô-Đức, cũng như đưa Liên Xô trở thành một siêu cường thế giới.[1] Ông bị phê phán về một số sai lầm và tệ sùng bái cá nhân[2], và bị phương Tây xem là một nhà lãnh đạo độc tài[3],
song nhiều người Nga vẫn coi ông là một anh hùng dân tộc với những
thành tựu lãnh đạo to lớn. Trong cuộc thăm dò ý kiến của 40 triệu người
Nga vào năm 2008, ông đã được bình chọn là nhân vật vĩ đại thứ 3 trong lịch sử Nga.[4]
Lên 10 tuổi Stalin mới bắt đầu học trường dòng nơi học sinh người Gruzia được dạy tiếng Nga. Năm 16 tuổi, ông được nhận học bổng vào một Chủng viện Chính thống giáo Gruzia.
Năm 1898, Iosef Jughashvili bị đuổi học sau khi lỡ mất kỳ thi cuối khóa. Hồ sơ của chủng viện cho thấy ông đã không thể đóng tiền học nhưng theo tài liệu chính thức của nhà nước Xô Viết thì ông bị đuổi vì tội đọc tài liệu cấm và vì tội thành lập một nhóm nghiên cứu Dân chủ Xã hội.
Sau khi rời khỏi chủng viện, ông đọc được những tác phẩm của Lenin và quyết định trở thành một người cách mạng Mác-xít. Ông gia nhập đảng Bolshevik năm 1903 và lấy tên là "Stalin" (Ста́лин), tức là "Ông mạnh như thép" trong tiếng Nga. Trong tiếng Nga, tên đầy đủ của ông là Ио́сиф Виссарио́нович Ста́лин, được chuyển tự là Iosif Vissarionovich Stalin. Tên ông cũng được viết là Xtalin trong tiếng Việt hoặc Xít Ta Lin, phiên âm Hán Việt là Tư Đại Lâm.
Năm 1901, Stalin được bầu vào thành ủy Đảng Công nhân xã hội dân chủ Nga ở Tiflis (tên cũ của Tbilisi) và trở thành lãnh đạo của đảng Bolshevik tại vùng Kavkaz. Trong thời gian này, Stalin tổ chức các hoạt động bán quân sự, tuyên truyền, kích động đình công, thậm chí tổ chức cướp ngân hàng, bắt cóc tống tiền để gây tiền cho Đảng. Vụ cướp nổi tiếng nhất là vào ngày 26 tháng 6 năm 1907 tại Tiflis làm 40 người thiệt mạng, số tiền cướp được lên đến 341 ngàn rúp (trị giá hơn 3 triệu đôla Mỹ theo tỉ giá hiện nay). [1]
Từ năm 1902 cho đến năm 1913 Stalin bị bắt tất cả 7 lần, nhiều lần bị đày sang Xibia, trong đó 5 lần vượt ngục. Trong Cách mạng Nga (1905), ông chiến đấu cho phe Bolshevik.[2]
Tháng 1 năm 1912, trong Hội nghị toàn Nga lần VI của Đảng Công nhân xã hội dân chủ Stalin đã được cử vắng mặt vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
Năm 1917, Cách mạng Tháng Hai thắng lợi ở Nga, Sa hoàng Nikolai II thoái vị, chế độ quân chủ chuyên chế Sa hoàng bị lật đổ. Theo lệnh của Chính phủ lâm thời, các tù nhân chính trị được phóng thích và Stalin trở về thủ đô Saint-Peterburg.[1] Tháng 2 năm 1917, Stalin được bổ sung vào Chủ tịch đoàn Ban Chấp hành trung ương Đảng và vào Ban biên tập báo Sự thật.
Tháng 7 năm 1917, Stalin được bầu làm ủy viên Bộ chính trị của Ban chấp hành trung ương Đảng.
Trong những ngày Cách mạng Tháng Mười năm 1917, Stalin là ủy viên của cơ quan quân sự cách mạng do Trung ương Đảng thành lập để lãnh đạo khởi nghĩa.
Sau Cách mạng Tháng Mười Stalin giữ chức ủy viên nhân dân Bộ Dân tộc (Bộ trưởng Bộ Dân tộc) trong Hội đồng ủy viên nhân dân (Chính phủ cách mạng) do Vladimir Ilyich Lenin đứng đầu.
Stalin là ủy viên Hội đồng quân sự cách mạng trong thời gian nội chiến và chống sự can thiệp quân sự của nước ngoài.
Từ năm 1920, giữa Stalin, Vorosilov, Tukhachevsky xảy ra bất hòa. Trong chiến tranh Nga-Ba Lan, Tukhachevsky là người có trách nhiệm chỉ huy lực lượng Hồng quân tiến công Warszawa, và Hồng quân đã thất bại tại cửa ngõ Warsaw. Sau sự kiện này, Stalin phê phán Tukhachevsky là một viên tướng không có tài. Tuy nhiên, theo Tukhachevsky, lỗi là của Stalin và Vorosilov: dù Tukhachevsky đã yêu cầu hai ông đem kỵ binh để giúp đỡ lực lượng Hồng quân, nhưng hai ông đã không làm theo, vì thế Hồng quân chuốc lấy chiến bại. Trong khi quan hệ giữa Stalin và Vorosilov ngày càng được thắt chặt, không có ai giải quyết bất hòa giữa họ với Tukhachevsky cả.[5]
Tháng 4 năm 1922, Stalin được bầu làm Tổng Bí thư Ban Chấp hành trung ương Đảng và giữ chức vụ đó cho đến khi mất. Theo ghi nhận của Lev Davidovich Trotsky, Lenin đã viết bản Di chúc với mong muốn Stalin sẽ mất chức Tổng bí thư, và những người khác sẽ cắt đứt tất cả những quan hệ cá nhân cũng như quan hệ đồng chí với ông. Trotsky cũng viết: "không có một câu trả lời chính xác cho câu hỏi: Cuộc đấu tranh phát triển như thể nào nếu Lê-nin còn sống? Lê-nin sẽ không thể nào kiềm chế được kẻ thù là những tên công chức bảo thủ hám danh và chính sách của Stalin đang, điều đó được thể hiện trong hàng loạt bức thư, bài báo, và đề nghị của Lê-nin trước khi chết."[6]. Tuy nhiên, sau khi lãnh tụ Lenin qua đời năm 1924, giới lãnh đạo Liên Xô tỏ ra băn khoăn không biết ai sẽ là lãnh đạo của Đảng, đồng thời là của toàn thể Liên bang Xô viết. Lúc đó, có vài người ra ứng cử chức lãnh đạo Liên Xô, bao gồm Stalin cùng với L.D. Trotsky, G. E. Zinoviev và L.B. Kamenhev. Các ứng cử viên khác không mấy tỏ ra lo sợ đối với Stalin. Thế nhưng, ít lâu sau khi Lenin mất (1927), Stalin cáo buộc Kamenhev và Zinoviev tội phản bội lại cuộc cách mạng của nhân dân Liên Xô mà đuổi cổ họ ra khỏi đảng. Còn một ứng cử viên nữa là Trotsky: nhân vật này bị trục xuất khỏi Liên Xô, ở nước ngoài cho tới khi trở thành nạn nhân của một vụ ám sát. Với những sự kiện trên, Stalin trở thành nhà lãnh đạo tối cao của Đảng Cộng sản Liên Xô.[7]
Tên tuổi Stalin gắn liền với chủ nghĩa Stalin là các luận điểm chính trị, kinh tế, tư tưởng và phong cách điều hành nhà nước theo phong cách Stalin. Ông cũng hay tự ví von mình với các vị Hoàng đế lớn trong lịch sử. Ông ngưỡng mộ Thành Cát Tư Hãn và Augustus - vị Hoàng đế La Mã đầu tiên đã che giấu bản chất chuyên chế của mình bằng việc từ chối ngôi vua cũng như Stalin chọn cho mình cái chức vị không chính thức nhất là Lãnh tụ. Ngoài ra, ông cũng nể phục các Sa hoàng Ivan Lôi đế và Pyotr Đại đế. Theo ông, một trong những sai lầm của Ivan Lôi đế là đã không diệt trừ năm gia đình quý tộc phong kiến lớn tại Nga, dẫn tới "thời kỳ lộn xộn" trong lịch sử Nga[8].
Các lực lượng của Trotsky đã giáp đấu với tư lệnh quân Ba Lan là Władysław Sikorski tại trận Warsaw năm 1920, Stalin từ chối chi viện cho mặt trận phương Bắc. Điều đó dẫn đến sự thất bại của quân Xô viết cả tại Lviv và Warszawa, mọi tội lỗi bị đẩy lên đầu của Stalin. Ông bị buộc phải quay về Max-cơ-va tháng 8 năm 1920 để điều trần và bị tước mọi chức vụ trong quân đội. Tại Đại hội Đảng lần 9 vào 22 tháng 9, Trotsky lên tiếng chỉ trích công khai các biểu hiện của Stalin.
Tuy nhiên, Lê-nin vẫn xem Stalin như một liên minh trung thành, khi ông mất sự tin tưởng ở Trotsky và những đồng chí khác, ông đã quyết định trao cho Stalin nhiều quyền lực hơn. Cùng với sự trợ giúp của Lev Kamenev, Lenin đã chỉ định Stalin làm Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Xô viết vào năm 1922.[11] Vị trí này đã cho phép ông chỉ định nhiều người thân cận trong phe cánh của ông vào các vị trí trong chính phủ.
Lê-nin gặp cơn tai biến vào năm 1922, buộc ông gần như phải nghỉ dưỡng tại Gorki. Stalin viếng thăm ông thường xuyên, và trở thành người hỗ trợ Lê-nin với thế giới bên ngoài.[11] Cả hai tranh cãi và Lê-nin viết một chúc thư để lên án Stalin. Ông chỉ trích Stalin là một kẻ thô lỗ, tham vọng và xảo quyệt và yêu cầu Stalin nên rời khỏi chức vụ Tổng Bí thư.[11] Trong lúc Lê-nin đang dưỡng bệnh, Stalin đã cấu kết với Kamenev và Grigory Zinoviev chống lại Leon Trotsky. Nhóm người này đã ngăn cản chúc thư của Lê-nin không được công bố tại Đại hội Đảng khóa 12 vào tháng 4 năm 1923.[11]
Cuộc chiến tranh Bắc phạt tại Trung Quốc được xem là đỉnh điểm của bất đồng trong chính sách đối ngoại giữa Stalin và Trotsky. Stalin dựa trên chính sách thực tiễn, bỏ qua lý tưởng cộng sản. Ông đã ra lệnh cho Đảng Cộng sản Trung Quốc phải từ bỏ sự chống đối và hợp tác với Quốc Dân Đảng. Giống như Lê-nin, Stalin tin rằng Quốc Dân Đảng sẽ đánh bại phe bảo hoàng thân phương Tây và hoàn thành cuộc cách mạng nhân dân. Trong khi Trotsky lại muốn những người Cộng sản Trung Quốc lãnh đạo cuộc cách mạng vô sản chính thống và phản đối Quốc Dân Đảng.[12] Tuy nhiên, Tưởng nhanh chóng trở mặt và đạp bỏ những thỏa thuận trong đàm phán khi thảm sát những người Cộng sản tại Thương Hải năm 1927 trong cuộc chiến Bắc phạt.[13][14]
Stalin nhanh chóng thúc đẩy việc công nghiệp hóa và kinh tế hóa tập trung, trái với chính sách kinh tế của Lê-nin (NEP). Vào cuối năm 1927, sự suy giảm nghiêm trọng nguồn cung ngũ cốc đã buộc Stalin chuyển đổi nền nông nghiệp sang tập thể hóa và ra lệnh tịch thu lượng ngũ cốc tích trữ của các hộ phú nông kulak.[11][15] Bukharin và Thủ tướng Alexey Rykov phản đối chính sách mới và yêu cầu Stalin phải trở về chính sách cũ, nhưng đa phần các ủy viên trung ương đều theo phe của Stalin, nên kế hoạch thay đổi bất thành, Bukharin bị loại khỏi Bộ chính trị vào tháng 11 năm 1929. Năm sau, Rykov bị cách chức, Vyacheslav Molotov vào thay thế theo sự đề nghị của Stalin.
Dưới sự lãnh đạo của Stalin và Đảng Cộng sản Liên Xô, quân và dân Liên Xô đã đánh bại phát xít Đức trong cuộc Chiến tranh Xô-Đức (1941 - 1945), đánh bại đế quốc Nhật Bản[7] và giải phóng nhiều nước ở Trung Âu và Đông Âu thoát khỏi chủ nghĩa phát xít. Cuộc giải phóng này dẫn đến việc hệ thống xã hội chủ nghĩa được thành lập.[16]
Trong thời chiến, Stalin cùng Tổng thống Hoa Kỳ Franklin D. Roosevelt (từ tháng 4 năm 1945 là Harry Truman) thành lập Mặt trận Đồng minh chống phe Trục.
Người con trai thứ 2 là Vasily Iosifovich Dzhugashvili xung phong vào Không quân, lần lượt tham gia các trận đánh then chốt của Hồng quân như trận Moskva và trận Stalingrad (nay là Volgagrad), giải phóng Belarus và Ba Lan, rồi tổng công kích quân Đức Quốc xã tại thủ đô Berlin. Trong các trận không chiến, Vasily đã bắn rơi 2 máy bay tiêm kích và cường kích của quân phát xít. Đến cuối năm 1942, ông được phong hàm Đại tá Không quân. Sau khi Thế chiến thứ II kết thúc, Đại tá V. Stalin được Ban lãnh đạo Bộ Tư lệnh Đặc khu Thủ đô (nay là Quân khu Moskva) đề cử giữ chức Tư lệnh Lực lượng Không quân phòng thủ Moskva. Tuy vậy, Stalin đã nhiều lần gác lại việc phong hàm tướng cho con bởi "phải trau dồi phẩm chất cùng tích lũy kinh nghiệm nhiều hơn nữa", và ông đã gạch chéo bằng mực đỏ xóa tên của Vasily trong danh sách dự kiến phong cấp tướng định kỳ. Tới năm 1946, Vasily mới được bổ nhiệm Thiếu tướng, nhưng tới năm 1952, Stalin đã cương quyết cách chức con trai ruột sau khi xảy ra sự cố tai nạn ở sân bay Tushino vào tháng 7/1952.[18]
Nhà nước Cộng hòa Dân chủ Đức ra đời ngày 7 tháng 10 năm 1949, với hiến pháp mới đẩy chủ nghĩa xã hội lên vị trí độc tôn và giúp Đảng Liên minh Xã hội (“SED”) lên nắm quyền.
