CNM365 Chào ngày mới 19 tháng 2 Wikipedia Ngày này năm xưa Bắt đầu Vũ thủy tại Đông Á (2014), Ngày Lục quân tại Mexico. Năm 197 – Hoàng đế La Mã Septimius Severus đánh bại Clodius Albinus trong trận chiến tại Lugdunum (Lyon ngày nay), trận đánh đẫm máu nhất giữa quân đội La Mã với nhau. Năm 1878 – Thomas Edison được cấp bằng sáng chế cho máy hát đĩa. Năm 1945 – Đệ nhị thế chiến: Khoảng 30.000 thủy quân lục chiến Hoa Kỳ đổ bộ lên đảo Io, chiến đấu với quân đội Nhật Bản đồn trú trên đảo. Năm 1965 – Tướng Lâm Văn Phát và Đại tá Phạm Ngọc Thảo tiến hành đảo chính bất thành tại Việt Nam Cộng hòa. Năm 1986 – Trạm vũ trụ Hòa Bình (hình) của Liên Xô được phóng thành công lên không gian, trạm hoạt động cho đến năm 2001.
Trạm vũ trụ Hòa Bình
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Mir | ||
---|---|---|
Mir nhìn từ Tàu con thoi Discovery, ngày 12 tháng 6 năm 1998 | ||
Mir insignia. | ||
Thông số | ||
Tín hiệu: | Mir | |
Phi hành đoàn: | 3 | |
Ngày phóng: | 1986–1996 | |
Địa điểm phóng: | LC-200/39, and LC-81/23, Baikonur Cosmodrome LC-39A, Kennedy Space Center |
|
Quay lại: | 2001-03-23 05:50:00 UTC |
|
Khối lượng: | 124,340 kg (274,123 lb) |
|
Thể tích khả dụng: | 350 m³ | |
Cận điểm: | 385 km (208 nmi) | |
Viễn điểm: | 393 km (212 nmi) | |
Độ nghiêng quỹ đạo: | 51.6 degrees | |
Chu kỳ quỹ đạo: | 88.15 minutes | |
Số lần bay quanh mỗi ngày: | 16.34 | |
Số ngày trên quỹ đạo: | 5,519 days | |
Số ngày trên trạm: | 4,592 days | |
Số lần bay quanh: | c.86,331 | |
Thống kê vào 04:57:10 UTC, March 23, 2001. | ||
Tham khảo: [1] | ||
Cấu hình | ||
May 1996 configuration of Mir. | ||
Mir |
Đặc điểm
- Mô-đun chính của Mir (90 m³) chỉ làm nhiệm vụ "Trung tâm điều khiển bay và rèn luyện thể lực" cho các phi hành gia
- Mô-đun phụ Kvant-1 (Квант-1), với thể tích 40 m³, lại có nhiệm vụ rất quan trọng trong các nghiên cứu về vật lý, thiên văn học và các thí nghiệm sinh học. Nơi đây, các kính viễn vọng đã phóng tầm nhìn về phía rìa vũ trụ để nhận biết sự co giãn của vũ trụ sau Vụ Nổ Lớn. Việc hình thành và hủy diệt của các thiên hà trong vũ trụ cũng được quan sát nơi đây. Điều thú vị là trong khoảng không gian này có nuôi một số con vật bé nhỏ mang lên từ Trái Đất như cá trê, gà con... chúng được dùng làm thí nghiệm trong tình trạng không trọng lực đối với loài vật.
- Mô-đun phụ Kvant-2 (Квант-2) lại có nhiệm vụ khác. Đó là nơi chứa thức uống, ôxi và thực phẩm cho các nhà du hành. Nó có một cánh cửa giúp cho các nhà du hành từ trạm bước đến và đi bộ trong không gian với tình trạng không trọng lực. Nhiều tình huống bắt buộc họ phải ra ngoài như: sữa chửa các tấm pin mặt trời, hỗ trợ hoạt động cho các cánh tay robot... Mô-đun này còn có nhiệm vụ quan sát Trái Đất. Cũng chính nơi đây, các nhà khoa học đã khám phá ra lỗ hổng tầng ozone ở Nam Cực, rộng 20 triệu km². Từ đây, người ta cũng có thể quan sát những vụ cháy rừng khổng lồ ở Indonesia, Brasil hay Bắc Mỹ. Ngoài ra còn có thể dự báo đường đi của một số cơn bão như Elizabeth, Linda... hình thành trên Thái Bình Dương.
- Mô-đun Spektr (Спектр) làm nhiệm vụ cung cấp năng lượng cho toàn trạm không gian. Nó có hai tấm pin mặt trời xòe ra như hai cánh bướm bay trong vũ trụ với công suất 7000W. Có một sự cố đã xảy ra cho một trong hai tấm pin này khi tàu vận tải Progress cập mạng MIir không chuẩn xác, đâm thẳng vào một tấm pin làm trạm không gian này mất một phần năng lượng.
- Mô-đun Kristall (Кристалл)
- Mô-đun Priroda (Природа)
Kỉ lục
Suốt 15 năm bay vòng quanh Trái Đất với 23.000 thí nghiệm khoa học. Đây là kỉ lục độc nhất của ngành hàng không vũ trụ thế kỉ 20. Đón nhận 104 lượt phi hành gia đến làm nhiệm vụ nghiên cứu khoa học. Đợt lưu trú dài ngày nhất trên Mir là của phi hành gia Nga Valeri Vladimirovich Polyakov (437 ngày). Mir cũng không thể thoát một số tai nạn khi thực hiện sứ mạng: hỏa hoạn (2/1997), mất điện do va chạm với tàu vận tải Tiến bộ̣ (6/1997), mất liên lạc với mặt đất suốt hai tháng (2000). Đầu năm 2001, Nga quyết định đưa Mir về Trái Đất vì nó tồn tại quá lâu, phục vụ nhân loại gấp ba lần thời hạn thiết kế ban đầu là 5 năm. Trước khi về Trái Đất, người ta cũng khá lo ngại về trường hợp Mir có thể gây ra những thảm họa khi nó rơi xuống các khu dân cư hay thành phố lớn. Nhưng điều này không xảy ra, Mir đã được cố ý phá vỡ khi gia nhập khí quyển và các phần vỡ đã chọn một diện tích 1500 km² trên vùng biển Nam Thái Bình Dương để làm phần mộ của mình vào ngày 23 tháng 3 năm 2001.Chú thích
- ^ “Mir-Orbit Data”. Heavens-Above.com. 23 tháng 3 năm 2001. Truy cập ngày 30 tháng 6 năm 2009.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Phương tiện liên quan tới Mir tại Wikimedia CommonsWikimedia Commons có thêm thể loại hình ảnh và tài liệu về Trạm vũ trụ Hòa Bình |
Thể loại:
Lâm Văn Phát (1927-1998) là một cựu tướng lĩnh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa.
Ông là một quân nhân có vai trò quan trọng trong giai đoạn 1963 - 1965
và là Tư lệnh Biệt khu Thủ đô cuối cùng của Việt Nam Cộng hòa.
Khi quân Pháp nổ súng tái chiếm Nam Bộ, ông bị buộc phải trở về Cần Thơ và tiếp tục học. Sau khi tốt nghiệp Tú tài, bị quân đội Pháp trưng dụng, phong cấp Thiếu úy phục vụ trong Quân đội Pháp[2]. Năm 1946, ông đào nhiệm và trốn vào căn cứ của khu 8. Tại đây, ông được phân công làm Trung đội trưởng Vệ Quốc đoàn, sau đó được rút về phân công huấn luyện Trường quân chính khu. Tuy vậy, sau một thời gian, năm 1948, ông đào ngũ và trở về lại Cần Thơ.
Sau khi về lại Cần Thơ, ông trốn tại nhà người chị ruột, khi đó đã li dị với chồng cũ và đang làm hộ sinh tại Cần Thơ. Với sự giúp đỡ của ông Trần Hiếu, người tình và sau này là chồng thứ hai của người chị ruột, lúc đấy là sĩ quan phiên dịch trong quân đội Pháp tại chiến trường Nam Bộ, ông được thu xếp sang Pháp ở nhà một chính khách Pháp để học ngành cơ khí. Tuy nhiên, không lâu sau thì cả chị ông và người anh rể đều bị lộ là tình báo viên của Việt Minh và phải trốn ra chiến khu. Ông cũng bị phát hiện, bị bắt giam và đối diện với án tử hình do tội đào ngũ. Nhờ các vận động của người đỡ đầu (cũng chính là nhân tình của người chị ruột khi còn ở Việt Nam), ông thoát án với điều kiện phải vào học Trường thiết giáp của Lục quân Pháp mở ở Oran - Bắc Phi, sau đó phải tiếp tục phục vụ trong Quân đội Pháp.
Năm 1950, ông tòng sự tại Võ phòng của Quốc trưởng Bảo Đại với hàm Đại úy [3].
Năm 1952, ông công tác tại Bộ Tổng tham mưu Quân đội Quốc gia Việt Nam được thành lập, với hàm Thiếu tá.
Năm 1954, ông được thăng Trung tá.[2]
Năm 1958, ông được cử đi học tại Trường Sỹ quan Chỉ huy và Tổng tham mưu (US Army Command and General Staff College) Fort Leavenworth tại Hoa Kỳ và tốt nghiệp 1 năm sau đó. Sau khi về nước, ông được thăng quân hàm Đại tá. Tuy vậy, ông vậy không được trọng dụng, có lẽ vì quá khứ đào ngũ, cũng như mối liên hệ gia đình với phía đối phương. Điều này làm nảy sinh bất mãn, đưa ông thành một trong những sỹ quan cấp cao đầu tiên gia nhập nhóm các tướng lĩnh đảo chính năm 1963.
Sau khi đảo chính thành công, ông được giao nhiệm vụ Phó tư lệnh Quân đoàn 3, kiêm tư lệnh Sư đoàn 7. Ngày 30 tháng 1 năm 1964, ông tham gia nhóm Nguyễn Khánh làm cuộc chỉnh lý truất phế các tướng Dương Văn Minh, Trần Văn Đôn, Lê Văn Kim, Mai Hữu Xuân. Do công trạng này, ông được tướng Nguyễn Khánh thăng chức làm Tư lệnh Quân đoàn 3. Đến tháng 4 năm 1964, ông giữ chức Tổng trưởng Nội vụ trong chính phủ của tướng Nguyễn Khánh.
Ngày 13 tháng 9 năm 1964, ông cùng với Trung tướng Dương Văn Đức dẫn lực lượng Quân đoàn 4 kéo về Sài Gòn thị uy, dự định lật đổ chính phủ Nguyễn Khánh để nắm quyền nhưng bất thành do thiếu kiên quyết và thiếu sự ủng hộ của nhiều thế lực khác nhau. Ngày 15 tháng 9, tướng Nguyễn Khánh trở về Sài Gòn, tuyên bố cách chức và buộc giải ngũ tướng Dương Văn Đức, Lâm Văn Phát và một số sỹ quan cao cấp chỉ huy đảo chính. Tuy vậy, không ai trong số họ bị bắt giữ và vẫn được tự do.
Ngày 1 tháng 11 năm 1964, tướng Nguyễn Khánh thành lập chính phủ dân sự do ông Trần Văn Hương làm Thủ tướng, ông Phan Khắc Sửu làm Quốc trưởng. Ngày 19 tháng 2 năm 1965, một lần nữa tướng Lâm Văn Phát đứng ra cầm đầu cuộc đảo chính do Đại tá Phạm Ngọc Thảo tổ chức. Lần này, cuộc đảo chính được tổ chức chặt chẽ hơn và phần nào đạt được mục đích tước quyền lực tướng Nguyễn Khánh. Tuy vậy, nhóm các tướng trẻ do Nguyễn Chánh Thi, Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Cao Kỳ cầm đầu chống lại đảo chính. Ngày 20 tháng 2, Hội đồng các tướng lãnh họp ở Biên Hòa, đã cử Trung tướng Nguyễn Văn Thiệu nắm chức Chủ tịch Hội đồng Quân lực và đưa bác sĩ Phan Huy Quát lên làm Thủ tướng thay ông Trần Văn Hương. Hội đồng cũng cử tướng Nguyễn Chánh Thi làm chỉ huy chống đảo chính và ra lệnh cho tướng Lâm Văn Phát, đại tá Phạm Ngọc Thảo và 13 sĩ quan khác phải ra trình diện trong 24 giờ. Cuộc đảo chính tan rã[6].
Cuối tháng 6 năm 1965, Tòa án Quân sự tuyên bố tử hình vắng mặt 4 sỹ quan chủ chốt của cuộc đảo chính. Tuy vậy, trong khi Đại tá Phạm Ngọc Thảo bị bắt và chết bí ẩn, thì tướng Lâm Văn Phát ra trình diện và vẫn được tự do, dù bị tước quân hàm và cấm đảm nhiệm mọi chức vụ.
Trong những giờ cuối cùng, ông chỉ huy các lực lượng còn lại để phòng thủ Sài Gòn với hy vọng có thể đạt được phần nào lợi thế để đàm phán. Tuy nhiên, đến trưa 30 tháng 4 năm 1975, ông được lệnh buông súng từ tổng thống Dương Văn Minh và giữ nguyên vị trí chờ bàn giao.[8].
Sau năm 1975, ông phải tập trung học tập cải tạo hơn 10 năm. Sau đó ông được bảo lãnh xuất cảnh theo diện HO và được định cư tại Mỹ.
Ông qua đời ngày 30 tháng 10 năm 1998 tại tại Santa Ana, California, Hoa Kỳ.
Ông chính là nguyên mẫu được nhà văn Nguyễn Trương Thiên Lý xây dựng thành nhân vật "tướng Lâm" trong tiểu thuyết Ván bài lật ngửa.
Tướng Lâm Văn Phát là người con thứ 2 trong gia đình. Chị lớn của ông là Lâm Thị Phấn, sinh năm 1918, có tài liệu ghi được gả cho Công tử Bạc Liêu Trần Trinh Huy, là một tình báo viên nổi tiếng của Việt Minh, Thiếu tá tình báo Quân đội Nhân dân Việt Nam, Anh hùng Lực lượng Vũ trang. Bà cũng là người được Ban binh vận giao nhiệm vụ vận động tướng Phát đầu hàng sớm vào tháng 4 năm 1975. Cuộc đời bà cũng được dựng thành phim với nhân vật Bạch Cúc trong phim "Người đẹp Tây Đô" của đạo diễn Lê Cung Bắc, do diễn viên Việt Trinh thủ vai Bạch Cúc.[2]
Tướng Phát còn người em gái kế tên là Lâm Thị Phết và người em trai út tên là Lâm Văn Phiên, từng là Thiếu tá Không lực Việt Nam Cộng hòa.
Thomas Alva Edison (11 tháng 2 năm 1847 – 18 tháng 10 năm 1931) là một nhà phát minh và thương nhân đã phát triển rất nhiều thiết bị có ảnh hưởng lớn tới cuộc sống trong thế kỷ 20.
Ông được một nhà báo đặt danh hiệu "Thầy phù thủy ở Menlo Park", ông là
một trong những nhà phát minh đầu tiên ứng dụng các nguyên tắc sản xuất hàng loạt
vào quy trình sáng tạo, và vì thế có thể coi là đã sáng tạo ra phòng
nghiên cứu công nghiệp đầu tiên. Một số phát minh được gán cho ông tuy
ông không hoàn toàn là người đầu tiên có ý tưởng đó, nhưng sau khi bằng
sáng chế đầu tiên được thay đổi nó trở thành của ông (nổi tiếng nhất là bóng đèn),
trên thực tế là công việc của rất nhiều người bên trong công ty của
ông. Tuy nhiên, Edison được coi là một trong những nhà phát minh giàu ý
tưởng nhất trong lịch sử, ông giữ 1.093 bằng sáng chế tại Hoa Kỳ dưới tên ông, cũng như các bằng sáng chế ở Anh Quốc, Pháp, và Đức.
