CNM365 Chào ngày mới 23 tháng 2 Wikipedia Ngày này năm xưa Ngày Bảo vệ Tổ quốc tại Belarus, Kyrgyzstan, Nga, Ukraina. Năm 965 – Tại thủ đô Thành Đô, Hoàng đế Mạnh Sưởng của Hậu Thục chính thức đầu hàng quân nhà Tống, Hậu Thục diệt vong. Năm 1868 – Thống đốc Nam Kỳ Lagrandière làm lễ đặt viên đá đầu tiên khởi công xây dựng Dinh Thống đốc Nam Kỳ mới tại Sài Gòn. Năm 1918 – Biệt đội lớn đầu tiên của Hồng Quân Liên Xô xuất hiện ở Petrograd và Moskva và có trận đánh đầu tiên với quân đội Đức trên sông Neva. Năm 1946 – "Con hổ Mã Lai" Yamashita Tomoyuki (hình) của Lục quân Đế quốc Nhật Bản bị hành hình tại Philippines theo phán quyết của Tòa án vì các cáo buộc phạm tội ác chiến tranh. Năm 1947 – Tổ chức tiêu chuẩn hóa quốc tế được thành lập nhằm thúc đẩy các tiêu chuẩn về quyền sở hữu, công nghiệp và thương mại trên toàn thế giới.
Yamashita Tomoyuki
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Yamashita Tomoyuki | |
---|---|
Đại Tướng Yamashita Tomoyuki năm 1941 |
|
Tiểu sử | |
Biệt danh | Con hổ Mã Lai |
Sinh |
8 tháng 11, 1885 Kochi, Nhật Bản |
Mất |
23 tháng 2, 1946 (60 tuổi) Los Baños, Philippines |
Binh nghiệp | |
Phục vụ | Đế quốc Nhật Bản |
Thuộc | Lục quân Đế quốc Nhật Bản |
Năm tại ngũ | 1905 -1945 |
Cấp bậc | Đại Tướng |
Chỉ huy | Sư đoàn Bộ binh 4 Đế quốc Nhật Bản Tập đoàn quân 25 Đế quốc Nhật Bản Tập đoàn quân 1 Đế quốc Nhật Bản Tập đoàn quân vùng 14 |
Tham chiến | Chiến tranh Trung Nhật lần hai Chiến tranh thế giới thứ hai |
- Đây là một tên người Nhật; họ tên được viết theo thứ tự Á Đông (họ trước tên sau): họ là Yamashita. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp tên người Nhật hiện đại khi viết bằng ký tự La Tinh thường được viết theo thứ tự Tây phương (tên trước họ sau).
Mục lục
Thiếu thời
Yamashita là con trai của một bác sĩ địa phương tại làng Osugi, hiện tại là một phần của làng Ōtoyo, Kochi, Shikoku. Khi còn trẻ ông theo học trường quân sự dự bị.Bước đầu trên con đường binh nghiệp
Sau khi tốt nghiệp từ khóa 18 tại Trường Sĩ quan Lục quân (Đế quốc Nhật Bản) năm 1905, Yamashita gia nhập Lục quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1906 và chiến đấu chống lại đế quốc Đức tại Sơn Đông, Trung Quốc năm 1914. Sau đó, ông theo học khóa 28 tại Đại học Lục quân, tốt nghiệp hạng 6 trong lớp vào năm 1916. Ông kết hôn với Nagayama Hisako, con gái của vị Tướng về hưu Nagayama vào năm 1916. Yamashita trở thành một chuyên gia về Đức và làm việc như là một tùy viên quân sự tại Bern, Thụy Sĩ và Berlin, Đức trong khoảng thời gian 1919-1922.Trong chuyến đi trở về Nhật Bản vào năm 1922, Yamashita phục vụ trong Đại bản doanh Quân đội Đế quốc Nhật Bản và Ban giảng viên của trường Đại học. Trong khi làm việc tại Hội đồng Tướng quân Lục Quân Đế quốc Nhật Bản, Yamashita không thành công trong việc đệ trình một kế hoạch giảm quân. Bất chấp khả năng hoàn thành của ông, Yamashita ít được trọng dùng vì mối liên hệ chính trị của ông với các phe nhóm đối lập trong quân đội Nhật Bản. Là người chỉ huy nhóm "Đường lối Đế quốc" ông trở thành đối thủ với Tōjō Hideki và các thành viên của "Phe quyền lực".
Năm 1928, Yamashita được bổ nhiệm làm việc ở Viên, Áo với trách nhiệm là tùy viên quân sự. Năm 1930, Đại tá Yamashita được bổ nhiệm làm chỉ huy Trung đoàn Bộ binh số 3 một trong những trung đoàn thiện chiến của quân đội Nhật Bản.
Sau Biến cố 26 tháng 2 năm 1936, ông bị Thiên hoàng Chiêu Hòa thất sủng vì lời thỉnh cầu của ông nhằm giảm nhẹ hình phạt cho nhóm sĩ quan nổi loạn liên quan đến nỗ lực đảo chính.
Những năm đầu chiến tranh
Yamashita nhấn mạnh rằng người Nhật nên chấm dứt cuộc xung đột với Trung Quốc, đồng thời giữ mối quan hệ hòa bình với Hoa Kỳ và Vương quốc Anh, nhưng tiếng nói của ông bị phớt lờ và sau cùng ông được bổ nhiệm vào một vị trí quan trọng trong Đạo quân Quan Đông. Từ năm 1938 đến 1940, ông được bổ nhiệm làm chỉ huy Sư đoàn 4 đơn vị đóng ở miền bắc Trung Quốc và làm nhiệm vụ đàn áp các các cuộc nổi dậy của người Trung Quốc chống lại quân Nhật chiếm đóng.Vào tháng 12, 1940, Yamashita được bổ nhiệm trong một phi vụ quân sự bí mật đến nước Đức và Ý, nơi ông gặp gỡ Adolf Hitler và Benito Mussolini.
Mã Lai và Singapore
Trong chiến dịch và sau cùng là sự kiện Quân Nhật chiếm đóng Singapore, các tội ác chiến tranh mà quân Nhật nhằm vào thường dân và quân Đồng Minh, như tại bệnh viện Alexandra và thảm sát Túc Thanh. Vai trò Yamashita trong những sự kiện này vẫn còng là một vấn đề gây tranh cãi khi một số người cho rằng ông đã thất bại trong việc ngăn chặn các sự kiện này xảy ra. Tuy nhiên, chính viên sĩ quan dưới quyền Yamashita đã xúi giục hành động thảm sát tại bệnh viện và một số binh lính bị phát hiện có hành vi cướp bóc đã bị xử tử, và ông cũng đã đưa ra lời xin lỗi cá nhân đối với những nạn nhân của cuộc thảm sát.[1]
Mãn Châu
Ngày 17 tháng 7, 1942, Yamashita lại được tái bổ nhiệm rời khỏi Singapore để tới Mãn Châu quốc, và chỉ huy Đệ nhất Tập đoàn quân Nhật Bản, vốn không tham gia trong phần lớn thời gian của Chiến tranh Thái Bình Dương.Người ta cho rằng đây là hành động trục xuất Thủ tướng Hideki Tōjō nhằm vào ông, do sai lầm của Yamashita trong một bài diễn văn phát biểu trước các lãnh đạo dân sự của Singapore vào đầu năm 1942, khi ông ám chỉ những người dân Singapore như là những công dân thuộc Đế quốc Nhật Bản. Điều này đã gây bối rối cho chính phủ Nhật Bản, vốn không xem những người dân ở các lãnh thổ chiếm đóng có được những quyền hay đặc ân như những cư dân của chính quốc.
Philippines
Dưới quyền của Yamashita có khoảng 262.000 lính được chia làm 3 nhóm phòng thủ chính. Ông cố gắng củng cố lại tập đoàn quân của mình nhưng phải rút lui khỏi Manila và hành quân đến vùng núi phía bắc Luzon. Yamashita đã yêu cầu tất cả những người lính của mình, trừ những người có nhiệm vụ đảm bảo an ninh, rút khỏi thành phố.
Gần như ngay lập tức, Chuẩn Đô Đốc Sanji Iwabuchi tiến vào Manila với một lực lượng gồm 16.000 thủy thủ, và dự định phá hủy tất cả các cơ sở và nhà kho của hải quân. Sau đó, Iwabuchi nắm lấy quyền chỉ huy 3.750 lính Lục quân có nhiệm vụ bảo vệ an ninh, và chống lại mệnh lệnh của Yamashita, biến thành phố trở thành chiến trường.[2] Những hoạt động của quân du kích Nhật tại đây đã gây ra cái chết của hơn 100.000 người Philippines, mà sau này được biết đến với cái tên sự kiện thảm sát Manila, trong lúc các trận chiến đấu đường phố diễn ra ác liệt từ ngày 4 tháng 2 đến 3 tháng 3.
Yamashita sử dụng chiến thuật trì hoãn để duy trì lực lượng của ông tại Kiangan (một phần của tỉnh Ifugao), cho đến ngày 2 tháng 9, 1945, sau sự kiện Nhật Bản đầu hàng và lúc này lực lượng của ông đã giảm khoảng 50.000 người do chiến dịch ác liệt do sự phối hợp giữa quân Mỹ và du kích Philippines. Yamashita đầu hàng dưới sự chứng kiến của Tướng Jonathan Wainwright và Arthur Percival, cả hai đều từng là tù nhân chiến tranh ở Mãn Châu. Và trớ trêu thay, chính Percival đã phải đầu hàng Yamashita sau trận Singapore. Tuy nhiên trong lần đầu hàng này, Percival từ chối bắt tay Yamashita, vì vị tướng người Anh đang giận dữ vì chính sách hủy diệt được cho là Yamashita áp dụng chống lại tù nhân Đồng Minh, sau đó Yamashita khóc rất nhiều. Mặc dù Yamashita có lẽ đã muốn tự tử theo truyền thống võ sĩ đạo trước sự kiện đầu hàng này, giải thích cho lý do không tự tử ông đã nói nếu ông chết thì "một người nào khác sẽ phải chịu trách nhiệm." [3]
Đưa ra xét xử
Từ ngày 29 tháng 10 đến 7 tháng 12, 1945, một tòa án quân sự được mở tại Manila xét xử Tướng Yamashita vì những cáo buộc vi phạm tội ác chiến tranh liên quan đến thảm sát Manila và nhiều hành động vô nhân đạo ở Philippines và Singapore chống lại dân thường và tù nhân chiến tranh, như tại Túc Thanh, sau cùng ông đã lãnh án tử hình.[cần dẫn nguồn] Đây là trường hợp đầu tiên được xét xử liên quan đến trách nhiệm chỉ huy trong các tội ác chiến tranh và được biết đến như là tiêu chuẩn Yamashita.Cáo buộc
Cáo buộc chính chống lại Yamashita là ông đã không làm tròn trách nhiệm chỉ huy lực lượng Nhật ở Philippines trong việc ngăn chặn những hành động thảm sát. Tuy nhiên hành động chống lại dân thường gây ra bởi lực lượng phòng thủ gây ra khi mà các phương tiện liên lạc giữa họ và vị tướng đã bị cắt đứt và các chỉ huy cấp dưới thì vẫn phải đối phó với chiến dịch Philippines lần hai, tất cả khiến cho Yamashita không thể ngăn chặn được những hành động này ngay cả khi ông biết trước được chúng, nhưng điều này không đúng trong tất cả các trường hợp. Hơn nữa, nhiều tội ác đã bị lực lượng hải quân phạm phải và lực lượng này không nằm dưới quyền chỉ huy của ông.Bào chữa
Trong phiên tòa, luật sư bào chữa đã thách thức Tướng Douglas MacArthur, vốn bị ấn tượng sâu sắc bởi Yamashita với những chiến công của ông trong chiến tranh, và yêu cầu MacArthur tái khẳng định sự kính trọng của ông đối với kẻ thù cũ của mình. Luật sư người Mỹ Harry E. Clarke, Sr., sau là một Đại tá trong quân đội Mỹ, làm nhiệm vụ trưởng ban bào chữa. Trong một phát biểu mở, Clarke đã khẳng định:“ | Bị cáo không bị cáo buộc vì đã làm gì hay đã không làm được gì, nhưng duy nhất bị cáo buộc vì đã có những gì….Nền Pháp lý học Hoa Kỳ công nhận những nguyên tắc pháp lý không được áp dụng đối với các nhân viên quân sự của họ….Không một ai có thể dù chỉ là đề nghị rằng vị tướng chỉ huy lực lượng chiếm đóng Hoa Kỳ là có tội mỗi khi một người lính Mỹ vi phạm luật lệ và sẽ không ai bị bắt giữ để trả lời cho tội ác của một người khác. | ” |
Hơn nữa chứng cứ về việc Yamashita không có trách nhiệm chỉ huy tối cao đối với tất cả lực lượng Nhật ở Philippines (chẳng hạn như đối với các đơn vị thuộc Hải quân Đế quốc Nhật Bản trong trận Manila) không được chấp nhận tại tòa.[5]
Phán quyết và tuyên án
Tòa án đã phán quyết Yamashita có tội như cáo buộc và bị tuyên án tử hình. Clarke cũng kêu gọi sự tuyên án đối với tướng MacArthur, người lập ra tòa án. Sai đó, ông đã kháng án lên Tòa án Tối cao Philippines và Tòa án Tối cao Hoa Kỳ, nhưng cả hai đề từ chối xem xét lại phán quyết. Sau đó, Yamashita đã bị xử tử vào ngày 23 tháng 2, 1946.Chỉ trích
Tòa án cũng không nằm ngoài sự chỉ trích. Ủy ban gồm năm nhân viên thiếu những kinh nghiệm chiến tranh và không được đào tạo về luật một cách chính thức. Thêm vào đó, nhiều người Philippines đang tập trung chú ý và mong chờ Yamashita phải trả giá cho sự chịu đựng của họ trong thời gian quân Nhật chiếm đóng, khiến cho bầu không khí căng thẳng của tòa án càng thêm ngột ngạt và làm cho thẩm phán khó có thể phán quyết một cách khách quan. Tòa án đã sử dụng cả những chứng cứ là tin đồn, từ các nhân chứng không được nêu tên, và nhiều loại chứng cứ khác mà bên bị đơn không thể bác bỏ.[6] Ủy ban bào chữa phàn nàn rằng họ được cho quá ít thời gian để chuẩn bị cho viện biện hộ. Nguyên nhân là vì Yamashita là vị Tướng Nhật Bản nổi tiếng đầu tiên bị quân Đồng Minh đưa ra xét xử vì tội ác chiến tranh, MacArthur muốn phiên tòa diễn ra nhanh chóng và cáo buộc có tội phải được thành lập để tạo một tiền lệ cho những phiên tòa tiếp theo tại Tokyo và các nơi khác ở Viễn Đông.[cần dẫn nguồn]Trong một thông cáo phản đối từ số đông những người thuộc Tòa án Tối cao Hoa Kỳ, Thẩm phán W.B. Rutledge viết:[6]
“ | Sự đặt cược thành công của phiên tòa đã quan trọng hơn cả số phận của Tướng Yamashita. Đã không thể có sự thông cảm khả dĩ nào được dành cho ông nếu ông bị kết luận là có tội vì những hành động tàn sát mà dựa vào đó người ta đã phán quyết cái chết của vị tướng. Nhưng công lý vẫn có thể và nên được thực hiện theo luật pháp... Đã không quá sớm, và không bao giờ là quá sớm, cho một quốc gia đã kiên định tuân theo truyền thống hiến pháp của nó, không lâu đời hơn hay được bảo vệ bất cứ thời điểm nào chống lại sức mạnh không bị kiểm soát hơn là tiến trình của luật pháp và hình phạt đối với con người, cũng như tất cả nhân loại không phân biệt dân thường, kẻ thù và các bên tham chiến. | ” |
Hành hình
Theo phán quyết của Tòa án Tối cao, yêu cầu kháng án được gửi lên Tổng thống Hoa Kỳ Harry S. Truman; Truman, tuy nhiên, ông từ chối can thiệp và để cho vấn đề nằm hoàn toàn dưới sự quyết định của cơ quan quân sự. Theo thủ tục, Tướng MacArthur đọc phán quyết của tòa án.Ngày 23 tháng 2, 1946, tại nhà tù Los Baños, khoảng 30 dặm về phía nam thành phố Manila, Tomoyuki Yamashita đã bị treo cổ. Sau khi bước được 13 bậc lên cầu thang dẫn tới giá treo cổ, ông đã hỏi liệu ông có thể nói lời cuối cùng. Và Yamashita đã nói với người phiên dịch:
“ | Như tôi đã nói tại Tòa án Tối cao Manila rằng tôi đã làm với tất cả khả năng của tôi, vì thế tôi không hổ thẹn trước chúa về những việc tôi đã làm cho tới lúc tôi chết. Nhưng nếu bạn nói với tôi rằng 'ngươi không có đủ khả năng chỉ huy Lục quân Nhật Bản' Tôi sẽ không đáp lại, vì rằng đó là bản chất của tôi. Hiện tại, các phiên tòa xét xử tội ác chiến tranh của chúng ta đang vẫn tiếp tục ở Tòa án Tối cao Manila, cho nên tôi ước được tự bào chữa dưới dưới sự tử tế và đúng đắn của các bạn. Tôi biết rằng tất cả người Mỹ và cơ quan quân sự Mỹ luôn luôn có những phán xét đúng đắn và khoan dung. Khi tôi bị điều tra ở tòa án Manila, tôi đã được đối xử với một thái độ tử tế, xuất phát từ bản chất tốt đẹp của những người sĩ quan đã bảo vệ tôi suốt thời gian tôi bị giam giữ. Tôi không bao giờ quên những việc mà họ đã làm cho tôi ngay cả khi tôi chết. Đừng xúc phạm người hành hình tôi. Tôi sẽ cầu nguyện cho chúa ban phước họ. Xin làm ơn hãy gửi lời cảm ơn của tôi đến Đại tá Clarke và Trung tá Feldhaus, Trung tá Hendrix, Maj. Guy, Đại úy. Sandburg, Đại úy. Reel, ở tòa án Manila và Đại tá Col. Arnard. Tôi cảm ơn. | ” |
Xem thêm
Tham khảo
- ^ Alexandra Hospital
- ^ John Toland, The Rising Sun: The Decline and Fall of the Japanese Empire 1936-1945, Random House, 1970, p. 677
- ^ General Tomoyuki Yamashita, page 3, Nat Helms, originally in World War II Magazine, February 1996, verified 2006-09-16
- ^ 327 U.S. 1 “Full text of the opinion on Findlaw.com”].