Tại Hội nghị Yalta, Stalin đã hứa là sẽ tổ chức bầu cử tự do tại Ba Lan,[21] sau khi thất bại trong cuộc bỏ phiếu trưng cầu dân ý năm 1946,[22] gian lận bầu cử đã xảy ra bí mật có kiểm soát của Liên Xô để giúp phe thân cộng sản giành thắng lợi đa số.[23][24][25] Ngay tiếp sau đó, nền kinh tế Ba Lan bắt đầu kỷ nguyên quốc hữu hóa.[26]. Tại Hungary, khi Liên Xô thành lập chính phủ xã hội chủ nghĩa, Rákosi Mátyás được đưa lên nắm quyền, ông được xem như là “học trò xuất sắc nhất của chủ tịch Stalin”[27][28]. Rákosi áp dụng chiến thuật “sa-la-mi” bằng cách chia nhỏ các đối thủ chính trị ra như kiểu bánh sa-la-mi để tập trung quyền lực nhiều hơn cho chính phủ của ông.[29][30] Rákosi áp dụng đường lối chủ nghĩa Stalin trong các công việc chính trị và chương trình kinh tế, điều này đã biến ông thành 1 kẻ độc tài với biệt danh “sát thủ đầu hói”, chế độ của ông được xem là chế độ độc tài khắc nghiệt nhất châu Âu.[30][31] Xấp xỉ 350 nghìn quan chức và học giả Hungary bị thanh trừng từ giữa năm 1948 đến 1956.[30]
Trong suốt chiến tranh thế giới lần hai, Hồng Quân Xô viết đã vượt biên giới, gầy dựng và hỗ trợ cho những người cộng sản tại đây làm cuộc đảo chính tại Bulgaria năm 1944.[32] Nhờ vậy mà các chỉ huy quân sự của lực lượng Hồng Quân nắm quyền lực rất cao, các thế lực thân Liên Xô, đứng đầu là Kimon Georgiev nắm hoàn toàn tình hình chính trị trong nước.[32]
Năm 1949, Liên Xô, Cộng hòa Nhân dân Bulgari, Tiệp Khắc, Cộng hòa Nhân dân hungary, Cộng hòa Nhân dân Ba Lan và Cộng hòa Nhân dân Romania thành lập nên Hội đồng Tương trợ Kinh tế theo mong muốn của Stalin để làm tăng ảnh hưởng của Liên Xô tại Trung Âu và làm giảm ảnh hưởng của chính sách Kế hoạch Marshal của Hoa Kỳ dành cho châu Âu,[33][34] Tiệp Khắc, Hungary và Ba Lan có tỏ thái độ muốn được nhận viện trợ từ chương trình Marshal mặc dù họ biết rằng họ phải đáp ứng các điều kiện như cho phép trao đổi tiền tệ và thực hiện kinh tế thị trường. Vào tháng 7 năm 1947, Stalin ra sắc lệnh buộc các chính phủ thân Xô viết phải rút khỏi Hội nghị Pa-ri bàn về chương trình Tái thiết châu Âu. Điều này đã cho thấy rõ sự thật về hậu thế chiến hai dẫn đến sự chia rẻ châu Âu thành hai phần riêng biệt.[34]
Tại Hi Lạp, Anh và Hoa Kỳ ủng hộ phe chống cộng trong Nội chiến Hi Lạp và Liên Xô đứng về phe những người cộng sản, mặc dù Stalin chối bỏ về việc tham gia vào tình hình tại Hi Lạp. Albania vẫn duy trì mối quan hệ với Max-cơ-va trong khi Cộng hòa Liên bang Nam Tư lại nằm ở tư thế chống Liên Xô trong suốt thời gian chia rẻ giữa hai bên cho đến khi nó kết thúc vào năm 1955.
Sự bất đồng giữa Mao Trạch Đông và Stalin đã thể hiện ngay từ lúc khởi đầu. Trong suốt Thế chiến II, Stalin đã giúp đỡ cho chính phủ Tưởng Giới Thạch để chống lại quân Nhật và nhắm mắt làm ngơ để Tưởng tàn sát những người Cộng sản Trung Quốc. Nhìn chung, Stalin muốn giúp Tưởng chống Nhật để giữ hòa khí giữa hai bên, ngay cả sau khi chiến tranh kết thúc, Stalin đã ký hiệp ước bất tương xâm với Tưởng và yêu cầu Mao Trạch Đông và những người Cộng sản Trung Quốc phải hợp tác với Tưởng. Tuy nhiên, Mao Trạch Đông không tuân theo chỉ thị này và bắt đầu cuộc chiến với Tưởng. Stalin không hề tin rằng Mao có thể đánh bại Tưởng nên ông ta đưa ra rất ít sự giúp đỡ cho Mao. Liên Xô vẫn tiếp tục giữ quan hệ ngoại giao với Quốc Dân Đảng của Tưởng cho đến khi Mao giành chiến thắng hoàn toàn.
Stalin cũng ủng hộ những người Thổ Hồi giáo ở Tây Trung Quốc để thành lập quốc gia riêng (Cộng hòa Đông Thổ) trong suốt nổi loạn, li khai chống Trung Hoa Dân Quốc. Ông ủng hộ lãnh đạo Cộng sản Hồi giáo Ehmetjan Qasim để chống lại các lực lượng chống cộng của Quốc Dân Đảng.
Khi Đảng Cộng sản của Mao giành được quyền kiểm soát tại đại lục và ép chính phủ Quốc Dân phải bỏ chạy ra đảo Đài Loan, Stalin đã nhận ra vị thế mới của Mao Trạch Đông. Liên Xô nhanh chóng công nhận nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa của Mao. Đỉnh điểm của mốt quan hệ Trung – Xô thể hiện vào năm 1950 bằng Hiệp ước Đồng chí và Đồng minh. Cả hai nước cùng nhau hỗ trợ quân sự cho quốc gia đồng minh ở bắc Triều Tiên để chống lại chính phủ phía Nam do Hoa Kỳ hậu thuẫn. Sau vài vụ xung đột ở biên giới hai miền, cuối cùng Chiến tranh Triều Tiên đã nổ ra vào năm 1950.
Quân đội Bắc Triều Tiên mở màn cuộc chiến vào ngày Chủ nhật, 25 tháng 6 năm 1950, vượt biên giới vĩ tuyến 38, nã pháo tấn công để chinh phạt Nam Triều Tiên[35] Trong suốt cuộc chiến Triều Tiên, các phi công Xô viết sử dụng máy bay của họ cất cánh từ căn cứ tại Trung Quốc để chống lại máy bay của Liên Hiệp Quốc.
Cuộc chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, dưới sự lãnh đạo của Stalin và Đảng Cộng sản Liên Xô, kinh tế, xã hội đất nước đã được khôi phục nhanh chóng. Tới năm 1949, sản lượng kinh tế của Liên Xô đã đạt mức ngang bằng trước chiến tranh, sớm hơn kế hoạch gần 2 năm rưỡi. Cũng trong thời gian này, bom nguyên tử và bom khinh khí được chế tạo thành công ở Liên Xô. Liên Xô đã trở thành một siêu cường theo chủ nghĩa Cộng sản,[16] đủ sức đối đầu với Hoa Kỳ trong Chiến tranh Lạnh.
Trong một cuộc thăm dò khác năm 2006, trên 35% người Nga được hỏi cho biết sẽ bỏ phiếu cho Stalin nếu ông vẫn còn sống[36] Chỉ có ít hơn 1/3 người Nga cho rằng Stalin là một lãnh đạo tàn nhẫn[37] 54% thanh niên Nga cho rằng Stalin có nhiều công lao hơn là tội lỗi, một nửa cho rằng ông là một nhà lãnh đạo tài giỏi, 46% không cho rằng ông là người nhẫn tâm. 55% số người được hỏi mong muốn chính quyền Nga trả lại tên Stalingrad trước đây cho thành phố Volgograd.[38]
Năm 2013, nhân dịp 60 năm ngày Stalin qua đời, Trung tâm Levada đã khảo sát và kết quả có 49% người Nga coi Stalin có vai trò tích cực trong lịch sử, chỉ 32% coi ông có vai trò tiêu cực. Các chuyên gia đưa ra hai lý do: Một mặt, điện Kremlin đã âm thầm thúc đẩy hình ảnh của Tổng thống Vladimir Putin là một nhà lãnh đạo mạnh mẽ giống như Stalin, người đã giữ ổn định đất nước sau những hỗn loạn của việc Đế quốc Nga sụp đổ. Mặt khác, mọi người coi trọng Stalin bởi vì họ thấy ít tự hào về tình hình nước Nga kể từ sau sự sụp đổ của Liên Xô. "Nhận thức về Stalin là một cách để người Nga nhớ lại thời kỳ của những hành động tuyệt vời và cả những sự hy sinh có lẽ còn vĩ đại hơn thế" - nhà sử học Roy Medvedev, người đã viết một cuốn sách về Stalin nói[39].
Trong thời gian lãnh đạo của Stalin, Liên Xô chuyển từ một nước lạc hậu thành một siêu cường thế giới với tiềm lực công nghiệp và quân sự khổng lồ. Trong thi phú, ông được ca ngợi như "Stalin sâu thăm thẳm hơn đại dương, cao vòi vọi hơn Himalaya, sáng rực rỡ hơn mặt trời". Chính ông là người đã xóa bỏ chế độ tem phiếu lương thực vào năm 1935, nên được nhiều người biết ơn.[7] Những sự kiện như khởi công xây tuyến đường xe điện ngầm tại thành phố Moskva, hay ban bố Hiến pháp của Liên bang Xô viết đều diễn ra dưới chế độ Stalin.[7]
Được coi là một nhà lãnh đạo lỗi lạc, thời gian ông cầm quyền gắn liền với giai đoạn 1930 – 1940, một giai đoạn lớn mạnh trong lịch sử Liên Xô. Trong thời gian đó, nền văn hoá, âm nhạc, văn học,… của Liên Xô giành được nhiều thành tựu lớn lao. Không những thế, ông còn là nhân vật đóng vai trò không nhỏ trong cuộc kháng chiến của Liên Xô chống phát xít.[40] Piter Ustinov, một chuyên gia lịch sử đã nhận xét: “Có lẽ không thể có một ai khác ngoài Stalin có thể làm được những việc như thế trong Chiến tranh: quyết liệt, mềm dẻo, nhất quán, như yêu cầu đánh thắng trong những kích cỡ phi thường như thế…”.
Báo chí Việt Nam dẫn lời Thủ tướng Winston Churchill của Anh - một người trên thực tế có ác cảm lớn với Liên Xô - cũng phải thừa nhận:[41]
Cố tổng thống Pháp, tướng Charles de Gaulle, một trong những lãnh đạo của Chiến tranh thế giới thứ hai, đánh giá cao những phẩm chất cá nhân của Stalin. Trong cuốn hồi ký chiến tranh của mình, tướng De Gaulle viết: “Stalin
có một uy tín to lớn, và không chỉ riêng ở nước Nga. Ông biết “thuần
hoá” kẻ thù, không hoảng hốt khi núng thế và không say sưa với thắng
lợi. Mà Ông lại là người có nhiều chiến thắng hơn thất bại…”.
Nguyên soái Xô-viết Georgi K. Zhukov, vị tướng lừng danh nhất của Liên Xô trong Chiến tranh thế giới thứ hai, thì hồi tưởng:
Theo phát ngôn viên hội đồng thành phố Oryol, Olga Patenkova, các nhà lập pháp nơi đây đã thông qua một bản kiến nghị vào ngày 31 tháng 3, nội dung yêu cầu lập lại các hình ảnh của Iosif Vissarionovich Stalin.
Theo tờ Izvestia số ra ngày 14 tháng 4 năm 2005:[45]
Nữ luật sư Larisa Tokunova sống tại vùng Viễn Đông nước Nga đã gọi Stalin là “thiên tài”, người đã đưa Liên Xô trở thành một siêu cường quốc. Bà cho biết: “Nếu chúng ta muốn quản lý để chấn hưng đất nước, thì chỉ có thể tuân theo kế hoạch của Stalin”. Doanh nhân Roman Fomin cho biết: “Họ
không nên làm mờ nhạt những thay đổi to lớn mà đất nước đã đạt được.
Chiến thắng mà Stalin có được là sự tăng trưởng kinh tế và thịnh vượng.
Nhiều người mong muốn ông lại quay trở lại"[46]
Về những biện pháp lãnh đạo khắc nghiệt và những sai lầm Stalin mắc phải, Nghị sĩ Molotov cho rằng: "Hiện nay có xu hướng ở Nga miêu tả Stalin như một người tự mãn, tự kỷ, luôn cho rằng ông nói thế nào thì mọi sự sẽ diễn ra y như thế. Làm vậy là không đúng, là vu cáo... Nếu đổ cho một mình Stalin mọi lầm lỗi như thế thì cũng có thể nói, một mình Stalin đã xây dựng thành công Chủ nghĩa Xã hội, một mình Stalin đã chiến thắng phát xít Đức... Mỗi người trong bộ máy chính trị đều có phần trách nhiệm riêng... Nói tới vai trò của Stalin trong chiến tranh Vệ quốc Vĩ đại, cần thấy rằng, bản chất vấn đề không phải là ở chỗ đoán đúng hay sai ngày nổ ra chiến tranh. Bản chất vấn đề là ở chỗ, không cho Hitler vào Moskva, Leningrad hay Stalingrad. Bản chất vấn đề là ở chiến thắng chung cuộc rất vẻ vang. Và chúng ta đã làm được điều này. Trong đó có công lao to lớn của Stalin. Cần phải công bằng chứ không nên như bây giờ, đổ mọi lỗi lầm cho Stalin khi ông không còn sống nữa".[42] Nina Nesterina, quan chức chính quyền Oryol chuyên trách bảo vệ quyền lợi của các nạn nhân chính trị, nói về thái độ của mình đối với Stalin: "Stalin không thực sự phải chịu trách nhiệm về các vụ đàn áp. Theo các tài liệu chính thức, các mệnh lệnh được đưa ra bởi toà án quân sự của NKDV (tiền thân của KGB)".
Zinoviev, một chính trị gia gần như cả đời chỉ phê phán Stalin và Liên Xô, nhưng gần đây khi suy ngẫm lại ông đã nói rằng: Liên Xô có được những thành tựu vĩ đại là nhờ có được sự lãnh đạo của Stalin và Đảng CS Liên Xô. Cần phải đánh giá lại những hoạt động trấn áp của Stalin những năm 1930, việc xây dựng chế độ mới thường đi kèm với cuộc đấu tranh với các thế lực chống phá. Một đất nước rộng lớn và đa sắc tộc, tôn giáo như Liên Xô thời kỳ đó luôn tồn tại nhiều mầm mống bất ổn và chia rẽ, nên rất cần những lãnh đạo đủ tài năng và sự cứng rắn (thực tế chỉ ít lâu sau khi Liên Xô sụp đổ, các cuộc chiến tranh ly khai, xung đột sắc tộc đã nổ ra khắp nơi). Sự trấn áp của Stalin, dù rằng trong đó có rất nhiều hành vi quá mức, trên thực tế cũng đã tiêu diệt những kẻ biến chất và tiềm tàng nguy hiểm cho đất nước.[43]
Bản thân Stalin cũng đoán biết trước sau khi qua đời, ông sẽ trở thành mục tiêu công kích của nhiều thế lực. Ngay từ năm 1943, ông đã nói với đồng chí của mình rằng:
Để đạt được những mục tiêu của mình, Stalin sử dụng các phương pháp điều hành cứng rắn, bao gồm cả khủng bố nhà nước và đại thanh trừng những thành phần chống đối, theo ước tính từ tháng 08/1937 đến tháng 10/1938, chỉ riêng trong nhà tù tại Ủy ban an ninh quốc gia, chế độ Stalin đã kết án tử hình 20.760 người, trong đó có khoảng 1.000 người lãnh đạo tôn giáo. Giáo chủ giáo phận St. Petersburg Serafin là cũng bị giết vào thời gian này.[cần dẫn nguồn]
Các nhà sử học được các báo chí quốc tế trích dẫn lời cho rằng dưới thời cầm quyền của Stalin, nhiều triệu người đã bị Stalin và bộ máy thanh trừng của ông cưỡng bức di cư, thẩm vấn hoặc giam giữ trong các trại tập trung và các nhà tù dưới chế độ Xô-Viết trước đây[cần dẫn nguồn]. Trong thời cải cách “Perestroika” của Michail Gorbachev, đã giải mật đa số trong 1,7 triệu hồ sơ “những tên phản cách mạng” trong giai đoạn 1937-1938. Trong đó hơn 700 ngàn người bị kết án tử hình.