Cuộc sống của Edison ở Port Huron vừa cay đắng vừa ngọt ngào. Ông bán kẹo và bán báo trên các chuyến tàu hỏa từ Port Huron đến Detroit. Hơi điếc từ thời thanh niên, ông đã trở thành một điện tín viên sau khi ông cứu Jimmie Mackenzie khỏi lao vào tàu hoả. Cha của Jimmie là nhân viên nhà ga J.U. Mackenzie ở Mount Clemens, Michigan, rất vui mừng bảo trợ cho Edison và dạy ông trở thành điện tín viên. Vì bị điếc nên Edison tránh khỏi mọi tiếng ồn ào và cũng không phải nghe nhân viên điện báo bên cạnh. Một trong những cố vấn của ông những năm đầu tiên này là một điện tín viên già và là một nhà phát minh tên là Franklin Leonard Pope, ông đã cho phép chàng trai trẻ sống và làm việc trong tầng hầm ở nhà ông tại nhà Elizabeth, New Jersey.
Một số trong những phát minh đầu tiên của ông liên quan tới điện tín gồm cả máy đếm phiếu. Edison đã xin cấp bằng phát minh đầu tiên, máy đếm phiếu điện tử, ngày 28 tháng 10, 1868.
Thomas Edison mất ở New Jersey ở tuổi 84. Sáng Chủ Nhật ngày 18/10/1931, Thomas Edison lìa trần chỉ 3 ngày trước lễ kỉ niệm sinh nhật lần thứ 52 của chiếc bóng điện đầu tiên. Những từ cuối cùng của ông nói với vợ là: "Ở ngoài kia đẹp quá".
Nước Mỹ tưởng nhớ ông bằng cách tắt toàn bộ đèn điện trên toàn lãnh thổ Hoa Kỳ trong một phút để tưởng nhớ người vĩ nhân, “người bạn của nhân loại” đã mang đến cho con người một thứ ánh sáng quý giá, một “mặt trời thứ hai”.
Một thời gian sau, chán nản với công việc của một điện báo viên, Edison đến New York, trung tâm tài chính bậc nhất lúc bấy giờ, với hy vọng sẽ kiếm thêm chi phí cho các cuộc thí nghiệm của mình. Tại đây, ông đã hợp tác với vài người bạn thành lập một công ty nhỏ chuyên về điện và điện báo. Phát minh thứ hai của ông là cải tiến chiếc máy điện báo đa tải thành Hệ thống điện báo nhận các tin tức hối đoái ngân hàng. Chiếc máy đầu tiên đã đem về cho ông một số tiền lớn. Toàn bộ số tiến kiếm được lúc này, ông trút hết vào các thí nghiệm của mình về sau.
Phát minh đầu tiên mang lại nổi tiếng cho Edison là máy quay đĩa năm 1877. Công chúng không thể ngờ được về phát minh này và coi nó là điều ma thuật. Edison bắt đầu được gọi là "Thầy phù thủy ở Menlo Park, New Jersey", nơi ông sống. Chiếc máy quay đĩa đầu tiên của ông ghi lại âm thanh trên các trụ bọc thiếc cho chất lượng âm thanh thấp và nó phá hủy luôn đường rãnh ghi âm khi nghe lại nên chỉ có thể nghe được một lần. Trong thập kỷ 1880, một model được thiết kế lại sử dụng các trụ bìa giấy các tông tráng sáp ong được chế tạo bởi Alexander Graham Bell, Chichester Bell, và Charles Tainter. Đây là một lý do khiến Thomas Edison tiếp tục làm việc để tạo ra chiếc "Máy hát hoàn thiện" của riêng ông.
. Ông góp công trong việc thực nghiệm điện thoại, máy quay đĩa, tàu điện, máy phân tích quặng, đèn điện, và một số cải tiến phát minh khác. Tuy nhiên, ban đầu ông làm việc về đèn điện và chịu trách nhiệm thử nghiệm và ghi lại về thiết bị đó. Năm 1880 ông được chỉ định làm kỹ sư trưởng của Xưởng đèn Edison. Trong năm đầu tiên này, xưởng dưới sự quản lý của Francis Upton, đã sản xuất ra 50.000 bóng đèn. Theo Edison, Hammer là "một người tiên phong trong lĩnh vực đèn chiếu sáng".
Đa số các bằng sáng chế của Edison là những bằng sáng chế hữu ích, chỉ khoảng hơn mười chiếc là bằng sáng chế thiết kế. Nhiều phát minh của ông không hoàn toàn là ý tưởng ban đầu của ông, nhưng những cải tiến giúp nó có thể được sản xuất hàng loạt là của ông. Ví dụ, trái với điều mọi người vẫn nghĩ, Edison không phát minh ra bóng đèn điện. Nhiều thiết kế đã được phát triển bởi các nhà phát minh từ trước đó gồm cả bằng sáng chế mà ông mua lại từ Henry Woodward và Mathew Evans, Moses G. Farmer,[2] Joseph Swan, James Bowman Lindsay, William Sawyer, Humphry Davy, và Heinrich Göbel. Năm 1878, Edison xin cấp phép cho thuật ngữ sợi dây tóc cho yếu tố dây phát sáng mang dòng điện, mặc dù nhà phát minh người Anh Joseph Swan đã sử dụng thuật ngữ đó từ trước. Edison đã lấy các đặc tính từ các thiết kế trước đó và trao nhiệm vụ cho các công nhân của ông tạo ra những bóng đèn có tuổi thọ cao hơn. Năm 1879, ông đã sản xuất ra một ý niệm mới: một chiếc đèn có sức chịu đựng cao trong một môi trường chân không lớn, nó sẽ cháy sáng hàng trăm giờ. Trong khi những nhà phát minh trước đó đã sản xuất ra đèn điện trong các điều kiện phòng thí nghiệm, Edison đã tập trung vào việc áp dụng thương mại hóa và đã có thể bán ý tưởng của mình tới các gia đình và các cửa hàng bằng cách sản xuất hàng loạt các bóng đèn có tuổi thọ cao và tạo ra một hệ thống phát và cung cấp điện.
Phòng thí nghiệm Menlo Park có thể được xây dựng nhờ tiền bán bộ máy thu phát cùng lúc bốn tín hiệu mà Edison sáng chế ra năm 1874. Chiếc máy điện báo thu phát bốn tín hiệu cùng lúc có thể gửi bốn tín hiệu điện báo cùng lúc trên cùng một dây dẫn. Khi Edison liên hệ bán máy cho Western Union, ông đã bị sốc khi Western Union đưa ra một cái giá không thể ngờ nổi; quyền sáng chế được bán với giá $10.000. Chiếc máy điện báo này là thành công tài chính lớn đầu tiên của ông.
Bắt đầu vận hành nhà máy điện đầu tiên
Năm 1880 Edison đăng ký bằng sáng chế về phân phối điện, sự kiện đó đóng vai trò chính trong việc tích lũy để phát minh ra đèn điện. Tháng 12 năm 1880, Edison thành lập Công ty Chiếu sáng mang tên ông đặt tại số 257, đường Pearl thành phố New York và đến năm 1882 đã thành công khi đưa trạm phát điện đầu tiên đi vào hoạt động.
Trạm phát điện đầu tiên "Jumbo số 1" là một máy phát điện chạy bằng hơi nước trực tiếp nặng 27 tấn, riêng phần lõi (armature) nặng đến 6 tấn và được sử dụng để làm mát không khí. Trạm phát điện này có thể làm sáng 700 ngọn đèn gồm 16 nến. Trong vòng 14 tháng, nhà máy điện đầu tiên của Edison đã phục vụ cho 508 thuê bao và hỗ trợ 12.732 bóng đèn.
Thành công thực sự của Edison, giống như người bạn của ông Henry Ford, trong khả năng của mình để tối đa hóa lợi nhuận thông qua việc thành lập hệ thống sản xuất hàng loạt và các quyền sở hữu trí tuệ. George Westinghouse và Edison đã trở thành đối thủ vì Edison xúc tiến việc sử dụng dòng điện một chiều (DC) cho phân phối điện trong hệ thống luân phiên thay vì một hệ thống đơn giản hơn là dòng điện xoay chiều (AC) được phát minh bởi Nikola Tesla và xúc tiến bởi Westinghouse. Không giống như DC, dòng điện xoay chiều có thể được tăng cường điện áp rất cao với các máy biến áp, được gửi qua những đường dây điện mảnh hơn và rẻ hơn, và hạ điện áp tại điểm đến để phân phối cho người sử dụng.
Năm 1887, có 121 trạm phát điện Edison ở Hoa Kỳ cung cấp điện dòng điện một chiều cho khách hàng. Khi những hạn chế của dòng điện một chiều đã được thảo luận trước công chúng, Edison đã phát động một chiến dịch tuyên truyền để thuyết phục mọi người rằng dòng điện xoay chiều là quá nguy hiểm để sử dụng. Vấn đề với dòng điện một chiều là các nhà máy điện này chỉ cung cấp cho khách hàng trong vòng khoảng một dặm rưỡi (khoảng 2,4 km) từ các trạm phát điện, do đó nó chỉ thích hợp cho các trung tâm thương mại. Khi George Westinghouse đề nghị sử dụng điện áp cao dòng điện xoay chiều thay thế, vì nó có thể mang điện hàng trăm dặm và mất mát điện ít, Edison đã tiến hành một "cuộc chiến tranh dòng điện" để ngăn chặn dòng điện xoay chiều được thông qua.
Cuộc chiến chống lại dòng điện xoay chiều đã khiến ông tham gia vào việc phát triển và xúc tiến ghế điện (sử dụng AC) như một nỗ lực để miêu tả dòng điện xoay chiều có khả năng gây tử vong lớn hơn so với DC. Edison đã thực hiện một chiến dịch ngắn gọn nhưng mạnh mẽ để cấm việc sử dụng dòng điện xoay chiều hoặc hạn chế điện áp nhằm những mục đích an toàn. Trong một phần của chiến dịch này, nhân viên của Edison cho giật điện công khai một số động vật để chứng minh sự nguy hiểm của AC;[3][4] dòng điện xoay chiều hơi nguy hiểm hơn ở những tần số gần 60 Hz có khả năng đáng kể gây nguy hiệm đến tính mạng hơn dòng điện một chiều.[5] Một trong những thí nghiệm đáng chú ý của ông vào năm 1903, những công nhân của Edison cho giật điện con voi tên Topsy tại Luna Park, gần đảo Coney, sau khi nó giết vài người và chủ của nó muốn giết nó.[6] Công ty của ông đã quay phim lại những cuộc tử hình bằng giật điện.
Dòng điện xoay chiều thay thế hầu hết dòng điện một chiều trong các trạm phân phối điện, nhanh chóng mở rộng phạm vi và cải tiến hiệu quả của các trạm phân phối điện. Mặc dù dòng điện một chiều không còn được ưa chuộng sử dụng, nó vẫn tồn tại đến ngày nay trong những hệ thống dẫn truyền dòng điện một chiều điện áp cao (HVDC). Dòng điện một chiều điện áp thấp vẫn còn tiếp tục được sử dụng cho những khu vực dông dân cư trong nhiều năm nhưng cuối cùng bị thay thế bởi hệ thống dòng điện xoay chiều điện áp thấp.[7]
Lâm Văn Phát
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Lâm Văn Phát | |
---|---|
Tiểu sử | |
Sinh |
1927 Cần Thơ, Việt Nam |
Mất |
1998 California, Hoa Kỳ |
Binh nghiệp | |
Phục vụ | Việt Nam Cộng hòa |
Thuộc | Quân đội Pháp Quân lực Việt Nam Cộng hòa |
Năm tại ngũ | 1949-1975 |
Cấp bậc | Thiếu tướng |
Công việc khác | Tổng trưởng Nội vụ Việt Nam Cộng hòa |
Mục lục
Xuất thân và bước đầu con đường binh nghiệp
Tướng Lâm Văn Phát[1] sinh năm 1927 tại Cần Thơ. Cha ông, Lâm Văn Phận[2], là một nhà giáo, do đó ông cũng có một nền giáo dục từ nhỏ và học đến ban Tú tài tại Cần Thơ. Năm 1945, ông tham gia Lực lượng Thanh niên Tiền phong và tham gia cướp chính quyền tại Cần Thơ.Khi quân Pháp nổ súng tái chiếm Nam Bộ, ông bị buộc phải trở về Cần Thơ và tiếp tục học. Sau khi tốt nghiệp Tú tài, bị quân đội Pháp trưng dụng, phong cấp Thiếu úy phục vụ trong Quân đội Pháp[2]. Năm 1946, ông đào nhiệm và trốn vào căn cứ của khu 8. Tại đây, ông được phân công làm Trung đội trưởng Vệ Quốc đoàn, sau đó được rút về phân công huấn luyện Trường quân chính khu. Tuy vậy, sau một thời gian, năm 1948, ông đào ngũ và trở về lại Cần Thơ.
Sau khi về lại Cần Thơ, ông trốn tại nhà người chị ruột, khi đó đã li dị với chồng cũ và đang làm hộ sinh tại Cần Thơ. Với sự giúp đỡ của ông Trần Hiếu, người tình và sau này là chồng thứ hai của người chị ruột, lúc đấy là sĩ quan phiên dịch trong quân đội Pháp tại chiến trường Nam Bộ, ông được thu xếp sang Pháp ở nhà một chính khách Pháp để học ngành cơ khí. Tuy nhiên, không lâu sau thì cả chị ông và người anh rể đều bị lộ là tình báo viên của Việt Minh và phải trốn ra chiến khu. Ông cũng bị phát hiện, bị bắt giam và đối diện với án tử hình do tội đào ngũ. Nhờ các vận động của người đỡ đầu (cũng chính là nhân tình của người chị ruột khi còn ở Việt Nam), ông thoát án với điều kiện phải vào học Trường thiết giáp của Lục quân Pháp mở ở Oran - Bắc Phi, sau đó phải tiếp tục phục vụ trong Quân đội Pháp.
Phục vụ trong Quân đội Quốc gia Việt Nam
Sau khi tốt nghiệp năm 1949 với hàm trung úy, ông trở về Việt Nam và được giao hoàn cho Bộ chỉ huy quân viễn chinh Pháp ở Đông Dương. Theo Hiệp ước Élysée, ông nằm trong số các sỹ quan người Việt trong quân đội Pháp được chuyển giao để thành lập Quân đội Quốc gia Việt Nam.Năm 1950, ông tòng sự tại Võ phòng của Quốc trưởng Bảo Đại với hàm Đại úy [3].
Năm 1952, ông công tác tại Bộ Tổng tham mưu Quân đội Quốc gia Việt Nam được thành lập, với hàm Thiếu tá.