- ^ Barber, The Yamashita Trial Revisited
- ^ a b Mahler, Jonathan. The Challenge: Hamdan v. Rumsfeld and the Fight Over Presidential Power (2008). New York: Farrar, Straus and Giroux, p. 291
Nguồn
- CASE NO. 21; TRIAL OF GENERAL TOMOYUKI YAMASHITA; UNITED STATES MILITARY COMMISSION, MANILA, (8TH OCTOBER-7TH DECEMBER, 1945), AND THE SUPREME COURT OF THE UNITED STATES (JUDGMENTS DELIVERED ON 4TH FEBRUARY, 1946). Source: Law Reports of Trials of War Criminals. Selected and Prepared by the United Nations War Crimes Commission. Volume IV. London: HMSO, 1948. Document compiled by Dr S D Stein, Faculty of Humanities, Languages and Social Sciences University of the West of England
- Aubrey Saint Kenworthy, The Tiger of Malaya: The story of General Tomoyuki Yamashita and "Death March" General Masaharu Homma, Exposition Press, 1951
- Reel, A. Frank. The Case of General Yamashita. The University of Chicago Press, 1949.
- Taylor, Lawrence. A Trial of Generals. Icarus Press, Inc, 1981.
- Yoji, Akashi. 'General Yamashita Tomoyuki: Commander of the 25th Army', in Sixty Years On:The Fall of Singapore Revisited. Eastern Universities Press, 2002.
Liên kết ngoài
Wikiquote có sưu tập danh ngôn về: |
Wikimedia Commons có thêm thể loại hình ảnh và tài liệu về Yamashita Tomoyuki |
- The Defense of General Yamashita by George F. Guy, one of the defenders of General Yamashita
- WW2DB: Tomoyuki Yamashita with a private collection of photographs of Yamashita
- Last Words of the Tiger of Malaya, General Yamashita Tomoyuki by Yuki Tanaka, research professor at the Hiroshima Peace Institute (Tanaka's commentary is followed by the full text of Yamashita's statement).
- Laurie Barber The Yamashita War Crimes Trial Revisited from Issue 2, Volume 1, September 1998 The Electronic Journal of Military History within the History Department at the University of Waikato, Hamilton, New Zealand
Wikimedia Commons có thêm thể loại hình ảnh và tài liệu về Yamashita Tomoyuki |
Thể loại:
Philippines (phiên âm tiếng Việt: Phi-líp-pin[3], Hán Việt: Phi Luật Tân), tên chính thức là Cộng hòa Philippines, là một đảo quốc có chủ quyền tại Đông Nam Á. Philippines cách Đài Loan qua eo biển Luzon ở phía bắc; cách Việt Nam qua biển Đông ở phía tây, cách đảo Borneo qua biển Sulu ở phía tây nam, và các các đảo khác của Indonesia qua biển Celebes ở phía nam; phía đông quốc gia là biển Philippines và đảo quốc Palau. Philippines nằm trên Vành đai lửa Thái Bình Dương
và nằm gần xích đạo, do vậy quốc gia hay chịu ảnh hưởng từ các trận
động đất và bão nhiệt đới, song lại có nguồn tài nguyên thiên nhiên
phong phú và đa dạng sinh học ở mức độ cao. Philippines có diện tích
300.000 kilômetre vuông (115.831 sq mi), là quốc gia rộng lớn thứ 64
trên thế giới,[4] bao gồm 7.107 hòn đảo được phân loại phổ biến thành ba vùng địa lý lớn: Luzon, Visayas, và Mindanao. Thủ đô của Philippines là Manila, còn thành phố đông dân nhất là Quezon; cả hai thành phố đều thuộc Vùng đô thị Manila.
Với dân số ít nhất là 99 triệu,[5] Philippines là quốc gia đông dân thứ bảy tại châu Á và đứng thứ 12 trên thế giới. Ngoài ra, có 12 triệu người Philippines sống tại hải ngoại, họ tạo thành một trong những cộng đồng tha hương lớn nhất và có ảnh hưởng nhất thế giới.[6] Philippines có sự đa dạng về dân tộc và văn hóa. Vào thời tiền sử, người Negrito nằm trong số các cư dân đầu tiên của quần đảo, tiếp theo là các làn sóng nhập cư của người Nam Đảo. Sau đó, nhiều quốc gia khác nhau được thành lập trên quần đảo, nằm dưới quyền cai trị của những quân chủ mang tước vị Datu, Rajah, Sultan hay Lakan. Thương mại với Trung Quốc cũng khiến cho văn minh Trung Quốc truyền đến Philippines, cũng như xuất hiện các khu định cư của người Hán.
Ferdinand Magellan đến Philippines vào năm 1521, sự kiện này đánh dấu kỉ nguyên người Tây Ban Nha quan tâm và cuối cùng là thuộc địa hóa quần đảo. Năm 1543, nhà thám hiểm người Tây Ban Nha Ruy López de Villalobos đặt tên cho quần đảo là Las Islas Filipinas để vinh danh Quốc vương Felipe II của Tây Ban Nha. Miguel López de Legazpi đến quần đảo từ Tân Tây Ban Nha (Mexico ngày nay) vào năm 1565, ông thành lập nên khu định cư đầu tiên của người Tây Ban Nha tại quần đảo, và quần đảo trở thành thuộc địa của Tây Ban Nha trong hơn 300 năm sau đó. Thời kỳ thuộc địa khiến cho Công giáo La Mã chiếm ưu thế tại Philippines; Philippines và Đông Timor là hai quốc gia châu Á duy nhất mà tôn giáo này chiếm ưu thế. Trong thời gian này, Manila trở thành đầu mối châu Á của tuyến đường thương mại thuyền buồm Manila–Acapulco.
Vào thời gian chuyển giao giữa thế kỷ 19 và thế kỷ 20, liên tiếp diễn ra cách mạng Philippines; chiến tranh Tây Ban Nha-Mỹ; và Chiến tranh Philippines–Mỹ. Kết quả là Hoa Kỳ trở thành thế lực thống trị quần đảo, song bị gián đoạn khi Nhật Bản chiếm đóng. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai,[7] Hiệp ước Manila công nhận Cộng hòa Philippines là một quốc gia độc lập.[8] Kể từ đó, Philippines trải qua các biến động với nền dân chủ, nổi bật là phong trào "quyền lực nhân dân" lật đổ chế độ độc tài của Ferdinand Marcos. Philippines hiện là một trong những nền kinh tế tăng trưởng nhanh nhất tại châu Á, việc có quy mô dân số lớn và tiềm năng về kinh tế khiến Philippines được phân loại là một cường quốc bậc trung.[9]
Những năm 1300 báo trước sự xuất hiện và cuối cùng là truyền bá Hồi giáo tại quần đảo Philippines. Năm 1380, Karim ul' Makdum và Shari'ful Hashem Syed Abu Bakr đi từ Malacca đến Sulu là lập nên Vương quốc Hồi giáo Sulu bắt cách cải đạo rajah của Sulu và kết hôn với con gái của rajah.[22][23] Đến cuối thế kỷ 15, Shariff Mohammed Kabungsuwan của Johor đưa Hồi giáo đến đảo Mindanao. Sau đó, ông ta kết hôn với Paramisuli, một công chúa người Iranun, và lập nên Vương quốc Hồi giáo Maguindanao. Các vương quốc hồi giáo mở rộng đến Lanao.[24] Cuối cùng, Hồi giáo vượt khỏi phạm vi của đảo Mindanao và lan đến phía nam đảo Luzon. Thậm chí Manila cũng bị Hồi giáo hóa trong thời gian trị vì của Sultan Bolkiah từ năm 1485 đến năm 1521, khi đó Vương quốc Hồi giáo Brunei chinh phục Vương quốc Tondo bằng cách cải đạo Rajah Salalila sang Hồi giáo.[25][26][27][28] Tuy nhiên, các quốc gia như Igorot theo thuyết vật linh, Madja-as Mã Lai, Ma Dật Hán hóa, Lequios Do Thái và Butuan Ấn Độ hóa vẫn duy trì văn hóa của mình. Trong một số vương quốc xuất hiện việc chống Hồi giáo gay gắt. Sự kình địch giữa các datu, raja, vương, sultans, và lakan và giữa các quốc gia của họ khiến cho người Tây Ban Nha dễ dàng thuộc địa hóa quần đảo. Các quốc gia này được hợp nhất vào Đế quốc Tây Ban Nha, và bị Tây Ban Nha hóa và Thiên Chúa giáo hóa.[29]
Sự thống trị của người Tây Ban Nha đóng góp đáng kể vào việc thống nhất chính trị tại quần đảo. Từ năm 1565 đến năm 1821, Philippines được quản lý với địa vị là một lãnh thổ của Phó vương quốc Tân Tây Ban Nha và sau Chiến tranh độc lập Mexico thì được quản lý trực tiếp từ Madrid. Thuyền buồm Manila cùng hạm đội hải quân lớn của nó kết nối Manila với Acapulco, qua lại một hoặc hai lần mỗi năm từ thế kỷ 16 đến thế kỷ 19. Hoạt động mậu dịch đưa đến Philippines các loại lương thực có xuất xứ từ châu Mỹ như ngô, cà chua, khoai tây, ớt.[32] Các nhà truyền giáo của Công giáo La Mã cải đạo hết hết các cư dân vùng thấp sang Thiên Chúa giáo và lập nên các trường học, một đại học, và các bệnh viện. Một sắc lệnh của Tây Ban Nha quyết định tiến hành giáo dục công miễn phí vào năm 1863, song các nỗ lực nhằm thực hiện giáo dục đại chúng chủ yếu được thực hiện dưới thời Mỹ thuộc.[33]
Trong thời kỳ cai trị Philippines, người Tây Ban Nha phải chiến đấu chống lại các cuộc nổi dậy của người bản địa và một vài thách thức đến từ hải tặc Trung Quốc, người Hà Lan, và người Bồ Đào Nha. Trong khuôn khổ Chiến tranh Bảy năm, quân đội Anh chiếm Manila từ năm 1762 đến năm 1764. Quyền cai trị của người Tây Ban Nha được khôi phục sau Hiệp định Paris 1763.[29][34][35] Đến thế kỷ 19, các cảng của Philippines mở cửa cho mậu dịch toàn cầu và xã hội thuộc địa bắt đầu xuất hiện các thay đổi. Nhiều người Tây Ban Nha sinh ra tại Philippines (criollos) và những người hỗn chủng (mestizos) trở nên thịnh vượng, nhiều người nắm giữ các chức vụ trong chính quyền vốn có truyền thống do những người Tây Ban Nha sinh tại bán đảo Iberia nắm giữ. Những tư tưởng cách mạng cũng bắt đầu được truyền bá trên khắp quần đảo. Việc người Criollo bất mãn dẫn đến Binh biến Cavite vào năm 1872, được xem là điềm báo trước cho Cách mạng Philippines.[29][36][37][38]
Tình cảm cách mạng bùng lên vào năm 1872 sau khi ba linh mục là Mariano Gómez, José Burgos, và Jacinto Zamora (gọi chung là Gomburza) bị nhà cầm quyền thuộc địa buộc tội xúi giục nổi loạn và hành quyết.[36][37] Sự việc này truyền cảm hứng cho một phong trào tuyên truyền tại Tây Ban Nha do Marcelo H. del Pilar, José Rizal, và Mariano Ponce tổ chức, nhằm vận động hành lang cho các cải cách chính trị tại Philippines. Rizal cuối cùng bị hành quyết vào ngày 30 tháng 12 năm 1896 với tội danh nổi loạn.[39] Do các nỗ lực nhằm cải cách gặp phải cản trở, Andrés Bonifacio vào năm 1892 thành lập một đoàn thể bí mật gọi là Katipunan nhằm giành độc lập từ Tây Ban Nha thông qua hoạt động vũ trang.[38] Bonifacio cùng Katipunan bắt đầu cuộc Cách mạng Philippines vào năm 1896. Magdalo là một phái của Katipunan tại tỉnh Cavite, cuối cùng họ thách thức vị trí lãnh đạo của Bonifacio và người này bị Emilio Aguinaldo thay thế. Năm 1898, Chiến tranh Tây Ban Nha-Mỹ bắt đầu từ Cuba và lan đến Philippines. Aguinaldo tuyên bố Philippines độc lập từ Tây Ban Nha tại Kawit, Cavite vào ngày 12 tháng 6 năm 1898, và Đệ nhất Cộng hòa Philippines được thành lập tại Nhà thờ Barasoain vào năm sau.
Năm 1935, Philippines có được địa vị thịnh vượng chung với tổng thống là Manuel Quezon. Ông chỉ định một ngôn ngữ quốc gia và cho phép phụ nữ bầu cử, tiến hành cải cách đất đai.[39][48] Các kế hoạch để tiến đến độc lập trong thập niên sau đó bị gián đoạn trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Trong cuộc chiến này, Đế quốc Nhật Bản xâm chiếm quần đảo, Đệ nhị Cộng hòa Philippines được thành lập với José P. Laurel là tổng thống, đây là một chính thể cộng tác với Nhật Bản. Nhiều hành động tàn bạo và tội ác chiến tranh diễn ra trong cuộc chiến, chẳng hạn như Cuộc hành quân chết chóc Bataan và Thảm sát Manila.[49] Năm 1944, Quezon qua đời trong khi lưu vong tại Hoa Kỳ, Sergio Osmeña kế nhiệm. Lực lượng Đồng Minh đánh bại Nhật Bản vào năm 1945. Đến khi kết thúc chiến tranh, người ta ước tính có hơn một triệu người Philippines thiệt mạng.[50]
Năm 1965, quyền lực vào tay tổng thống dân cử Ferdinand Marcos. Vào đầu nhiệm kỳ tổng thống của mình, Marcos khởi xướng nhiều dự án công cộng song bị cáo buộc tham nhũng nghiêm trọng, chẳng hạn như biển thủ hàng tỉ đô la tiền công quỹ.[61] Xã hội Philippines rất hỗn loạn vào giữa nhiệm kỳ của ông, và đến gần cuối nhiệm kỳ, Marcos tuyên bố thiết quân luật vào ngày 21 tháng 9 năm 1972. Giai đoạn Marcos cầm quyền có đặc điểm là đàn áp chính trị, độc tài, và vi phạm nhân quyền.[62] Ngày 21 tháng 8 năm 1983, kình địch chính của Marcos là lãnh tụ đối lập Benigno Aquino, Jr. bị ám sát tại Sân bay quốc tế Manila. Marcos cuối cùng kêu gọi bầu cử tổng thống sớm, tranh cử cùng góa phụ của Benigno Aquino là Corazon Aquino.[63] Marcos được tuyên bố thắng cử, song kết quả bị cho là gian lận, dẫn đến Cách mạng Quyền lực nhân dân. Marcos và các đồng minh cảu ông chạy sang Hawaii và Aquino được công nhận là tổng thống.[63][64]
Năm 2001, bị buộc tội tham nhũng, trong khi một quá trình luận tội bị đình trệ, Tổng thống Joseph Estrada bị phế truất trong Cách mạng EDSA 2001, người thay thế là Gloria Macapagal-Arroyo.[70] Chín năm cầm quyền của bà gắn liền với các vụ bê bối tham nhũng và chính trị, mặc dù nền kinh tế vẫn tăng trưởng ổn định và tránh được Đại suy thoái.[71][72][73][74] Năm 2010, Benigno Aquino III đắc cử tổng thống. Trong nhiệm kỳ của ông, thỏa thuận hòa bình với phe Moro được ký kết, song các tranh chấp lãnh thổ tại Bắc Borneo và biển Đông thì leo thang.[75][76][77][78]
Tổng thống đóng vai trò là nguyên thủ quốc gia và nguyên thủ chính phủ, cũng như là tổng thư lệnh các lực lượng vũ trang. Tổng thống được bầu theo hình thức phổ thông đầu phiếu với nhiệm kỳ sáu năm, trong thời gian đó tổng thống sẽ bổ nhiệm và điều khiển nội các.[82] Lưỡng viện quốc hội Philippines gồm có Thượng viện và Hạ viện, các thượng nghị sĩ được dân bầu và có nhiệm kỳ sáu năm.[82] Quyền tư pháp được trao cho Tối cao pháp viện, bao gồm một Chánh án tối cao và 14 thẩm phán, họ đều do Tổng thống bổ nhiệm từ danh sách do Hội đồng Tư pháp và Luật sư đệ trình.[82]
Tại Khu tự trị Hồi giáo Mindanao, tổ chức ly khai lớn nhất là Mặt trận Giải phóng Dân tộc Moro nay cũng tham gia vào chính phủ về mặt chính trị. Các nhóm quân sự khác như Mặt trận Giải phóng Hồi giáo Moro, Quân đội Nhân dân mới theo cộng sản chủ nghĩa, và Abu Sayyaf vẫn hoạt động tại các tỉnh, song sự hiện diện của họ suy giảm trong những năm gần đây do thành công của chính phủ trung ương về mặt an ninh.[83][84]
Philippines là đồng minh của Hoa Kỳ kể từ Chiến tranh thế giới thứ hai. Hiệp định phòng thủ chung giữa hai quốc gia được ký kết vào năm 1951. Philippines ủng hộ các chính sách của Hoa Kỳ trong Chiến tranh Lạnh và tham gia vào Chiến tranh Triều Tiên và Chiến tranh Việt Nam. Philippines là thành viên của Tổ chức Hiệp ước Đông Nam Á (SEATO) tồn tại cho đến năm 1977.[85] After the start of the War on Terror, the Philippines was part of the coalition that gave support to the United States in Iraq.[86] Hoa Kỳ xác định Philippines là một đồng minh lớn phi NATO. Philippines đang tiến hành các nỗ lực để chấm dứt nội loạn với sợ giúp đỡ của Hoa Kỳ.