Những người bị thảm sát đã được Tổng thống Nga Putin cho rằng: "Những người bị thảm sát, khủng bố là những con người ưu tú nhất, có trí tuệ cao nhất và là những người can đảm nhất của nước Nga và Liên Xô thời đó."[49]
Tổng thống Nga Dmitry Anatolyevich Medvedev viết trên blog của mình sáng 30 tháng 10, 2009, nhân dịp nước Nga kỷ niệm "Ngày Tưởng nhớ Ðàn áp Chính trị," phóng viên nhật báo Ba Lan, Gzeta Wyborcza, tại Moskva đưa tin. "Tôi tin rằng, tưởng nhớ về bi kịch của dân tộc cũng thiêng liêng như tưởng nhớ về chiến thắng. Không có lý do gì để biện giải cho sự đàn áp chính trị." Medvedev viết rằng:
Nhân Kỷ niệm 65 năm chiến thắng chống phát xít, Tổng thống Nga Dmitry Medvedev nói "Stalin đã phạm nhiều tội ác chống lại nhân dân" và "không thể tha thứ". Ông còn cho rằng thắng lợi phần lớn là nhờ sự hy sinh to lớn của nhân dân, dù vai trò lãnh đạo của Stalin cũng rất quan trọng.[52] Cũng trong bài trả lời phỏng vấn báo Izvestia ngày 7 tháng 5, ông Dmitry Medvedev nói rằng dù từng cá nhân có quyền đánh giá khác nhau về Stalin, và nhiều người ngưỡng mộ ông ta, thì quan điểm của nhà nước Nga hiện nay cho rằng chủ nghĩa Stalin "không thể quay lại trên nước Nga".[52]
Olga Ulianova - cháu gái của cựu lãnh đạo Lênin - cho rằng Stalin là người đầu tiên gây ra và chịu trách nhiệm với những chính sách sai lầm của Liên Xô. Bà nói:[53]
http://www.youtube.com/user/hoangkimvietnam
Trở về trang chính
Hoàng Kim, hoangkim, hoangkimvietnam, Ngọc Phương Nam, Chào ngày mới Thung dung, Dạy và học, Cây Lương thực, Tin Nông nghiệp Việt Nam, Food Crops, Cassava in Vietnam, Khát khao xanh, Dayvahoc, Học mỗi ngày, Danh nhân Việt , Food Crops News, Điểm chính, CNM365, Kim LinkedIn, KimTwitter, KimFaceBook Đọc lại và suy ngẫm, Việt Nam tổ quốc tôi, Tình yêu cuộc sống, Thơ cho con
- Liên Xô
- Cộng sản
- Chủ nghĩa cộng sản
- Lịch sử Nga
- Trấn áp chính trị tại Liên Xô
- Tài liệu của Đảng Cộng sản Liên Xô
- Diễn văn
Iosif Vissarionovich Stalin
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Joseph Stalin Иосиф Виссарионович Сталин იოსებ ბესარიონის ძე სტალინი |
|
Joseph Stalin |
|
Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng | |
---|---|
Nhiệm kỳ | 6 tháng 5, 1941 – 5 tháng 3, 1953 |
Phó Chủ tịch thứ nhất | Nikolai Voznesensky Vyacheslav Molotov |
Tiền nhiệm | Vyacheslav Molotov |
Kế nhiệm | Georgy Malenkov |
Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô | |
Nhiệm kỳ | 3 tháng 4, 1922 – 16 tháng 10, 1952 |
Tiền nhiệm | Vyacheslav Molotov (Quyền bí thư) |
Kế nhiệm | Nikita Khrushchev |
Dân ủy Quốc phòng Liên Xô | |
Nhiệm kỳ | 19 tháng 7, 1941 – 25 tháng 2, 1946 |
Tiền nhiệm | Semyon Timoshenko |
Kế nhiệm | Nikolai Bulganin |
Đảng | Đảng Cộng sản Liên Xô |
Sinh | 18 tháng 12, 1878 Gori, Tiflis Governorate, Đế quốc Nga |
Mất | 5 tháng 3, 1953 (74 tuổi) Kuntsevo Dacha, Liên Xô |
Quốc tịch | Xô viết |
Tôn giáo | Không |
Hôn nhân | Ekaterina Svanidze (1906-1907) Nadezhda Alliluyeva (1919-1932) |
Con cái | Yakov Dzhugashvili, Vasily Dzhugashvili, Svetlana Alliluyeva, Konstantin Kuzakov |
Chữ kí | |
Lịch sử quân nhân | |
Chính phủ | Liên Xô |
Năm tham gia | 1943-1953 |
Quân hàm | Nguyên soái Liên Xô (1943-1945) Đại Nguyên soái Liên Xô (1943-1953) |
Chức vụ | Tư lệnh tối cao |
Trận chiến | Thế chiến hai |
Mục lục
Tiểu sử
Stalin sinh ngày 21 tháng 12 năm 1878 theo lịch Gregory (tức ngày 6 tháng 12 năm 1878 theo lịch Julius) trong một gia đình công nhân đóng giày ở thành phố Gori của Gruzia (thuộc đế quốc Nga), với tên Gruzia là Ioseb Besarionisdze Dzhugashvili (იოსებ ბესარიონის ძე ჯუღაშვილი, Ио́сиф Джугашви́ли).Lên 10 tuổi Stalin mới bắt đầu học trường dòng nơi học sinh người Gruzia được dạy tiếng Nga. Năm 16 tuổi, ông được nhận học bổng vào một Chủng viện Chính thống giáo Gruzia.
Năm 1898, Iosef Jughashvili bị đuổi học sau khi lỡ mất kỳ thi cuối khóa. Hồ sơ của chủng viện cho thấy ông đã không thể đóng tiền học nhưng theo tài liệu chính thức của nhà nước Xô Viết thì ông bị đuổi vì tội đọc tài liệu cấm và vì tội thành lập một nhóm nghiên cứu Dân chủ Xã hội.
Sau khi rời khỏi chủng viện, ông đọc được những tác phẩm của Lenin và quyết định trở thành một người cách mạng Mác-xít. Ông gia nhập đảng Bolshevik năm 1903 và lấy tên là "Stalin" (Ста́лин), tức là "Ông mạnh như thép" trong tiếng Nga. Trong tiếng Nga, tên đầy đủ của ông là Ио́сиф Виссарио́нович Ста́лин, được chuyển tự là Iosif Vissarionovich Stalin. Tên ông cũng được viết là Xtalin trong tiếng Việt hoặc Xít Ta Lin, phiên âm Hán Việt là Tư Đại Lâm.
Năm 1901, Stalin được bầu vào thành ủy Đảng Công nhân xã hội dân chủ Nga ở Tiflis (tên cũ của Tbilisi) và trở thành lãnh đạo của đảng Bolshevik tại vùng Kavkaz. Trong thời gian này, Stalin tổ chức các hoạt động bán quân sự, tuyên truyền, kích động đình công, thậm chí tổ chức cướp ngân hàng, bắt cóc tống tiền để gây tiền cho Đảng. Vụ cướp nổi tiếng nhất là vào ngày 26 tháng 6 năm 1907 tại Tiflis làm 40 người thiệt mạng, số tiền cướp được lên đến 341 ngàn rúp (trị giá hơn 3 triệu đôla Mỹ theo tỉ giá hiện nay). [1]
Từ năm 1902 cho đến năm 1913 Stalin bị bắt tất cả 7 lần, nhiều lần bị đày sang Xibia, trong đó 5 lần vượt ngục. Trong Cách mạng Nga (1905), ông chiến đấu cho phe Bolshevik.[2]
Tháng 1 năm 1912, trong Hội nghị toàn Nga lần VI của Đảng Công nhân xã hội dân chủ Stalin đã được cử vắng mặt vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
Năm 1917, Cách mạng Tháng Hai thắng lợi ở Nga, Sa hoàng Nikolai II thoái vị, chế độ quân chủ chuyên chế Sa hoàng bị lật đổ. Theo lệnh của Chính phủ lâm thời, các tù nhân chính trị được phóng thích và Stalin trở về thủ đô Saint-Peterburg.[1] Tháng 2 năm 1917, Stalin được bổ sung vào Chủ tịch đoàn Ban Chấp hành trung ương Đảng và vào Ban biên tập báo Sự thật.
Tháng 7 năm 1917, Stalin được bầu làm ủy viên Bộ chính trị của Ban chấp hành trung ương Đảng.
Trong những ngày Cách mạng Tháng Mười năm 1917, Stalin là ủy viên của cơ quan quân sự cách mạng do Trung ương Đảng thành lập để lãnh đạo khởi nghĩa.
Sau Cách mạng Tháng Mười Stalin giữ chức ủy viên nhân dân Bộ Dân tộc (Bộ trưởng Bộ Dân tộc) trong Hội đồng ủy viên nhân dân (Chính phủ cách mạng) do Vladimir Ilyich Lenin đứng đầu.
Stalin là ủy viên Hội đồng quân sự cách mạng trong thời gian nội chiến và chống sự can thiệp quân sự của nước ngoài.
Từ năm 1920, giữa Stalin, Vorosilov, Tukhachevsky xảy ra bất hòa. Trong chiến tranh Nga-Ba Lan, Tukhachevsky là người có trách nhiệm chỉ huy lực lượng Hồng quân tiến công Warszawa, và Hồng quân đã thất bại tại cửa ngõ Warsaw. Sau sự kiện này, Stalin phê phán Tukhachevsky là một viên tướng không có tài. Tuy nhiên, theo Tukhachevsky, lỗi là của Stalin và Vorosilov: dù Tukhachevsky đã yêu cầu hai ông đem kỵ binh để giúp đỡ lực lượng Hồng quân, nhưng hai ông đã không làm theo, vì thế Hồng quân chuốc lấy chiến bại. Trong khi quan hệ giữa Stalin và Vorosilov ngày càng được thắt chặt, không có ai giải quyết bất hòa giữa họ với Tukhachevsky cả.[5]
Tháng 4 năm 1922, Stalin được bầu làm Tổng Bí thư Ban Chấp hành trung ương Đảng và giữ chức vụ đó cho đến khi mất. Theo ghi nhận của Lev Davidovich Trotsky, Lenin đã viết bản Di chúc với mong muốn Stalin sẽ mất chức Tổng bí thư, và những người khác sẽ cắt đứt tất cả những quan hệ cá nhân cũng như quan hệ đồng chí với ông. Trotsky cũng viết: "không có một câu trả lời chính xác cho câu hỏi: Cuộc đấu tranh phát triển như thể nào nếu Lê-nin còn sống? Lê-nin sẽ không thể nào kiềm chế được kẻ thù là những tên công chức bảo thủ hám danh và chính sách của Stalin đang, điều đó được thể hiện trong hàng loạt bức thư, bài báo, và đề nghị của Lê-nin trước khi chết."[6]. Tuy nhiên, sau khi lãnh tụ Lenin qua đời năm 1924, giới lãnh đạo Liên Xô tỏ ra băn khoăn không biết ai sẽ là lãnh đạo của Đảng, đồng thời là của toàn thể Liên bang Xô viết. Lúc đó, có vài người ra ứng cử chức lãnh đạo Liên Xô, bao gồm Stalin cùng với L.D. Trotsky, G. E. Zinoviev và L.B. Kamenhev. Các ứng cử viên khác không mấy tỏ ra lo sợ đối với Stalin. Thế nhưng, ít lâu sau khi Lenin mất (1927), Stalin cáo buộc Kamenhev và Zinoviev tội phản bội lại cuộc cách mạng của nhân dân Liên Xô mà đuổi cổ họ ra khỏi đảng. Còn một ứng cử viên nữa là Trotsky: nhân vật này bị trục xuất khỏi Liên Xô, ở nước ngoài cho tới khi trở thành nạn nhân của một vụ ám sát. Với những sự kiện trên, Stalin trở thành nhà lãnh đạo tối cao của Đảng Cộng sản Liên Xô.[7]
Tên tuổi Stalin gắn liền với chủ nghĩa Stalin là các luận điểm chính trị, kinh tế, tư tưởng và phong cách điều hành nhà nước theo phong cách Stalin. Ông cũng hay tự ví von mình với các vị Hoàng đế lớn trong lịch sử. Ông ngưỡng mộ Thành Cát Tư Hãn và Augustus - vị Hoàng đế La Mã đầu tiên đã che giấu bản chất chuyên chế của mình bằng việc từ chối ngôi vua cũng như Stalin chọn cho mình cái chức vị không chính thức nhất là Lãnh tụ. Ngoài ra, ông cũng nể phục các Sa hoàng Ivan Lôi đế và Pyotr Đại đế. Theo ông, một trong những sai lầm của Ivan Lôi đế là đã không diệt trừ năm gia đình quý tộc phong kiến lớn tại Nga, dẫn tới "thời kỳ lộn xộn" trong lịch sử Nga[8].
Cách mạng, Nội chiến và chiến tranh Nga-Ba Lan
Vai trò trong cuộc Cách mạng Nga năm 1917
Ngay khi trở về Saint Petersburg sau thời gian lưu đày, Stalin đã trục xuất Vyacheslav Molotov và Alexander Shlyapnikov ra khỏi chức vụ tổng biên tập của tờ Pravda. Ông ta đảm nhận chức vụ để hậu thuẫn cho chính phủ lâm thời của Alexander Kerenskii. Tuy nhiên, sau khi Lê-nin giành thắng lợi tại đại hội Đảng tháng 4 năm 1917, Stalin đã chuyển hướng sang ủng hộ phe Lê-nin. Và tại đại hội Đảng lần đó, Stalin đã được bầu vào Ủy ban Trung ương Bolshevik. Khi Kerenskii hạ lệnh bắt giữ Lê-nin sau sự kiện Ngày tháng Bảy, Stalin đã giúp đỡ Lê-nin trốn thoát. Sau khi các đảng viên Bolshevik được trả tự do để bảo vệ Saint Petersburg vào tháng 10 năm 1917, Ủy ban Trung ương Đảng đã bỏ phiếu tán thành cuộc khởi nghĩa. Ngày 7 tháng 11, tại Học viện Smolny, Stalin, Lê-nin và toàn bộ đồng chí tại Ủy ban Trung ương đã nhất trí khởi nghĩa chống lại Kerensky tạo lập nên cái ngày nay được biết đến dưới tên Cách mạng tháng 10. Ngày 8 tháng 11, những người Bolshevik đã chiếm được Cung điện Mùa đông và bắt giữ toàn bộ nội các của Kerenskii.Vai trò trong cuộc Nội chiến Nga, giai đoạn 1917–1919
Stalin được chỉ định làm Dân ủy Dân tộc lúc Petrograd bị bao vây. Nội chiến Nga bùng nổ giữa những người Nga đỏ, ý chỉ người Bolshevik do Lê-nin lãnh đạo chống lại những người Nga trắng, một liên minh của những thế lực thù địch chống Bolshevik. Lê-nin thiết lập nên Ủy ban năm người bao gồm Stalin và Leon Trotsky. Tháng 5, 1918, Lê-nin phái Stalin đến Tsaritsyn, tại đây ông gặp được hai đồng chí mà sau này giúp đỡ ông đặt sự ảnh hưởng lên toàn quân đội Xô viết là Kliment Voroshilov và Semyon Budyonny.Vai trò trong Chiến tranh Ba Lan – Xô viết giai đoạn 1919–1921
Sau khi giành chiến thắng trong cuộc nội chiến, những người Bolshevik tiến hành bước tiếp theo là đặt tầm ảnh hưởng lên những lãnh thổ cũ của Đế quốc Nga, trong khi Ba Lan lại muốn mở rộng lãnh thổ về phía đông đạt tới thời cực thịnh của đế chế Ba Lan vào năm 1722. Căng thẳng giữa 2 bên làm nổ ra Chiến tranh Nga-Ba Lan 1919-1921. Là tư lệnh của chiến khu miền Nam, Stalin được lệnh nắm giữ thành phố Lviv nhằm mục tiêu tổng lực của Lê-nin là chiếm được Warszawa ở phía Bắc.Các lực lượng của Trotsky đã giáp đấu với tư lệnh quân Ba Lan là Władysław Sikorski tại trận Warsaw năm 1920, Stalin từ chối chi viện cho mặt trận phương Bắc. Điều đó dẫn đến sự thất bại của quân Xô viết cả tại Lviv và Warszawa, mọi tội lỗi bị đẩy lên đầu của Stalin. Ông bị buộc phải quay về Max-cơ-va tháng 8 năm 1920 để điều trần và bị tước mọi chức vụ trong quân đội. Tại Đại hội Đảng lần 9 vào 22 tháng 9, Trotsky lên tiếng chỉ trích công khai các biểu hiện của Stalin.