Năm 1954, ông được thăng Trung tá.[2]
Sỹ quan tham mưu Quân lực Việt Nam Cộng hòa
Lâm Văn Phát là một trong những sỹ quan cao cấp của Quân đội Quốc gia Việt Nam ở lại và tham gia Quân lực Việt Nam Cộng hòa vừa thành lập. Tuy vậy, trong suốt thời gian từ 1955-1963, ông chỉ được phân công công tác ở Bộ Tổng tham mưu ở các chức vụ hữu danh vô thực.Năm 1958, ông được cử đi học tại Trường Sỹ quan Chỉ huy và Tổng tham mưu (US Army Command and General Staff College) Fort Leavenworth tại Hoa Kỳ và tốt nghiệp 1 năm sau đó. Sau khi về nước, ông được thăng quân hàm Đại tá. Tuy vậy, ông vậy không được trọng dụng, có lẽ vì quá khứ đào ngũ, cũng như mối liên hệ gia đình với phía đối phương. Điều này làm nảy sinh bất mãn, đưa ông thành một trong những sỹ quan cấp cao đầu tiên gia nhập nhóm các tướng lĩnh đảo chính năm 1963.
Bốn lần tham gia đảo chính
Là một sỹ quan cao cấp sớm thể hiện sự bất mãn với Tổng thống Ngô Đình Diệm, ông là một trong những nhân vật đầu tiên nằm trong danh sách đảo chính. Cộng với việc ông không phải là sỹ quan chỉ huy nên các tướng lĩnh đảo chính chỉ giữ ông ở vị trí dự bị.[4]. Mãi đến chiều ngày 1 tháng 11 năm 1963, các tướng lĩnh đảo chính mới giao ông chỉ huy Sư đoàn 5 thay Đại tá Nguyễn Văn Thiệu[5], để tấn công dứt điểm thành Cộng Hòa. Ông cũng được Hội đồng Quân nhân Cách mạng thăng Thiếu tướng ngay tối hôm đó.Sau khi đảo chính thành công, ông được giao nhiệm vụ Phó tư lệnh Quân đoàn 3, kiêm tư lệnh Sư đoàn 7. Ngày 30 tháng 1 năm 1964, ông tham gia nhóm Nguyễn Khánh làm cuộc chỉnh lý truất phế các tướng Dương Văn Minh, Trần Văn Đôn, Lê Văn Kim, Mai Hữu Xuân. Do công trạng này, ông được tướng Nguyễn Khánh thăng chức làm Tư lệnh Quân đoàn 3. Đến tháng 4 năm 1964, ông giữ chức Tổng trưởng Nội vụ trong chính phủ của tướng Nguyễn Khánh.
Ngày 13 tháng 9 năm 1964, ông cùng với Trung tướng Dương Văn Đức dẫn lực lượng Quân đoàn 4 kéo về Sài Gòn thị uy, dự định lật đổ chính phủ Nguyễn Khánh để nắm quyền nhưng bất thành do thiếu kiên quyết và thiếu sự ủng hộ của nhiều thế lực khác nhau. Ngày 15 tháng 9, tướng Nguyễn Khánh trở về Sài Gòn, tuyên bố cách chức và buộc giải ngũ tướng Dương Văn Đức, Lâm Văn Phát và một số sỹ quan cao cấp chỉ huy đảo chính. Tuy vậy, không ai trong số họ bị bắt giữ và vẫn được tự do.
Ngày 1 tháng 11 năm 1964, tướng Nguyễn Khánh thành lập chính phủ dân sự do ông Trần Văn Hương làm Thủ tướng, ông Phan Khắc Sửu làm Quốc trưởng. Ngày 19 tháng 2 năm 1965, một lần nữa tướng Lâm Văn Phát đứng ra cầm đầu cuộc đảo chính do Đại tá Phạm Ngọc Thảo tổ chức. Lần này, cuộc đảo chính được tổ chức chặt chẽ hơn và phần nào đạt được mục đích tước quyền lực tướng Nguyễn Khánh. Tuy vậy, nhóm các tướng trẻ do Nguyễn Chánh Thi, Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Cao Kỳ cầm đầu chống lại đảo chính. Ngày 20 tháng 2, Hội đồng các tướng lãnh họp ở Biên Hòa, đã cử Trung tướng Nguyễn Văn Thiệu nắm chức Chủ tịch Hội đồng Quân lực và đưa bác sĩ Phan Huy Quát lên làm Thủ tướng thay ông Trần Văn Hương. Hội đồng cũng cử tướng Nguyễn Chánh Thi làm chỉ huy chống đảo chính và ra lệnh cho tướng Lâm Văn Phát, đại tá Phạm Ngọc Thảo và 13 sĩ quan khác phải ra trình diện trong 24 giờ. Cuộc đảo chính tan rã[6].
Cuối tháng 6 năm 1965, Tòa án Quân sự tuyên bố tử hình vắng mặt 4 sỹ quan chủ chốt của cuộc đảo chính. Tuy vậy, trong khi Đại tá Phạm Ngọc Thảo bị bắt và chết bí ẩn, thì tướng Lâm Văn Phát ra trình diện và vẫn được tự do, dù bị tước quân hàm và cấm đảm nhiệm mọi chức vụ.
Vị tư lệnh Biệt khu thủ đô cuối cùng
Suốt thời gian 10 năm, tướng Lâm Văn Phát sống thầm lặng. Tuy nhiên, vào những ngày cuối cùng của chế độ Sài Gòn, ông lại xuất hiện trong vai trò cựu tướng lĩnh trong Lực lượng thứ 3 do tướng Dương Văn Minh cầm đầu. Ngày 28 tháng 4 năm 1975, ông tham dự lễ ra mắt của chính phủ Tổng thống Dương Văn Minh và được cử làm Tư lệnh Biệt khu Thủ đô thay tướng Trần Văn Minh vừa đào nhiệm[7].Trong những giờ cuối cùng, ông chỉ huy các lực lượng còn lại để phòng thủ Sài Gòn với hy vọng có thể đạt được phần nào lợi thế để đàm phán. Tuy nhiên, đến trưa 30 tháng 4 năm 1975, ông được lệnh buông súng từ tổng thống Dương Văn Minh và giữ nguyên vị trí chờ bàn giao.[8].
Sau năm 1975, ông phải tập trung học tập cải tạo hơn 10 năm. Sau đó ông được bảo lãnh xuất cảnh theo diện HO và được định cư tại Mỹ.
Ông qua đời ngày 30 tháng 10 năm 1998 tại tại Santa Ana, California, Hoa Kỳ.
Ông chính là nguyên mẫu được nhà văn Nguyễn Trương Thiên Lý xây dựng thành nhân vật "tướng Lâm" trong tiểu thuyết Ván bài lật ngửa.
Gia đình
Cha ông tên là Lâm Văn Phận, là một nhà giáo tại Cần Thơ. Sau năm 1945, ông tham gia Việt Minh và gia nhập Đảng Lao động Việt Nam và từng có thời gian giữ chức Chủ tịch Ủy ban Liên Việt tỉnh Cần Thơ. Sau năm 1954, ông tập kết ra Bắc và mất ở đó.[2]Tướng Lâm Văn Phát là người con thứ 2 trong gia đình. Chị lớn của ông là Lâm Thị Phấn, sinh năm 1918, có tài liệu ghi được gả cho Công tử Bạc Liêu Trần Trinh Huy, là một tình báo viên nổi tiếng của Việt Minh, Thiếu tá tình báo Quân đội Nhân dân Việt Nam, Anh hùng Lực lượng Vũ trang. Bà cũng là người được Ban binh vận giao nhiệm vụ vận động tướng Phát đầu hàng sớm vào tháng 4 năm 1975. Cuộc đời bà cũng được dựng thành phim với nhân vật Bạch Cúc trong phim "Người đẹp Tây Đô" của đạo diễn Lê Cung Bắc, do diễn viên Việt Trinh thủ vai Bạch Cúc.[2]
Tướng Phát còn người em gái kế tên là Lâm Thị Phết và người em trai út tên là Lâm Văn Phiên, từng là Thiếu tá Không lực Việt Nam Cộng hòa.
Chú thích
- ^ Có tài liệu ghi ông tên thật là Lâm Văn Phất
- ^ a b c d e Tướng Sài Gòn Lâm Văn Phát - Chuyên gia đảo chính
- ^ Chánh võ phòng bấy giờ là Trung tá Nguyễn Văn Hinh, vừa được thăng Đại tá.
- ^ Có tài liệu cho rằng, thực ra ban đầu Lâm Văn Phát được giao nhiệm vụ xuống Mỹ Tho đoạt quyền chỉ huy Sư đoàn 7 thay Đại tá Bùi Đình Đạm. Tuy nhiên, do mật vụ theo dõi ông chặt chẽ, nên ông được giao thực hiện động tác nghi binh bằng cách nghỉ ốm, để Đại tá Nguyễn Hữu Có thay vào vị trí này
- ^ "Làm thế nào để giết một Tổng thống?" - Lương Khải Minh & Cao Thế Dung
- ^ Có tài liệu cho rằng bộ chỉ huy đảo chính đã dự định tổ chức đảo chính lần thứ 2 vào ngày 20 tháng 6 năm 1965, tuy nhiên dự định này nhanh chóng bị phát hiện và bị vô hiệu hóa. Các thành viên chủ chốt bị truy nã và phải lần trốn.
- ^ "Ngày cuối từ Tổng tham mưu đến Biệt khu thủ đô" - Phạm Bá Hoa
- ^ Trung tướng Nguyễn Văn Chia (nguyên Tư lệnh Quân khu 7): Cảm hóa kẻ thù bằng lòng nhân đạo
Thể loại:
Phạm Ngọc Thảo (1922–1965) là một tình báo viên bí ẩn trong suốt Chiến tranh Việt Nam. Ông là đại tá của hai quân đội đối nghịch trong cuộc chiến này: Quân đội Nhân dân Việt Nam và Quân lực Việt Nam Cộng hoà. Ông là người có nhiều ảnh hưởng chính trị và cũng là một thành viên chủ chốt trong 2 cuộc đảo chính bất thành ở Việt Nam Cộng hòa vào những năm 1964–1965.
Phạm Ngọc Thảo còn có tên là Albert Phạm Ngọc Thảo, còn gọi là Albert Thảo. Mọi người thường gọi là Chín Thảo vì ông được sinh thứ 8 trong gia đình.
Lúc nhỏ ông học một trường tư thục Công giáo nổi tiếng ở Sài gòn đó là trường Lasan Taberd[1] (Có tài liệu nói học trường Chasseloup Laubat- ngày nay là trường THPT Lê Quý Đôn). Khi học xong tú tài, khác với các anh em khác, ông không sang Pháp du học (do Thế chiến thứ hai xảy ra) mà ra Hà Nội theo học trường Kỹ sư Công chính Hà Nội.
Năm 1946, trường Võ bị Trần Quốc Tuấn khai giảng. Ông cùng 12 chiến sỹ Nam Bộ khác được cử ra Sơn Tây học tập. Tốt nghiệp khoá I, ông được điều về Phú Yên nhận nhiệm vụ làm giao liên. Một lần, ông được giao nhiệm vụ đưa một cán bộ về Nam Bộ. Đó chính là Lê Duẩn, người có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động tình báo của ông sau này.
Sau khi trở về Nam Bộ, ông được giao nhiệm vụ Trưởng phòng mật vụ Ban quân sự Nam Bộ – tổ chức tình báo đầu tiên của cách mạng ở Nam Bộ, rồi được bổ nhiệm làm Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 410, Quân khu 9 (có tài liệu nói là tiểu đoàn 404 hoặc tiểu đoàn 307). Trong thời gian này ông hướng dẫn về chiến tranh du kích cho các học viên Trần Văn Đôn, Nguyễn Khánh, Lê Văn Kim... những người sau này trở thành các tướng lĩnh trong Quân lực Việt Nam Cộng hòa.
Những năm 1952-1953, ông là sĩ quan tham mưu trong một số đơn vị chủ lực của Việt Minh tại miền Tây Nam Bộ. Cũng trong những năm ở chiến khu này, ông lập gia đình với bà Phạm Thị Nhiệm, là em ruột giáo sư Phạm Thiều.
Do đó ông ở lại miền Nam hành nghề dạy học tại một số trường tư thục Sài Gòn. Phạm Ngọc Thảo trở lại Sài Gòn giữa lúc tình hình rất khó khăn: lực lượng Bình Xuyên gây rối khắp nơi. Vì không chịu ký tên vào giấy "hồi chánh" theo qui định của chính quyền miền Nam Việt Nam đối với những người đã đi theo Việt Minh không tập kết ra Bắc, ông bị đại tá Mai Hữu Xuân, Giám đốc An ninh Quân đội lùng bắt nhiều lần nhưng đều trốn thoát.
Sau cùng, ông về Vĩnh Long dạy học. Vùng này thuộc giáo phận của Giám mục Phêrô Ngô Đình Thục, vốn quen biết gia đình ông từ lâu. Gia đình anh theo Thiên chúa giáo lâu đời, rất thân thiết với Giám mục Ngô Đình Thục. Giám mục Ngô Đình Thục rất quý mến Thảo vì đã từng làm lễ rửa tội cho anh và coi anh như con nuôi. Vì vậy, Giám mục Thục đã bảo lãnh cho ông vào dạy học ở trường Nguyễn Trường Tộ. Sau này, cũng chính Giám mục Thục đã giới thiệu ông với Ngô Đình Nhu và ông được sắp xếp vào làm việc ở Sở Tài chánh Nam Việt.
Nhờ chính sách “đả thực bài phong”, khuyến khích những người theo kháng chiến cũ về với “chính nghĩa quốc gia” của Ngô Đình Diệm, ông khôn khéo công khai hết nguồn gốc của mình, kể cả chức tiểu đoàn trưởng cũ, chỉ trừ một điều: mình là Đảng viên Đảng CSVN. Năm 1956, ông được phép đưa vợ con ra Sài Gòn sinh sống, làm việc tại ngân hàng quốc gia; rồi được chuyển ngạch quân sự, mang hàm Đại uý “đồng hóa”.
Tháng 5 năm 1956 được sự giới thiệu của ông Huỳnh Văn Lang, Tổng giám đốc Viện Hối đoái và Bí thư Liên kỳ bộ Nam Bắc Việt của đảng Cần Lao, Phạm Ngọc Thảo được cử đi học khóa huấn luyện tại trung tâm Nhân vị tại Vĩnh Long. Và sau đó (tháng 10 năm 1956) ông gia nhập đảng Cần Lao.
Sau khi gia nhập đảng Cần Lao, ông phụ trách tổ quân sự, giữ nhiệm vụ nghiên cứu về chiến lược và chiến thuật quân sự và huấn luyện quân sự cho các đảng viên Cần Lao. Tháng 1 năm 1957 Phạm Ngọc Thảo tham gia biên tập bán nguyệt san Bách Khoa - tạp chí của một nhóm trí thức đảng Cần Lao.
Thảo còn biết “khai thác” vốn binh pháp Tôn Tử mà thầy Hoàng Đạo Thúy từng dạy để viết báo. Thời gian này, ông cộng tác với tạp chí Bách khoa. Chỉ trong hơn một năm, ông đã viết 20 bài báo nói về các vấn đề chiến lược, chiến thuật, nghệ thuật chỉ huy, huấn luyện quân sự, phân tích binh pháp Tôn Tử, Trần Hưng Đạo.... Những bài báo đó đã được giới quân sự chú ý và Diệm – Nhu đề cao “tầm” của ông. Năm 1957, ông được điều về làm việc tại Phòng Nghiên cứu chính trị của Phủ tổng thống với hàm thiếu tá. Từ đó, ông lần lượt giữ các chức vụ Tỉnh đoàn trưởng Bảo an tỉnh Vĩnh Long, rồi Tỉnh đoàn trưởng Bảo an tỉnh Bình Dương.