Ba miền lại được chia thành 17 vùng. Việc phân chia thành các vùng nhằm mục đích tạo thuận lợi cho công tác quy hoạch lãnh thổ của chính quyền trung ương. Tuy nhiên, vùng không phải là một cấp hành chính mặc dù mỗi vùng đều có các văn phòng của các bộ ngành của trung ương. Các vùng không có chính quyền địa phương, trừ vùng thủ đô Manila vì tự Manila là một vùng và Khu tự trị Hồi giáo Mindanao.
Cấp hành chính địa phương chính thức của Philippines là tỉnh gồm 81 đơn vị. Vùng thủ đô Manila là một đơn vị hành chính đặc biệt và là một trong 17 vùng của Philippines.
Các tỉnh lại bị chia tách tiếp thành các thành phố và các khu tự quản. Tuy cùng là cấp hành chính địa phương thứ hai, nhưng thành phố có nhiều chức năng hành chính hơn so với khu tự quản, và cũng được cấp ngân sách nhiều hơn.
Thành phố và khu tự quản được chia thành các barangay. Đây là cấp hành chính địa phương thấp nhất ở Philiipines.
Rừng mưa nhiệt đới bao phủ hầu hết các hòn đảo vốn có địa hình núi non, các hòn đảo này có nguồn gốc núi lửa. Núi cao nhất quần đảo là núi Apo ở Mindanao với cao độ 2.954 mét (9.692 ft) trên mực nước biển. Sông dài nhất quốc gia là sông Cagayan tại bắc bộ Luzon. Thủ đô Manila nằm bên bờ vịnh Vịnh Manila, vịnh này nối với hồ lớn nhất Philippines là Laguna de Bay qua sông Pasig. Các vịnh quan trọng khác là vịnh Subic, vịnh Davao, và vịnh Moro. Eo biển San Juanico chia tách hai đảo Samar và Leyte song chính phủ đã cho xây cầu San Juanico. qua eo biển này[90]
Philippines nằm trên rìa tây của Vành đai lửa Thái Bình Dương, do vậy quốc gia thường xuyên chịu ảnh hưởng từ hoạt động địa chấn và núi lửa. Cao nguyên Benham dưới đáy biển Philippine hoạt động trong hút chìm kiến tạo.[91] Khoảng 20 được ghi nhận mỗi ngày, song hầu hết chúng quá yếu để con người cảm nhận được. Trận động đất lớn nhất gần đây là động đất Luzon 1990.[92] Có nhiều núi lửa hoạt động tại quần đảo, chẳng hạn như núi lửa Mayon, núi Pinatubo, hay núi lửa Taal. Vụ phun trào của núi Pinatubo vào tháng 6 năm 1991 là vụ phun trào trên mặt đất lớn thứ nhì trong thế kỷ 20.[93] Nhiễu loạn về địa chất hình thành nên sông ngầm Puerto Princesa trên đảo Pallawan, nơi đây tiêu biểu cho môi trường sống đa dạng sinh học, với các hệ sinh tháo từ núi xuống biển và có một trong số những khu rừng quan trọng nhất tại châu Á.[94]
Các hòn đảo của quần đảo có sự phong phú về khoáng sản do chúng có nguồn gốc núi lửa. Quốc gia được ước tính có tài nguyên vàng lớn thứ nhì trên thế giới sau Nam Phi và là một trong những nơi có tài nguyên đồng lớn nhất thế giới.[95] Quốc gia cũng giàu có về các tài nguyên như niken, crôm, và thiếc. Tuy vậy, do quản lý yếu kém và mật độ dân số cao, cùng với ý thức về môi trường nên các tài nguyên này phần lớn vẫn chưa được khai thác.[95] Một sản phẩm khác của hoạt động núi lửa là địa nhiệt năng lại được khai thác thành công hơn, Philippines là nhà sản xuất địa nhiệt năng lớn thứ hai thế giới sau Hoa Kỳ, đáp ứng 18% nhu cầu điện năng trong nước.[96]
Philippines thiếu các loài săn mồi lớn, ngoại lệ là các loài rắn như trăn và rắn hổ mang, cá sấu cửa sông và chim săn mồi, chẳng hạn như quốc điểu là đại bàng Philippines, loài này được các nhà khoa học cho là đại bàng lớn nhất thế giới.[103][104] Lãnh hải của Philippines được cho là rộng 2.200.000 kilômetre vuông (849.425 sq mi) có đới sống sinh vật biển độc đáo và đa dạng và là một phàn quan trọng của Tam giác San hô. Tổng số san hô và cá biển được ước tính tương ứng là 500 và 2.400.[97][101]
Nạn phá rừng tại Philippines là một vấn đề nghiêm trọng, thường có nguyên nhân từ khai thác gỗ phi pháp. Độ che phủ rừng giảm từ 70% vào năm 1900 xuống khoảng 18,3% vào năm 1999.[105][106] Nhiều loài gặp nguy hiểm và các nhà khoa học nói rằng Đông Nam Á, bao gồm Philippines, phải đối mặt với tỷ lệ tuyệt chủng thê thảm là 20% vào cuối thế kỷ 21.[107]
Nhiệt độ trung bình năm của Philippines là khoảng 26,6 °C (79,9 °F).[108] Khi xét về khía cạnh nhiệt độ tại các khu vực Philippines, kinh độ và vĩ độ không phải là một yếu tố quan trọng, nhiệt độ nước biển tại các khu vực trên toàn quốc thường có xu hướng ở cùng mức. Trong khi đó, cao độ thường có tác động lớn hơn. Nhiệt độ trung bình năm tại Baguio trên cao độ tuyệt đối 1.500 mét (4.900 ft) là 18,3 °C (64,9 °F), do vậy nơi đây là một điểm đến phổ biến vào mùa nóng khô.[108]
Quần đảo nằm chắn ngang vành đai bão nhiệt đới, do vậy hầu hết quần đảo có các cơn mưa xối xả và bão tố từ tháng 7 đến tháng 10,[110] với khoảng 19 bão nhiệt đới vào khu vực Philippines và 8-9 cơn bão đổ bộ mỗi năm.[111][112][113] Lượng mưa hàng năm có thể lên đến 5.000 milimét (200 in) ở vùng bờ biển núi non phía đông, song chỉ thấp dưới 1.000 milimét (39 in) tại một số thung lũng được che khuất.[110]
Philippines là một quốc gia công nghiệp mới, nền kinh tế đang trong quá trình chuyển đổi từ dựa vào nông nghiệp sang dựa vào các ngành dịch vụ và chế tạo. Tổng lực lượng lao động trên toàn quốc là khoảng 38,1 triệu,[52] lĩnh vực nông nghiệp sử dụng gần 32% lực lượng lao động song chỉ đóng góp 14% GDP. Lĩnh vực công nghiệp thu hút gần 14% lực lượng lao động và đóng góp 30% GDP. 47% lực lượng lao động tham gia vào lĩnh vực dịch vụ và đóng góp 56% GDP.[114][115]
Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Philippines một thời được xem là quốc gia thịnh vượng thứ nhì tại Đông Á, chỉ đứng sau Nhật Bản.[116][117] Tuy nhiên, đến thập niên 1960 thì thành tích kinh tế của Philippines bị một số quốc gia khác bắt kịp. Kinh tế trì trệ trong thời gian cai trị của nhà độc tài Ferdinand Marcos do quản lý yếu kém và bất ổn chính trị.[117] Quốc gia có mức tăng trưởng kinh tế thấp và phải trải qua những đợt suy thoái kinh tế. Chỉ đến thập niên 1990 thì mới bắt đầu khôi phục theo một chương trình tự do hóa kinh tế.[117]
Cuộc khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997 tác động đến nền kinh tế Philippines, kết quả là đồng peso suy giảm giá trị kéo dài và thị trường chứng khoán sụp đổ. Tuy nhiên, quy mô tác động ban đầu không trầm trọng như một số quốc gia láng giềng châu Á khác. Việc này phần lớn là do sự bảo thủ về tài chính của chính phủ, một phần là do kết quả của hàng thập niên kiểm tra và giám sát tài chính của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF).[67] Năm 2004, GDP tăng trưởng 6,4% và đến năm 2007 là 7,1%, mức cao nhất trong ba thập niên.[43][118][119] Tuy nhiên, tăng trưởng GDP bình quân đầu người hàng năm trong giai đoạn 1966–2007 chỉ đạt 1,45%, trong khi mức trung bình của khu vực Đông Á và Thái Bình Dương là 5,96%, thu nhập hàng ngày của 45% dân số Philippines vẫn dưới 2 đô la Mỹ.[120][121]
Kinh tế Philippines dựa nhiều vào kiều hối, nguồn ngoại tệ từ kiều hối vượt qua cả đầu tư trực tiếp nước ngoài. Các khu vực phát triển không đồng đều, đảo Luzon mà đặc biệt là Vùng đô thị Manila giành được hầu hết tăng trưởng kinh tế so với các khu vực khác,[122] song chính phủ có những bước đi để phân phối tăng trưởng kinh tế bằng cách tăng đầu tư vào các khu vực khác của quốc gia. Bất chấp các hạn chế, các ngành dịch vụ như du lịch và gia công quy trình nghiệp vụ, được xác định là các khu vực có một số cơ hội tăng trưởng tốt nhất.[115][123] Goldman Sachs xếp Philippines vào danh sách các nền kinh tế "Next Eleven".[124]
Goldman Sachs ước tính rằng vào năm 2050, Philippines sẽ là nền kinh tế lớn thứ 14 thế giới. HSBC cũng phác thảo rằng nền kinh tế của Philippines sẽ trở thành nền kinh tế lớn thứ 16 thế giới, lớn thứ 5 châu Á và lớn nhất Đông Nam Á vào năm 2050.[125] Philippines là thành viên của Ngân hàng Thế giới, Quỹ Tiền tệ Quốc tế, Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), Ngân hàng Phát triển châu Á với trụ sở tại Mandaluyong, Kế hoạch Colombo, G-77, và G-24.[52]
Do là một quần đảo, việc qua lại giữa các đảo bằng tàu thủy là rất cần thiết. Các hải cảng bận rộn nhất nước là Manila, Cebu, Iloilo, Davao, Cagayan de Oro, và Zamboanga.[128] Năm 2003, Strong Republic Nautical Highway với chiều dài 919 kilômét (571 mi) được hình thành, tập hợp các đoạn xa lộ và các tuyến phà qua 17 thành phố.[129]
Một số sông chảy qua khu vực đô thị như sông Pasig và sông Marikina có ác tuyến phà định kỳ. Dịch vụ phà sông Pasig có một số điểm dừng tại Manila, Makati, Mandaluyong, Pasig và Marikina.[130] Philippines có 3,219 kilômét (2,000 mi) đường thủy nội địa có thể thông hành.[52]
Philippines có 85 sân bay công, khoảng hơn 111 sân bay tư.[126] Sân bay quốc tế Ninoy Aquino (NAIA) là sân bay quốc tế chính. Các sân bay quan trọng khác là sân bay quốc tế Clark, sân bay quốc tế Mactan-Cebu, sân bay quốc tế Francisco Bangoy và sân bay quốc tế Zamboanga. Philippine Airlines là hãng hàng không thương mại có thâm niên nhất tại châu Á vẫn hoạt động với tên gọi ban đầu, còn Cebu Pacific là hãng hàng không giá rẻ đứng đầu, đây cũng là hai hàng phục vụ hầu hết các đường bay quốc nội và quốc tế.[131][132][133]
Cuộc tổng điều tra dân số đầu tiên ở Philippines là vào năm 1591 dưới thời thuộc địa Tây Ban Nha. Lúc đó, dân số Philippines là 666.712 người. Tổng điều tra dân số năm 1887 cho thấy dân số là 6.984.727,[139] năm 1898 là 7.832.719 người.[140] Năm 1903, Hoa Kỳ tiến hành điều tra dân số Philippines lần đầu tiên với kết quả là 7.635.426 người trong đó có 56.138 người nước ngoài. Điều tra dân số lần thứ hai do Hoa Kỳ tiến hành năm 1941, theo đó dân số Philippines là 17.000.000 người. Trong thời kỳ độc lập, chính phủ Philippines tiến hành điều tra dân số định kỳ với kết quả như sau:
Hiện tại, Philippines là nước đông dân thứ hai ở Đông Nam Á, sau Indonesia và trên Việt Nam.
Dân chúng Philippines được gọi là Filipinos theo tiếng Philippines. Theo thống kê của chính phủ và các nghiên cứu di truyền, đa số dân của Philippines là hậu duệ của nhiều nhóm người thuộc hệ ngôn ngữ Nam Đảo đã di cư tới hòn đảo này nhiều đợt từ hàng ngàn năm trước từ Đài Loan, hầu hết họ sống trộn lẫn với những nhóm người đã sống rải rác ở các đảo vùng phía Nam Trung Quốc thời tiền sử, và từ đó tạo lập nên nguồn gốc cho "dân tộc Philippines" ngày nay. Các "dân tộc Philippines" đó bị chia thành 12 nhóm dân tộc theo ngôn ngữ, ba nhóm đông đảo nhất là Tagalogs, Cebuanos và Ilocanos. Negritos, hay Aeta, cũng được coi là những dân tộc bản địa của Philippines, đã có số lượng khá đông đúc với vùng cư trú rộng rãi trước khi khi những người nói ngôn ngữ Nam Đảo tràn tới, hiện nay số lượng của họ chưa tới 30.000 người (0,03%).
Những Filipino mestizo, hay những người có dòng máu "dân tộc Philippines" pha trộn với một dòng máu nước ngoài khác từ thời tổ tiên (không gồm những pha trộn đã xảy ra từ thời tiền sử) hình thành một nhóm thiểu số nhưng có vị trí kinh tế và chính trị cao. Một nghiên cứu di truyền gần đây của Đại học Stanford cho thấy rằng 3,6% dân số có ít nhất một vài tổ tiên người châu Âu.[141]
Ba nhóm thiểu số nước ngoài lớn nhất là người Hoa, người Mỹ và Nam Á. Những nhóm thiểu số nước ngoài còn lại có số lượng nhỏ nhưng có vai trò quan trọng, gồm Tây Ban Nha, các dân tộc châu Âu khác như Ả Rập, Indonesia, Triều Tiên, Nhật Bản, và các nước châu Á khác. Philippines là một trong những quốc gia gồm nhiều chủng tộc nhất ở châu Á bởi vì nó có số lượng lớn các nhóm ngôn ngữ dân tộc bản địa.
Việc sử dụng tiếng Tây Ban Nha ở Philippines đã giảm sút kể từ thời cai trị của Hoa Kỳ nhưng ngôn ngữ Tây Ban Nha vẫn có ảnh hưởng lớn trong văn hoá Philippines, một di sản của hàng thế kỷ thuộc địa Tây Ban Nha. Từ năm 1973 nó không còn được coi là ngôn ngữ chính thức và không còn được giảng dạy tại đại học, năm 1987 nhưng nó được coi là ngôn ngữ của tầng lớp thượng lưu. Theo cuộc điều tra dân số năm 1990, có 2.658 người nói tiếng Tây Ban Nha và 292.630 người nói tiếng Chavacano, một một ngôn ngữ lai Tây Ban Nha. Hàng nghìn từ vay mượn từ tiếng Tây Ban Nha đã được chấp nhận trong ngôn ngữ của Philippines, và có khoảng 13 triệu tài liệu bằng tiếng Tây Ban Nha trong các thư viện tại Philippines. Toà án vẫn chấp nhận các tài liệu được viết bằng tiếng Tây Ban Nha. Tuy nhiên, người dân nói chung không còn coi tiếng Tây Ban Nha là thứ ngôn ngữ dùng trong sinh hoạt và lao động hàng ngày ở Philippines.
Giáo hội Công giáo La Mã sử dụng ảnh hưởng to lớn của họ trên cả những công việc chính phủ và không chính phủ, dù hiến pháp đã tiên liệu trước việc tách Nhờ thờ khỏi Nhà nước. Philippines hiện có ba Hồng y, Ricardo Cardinal Vidal, Jose Cardinal Sanchez và Gaudencio Cardinal Rosales. Hồng y quá cố Jaime Cardinal Sin là người lãnh đạo tinh thần của quốc gia và là người tham gia tích cực vào Sức mạnh nhân dân I và Sức mạnh nhân dân II. Ông mất ngày 21 tháng 6 năm 2005. Hồng y Vidal là tổng giám mục Cebu. Hồng y Sanchez là cựu Trưởng giáo đoàn tăng lữ, Roman Curia. [[Gaudencio Hồng y Rosales]] làm tổng giám mục Manila. Thánh đường nổi tiếng nhất là đại Thánh đường Manila.