Lên nắm quyền
Stalin đóng vai trò quyết định trong cuộc chiến tranh của Hồng quân tại Gruzia, tiếp theo đó ông đã nhận phải sự chống đối chính trị quyết liệt bên trong nội bộ đảng từ những người Gruzia và những người khác[9][10] Điều này đã tạo ra rạn nứt giữa Stalin và Lê-nin, vì Lê-nin có lý tưởng là mọi quốc gia bên trong Liên bang đều có quyền bình đẳng như nhau.Tuy nhiên, Lê-nin vẫn xem Stalin như một liên minh trung thành, khi ông mất sự tin tưởng ở Trotsky và những đồng chí khác, ông đã quyết định trao cho Stalin nhiều quyền lực hơn. Cùng với sự trợ giúp của Lev Kamenev, Lenin đã chỉ định Stalin làm Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Xô viết vào năm 1922.[11] Vị trí này đã cho phép ông chỉ định nhiều người thân cận trong phe cánh của ông vào các vị trí trong chính phủ.
Lê-nin gặp cơn tai biến vào năm 1922, buộc ông gần như phải nghỉ dưỡng tại Gorki. Stalin viếng thăm ông thường xuyên, và trở thành người hỗ trợ Lê-nin với thế giới bên ngoài.[11] Cả hai tranh cãi và Lê-nin viết một chúc thư để lên án Stalin. Ông chỉ trích Stalin là một kẻ thô lỗ, tham vọng và xảo quyệt và yêu cầu Stalin nên rời khỏi chức vụ Tổng Bí thư.[11] Trong lúc Lê-nin đang dưỡng bệnh, Stalin đã cấu kết với Kamenev và Grigory Zinoviev chống lại Leon Trotsky. Nhóm người này đã ngăn cản chúc thư của Lê-nin không được công bố tại Đại hội Đảng khóa 12 vào tháng 4 năm 1923.[11]
Cuộc chiến tranh Bắc phạt tại Trung Quốc được xem là đỉnh điểm của bất đồng trong chính sách đối ngoại giữa Stalin và Trotsky. Stalin dựa trên chính sách thực tiễn, bỏ qua lý tưởng cộng sản. Ông đã ra lệnh cho Đảng Cộng sản Trung Quốc phải từ bỏ sự chống đối và hợp tác với Quốc Dân Đảng. Giống như Lê-nin, Stalin tin rằng Quốc Dân Đảng sẽ đánh bại phe bảo hoàng thân phương Tây và hoàn thành cuộc cách mạng nhân dân. Trong khi Trotsky lại muốn những người Cộng sản Trung Quốc lãnh đạo cuộc cách mạng vô sản chính thống và phản đối Quốc Dân Đảng.[12] Tuy nhiên, Tưởng nhanh chóng trở mặt và đạp bỏ những thỏa thuận trong đàm phán khi thảm sát những người Cộng sản tại Thương Hải năm 1927 trong cuộc chiến Bắc phạt.[13][14]
Stalin nhanh chóng thúc đẩy việc công nghiệp hóa và kinh tế hóa tập trung, trái với chính sách kinh tế của Lê-nin (NEP). Vào cuối năm 1927, sự suy giảm nghiêm trọng nguồn cung ngũ cốc đã buộc Stalin chuyển đổi nền nông nghiệp sang tập thể hóa và ra lệnh tịch thu lượng ngũ cốc tích trữ của các hộ phú nông kulak.[11][15] Bukharin và Thủ tướng Alexey Rykov phản đối chính sách mới và yêu cầu Stalin phải trở về chính sách cũ, nhưng đa phần các ủy viên trung ương đều theo phe của Stalin, nên kế hoạch thay đổi bất thành, Bukharin bị loại khỏi Bộ chính trị vào tháng 11 năm 1929. Năm sau, Rykov bị cách chức, Vyacheslav Molotov vào thay thế theo sự đề nghị của Stalin.
Chiến tranh thế giới thứ hai
Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, ông giữ chức tổng tư lệnh các lực lượng vũ trang Liên Xô và chủ tịch Uỷ ban Quốc phòng Nhà nước; nguyên soái (1943), đại nguyên soái (1945). Có người cho rằng khi Chiến tranh thế giới thứ hai xảy ra, Stalin trở nên bất ngờ và không có tinh thần trong những ngày đầu của cuộc chiến. Tuy nhiên, không lâu sau đó ông đã lấy lại được tinh thần và kêu gọi nhân dân Liên Xô đánh đuổi Đức Quốc Xã ra khỏi bờ cõi nước nhà.Dưới sự lãnh đạo của Stalin và Đảng Cộng sản Liên Xô, quân và dân Liên Xô đã đánh bại phát xít Đức trong cuộc Chiến tranh Xô-Đức (1941 - 1945), đánh bại đế quốc Nhật Bản[7] và giải phóng nhiều nước ở Trung Âu và Đông Âu thoát khỏi chủ nghĩa phát xít. Cuộc giải phóng này dẫn đến việc hệ thống xã hội chủ nghĩa được thành lập.[16]
Trong thời chiến, Stalin cùng Tổng thống Hoa Kỳ Franklin D. Roosevelt (từ tháng 4 năm 1945 là Harry Truman) thành lập Mặt trận Đồng minh chống phe Trục.
Thảm sát Katyn
Hai người con trai của Stalin
Khi Thế chiến thứ II bùng nổ, Stalin quyết định cả 2 người con trai của mình đều phải ra mặt trận cầm súng chống quân thù. Anh cả Yakov Dzhugashvili (1907-1943) chiến đấu trong lực lượng Pháo binh, rồi bị bắt làm tù binh trong một trận đánh không cân sức gần thành phố Smolensk cửa ngõ phía tây của nước Nga. Yakov Dzhugashvili từng được Hitler đề nghị đổi lấy Thống chế Đức Friedrich Paulus bị Hồng quân Liên Xô bắt sống tại trận Stalingrad. Stalin đã cương quyết từ chối, nên Yakov đã bị giết hại trong trại tù binh vào năm 1943.Người con trai thứ 2 là Vasily Iosifovich Dzhugashvili xung phong vào Không quân, lần lượt tham gia các trận đánh then chốt của Hồng quân như trận Moskva và trận Stalingrad (nay là Volgagrad), giải phóng Belarus và Ba Lan, rồi tổng công kích quân Đức Quốc xã tại thủ đô Berlin. Trong các trận không chiến, Vasily đã bắn rơi 2 máy bay tiêm kích và cường kích của quân phát xít. Đến cuối năm 1942, ông được phong hàm Đại tá Không quân. Sau khi Thế chiến thứ II kết thúc, Đại tá V. Stalin được Ban lãnh đạo Bộ Tư lệnh Đặc khu Thủ đô (nay là Quân khu Moskva) đề cử giữ chức Tư lệnh Lực lượng Không quân phòng thủ Moskva. Tuy vậy, Stalin đã nhiều lần gác lại việc phong hàm tướng cho con bởi "phải trau dồi phẩm chất cùng tích lũy kinh nghiệm nhiều hơn nữa", và ông đã gạch chéo bằng mực đỏ xóa tên của Vasily trong danh sách dự kiến phong cấp tướng định kỳ. Tới năm 1946, Vasily mới được bổ nhiệm Thiếu tướng, nhưng tới năm 1952, Stalin đã cương quyết cách chức con trai ruột sau khi xảy ra sự cố tai nạn ở sân bay Tushino vào tháng 7/1952.[18]
Thời hậu chiến
Bức tường Sắt và khối Đông Âu
Sau khi đánh bại Đức Quốc Xã, các lực lượng quân sự Xô Viết đã đóng quân tại Trung và Đông Âu, ở những quốc gia này, họ hỗ trợ cho các lực lượng thân Xô Viết thiết lập chính phủ. Các chính phủ phương Tây và Hoa Kỳ xem như hành động bành trướng xã hội chủ nghĩa tại châu Âu của Liên Xô, khi Churchill xem toàn bộ khu vực là một “Bức tường Sắt” và thành sân sau của Liên Xô.[19][20] Những quốc gia chủ nghĩa xã hội mới thành lập này ở Đông và Trung Âu thường được gọi là “Khối Đông Âu” hay “Khối Xô-viết”.Nhà nước Cộng hòa Dân chủ Đức ra đời ngày 7 tháng 10 năm 1949, với hiến pháp mới đẩy chủ nghĩa xã hội lên vị trí độc tôn và giúp Đảng Liên minh Xã hội (“SED”) lên nắm quyền.
Tại Hội nghị Yalta, Stalin đã hứa là sẽ tổ chức bầu cử tự do tại Ba Lan,[21] sau khi thất bại trong cuộc bỏ phiếu trưng cầu dân ý năm 1946,[22] gian lận bầu cử đã xảy ra bí mật có kiểm soát của Liên Xô để giúp phe thân cộng sản giành thắng lợi đa số.[23][24][25] Ngay tiếp sau đó, nền kinh tế Ba Lan bắt đầu kỷ nguyên quốc hữu hóa.[26]. Tại Hungary, khi Liên Xô thành lập chính phủ xã hội chủ nghĩa, Rákosi Mátyás được đưa lên nắm quyền, ông được xem như là “học trò xuất sắc nhất của chủ tịch Stalin”[27][28]. Rákosi áp dụng chiến thuật “sa-la-mi” bằng cách chia nhỏ các đối thủ chính trị ra như kiểu bánh sa-la-mi để tập trung quyền lực nhiều hơn cho chính phủ của ông.[29][30] Rákosi áp dụng đường lối chủ nghĩa Stalin trong các công việc chính trị và chương trình kinh tế, điều này đã biến ông thành 1 kẻ độc tài với biệt danh “sát thủ đầu hói”, chế độ của ông được xem là chế độ độc tài khắc nghiệt nhất châu Âu.[30][31] Xấp xỉ 350 nghìn quan chức và học giả Hungary bị thanh trừng từ giữa năm 1948 đến 1956.[30]
Trong suốt chiến tranh thế giới lần hai, Hồng Quân Xô viết đã vượt biên giới, gầy dựng và hỗ trợ cho những người cộng sản tại đây làm cuộc đảo chính tại Bulgaria năm 1944.[32] Nhờ vậy mà các chỉ huy quân sự của lực lượng Hồng Quân nắm quyền lực rất cao, các thế lực thân Liên Xô, đứng đầu là Kimon Georgiev nắm hoàn toàn tình hình chính trị trong nước.[32]
Năm 1949, Liên Xô, Cộng hòa Nhân dân Bulgari, Tiệp Khắc, Cộng hòa Nhân dân hungary, Cộng hòa Nhân dân Ba Lan và Cộng hòa Nhân dân Romania thành lập nên Hội đồng Tương trợ Kinh tế theo mong muốn của Stalin để làm tăng ảnh hưởng của Liên Xô tại Trung Âu và làm giảm ảnh hưởng của chính sách Kế hoạch Marshal của Hoa Kỳ dành cho châu Âu,[33][34] Tiệp Khắc, Hungary và Ba Lan có tỏ thái độ muốn được nhận viện trợ từ chương trình Marshal mặc dù họ biết rằng họ phải đáp ứng các điều kiện như cho phép trao đổi tiền tệ và thực hiện kinh tế thị trường. Vào tháng 7 năm 1947, Stalin ra sắc lệnh buộc các chính phủ thân Xô viết phải rút khỏi Hội nghị Pa-ri bàn về chương trình Tái thiết châu Âu. Điều này đã cho thấy rõ sự thật về hậu thế chiến hai dẫn đến sự chia rẻ châu Âu thành hai phần riêng biệt.[34]
Tại Hi Lạp, Anh và Hoa Kỳ ủng hộ phe chống cộng trong Nội chiến Hi Lạp và Liên Xô đứng về phe những người cộng sản, mặc dù Stalin chối bỏ về việc tham gia vào tình hình tại Hi Lạp. Albania vẫn duy trì mối quan hệ với Max-cơ-va trong khi Cộng hòa Liên bang Nam Tư lại nằm ở tư thế chống Liên Xô trong suốt thời gian chia rẻ giữa hai bên cho đến khi nó kết thúc vào năm 1955.
Quan hệ Trung – Xô
Tại châu Á, trong những ngày cuối cùng của cuộc chiến, Hồng Quân đã đánh tan quân Nhật và giành quyền kiểm soát Mãn Châu, rồi đến Triều Tiên cho đến vĩ tuyến 38. Đảng Cộng sản của Mao Trạch Đông vẫn giành được thắng lợi trước Quốc Dân Đảng của Tưởng Giới Thạch vốn được hỗ trợ rất lớn từ Hoa Kỳ trong Chiến tranh Quốc – Cộng dù rằng họ rất ít khi được Liên Xô hỗ trợ. Điều này đã làm xấu đi tình hình quan hệ giữa hai bên kể từ khi Đảng Cộng sản giành được chính quyền tại Trung Hoa đại lục.Sự bất đồng giữa Mao Trạch Đông và Stalin đã thể hiện ngay từ lúc khởi đầu. Trong suốt Thế chiến II, Stalin đã giúp đỡ cho chính phủ Tưởng Giới Thạch để chống lại quân Nhật và nhắm mắt làm ngơ để Tưởng tàn sát những người Cộng sản Trung Quốc. Nhìn chung, Stalin muốn giúp Tưởng chống Nhật để giữ hòa khí giữa hai bên, ngay cả sau khi chiến tranh kết thúc, Stalin đã ký hiệp ước bất tương xâm với Tưởng và yêu cầu Mao Trạch Đông và những người Cộng sản Trung Quốc phải hợp tác với Tưởng. Tuy nhiên, Mao Trạch Đông không tuân theo chỉ thị này và bắt đầu cuộc chiến với Tưởng. Stalin không hề tin rằng Mao có thể đánh bại Tưởng nên ông ta đưa ra rất ít sự giúp đỡ cho Mao. Liên Xô vẫn tiếp tục giữ quan hệ ngoại giao với Quốc Dân Đảng của Tưởng cho đến khi Mao giành chiến thắng hoàn toàn.
Stalin cũng ủng hộ những người Thổ Hồi giáo ở Tây Trung Quốc để thành lập quốc gia riêng (Cộng hòa Đông Thổ) trong suốt nổi loạn, li khai chống Trung Hoa Dân Quốc. Ông ủng hộ lãnh đạo Cộng sản Hồi giáo Ehmetjan Qasim để chống lại các lực lượng chống cộng của Quốc Dân Đảng.
Khi Đảng Cộng sản của Mao giành được quyền kiểm soát tại đại lục và ép chính phủ Quốc Dân phải bỏ chạy ra đảo Đài Loan, Stalin đã nhận ra vị thế mới của Mao Trạch Đông. Liên Xô nhanh chóng công nhận nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa của Mao. Đỉnh điểm của mốt quan hệ Trung – Xô thể hiện vào năm 1950 bằng Hiệp ước Đồng chí và Đồng minh. Cả hai nước cùng nhau hỗ trợ quân sự cho quốc gia đồng minh ở bắc Triều Tiên để chống lại chính phủ phía Nam do Hoa Kỳ hậu thuẫn. Sau vài vụ xung đột ở biên giới hai miền, cuối cùng Chiến tranh Triều Tiên đã nổ ra vào năm 1950.
Bắc Triều Tiên
Trái với chính sách trang bị hạn chế của Hoa Kỳ dành cho Nam Triều Tiên, Stalin đã hỗ trợ tối đa cho quân đội Bắc Triều Tiên của Kim Nhật Thành về cả lục quân và không quân, trong đó bao gồm các loại xe tăng T-34/85 và các cố vấn để hỗ trợ Kim tái thống nhất phần còn lại của bán đảo Triều Tiên.Quân đội Bắc Triều Tiên mở màn cuộc chiến vào ngày Chủ nhật, 25 tháng 6 năm 1950, vượt biên giới vĩ tuyến 38, nã pháo tấn công để chinh phạt Nam Triều Tiên[35] Trong suốt cuộc chiến Triều Tiên, các phi công Xô viết sử dụng máy bay của họ cất cánh từ căn cứ tại Trung Quốc để chống lại máy bay của Liên Hiệp Quốc.