Năm 1960, sau khi học một khóa chỉ huy và tham mưu ở Trường Võ bị Quốc gia Đà Lạt, Phạm Ngọc Thảo được thăng thiếu tá và được cử làm Thanh tra Khu Trù Mật[cần dẫn nguồn].
Biết Phạm Ngọc Thảo từng là chỉ huy du kích Việt Minh, đầu năm 1961 Ngô Đình Nhu đã quyết định thăng ông lên trung tá và cử làm tỉnh trưởng tỉnh Kiến Hòa (tức Bến Tre) để trắc nghiệm Chương trình Bình định. Từ khi ông nhậm chức, tình hình an ninh tại vùng này trở nên rất yên ổn, không còn bị phục kích hay phá hoại nữa. Tuy nhiên, do có nhiều tố cáo nghi ngờ ông là cán bộ cộng sản nằm vùng, anh em Ngô Đình Diệm - Ngô Đình Nhu đã ngưng chức tỉnh trưởng Kiến Hòa và cho ông sang Hoa Kỳ học một khóa về chỉ huy và tham mưu. Từ đó Bến Tre tiếp tục mất an ninh. Trước đó, khi lên tỉnh trưởng, ông đã quyết định thả ngay[cần dẫn nguồn] hơn 2000 tù nhân đang bị giam giữ, liên lạc với bà Nguyễn Thị Định, tạo điều kiện cho khởi nghĩa Bến Tre bùng nổ. Chính sách không cho binh lính đàn áp dân chúng tùy tiện của Phạm Ngọc Thảo đã “bật đèn xanh” cho phong trào “đồng khởi” sau này.
Sau khi chính quyền Ngô Đình Diệm bị lật đổ ngày 1 tháng 11 năm 1963 (cuộc đảo chính do một nhóm tướng lĩnh khác chủ mưu), Phạm Ngọc Thảo được lên chức đại tá, làm tùy viên báo chí trong Hội đồng Quân nhân Cách mạng. Một thời gian sau, ông được cử làm tùy viên văn hóa của Tòa đại sứ Việt Nam tại Mỹ.
Ngày 19 tháng 2 năm 1965, Phạm Ngọc Thảo cùng thiếu tướng Lâm Văn Phát,đại tá Bùi Dzinh và trung tá Lê Hoàng Thao đem quân và xe tăng vào chiếm trại Lê Văn Duyệt, đài phát thanh Sài Gòn, bến Bạch Đằng và sân bay Tân Sơn Nhất. Tướng Nguyễn Khánh đào thoát bằng máy bay ra Vũng Tàu.
Ngày 20 tháng 2, hội đồng các tướng lĩnh họp ở Biên Hòa. Các tướng cử Nguyễn Chánh Thi làm chỉ huy chống đảo chính và ra lệnh cho Phạm Ngọc Thảo, Lâm Văn Phát và 13 sĩ quan khác phải ra trình diện trong 24 giờ.
Ngày 21 tháng 2 năm 1965, các tướng tiếp tục họp tại Biên Hòa, quyết định giải nhiệm Nguyễn Khánh và cử tướng Trần Văn Minh làm Tổng Tư lệnh Quân lực Việt Nam Cộng Hòa.
Ngày 22 tháng 2 năm 1965, Quốc trưởng Phan Khắc Sửu ký sắc lệnh bổ nhiệm tướng Nguyễn Khánh làm Đại sứ lưu động (một hình thức trục xuất khỏi nước cho đi lưu vong). Ngày 25 tháng 2 năm 1965, Nguyễn Khánh rời khỏi Việt Nam.
Khi biết tin quyền lãnh đạo đã rơi vào tay các tướng lĩnh khác, Phạm Ngọc Thảo bỏ trốn.
Ngày 14 tháng 6 năm 1965, Ủy ban Lãnh đạo Quốc gia đã được thành lập do tướng Nguyễn Văn Thiệu làm Chủ tịch.
Sau đó, Phạm Ngọc Thảo phải rút vào hoạt động bí mật, nhưng ông tiếp tục chuẩn bị tư tưởng cho các hoạt động cách mạng bằng cách xuất bản tờ báo “Việt Tiến”, mỗi ngày phát hành trên 50.000 tờ, tuyên truyền tinh thần yêu nước, chống Mỹ – VNCH. Ông có cả một hàng rào bảo vệ rộng lớn từ các xứ đạo Biên Hòa tới Hố Nai, Thủ Đức, Sài Gòn; có nhiều linh mục giúp đỡ in ấn, phát hành tờ Việt Tiến. Lúc này, ông bị chính quyền Kỳ – Thiệu kết án tử hình và treo giải 3 triệu đồng cho ai bắt được nhưng vẫn liên lạc với cơ sở cách mạng trực tiếp là Sáu Dân (bí danh của Võ Văn Kiệt) để hoạt động tiếp.
Ông Võ Văn Kiệt kể lại: “tôi thấy Phạm Ngọc Thảo quá khó khăn nên đi tìm anh để đưa về chiến khu. Nhưng anh bảo vẫn còn khả năng đảo chính thành công quyết tâm ngăn chặn bàn tay đế quốc Mỹ định đưa quân viễn chinh vào miền Nam, cản trở kế hoạch ồ ạt đổ quân vào Đà Nẵng cuối tháng 5/1965...”.
Đại sứ quán Mỹ cũng đề nghị đưa ông ra nước ngoài an toàn nhưng ông từ chối.
Sau khi nhậm chức, tướng Thiệu quyết định tìm bắt và giết Phạm Ngọc Thảo[cần dẫn nguồn] để trừ hậu họa. Tướng Lâm Văn Phát đã ra trình diện và chỉ bị cách chức, nhưng đại tá Phạm Ngọc Thảo phải trốn nhiều nơi, cuối cùng đến trốn trong Đan viện Phước Lý ở xã Vĩnh Thanh, huyện Nhơn Trạch, Biên Hòa.
Cuối cùng nơi trú ẩn này cũng bị lộ. Lúc 3 giờ sáng ngày 16 tháng 7 năm 1965, khi ông vừa ra khỏi Đan viện Phước Lý thì bị an ninh quân đội mai phục sẵn bắt rồi đưa về một suối nhỏ gần Tam Hiệp, Biên Hòa, định thủ tiêu.
Tuy nhiên Phạm Ngọc Thảo không chết mà chỉ bị ngất vì viên đạn chỉ trúng cằm. Tỉnh dậy, ông cố lết về một nhà thờ. Ông được linh mục Cường, cha tuyên úy của Dòng Nữ tu Đa Minh, Tam Hiệp cứu chữa. Sau đó ông chủ động xin chuyển tới chỗ khác phòng khi An ninh quân đội tới truy tìm, nhưng bị phát giác và ông lại bị an ninh quân đội bắt về Cục an ninh quân đội, đường Nguyễn Bỉnh Khiêm, Sài Gòn. Ông bị tra tấn dã man [2] và bị bóp vào hạ bộ đến chết[3][4] vào đêm 17 tháng 7 năm 1965[1]. Khi đó ông mới 43 tuổi.
Phạm Ngọc Thảo được coi là một trong 4 tình báo viên xuất sắc nhất của Quân đội Nhân dân Việt Nam (3 người kia là Phạm Xuân Ẩn, Vũ Ngọc Nhạ và Lê Hữu Thúy[cần dẫn nguồn]). Một số người còn cho ông là điệp viên xuất sắc nhất[5] bởi 3 đặc điểm chính:
Trong dòng đề tựa trong cuốn Ván Bài Lật Ngửa, nhà văn Nguyễn Trương Thiên Lý đã trân trọng viết "Tưởng nhớ anh Chín T. và những người đã chiến đấu hy sinh thầm lặng". Ông đã sử dụng chính hình tượng của Phạm Ngọc Thảo để xây dựng nhân vật Nguyễn Thành Luân trong tiểu thuyết của mình. Tiểu thuyết này sau được dựng thành phim rất ăn khách (vai Nguyễn Thành Luân do diễn viên Nghệ sĩ ưu tú Nguyễn Chánh Tín đảm nhiệm).
Ông Trần Bạch Đằng, nguyên Phó ban tuyên huấn Trung ương cục miền Nam nhận xét: "các nhà tình báo thông thường có nhiệm vụ giấu mình, thu thập, khai thác tin tức chuyển về trung tâm. Riêng Phạm Ngọc Thảo đi thẳng vào hàng ngũ kẻ thù, tung hoành hoạt động vì Tổ quốc cho tới tận lúc hy sinh, trường kỳ mai phục và độc lập tác chiến. Anh là người tình báo đặc biệt có một không hai". Nguyên thủ tướng Võ Văn Kiệt nói: "anh Phạm Ngọc Thảo đã nhận một nhiệm vụ đặc biệt, chưa từng có tiền lệ trong công tác cách mạng của chúng ta"
- Sinh 1927
- Mất 1998
- Thiếu tướng Việt Nam Cộng Hòa
- Binh biến ở Việt Nam Cộng hòa
- Người Cần Thơ
- Tướng Việt Nam Cộng Hòa
Phạm Ngọc Thảo
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Phạm Ngọc Thảo | |
---|---|
Đại tá Phạm Ngọc Thảo |
|
Tiểu sử | |
Biệt danh | Albert Phạm Ngọc Thảo, Albert Thảo, Chín Thảo |
Sinh |
14 tháng 2 năm 1922 Sài Gòn |
Mất |
17 tháng 7, 1965 (43 tuổi) Sài Gòn |
Binh nghiệp | |
Phục vụ | Quân đội Nhân dân Việt Nam |
Cấp bậc | Đại tá |
Đơn vị | Ban quân sự Nam Bộ Tiểu đoàn 410 |
Chỉ huy | Trưởng phòng mật vụ Tiểu đoàn trưởng |
Khen thưởng | Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân |
Gia đình | Phạm Thị Nhiệm (vợ) |
Mục lục
Thân thế gia đình
Ông sinh ngày 14 tháng 2 năm 1922 tại Sài Gòn, nguyên quán Vĩnh Long, (có tài liệu là Bến Tre[1]). Cha ông là Adrian Phạm Ngọc Thuần một địa chủ lớn người Công giáo, có quốc tịch Pháp. Ông Adrian Phạm Ngọc Thuần có tới hơn 4000 mẫu đất và gần 1000 căn nhà rải rác ở khắp các tỉnh Cần Thơ, Châu Đốc, Long Xuyên, Rạch Giá, Sa Đéc, Vĩnh Long. Ông Thuần có quốc tịch Pháp nên các con đều được sang Pháp học.Phạm Ngọc Thảo còn có tên là Albert Phạm Ngọc Thảo, còn gọi là Albert Thảo. Mọi người thường gọi là Chín Thảo vì ông được sinh thứ 8 trong gia đình.
Lúc nhỏ ông học một trường tư thục Công giáo nổi tiếng ở Sài gòn đó là trường Lasan Taberd[1] (Có tài liệu nói học trường Chasseloup Laubat- ngày nay là trường THPT Lê Quý Đôn). Khi học xong tú tài, khác với các anh em khác, ông không sang Pháp du học (do Thế chiến thứ hai xảy ra) mà ra Hà Nội theo học trường Kỹ sư Công chính Hà Nội.
Tham gia Việt Minh
Khi Cách mạng tháng Tám bùng nổ, anh cả của ông là Gaston Phạm Ngọc Thuần tham gia Việt Minh ở Vĩnh Long và được cử giữ chức Phó Chủ tịch Ủy ban Hành chính Kháng chiến Nam Bộ. Khi Luật sư Phạm Văn Bạch ra miền Bắc, ông Thuần làm Chủ tịch Ủy ban Hành chính Kháng chiến Nam Bộ kiêm Chính ủy Bộ Tư lệnh Nam Bộ (trong những năm 60 làm đại sứ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại Cộng hòa Dân chủ Đức). Anh trai thứ bảy Phạm Ngọc Hùng học ở Pháp, lấy vợ Pháp rồi về Việt Nam ra chiến khu chiến đấu, làm Uỷ viên Hội đồng Chính phủ cách mạng lâm thời miền Nam. Tốt nghiệp trường Kỹ sư công chánh ở Hà Nội, khi Pháp bội ước quay lại xâm chiếm Việt Nam, ông Phạm Ngọc Thảo tuyên bố huỷ bỏ quốc tịch Pháp và quyết định trở về Vĩnh Long theo anh tham gia kháng chiến, làm việc ở Văn phòng Uỷ ban kháng chiến hành chính Nam Bộ. Trên đường về, ông bị dân quân Việt Minh bắt hai lần và suýt bị giết chết[cần dẫn nguồn].Năm 1946, trường Võ bị Trần Quốc Tuấn khai giảng. Ông cùng 12 chiến sỹ Nam Bộ khác được cử ra Sơn Tây học tập. Tốt nghiệp khoá I, ông được điều về Phú Yên nhận nhiệm vụ làm giao liên. Một lần, ông được giao nhiệm vụ đưa một cán bộ về Nam Bộ. Đó chính là Lê Duẩn, người có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động tình báo của ông sau này.
Sau khi trở về Nam Bộ, ông được giao nhiệm vụ Trưởng phòng mật vụ Ban quân sự Nam Bộ – tổ chức tình báo đầu tiên của cách mạng ở Nam Bộ, rồi được bổ nhiệm làm Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 410, Quân khu 9 (có tài liệu nói là tiểu đoàn 404 hoặc tiểu đoàn 307). Trong thời gian này ông hướng dẫn về chiến tranh du kích cho các học viên Trần Văn Đôn, Nguyễn Khánh, Lê Văn Kim... những người sau này trở thành các tướng lĩnh trong Quân lực Việt Nam Cộng hòa.
Những năm 1952-1953, ông là sĩ quan tham mưu trong một số đơn vị chủ lực của Việt Minh tại miền Tây Nam Bộ. Cũng trong những năm ở chiến khu này, ông lập gia đình với bà Phạm Thị Nhiệm, là em ruột giáo sư Phạm Thiều.
Giai đoạn bắt đầu hoạt động
Sau Hiệp định Genève, các cán bộ của Việt Minh (cả dân sự lẫn quân sự) đều được tập kết ra Bắc. Cũng có nhiều cán bộ Việt Minh đã bí mật ở lại hoạt động. Riêng trường hợp của Phạm Ngọc Thảo, chính Tổng Bí Thư Lê Duẩn đã chỉ thị cho ông không tập kết ra Bắc mà ở lại miền Nam để hình thành "lực lượng thứ ba". Về việc này, nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt nói: “anh Ba Duẩn rất tin cậy Phạm Ngọc Thảo và đã giao cho đồng chí Thảo một nhiệm vụ đặc biệt”.Do đó ông ở lại miền Nam hành nghề dạy học tại một số trường tư thục Sài Gòn. Phạm Ngọc Thảo trở lại Sài Gòn giữa lúc tình hình rất khó khăn: lực lượng Bình Xuyên gây rối khắp nơi. Vì không chịu ký tên vào giấy "hồi chánh" theo qui định của chính quyền miền Nam Việt Nam đối với những người đã đi theo Việt Minh không tập kết ra Bắc, ông bị đại tá Mai Hữu Xuân, Giám đốc An ninh Quân đội lùng bắt nhiều lần nhưng đều trốn thoát.