Các phái Ki-tô giáo khác như Giáo hội Cơ Đốc Phục Lâm, Giáo hội Các Thánh hữu Ngày sau của Chúa Giêsu Kitô, Giáo hội Liên hiệp của Chúa Ki-tô ở Philippines. Hơn nữa, còn có hai giáo hội do các lãnh đạo tôn giáo địa phương lập ra: Giáo hội Độc lập Philippines (Iglesia Filipina Independiente hay "Aglipayan") và Iglesia ni Cristo.
Giáo hội Độc lập Philippines là tôn giáo có mục đích cách mạng chống lại Tây Ban Nha. Trong khi phong trào cách mạng dưới sự lãnh đạo của Tướng Emilio Aguinaldo tịch thu toàn bộ các trang trại của thầy dòng và các tài sản khác của Giáo hội Công giáo La Mã ở Philippines, Aglipayans được chính phủ cách mạng cho phép thừa hưởng các giáo dân và các nhà thờ của Công giáo La Mã. Tuy nhiên, khi Hoa Kỳ chiếm Philippines, các trang trại được trả lại cho Giáo hội Công giáo La Mã và cuối cùng được chính phủ ở quốc đảo do Hoa Kỳ lập lên mua lại. Những giáo xứ và nhà thờ Aglipayans đã tiếp nhận trước đây được trả lại cho Giáo hội Công giáo La Mã.
Gần 5% người Philippine là Hồi giáo và đã từng hiện diện ở Philippines trong thời gian dài hơn Ki-tô giáo. Chỉ khi Tây Ban Nha chinh phục nước này Ki-tô giáo mới trở thành tôn giáo chính thống với đa số dân. Phần nhiều những người Hồi giáo Philippines sống ở vùng đồng bằng thấp và theo lễ nghi Hồi giáo đúng quy chuẩn, dù các lễ nghi do một số bộ lạc Hồi giáo vùng núi Mindanao có phản ánh một sự hỗn hợp với thuyết duy linh. Người Hồi giáo đã chống lại sự chinh phục và cải đạo trong nhiều thế kỷ của người Tây Ban Nha, Mỹ và hiện nay là chính phủ Philippines. Nhiều nhóm Hồi giáo đã thực hiện các chiến dịch quân sự kéo dài chống lại chính phủ Philippines để đòi quyền tự quyết.
Ảnh hưởng của Tây Ban Nha đối với văn hoá Philippines, bắt nguồn chính từ văn hoá Mexico và văn hoá Tây Ban Nha, là kết quả của hơn ba trăm năm chính quyền thuộc địa. Những ảnh hưởng Tây Ban Nha đó hiện vẫn thấy trong các cách thức phong tục và những nghi tức liên quan tới nhà thờ Ki-tô giáo, đặc biệt là trong các lễ hội tôn giáo. Hàng năm, người Philippine từ khắp nơi trong đất nước tổ chức những lễ hội gọi là Barrio Fiesta để tưởng nhớ các vị thánh bảo trợ cho thành phố, làng xã và các vùng. Mùa lễ hội được kỷ niệm với những ngày lễ nhà thờ, các cuộc diễu hành đường phố để vinh danh các vị thánh bảo trợ, những cuộc thi pháo, sắc đẹp và nhảy múa, và những cuộc thi chọi gà. Tuy nhiên, di sản rõ ràng nhất của Tây Ban Nha là sự phổ biến của các tên họ Tây Ban Nha của người Philippine. Nét đặc biệt này là duy nhất trong số các dân tộc ở châu Á, là kết quả của một nghị định của chế độ thuộc địa về phân loại họ, và áp dụng hệ thống tên họ Tây Ban Nha đối với những người dân Philippine.
Ảnh hưởng từ Trung Quốc đối với văn hoá Philippines có thể thấy rõ nhất trong ẩm thực tại nước này, ảnh hưởng này rất toàn diện. Sự phổ biến của các loại mì, được gọi theo tiếng địa phương là mami, cũng như các loại thực phẩm khác như các món ăn từ thịt là một bằng chứng rõ ràng về nguồn gốc Trung Quốc. Các ảnh hưởng khác gồm một số tên họ mượn có nguồn gốc từ Trung Quốc.
Ảnh hưởng văn hoá Hoa Kỳ đối với Philippines chỉ bắt đầu từ hơn một thế kỷ nay. Di sản lớn nhất là việc sử dụng rộng rãi tiếng Anh. Môn thể thao được ưa chuộng nhất nước là bóng rổ. Cũng có một số khuynh hướng văn hoá Mỹ khác đang phát triển như ưa thích thức ăn nhanh (fast-food). Ở Philippines, có rất nhiều điểm bán fast-food, và bên cạnh những ông khổng lồ Mỹ như McDonald's, Pizza Hut, Burger King, KFC, các cửa hàng bán đồ ăn nhanh trong nước cũng rất phát triển gồm Jollibee, Greenwich Pizza và Chowking. Người Philippine cũng ưa thích nhạc Mỹ, nhảy theo điệu Mỹ, xem phim Mỹ và các diễn viên truyền hình Mỹ. Các quy định đạo đức bản địa về tôn trọng gia đình, kính trọng người già và thân thiện vẫn không bị thay đổi.
Người Philippine kính trọng những vị anh hùng mà sự nghiệp và hành động đóng góp vào việc hình thành nên chủ nghĩa quốc gia. José Rizal là người nổi tiếng nhất, một người nhìn xa trông rộng, các tác phẩm của ông đã tạo nên tính đồng nhất quốc gia và khiến cái tên Philippines được biết đến ở nước ngoài. Các tác phẩm của ông, Noli me Tangere và El Filibusterismo, là những tác phẩm bắt buộc đối với các sinh viên Philippines, minh hoạ cuộc sống thuộc địa dưới chế độ cai trị Tây Ban Nha. Nó mang lại một ý thức đồng nhất quốc gia và sự tiếp nối lịch sử. Andrés Bonifacio đã lập ra phong trào tiền độc lập Katipunan khiến chế độ cai trị Tây Ban Nha phải chấm dứt. Nhiều tranh cãi tồn tại về việc chính ông, chứ không phải Rizal, là anh hùng quốc gia. Ninoy Aquino cũng được kính trọng rộng rãi với tư cách là người tử vì đạo của cuộc cách mạng Sức mạnh nhân dân.
- Sinh 1885
- Mất 1946
- Những Tướng và Đô Đốc bị xử tử
- Đại tướng Nhật Bản
- Những người Nhật Bản bị cáo buộc tội ác chiến tranh
- Người bị xử tử bằng treo cổ
- Người bị xử tử bởi quân đội Hoa Kỳ
- Người Kōchi
- Nhân vật trong Thế chiến thứ hai
- Tướng Đế quốc Nhật Bản
Philippines
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Cộng hoà Philippines | |||||
---|---|---|---|---|---|
Repúbliká ng̃ Pilipinas (tiếng Tagalog) Republic of the Philippines (tiếng Anh) |
|||||
|
|||||
Khẩu hiệu | |||||
Maka-Diyos, Makatao, Makakalikasan, at Makabansa (tiếng Philippines: Hướng về Chúa, Nhân dân, Thiên nhiên, và Quốc gia) | |||||
Quốc ca | |||||
Lupang Hinirang | |||||
Hành chính | |||||
Chính phủ | Cộng hoà tổng thống | ||||
Tổng thống | Benigno Aquino III | ||||
Ngôn ngữ chính thức | Tiếng Tagalog, Tiếng Anh | ||||
Thủ đô | Manila |
||||
Thành phố lớn nhất | Thành phố Quezon | ||||
Địa lý | |||||
Diện tích | 299.764 km² | ||||
Diện tích nước | 0,61% % | ||||
Múi giờ | UCT (UTC+8) | ||||
Lịch sử | |||||
Độc lập
|
|||||
12 tháng 6, 1898 4 tháng 7, 1946 |
• Tuyên bố • Công nhận |
||||
Dân cư | |||||
Dân số ước lượng (tháng 7, 2012) | 103.775.002[1][2] người (hạng 12) | ||||
Dân số (2007) | 88.574.614 người | ||||
Mật độ | 306,6 người/km² (hạng 43) | ||||
Kinh tế | |||||
GDP (PPP) (2011) | Tổng số: 394 tỷ đô la Mỹ | ||||
HDI (2003) | 0,758 trung bình (hạng 84) | ||||
Đơn vị tiền tệ | Peso (PHP ) |
||||
Thông tin khác | |||||
Tên miền Internet | .ph |
Với dân số ít nhất là 99 triệu,[5] Philippines là quốc gia đông dân thứ bảy tại châu Á và đứng thứ 12 trên thế giới. Ngoài ra, có 12 triệu người Philippines sống tại hải ngoại, họ tạo thành một trong những cộng đồng tha hương lớn nhất và có ảnh hưởng nhất thế giới.[6] Philippines có sự đa dạng về dân tộc và văn hóa. Vào thời tiền sử, người Negrito nằm trong số các cư dân đầu tiên của quần đảo, tiếp theo là các làn sóng nhập cư của người Nam Đảo. Sau đó, nhiều quốc gia khác nhau được thành lập trên quần đảo, nằm dưới quyền cai trị của những quân chủ mang tước vị Datu, Rajah, Sultan hay Lakan. Thương mại với Trung Quốc cũng khiến cho văn minh Trung Quốc truyền đến Philippines, cũng như xuất hiện các khu định cư của người Hán.
Ferdinand Magellan đến Philippines vào năm 1521, sự kiện này đánh dấu kỉ nguyên người Tây Ban Nha quan tâm và cuối cùng là thuộc địa hóa quần đảo. Năm 1543, nhà thám hiểm người Tây Ban Nha Ruy López de Villalobos đặt tên cho quần đảo là Las Islas Filipinas để vinh danh Quốc vương Felipe II của Tây Ban Nha. Miguel López de Legazpi đến quần đảo từ Tân Tây Ban Nha (Mexico ngày nay) vào năm 1565, ông thành lập nên khu định cư đầu tiên của người Tây Ban Nha tại quần đảo, và quần đảo trở thành thuộc địa của Tây Ban Nha trong hơn 300 năm sau đó. Thời kỳ thuộc địa khiến cho Công giáo La Mã chiếm ưu thế tại Philippines; Philippines và Đông Timor là hai quốc gia châu Á duy nhất mà tôn giáo này chiếm ưu thế. Trong thời gian này, Manila trở thành đầu mối châu Á của tuyến đường thương mại thuyền buồm Manila–Acapulco.
Vào thời gian chuyển giao giữa thế kỷ 19 và thế kỷ 20, liên tiếp diễn ra cách mạng Philippines; chiến tranh Tây Ban Nha-Mỹ; và Chiến tranh Philippines–Mỹ. Kết quả là Hoa Kỳ trở thành thế lực thống trị quần đảo, song bị gián đoạn khi Nhật Bản chiếm đóng. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai,[7] Hiệp ước Manila công nhận Cộng hòa Philippines là một quốc gia độc lập.[8] Kể từ đó, Philippines trải qua các biến động với nền dân chủ, nổi bật là phong trào "quyền lực nhân dân" lật đổ chế độ độc tài của Ferdinand Marcos. Philippines hiện là một trong những nền kinh tế tăng trưởng nhanh nhất tại châu Á, việc có quy mô dân số lớn và tiềm năng về kinh tế khiến Philippines được phân loại là một cường quốc bậc trung.[9]
Mục lục
Lịch sử
Tiền sử
Khối xương bàn chân của người Callao được cho là có niên đại từ 67.000 năm trước theo phương pháp urani-thori.[10] do vậy thay thế người Tabon được tìm thấy tại Palawan có niên đại khoảng 24.000 năm trước theo phương pháp cácbon,[11][12] là hóa thạch loài người cổ xưa nhất được phát hiện trên quần đảo. Người Negrito nằm trong số các cư dân đầu tiên của quần đảo, song không xác định được niên đại đáng tin cậy.[13] Có một vài thuyết đối lập liên quan đến nguồn gốc của người Philippines cổ đại. Thuyết được chấp thuận rộng rãi nhất dựa trên bằng chứng ngôn ngữ học và và khảo cổ học, đó là mô hình "ra khỏi Đài Loan", với giả thuyết được đưa ra là người Nam Đảo từ Đài Loan bắt đầu nhập cư đến Philippines từ khoảng năm 4000 TCN, thay thế các cư dân đến từ trước đó.[14][15]Các quốc gia cổ
Mặc dù một số xã hội trên các hòn đảo rải rác vẫn biệt lập, song nhiều xã hội khác phát triển thành các quốc gia và phát triển hoạt động mậu dịch đáng kể với các dân tộc khác ở Đông và Đông Nam Á. Thiên niên kỉ thứ nhất Công nguyên chứng kiến sự nổi lên của các tiểu quốc hải cảng và phát triển hành các quốc gia hàng hải, bao gồm các barangay tự trị, hoặc liên minh với nhau, các quốc gia lớn nằm dưới hải quyền của người Mã Lai do các Datu trị vì, các quốc gia triều cống cho Trung Quốc do Vương cai trị, các vương quốc Ấn hóa do các Rajah cai trị. Có thể kể đến Datu Puti cai trị Liên bang Madja-as sau khi ông mua lãnh địa từ tù trưởng người Negrito tên là Marikudo. Sau đó là Vương quốc Butuan, quốc gia này nổi lên trong triều đại của Rajah Sri Bata Shaja,[16] Vương quốc Tondo do triều đại Lakandula cai trị[17][18] và Vương quốc Cebu[19] dưới sự lãnh đạo của Rajamuda Sri Lumay. Các quốc gia khác trong thời đại này bao gồm vương quốc Hán hóa Ma Dật với người đứng đầu là một vương, và Sulu trước khi bị Hồi giáo hóa từng là một vương quốc Ấn Độ hóa, với người cai trị đầu tiên là Rajah Sipad Cựu.[20] Các sử thi lớn như Hinilawod, Darangan và Biag Ni Lam-Ang có nguồn gốc từ thời đại này.[21]Những năm 1300 báo trước sự xuất hiện và cuối cùng là truyền bá Hồi giáo tại quần đảo Philippines. Năm 1380, Karim ul' Makdum và Shari'ful Hashem Syed Abu Bakr đi từ Malacca đến Sulu là lập nên Vương quốc Hồi giáo Sulu bắt cách cải đạo rajah của Sulu và kết hôn với con gái của rajah.[22][23] Đến cuối thế kỷ 15, Shariff Mohammed Kabungsuwan của Johor đưa Hồi giáo đến đảo Mindanao. Sau đó, ông ta kết hôn với Paramisuli, một công chúa người Iranun, và lập nên Vương quốc Hồi giáo Maguindanao. Các vương quốc hồi giáo mở rộng đến Lanao.[24] Cuối cùng, Hồi giáo vượt khỏi phạm vi của đảo Mindanao và lan đến phía nam đảo Luzon. Thậm chí Manila cũng bị Hồi giáo hóa trong thời gian trị vì của Sultan Bolkiah từ năm 1485 đến năm 1521, khi đó Vương quốc Hồi giáo Brunei chinh phục Vương quốc Tondo bằng cách cải đạo Rajah Salalila sang Hồi giáo.[25][26][27][28] Tuy nhiên, các quốc gia như Igorot theo thuyết vật linh, Madja-as Mã Lai, Ma Dật Hán hóa, Lequios Do Thái và Butuan Ấn Độ hóa vẫn duy trì văn hóa của mình. Trong một số vương quốc xuất hiện việc chống Hồi giáo gay gắt. Sự kình địch giữa các datu, raja, vương, sultans, và lakan và giữa các quốc gia của họ khiến cho người Tây Ban Nha dễ dàng thuộc địa hóa quần đảo. Các quốc gia này được hợp nhất vào Đế quốc Tây Ban Nha, và bị Tây Ban Nha hóa và Thiên Chúa giáo hóa.[29]
Thuộc địa của Tây Ban Nha
Năm 1521, nhà thám hiểm người Bồ Đào Nha Ferdinand Magellan đến Philippines và tuyên bố chủ quyền của Tây Ban Nha đối với quần đảo.[30] Quá trình thuộc địa hóa bắt đầu khi nhà thám hiểm người Tây Ban Nha Miguel López de Legazpi đến từ Mexico vào năm 1565 và thành lập các khu định cư đầu tiên của người Âu tại Cebu. Người Tây Ban Nha thiết lập Manila làm thủ đô của Đông Ấn Tây Ban Nha vào năm 1571 sau khi đàn áp sự kháng cự của người bản địa và đánh bại hải tặc người Trung Quốc Lâm A Phượng (Limahong).[31][32]Sự thống trị của người Tây Ban Nha đóng góp đáng kể vào việc thống nhất chính trị tại quần đảo. Từ năm 1565 đến năm 1821, Philippines được quản lý với địa vị là một lãnh thổ của Phó vương quốc Tân Tây Ban Nha và sau Chiến tranh độc lập Mexico thì được quản lý trực tiếp từ Madrid. Thuyền buồm Manila cùng hạm đội hải quân lớn của nó kết nối Manila với Acapulco, qua lại một hoặc hai lần mỗi năm từ thế kỷ 16 đến thế kỷ 19. Hoạt động mậu dịch đưa đến Philippines các loại lương thực có xuất xứ từ châu Mỹ như ngô, cà chua, khoai tây, ớt.[32] Các nhà truyền giáo của Công giáo La Mã cải đạo hết hết các cư dân vùng thấp sang Thiên Chúa giáo và lập nên các trường học, một đại học, và các bệnh viện. Một sắc lệnh của Tây Ban Nha quyết định tiến hành giáo dục công miễn phí vào năm 1863, song các nỗ lực nhằm thực hiện giáo dục đại chúng chủ yếu được thực hiện dưới thời Mỹ thuộc.[33]
Trong thời kỳ cai trị Philippines, người Tây Ban Nha phải chiến đấu chống lại các cuộc nổi dậy của người bản địa và một vài thách thức đến từ hải tặc Trung Quốc, người Hà Lan, và người Bồ Đào Nha. Trong khuôn khổ Chiến tranh Bảy năm, quân đội Anh chiếm Manila từ năm 1762 đến năm 1764. Quyền cai trị của người Tây Ban Nha được khôi phục sau Hiệp định Paris 1763.[29][34][35] Đến thế kỷ 19, các cảng của Philippines mở cửa cho mậu dịch toàn cầu và xã hội thuộc địa bắt đầu xuất hiện các thay đổi. Nhiều người Tây Ban Nha sinh ra tại Philippines (criollos) và những người hỗn chủng (mestizos) trở nên thịnh vượng, nhiều người nắm giữ các chức vụ trong chính quyền vốn có truyền thống do những người Tây Ban Nha sinh tại bán đảo Iberia nắm giữ. Những tư tưởng cách mạng cũng bắt đầu được truyền bá trên khắp quần đảo. Việc người Criollo bất mãn dẫn đến Binh biến Cavite vào năm 1872, được xem là điềm báo trước cho Cách mạng Philippines.[29][36][37][38]
Tình cảm cách mạng bùng lên vào năm 1872 sau khi ba linh mục là Mariano Gómez, José Burgos, và Jacinto Zamora (gọi chung là Gomburza) bị nhà cầm quyền thuộc địa buộc tội xúi giục nổi loạn và hành quyết.[36][37] Sự việc này truyền cảm hứng cho một phong trào tuyên truyền tại Tây Ban Nha do Marcelo H. del Pilar, José Rizal, và Mariano Ponce tổ chức, nhằm vận động hành lang cho các cải cách chính trị tại Philippines. Rizal cuối cùng bị hành quyết vào ngày 30 tháng 12 năm 1896 với tội danh nổi loạn.[39] Do các nỗ lực nhằm cải cách gặp phải cản trở, Andrés Bonifacio vào năm 1892 thành lập một đoàn thể bí mật gọi là Katipunan nhằm giành độc lập từ Tây Ban Nha thông qua hoạt động vũ trang.[38] Bonifacio cùng Katipunan bắt đầu cuộc Cách mạng Philippines vào năm 1896. Magdalo là một phái của Katipunan tại tỉnh Cavite, cuối cùng họ thách thức vị trí lãnh đạo của Bonifacio và người này bị Emilio Aguinaldo thay thế. Năm 1898, Chiến tranh Tây Ban Nha-Mỹ bắt đầu từ Cuba và lan đến Philippines. Aguinaldo tuyên bố Philippines độc lập từ Tây Ban Nha tại Kawit, Cavite vào ngày 12 tháng 6 năm 1898, và Đệ nhất Cộng hòa Philippines được thành lập tại Nhà thờ Barasoain vào năm sau.