Cuộc chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, dưới sự lãnh đạo của Stalin và Đảng Cộng sản Liên Xô, kinh tế, xã hội đất nước đã được khôi phục nhanh chóng. Tới năm 1949, sản lượng kinh tế của Liên Xô đã đạt mức ngang bằng trước chiến tranh, sớm hơn kế hoạch gần 2 năm rưỡi. Cũng trong thời gian này, bom nguyên tử và bom khinh khí được chế tạo thành công ở Liên Xô. Liên Xô đã trở thành một siêu cường theo chủ nghĩa Cộng sản,[16] đủ sức đối đầu với Hoa Kỳ trong Chiến tranh Lạnh.
Qua đời
Ngày 1 tháng 3 năm 1953, sau khi ăn tối với Bộ trưởng bộ nội vụ Lavrenty Pavlovich Beria và ba thủ tướng tương lai Georgi Maximilianovich Malenkov, Nikolai Alexandrovich Bulganin và Nikita Sergeyevich Khrushchev ở Moskva, Stalin ngã quỵ xuống ở trong phòng, ông chắc đã bị tai biến mạch máu não làm liệt bên phải của ông. Tuy các cận vệ lấy làm lạ ông không thức dậy như thường lệ vào hôm sau, nhưng họ đang có lệnh không được quấy rầy ông, cho nên cái chết của ông không được khám phá ra cho đến tối hôm đó. Bốn ngày sau, Stalin qua đời ngày 5 tháng 3 năm 1953, hưởng thọ 74, và chôn ngày 9 tháng 3. Lý do chính thức của cái chết là chảy máu não. Thi hài ông được giữ trong Lăng Lenin đến ngày 31 tháng 10 năm 1961. Theo quá trình phi Stalin hóa, thi hài của ông bị mang ra khỏi lăng và được chôn bên cạnh tường điện Kremlin.Nhận định
Cống hiến
Iosif Vissarionovich Stalin được xem là một trong những nhà chính trị mâu thuẫn nhất vào thế kỷ XX.[7] Ông được xem là người có những cống hiến to lớn cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Liên Bang Xô Viết. Trong cuộc thăm dò ý kiến của 40 triệu người Nga vào năm 2008, ông đã được bình chọn là nhân vật vĩ đại thứ 3 trong lịch sử Nga, sau Đại công tước Aleksandr Yaroslavich Nevsky và Thủ tướng Pyotr Arkadyevich Stolypin. Thậm chí kết quả này còn bị Đảng Cộng sản Liên bang Nga cáo buộc là gian lận, rằng chính phủ Nga đã tìm cách ngăn cản để Stalin hoặc Lenin không giành được vị trí thứ nhất.[4]Trong một cuộc thăm dò khác năm 2006, trên 35% người Nga được hỏi cho biết sẽ bỏ phiếu cho Stalin nếu ông vẫn còn sống[36] Chỉ có ít hơn 1/3 người Nga cho rằng Stalin là một lãnh đạo tàn nhẫn[37] 54% thanh niên Nga cho rằng Stalin có nhiều công lao hơn là tội lỗi, một nửa cho rằng ông là một nhà lãnh đạo tài giỏi, 46% không cho rằng ông là người nhẫn tâm. 55% số người được hỏi mong muốn chính quyền Nga trả lại tên Stalingrad trước đây cho thành phố Volgograd.[38]
Năm 2013, nhân dịp 60 năm ngày Stalin qua đời, Trung tâm Levada đã khảo sát và kết quả có 49% người Nga coi Stalin có vai trò tích cực trong lịch sử, chỉ 32% coi ông có vai trò tiêu cực. Các chuyên gia đưa ra hai lý do: Một mặt, điện Kremlin đã âm thầm thúc đẩy hình ảnh của Tổng thống Vladimir Putin là một nhà lãnh đạo mạnh mẽ giống như Stalin, người đã giữ ổn định đất nước sau những hỗn loạn của việc Đế quốc Nga sụp đổ. Mặt khác, mọi người coi trọng Stalin bởi vì họ thấy ít tự hào về tình hình nước Nga kể từ sau sự sụp đổ của Liên Xô. "Nhận thức về Stalin là một cách để người Nga nhớ lại thời kỳ của những hành động tuyệt vời và cả những sự hy sinh có lẽ còn vĩ đại hơn thế" - nhà sử học Roy Medvedev, người đã viết một cuốn sách về Stalin nói[39].
Trong thời gian lãnh đạo của Stalin, Liên Xô chuyển từ một nước lạc hậu thành một siêu cường thế giới với tiềm lực công nghiệp và quân sự khổng lồ. Trong thi phú, ông được ca ngợi như "Stalin sâu thăm thẳm hơn đại dương, cao vòi vọi hơn Himalaya, sáng rực rỡ hơn mặt trời". Chính ông là người đã xóa bỏ chế độ tem phiếu lương thực vào năm 1935, nên được nhiều người biết ơn.[7] Những sự kiện như khởi công xây tuyến đường xe điện ngầm tại thành phố Moskva, hay ban bố Hiến pháp của Liên bang Xô viết đều diễn ra dưới chế độ Stalin.[7]
Được coi là một nhà lãnh đạo lỗi lạc, thời gian ông cầm quyền gắn liền với giai đoạn 1930 – 1940, một giai đoạn lớn mạnh trong lịch sử Liên Xô. Trong thời gian đó, nền văn hoá, âm nhạc, văn học,… của Liên Xô giành được nhiều thành tựu lớn lao. Không những thế, ông còn là nhân vật đóng vai trò không nhỏ trong cuộc kháng chiến của Liên Xô chống phát xít.[40] Piter Ustinov, một chuyên gia lịch sử đã nhận xét: “Có lẽ không thể có một ai khác ngoài Stalin có thể làm được những việc như thế trong Chiến tranh: quyết liệt, mềm dẻo, nhất quán, như yêu cầu đánh thắng trong những kích cỡ phi thường như thế…”.
Báo chí Việt Nam dẫn lời Thủ tướng Winston Churchill của Anh - một người trên thực tế có ác cảm lớn với Liên Xô - cũng phải thừa nhận:[41]
“ | Một hạnh
phúc lớn lao đối với nước Nga là trong những năm thử thách khổng lồ, đất
nước này được thiên tài, tướng quân sắt đá Stalin lãnh đạo. Ông ấy là
nhân vật kiệt xuất nhất, bao trùm lên cái thời nhiều biến động mà cuộc
đời ông ấy đã trôi qua.
Stalin là con người nhiệt huyết phi thường và ý chí không gì bẻ
gẫy nổi, cứng rắn, khốc liệt trong trò chuyện, người mà ngay cả tôi, kẻ
được giáo dục tại nghị viện Anh, cũng không có gì cưỡng lại được. Stalin
trước hết có một óc hài hước phong phú, khả năng thâu nhận những ý
tưởng một cách chuẩn xác. Sức mạnh này trở nên vĩ đại ở Stalin đến nỗi
ông ấy là người độc nhất vô nhị giữa những nhà lãnh đạo quốc gia mọi
thời và mọi nơi. Stalin đã gây cho chúng tôi một ấn tượng kỳ vĩ. Ông ấy có trí anh minh sâu sắc, tư duy hợp lý, không bao giờ biết hoảng loạn. Ông ấy là một nghệ nhân bất khả chiến bại trong những khoảnh khắc khó khăn kiếm tìm lối thoát từ những tình huống tuyệt vọng nhất. Ông ấy là một nhân vật rất phức tạp. Ông ấy xây dựng và thuần hoá một đế chế mênh mông. Đó là người biết tiêu diệt kẻ thù của mình bằng chính kẻ thù của mình... Lịch sử, dân tộc không bao giờ quên lãng những người như thế |
” |
—Winston Churchill
|
Nguyên soái Xô-viết Georgi K. Zhukov, vị tướng lừng danh nhất của Liên Xô trong Chiến tranh thế giới thứ hai, thì hồi tưởng:
-
- “Ông đọc rất nhiều và biết nhiều thứ trong các lĩnh vực khác nhau. Sức làm việc đáng kinh ngạc của Ông, khả năng nhanh chóng nắm bắt thông tin cho phép Ông trong một ngày xem xét và thấu hiểu một khối lượng tư liệu lớn đến mức chỉ những vĩ nhân mới có thể làm được như thế. Ông làm việc nhiều, khoảng 12 đến 15 giờ trong một ngày. Tôi đã nghiên cứu Stalin như một nhà hoạt động quân sự rất kỹ càng vì tôi đã đi cùng Ông trong suốt cuộc chiến tranh. Stalin nắm chắc các vấn đề tổ chức chiến dịch mặt trận và các chiến dịch phối hợp giữa các nhóm mặt trận, và Ông chỉ huy các chiến dịch này rất bài bản, vì biết rõ các vấn đề chiến lược lớn. Trong chỉ đạo chiến tranh nói chung, Stalin được giúp đỡ bởi trí tuệ thiên phú của Ông và một linh tính rất phong phú. Ông biết tìm ra mắt xích chủ đạo trong tình huống chiến lược và nắm lấy nó, phân tích kẻ thù, tiến hành chiến dịch tấn công lớn này hay chiến dịch tấn công lớn khác. Không có gì hoài nghi nữa, Ông là một Tổng tư lệnh tối cao xứng đáng”.[42]
Theo phát ngôn viên hội đồng thành phố Oryol, Olga Patenkova, các nhà lập pháp nơi đây đã thông qua một bản kiến nghị vào ngày 31 tháng 3, nội dung yêu cầu lập lại các hình ảnh của Iosif Vissarionovich Stalin.
Theo tờ Izvestia số ra ngày 14 tháng 4 năm 2005:[45]
“ | Lễ kỷ niệm 60 năm chiến thắng… thúc đẩy chúng tôi ủng hộ những lời kêu gọi khôi phục lẽ công bằng của lịch sử, tôn trọng vai trò lịch sử của tổng tư lệnh Stalin | ” |
—Olga Patenkova
|
Về những biện pháp lãnh đạo khắc nghiệt và những sai lầm Stalin mắc phải, Nghị sĩ Molotov cho rằng: "Hiện nay có xu hướng ở Nga miêu tả Stalin như một người tự mãn, tự kỷ, luôn cho rằng ông nói thế nào thì mọi sự sẽ diễn ra y như thế. Làm vậy là không đúng, là vu cáo... Nếu đổ cho một mình Stalin mọi lầm lỗi như thế thì cũng có thể nói, một mình Stalin đã xây dựng thành công Chủ nghĩa Xã hội, một mình Stalin đã chiến thắng phát xít Đức... Mỗi người trong bộ máy chính trị đều có phần trách nhiệm riêng... Nói tới vai trò của Stalin trong chiến tranh Vệ quốc Vĩ đại, cần thấy rằng, bản chất vấn đề không phải là ở chỗ đoán đúng hay sai ngày nổ ra chiến tranh. Bản chất vấn đề là ở chỗ, không cho Hitler vào Moskva, Leningrad hay Stalingrad. Bản chất vấn đề là ở chiến thắng chung cuộc rất vẻ vang. Và chúng ta đã làm được điều này. Trong đó có công lao to lớn của Stalin. Cần phải công bằng chứ không nên như bây giờ, đổ mọi lỗi lầm cho Stalin khi ông không còn sống nữa".[42] Nina Nesterina, quan chức chính quyền Oryol chuyên trách bảo vệ quyền lợi của các nạn nhân chính trị, nói về thái độ của mình đối với Stalin: "Stalin không thực sự phải chịu trách nhiệm về các vụ đàn áp. Theo các tài liệu chính thức, các mệnh lệnh được đưa ra bởi toà án quân sự của NKDV (tiền thân của KGB)".
Zinoviev, một chính trị gia gần như cả đời chỉ phê phán Stalin và Liên Xô, nhưng gần đây khi suy ngẫm lại ông đã nói rằng: Liên Xô có được những thành tựu vĩ đại là nhờ có được sự lãnh đạo của Stalin và Đảng CS Liên Xô. Cần phải đánh giá lại những hoạt động trấn áp của Stalin những năm 1930, việc xây dựng chế độ mới thường đi kèm với cuộc đấu tranh với các thế lực chống phá. Một đất nước rộng lớn và đa sắc tộc, tôn giáo như Liên Xô thời kỳ đó luôn tồn tại nhiều mầm mống bất ổn và chia rẽ, nên rất cần những lãnh đạo đủ tài năng và sự cứng rắn (thực tế chỉ ít lâu sau khi Liên Xô sụp đổ, các cuộc chiến tranh ly khai, xung đột sắc tộc đã nổ ra khắp nơi). Sự trấn áp của Stalin, dù rằng trong đó có rất nhiều hành vi quá mức, trên thực tế cũng đã tiêu diệt những kẻ biến chất và tiềm tàng nguy hiểm cho đất nước.[43]
Bản thân Stalin cũng đoán biết trước sau khi qua đời, ông sẽ trở thành mục tiêu công kích của nhiều thế lực. Ngay từ năm 1943, ông đã nói với đồng chí của mình rằng:
- "Sau khi tôi chết, sẽ có những kẻ tìm cách trút mọi thứ rác rưởi lên mộ tôi. Nhưng rồi ngọn gió của lịch sử sẽ thổi bạt tất cả những thứ rác rưởi đó đi."[47]
Sai lầm
[16][45] Có tài liệu còn gọi ông là "Nga hoàng Đỏ".[48] Một bộ phận người Nga đã tố cáo những sai lầm cá nhân của Stalin, và xem đó là nguyên nhân khiến tổn thất của nhân dân Xô viết hết sức lớn lao trong những năm chiến tranh.Để đạt được những mục tiêu của mình, Stalin sử dụng các phương pháp điều hành cứng rắn, bao gồm cả khủng bố nhà nước và đại thanh trừng những thành phần chống đối, theo ước tính từ tháng 08/1937 đến tháng 10/1938, chỉ riêng trong nhà tù tại Ủy ban an ninh quốc gia, chế độ Stalin đã kết án tử hình 20.760 người, trong đó có khoảng 1.000 người lãnh đạo tôn giáo. Giáo chủ giáo phận St. Petersburg Serafin là cũng bị giết vào thời gian này.[cần dẫn nguồn]
Các nhà sử học được các báo chí quốc tế trích dẫn lời cho rằng dưới thời cầm quyền của Stalin, nhiều triệu người đã bị Stalin và bộ máy thanh trừng của ông cưỡng bức di cư, thẩm vấn hoặc giam giữ trong các trại tập trung và các nhà tù dưới chế độ Xô-Viết trước đây[cần dẫn nguồn]. Trong thời cải cách “Perestroika” của Michail Gorbachev, đã giải mật đa số trong 1,7 triệu hồ sơ “những tên phản cách mạng” trong giai đoạn 1937-1938. Trong đó hơn 700 ngàn người bị kết án tử hình.