Sau cùng, ông về Vĩnh Long dạy học. Vùng này thuộc giáo phận của Giám mục Phêrô Ngô Đình Thục, vốn quen biết gia đình ông từ lâu. Gia đình anh theo Thiên chúa giáo lâu đời, rất thân thiết với Giám mục Ngô Đình Thục. Giám mục Ngô Đình Thục rất quý mến Thảo vì đã từng làm lễ rửa tội cho anh và coi anh như con nuôi. Vì vậy, Giám mục Thục đã bảo lãnh cho ông vào dạy học ở trường Nguyễn Trường Tộ. Sau này, cũng chính Giám mục Thục đã giới thiệu ông với Ngô Đình Nhu và ông được sắp xếp vào làm việc ở Sở Tài chánh Nam Việt.
Nhờ chính sách “đả thực bài phong”, khuyến khích những người theo kháng chiến cũ về với “chính nghĩa quốc gia” của Ngô Đình Diệm, ông khôn khéo công khai hết nguồn gốc của mình, kể cả chức tiểu đoàn trưởng cũ, chỉ trừ một điều: mình là Đảng viên Đảng CSVN. Năm 1956, ông được phép đưa vợ con ra Sài Gòn sinh sống, làm việc tại ngân hàng quốc gia; rồi được chuyển ngạch quân sự, mang hàm Đại uý “đồng hóa”.
Tháng 5 năm 1956 được sự giới thiệu của ông Huỳnh Văn Lang, Tổng giám đốc Viện Hối đoái và Bí thư Liên kỳ bộ Nam Bắc Việt của đảng Cần Lao, Phạm Ngọc Thảo được cử đi học khóa huấn luyện tại trung tâm Nhân vị tại Vĩnh Long. Và sau đó (tháng 10 năm 1956) ông gia nhập đảng Cần Lao.
Sau khi gia nhập đảng Cần Lao, ông phụ trách tổ quân sự, giữ nhiệm vụ nghiên cứu về chiến lược và chiến thuật quân sự và huấn luyện quân sự cho các đảng viên Cần Lao. Tháng 1 năm 1957 Phạm Ngọc Thảo tham gia biên tập bán nguyệt san Bách Khoa - tạp chí của một nhóm trí thức đảng Cần Lao.
Hoạt động trong Quân lực Việt Nam Cộng hòa
Ban đầu, Diệm – Nhu chưa thấy được tài năng của Thảo nên chỉ giao cho anh những chức vụ “hữu danh vô thực” như Tỉnh đoàn trưởng bảo an đoàn, tuyên huấn đảng Cần lao nhân vị...[cần dẫn nguồn] Nhưng Thảo đã biết cách “bộc lộ” mình bằng cách viết báo[cần dẫn nguồn]. Đại tá Trần Hậu Tưởng, bạn học trường võ bị của ông kể: Lúc học ở Sơn Tây, chúng tôi có phong trào làm báo tường rất mạnh, đại đội nào cũng làm một tờ báo, anh em tập viết báo rất sôi nổi. Có lẽ đó cũng là một “vốn” quý cho Thảo sau này.Thảo còn biết “khai thác” vốn binh pháp Tôn Tử mà thầy Hoàng Đạo Thúy từng dạy để viết báo. Thời gian này, ông cộng tác với tạp chí Bách khoa. Chỉ trong hơn một năm, ông đã viết 20 bài báo nói về các vấn đề chiến lược, chiến thuật, nghệ thuật chỉ huy, huấn luyện quân sự, phân tích binh pháp Tôn Tử, Trần Hưng Đạo.... Những bài báo đó đã được giới quân sự chú ý và Diệm – Nhu đề cao “tầm” của ông. Năm 1957, ông được điều về làm việc tại Phòng Nghiên cứu chính trị của Phủ tổng thống với hàm thiếu tá. Từ đó, ông lần lượt giữ các chức vụ Tỉnh đoàn trưởng Bảo an tỉnh Vĩnh Long, rồi Tỉnh đoàn trưởng Bảo an tỉnh Bình Dương.
Năm 1960, sau khi học một khóa chỉ huy và tham mưu ở Trường Võ bị Quốc gia Đà Lạt, Phạm Ngọc Thảo được thăng thiếu tá và được cử làm Thanh tra Khu Trù Mật[cần dẫn nguồn].
Biết Phạm Ngọc Thảo từng là chỉ huy du kích Việt Minh, đầu năm 1961 Ngô Đình Nhu đã quyết định thăng ông lên trung tá và cử làm tỉnh trưởng tỉnh Kiến Hòa (tức Bến Tre) để trắc nghiệm Chương trình Bình định. Từ khi ông nhậm chức, tình hình an ninh tại vùng này trở nên rất yên ổn, không còn bị phục kích hay phá hoại nữa. Tuy nhiên, do có nhiều tố cáo nghi ngờ ông là cán bộ cộng sản nằm vùng, anh em Ngô Đình Diệm - Ngô Đình Nhu đã ngưng chức tỉnh trưởng Kiến Hòa và cho ông sang Hoa Kỳ học một khóa về chỉ huy và tham mưu. Từ đó Bến Tre tiếp tục mất an ninh. Trước đó, khi lên tỉnh trưởng, ông đã quyết định thả ngay[cần dẫn nguồn] hơn 2000 tù nhân đang bị giam giữ, liên lạc với bà Nguyễn Thị Định, tạo điều kiện cho khởi nghĩa Bến Tre bùng nổ. Chính sách không cho binh lính đàn áp dân chúng tùy tiện của Phạm Ngọc Thảo đã “bật đèn xanh” cho phong trào “đồng khởi” sau này.
Tham gia các cuộc đảo chính
Lần thứ nhất
Tháng 9 năm 1963 Bác sĩ Trần Kim Tuyến nguyên Giám đốc Sở Nghiên cứu chính trị (thực chất là trùm mật vụ) và Phạm Ngọc Thảo âm mưu một cuộc đảo chính. Phạm Ngọc Thảo đã kêu gọi được một số đơn vị như Quân đoàn 3, Quân đoàn 4, Biệt động quân, Bảo an... sẵn sàng tham gia. Để chấm dứt âm mưu đảo chính này, ngày 6 tháng 9 năm 1963, Tổng thống Diệm đã cử Trần Kim Tuyến đi làm Tổng lãnh sự tại Ai Cập.Sau khi chính quyền Ngô Đình Diệm bị lật đổ ngày 1 tháng 11 năm 1963 (cuộc đảo chính do một nhóm tướng lĩnh khác chủ mưu), Phạm Ngọc Thảo được lên chức đại tá, làm tùy viên báo chí trong Hội đồng Quân nhân Cách mạng. Một thời gian sau, ông được cử làm tùy viên văn hóa của Tòa đại sứ Việt Nam tại Mỹ.
Lần thứ hai
Đầu năm 1965, Phạm Ngọc Thảo bị gọi về nước vì chính quyền Sài Gòn đã nghi ngờ, muốn bắt ông. Vì vậy, ông đã đào nhiệm và bí mật liên lạc với các lực lượng đối lập khác để tổ chức đảo chính ở Sài Gòn vì một lí do vô cùng quan trọng. Theo một tài liệu mà ông nắm được, Mỹ và Nguyễn Khánh đã thỏa thuận sẽ ném bom xuống miền Bắc vào 20/2/1965, vì vậy cuộc đảo chính sẽ tiến hành đúng ngày 19/2.Ngày 19 tháng 2 năm 1965, Phạm Ngọc Thảo cùng thiếu tướng Lâm Văn Phát,đại tá Bùi Dzinh và trung tá Lê Hoàng Thao đem quân và xe tăng vào chiếm trại Lê Văn Duyệt, đài phát thanh Sài Gòn, bến Bạch Đằng và sân bay Tân Sơn Nhất. Tướng Nguyễn Khánh đào thoát bằng máy bay ra Vũng Tàu.
Ngày 20 tháng 2, hội đồng các tướng lĩnh họp ở Biên Hòa. Các tướng cử Nguyễn Chánh Thi làm chỉ huy chống đảo chính và ra lệnh cho Phạm Ngọc Thảo, Lâm Văn Phát và 13 sĩ quan khác phải ra trình diện trong 24 giờ.
Ngày 21 tháng 2 năm 1965, các tướng tiếp tục họp tại Biên Hòa, quyết định giải nhiệm Nguyễn Khánh và cử tướng Trần Văn Minh làm Tổng Tư lệnh Quân lực Việt Nam Cộng Hòa.
Ngày 22 tháng 2 năm 1965, Quốc trưởng Phan Khắc Sửu ký sắc lệnh bổ nhiệm tướng Nguyễn Khánh làm Đại sứ lưu động (một hình thức trục xuất khỏi nước cho đi lưu vong). Ngày 25 tháng 2 năm 1965, Nguyễn Khánh rời khỏi Việt Nam.
Khi biết tin quyền lãnh đạo đã rơi vào tay các tướng lĩnh khác, Phạm Ngọc Thảo bỏ trốn.
Bị bắt và qua đời
Ngày 11 tháng 6 năm 1965, Quốc trưởng Phan Khắc Sửu và Thủ tướng Phan Huy Quát tuyên bố trả lại quyền lãnh đạo quốc gia cho quân đội.Ngày 14 tháng 6 năm 1965, Ủy ban Lãnh đạo Quốc gia đã được thành lập do tướng Nguyễn Văn Thiệu làm Chủ tịch.
Sau đó, Phạm Ngọc Thảo phải rút vào hoạt động bí mật, nhưng ông tiếp tục chuẩn bị tư tưởng cho các hoạt động cách mạng bằng cách xuất bản tờ báo “Việt Tiến”, mỗi ngày phát hành trên 50.000 tờ, tuyên truyền tinh thần yêu nước, chống Mỹ – VNCH. Ông có cả một hàng rào bảo vệ rộng lớn từ các xứ đạo Biên Hòa tới Hố Nai, Thủ Đức, Sài Gòn; có nhiều linh mục giúp đỡ in ấn, phát hành tờ Việt Tiến. Lúc này, ông bị chính quyền Kỳ – Thiệu kết án tử hình và treo giải 3 triệu đồng cho ai bắt được nhưng vẫn liên lạc với cơ sở cách mạng trực tiếp là Sáu Dân (bí danh của Võ Văn Kiệt) để hoạt động tiếp.
Ông Võ Văn Kiệt kể lại: “tôi thấy Phạm Ngọc Thảo quá khó khăn nên đi tìm anh để đưa về chiến khu. Nhưng anh bảo vẫn còn khả năng đảo chính thành công quyết tâm ngăn chặn bàn tay đế quốc Mỹ định đưa quân viễn chinh vào miền Nam, cản trở kế hoạch ồ ạt đổ quân vào Đà Nẵng cuối tháng 5/1965...”.
Đại sứ quán Mỹ cũng đề nghị đưa ông ra nước ngoài an toàn nhưng ông từ chối.
Sau khi nhậm chức, tướng Thiệu quyết định tìm bắt và giết Phạm Ngọc Thảo[cần dẫn nguồn] để trừ hậu họa. Tướng Lâm Văn Phát đã ra trình diện và chỉ bị cách chức, nhưng đại tá Phạm Ngọc Thảo phải trốn nhiều nơi, cuối cùng đến trốn trong Đan viện Phước Lý ở xã Vĩnh Thanh, huyện Nhơn Trạch, Biên Hòa.
Cuối cùng nơi trú ẩn này cũng bị lộ. Lúc 3 giờ sáng ngày 16 tháng 7 năm 1965, khi ông vừa ra khỏi Đan viện Phước Lý thì bị an ninh quân đội mai phục sẵn bắt rồi đưa về một suối nhỏ gần Tam Hiệp, Biên Hòa, định thủ tiêu.
Tuy nhiên Phạm Ngọc Thảo không chết mà chỉ bị ngất vì viên đạn chỉ trúng cằm. Tỉnh dậy, ông cố lết về một nhà thờ. Ông được linh mục Cường, cha tuyên úy của Dòng Nữ tu Đa Minh, Tam Hiệp cứu chữa. Sau đó ông chủ động xin chuyển tới chỗ khác phòng khi An ninh quân đội tới truy tìm, nhưng bị phát giác và ông lại bị an ninh quân đội bắt về Cục an ninh quân đội, đường Nguyễn Bỉnh Khiêm, Sài Gòn. Ông bị tra tấn dã man [2] và bị bóp vào hạ bộ đến chết[3][4] vào đêm 17 tháng 7 năm 1965[1]. Khi đó ông mới 43 tuổi.
Di sản
Những năm ấy, rất ít người biết Phạm Ngọc Thảo là một nhà tình báo, người ta chỉ biết ông là một sĩ quan có khả năng chính trị và ngoại giao. Sau ngày Việt Nam thống nhất, nhiều đồng đội đã vô cùng chua xót khi thấy mộ ông vẫn chỉ là nấm mồ vô danh. Họ đã sưu tầm tư liệu, đề nghị Nhà nước truy tặng ông danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang Nhân dân... Rất nhiều nước mắt xúc động, cảm thương của những người chiến binh già đã rơi khi kể lại câu chuyện về ông. Năm 1987, Nhà nước Việt Nam truy tặng ông danh hiệu liệt sỹ, với quân hàm đại tá Quân đội Nhân dân Việt Nam, danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Hiện nay, mộ Phạm Ngọc Thảo được đưa về nghĩa trang Thành phố Hồ Chí Minh, trên đồi Lạc Cảnh (huyện Thủ Đức). Mộ ông nằm cạnh mộ những tên tuổi nổi tiếng như Lưu Hữu Phước, Phạm Ngọc Thạch, Can Trường...Phạm Ngọc Thảo được coi là một trong 4 tình báo viên xuất sắc nhất của Quân đội Nhân dân Việt Nam (3 người kia là Phạm Xuân Ẩn, Vũ Ngọc Nhạ và Lê Hữu Thúy[cần dẫn nguồn]). Một số người còn cho ông là điệp viên xuất sắc nhất[5] bởi 3 đặc điểm chính:
- Phạm Ngọc Thảo là tình báo viên hoạt động đơn tuyến, không có đồng đội trực tiếp hỗ trợ, chỉ chịu sự chỉ đạo về chiến lược của Lê Duẩn. Nhiệm vụ của ông không phải là đưa tin mà là tác động đến sự "thay đổi chế độ". Có thể nói, với nhiệm vụ này, tầm quan trọng của Phạm Ngọc Thảo ngang với sức mạnh của một đạo quân.
- So với các tình báo viên khác, Phạm Ngọc Thảo là người có thể tác động trực tiếp đến chính quyền và quân đội. Là sỹ quan cao cấp trong Quân lực Việt Nam Cộng hòa, ông có tác động, thậm chí trực tiếp đạo diễn và tham gia chỉ đạo hàng loạt vụ đảo chính làm rung chuyển gây mất ổn định chính quyền Nam Việt Nam những năm 1964-1965.
- Trong cuộc tranh giành quyền lực giữa các phe phái quân đội, Phạm Ngọc Thảo bị xem là đối tượng nguy hiểm và bị đe dọa tính mạng bất cứ lúc nào. Dù vậy, ông vẫn tiếp tục nhiệm vụ mà không trốn chạy để bảo toàn mạng sống. Thậm chí, cả khi bị bắt và tra tấn đến chết, Phạm Ngọc Thảo vẫn không lộ tung tích của mình. Mãi sau này, khi ông được truy phong, người ta mới biết ông là tình báo viên.