Thời Mỹ thuộc
Tây Ban Nha nhượng quần đảo cho Hoa Kỳ để đổi lấy 20 triệu đô la theo Hiệp định Paris 1898.[40] Đến khi tình hình ngày càng trở nên rõ ràng rằng Hoa Kỳ sẽ không công nhận Cộng hòa Philippines mới ra đời, Chiến tranh Philippines–Mỹ bùng nổ, kết quả Đệ nhất Cộng hòa chiến bại. Tuy nhiên, thay thế nó là ba nước cộng hòa: Cộng hòa Zamboanga, Cộng hòa Negros và Cộng hòa Tagalog. Các chính thể này cũng bị đánh bại, và quần đảo nằm dưới quyền quản lý của Chính phủ Đảo (Insular Government).[41] Nổi dậy Moro ngay lập tức diễn ra sau đó, chủ yếu là nhằm chống lại Vương quốc Hồi giáo Sulu đang suy yếu.[42] Trong thời kỳ này, văn hóa Philippines được phục hưng với sự phát triển của điện ảnh và văn học.[43][44][45][46] Daniel Burnham lập nên một kế hoạch kiến trúc cho Manila, biến nơi này thành một thành phố hiện đại.[47]Năm 1935, Philippines có được địa vị thịnh vượng chung với tổng thống là Manuel Quezon. Ông chỉ định một ngôn ngữ quốc gia và cho phép phụ nữ bầu cử, tiến hành cải cách đất đai.[39][48] Các kế hoạch để tiến đến độc lập trong thập niên sau đó bị gián đoạn trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Trong cuộc chiến này, Đế quốc Nhật Bản xâm chiếm quần đảo, Đệ nhị Cộng hòa Philippines được thành lập với José P. Laurel là tổng thống, đây là một chính thể cộng tác với Nhật Bản. Nhiều hành động tàn bạo và tội ác chiến tranh diễn ra trong cuộc chiến, chẳng hạn như Cuộc hành quân chết chóc Bataan và Thảm sát Manila.[49] Năm 1944, Quezon qua đời trong khi lưu vong tại Hoa Kỳ, Sergio Osmeña kế nhiệm. Lực lượng Đồng Minh đánh bại Nhật Bản vào năm 1945. Đến khi kết thúc chiến tranh, người ta ước tính có hơn một triệu người Philippines thiệt mạng.[50]
Thời đại Chiến tranh Lạnh
Ngày 24 tháng 10 năm 1945,[51] Philippines trở thành một thành viên sáng lập của Liên Hiệp Quốc và đến ngày 4 tháng 7 năm 1946, Hoa Kỳ công nhận Philippines độc lập, khi đó quốc gia nằm dưới quyền cai trị của Tổng thống Manuel Roxas.[52] Những thành phần tàn dư bất mãn gồm những thành viên Hukbalahap cộng sản[53] tiếp tục hoạt động ở vùng nông thôn song bị đàn áp dưới thời Tổng thống Ramon Magsaysay.[54][55] Người kế nhiệm của Magsaysay là Carlos P. Garcia đề xướng Chính sách người Philipines trước tiên,[56] và được Diosdado Macapagal tiếp nối, cùng với đó là việc chuyển ngày Độc lập từ 4 tháng 7 sang 12 tháng 6, tức ngày Emilio Aguinaldo tuyên bố độc lập,[57][58] trong khi tiếp tục thúc đẩy hơn nữa tuyên bố chủ quyền đối với Bắc Borneo.[59][60]Năm 1965, quyền lực vào tay tổng thống dân cử Ferdinand Marcos. Vào đầu nhiệm kỳ tổng thống của mình, Marcos khởi xướng nhiều dự án công cộng song bị cáo buộc tham nhũng nghiêm trọng, chẳng hạn như biển thủ hàng tỉ đô la tiền công quỹ.[61] Xã hội Philippines rất hỗn loạn vào giữa nhiệm kỳ của ông, và đến gần cuối nhiệm kỳ, Marcos tuyên bố thiết quân luật vào ngày 21 tháng 9 năm 1972. Giai đoạn Marcos cầm quyền có đặc điểm là đàn áp chính trị, độc tài, và vi phạm nhân quyền.[62] Ngày 21 tháng 8 năm 1983, kình địch chính của Marcos là lãnh tụ đối lập Benigno Aquino, Jr. bị ám sát tại Sân bay quốc tế Manila. Marcos cuối cùng kêu gọi bầu cử tổng thống sớm, tranh cử cùng góa phụ của Benigno Aquino là Corazon Aquino.[63] Marcos được tuyên bố thắng cử, song kết quả bị cho là gian lận, dẫn đến Cách mạng Quyền lực nhân dân. Marcos và các đồng minh cảu ông chạy sang Hawaii và Aquino được công nhận là tổng thống.[63][64]
Lịch sử hiện đại
Nền dân chủ quay trở lại và các cải cách của chính phủ bắt đầu vào năm 1986 bị cản trở do nợ quốc gia, tham nhũng trong chính phủ, các nỗ lực đảo chính, thiên tai, cuộc nổi dậy dai dẳng của cộng sản,[65] và một cuộc xung đột quân sự với các phần tử ly khai Moro.[66] Quân đội Hoa Kỳ rút khỏi vịnh Subic và căn cứ không quân Clark. Fidel V. Ramos đắc cử tổng thống vào năm 1992, nền kinh tế quốc gia được cải thiện dưới thời chính phủ của ông. Tuy nhiên, các tiến bộ về chính trị và kinh tế, chẳng hạn như một thỏa thuận hòa bình với Mặt trận giải phóng dân tộc Moro,[67] bị phủ định cùng với sự khởi đầu của Khủng hoảng tài chính châu Á 1997 vào năm 1997.[68][69]Năm 2001, bị buộc tội tham nhũng, trong khi một quá trình luận tội bị đình trệ, Tổng thống Joseph Estrada bị phế truất trong Cách mạng EDSA 2001, người thay thế là Gloria Macapagal-Arroyo.[70] Chín năm cầm quyền của bà gắn liền với các vụ bê bối tham nhũng và chính trị, mặc dù nền kinh tế vẫn tăng trưởng ổn định và tránh được Đại suy thoái.[71][72][73][74] Năm 2010, Benigno Aquino III đắc cử tổng thống. Trong nhiệm kỳ của ông, thỏa thuận hòa bình với phe Moro được ký kết, song các tranh chấp lãnh thổ tại Bắc Borneo và biển Đông thì leo thang.[75][76][77][78]
Chính trị và chính quyền
Philippines có một chính phủ dân chủ theo mô hình cộng hòa lập hiến với một tổng thống chế.[79] Philippines là một quốc gia đơn nhất, ngoại trừ Khu tự trị Hồi giáo Mindanao được tự do ở mức độ lớn với chính phủ quốc gia. Có một số nỗ lực nhằm biến chính quyền thành một chính quyền liên bang, đơn viện hay nghị viện kể từ thời Ramos.[80][81]Tổng thống đóng vai trò là nguyên thủ quốc gia và nguyên thủ chính phủ, cũng như là tổng thư lệnh các lực lượng vũ trang. Tổng thống được bầu theo hình thức phổ thông đầu phiếu với nhiệm kỳ sáu năm, trong thời gian đó tổng thống sẽ bổ nhiệm và điều khiển nội các.[82] Lưỡng viện quốc hội Philippines gồm có Thượng viện và Hạ viện, các thượng nghị sĩ được dân bầu và có nhiệm kỳ sáu năm.[82] Quyền tư pháp được trao cho Tối cao pháp viện, bao gồm một Chánh án tối cao và 14 thẩm phán, họ đều do Tổng thống bổ nhiệm từ danh sách do Hội đồng Tư pháp và Luật sư đệ trình.[82]
An ninh và quốc phòng
Quân đội Philippines gồm ba nhánh là Không quân, Lục quân và Hải quân (bao gồm thủy quân lục chiến). An ninh dân sự thuộc thẩm quyền của Cảnh sát Quốc gia Philippine dưới sự điều hành của Bộ Nội vụ và chính phủ địa phương.Tại Khu tự trị Hồi giáo Mindanao, tổ chức ly khai lớn nhất là Mặt trận Giải phóng Dân tộc Moro nay cũng tham gia vào chính phủ về mặt chính trị. Các nhóm quân sự khác như Mặt trận Giải phóng Hồi giáo Moro, Quân đội Nhân dân mới theo cộng sản chủ nghĩa, và Abu Sayyaf vẫn hoạt động tại các tỉnh, song sự hiện diện của họ suy giảm trong những năm gần đây do thành công của chính phủ trung ương về mặt an ninh.[83][84]
Philippines là đồng minh của Hoa Kỳ kể từ Chiến tranh thế giới thứ hai. Hiệp định phòng thủ chung giữa hai quốc gia được ký kết vào năm 1951. Philippines ủng hộ các chính sách của Hoa Kỳ trong Chiến tranh Lạnh và tham gia vào Chiến tranh Triều Tiên và Chiến tranh Việt Nam. Philippines là thành viên của Tổ chức Hiệp ước Đông Nam Á (SEATO) tồn tại cho đến năm 1977.[85] After the start of the War on Terror, the Philippines was part of the coalition that gave support to the United States in Iraq.[86] Hoa Kỳ xác định Philippines là một đồng minh lớn phi NATO. Philippines đang tiến hành các nỗ lực để chấm dứt nội loạn với sợ giúp đỡ của Hoa Kỳ.
Miền, vùng và các đơn vị hành chính
Philippines được chia thành ba miền là Luzon ở phía Bắc đất nước, Visayas ở giữa đất nước, và Mindanao ỏ phía Nam đất nước. Tên ba miền đặt theo tên ba đảo chính của Philippines.Ba miền lại được chia thành 17 vùng. Việc phân chia thành các vùng nhằm mục đích tạo thuận lợi cho công tác quy hoạch lãnh thổ của chính quyền trung ương. Tuy nhiên, vùng không phải là một cấp hành chính mặc dù mỗi vùng đều có các văn phòng của các bộ ngành của trung ương. Các vùng không có chính quyền địa phương, trừ vùng thủ đô Manila vì tự Manila là một vùng và Khu tự trị Hồi giáo Mindanao.
Cấp hành chính địa phương chính thức của Philippines là tỉnh gồm 81 đơn vị. Vùng thủ đô Manila là một đơn vị hành chính đặc biệt và là một trong 17 vùng của Philippines.
Các tỉnh lại bị chia tách tiếp thành các thành phố và các khu tự quản. Tuy cùng là cấp hành chính địa phương thứ hai, nhưng thành phố có nhiều chức năng hành chính hơn so với khu tự quản, và cũng được cấp ngân sách nhiều hơn.
Thành phố và khu tự quản được chia thành các barangay. Đây là cấp hành chính địa phương thấp nhất ở Philiipines.
A clickable map of the Philippines exhibiting its 17 regions and 80 provinces.