Những người bị thảm sát đã được Tổng thống Nga Putin cho rằng: "Những người bị thảm sát, khủng bố là những con người ưu tú nhất, có trí tuệ cao nhất và là những người can đảm nhất của nước Nga và Liên Xô thời đó."[49]
Tổng thống Nga Dmitry Anatolyevich Medvedev viết trên blog của mình sáng 30 tháng 10, 2009, nhân dịp nước Nga kỷ niệm "Ngày Tưởng nhớ Ðàn áp Chính trị," phóng viên nhật báo Ba Lan, Gzeta Wyborcza, tại Moskva đưa tin. "Tôi tin rằng, tưởng nhớ về bi kịch của dân tộc cũng thiêng liêng như tưởng nhớ về chiến thắng. Không có lý do gì để biện giải cho sự đàn áp chính trị." Medvedev viết rằng:
- Chúng ta chỉ cần nghĩ - hàng triệu người đã chết vì khủng bố cùng những cáo buộc dối trá. Cho đến ngày hôm nay, có thể thấy, những tổn thất to lớn trên được biện minh bằng những mục đích cao hơn của nhà nước. Tôi tin rằng, không có sự phát triển, sự thành công, và tham vọng nào của đất nước, có thể đạt được bằng cái giá của bi kịch và mất mát. Không gì có thể được đặt trên giá trị cuộc sống con người. Và không bất cứ sự biện minh nào cho sự đàn áp chính trị (là có thể chấp nhận được).[50]
Nhân Kỷ niệm 65 năm chiến thắng chống phát xít, Tổng thống Nga Dmitry Medvedev nói "Stalin đã phạm nhiều tội ác chống lại nhân dân" và "không thể tha thứ". Ông còn cho rằng thắng lợi phần lớn là nhờ sự hy sinh to lớn của nhân dân, dù vai trò lãnh đạo của Stalin cũng rất quan trọng.[52] Cũng trong bài trả lời phỏng vấn báo Izvestia ngày 7 tháng 5, ông Dmitry Medvedev nói rằng dù từng cá nhân có quyền đánh giá khác nhau về Stalin, và nhiều người ngưỡng mộ ông ta, thì quan điểm của nhà nước Nga hiện nay cho rằng chủ nghĩa Stalin "không thể quay lại trên nước Nga".[52]
Olga Ulianova - cháu gái của cựu lãnh đạo Lênin - cho rằng Stalin là người đầu tiên gây ra và chịu trách nhiệm với những chính sách sai lầm của Liên Xô. Bà nói:[53]
- Sai lầm lớn nhất là người ta bóp méo và ngụy tạo học thuyết của Lenin. Người đầu tiên làm như vậy là Stalin.
Thơ ca
Năm 1950, dưới sự chỉ đạo của Stalin, chính phủ Liên Xô đã đặt quan hệ ngoại giao và bắt đầu viện trợ vũ khí cho Việt Minh tiến hành cuộc kháng chiến chống Pháp, hình ảnh của Stalin cũng bắt đầu được nhiều người Việt Nam biết tới. Do vậy, năm 1953, khi nghe tin Stalin qua đời, Tố Hữu đã có bài thơ Đời đời nhớ ông để tưởng niệm:- Bữa trước mẹ cho con xem ảnh
- Ông Stalin bên cạnh nhi đồng
- Áo Ông trắng giữa mây hồng
- Mắt Ông hiền hậu, miệng Ông mỉm cười
- ...[54]
Chú thích
- ^ a b c “Nhìn lại cuộc đời nhà lãnh đạo Xô Viết Joseph Stalin”.
- ^ a b “Mục từ Xtalin I. V. trong Từ điển Bách khoa Toàn thư Việt Nam”.
- ^ “BBC - History - Historic Figures Joseph Stalin (1879 - 1953)”. BBC.
- ^ a b “Medieval warrior overcomes Stalin in poll to name greatest Russian”. Guardian. 29 tháng 12, 2008.
- ^ “Bi kịch cuộc đời của nguyên soái Liên Xô M. Tukhachevsky”.
- ^ Leon Trotsky, Báo sự thật,“Nga tưởng niệm các nạn nhân của chế độ Stalin”. BBC. 31 tháng 10, 2007.
- ^ “Medvedev's Condemnation of Stalin Cult Should be Applauded”.
- ^ a b Bản mẫu:Chú thích bào
- ^ a b Bản mẫu:Chú thích bào
- ^ “Có một Lenin khác...”.
- ^ “Thơ của Tố Hữu về Joseph Stalin”. BBC tiếng Việt. 31 tháng 10 năm 2007.
Tham khảo
- Applebaum, Anne (2003). Gulag: A History. Doubleday. ISBN 0767900561
- Bideleux, Robert; Jeffries, Ian (1998). A History of Eastern Europe: Crisis and Change. Routledge. ISBN 9780203050248
- Boobbyer, Phillip (2000). The Stalin Era. Routledge. ISBN 0767900561
- Brackman, Roman (2001). The Secret File of Joseph Stalin: A Hidden Life. Frank Cass Publishers. ISBN 0714650501
- Brent, Jonathan; Naumov, Vladimir (2004). Stalin's Last Crime: The Plot Against the Jewish Doctors, 1948–1953. HarperCollins. ISBN 0060933100
- Fest, Joachim C. (2002). Hitler. Houghton Mifflin Harcourt. ISBN 0156027542
- Henig, Ruth Beatrice (2005). The Origins of the Second World War, 1933–41. Routledge. ISBN 0415332621
- Montefiore, Simon Sebag (2007). Young Stalin. Weidenfeld & Nicolson. ISBN 9780297850687
- Murphy, David E. (2006). What Stalin Knew: The Enigma of Barbarossa. Yale University Press. ISBN 030011981X
- Overy, R. J. (2004). The Dictators: Hitler's Germany and Stalin's Russia. W. W. Norton & Company. ISBN 0393020304
- Nekrich, Aleksandr Moiseevich; Ulam, Adam Bruno; Freeze, Gregory L. (1997). Pariahs, Partners, Predators: German-Soviet Relations, 1922–1941. Columbia University Press. ISBN 0231106769
- Roberts, Geoffrey (2006). Stalin's Wars: From World War to Cold War, 1939–1953. Yale University Press. ISBN 0300112041
- Roberts, Geoffrey (2002). Stalin, the Pact with Nazi Germany, and the Origins of Postwar Soviet Diplomatic Historiography 4 (4)
- Roberts, Geoffrey (1992). “The Soviet Decision for a Pact with Nazi Germany”. Soviet Studies (Taylor & Francis, Ltd.) 55 (2): 57–78
- Soviet Information Bureau (1948). Falsifiers of History (Historical Survey). Moscow: Foreign Languages Publishing House. 272848
- Department of State (1948). Nazi-Soviet Relations, 1939–1941: Documents from the Archives of The German Foreign Office. Department of State
- Taubert, Fritz (2003). The Myth of Munich. Oldenbourg Wissenschaftsverlag. ISBN 3486566733
- Tucker, Robert C. (1992). Stalin in Power: The Revolution from Above, 1928–1941. W. W. Norton & Company. ISBN 0393308693
- Watson, Derek (2000). “Molotov's Apprenticeship in Foreign Policy: The Triple Alliance Negotiations in 1939”. Europe-Asia Studies (Taylor & Francis, Ltd.) 52 (4): 695–722. doi:10.1080/713663077
- Wettig, Gerhard (2008). Stalin and the Cold War in Europe. Rowman & Littlefield. ISBN 0742555429
Đọc thêm
- Antonov-Ovseyenko, Anton. The Time of Stalin: Portrait of a Tyranny. Harpercollins, 1983 (ISBN 0060390271)
- Brent, Jonathan. Inside the Stalin Archives: Discovering the New Russia. Atlas & Co., 2008 (ISBN 0977743330) Introduction online (PDF file)
- Brent, Jonathan; Naumov, Vladimir Pavlovich. Stalin's Last Crime: The Plot Against the Jewish Doctors, 1948–1953. New York: HarperCollins, 2003 (hardcover, ISBN 0-06-019524-X; paperback, ISBN 0-06-093310-0); as Stalin's Last Crime: The Doctor's Plot. London: John Murray, 2004 (paperback, ISBN 0-7195-6508-1).
- Broekmeyer, Marius. Stalin, the Russians, and Their War, 1941–1945. Madison, WI: University of Wisconsin Press, 2004 (hardcover, ISBN 0-299-19590-2; paperback, ISBN 0-299-19594-5).
- Bullock, Alan. Hitler and Stalin: Parallel Lives. London: HarperCollins, 1991 (hardcover, ISBN 0002154943); New York: Vintage Books, 1993 (paperback, ISBN 0679729941).
- Boterbloem, Kees. Life and Death under Stalin: Kalinin Province, 1945–1953. Montreal, Quebec; Kingston, ON: McGill-Queen's University Press, 1999 (hardcover, ISBN 0-7735-1811-8).
- Conquest, Robert. The Great Terror: A Reassessment. New York: Oxford University Press, 1990 (hardcover, ISBN 0-19-507132-8).
- Conquest, Robert. The Harvest of Sorrow: Soviet Collectivization and the Terror-Famine. New York: Oxford University Press, 1986 (hardcover, ISBN 0-19-505180-7); London: Pimlico, 2002 (paperback, ISBN 0712697500).
- Davies, Sarah; Harris, James R. Stalin: A New History. Cambridge: Cambridge University Press, 2005 (paperback, ISBN 0-521-85104-1).
- Deutscher, Isaac. Stalin: A Political Biography. New York: Oxford University Press, 1967 (paperback, ISBN 0-19-500273-3); London: Penguin Books, 1990 (paperback, ISBN 0140135049).
- Djilas, Milovan. Conversations With Stalin. Harcourt Trade Publishers New York, 1962 (Hardcover, ISBN 0151225907); Harvest Books, 1963 (Paperback, ISBN 0156225913)
- Figes, Orlando. The Whisperers: Private Life in Stalin's Russia. Metropolitan Books, 2007 (Hardcover, ISBN 0805074619); Picador, 2008 (Paperback, ISBN 0312428030)
- Gellately, Robert. Lenin, Stalin, and Hitler: The Age of Social Catastrophe. Knopf, August 2007 (hardcover, ISBN 1400040051).
- Gill, Graeme. Stalinism (2nd ed.). New York: Palgrave Macmillan, 1998 (paperback, ISBN 0-312-17764-X).
- Jonge, Alex de. Stalin and the Shaping of the Soviet Union. New York: William Morrow, 1986 (hardcover, ISBN 0-688-04730-0); 1987 (paperback, ISBN 0688072917).
- Keep, John L.H.; Litvin, Alter L. Stalinism: Russian and Western Views at the Turn of the Millennium (Totalitarian Movements and Political Religions). New York: Routledge, 2004 (hardcover, ISBN 0-415-35108-1); 2005 (paperback, ISBN 0-415-35109-X).
- Kuromiya, Hiroaki. Stalin. Harlow, UK: Longman, 2006 (paperback, ISBN 0-582-78479-4).
- Kuromiya, Hiroaki. The Voices of the Dead: Stalin's Great Terror in the 1930s. Yale University Press, 24 December 2007. ISBN 0300123892
- The Leader Cult in Communist Dictatorships: Stalin and the Eastern Bloc, edited by Apor, Balázs; Jan C. Behrends, Polly Jones and E.A. Rees. Houndmills, UK; New York: Palgrave Macmillan, 2004 (ISBN 1-4039-3443-6).
- The Lesser Evil: Moral Approaches to Genocide Practices (Totalitarian Movements and Political Religions), edited by Helmut Dubiel and Gabriel Motzkin. New York: Routledge, 2004 (hardcover, ISBN 0-7146-5493-0; paperback, ISBN 0-7146-8395-7).
- Laqueur, Walter. Stalin: The Glasnost Revelations. New York: Scribner, 1990 (hardcover, ISBN 0684192039).
- Mace, James E. "The Man-Made Famine of 1933 in Soviet Ukraine", Famine in Ukraine 1932–1933: A Memorial Exhibition, edited by Roman Serbyn and Bohdan Krawchenko. Edmonton, Alberta: Canadian Institute of Ukrainian Studies, 1986 (hardcover, ISBN 0-920862-43-8), pp. 1–14.
- Mawdsley, Evan. The Stalin Years: The Soviet Union, 1929–53. Manchester: Manchester University Press, 2003 (paperback, ISBN 0-7190-6377-9).
- McDermott, Kevin. Stalin: Revolutionary in an Era of War (European History in Perspective). New York: Palgrave Macmillan, 2006 (hardcover, ISBN 0-333-71121-1; paperback, ISBN 0-333-71122-X).
- McLoughlin, Barry and McDermott, Kevin (eds). Stalin's Terror: High Politics and Mass Repression in the Soviet Union. Palgrave Macmillan, 2002. ISBN 1403901198
- Medvedev, Roy A.; Medvedev, Zhores A. The Unknown Stalin: His Life, Death, and Legacy. London: I.B. Tauris, 2003 (hardcover, ISBN 1-86064-768-5); Woodstock, NY; New York: The Overlook Press, 2005 (paperback, ISBN 1585676446).
- Montefiore, Simon Sebag. Stalin: The Court of the Red Tsar. New York: Alfred A. Knopf, 2004 (ISBN 1-4000-4230-5); New York: Vintage, 2005 (paperback, ISBN 1400076781).
- Montefiore, Simon Sebag. Young Stalin. London: Weidenfeld & Nicolson, 2007 (hardcover, ISBN 9780297850687). An excerpt is available online.
- Murphy, David E. What Stalin Knew: The Enigma of Barbarossa. Yale University Press, 2005 (hardcover ISBN 0300107803); (2006 paperback ISBN 030011981X).
- Naimark, Norman M. Stalin's Genocides (Human Rights and Crimes against Humanity). Princeton University Press, 2010. ISBN 0691147841
- Overy, Richard. Dictators: Hitler's Germany and Stalin's Russia. Allen Lane, 2004 (hardcover, ISBN 0-7139-9309-X); Penguin Books, 2005 (paperback, ISBN 0-14-028149-5); New York: W.W. Norton, 2004 (hardcover, ISBN 0-393-02030-4); 2006 (paperback reprint, ISBN 0-393-32797-3).
- Parrish, Michael. The Lesser Terror: Soviet state security, 1939–1953. Praeger Press, 1996 (ISBN 0275951138)
- Pipes, Richard. Communism: A History. Modern Library Chronicles, 2001 (hardcover, ISBN 0679640509); (2003 paperback reprint, ISBN 0812968646)
- Priestland, David. Stalin and the Politics of Mobilization: Ideas, Power, and Terror in Inter-war Russia. New York: Oxford University Press (U.S.), 2006 (hardcover, ISBN 0-19-924513-4).
- Radzinsky, Edvard. Stalin: The First In-Depth Biography Based on Explosive New Documents from Russia's Secret Archives. Doubleday, 1996 (hardcover, ISBN 0-385-47397-4); Anchor, 1997 (paperback, ISBN 0-385-47954-9). Chapter 1 is available online.
- Rayfield, Donald. Stalin and His Hangmen: The Tyrant and Those Who Killed for Him. New York: Random House, 2004 (hardcover, ISBN 0-375-50632-2); 2005 (paperback, ISBN 0375757716).
- Redefining Stalinism (Totalitarian Movements and Political Religions), edited by Harold Shukman. New York: Routledge, 2003 (hardcover, ISBN 0-7146-5415-9; paperback, ISBN 0-7146-8342-6).
- Ree, Erik van. The Political Thought of Joseph Stalin: A Study in Twentieth-Century Revolutionary Patriotism. London; New York: Routledge Courzon, 2002 (hardcover, ISBN 0-7007-1749-8).
- Roberts, Geoffrey. Stalin's Wars: From World War to Cold War, 1939–1953. New Heaven, CT; London: Yale University Press, 2006 (hardcover, ISBN 0300112041).
- Rosefielde, Steven. Red Holocaust. Routledge, 2009. (paperback, ISBN 0415777577)
- Rummel, R.J. Death By Government. New Brunswick, N.J.: Transaction Publishers, 1994 (hardcover, ISBN 1560001453); 1997 (paperback, ISBN 1-56000-927-6).
- Rummel, R.J. Lethal Politics: Soviet Genocide and Mass Murder Since 1917. New Brunswick, N.J.: Transaction Publishers, 1990 (hardcover, ISBN 0887383335); (paperback, ISBN 1560008873)
- Sandag, Shagdariin; Kendall, Harry H.; Wakeman, Frederic E. Poisoned Arrows: The Stalin-Choibalsan Mongolian Massacres, 1921–1941. Westview Press (October 1999). ISBN 0813337100
- Service, Robert. Stalin: A Biography. Cambridge, MA: Belknap Press, 2005 (hardcover, ISBN 0-674-01697-1); 2006 (paperback, ISBN 0674022580).