Trong dòng đề tựa trong cuốn Ván Bài Lật Ngửa, nhà văn Nguyễn Trương Thiên Lý đã trân trọng viết "Tưởng nhớ anh Chín T. và những người đã chiến đấu hy sinh thầm lặng". Ông đã sử dụng chính hình tượng của Phạm Ngọc Thảo để xây dựng nhân vật Nguyễn Thành Luân trong tiểu thuyết của mình. Tiểu thuyết này sau được dựng thành phim rất ăn khách (vai Nguyễn Thành Luân do diễn viên Nghệ sĩ ưu tú Nguyễn Chánh Tín đảm nhiệm).
Ông Trần Bạch Đằng, nguyên Phó ban tuyên huấn Trung ương cục miền Nam nhận xét: "các nhà tình báo thông thường có nhiệm vụ giấu mình, thu thập, khai thác tin tức chuyển về trung tâm. Riêng Phạm Ngọc Thảo đi thẳng vào hàng ngũ kẻ thù, tung hoành hoạt động vì Tổ quốc cho tới tận lúc hy sinh, trường kỳ mai phục và độc lập tác chiến. Anh là người tình báo đặc biệt có một không hai". Nguyên thủ tướng Võ Văn Kiệt nói: "anh Phạm Ngọc Thảo đã nhận một nhiệm vụ đặc biệt, chưa từng có tiền lệ trong công tác cách mạng của chúng ta"
Chú thích
- ^ a b c Phạm Ngọc Thảo (1922 - 1965)
- ^ Theo Larry Berman trong cuốn "PERFECT SPY"
- ^ Cái chết bi thảm và sứ mệnh hoàn hảo
- ^ Nhớ lại những ngày ở cạnh Tổng Thống Ngô Đình Diệm
- ^ Trong Điệp viên hoàn hảo, nhà sử học Larry Berman đã dẫn lời điệp viên Phạm Xuân Ẩn: "Nhiệm vụ được giao cho Phạm Ngọc Thảo khác với nhiệm vụ của tôi. Ông ấy có nhiệm vụ làm mất ổn định của chế độ Diệm và vạch âm mưu đảo chính, còn tôi là một nhà tình báo chiến lược. Nhiệm vụ của ông Phạm Ngọc Thảo nguy hiểm hơn nhiệm vụ của tôi rất nhiều"
Liên kết ngoài
- Báo Quân đội nhân dân
- Nhân vật tình báo huyền thoại
- Loạt bài Nhà tình báo Phạm Ngọc Thảo
- Goscha, Christopher E. (1999). Thailand and the Southeast Asian Networks of the Vietnamese Revolution, 1885–1954. Routledge. ISBN 0-700-70622-4.
- Halberstam, David; Singal, Daniel J. (2008). The Making of a Quagmire: America and Vietnam during the Kennedy Era. Lanham, Maryland: Rowman & Littlefield. ISBN 0-7425-6007-4.
- Hammer, Ellen J. (1987). A Death in November. New York City, New York: E. P. Dutton. ISBN 0-525-24210-4.
- Jacobs, Seth (2006). Cold War Mandarin: Ngo Dinh Diem and the Origins of America's War in Vietnam, 1950–1963. Lanham, Maryland: Rowman & Littlefield Publishers. ISBN 0-7425-4447-8.
- Hickey, Gerald Cannon (2002). Window on a War: An Anthropologist in the Vietnam Conflict. Lubbock, Texas: Texas Tech University Press. ISBN 0896724905.
- Jones, Howard (2003). Death of a Generation. New York City, New York: Oxford University Press. ISBN 0-19-505286-2.
- Kahin, George McT. (1979). “Political Polarization in South Vietnam: U.S. Policy in the Post-Diem Period Author(s)”. Pacific Affairs (Vancouver, British Columbia) 52 (4): 647–673.
- Karnow, Stanley (1997). Vietnam: A history. New York City, New York: Penguin Books. ISBN 0-670-84218-4.
- Langguth, A. J. (2000). Our Vietnam. New York City, New York: Simon and Schuster. ISBN 0-684-81202-9.
- Moyar, Mark (2006). Triumph Forsaken: The Vietnam War, 1954–1965. New York City, New York: Cambridge University Press. ISBN 0521869110.
- Prochnau, William (1995). Once upon a Distant War. New York City, New York: Vintage. ISBN 0-812-92633-1.
- Shaplen, Robert (1965). The Lost Revolution: Vietnam 1945–1965. London: Andre Deutsch.
- Truong Nhu Tang (1986). Journal of a Vietcong. Cape. ISBN 0224028197.
- VanDeMark, Brian (1995). Into the Quagmire: Lyndon Johnson and the Escalation of the Vietnam War. Oxford University Press. ISBN 0195096509.
- Winters, Francis X. (1997). The year of the hare: America in Vietnam, January 25, 1963 – February 15, 1964. University of Georgia Press. ISBN 0-8203-1874-4.
|
Thomas Edison
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
(đổi hướng từ Thomas Alva Edison)
Thomas Edison | |
---|---|
"Genius is one percent inspiration,
ninety-nine percent perspiration." - "Thiên tài là một phần trăm cảm
hứng, chín mươi chín phần trăm mồ hôi."
– Thomas Alva Edison, Harper's Monthly (Tháng 9 năm 1932) |
|
Sinh | Thomas Alva Edison 11 tháng 2, 1847 Milan, Ohio, Hoa Kỳ |
Mất | 18 tháng 10, 1931 (84 tuổi) West Orange, New Jersey, Hoa Kỳ |
Công việc | Nhà phát minh, nhà khoa học, thương gia |
Tín ngưỡng | Thuyết thần giáo tự nhiên |
Chồng/vợ | Mary Stilwell (1871–1884) Mina Miller (1886–1931) |
Con cái | Marion Estelle Edison (1873–1965) Thomas Alva Edison Jr. (1876–1935) William Leslie Edison (1878–1937) Madeleine Edison (1888–1979) Charles Edison (1890–1969) Theodore Miller Edison (1898–1992) |
Cha mẹ | Samuel Ogden Edison, Jr. (1804–1896) Nancy Matthews Elliott (1810–1871) |
Người thân | Lewis Miller (cha vợ) |
Chữ ký | |
Mục lục
Gia đình
Tổ tiên Edison (Gia đình Edison ở Hà Lan) đã nhập cư tới New Jersey năm 1730. John Edison vẫn trung thành với Anh Quốc khi các thuộc địa tuyên bố độc lập (xem Những người trung thành với Đế chế thống nhất), dẫn tới việc ông bị bắt giữ. Sau khi suýt bị treo cổ, ông và gia đình bỏ đi tới Nova Scotia,Canada, định cư trên vùng đất mà chính phủ thuộc địa dành cho những người trung thành với nước Anh.Ra đời và những năm thơ ấu
Thomas Edison sinh tại Milan, Ohio, con của Samuel Ogden Edison, Jr. và Nancy Matthews Elliott (1810–1871). Thomas là đứa con thứ bảy trong gia đình. Thuở nhỏ, Edison nổi tiếng là một cậu bé hiếu kì. Edison đi học muộn vì ông vốn ốm yếu. Đầu óc ông luôn lơ mơ và giáo viên của ông là Reverend Engle gọi ông là "rối trí". Trong khi bạn bè đồng lứa còn ham chơi thì Edison đã không những luôn băn khoăn tìm hiểu mọi vật quanh mình mà còn muốn hiểu thấu đáo các vật đó. Vì những trò nghịch ngợm của mình mà Edison đã bị đuổi học ngay khi chưa kết thúc tiểu học. Mẹ ông từng là một giáo viên ở Canada và bà rất vui mừng đảm nhận việc dạy con. Bà khuyến khích và dạy ông đọc và làm thực nghiệm. Sau này ông nhớ lại, "Mẹ tôi đã tạo ra tôi. Bà rất tin tưởng và chắc chắn về tôi; và tôi cảm thấy rằng tôi có một điều gì đó để sống, một ai đó để tôi không thể làm cho thất vọng."[1]Cuộc sống của Edison ở Port Huron vừa cay đắng vừa ngọt ngào. Ông bán kẹo và bán báo trên các chuyến tàu hỏa từ Port Huron đến Detroit. Hơi điếc từ thời thanh niên, ông đã trở thành một điện tín viên sau khi ông cứu Jimmie Mackenzie khỏi lao vào tàu hoả. Cha của Jimmie là nhân viên nhà ga J.U. Mackenzie ở Mount Clemens, Michigan, rất vui mừng bảo trợ cho Edison và dạy ông trở thành điện tín viên. Vì bị điếc nên Edison tránh khỏi mọi tiếng ồn ào và cũng không phải nghe nhân viên điện báo bên cạnh. Một trong những cố vấn của ông những năm đầu tiên này là một điện tín viên già và là một nhà phát minh tên là Franklin Leonard Pope, ông đã cho phép chàng trai trẻ sống và làm việc trong tầng hầm ở nhà ông tại nhà Elizabeth, New Jersey.
Một số trong những phát minh đầu tiên của ông liên quan tới điện tín gồm cả máy đếm phiếu. Edison đã xin cấp bằng phát minh đầu tiên, máy đếm phiếu điện tử, ngày 28 tháng 10, 1868.
Các cuộc hôn nhân và cuộc sống sau đó
Năm 1871, ở tuổi 24, Edison trở thành chủ một xí nghiệp được nhiều người biết tiếng. Cuộc sống dần ổn định và nhu cầu có một mái ấm gia đình chợt đến trong đầu. Ông chú ý đến cô thư kí Mary Stilwell dịu dàng, thanh mảnh làm việc trong công ty, một hôm, ông đến gặp nàng và nói: "Thưa cô, tôi không muốn phí thì giờ nói những câu vô ích. Tôi xin hỏi cô một câu rất ngắn gọn và rõ ràng: Cô có muốn làm vợ tôi không?". Cô gái sửng sốt, không tin ở tai mình - "Ý cô thế nào? Cô nhận lời tôi nhé? Tôi xin cô hãy suy nghĩ trong năm phút" - Edison nhắc lại lời cầu hôn cấp tốc của mình. "Năm phút cơ à? thế thì lâu quá! Vâng em nhận lời" - đỏ mặt lí nhí, Mary đáp. Ngày 25 tháng 12, 1871, ông cưới Mary, và họ có ba người con, Marion Estelle Edison, Thomas Alva Edison, Jr., và William Leslie Edison. Mary vợ ông mất năm 1884. Ngày 24 tháng 2 1886, ở tuổi ba chín, ông lấy Mina Miller một cô gái mười chín tuổi. Họ có thêm ba người con nữa: Madeleine Edison, Charles Edison (người tiếp quản công ty sau khi cha qua đời, và sau này trở thành Bộ trưởng Hải quân, được bầu làm Thống đốc bang New Jersey), và Theodore Edison.Thomas Edison mất ở New Jersey ở tuổi 84. Sáng Chủ Nhật ngày 18/10/1931, Thomas Edison lìa trần chỉ 3 ngày trước lễ kỉ niệm sinh nhật lần thứ 52 của chiếc bóng điện đầu tiên. Những từ cuối cùng của ông nói với vợ là: "Ở ngoài kia đẹp quá".
Nước Mỹ tưởng nhớ ông bằng cách tắt toàn bộ đèn điện trên toàn lãnh thổ Hoa Kỳ trong một phút để tưởng nhớ người vĩ nhân, “người bạn của nhân loại” đã mang đến cho con người một thứ ánh sáng quý giá, một “mặt trời thứ hai”.
Nhà phát minh
Không học ở trường, Edison tự học ở sách theo cách riêng của mình. Dần dần, với sự suy nghĩ, tìm tòi, thực hiện không chú trọng lí thuyết suông, từng bước Edison đã chinh phục những gì mà người thời bấy giờ cho là không tưởng. Phát minh đầu tiên của ông là một chiếc máy điện báo tải hai có khả năng cùng một lúc phát đi hai tin. Ít lâu sau, ông cải tiến thành máy tải ba, tải tư rồi đa tải.Một thời gian sau, chán nản với công việc của một điện báo viên, Edison đến New York, trung tâm tài chính bậc nhất lúc bấy giờ, với hy vọng sẽ kiếm thêm chi phí cho các cuộc thí nghiệm của mình. Tại đây, ông đã hợp tác với vài người bạn thành lập một công ty nhỏ chuyên về điện và điện báo. Phát minh thứ hai của ông là cải tiến chiếc máy điện báo đa tải thành Hệ thống điện báo nhận các tin tức hối đoái ngân hàng. Chiếc máy đầu tiên đã đem về cho ông một số tiền lớn. Toàn bộ số tiến kiếm được lúc này, ông trút hết vào các thí nghiệm của mình về sau.
Phát minh đầu tiên mang lại nổi tiếng cho Edison là máy quay đĩa năm 1877. Công chúng không thể ngờ được về phát minh này và coi nó là điều ma thuật. Edison bắt đầu được gọi là "Thầy phù thủy ở Menlo Park, New Jersey", nơi ông sống. Chiếc máy quay đĩa đầu tiên của ông ghi lại âm thanh trên các trụ bọc thiếc cho chất lượng âm thanh thấp và nó phá hủy luôn đường rãnh ghi âm khi nghe lại nên chỉ có thể nghe được một lần. Trong thập kỷ 1880, một model được thiết kế lại sử dụng các trụ bìa giấy các tông tráng sáp ong được chế tạo bởi Alexander Graham Bell, Chichester Bell, và Charles Tainter. Đây là một lý do khiến Thomas Edison tiếp tục làm việc để tạo ra chiếc "Máy hát hoàn thiện" của riêng ông.
Menlo Park
Sự cách tân lớn nhất của Edison chính là phòng thí nghiệm ở Menlo Park, nó được xây dựng ở New Jersey. Đây là viện nghiên cứu đầu tiên được thành lập với mục đích chuyên biệt nhằm tạo ra các cải tiến và cách tân liên tục trong công nghệ. Chính tại đây, đa số các phát minh được đưa vào thực tiễn của ông đã ra đời, mặc dù việc căn bản của ông là quản lý và điều hành công việc của các nhân viên.. Ông góp công trong việc thực nghiệm điện thoại, máy quay đĩa, tàu điện, máy phân tích quặng, đèn điện, và một số cải tiến phát minh khác. Tuy nhiên, ban đầu ông làm việc về đèn điện và chịu trách nhiệm thử nghiệm và ghi lại về thiết bị đó. Năm 1880 ông được chỉ định làm kỹ sư trưởng của Xưởng đèn Edison. Trong năm đầu tiên này, xưởng dưới sự quản lý của Francis Upton, đã sản xuất ra 50.000 bóng đèn. Theo Edison, Hammer là "một người tiên phong trong lĩnh vực đèn chiếu sáng".
Đa số các bằng sáng chế của Edison là những bằng sáng chế hữu ích, chỉ khoảng hơn mười chiếc là bằng sáng chế thiết kế. Nhiều phát minh của ông không hoàn toàn là ý tưởng ban đầu của ông, nhưng những cải tiến giúp nó có thể được sản xuất hàng loạt là của ông. Ví dụ, trái với điều mọi người vẫn nghĩ, Edison không phát minh ra bóng đèn điện. Nhiều thiết kế đã được phát triển bởi các nhà phát minh từ trước đó gồm cả bằng sáng chế mà ông mua lại từ Henry Woodward và Mathew Evans, Moses G. Farmer,[2] Joseph Swan, James Bowman Lindsay, William Sawyer, Humphry Davy, và Heinrich Göbel. Năm 1878, Edison xin cấp phép cho thuật ngữ sợi dây tóc cho yếu tố dây phát sáng mang dòng điện, mặc dù nhà phát minh người Anh Joseph Swan đã sử dụng thuật ngữ đó từ trước. Edison đã lấy các đặc tính từ các thiết kế trước đó và trao nhiệm vụ cho các công nhân của ông tạo ra những bóng đèn có tuổi thọ cao hơn. Năm 1879, ông đã sản xuất ra một ý niệm mới: một chiếc đèn có sức chịu đựng cao trong một môi trường chân không lớn, nó sẽ cháy sáng hàng trăm giờ. Trong khi những nhà phát minh trước đó đã sản xuất ra đèn điện trong các điều kiện phòng thí nghiệm, Edison đã tập trung vào việc áp dụng thương mại hóa và đã có thể bán ý tưởng của mình tới các gia đình và các cửa hàng bằng cách sản xuất hàng loạt các bóng đèn có tuổi thọ cao và tạo ra một hệ thống phát và cung cấp điện.