Vùng | Ký hiệu | Trung tâm vùng |
---|---|---|
Ilocos | Vùng I | San Fernando |
Thung lũng Cagayan | Vùng II | Tuguegarao |
Trung Luzon | Vùng III | San Fernando |
CALABARZON | Vùng IV-A | Calamba |
MIMAROPA | Vùng IV-B | Calapan |
Bicol (vùng) | Vùng V | Legazpi |
Tây Visayas | Vùng VI | Iloilo |
Trung Visayas | Vùng VII | Cebu |
Đông Visayas | Vùng VIII | Tacloban |
Bán đảo Zamboanga | Vùng IX | Pagadian[87][88] |
Bắc Mindanao | Vùng X | Cagayan de Oro |
Vùng Davao | Vùng XI | Davao |
SOCCSKSARGEN | Vùng XII | Koronadal |
Caraga | Vùng XIII | Butuan |
Khu tự trị Hồi giáo Mindanao | ARMM | Cotabato |
Vùng Hành chính Cordillera | CAR | Baguio |
Vùng đô thị Manila | NCR | Manila |
Địa lý
Philippines là một quần đảo gồm 7.107 đảo[82] và tổng diện tích, bao gồm cả vùng nước nội lục, là xấp xỉ 300.000 kilômetre vuông (115.831 sq mi). Quốc gia có 36.289 kilômét (22.549 mi) bờ biển, chiều dài bờ biển đứng thứ năm trên thế giới.[82][89] Quốc gia nằm giữa 116° 40', và 126° 34' kinh Đông, 4° 40' và 21° 10' vĩ Bắc. Quốc gia bị giới hạn bởi biển Philippines ở phía đông, biển Đông ở phía tây, và biển Celebes ở phía nam. Đảo Borneo nằm ở phía tây nam và đảo Đài Loan nằm ở phía bắc. Quần đảo Maluku và đảo Sulawesi nằm ở phía nam-tây nam và đảo quốc Palau nằm ở phía đông.[82]Rừng mưa nhiệt đới bao phủ hầu hết các hòn đảo vốn có địa hình núi non, các hòn đảo này có nguồn gốc núi lửa. Núi cao nhất quần đảo là núi Apo ở Mindanao với cao độ 2.954 mét (9.692 ft) trên mực nước biển. Sông dài nhất quốc gia là sông Cagayan tại bắc bộ Luzon. Thủ đô Manila nằm bên bờ vịnh Vịnh Manila, vịnh này nối với hồ lớn nhất Philippines là Laguna de Bay qua sông Pasig. Các vịnh quan trọng khác là vịnh Subic, vịnh Davao, và vịnh Moro. Eo biển San Juanico chia tách hai đảo Samar và Leyte song chính phủ đã cho xây cầu San Juanico. qua eo biển này[90]
Philippines nằm trên rìa tây của Vành đai lửa Thái Bình Dương, do vậy quốc gia thường xuyên chịu ảnh hưởng từ hoạt động địa chấn và núi lửa. Cao nguyên Benham dưới đáy biển Philippine hoạt động trong hút chìm kiến tạo.[91] Khoảng 20 được ghi nhận mỗi ngày, song hầu hết chúng quá yếu để con người cảm nhận được. Trận động đất lớn nhất gần đây là động đất Luzon 1990.[92] Có nhiều núi lửa hoạt động tại quần đảo, chẳng hạn như núi lửa Mayon, núi Pinatubo, hay núi lửa Taal. Vụ phun trào của núi Pinatubo vào tháng 6 năm 1991 là vụ phun trào trên mặt đất lớn thứ nhì trong thế kỷ 20.[93] Nhiễu loạn về địa chất hình thành nên sông ngầm Puerto Princesa trên đảo Pallawan, nơi đây tiêu biểu cho môi trường sống đa dạng sinh học, với các hệ sinh tháo từ núi xuống biển và có một trong số những khu rừng quan trọng nhất tại châu Á.[94]
Các hòn đảo của quần đảo có sự phong phú về khoáng sản do chúng có nguồn gốc núi lửa. Quốc gia được ước tính có tài nguyên vàng lớn thứ nhì trên thế giới sau Nam Phi và là một trong những nơi có tài nguyên đồng lớn nhất thế giới.[95] Quốc gia cũng giàu có về các tài nguyên như niken, crôm, và thiếc. Tuy vậy, do quản lý yếu kém và mật độ dân số cao, cùng với ý thức về môi trường nên các tài nguyên này phần lớn vẫn chưa được khai thác.[95] Một sản phẩm khác của hoạt động núi lửa là địa nhiệt năng lại được khai thác thành công hơn, Philippines là nhà sản xuất địa nhiệt năng lớn thứ hai thế giới sau Hoa Kỳ, đáp ứng 18% nhu cầu điện năng trong nước.[96]
Hệ động thực vật
Với các rừng mưa và bờ biển trải dài, Philippines là nơi có sự đa dạng về các loại sinh vật.[97] Đây là một trong mười quốc gia đa dạng sinh vật nhất thế giới và nằm trong số những nước dẫn đầu về đa dạng trên đơn vị diện tích.[98][99][100] Khoảng 1.100 loài có xương sống trên cạn được tìm thấy tại Philippines, bao gồm trên 100 loài thú và 170 loài chim không xuất hiện ở các khu vực khác.[101] Các loài đặc hữu của Philippines bao gồm trâu rừng tại Mindoro, nai đốm Visayas, cheo cheo Philippines, lợn rừng Visayas, chồn bay Philippines, hay một số loài dơi.[102]Philippines thiếu các loài săn mồi lớn, ngoại lệ là các loài rắn như trăn và rắn hổ mang, cá sấu cửa sông và chim săn mồi, chẳng hạn như quốc điểu là đại bàng Philippines, loài này được các nhà khoa học cho là đại bàng lớn nhất thế giới.[103][104] Lãnh hải của Philippines được cho là rộng 2.200.000 kilômetre vuông (849.425 sq mi) có đới sống sinh vật biển độc đáo và đa dạng và là một phàn quan trọng của Tam giác San hô. Tổng số san hô và cá biển được ước tính tương ứng là 500 và 2.400.[97][101]
Nạn phá rừng tại Philippines là một vấn đề nghiêm trọng, thường có nguyên nhân từ khai thác gỗ phi pháp. Độ che phủ rừng giảm từ 70% vào năm 1900 xuống khoảng 18,3% vào năm 1999.[105][106] Nhiều loài gặp nguy hiểm và các nhà khoa học nói rằng Đông Nam Á, bao gồm Philippines, phải đối mặt với tỷ lệ tuyệt chủng thê thảm là 20% vào cuối thế kỷ 21.[107]
Khí hậu
Philippines có khí hậu nhiệt đới hải dương, thời tiết thường nóng và ẩm. Quốc gia có ba mùa: tag-init hay tag-araw, mùa nóng khô kéo dài từ tháng 3 đến tháng 5; tag-ulan, mùa mưa kéo dài từ tháng 6 đến tháng 11; và tag-lamig, mùa mát khô kéo dài từ tháng 12 đến tháng 2. Gió mùa tây nam từ tháng 5 đến tháng 10 còn được gọi là Habagat, gió mùa đông bắc khô từ tháng 11 đến tháng 4 còn được gọi là Amihan.[108] Nhiệt độ thường dao động từ 21 °C (70 °F) đến 32 °C (90 °F), tháng mát nhất là tháng 1 và tháng ấm nhất là tháng 5.[82][109]Nhiệt độ trung bình năm của Philippines là khoảng 26,6 °C (79,9 °F).[108] Khi xét về khía cạnh nhiệt độ tại các khu vực Philippines, kinh độ và vĩ độ không phải là một yếu tố quan trọng, nhiệt độ nước biển tại các khu vực trên toàn quốc thường có xu hướng ở cùng mức. Trong khi đó, cao độ thường có tác động lớn hơn. Nhiệt độ trung bình năm tại Baguio trên cao độ tuyệt đối 1.500 mét (4.900 ft) là 18,3 °C (64,9 °F), do vậy nơi đây là một điểm đến phổ biến vào mùa nóng khô.[108]
Quần đảo nằm chắn ngang vành đai bão nhiệt đới, do vậy hầu hết quần đảo có các cơn mưa xối xả và bão tố từ tháng 7 đến tháng 10,[110] với khoảng 19 bão nhiệt đới vào khu vực Philippines và 8-9 cơn bão đổ bộ mỗi năm.[111][112][113] Lượng mưa hàng năm có thể lên đến 5.000 milimét (200 in) ở vùng bờ biển núi non phía đông, song chỉ thấp dưới 1.000 milimét (39 in) tại một số thung lũng được che khuất.[110]
Kinh tế
Philippines là một quốc gia công nghiệp mới, nền kinh tế đang trong quá trình chuyển đổi từ dựa vào nông nghiệp sang dựa vào các ngành dịch vụ và chế tạo. Tổng lực lượng lao động trên toàn quốc là khoảng 38,1 triệu,[52] lĩnh vực nông nghiệp sử dụng gần 32% lực lượng lao động song chỉ đóng góp 14% GDP. Lĩnh vực công nghiệp thu hút gần 14% lực lượng lao động và đóng góp 30% GDP. 47% lực lượng lao động tham gia vào lĩnh vực dịch vụ và đóng góp 56% GDP.[114][115]
Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Philippines một thời được xem là quốc gia thịnh vượng thứ nhì tại Đông Á, chỉ đứng sau Nhật Bản.[116][117] Tuy nhiên, đến thập niên 1960 thì thành tích kinh tế của Philippines bị một số quốc gia khác bắt kịp. Kinh tế trì trệ trong thời gian cai trị của nhà độc tài Ferdinand Marcos do quản lý yếu kém và bất ổn chính trị.[117] Quốc gia có mức tăng trưởng kinh tế thấp và phải trải qua những đợt suy thoái kinh tế. Chỉ đến thập niên 1990 thì mới bắt đầu khôi phục theo một chương trình tự do hóa kinh tế.[117]
Cuộc khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997 tác động đến nền kinh tế Philippines, kết quả là đồng peso suy giảm giá trị kéo dài và thị trường chứng khoán sụp đổ. Tuy nhiên, quy mô tác động ban đầu không trầm trọng như một số quốc gia láng giềng châu Á khác. Việc này phần lớn là do sự bảo thủ về tài chính của chính phủ, một phần là do kết quả của hàng thập niên kiểm tra và giám sát tài chính của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF).[67] Năm 2004, GDP tăng trưởng 6,4% và đến năm 2007 là 7,1%, mức cao nhất trong ba thập niên.[43][118][119] Tuy nhiên, tăng trưởng GDP bình quân đầu người hàng năm trong giai đoạn 1966–2007 chỉ đạt 1,45%, trong khi mức trung bình của khu vực Đông Á và Thái Bình Dương là 5,96%, thu nhập hàng ngày của 45% dân số Philippines vẫn dưới 2 đô la Mỹ.[120][121]
Kinh tế Philippines dựa nhiều vào kiều hối, nguồn ngoại tệ từ kiều hối vượt qua cả đầu tư trực tiếp nước ngoài. Các khu vực phát triển không đồng đều, đảo Luzon mà đặc biệt là Vùng đô thị Manila giành được hầu hết tăng trưởng kinh tế so với các khu vực khác,[122] song chính phủ có những bước đi để phân phối tăng trưởng kinh tế bằng cách tăng đầu tư vào các khu vực khác của quốc gia. Bất chấp các hạn chế, các ngành dịch vụ như du lịch và gia công quy trình nghiệp vụ, được xác định là các khu vực có một số cơ hội tăng trưởng tốt nhất.[115][123] Goldman Sachs xếp Philippines vào danh sách các nền kinh tế "Next Eleven".[124]
Goldman Sachs ước tính rằng vào năm 2050, Philippines sẽ là nền kinh tế lớn thứ 14 thế giới. HSBC cũng phác thảo rằng nền kinh tế của Philippines sẽ trở thành nền kinh tế lớn thứ 16 thế giới, lớn thứ 5 châu Á và lớn nhất Đông Nam Á vào năm 2050.[125] Philippines là thành viên của Ngân hàng Thế giới, Quỹ Tiền tệ Quốc tế, Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), Ngân hàng Phát triển châu Á với trụ sở tại Mandaluyong, Kế hoạch Colombo, G-77, và G-24.[52]
Giao thông
Hạ tầng giao thông tại Philippines tương đối kém phát triển, điều này một phần là do địa hình núi non và các đảo nằm rải rác, song cũng một phần do chính phủ thiếu đầu tư liên tục. Năm 2003, chỉ có 3,6% GDP đến với phát triển cơ sở hạ tầng, thấp hơn đáng kể so với một số quốc gia láng giềng.[110] Trong tổng số 203.025 kilômét (126.154 mi) đường bộ trên toàn quốc, thì chỉ có khoảng 20% trong số đó được lát.[126] Chính quyên của Tổng thống Benigno Aquino III đảy mạnh việc cải thiện cơ sở hạ tầng và hệ thống giao thông thông qua các dự án khác nhau.[127]Do là một quần đảo, việc qua lại giữa các đảo bằng tàu thủy là rất cần thiết. Các hải cảng bận rộn nhất nước là Manila, Cebu, Iloilo, Davao, Cagayan de Oro, và Zamboanga.[128] Năm 2003, Strong Republic Nautical Highway với chiều dài 919 kilômét (571 mi) được hình thành, tập hợp các đoạn xa lộ và các tuyến phà qua 17 thành phố.[129]
Một số sông chảy qua khu vực đô thị như sông Pasig và sông Marikina có ác tuyến phà định kỳ. Dịch vụ phà sông Pasig có một số điểm dừng tại Manila, Makati, Mandaluyong, Pasig và Marikina.[130] Philippines có 3,219 kilômét (2,000 mi) đường thủy nội địa có thể thông hành.[52]
Philippines có 85 sân bay công, khoảng hơn 111 sân bay tư.[126] Sân bay quốc tế Ninoy Aquino (NAIA) là sân bay quốc tế chính. Các sân bay quan trọng khác là sân bay quốc tế Clark, sân bay quốc tế Mactan-Cebu, sân bay quốc tế Francisco Bangoy và sân bay quốc tế Zamboanga. Philippine Airlines là hãng hàng không thương mại có thâm niên nhất tại châu Á vẫn hoạt động với tên gọi ban đầu, còn Cebu Pacific là hãng hàng không giá rẻ đứng đầu, đây cũng là hai hàng phục vụ hầu hết các đường bay quốc nội và quốc tế.[131][132][133]
Nhân khẩu
Từ năm 1990 đến 2008, dân số Philippines tăng xấp xỉ 28 triệu, tăng trưởng 45%.[134] Cuộc điều tra dân số chính thức đầu tiên tại Philippines được tiến hành vào năm 1877 và kết quả được đưa ra là 5.567.685.[135] Năm 2011, Philippines trở thành quốc gia đông dân thứ 12 trên giới với trên 94 triệu. Theo ước tính, có một nửa dân số Philippines sống trên dảo Luzon. Tăng trưởng dân số trong giai đoạn 1995-2000 là 3.21%, giảm xuống xấp xỉ 1,95% trong giai đoạn 2005-2010, song vẫn là một vấn đề gây tranh luận.[136][137] Tuổi trung bình của cư dân Philippines là 22,7, số người trong độ tuổi từ 15 đến 64 chiếm 60.9% dân số.[52] Tuổi thọ trung bình là 71,94 năm, 75,03 năm đối với nữ giới và 68,99 năm đối với nam giới.[138]Cuộc tổng điều tra dân số đầu tiên ở Philippines là vào năm 1591 dưới thời thuộc địa Tây Ban Nha. Lúc đó, dân số Philippines là 666.712 người. Tổng điều tra dân số năm 1887 cho thấy dân số là 6.984.727,[139] năm 1898 là 7.832.719 người.[140] Năm 1903, Hoa Kỳ tiến hành điều tra dân số Philippines lần đầu tiên với kết quả là 7.635.426 người trong đó có 56.138 người nước ngoài. Điều tra dân số lần thứ hai do Hoa Kỳ tiến hành năm 1941, theo đó dân số Philippines là 17.000.000 người. Trong thời kỳ độc lập, chính phủ Philippines tiến hành điều tra dân số định kỳ với kết quả như sau:
1960 | 1970 | 1975 | 1980 | 1990 | 1995 | 2000 | 2007 | 2010 |
27.087.685 | 36.684.948 | 42.070.660 | 48.098.460 | 60.703.206 | 68.616.536 | 76.504.077 | 88.574.614 | 92.337.852 |
Dân chúng Philippines được gọi là Filipinos theo tiếng Philippines. Theo thống kê của chính phủ và các nghiên cứu di truyền, đa số dân của Philippines là hậu duệ của nhiều nhóm người thuộc hệ ngôn ngữ Nam Đảo đã di cư tới hòn đảo này nhiều đợt từ hàng ngàn năm trước từ Đài Loan, hầu hết họ sống trộn lẫn với những nhóm người đã sống rải rác ở các đảo vùng phía Nam Trung Quốc thời tiền sử, và từ đó tạo lập nên nguồn gốc cho "dân tộc Philippines" ngày nay. Các "dân tộc Philippines" đó bị chia thành 12 nhóm dân tộc theo ngôn ngữ, ba nhóm đông đảo nhất là Tagalogs, Cebuanos và Ilocanos. Negritos, hay Aeta, cũng được coi là những dân tộc bản địa của Philippines, đã có số lượng khá đông đúc với vùng cư trú rộng rãi trước khi khi những người nói ngôn ngữ Nam Đảo tràn tới, hiện nay số lượng của họ chưa tới 30.000 người (0,03%).
Những Filipino mestizo, hay những người có dòng máu "dân tộc Philippines" pha trộn với một dòng máu nước ngoài khác từ thời tổ tiên (không gồm những pha trộn đã xảy ra từ thời tiền sử) hình thành một nhóm thiểu số nhưng có vị trí kinh tế và chính trị cao. Một nghiên cứu di truyền gần đây của Đại học Stanford cho thấy rằng 3,6% dân số có ít nhất một vài tổ tiên người châu Âu.[141]
Ba nhóm thiểu số nước ngoài lớn nhất là người Hoa, người Mỹ và Nam Á. Những nhóm thiểu số nước ngoài còn lại có số lượng nhỏ nhưng có vai trò quan trọng, gồm Tây Ban Nha, các dân tộc châu Âu khác như Ả Rập, Indonesia, Triều Tiên, Nhật Bản, và các nước châu Á khác. Philippines là một trong những quốc gia gồm nhiều chủng tộc nhất ở châu Á bởi vì nó có số lượng lớn các nhóm ngôn ngữ dân tộc bản địa.
Ngôn ngữ
Việc sử dụng tiếng Tây Ban Nha ở Philippines đã giảm sút kể từ thời cai trị của Hoa Kỳ nhưng ngôn ngữ Tây Ban Nha vẫn có ảnh hưởng lớn trong văn hoá Philippines, một di sản của hàng thế kỷ thuộc địa Tây Ban Nha. Từ năm 1973 nó không còn được coi là ngôn ngữ chính thức và không còn được giảng dạy tại đại học, năm 1987 nhưng nó được coi là ngôn ngữ của tầng lớp thượng lưu. Theo cuộc điều tra dân số năm 1990, có 2.658 người nói tiếng Tây Ban Nha và 292.630 người nói tiếng Chavacano, một một ngôn ngữ lai Tây Ban Nha. Hàng nghìn từ vay mượn từ tiếng Tây Ban Nha đã được chấp nhận trong ngôn ngữ của Philippines, và có khoảng 13 triệu tài liệu bằng tiếng Tây Ban Nha trong các thư viện tại Philippines. Toà án vẫn chấp nhận các tài liệu được viết bằng tiếng Tây Ban Nha. Tuy nhiên, người dân nói chung không còn coi tiếng Tây Ban Nha là thứ ngôn ngữ dùng trong sinh hoạt và lao động hàng ngày ở Philippines.
Tôn giáo
Giáo hội Công giáo La Mã sử dụng ảnh hưởng to lớn của họ trên cả những công việc chính phủ và không chính phủ, dù hiến pháp đã tiên liệu trước việc tách Nhờ thờ khỏi Nhà nước. Philippines hiện có ba Hồng y, Ricardo Cardinal Vidal, Jose Cardinal Sanchez và Gaudencio Cardinal Rosales. Hồng y quá cố Jaime Cardinal Sin là người lãnh đạo tinh thần của quốc gia và là người tham gia tích cực vào Sức mạnh nhân dân I và Sức mạnh nhân dân II. Ông mất ngày 21 tháng 6 năm 2005. Hồng y Vidal là tổng giám mục Cebu. Hồng y Sanchez là cựu Trưởng giáo đoàn tăng lữ, Roman Curia. [[Gaudencio Hồng y Rosales]] làm tổng giám mục Manila. Thánh đường nổi tiếng nhất là đại Thánh đường Manila.