- Souvarine, Boris. Stalin: A Critical Survey of Bolshevism. Whitefish, MT: Kessinger Publishing, 2005 (paperback, ISBN 1-4191-1307-0)Online.
- Solzhenitsyn, Aleksandr I. Aleksandr Solzhenitsyn "The Gulag Archipelago: 1918–1956" A first hand account of the Soviet slave labor camp by a survivor dissonant author.
- Stalin's Terror Revisited. Edited by Melanie Ilic and Stephen G. Wheatcroft. New York: Palgrave Macmillan, 2006 (hardcover, ISBN 1-4039-4705-8).
- Tucker, Robert C. Stalin as Revolutionary, 1879–1929: A Study in History and Personality. New York: W.W. Norton, 1973 (ISBN 0-393-05487-X); 1992 (paperback, ISBN 0393007383).
- Tucker, Robert C. Stalin in Power: The Revolution from Above, 1928–1941. New York: W.W. Norton, 1990 (hardcover, ISBN 0-393-02881-X); 1992 (paperback, ISBN 0393308693).
- Tzouliadis, Tim. The Forsaken: An American Tragedy in Stalin's Russia. The Penguin Press, 2008 (Hardcover, ISBN 1594201684)
- Ulam, Adam Bruno. Stalin: The Man and His Era. Boston: Beacon Press, 1989 (paperback, ISBN 0-8070-7005-X); London: I.B. Tauris, 1989 (ISBN 1850431744).
- Vaksberg, Arkady. The Murder of Maxim Gorky. A Secret Execution. (Enigma Books: New York, 2007. ISBN 978-1-929631-62-9.)
- Volkogonov, Dmitri Antonovich (Author); Shukman, Harold (Editor, Translator). Autopsy for an Empire: the Seven Leaders Who Built the Soviet Regime. Free Press, 1998 (Hardcover, ISBN 0684834200); (Paperback, ISBN 0684871122)
- Ward, Chris. The Stalinist Dictatorship. London: Arnold Publishers, 1998 (hardcover, ISBN 0-340-70640-6; paperback, ISBN 0-340-70641-4).
- Ward, Chris. "Stalin Through Seventeenth-Century Eyes", Journal of European Studies, Vol. 36, No. 2. (2006), pp. 181–200.
- Yakovlev, Alexander N. (Author); Austin, Anthony (Translator). A Century of Violence in Soviet Russia. Yale University Press, 2002 (Hardcover, ISBN 0300087608); 2004 (Paperback, ISBN 0300103220)
Liên kết ngoài
Tìm thêm về Iosif Vissarionovich Stalin tại những đồng dự án của Wikipedia: | |
Từ điển ở Wiktionary | |
Sách ở Wikibooks | |
Cẩm nang du lịch ở Wikivoyage | |
Hồ sơ ở Wikiquote | |
Văn kiện ở Wikisource | |
Hình ảnh và phương tiện ở Commons | |
Tin tức ở Wikinews | |
Tài liệu giáo dục ở Wikiversity |
- Báo cáo của Khrushchev tại Đại hội lần thứ XX Đảng Cộng sản Liên Xô
- Thi hài Stalin được đưa ra khỏi lăng như thế nào?
- Lùi ngày mất của Stalin
- Video
|
|
|
Thể loại:
Nikita Sergeyevich Khrushchyov (phiên âm tiếng Việt: Ni-ki-ta Khơ-rút-xốp; tiếng Nga: Ники́та Серге́евич Хрущёв, IPA: [nʲɪˈki.tə sʲɪrˈɡʲe.jɪ.vʲɪ̈tʃʲ xrʊˈʃʲːof] ( nghe); tiếng Anh: Nikita Khrushchev; tiếng Pháp: Nikita Khrouchtchev) (sinh 17 tháng 4 năm 1894 – mất 11 tháng 9 năm 1971) là cựu Tổng bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô.
Ông là người kế nhiệm Stalin, sau cái chết của Stalin vào năm 1953. Từ năm 1953 đến 1964, ông là Bí thư thứ nhất Đảng Cộng sản Liên Xô, đồng thời giữ chức Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (thủ tướng) từ năm 1958 đến 1964. Năm 1964 ông bị hạ bệ bởi chính những người đồng chí của mình. Những năm còn lại của cuộc đời ông luôn bị sự giám sát chặt chẽ của cơ quan tình báo Nga – KGB.
Khrushchyov bị ấn tượng mạnh bởi đất nước và con người ở Uspenskiy.[cần dẫn nguồn] Cậu rất thích mặc trang phục truyền thống của Ukraina, tuy nhiên vẫn tự nhủ mình là người Nga.
Nikita trông rất thông minh, tuy nhiên thời niên thiếu chỉ được đi học trong 2 năm và biết đọc biết viết thành thạo khi 12–13 tuổi. Ông đã làm công nhân trong khá nhiều nhà máy và hầm mỏ. Trong Thế chiến thứ nhất, ông tham gia các hoạt động công đoàn và sau Cách mạng Tháng Mười năm 1917, ông gia nhập Hồng Quân.
N.S Khrushchyov có tất cả 5 người con: 2 con trai và 3 con gái, có 2 con với người vợ đầu là Yulia và Leonid.
Người vợ tiếp theo, Nina Petrovna Kukharchuk, sinh 14 tháng 4 năm 1900 ở làng Vasilyov, tỉnh Kholmskaya (hiện nay là lãnh thổ Ba Lan). Họ cưới nhau vào năm 1924, tuy nhiên mãi tới năm 1965 cuộc hôn nhân mới được đăng kí chính thức ở ZhAGS. Người đầu tiên trong số các bà vợ của các vị lãnh tụ Xô viết chính thức đi theo chồng trong các buổi đón tiếp, kể cả ở nước ngoài. Mất vào 13 tháng 8 năm 1984, được an táng ở nghĩa trang Novodevich ở Mat-xcơ-va. Con gái đầu tiên từ cuộc hôn nhân này đã qua đời khi còn nhỏ.
Người con gái Rada Nikitishna Adzhubey, sinh ở Kiev vào năm 1929. Chồng cô ấy — Aleksey Ivanovich Adzhubey, biên tập viên chính tờ báo "Tin tức" (tiếng Nga: «Известия»).
Người con trai Sergey Nikitish Khrushchyov sinh vào năm 1935 ở Mát-xcơ-va, tốt nghiệp trường № 110 với huy chương vàng, kĩ sư hệ thống tên lửa, giáo sư, từ năm 1990 sống và giảng dạy ở Hoa Kỳ, hiện nay là công dân nước này.[1]. Sergey Nikitish sinh được hai người con trai, người anh tên là Nikita, người em là Sergey. Sergey hiện sống ở Mát- xcơ-va. Nikita mất vào ngày 22 tháng 2 năm 2007, được an táng tại nghĩa trang Novodevich ở Mat-xcơ-va cạnh ông bà. [6]
Vào năm 1937 con gái N.S. Khrushchyov là Elena chào đời.
Gia đình Khrushchyov đã sống ở Kiev trong ngôi nhà cũ của Poskryobyshev, ở nhà nghỉ ngoại ô ở Mezhgor'; lúc ở Mat-xcơ-va đầu tiên ở phố Maroseyka, sau đó ở Nhà Chính phủ («Nhà bên bờ kè»), ở phố Granovskiy, ở biệt thự quốc gia trên dãy núi Lenin (phố Kosygina hiện nay), lúc sơ tán — ở Kuybyshev, Samara, sau khi về hưu — ở nhà nghỉ ngoại ô ở Zhukovka 2.
Vào năm 1922 Khrushchyov trở về Yuzhovka và học ở khoa công nhân trường trung cấp kĩ thuật chuyên nghiệp Dontekhnikum, sau đó trở thành bí thư đảng của trường này. Vào tháng 7 năm 1925 ông được chỉ định làm lãnh đạo đảng huyện Petrovo-Mar'inskiy vùng phụ cận Stalinskiy.
Vào năm 1929 ông vào học ở Viện công nghiệp Mat-xcơ-va, sau đó được bầu làm bí thư đảng ủy viện.
Từ tháng 1 năm 1931 - bí thư ban chấp hành quận Baumanskiy, sau đó là quận Krasnopresnenskiy, vào những năm 1932-1934 lúc đầu làm bí thư thứ hai, sau đó là bí thứ nhất Thành ủy Mat-xcơ-va Đảng cộng sản Liên xô.
Vào năm 1938, ông trở thành bí thư thứ nhất Ban chấp hành Trung ương (BCH TƯ) Đảng Cộng sản Ukraina và là ứng cử viên vào thành viên Bộ chính trị, và một năm sau đó là thành viên Bộ chính trị BCH TƯ Đảng cộng sản Liên xô[3]. Nắm những chức vụ này ông đã tỏ rõ bản lĩnh người chiến sĩ đấu tranh chống những «kẻ thù của nhân dân» đến cùng.[4]
Vào những năm Chiến tranh Vệ quốc Vĩ đại, Khrushchyov là thành viên các hội đồng chiến tranh hướng Tây Nam, Đông Nam, mặt trận Stalingradskiy, mặt trận phía Nam, mặt trận Varonezhskiy và mặt trận Pervyi Ucrainskiy. Hoàn toàn ủng hộ quan điểm của Stalin, ông đã là một trong số những người có tội trong thảm họa Hồng quân công-nông[5] bị bao vây ở Kiev (1941) và ở Kharkov (1942). Sau khi chiến tranh kết thúc, ông mang quân hàm trung tướng.
Vào tháng 10 năm 1942 sắc lệnh do Stalin ký bãi bỏ hệ thống chỉ huy kép và chuyển các ủy viên từ cán bộ chỉ huy thành cố vấn đã được ban hành. Khrushchyov ở trong thê đội chỉ huy tiền tuyến sau Mamaevyi Kurgan, sau đó làm việc ở nhà máy máy kéo.
Trong giai đoạn từ 1944 đến 1947 ông làm Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô-viết Ucraina, sau đó một lần nữa được bầu làm bí thư thứ nhất BCH TƯ Đảng cộng sản (của những người bôn-sê-vich) Ucraina. Từ tháng 12 năm 1949, một lần nữa ông làm bí thư thứ nhất tỉnh Moskva và bí thư BCH TƯ đảng.
Vào tháng 6 năm 1953, sau cái chết của Iosif Stalin, ông là một trong những người khởi xướng chính việc cách tất cả các chức vụ và bắt giam Lavrentiy Pavlovich Beriya.
Vào tháng 9 năm 1953 Khrushchyov được bầu làm bí thư thứ nhất BCH TƯ. Tại đại hội lần thứ 20 Đảng cộng sản Liên Xô, ông đã đọc báo cáo về sự sùng bái cá nhân của I.V. Stalin.
Tại "Hội nghị toàn thể tháng Sáu" năm 1957, BCH TƯ đã giành thắng lợi trước nhóm chống đảng của V. Molotov, G. Malenkov, L. Kaganovich và kẻ hùa theo nhóm này là Shepilov.
Từ năm 1958 ông làm Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô.
Khrushchyov nắm những chức vụ này cho tới ngày 14 tháng 10 năm 1964, khi Hội nghị toàn thể tháng Mười BCH TƯ được tổ chức với sự vắng mặt của ông. Khrushchyov nghỉ hưu, thôi các chức vụ đảng và nhà nước "do tình trạng sức khỏe".[6]. Phó chủ nhiệm phòng quan hệ với các đảng công nhân và cộng sản của các nước xã hội chủ nghĩa thuộc BCH TƯ Đảng cộng sản Liên Xô Nikolay Nikolayevich Mesyatsev nhớ lại:[7]
Từ đó, Nikita Khrushchyov sống bằng tiền lương hưu. Ông mất vào ngày 11 tháng 9 năm 1971.
Sau khi thôi chức, tên của Khrushchyov không hề "được nhắc tới" trong hơn 20 năm (cũng như tên của Stalin và nhất là tên của Malenkov); trong Đại bách khoa toàn thư Xô-viết chỉ có đôi dòng ngắn gọn nói về Khrushchyov như sau: Trong hoạt động của ông có các nhân tố của chủ nghĩa chủ quan và ý chí luận. Đã có tranh luận về hoạt động của Khrushchyov trong Cuộc cải tổ. Theo đó Khrushchyov nổi bật với vai trò "người tiên phong" của cuộc cải tổ, và người ta cũng đã xét đến vai trò cá nhân của Khrushchyov trong các vụ đàn áp, cũng như xét các mặt tiêu cực trong việc lãnh đạo của ông. «Hồi ký» của Khrushchyov mà ông viết nhờ tiền lương hưu đã được đăng ở các tạp chí xô-viết.
Trong lúc còn sống, tên của Khrushchyov đã được đặt cho thành phố của những người thợ xây dựng nhà máy thủy điện Kremenchuk (tỉnh Kirovograd, Ukraina) trong một thời gian ngắn. Thành phố này vào năm 1962 được đổi tên thành Kremges, khi Khrushchyov vẫn còn đương chức, sau đó vào năm 1969 tiếp tục được đổi tên thành Svetlovodsk.
Video yêu thích - Lãnh tụ Liên Xô
- Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô
- Nguyên soái Liên Xô
- Người Gruzia
- Độc tài
- Sinh 1878
- Mất 1953
- Đảng Cộng sản Liên Xô
- Nhân vật trong Thế chiến thứ hai
- Lãnh tụ Cộng sản
Nikita Sergeyevich Khrushchyov
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nikita Sergeyevich Khrushchyov Ники́та Серге́евич Хрущёв |
|
---|---|
Nikita Sergeyevich Khrushchyov |
|
Chức vụ
|
|
Tiền nhiệm | Iosif Stalin |
Kế nhiệm | Leonid Brezhnev |
Thông tin chung
|
|
Đảng | Đảng Cộng sản Liên Xô |
Sinh | 17 tháng 4, 1894 Kalinovka, Đế quốc Nga |
Mất | 11 tháng 9, 1971 (77 tuổi) Moskva, Cộng hoà XHCN Liên bang Nga |
Tôn giáo | Thuyết vô thần |
Ông là người kế nhiệm Stalin, sau cái chết của Stalin vào năm 1953. Từ năm 1953 đến 1964, ông là Bí thư thứ nhất Đảng Cộng sản Liên Xô, đồng thời giữ chức Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (thủ tướng) từ năm 1958 đến 1964. Năm 1964 ông bị hạ bệ bởi chính những người đồng chí của mình. Những năm còn lại của cuộc đời ông luôn bị sự giám sát chặt chẽ của cơ quan tình báo Nga – KGB.
Mục lục
Tiểu sử sơ lược
Thời niên thiếu
Nikita Sergeyevich Khrushchyov sinh năm 1894 tại làng Kalinovka, tỉnh Kursk, nước Nga trong gia đình một người công nhân mỏ tên là Sergei Nikanorovich Khrushchyov (người cha, đã mất năm 1938) – và Ksenya Ivanovna. Nikita có một người em gái kém mình hai tuổi tên là Irina. Mùa đông Khrushchyov đến trường học đọc, học viết, còn mùa hè thì đi làm mục đồng. Năm 1908, lúc Khrushchyov 14 tuổi, ông cùng gia đình chuyển tới mỏ Uspenskiy gần Yuzovka (bây giờ là Donetsk, thuộc Ukraina). Khrushchyov trở thành học trò của người thợ nguội ở nhà xưởng, sau đó làm thợ nguội trong hầm mỏ và như người công nhân mỏ không được lấy ra mặt trận vào năm 1914.Khrushchyov bị ấn tượng mạnh bởi đất nước và con người ở Uspenskiy.[cần dẫn nguồn] Cậu rất thích mặc trang phục truyền thống của Ukraina, tuy nhiên vẫn tự nhủ mình là người Nga.