Phòng thí nghiệm Menlo Park có thể được xây dựng nhờ tiền bán bộ máy thu phát cùng lúc bốn tín hiệu mà Edison sáng chế ra năm 1874. Chiếc máy điện báo thu phát bốn tín hiệu cùng lúc có thể gửi bốn tín hiệu điện báo cùng lúc trên cùng một dây dẫn. Khi Edison liên hệ bán máy cho Western Union, ông đã bị sốc khi Western Union đưa ra một cái giá không thể ngờ nổi; quyền sáng chế được bán với giá $10.000. Chiếc máy điện báo này là thành công tài chính lớn đầu tiên của ông.
Lĩnh vực điện khí
Năm 1879 Edison thành lập ra Thomson-Houston đến năm 1890 ông thành lập công ty Edison General Electric. Hai năm sau Edison General Electric và Thomson-Houston hợp nhất hình thành công ty Edison General Electric and Thomson-Houston, tiền thân của tập đoàn điện khí khổng lồ GE ngày nay. Về sau có tới hơn 10 công ty mang tên ôngBắt đầu vận hành nhà máy điện đầu tiên
Năm 1880 Edison đăng ký bằng sáng chế về phân phối điện, sự kiện đó đóng vai trò chính trong việc tích lũy để phát minh ra đèn điện. Tháng 12 năm 1880, Edison thành lập Công ty Chiếu sáng mang tên ông đặt tại số 257, đường Pearl thành phố New York và đến năm 1882 đã thành công khi đưa trạm phát điện đầu tiên đi vào hoạt động.
Trạm phát điện đầu tiên "Jumbo số 1" là một máy phát điện chạy bằng hơi nước trực tiếp nặng 27 tấn, riêng phần lõi (armature) nặng đến 6 tấn và được sử dụng để làm mát không khí. Trạm phát điện này có thể làm sáng 700 ngọn đèn gồm 16 nến. Trong vòng 14 tháng, nhà máy điện đầu tiên của Edison đã phục vụ cho 508 thuê bao và hỗ trợ 12.732 bóng đèn.
Thành công thực sự của Edison, giống như người bạn của ông Henry Ford, trong khả năng của mình để tối đa hóa lợi nhuận thông qua việc thành lập hệ thống sản xuất hàng loạt và các quyền sở hữu trí tuệ. George Westinghouse và Edison đã trở thành đối thủ vì Edison xúc tiến việc sử dụng dòng điện một chiều (DC) cho phân phối điện trong hệ thống luân phiên thay vì một hệ thống đơn giản hơn là dòng điện xoay chiều (AC) được phát minh bởi Nikola Tesla và xúc tiến bởi Westinghouse. Không giống như DC, dòng điện xoay chiều có thể được tăng cường điện áp rất cao với các máy biến áp, được gửi qua những đường dây điện mảnh hơn và rẻ hơn, và hạ điện áp tại điểm đến để phân phối cho người sử dụng.
Năm 1887, có 121 trạm phát điện Edison ở Hoa Kỳ cung cấp điện dòng điện một chiều cho khách hàng. Khi những hạn chế của dòng điện một chiều đã được thảo luận trước công chúng, Edison đã phát động một chiến dịch tuyên truyền để thuyết phục mọi người rằng dòng điện xoay chiều là quá nguy hiểm để sử dụng. Vấn đề với dòng điện một chiều là các nhà máy điện này chỉ cung cấp cho khách hàng trong vòng khoảng một dặm rưỡi (khoảng 2,4 km) từ các trạm phát điện, do đó nó chỉ thích hợp cho các trung tâm thương mại. Khi George Westinghouse đề nghị sử dụng điện áp cao dòng điện xoay chiều thay thế, vì nó có thể mang điện hàng trăm dặm và mất mát điện ít, Edison đã tiến hành một "cuộc chiến tranh dòng điện" để ngăn chặn dòng điện xoay chiều được thông qua.
Cuộc chiến chống lại dòng điện xoay chiều đã khiến ông tham gia vào việc phát triển và xúc tiến ghế điện (sử dụng AC) như một nỗ lực để miêu tả dòng điện xoay chiều có khả năng gây tử vong lớn hơn so với DC. Edison đã thực hiện một chiến dịch ngắn gọn nhưng mạnh mẽ để cấm việc sử dụng dòng điện xoay chiều hoặc hạn chế điện áp nhằm những mục đích an toàn. Trong một phần của chiến dịch này, nhân viên của Edison cho giật điện công khai một số động vật để chứng minh sự nguy hiểm của AC;[3][4] dòng điện xoay chiều hơi nguy hiểm hơn ở những tần số gần 60 Hz có khả năng đáng kể gây nguy hiệm đến tính mạng hơn dòng điện một chiều.[5] Một trong những thí nghiệm đáng chú ý của ông vào năm 1903, những công nhân của Edison cho giật điện con voi tên Topsy tại Luna Park, gần đảo Coney, sau khi nó giết vài người và chủ của nó muốn giết nó.[6] Công ty của ông đã quay phim lại những cuộc tử hình bằng giật điện.
Dòng điện xoay chiều thay thế hầu hết dòng điện một chiều trong các trạm phân phối điện, nhanh chóng mở rộng phạm vi và cải tiến hiệu quả của các trạm phân phối điện. Mặc dù dòng điện một chiều không còn được ưa chuộng sử dụng, nó vẫn tồn tại đến ngày nay trong những hệ thống dẫn truyền dòng điện một chiều điện áp cao (HVDC). Dòng điện một chiều điện áp thấp vẫn còn tiếp tục được sử dụng cho những khu vực dông dân cư trong nhiều năm nhưng cuối cùng bị thay thế bởi hệ thống dòng điện xoay chiều điện áp thấp.[7]
Nhà cửa
Thập niên 1880, Thomas Edison mua đất đai ở Fort Myers, Florida, và xây Seminole Lodge làm nơi nghỉ đông. Henry Ford, ông trùm ô tô, sau này đã sống ở nhà nghỉ đông của ông, The Mangoes phía đối diện. Edison thậm chí cũng đóng góp về kỹ thuật cho ngành ô tô. Họ là bạn bè tới tận khi Edison mất trong trạng thái bình yên, thọ 84 tuổi. Edison and Ford Winter Estates hiện đang mở cửa cho công chúng.Chuyện ngoài lề
- Thomas Edison là một người có tư tưởng độc lập, và giống như một nhà thần luận, tuyên bố rằng ông không tin vào "Chúa và các nhà thần học", nhưng lại không nghi ngờ rằng "có một sự hiểu biết siêu nhiên". Tuy nhiên, ông phản đối ý kiến về siêu nhiên, cùng với những ý tưởng về linh hồn, sự bất tử, và hiện thân của Chúa. Ông nói, "Thiên nhiên không nhân từ và đáng yêu, mà hoàn toàn tàn nhẫn, xa lạ."[8]
- Ông đã mua một ngôi nhà gọi là "Glenmont" năm 1886 coi đó là món quà cưới cho Mina ở Llewellyn Park tại West Orange, New Jersey. Mộ của Thomas và Mina Edison hiện đang được chôn cất tại đó. Vùng đất rộng 13.5 acre (55.000 m²) được National Park Service giữ gìn làm Di tích lịch sử quốc gia Edison.
- Edison đã trở thành người sở hữu nơi sinh của ông Milan, Ohio năm 1906, và, trong lần tới thăm cuối cùng năm 1923, ông đã sốc khi thấy ngôi nhà cũ của mình vẫn được chiếu sáng bằng đèn và nến.
- Năm 1878, ông được phong tước Hiệp sỹ Quân đoàn danh dự của Pháp, và năm 1889, ông được phong làm Chỉ huy Quân đoàn danh dự.
- Bị ảnh hưởng bởi một chế độ ăn giàu chất béo vào hồi đó, trong những năm cuối đời "ông không ăn gì ngoài cứ ba giờ uống một lít sữa".[9] Ông tin rằng chế độ ăn như vậy sẽ giúp ông hồi phục sức khỏe.
- Trong cả cuộc đời ông rất nặng tai.
- Thomas Edison đã viết một bức thư nổi tiếng cho nhà chế tạo đàn piano là Steinway & Sons sau khi định giá một trong những chiếc đàn của họ:
- "Gửi Steinway & Sons —
- "Thưa các quý ông,
- "Tôi đã quyết định giữ chiếc đàn piano tuyệt vời của các vị. Vì một số lý do không thể hiểu được đối với tôi nó đã mang lại những kết quả tuyệt diệu so với những lần tôi từng thử trước đó. Xin hãy gửi hóa đơn cho tôi với giá rẻ nhất.
- "— Thomas Edison
Danh sách các cống hiến
- Máy quay đĩa
- Máy chiếu phim
- Máy ghi âm
- Cung cấp hỗ trợ tài chính cho công việc của Guglielmo Marconi về truyền phát radio và có được nhiều bằng sáng chế.
- Tattoo gun (Dựa trên Bút điện, được sử dụng để tạo ra các bản copy rô nê ô)
- Bóng đèn
Những cải tiến công việc của Edison
- Lewis Latimer được cấp bằng sáng chế một cách cải tiến cách sản xuất dây tóc đèn trong bóng (không có bằng chứng rằng thứ này từng được sử dụng ở một công ty của Edison).
- Nikola Tesla đã phát triển phân phối điện xoay chiều, có thể được dùng để truyền điện qua khoảng cách xa hơn điện một chiều của Edison vì khả năng biến thế. Có thể nói rằng dòng điện xoay chiều không có nguồn gốc từ công việc của Edison, nhưng nó liên quan tới cả hai người. Tesla là cựu nhân viên của Edison, và đã rời bỏ ông để đi theo con đường điện xoay chiều - mà Edison không ủng hộ.
- Emile Berliner đã phát triển máy hát, về cơ bản nó là một máy quay đĩa cải tiến, với khác biệt căn bản là sử dụng bản ghi phẳng với các đường rãnh xoắn ốc.
- Edward H. Johnson có những bóng đèn được chế tạo đặc biệt, và được lắp đặt ở nhà ông ở Fifth Avenue tại thành phố New York trên Cây thông Noel đầu tiên được trang trí bằng điện vào 22 tháng 12, 1882.
Tưởng nhớ
- Thị trấn Edison, New Jersey, và Thomas Edison State College, một trường trung học nổi tiếng quốc gia cho thanh niên ở Trenton, New Jersey, được đặt theo tên nhà phát minh. Có một Tháp tưởng niệm và Bảo tàng Thomas Alva Edison Memorial Tower ở thị trấn Edison.
- Huy chương Edison được thành lập ngày 11 tháng 2, 1904 bởi một nhóm bạn và người cộng tác với Edison. Bốn năm sau Viện kỹ sư điện Hoa Kỳ (AIEE), sau này là IEEE, đã đồng ý với nhóm trên để dùng huy hiệu làm phần thưởng cao quý nhất của họ. Huy hiệu đầu tiên được trao năm 1909 cho Elihu Thomson, và đáng ngạc nhiên là cả Tesla năm 1917. Huy hiệu Edison là phần thưởng xưa nhất trong lĩnh vực điện và kỹ thuật điện, và được trao hàng năm "cho một thành quả chuyên môn xứng đáng trong khoa học điện, kỹ thuật điện hay nghệ thuật điện."
- Tạp chí Life (Mỹ), trong một số đặc biệt, đã đưa Edison vào danh sách "100 người quan trọng nhất trong 1000 năm qua", ghi chú rằng bóng đèn của ông đã "chiếu sáng thế giới". Ông được xếp hạng ba mươi năm trên danh sách Những khuôn mặt có ảnh hưởng nhất trong thế kỷ của Michael H. Hart.
- Khách sạn của thành phố, ở Sunbury, Pennsylvania, là tòa nhà đầu tiên được chiếu sáng với hệ thống ba dây của Edison. Khách sạn này được đổi tên thành Khách sạn Edison, và hiện vẫn giữ tên đó.
- Bảo tàng Port Huron, ở Port Huron, Michigan, vẫn gìn giữ bến xe lửa nơi Thomas Edison từng bán bánh kẹo. Bến xe lửa này đã được đổi tên một cách rất thích hợp thành Bảo tàng nhà ga Thomas Edison. Thị trấn có nhiều mốc lịch sử của Edison gồm mộ cha mẹ Edison.
- Hải quân Hoa Kỳ đặt tên chiếc USS Edison (DD-439), một Gleaves-class tàu khu trục, để vinh danh ông năm 1940. Chiếc tàu này đã được giải giới vài tháng sau khi kết thúc Chiến tranh thế giới thứ hai. Năm 1962, hải quân đặt hàng chiếc tàu USS Thomas A. Edison (SSBN-610), một tàu ngầm năng lượng nguyên tử mang tên lửa đạn đạo. Nó được giải giới ngày 1 tháng 12, 1983, Thomas A. Edison đã bị tác động mạnh nhất từ Naval Vessel Register vào ngày 30 tháng 4, 1986. Nó thuộc Chương trình các tàu năng lượng nguyên tử và những tàu ngầm tái chế của hải quân ở Bremerton, Washington, bắt đầu vào 1 tháng 10, 1996. Khi nó kết thúc chương trình ngày 1 tháng 12, 1997, nó bị tháo dỡ thành những mảnh rời.
- Để ghi nhớ những cống hiến to lớn của các nhà phát minh dành cho đất nước và thế giới, Nghị viện, theo Nghị quyết số 140 của cả hai nghị viện (Luật công cộng 97 - 198), đã chỉ định ngày 11 tháng 2, là ngày kỷ niệm ngày sinh của Thomas Alva Edison, là Ngày các nhà phát minh quốc gia
- Ở Hà Lan giải thưởng âm nhạc lớn được lấy theo tên ông.
Tham khảo
- ^ “Edison Family Album” (HTML). NPS. Truy cập ngày 11 tháng 3 năm 2006.
- ^ “Moses G. Farmer, Eliot's Inventor” (HTML). Truy cập ngày 11 tháng 3 năm 2006.
- ^ “IMDB entry on Electrocuting an Elephant (1903)”. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 12 năm 2010. Truy cập ngày 11 tháng 3 năm 2006.
- ^ “Wired Magazine: "Jan. 4, 1903: Edison Fries an Elephant to Prove His Point"”. 4 tháng 1 năm 2008. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 12 năm 2010. Truy cập ngày 4 tháng 1 năm 2008.
- ^ “Electrocution Thresholds for Humans”. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 12 năm 2010. Truy cập ngày 26 tháng 2 năm 2009.
- ^ Tony Long (4 tháng 1 năm 2008). “Jan. 4, 1903: Edison Fries an Elephant to Prove His Point”. AlterNet. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 12 năm 2010. Truy cập ngày 4 tháng 1 năm 2008.