Các phái Ki-tô giáo khác như Giáo hội Cơ Đốc Phục Lâm, Giáo hội Các Thánh hữu Ngày sau của Chúa Giêsu Kitô, Giáo hội Liên hiệp của Chúa Ki-tô ở Philippines. Hơn nữa, còn có hai giáo hội do các lãnh đạo tôn giáo địa phương lập ra: Giáo hội Độc lập Philippines (Iglesia Filipina Independiente hay "Aglipayan") và Iglesia ni Cristo.
Giáo hội Độc lập Philippines là tôn giáo có mục đích cách mạng chống lại Tây Ban Nha. Trong khi phong trào cách mạng dưới sự lãnh đạo của Tướng Emilio Aguinaldo tịch thu toàn bộ các trang trại của thầy dòng và các tài sản khác của Giáo hội Công giáo La Mã ở Philippines, Aglipayans được chính phủ cách mạng cho phép thừa hưởng các giáo dân và các nhà thờ của Công giáo La Mã. Tuy nhiên, khi Hoa Kỳ chiếm Philippines, các trang trại được trả lại cho Giáo hội Công giáo La Mã và cuối cùng được chính phủ ở quốc đảo do Hoa Kỳ lập lên mua lại. Những giáo xứ và nhà thờ Aglipayans đã tiếp nhận trước đây được trả lại cho Giáo hội Công giáo La Mã.
Gần 5% người Philippine là Hồi giáo và đã từng hiện diện ở Philippines trong thời gian dài hơn Ki-tô giáo. Chỉ khi Tây Ban Nha chinh phục nước này Ki-tô giáo mới trở thành tôn giáo chính thống với đa số dân. Phần nhiều những người Hồi giáo Philippines sống ở vùng đồng bằng thấp và theo lễ nghi Hồi giáo đúng quy chuẩn, dù các lễ nghi do một số bộ lạc Hồi giáo vùng núi Mindanao có phản ánh một sự hỗn hợp với thuyết duy linh. Người Hồi giáo đã chống lại sự chinh phục và cải đạo trong nhiều thế kỷ của người Tây Ban Nha, Mỹ và hiện nay là chính phủ Philippines. Nhiều nhóm Hồi giáo đã thực hiện các chiến dịch quân sự kéo dài chống lại chính phủ Philippines để đòi quyền tự quyết.
Văn hoá
Ảnh hưởng của Tây Ban Nha đối với văn hoá Philippines, bắt nguồn chính từ văn hoá Mexico và văn hoá Tây Ban Nha, là kết quả của hơn ba trăm năm chính quyền thuộc địa. Những ảnh hưởng Tây Ban Nha đó hiện vẫn thấy trong các cách thức phong tục và những nghi tức liên quan tới nhà thờ Ki-tô giáo, đặc biệt là trong các lễ hội tôn giáo. Hàng năm, người Philippine từ khắp nơi trong đất nước tổ chức những lễ hội gọi là Barrio Fiesta để tưởng nhớ các vị thánh bảo trợ cho thành phố, làng xã và các vùng. Mùa lễ hội được kỷ niệm với những ngày lễ nhà thờ, các cuộc diễu hành đường phố để vinh danh các vị thánh bảo trợ, những cuộc thi pháo, sắc đẹp và nhảy múa, và những cuộc thi chọi gà. Tuy nhiên, di sản rõ ràng nhất của Tây Ban Nha là sự phổ biến của các tên họ Tây Ban Nha của người Philippine. Nét đặc biệt này là duy nhất trong số các dân tộc ở châu Á, là kết quả của một nghị định của chế độ thuộc địa về phân loại họ, và áp dụng hệ thống tên họ Tây Ban Nha đối với những người dân Philippine.
Ảnh hưởng từ Trung Quốc đối với văn hoá Philippines có thể thấy rõ nhất trong ẩm thực tại nước này, ảnh hưởng này rất toàn diện. Sự phổ biến của các loại mì, được gọi theo tiếng địa phương là mami, cũng như các loại thực phẩm khác như các món ăn từ thịt là một bằng chứng rõ ràng về nguồn gốc Trung Quốc. Các ảnh hưởng khác gồm một số tên họ mượn có nguồn gốc từ Trung Quốc.
Ảnh hưởng văn hoá Hoa Kỳ đối với Philippines chỉ bắt đầu từ hơn một thế kỷ nay. Di sản lớn nhất là việc sử dụng rộng rãi tiếng Anh. Môn thể thao được ưa chuộng nhất nước là bóng rổ. Cũng có một số khuynh hướng văn hoá Mỹ khác đang phát triển như ưa thích thức ăn nhanh (fast-food). Ở Philippines, có rất nhiều điểm bán fast-food, và bên cạnh những ông khổng lồ Mỹ như McDonald's, Pizza Hut, Burger King, KFC, các cửa hàng bán đồ ăn nhanh trong nước cũng rất phát triển gồm Jollibee, Greenwich Pizza và Chowking. Người Philippine cũng ưa thích nhạc Mỹ, nhảy theo điệu Mỹ, xem phim Mỹ và các diễn viên truyền hình Mỹ. Các quy định đạo đức bản địa về tôn trọng gia đình, kính trọng người già và thân thiện vẫn không bị thay đổi.
Người Philippine kính trọng những vị anh hùng mà sự nghiệp và hành động đóng góp vào việc hình thành nên chủ nghĩa quốc gia. José Rizal là người nổi tiếng nhất, một người nhìn xa trông rộng, các tác phẩm của ông đã tạo nên tính đồng nhất quốc gia và khiến cái tên Philippines được biết đến ở nước ngoài. Các tác phẩm của ông, Noli me Tangere và El Filibusterismo, là những tác phẩm bắt buộc đối với các sinh viên Philippines, minh hoạ cuộc sống thuộc địa dưới chế độ cai trị Tây Ban Nha. Nó mang lại một ý thức đồng nhất quốc gia và sự tiếp nối lịch sử. Andrés Bonifacio đã lập ra phong trào tiền độc lập Katipunan khiến chế độ cai trị Tây Ban Nha phải chấm dứt. Nhiều tranh cãi tồn tại về việc chính ông, chứ không phải Rizal, là anh hùng quốc gia. Ninoy Aquino cũng được kính trọng rộng rãi với tư cách là người tử vì đạo của cuộc cách mạng Sức mạnh nhân dân.
Xem thêm
Tham khảo
- ^ Dân số các Quốc Gia trên Thế Giới, CIA World Factbook ước tính
- ^ Department of Economic and Social Affairs Population Division (2010). National Statistics Office 2000 Census-based Population Projection. 2010 revision. Philippine National Statistics Office. Truy cập ngày 21 tháng 5 năm 2011.
- ^ Bách khoa toàn thư Việt Nam
- ^ General Profile of the Philippines : Geography tại Wayback Machine (được lưu trữ ngày 4 tháng tháng 11 năm 2005). (archived from the original on 2005-11-04), Philippine Information Agency.
- ^ Projected Population as of May 6, 2013, PH: Commission on Population, 6 tháng 5 năm 2013
- ^ Global Pinoys to rally at Chinese consulates – The Philippine Star » News » Headlines. Philstar.com (2012-04-27). Retrieved on 2012-07-04.
- ^ “Cebu”. encyclopedia.com, citing The Columbia Encyclopedia, Sixth Edition. Truy cập ngày 4 tháng 7 năm 2010.
- ^ Zaide, Sonia M. (1994). The Philippines: A Unique Nation. All-Nations Publishing Co. tr. 354. ISBN 971-642-071-4.
- ^ Jonathan H. Ping Middle Power Statecraft (p 104)
- ^ Henderson, Barney (4 tháng 8 năm 2010). “Archaeologists unearth 67000-year-old human bone in Philippines”. The Daily Telegraph (London). Truy cập ngày 4 tháng 8 năm 2010.
- ^ Fox, Robert B. (1970). The Tabon Caves: Archaeological Explorations and Excavations on Palawan. National Museum. tr. 44. ASIN B001O7GGNI. Truy cập ngày 16 tháng 12 năm 2009.
- ^ Scott, William Henry. (1984). Prehispanic Source Materials for the Study of Philippine History. Quezon City: New Day Publishers. tr. 15. ISBN 971-10-0227-2.
- ^ Scott, William Henry. (1984). Prehispanic Source Materials for the Study of Philippine History. Quezon City: New Day Publishers. tr. 138. ISBN 971-10-0227-2. “Not one roof beam, not one grain of rice, not one pygmy Negrito bone has been recovered. Any theory which describes such details is therefore pure hypothesis and should be honestly presented as such.”
- ^ Solheim, Wilhelm G., II. (tháng 1 năm 2006). Origins of the Filipinos and Their Languages. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 8 năm 2008. Truy cập ngày 27 tháng 8 năm 2009.
- ^ Mijares, Armand Salvador B. (2006). The Early Austronesian Migration To Luzon: Perspectives From The Peñablanca Cave Sites. Bulletin of the Indo-Pacific Prehistory Association 26: 72–78.
- ^ “Timeline of history”. Truy cập ngày 9 tháng 10 năm 2009.
- ^ Ring, Trudy, Robert M. Salkin, and Sharon La Boda. (1996). International Dictionary of Historic Places: Asia and Oceania. Taylor & Francis. tr. 565–569. ISBN 1-884964-04-4. Truy cập ngày 7 tháng 1 năm 2010.
- ^ Zaide, Gregorio F. (1957). Philippine Political and Cultural History. Philippine Education Co. tr. 42. Truy cập ngày 7 tháng 1 năm 2010.
- ^ Trương Tiếp. (1618) (bằng chữ Hán). Đông Tây Dương khảo quyển 5 (tiếng Trung: 東西洋考). ISBN 7532515931. MID 00024687. Retrieved 2009-12-18.
- ^ Ibrahim 1985, tr. 51Bản mẫu:Cnf
- ^ “Filipino epic comes to life”.
- ^ 100 Events That Shaped The Philippines (Adarna Book Services Inc. 1999 Published by National Centennial Commission) Page 72 "The Founding of the Sulu Sultanate"
- ^ Bascar, C.M. (n.d.). Sultanate of Sulu, "The Unconquered Kingdom". Retrieved 2009-12-19 from The Royal Hashemite Sultanate of Sulu & Sabah Official Website.
- ^ "The Maguindanao Sultanate", Moro National Liberation Front web site. "The Political and Religious History of the Bangsamoro People, condensed from the book Muslims in the Philippines by Dr. C. A. Majul." Retrieved January 9, 2008.
- ^ Pusat Sejarah Brunei. Retrieved February 7, 2009.
- ^ McAmis, Robert Day (2002). Malay Muslims: The History and Challenge of Resurgent Islam in Southeast Asia. Wm. B. Eerdmans Publishing. tr. 18–24, 53–61. ISBN 0-8028-4945-8. Truy cập ngày 7 tháng 1 năm 2010.
- ^ Munoz, Paul Michel (2006). Early Kingdoms of the Indonesian Archipelago and the Malay Peninsula. Singapore: Editions Didier Millet. tr. 171. ISBN 981-4155-67-5.
- ^ U.S. Department of State. Bureau of East Asian and Pacific Affairs. (June 2009). Background Note: Brunei. Retrieved 2009-12-18.
- ^ a b c Agoncillo, Teodoro A. (1990). History of the Filipino People (ấn bản 8). Garotech Publishing. tr. 22. ISBN 971-8711-06-6.
- ^ Zaide, Gregorio F. and Sonia M. Zaide (2004). Philippine History and Government (ấn bản 6). All-Nations Publishing Company.
- ^ Kurlansky, Mark. (1999). The Basque History of the World. New York: Walker & Company. p. 64. ISBN 0-8027-1349-1.
- ^ a b Joaquin, Nick. (1988). Culture and History: Occasional Notes on the Process of Philippine Becoming. Manila: Solar Publishing.
- ^ Dolan, Ronald E. (Ed.). (1991). "Education". Philippines: A Country Study. Washington: GPO for the Library of Congress. Retrieved 2009-12-20 from Country Studies US Website.
- ^ Halili, Maria Christine N. (2004). Philippine History. Rex Bookstore. tr. 119–120. ISBN 971-23-3934-3. Truy cập ngày 8 tháng 1 năm 2010.
- ^ De Borja, Marciano R. (2005). Basques in the Philippines. University of Nevada Press. tr. 81–83. ISBN 0-87417-590-9. Truy cập ngày 8 tháng 1 năm 2010.
- ^ a b Nuguid, Nati. (1972). "The Cavite Mutiny". in Mary R. Tagle. 12 Events that Have Influenced Philippine History. [Manila]: National Media Production Center. Retrieved 2009-12-20 from StuartXchange Website.
- ^ a b Joaquin, Nick. A Question of Heroes.
- ^ a b Richardson, Jim. (tháng 1 năm 2006). “Andrés Bonifacio Letter to Julio Nakpil, April 24, 1897”. Documents of the Katipunan. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 1 năm 2013. Truy cập ngày 19 tháng 12 năm 2009.
- ^ a b Ocampo, Ambeth. (1999). Rizal Without the Overcoat . Pasig City: Anvil Publishing, Inc. ISBN 971-27-0920-5.
- ^ Price, Michael G. (2002). Foreword. In A. B. Feuer, America at War: the Philippines, 1898–1913 (pp. xiii–xvi). Westport, Connecticut: Greenwood. ISBN 0-275-96821-9.
- ^ Gates, John M. (tháng 11 năm 2002). “The Pacification of the Philippines”. The U.S. Army and Irregular Warfare. Truy cập ngày 20 tháng 2 năm 2010.
- ^ Kho, Madge. “The Bates Treaty”. PhilippineUpdate.com. Truy cập ngày 2 tháng 12 năm 2007.
- ^ a b {{|url=http://benjieordonez.blogspot.com/2005/01/visayan-film-industry-retrospective.html%7Cdate=5 January 2005 |accessdate=2013-09-07 |format=Fee required}}
- ^ 2013 Philippines Yearly Box Office Results
- ^ Armes, Roy. "Third World Film Making and the West", p.152. University of California Press, 1987. Retrieved on 2011-01-09.
- ^ "The Role of José Nepomuceno in the Philippine Society: What language did his silent film speaks?". Stockholm University Publications. Retrieved on 2014-01-28.
- ^ Moore, Charles (1921). "Daniel H. Burnham: Planner of Cities". Houghton Mifflin and Co., Boston and New York.
- ^ Manapat, Carlos, et al. Economics, Taxation, and Agrarian Reform. Quezon City: C&E Pub., 2010.Print.
- ^ White, Matthew. "Death Tolls for the Man-made Megadeaths of the 20th Century". Retrieved 2007-08-01.
- ^ Rottman, Gordon L. (2002). World War 2 Pacific Island Guide – A Geo-Military Study. Westport, Connecticut: Greenwood Press. p. 318. ISBN 0-313-31395-4.
- ^ “Founding Member States”. United Nations.
- ^ a b c d e f g “World Factbook — Philippines”. CIA. Truy cập ngày 24 tháng 7 năm 2008.
- ^ Jeff Goodwin, No Other Way Out, Cambridge University Press, 2001, p.119, ISBN 0-521-62948-9, ISBN 978-0-521-62948-5
- ^ Molina, Antonio. The Philippines: Through the centuries. Manila: University of Sto. Tomas Cooperative, 1961. Print.
- ^ Carlos P. Romulo and Marvin M. Gray, The Magsaysay Story (1956), is a full-length biography
- ^ “Our Vision and Mission”. prescarlosgarcia.org.
- ^ Diosdado Macapagal, Proclamation No. 28 Declaring June 12 as Philippine Independence Day, Philippine History Group of Los Angeles, truy cập ngày 11 tháng 11 năm 2009
- ^ Manuel S. Satorre, Jr., President Diosdado Macapagal set RP Independence Day on June 12, .positivenewsmedia.net, truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2008
- ^ http://www.sabrizain.org/malaya/library/connections.pdf
- ^ Weatherbee, Donald E.; Ralf Emmers, Mari Pangestu, Leonard C. Sebastian (2005). International relations in Southeast Asia. Rowman & Littlefield. tr. 68–69. ISBN 0-7425-2842-1. Truy cập ngày 29 tháng 5 năm 2009.
- ^ What happened to the Marcos fortune?. BBC News. 24 January 2013.
- ^ Tarling, Nicholas (2000). The Cambridge History of Southeast Asia: From World War II to the Present, Volume 4. Cambridge University Press. tr. 293. ISBN 0-521-66372-5. Truy cập ngày 7 tháng 1 năm 2010.
- ^ a b Chandler, David P. and David Joel Steinberg (1987). In Search of Southeast Asia: A Modern History (ấn bản 2). University of Hawaii Press. tr. 431–442. ISBN 0-8248-1110-0. Truy cập ngày 7 tháng 1 năm 2010.
- ^ Osborne, Milton E. (2004). Southeast Asia: An Introductory History (ấn bản 9). Allen & Unwin. tr. 235–241. ISBN 1-74114-448-5. Truy cập ngày 7 tháng 1 năm 2010.
- ^ Gov't drafts new framework to guide peace talks with leftist rebels.Philippine Star.
- ^ Julie Alipala (2 tháng 10 năm 2010). “RP terror campaign cost lives of 11 US, 572 RP soldiers—military”. Philippine Daily Inquirer. Truy cập ngày 1 tháng 5 năm 2012.