Nikita trông rất thông minh, tuy nhiên thời niên thiếu chỉ được đi học trong 2 năm và biết đọc biết viết thành thạo khi 12–13 tuổi. Ông đã làm công nhân trong khá nhiều nhà máy và hầm mỏ. Trong Thế chiến thứ nhất, ông tham gia các hoạt động công đoàn và sau Cách mạng Tháng Mười năm 1917, ông gia nhập Hồng Quân.
Gia đình Khrushchyov N.S
Nikita Sergeyevich đã hai lần cưới vợ (theo dữ liệu không chính thức là ba lần). Cuộc hôn nhân đầu tiên với Efrosinya Ivanovna Pisareva, đã mất vào năm 1920.N.S Khrushchyov có tất cả 5 người con: 2 con trai và 3 con gái, có 2 con với người vợ đầu là Yulia và Leonid.
- Leonid Nikitish Khrushchyov (10 tháng 11 năm 1917 — 11 tháng 3 năm 1943) — phi công quân đội, bị mất tích. Người vợ đầu tiên của Leonid là Rozа Treyvas, cuộc hôn nhân kéo dài không lâu và bị hủy bỏ theo mệnh lệnh riêng của N.S. Khrushchyov. Người vợ thứ hai — Lyubov' Illarionovna Sizyx, bị bắt vào năm 1942 (theo dữ liệu khác, vào năm 1943)), bị buộc tội "hoạt động gián điệp", được trả tự do vào năm 1954. Từ cuộc hôn nhân này có hai người con — con trai Yuriy Leonidovich Khrushchyov (sinh năm 1935), phi công lái bay thí nghiệm có công, đại tá về hưu, và con gái Yuliya Leonidovna Khrushchyova.
- Yulia Nikitishna Khrushchyova — lấy chồng là Viktor Petrovich Gontaryom, giám đốc nhà hát opera Kiev.
Người vợ tiếp theo, Nina Petrovna Kukharchuk, sinh 14 tháng 4 năm 1900 ở làng Vasilyov, tỉnh Kholmskaya (hiện nay là lãnh thổ Ba Lan). Họ cưới nhau vào năm 1924, tuy nhiên mãi tới năm 1965 cuộc hôn nhân mới được đăng kí chính thức ở ZhAGS. Người đầu tiên trong số các bà vợ của các vị lãnh tụ Xô viết chính thức đi theo chồng trong các buổi đón tiếp, kể cả ở nước ngoài. Mất vào 13 tháng 8 năm 1984, được an táng ở nghĩa trang Novodevich ở Mat-xcơ-va. Con gái đầu tiên từ cuộc hôn nhân này đã qua đời khi còn nhỏ.
Người con gái Rada Nikitishna Adzhubey, sinh ở Kiev vào năm 1929. Chồng cô ấy — Aleksey Ivanovich Adzhubey, biên tập viên chính tờ báo "Tin tức" (tiếng Nga: «Известия»).
Người con trai Sergey Nikitish Khrushchyov sinh vào năm 1935 ở Mát-xcơ-va, tốt nghiệp trường № 110 với huy chương vàng, kĩ sư hệ thống tên lửa, giáo sư, từ năm 1990 sống và giảng dạy ở Hoa Kỳ, hiện nay là công dân nước này.[1]. Sergey Nikitish sinh được hai người con trai, người anh tên là Nikita, người em là Sergey. Sergey hiện sống ở Mát- xcơ-va. Nikita mất vào ngày 22 tháng 2 năm 2007, được an táng tại nghĩa trang Novodevich ở Mat-xcơ-va cạnh ông bà. [6]
Vào năm 1937 con gái N.S. Khrushchyov là Elena chào đời.
Gia đình Khrushchyov đã sống ở Kiev trong ngôi nhà cũ của Poskryobyshev, ở nhà nghỉ ngoại ô ở Mezhgor'; lúc ở Mat-xcơ-va đầu tiên ở phố Maroseyka, sau đó ở Nhà Chính phủ («Nhà bên bờ kè»), ở phố Granovskiy, ở biệt thự quốc gia trên dãy núi Lenin (phố Kosygina hiện nay), lúc sơ tán — ở Kuybyshev, Samara, sau khi về hưu — ở nhà nghỉ ngoại ô ở Zhukovka 2.
Sự nghiệp chính trị
Vào năm 1918 Khrushchyov được kết nạp vào đảng của những người bôn-sê-vic. Ông tham gia chiến tranh Vệ quốc (trong 131 ngày (nguồn không rõ)). Sau khi chiến tranh kết thúc, ông làm công tác đảng và kinh tế.Vào năm 1922 Khrushchyov trở về Yuzhovka và học ở khoa công nhân trường trung cấp kĩ thuật chuyên nghiệp Dontekhnikum, sau đó trở thành bí thư đảng của trường này. Vào tháng 7 năm 1925 ông được chỉ định làm lãnh đạo đảng huyện Petrovo-Mar'inskiy vùng phụ cận Stalinskiy.
Vào năm 1929 ông vào học ở Viện công nghiệp Mat-xcơ-va, sau đó được bầu làm bí thư đảng ủy viện.
Từ tháng 1 năm 1931 - bí thư ban chấp hành quận Baumanskiy, sau đó là quận Krasnopresnenskiy, vào những năm 1932-1934 lúc đầu làm bí thư thứ hai, sau đó là bí thứ nhất Thành ủy Mat-xcơ-va Đảng cộng sản Liên xô.
Vào năm 1938, ông trở thành bí thư thứ nhất Ban chấp hành Trung ương (BCH TƯ) Đảng Cộng sản Ukraina và là ứng cử viên vào thành viên Bộ chính trị, và một năm sau đó là thành viên Bộ chính trị BCH TƯ Đảng cộng sản Liên xô[3]. Nắm những chức vụ này ông đã tỏ rõ bản lĩnh người chiến sĩ đấu tranh chống những «kẻ thù của nhân dân» đến cùng.[4]
Vào những năm Chiến tranh Vệ quốc Vĩ đại, Khrushchyov là thành viên các hội đồng chiến tranh hướng Tây Nam, Đông Nam, mặt trận Stalingradskiy, mặt trận phía Nam, mặt trận Varonezhskiy và mặt trận Pervyi Ucrainskiy. Hoàn toàn ủng hộ quan điểm của Stalin, ông đã là một trong số những người có tội trong thảm họa Hồng quân công-nông[5] bị bao vây ở Kiev (1941) và ở Kharkov (1942). Sau khi chiến tranh kết thúc, ông mang quân hàm trung tướng.
Vào tháng 10 năm 1942 sắc lệnh do Stalin ký bãi bỏ hệ thống chỉ huy kép và chuyển các ủy viên từ cán bộ chỉ huy thành cố vấn đã được ban hành. Khrushchyov ở trong thê đội chỉ huy tiền tuyến sau Mamaevyi Kurgan, sau đó làm việc ở nhà máy máy kéo.
Trong giai đoạn từ 1944 đến 1947 ông làm Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô-viết Ucraina, sau đó một lần nữa được bầu làm bí thư thứ nhất BCH TƯ Đảng cộng sản (của những người bôn-sê-vich) Ucraina. Từ tháng 12 năm 1949, một lần nữa ông làm bí thư thứ nhất tỉnh Moskva và bí thư BCH TƯ đảng.
Vào tháng 6 năm 1953, sau cái chết của Iosif Stalin, ông là một trong những người khởi xướng chính việc cách tất cả các chức vụ và bắt giam Lavrentiy Pavlovich Beriya.
Vào tháng 9 năm 1953 Khrushchyov được bầu làm bí thư thứ nhất BCH TƯ. Tại đại hội lần thứ 20 Đảng cộng sản Liên Xô, ông đã đọc báo cáo về sự sùng bái cá nhân của I.V. Stalin.
Tại "Hội nghị toàn thể tháng Sáu" năm 1957, BCH TƯ đã giành thắng lợi trước nhóm chống đảng của V. Molotov, G. Malenkov, L. Kaganovich và kẻ hùa theo nhóm này là Shepilov.
Từ năm 1958 ông làm Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô.
Khrushchyov nắm những chức vụ này cho tới ngày 14 tháng 10 năm 1964, khi Hội nghị toàn thể tháng Mười BCH TƯ được tổ chức với sự vắng mặt của ông. Khrushchyov nghỉ hưu, thôi các chức vụ đảng và nhà nước "do tình trạng sức khỏe".[6]. Phó chủ nhiệm phòng quan hệ với các đảng công nhân và cộng sản của các nước xã hội chủ nghĩa thuộc BCH TƯ Đảng cộng sản Liên Xô Nikolay Nikolayevich Mesyatsev nhớ lại:[7]
“ |
Hội nghị toàn thể không có âm mưu nào cả, mọi tiêu chuẩn điều lệ
đều được tuân theo. Hội nghị toàn thể đã bầu Khrushchyov làm Bí thư thứ
nhất. Và cũng chính Hội nghị toàn thể cho ông thôi chức này. Trong thời
gian hoạt động của mình Hội nghị toàn thể đã khuyến nghị Xô-viết Tối cao
chỉ định Khrushchyov làm Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng. Và vào tháng 10
năm 1964 cũng chính Hội nghị toàn thể đã đề nghị Xô-viết Tối cao cho ông
thôi chức vụ này. Ngay trước Hội nghị toàn thể, trong phiên họp của
Đoàn chủ tịch, Khrushchyov cũng đã thừa nhận rằng, ông không thể tiếp
tục lèo lái nhà nước và đảng được nữa. — Như vậy, các thành viên BCH TƯ
đã hành động không những hợp pháp, mà đây còn là lần đầu tiên trong lịch
sử xô-viết của đảng, bằng thuyết phục, họ đã dũng cảm đi tới thống nhất
cho thôi chức một lãnh tụ, người đã mắc nhiều sai lầm, và coi như nhà
lãnh đạo chính trị ngừng các nhiệm vụ tương ứng của mình. |
” |
Sau khi thôi chức, tên của Khrushchyov không hề "được nhắc tới" trong hơn 20 năm (cũng như tên của Stalin và nhất là tên của Malenkov); trong Đại bách khoa toàn thư Xô-viết chỉ có đôi dòng ngắn gọn nói về Khrushchyov như sau: Trong hoạt động của ông có các nhân tố của chủ nghĩa chủ quan và ý chí luận. Đã có tranh luận về hoạt động của Khrushchyov trong Cuộc cải tổ. Theo đó Khrushchyov nổi bật với vai trò "người tiên phong" của cuộc cải tổ, và người ta cũng đã xét đến vai trò cá nhân của Khrushchyov trong các vụ đàn áp, cũng như xét các mặt tiêu cực trong việc lãnh đạo của ông. «Hồi ký» của Khrushchyov mà ông viết nhờ tiền lương hưu đã được đăng ở các tạp chí xô-viết.
Trong lúc còn sống, tên của Khrushchyov đã được đặt cho thành phố của những người thợ xây dựng nhà máy thủy điện Kremenchuk (tỉnh Kirovograd, Ukraina) trong một thời gian ngắn. Thành phố này vào năm 1962 được đổi tên thành Kremges, khi Khrushchyov vẫn còn đương chức, sau đó vào năm 1969 tiếp tục được đổi tên thành Svetlovodsk.
Các cuộc cải cách của Khrushchyov
Các hoạt động chính trị chủ yếu
Những câu nói nổi tiếng
Phê bình
Giải thưởng
Hình ảnh Khrushchyov trong nghệ thuật
Điện ảnh
Nikita Sergeyevich Khrushchyovshchyov từng được đề cập trong bộ phim Enemy at the Gate, với vai trò là người chỉ huy quân đội trong trận Stalingrad!Âm nhạc
Tưởng niệm
Xem thêm
Chú thích
- ^ William Taubman (2004). Khrushchev: The Man and His Era. New York: W.W.Norton&Company. ISBN 0-393-32484-2.
- ^ tiếng Nga: Центра́льный Исполни́тельный Комите́т СССР, (ЦИК CCCР) dịch nghĩa: Ủy ban Chấp hành Trung ương Liên xô, là cơ quan cao nhất chính quyền quốc gia Liên bang Xô viết 1922—1938 giữa các kì Đại hội các Xô viết toàn Liên xô. Tất cả các Đại hội đều diễn ra ở Matxcova.
- ^ tiếng Nga: ВКП(б) = Всесоюзная коммунистическая партия (большевиков) = Đảng cộng sản toàn Liên xô (của những người bôn-sê-vic), tên chính thức của Đảng cộng sản Liên xô giai đoạn 1925—1952
- ^ Theo một số công bố, một mẫu thư ngắn của Khrushchyov gửi cho Stalin vào năm 1938 từ Kiev [1], [2], [3], [4]
có nội dung như sau: «Iosif Vissarionovich kính mến! Ucraina hàng tháng gửi 17-18 ngàn người bị trấn áp, còn Matxcova khẳng định không quá 2-3 ngàn người. Yêu cầu đồng chí thi hành các biện pháp. Người luôn yêu mến đồng chí, N.S. Khrushchyov».
Nghị quyết ngắn của Stalin trả lời bức thư này rất thú vị: «Im đi, thằng ngu!» [5] Tuy nhiên, không ai trong số các tác giả viết những bài báo này chỉ ra đường dẫn tới kho lưu trữ, trong đó giữ «bức thư ngắn của Khrushchyov» này. Phóng viên, sử gia Leonid Mikhailovich Mlechin vào ngày 20 tháng 9 năm 2009 trên sóng đài phát thanh «Tiếng vang Matxcova» đã kiên quyết bác bỏ huyền thoại này, cho rằng mẫu thư đó không thể nào tồn tại. Leonid Mlechin trước hết đã chỉ ra cách diễn đạt trong bức thư này hoàn toàn không thể có. - ^ РККА (tiếng Nga: Рабоче-Крестьянская Красная Армия = quân đội đỏ công nhân - nông dân = Hồng quân công nông)
- ^ “Проект решения ЦК КПСС об освобождении Хрущёва от должности”.
- ^ “Горизонты в лабиринте”. Советская Россия.
Liên kết ngoài
Wikimedia Commons có thêm thể loại hình ảnh và tài liệu về Nikita Sergeyevich Khrushchyov |
- Bảng niên biểu Krushchyov N.S (tiếng Nga)
- Nikita Sergeyevich Khrushchyov trên trang Peoples.ru
- Năm cuộc bầu cử của Nikita Sergeyevich Khrushchyov, G. Popov, N. Adzhubey, «Наука и жизнь» № 1, 2008
- Toàn văn báo cáo "Về tệ sùng bái cá nhân và hậu quả của nó".
- Dzhuzeppe Boffa, «От СССР к России. История неоконченного кризиса. 1964—1994» Глава I — «Брежнев, Косыгин и общество на распутье»
- ДЕСЯТИЛЕТИЕ Н. С. ХРУЩЁВА trên trang Thư viện khoa lịch sử Đại học Quốc gia Xanh Pê-tec-bua SPbGU
- Khrushchyov trên trang "Hợp tuyển tự xuất bản" («Антология самиздата»)
- Евгений Жирнов «Собрались и мажете говном»
- Hồi kí của con trai cựu Bí thư thứ nhất BCH TƯ Đảng cộng sản Liên Xô và Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô N.S. Khrushchyov
- Andrey Konchalovskiy. Đáng nhớ. Nikita Khrushchyov. (video on youtube)
- Người ta đặt tượng đài Khrushchyov ở Groznym
|
|
http://www.youtube.com/user/hoangkimvietnam
Trở về trang chính
Hoàng Kim, hoangkim, hoangkimvietnam, Ngọc Phương Nam, Chào ngày mới Thung dung, Dạy và học, Cây Lương thực, Tin Nông nghiệp Việt Nam, Food Crops, Cassava in Vietnam, Khát khao xanh, Dayvahoc, Học mỗi ngày, Danh nhân Việt , Food Crops News, Điểm chính, CNM365, Kim LinkedIn, KimTwitter, KimFaceBook Đọc lại và suy ngẫm, Việt Nam tổ quốc tôi, Tình yêu cuộc sống, Thơ cho con
No comments:
Post a Comment