- ^ a b Gargan, Edward A. (11 tháng 12 năm 1997). “Last Laugh for the Philippines; Onetime Joke Economy Avoids Much of Asia's Turmoil”. New York Times. Truy cập ngày 25 tháng 1 năm 2008.
- ^ “Financial Crisis and Global Governance: A Network Analysis”. Tháng 7 năm 2009. Truy cập ngày 11 tháng 6 năm 2012. by Andrew Sheng, Adj. Prof., Tsinghua University and University of Malaya
- ^ “Analyzing Systemic Risk with Financial Networks During a Financial Crash”. 10 tháng 3 năm 2011. Truy cập ngày 11 tháng 6 năm 2012. by Taylan Yenilmez, Tinbergen Institute and Burak Saltoglu, Bogazici University
- ^ Bowring, Philip. Filipino Democracy Needs Stronger Institutions. International Herald Tribune website. 2001, January 22. Retrieved January 27, 2009.
- ^ “Bolante Faces Off with Senators Over Fertilizer Fund Scam”. ANC. 13 tháng 11 năm 2008. Truy cập ngày 4 tháng 12 năm 2008.
- ^ "Arroyo claims hollow victory" by Leslie Davis, Asia Times Online, September 27, 2005.
- ^ Dizon, David. “Corruption was Gloria's biggest mistake: survey”. ABS-CBN News and Current Affairs. Truy cập ngày 15 tháng 4 năm 2012.
- ^ Press, Associated (18 tháng 11 năm 2011). “Philippines charges Gloria Arroyo with corruption”. The Guardian. Truy cập ngày 15 tháng 4 năm 2012. “Former president is formally accused of electoral fraud after government rushed to court as she tried to leave country”
- ^ Speech of President Benigno Aquino III during the signing of the Framework Agreement on the Bangsamoro
- ^ “The Republic of the Philippines v. The People's Republic of China”. Pca-cpa.org. Truy cập ngày 24 tháng 10 năm 2013.
- ^ Del Cappar, Michaela (25 tháng 4 năm 2013). “ITLOS completes five-man tribunal that will hear PHL case vs. China”. GMA News One. Truy cập ngày 24 tháng 10 năm 2013.
- ^ Frialde, Mike (23 tháng 2 năm 2013). “Sultanate of Sulu wants Sabah returned to Phl”. The Philippine Star. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2013.
- ^ “Country description”. US State Department Website. US State Department Website. Tháng 1 năm 2012. Truy cập ngày 24 tháng 1 năm 2012. “The Philippines is an emerging economy with a democratic system of government.”
- ^ Robles, Alan C. (July–August 2008). “Civil service reform: Whose service?”. D+C (Internationale Weiterbildung und Entwicklung [InWEnt]) 49: 285–289. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2008.
- ^ Bigornia, Amante. (17 tháng 9 năm 1997). “The 'consultations' on Charter change”. The Manila Standard. Truy cập ngày 13 tháng 12 năm 2009.
- ^ a b c d e f g General Information tại Wayback Machine (được lưu trữ ngày 22 tháng tháng 10 năm 2007).. (older version – as it existed in 2007 – during the presidency of Gloria Macapagal Arroyo), The Official Government Portal of the Republic of the Philippines.
- ^ "Guide to the Philippines conflict". (2007-08-10). BBC News. Retrieved 2009-12-16.
- ^ World Bank. Conflict Prevention & Reconstruction Unit. (February 2005). The Mindanao Conflict in the Philippines: Roots, Costs, and Potential Peace Dividend by Salvatore Schiavo-Campo and Mary Judd. Washington, D.C.: World Bank. (Social Development Paper No. 24). Retrieved 2009-12-16.
- ^ Liefer, Michael. (2005). Michael Liefer – Selected Works on Southeast Asia (Chin, Kin-Wah & Leo Suryadinata, Eds.). Singapore: Institute of Southeast Asian Studies. ISBN 981-230-270-0.
- ^ The White House. (27 tháng 3 năm 2003). “Coalition Members”. Truy cập ngày 18 tháng 12 năm 2009.
- ^ “RDC chooses Zamboanga City as regional center of Region 9”. Zambotimes.com. 4 tháng 3 năm 2011. Truy cập ngày 18 tháng 6 năm 2012.
- ^ “A Resolution Endorsing Zamboanga City as the location of Regional Center of Region IX”. Regional Development Council IX. 3 tháng 3 năm 2011. Truy cập ngày 18 tháng 6 năm 2012.
- ^ Central Intelligence Agency. (2009). "Field Listing :: Coastline". Washington, D.C.: Author. Retrieved 2009-11-07.
- ^ Republic of the Philippines. Department of Tourism. [c. 2008]. Leyte is Famous For... tại Wayback Machine (được lưu trữ ngày 27 tháng tháng 4 năm 2012). (archived from the original on 2012-04-27). Retrieved 2010-03-21 from www.travelmart.net. Archived from the original.
- ^ “Submissions, through the Secretary-General of the United Nations, to the Commission on the Limits of the Continental Shelf, pursuant to article 76, paragraph 8, of the United Nations Convention on the Law of the Sea of 10 December 1982”. United Nations Commission on the Limits of the Continental Shelf. 28 tháng 5 năm 2009. Truy cập ngày 29 tháng 5 năm 2009.
- ^ La Putt, Juny P. [c. 2003]. The 1990 Baguio City Earthquake. Retrieved 2009-12-20 from The City of Baguio Website.
- ^ Newhall, Chris, James W. Hendley II, and Peter H. Stauffer. (28 tháng 2 năm 2005). “The Cataclysmic 1991 Eruption of Mount Pinatubo, Philippines (U.S. Geological Survey Fact Sheet 113-97)”. U.S. Department of the Interior. U.S. Geological Survey. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 8 năm 2013. Truy cập ngày 9 tháng 4 năm 2007.
- ^ “Puerto-Princesa Subterranean River National Park”. UNESCO World Heritage Centre. Truy cập ngày 4 tháng 5 năm 2013.
- ^ a b Greenlees, Donald. (14 tháng 5 năm 2008). “Miners shun mineral wealth of the Philippines”. The New York Times. Truy cập ngày 11 tháng 12 năm 2009.
- ^ Davies, Ed and Karen Lema. (29 tháng 6 năm 2008). “Pricey oil makes geothermal projects more attractive for Indonesia and the Philippines”. The New York Times. Truy cập ngày 18 tháng 12 năm 2009.
- ^ a b "Natural Resources and Environment in the Philippines". (n.d.). eTravel Pilipinas. Retrieved January 22, 2009.
- ^ Chanco, Boo. (7 tháng 12 năm 1998). “The Philippines Environment: A Warning”. The Philippine Star. Retrieved 2010-02-15 from gbgm-umc.org.
- ^ Williams, Jann, Cassia Read, Tony Norton, Steve Dovers, Mark Burgman, Wendy Proctor, and Heather Anderson. (2001). “The Meaning, Significance and Implications of Biodiversity (continued)”. Biodiversity Theme Report. CSIRO on behalf of the Australian Government Department of the Environment and Heritage. ISBN 0-643-06749-3. Truy cập ngày 6 tháng 11 năm 2009.
- ^ Carpenter, Kent E. and Victor G. Springer. (tháng 4 năm 2005). “The center of the center of marine shore fish biodiversity: the Philippine Islands”. Environmental Biology of Fishes (Springer Netherlands) 74 (2): 467–480. doi:10.1007/s10641-004-3154-4.
- ^ a b Rowthorn, Chris and Greg Bloom. (2006). Philippines (ấn bản 9). Lonely Planet. tr. 52. ISBN 1-74104-289-5.
- ^ Regalado, Jacinto C. Jr. and Lawrence R. Heaney. (1998). "Vanishing Treasures" tại Wayback Machine (được lưu trữ ngày 18 tháng tháng 3 năm 2009).. In Lawrence R. Heaney, Vanishing Treasures of the Philippine Rain Forest. Chicago: Field Museum. (archived from the original on 2009-03-18).
- ^ [1][liên kết hỏng]
- ^ BirdLife International. (2004). Pithecophaga jefferyi. Sách đỏ 2006. IUCN 2006. Truy cập 2009-1-7.
- ^ Peralta, Eleno O. (2005). "21. Forests for poverty alleviation: the response of academic institutions in the Philippines". In Sim, Appanah, and Hooda (Eds.). Proceedings of the workshop on forests for poverty reduction: changing role for research, development and training institutions (RAP Publication). Food and Agriculture Organization (FAO). Retrieved 2009-12-20.
- ^ Heaney, Lawrence R. [c. 2002]. "The Causes and Effects of Deforestation" tại Wayback Machine (được lưu trữ ngày 17 tháng tháng 3 năm 2009).. Field Museum of Natural History. (archived from the original on 2009-03-17)
- ^ Kirby, Alex. (2003-07-23). SE Asia faces 'catastrophic' extinction rate. BBC News. Retrieved 2009-12-20.
- ^ a b c Philippine Atmospheric, Geophysical and Astronomical Services Administration. (16 tháng 2 năm 2014). “Climate of the Philippines”. Truy cập ngày 24 tháng 4 năm 2010.
- ^ Lonely Planet. (n.d.). Philippines: When to go & weather. Retrieved 2009-01-23.
- ^ a b c Library of Congress – Federal Research Division. (March 2006). Country Profile: Philippines. Retrieved 2009-12-17.
- ^ Chong, Kee-Chai, Ian R. Smith, and Maura S. Lizarondo. (1982). “III. The transformation sub-system: cultivation to market size in fishponds”. Economics of the Philippine Milkfish Resource System. The United Nations University. ISBN 92-808-0346-8. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 14 tháng 5 năm 2009.
- ^ Philippine Atmospheric, Geophysical and Astronomical Services Administration (PAGASA). (tháng 1 năm 2009). Member Report to the ESCAP/WMO Typhoon Committee, 41st Session. Truy cập ngày 17 tháng 12 năm 2009.
- ^ Monthly Typhoon Tracking Charts. (2010). Retrieved 2010-04-24 from the National Institute of Informatics, Kitamoto Laboratory, Digital Typhoon Website.
- ^ Republic of the Philippines. National Statistical Coordination Board. “Third Quarter 2009 Gross National Product and Gross Domestic Product by Industrial Origin”. Truy cập ngày 11 tháng 12 năm 2009.
- ^ a b Republic of the Philippines. National Statistics Office. (tháng 10 năm 2009). “Quickstat” (PDF). Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 7 năm 2012. Truy cập ngày 11 tháng 12 năm 2009.
- ^ The Filipina sisterhood. (2001-12-20). The Economist. Retrieved 2009-11-09.
- ^ a b c Ure, John (2008). Telecommunications Development in Asia. Hong Kong University Press. tr. 301–302. ISBN 978-962-209-903-6.
- ^ Felix, Rocel. (2008-01-25). 2007 GDP seen growing at fastest rate in 30 years. The Philippine Daily Inquirer. Retrieved 2010-05-29.
- ^ Philippines Aims to Boost Growth by 2009 tại Wayback Machine.. (2007-02-20). Forbes. Associated Press. Archived from the original on 2007-02-22. Retrieved 2008-01-09.
- ^ United Nations Development Programme. (2009). “Table G: Human development and index trends, Table I: Human and income poverty”. Human Development Report 2009 – Overcoming barriers: Human mobility and development (Palgrave Macmillan). ISBN 978-0-230-23904-3.
- ^ Reddel, Paul (2009-05-27). Infrastructure & Public-Private Partnerships in East Asia and the Philippines [PowerPoint slides]. Presentation in Manila to the American Foreign Chambers of Commerce of the Philippines. Retrieved 2010-02-13 from the Public-Private Infrastructure Advisory Facility (PPIAF) Website.
- ^ Beyond 'Imperial Manila' tại Wayback Machine (được lưu trữ ngày 14 tháng tháng 11 năm 2012). (archived from the original on 2012-11-14). (2006-07-25). The Manila Standard Today. Archived from the original on unknown date. Retrieved 2009-12-16.
- ^ Llorito, David. (10 tháng 5 năm 2006). “Help wanted for Philippines outsourcing”. Asia Times. Truy cập ngày 11 tháng 12 năm 2009.
- ^ Wilson, Dominic and Anna Stupnytska. (2007-03-28). "The N-11: More Than an Acronym" (Global Economics Paper No: 153). Goldman Sachs Economic Research. Retrieved 2009-11-07,
- ^ Kevin Voigt (2012-01-12). World's top economies in 2050 will be... CNN.
- ^ a b World Bank. [c. 2010]. Transport in the Philippines – Overview[liên kết hỏng]. Retrieved 2010-03-18 from the World Bank Website.
- ^ “Government keen on improving public transport system”. Philstar. Truy cập ngày 30 tháng 1 năm 2013.
- ^ The Philippine Transportation System. (2008-08-30). Asian Info. Retrieved January 22, 2009.
- ^ Strong Republic Nautical Highway. (n.d.). Official Website of President Gloria Macapagal Arroyo. Retrieved January 22, 2009.
- ^ Gov't revives Pasig River ferry service. (2007-02-14). GMA News. Retrieved 2009-12-18.
- ^ “About PAL”. Philippineairlines.com. Truy cập ngày 4 tháng 5 năm 2013.
- ^ State of Hawaii. Department of Transportation. Airports Division. [c. 2005]. "Philippine Air Lines". Hawaii Aviation. Retrieved 2010-01-09.
- ^ Oxford Business Group. (2009). The Report: Philippines 2009. tr. 97. ISBN 1-902339-12-6.
- ^ CO2 Emissions from Fuel Combustion Population 1971–2008 (pdf page 86); page 86 of the pdf, IEA (OECD/ World Bank) (original population ref OECD/ World Bank e.g. in IEA Key World Energy Statistics 2010 page 57)
- ^ Republic of the Philippines. National Statistical Coordination Board. Population of the Philippines Census Years 1799 to 2007. Retrieved 2009-12-11.
- ^ Republic of the Philippines. National Statistics Office. (2008). “Official population count reveals..”. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 9 năm 2012. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2008.
- ^ “Bishops threaten civil disobedience over RH bill”. GMA News. 29 tháng 9 năm 2010. Truy cập ngày 16 tháng 10 năm 2010.
- ^ Central Intelligence Agency. “Field Listing :: Life expectancy at birth”. Washington, D.C.: Author. Truy cập ngày 11 tháng 12 năm 2009.
- ^ Jan Lahmeyer (1996). “The Philippines: historical demographical data of the whole country”. Truy cập ngày 19 tháng 7 năm 2003.
- ^ Voz de Galicia (1898). “CENSOS DE CUBA,PUERTO RICO, FILIPINAS Y ESPAÑA .ESTUDIO DE SU RELACION”. Truy cập ngày 12 tháng 12 năm 2010.
- ^ Capelli, Cristian; James F. Wilson, Martin Richards, et al. (2001). “A Predominantly Indigenous Paternal Heritage for the Austronesian-Speaking Peoples of Insular Southeast Asia and Oceania”. Am. J. Hum. Genet. 68: 432–443.
-
- PSE: Philippine Stock Exchange. URL accessed March 29th, 2006.
Liên kết ngoài
Tìm thêm về Philippines tại những đồng dự án của Wikipedia: | |
Từ điển ở Wiktionary | |
Sách ở Wikibooks | |
Cẩm nang du lịch ở Wikivoyage | |
Hồ sơ ở Wikiquote | |
Văn kiện ở Wikisource | |
Hình ảnh và phương tiện ở Commons | |
Tin tức ở Wikinews | |
Tài liệu giáo dục ở Wikiversity |
- Chính thức
- Official website of the Philippine Government - Gateway to governmental sites
- Supreme Court
- Department of Foreign Affairs
- Wow Philippines + Travel and Tourism
- Visit the Philippines!: Full length travel video
- Department of Trade and Industry
- Commission on Information and Communications Technology
- Khác
Wikivoyage có chỉ dẫn du lịch về Philippines |
- Bản mẫu:Wikicities
- BBC Country Profile on the Philippines
- U.S. Country Studies: Philippines
- Philippine Directory
- Uncommon Travel Photography - Various pictures by Peace Corps volunteers in the Philippines
|
|
|
Thể loại:
Video yêu thích
http://www.youtube.com/user/hoangkimvietnam
Trở về trang chính
Hoàng Kim, hoangkim, hoangkimvietnam, Ngọc Phương Nam, Chào ngày mới Thung dung, Dạy và học, Cây Lương thực, Tin Nông nghiệp Việt Nam, Food Crops, Cassava in Vietnam, Khát khao xanh, Dayvahoc, Học mỗi ngày, Danh nhân Việt , Food Crops News, Điểm chính, CNM365, Kim LinkedIn, KimTwitter, KimFaceBook Đọc lại và suy ngẫm, Việt Nam tổ quốc tôi, Tình yêu cuộc sống, Thơ cho con
http://www.youtube.com/user/hoangkimvietnam
Trở về trang chính
Hoàng Kim, hoangkim, hoangkimvietnam, Ngọc Phương Nam, Chào ngày mới Thung dung, Dạy và học, Cây Lương thực, Tin Nông nghiệp Việt Nam, Food Crops, Cassava in Vietnam, Khát khao xanh, Dayvahoc, Học mỗi ngày, Danh nhân Việt , Food Crops News, Điểm chính, CNM365, Kim LinkedIn, KimTwitter, KimFaceBook Đọc lại và suy ngẫm, Việt Nam tổ quốc tôi, Tình yêu cuộc sống, Thơ cho con
No comments:
Post a Comment