- ^ Lee, Jennifer (14 tháng 11 năm 2007). “Off Goes the Power Current Started by Thomas Edison”. The New York Times Company. Truy cập ngày 30 tháng 12 năm 2007.
- ^ Vernon, Thomas S. “Thomas Alva Edison” (HTML). Truy cập ngày 11 tháng 3 năm 2006.
- ^ Paul Israel. Edison : A Life of Invention.
- Ernst Angel: Edison. Sein Leben und Erfinden. Berlin: Ernst Angel Verlag, 1926.
- Mark Essig: Edison & the Electric Chair: A Story of Light and Death. New York: Walker & Company, 2003. ISBN 0-8027-1406-4
Đọc thêm
- Albion, Michele Wehrwein. (2008). The Florida Life of Thomas Edison. Gainesville: University Press of Florida. ISBN 978-0-8130-3259-7.
- Adams, Glen J. (2004). The Search for Thomas Edison's Boyhood Home. ISBN 978-1-4116-1361-4.
- Angel, Ernst (1926). Edison. Sein Leben und Erfinden. Berlin: Ernst Angel Verlag.
- Baldwin, Neil (2001). Edison: Inventing the Century. University of Chicago Press. ISBN 978-0-226-03571-0.
- Clark, Ronald William (1977). Edison: The man who made the future. London: Macdonald & Jane's: Macdonald and Jane's. ISBN 978-0-354-04093-8.
- Conot, Robert (1979). A Streak of Luck. New York: Seaview Books. ISBN 978-0-87223-521-2.
- Davis, L. J. (1998). Fleet Fire: Thomas Edison and the Pioneers of the Electric Revolution. New York: Doubleday. ISBN 978-0-385-47927-1.
- Essig, Mark (2004). Edison and the Electric Chair. Stroud: Sutton. ISBN 978-0-7509-3680-4.
- Essig, Mark (2003). Edison & the Electric Chair: A Story of Light and Death. New York: Walker & Company. ISBN 978-0-8027-1406-0.
- Israel, Paul (1998). Edison: a Life of Invention. New York: Wiley. ISBN 978-0471529422.
- Jonnes, Jill (2003). Empires of Light: Edison, Tesla, Westinghouse, and the Race to Electrify the World. New York: Random House. ISBN 978-0-375-50739-7.
- Josephson, Matthew (1959). Edison. McGraw Hill. ISBN 978-0-07-033046-7.
- Koenigsberg, Allen (1987). Edison Cylinder Records, 1889-1912. APM Press. ISBN 0-937612-07-3.
- Pretzer, William S. (ed). (1989). Working at Inventing: Thomas A. Edison and the Menlo Park Experience. Dearborn, Michigan: Henry Ford Museum & Greenfield Village. ISBN 978-0-933728-33-2.
- Stross, Randall E. (2007). The Wizard of Menlo Park: How Thomas Alva Edison Invented the Modern World. Crown. ISBN 1-400-04762-5.
Liên kết ngoài
Wikiquote có sưu tập danh ngôn về: |
Wikimedia Commons có thêm thể loại hình ảnh và tài liệu về Thomas Edison |
- Biography, Pictures, and Sounds
- Edison cylinder recordings, từ Cylinder Preservation and Digitization Project tại Thư viện của Đại học California, Santa Barbara.
- 4-disc DVD set containing over 140 films produced by the Thomas Edison Company.
- Danh sách đầy đủ 1.093 bằng sáng chế.
- Tiểu sử
- Edison, His Life and Inventions của Frank Lewis Dyer và Thomas Commerford Martin, tiếng Anh, miễn phí tại Dự án Gutenberg
- "Edison, His Life And Inventions" bởi Frank Lewis Dyer tại Worldwideschool.org
- "Thomas Edison", bởi Gerry Beales.
- "Thomas Alva Edison" bởi John Patrick Michael Murphy.
- Những địa điểm lịch sử
- Edison Birthplace Museum
- Thomas Edison House
- Edison National Historic Site
- Menlo Park
- Edison Depot Museum
- Edison exhibit and Menlo Park Laboratory at Henry Ford Museum
- Tài liệu
- Rutgers: Edison Papers
- Rutgers: Edison Patents
- Edisonian Museum Antique Electrics
- Thomas A. Edison in his laboratory in New Jersey, 1901
- "Edison's Miracle of Light." American Experience, PBS.
- William J. Hammer collection - ca. 1874-1935, 1955-1957. Archives Center, National Museum of American History, Smithsonian Institution.
Thể loại:
Một chỉ dấu huyền thoại:
"Tôi lưu lại đây ở bài Nguyễn Du nửa đêm đọc lại chỉ dấu của một nhân vật lịch sử mà tôi được may mắn tiếp xúc để sau này có thể trở lại với nhân vật tướng Lâm trong câu chuyện "Ván bài lật ngữa" của Nguyễn Trương Thiên Lý" . Hoàng Kim
DẠY VÀ HỌC. Tôi tỉnh dậy lúc nửa đêm. Mai coi thi. Tối nay mưa lớn. Sấm chớp ầm ầm, Điện tắt. Trời nóng ngột ngạt, Tôi tự ép mình phải ngủ để ngày mai dậy sớm. Bài viết "Một khám phá độc đáo về Truyện Kiều"của Giáo sư Nguyễn Lân Dũng về cuốn sách "Thử tìm hiểu tâm sự Nguyễn Du qua
Truyện Kiều" của GS.NGND Ngô Quốc Quýnh (Đại học Quốc gia Hà Nội) làm tôi mộng mị. Trong cuốn sách này, tác giả đã cho rằng Nguyễn Du gửi gắm tâm sự của mình qua Truyện Kiều mà Từ Hải chính là Nguyễn Huệ, Kim Trọng là Lê Chiêu Thống và nàng Kiều là Nguyễn Du. Giấc mơ lạ lúc nửa đêm, tôi được đối thoại với một cụ già râu tóc bạc phơ tự xưng là Thiền sư Linh Nhạc Phật Ý (1725-1821). Người gợi ý cho tôi 12 điều cần tìm hiểu sâu hơn về cuộc đời và sự nghiệp Nguyễn Du và giãi mã truyện Kiều. Tôi bàng hoàng bật dậy trong đêm để chép vội 12 tựa đề này:
Nguyễn Du là người thế nào?
Nguyễn Du nửa đêm đọc lại
Nguyễn Du Bắc hành tạp lục
Nguyễn Du với Hồ Xuân Hương
Nguyễn Du và Kinh Kim Cương
Nguyễn Du so tài Nguyễn Huệ
Nguyễn Du và Nguyễn Công Trứ
Nguyễn Du tri kỷ, tri âm
Tố Như sau ba trăm năm
Nguyễn Du viếng Kỳ Lân mộ
Hoành Sơn những bài thơ cổ
Hồng Lam vằng vặc sao Khuê
Khuya, không thể ngủ được, tôi thao thức đọc lại Nguyễn Du https://sites.google.com/site/hoangkimvietnam/chaongaymoi/nguyendu và đồng tình với khám phá độc đáo của GS.NGND Ngô Quốc Quýnh là Nguyễn Du mươn Kiều để chuyển tải tâm sự của Người. Tuy nhiên, sự khác biệt trong nhận định là ở chỗ Từ Hải và nàng Kiều chính là Nguyển Du và Hồ Xuân Hương.
Ba năm qua, tôi viết được sáu bài nghiên cứu về Nguyễn Du và Truyện Kiều, gồm: 1) Nguyễn Du viếng mộ Liễu Hạ Huệ; 2) Nguyễn Du và Nguyễn Công Trứ; 3)Tâm sự Nguyễn Du qua Đối tửu; 4) Nguyễn Du và những câu thơ tài hoa; 5) Đèo Ngang và những tuyệt phẩm thơ cổ; 6) Tư liệu chọn lọc về Nguyễn Du.
Tôi tâm đắc sáu cuốn sách quý góp phần giải mã Nguyễn Du và Truyện Kiều là:1) Bắc hành tạp lục của Nguyễn Du, 2) "Hoàng Lê Nhất Thống Chí" của Ngô Gia Văn Phái, 3)"Việt Nam sử lược" của Trần Trọng Kim, 4) "200 năm nghiên cứu bàn luận truyện Kiều" 1989 trang của Lê Xuân Lít, 5) "Nguyễn Du" 416 trang của Nguyễn Thế Quang, "Thả một bè lau", Truyện Kiều dưới cái nhìn Thiền quán, 471 trang của Nhất Hạnh.
Chiều tối, tôi ngẫu nhiên theo chỉ dẫu của cụ già trong giấc mơ, đã tìm được ngôi chùa cổ Tổ Đình Phước Tường tại địa chỉ 13/32 đường Lã Xuân Oai phường Tăng Nhơn Phú, Quận 9. Ngôi chùa này lưu dấu tích của thiền sư Linh Nhạc Phật Ý Hiện sư trụ trì Tổ Đình Phước Tường là Thích Nhật An. Tổ Đình đã được Bộ Thông tin Việt Nam xếp hạng Di tich Văn hóa Quốc gia tại Quyết định số 43/VH QĐ ngày 7 /1/1993.
Hôm sau, tôi duyên may lại tình cờ gặp được Bố tát Nhựt Tông ở trên chuyến xe buyt từ Suối Tiên đi ngã tư Bà Rịa- Vũng Tài. Và tôi đã theo gót chân Bố tát vân du chùa Long Phước 98 Trần Xuân Độ, Phường 6 tại Núi Lớn, phía sau Thích Ca Phật Đài, thành phố Vũng Tàu, thăm thiền sư Thiện Lý, Quốc Toàn, luận bàn đạo Phật ngày nay, Nguyễn Du và thế sự .
Nguyễn Du và Hồ Xuân Hương là Từ Hải và nàng Kiều chăng ?
Nguyễn Du nửa đêm đọc lại
https://sites.google.com/site/hoangkimvietnam/chaongaymoi/nguyendu
Video yêu thích
http://www.youtube.com/user/hoangkimvietnam
Trở về trang chính
Hoàng Kim, hoangkim, hoangkimvietnam, Ngọc Phương Nam, Chào ngày mới Thung dung, Dạy và học, Cây Lương thực, Tin Nông nghiệp Việt Nam, Food Crops, Cassava in Vietnam, Khát khao xanh, Dayvahoc, Học mỗi ngày, Danh nhân Việt , Food Crops News, Điểm chính, CNM365, KimTwitter, KimFaceBook Đọc lại và suy ngẫm, Việt Nam tổ quốc tôi, Tình yêu cuộc sống, Thơ cho con
"Tôi lưu lại đây ở bài Nguyễn Du nửa đêm đọc lại chỉ dấu của một nhân vật lịch sử mà tôi được may mắn tiếp xúc để sau này có thể trở lại với nhân vật tướng Lâm trong câu chuyện "Ván bài lật ngữa" của Nguyễn Trương Thiên Lý" . Hoàng Kim
Nguyễn Du nửa đêm đọc lại
DẠY VÀ HỌC 04/07/2012@12h40, 975 lượt xem, viết bởi: hoangkim
Chuyên mục: Diễn đàn dạy và học, Lộc xuân cuộc đời, Nguyễn Du, Hoàng Kim
Chuyên mục: Diễn đàn dạy và học, Lộc xuân cuộc đời, Nguyễn Du, Hoàng Kim
DẠY VÀ HỌC. Tôi tỉnh dậy lúc nửa đêm. Mai coi thi. Tối nay mưa lớn. Sấm chớp ầm ầm, Điện tắt. Trời nóng ngột ngạt, Tôi tự ép mình phải ngủ để ngày mai dậy sớm. Bài viết "Một khám phá độc đáo về Truyện Kiều"của Giáo sư Nguyễn Lân Dũng về cuốn sách "Thử tìm hiểu tâm sự Nguyễn Du qua
Truyện Kiều" của GS.NGND Ngô Quốc Quýnh (Đại học Quốc gia Hà Nội) làm tôi mộng mị. Trong cuốn sách này, tác giả đã cho rằng Nguyễn Du gửi gắm tâm sự của mình qua Truyện Kiều mà Từ Hải chính là Nguyễn Huệ, Kim Trọng là Lê Chiêu Thống và nàng Kiều là Nguyễn Du. Giấc mơ lạ lúc nửa đêm, tôi được đối thoại với một cụ già râu tóc bạc phơ tự xưng là Thiền sư Linh Nhạc Phật Ý (1725-1821). Người gợi ý cho tôi 12 điều cần tìm hiểu sâu hơn về cuộc đời và sự nghiệp Nguyễn Du và giãi mã truyện Kiều. Tôi bàng hoàng bật dậy trong đêm để chép vội 12 tựa đề này:
Nguyễn Du là người thế nào?
Nguyễn Du nửa đêm đọc lại
Nguyễn Du Bắc hành tạp lục
Nguyễn Du với Hồ Xuân Hương
Nguyễn Du và Kinh Kim Cương
Nguyễn Du so tài Nguyễn Huệ
Nguyễn Du và Nguyễn Công Trứ
Nguyễn Du tri kỷ, tri âm
Tố Như sau ba trăm năm
Nguyễn Du viếng Kỳ Lân mộ
Hoành Sơn những bài thơ cổ
Hồng Lam vằng vặc sao Khuê
Khuya, không thể ngủ được, tôi thao thức đọc lại Nguyễn Du https://sites.google.com/site/hoangkimvietnam/chaongaymoi/nguyendu và đồng tình với khám phá độc đáo của GS.NGND Ngô Quốc Quýnh là Nguyễn Du mươn Kiều để chuyển tải tâm sự của Người. Tuy nhiên, sự khác biệt trong nhận định là ở chỗ Từ Hải và nàng Kiều chính là Nguyển Du và Hồ Xuân Hương.
Ba năm qua, tôi viết được sáu bài nghiên cứu về Nguyễn Du và Truyện Kiều, gồm: 1) Nguyễn Du viếng mộ Liễu Hạ Huệ; 2) Nguyễn Du và Nguyễn Công Trứ; 3)Tâm sự Nguyễn Du qua Đối tửu; 4) Nguyễn Du và những câu thơ tài hoa; 5) Đèo Ngang và những tuyệt phẩm thơ cổ; 6) Tư liệu chọn lọc về Nguyễn Du.
Tôi tâm đắc sáu cuốn sách quý góp phần giải mã Nguyễn Du và Truyện Kiều là:1) Bắc hành tạp lục của Nguyễn Du, 2) "Hoàng Lê Nhất Thống Chí" của Ngô Gia Văn Phái, 3)"Việt Nam sử lược" của Trần Trọng Kim, 4) "200 năm nghiên cứu bàn luận truyện Kiều" 1989 trang của Lê Xuân Lít, 5) "Nguyễn Du" 416 trang của Nguyễn Thế Quang, "Thả một bè lau", Truyện Kiều dưới cái nhìn Thiền quán, 471 trang của Nhất Hạnh.
Chiều tối, tôi ngẫu nhiên theo chỉ dẫu của cụ già trong giấc mơ, đã tìm được ngôi chùa cổ Tổ Đình Phước Tường tại địa chỉ 13/32 đường Lã Xuân Oai phường Tăng Nhơn Phú, Quận 9. Ngôi chùa này lưu dấu tích của thiền sư Linh Nhạc Phật Ý Hiện sư trụ trì Tổ Đình Phước Tường là Thích Nhật An. Tổ Đình đã được Bộ Thông tin Việt Nam xếp hạng Di tich Văn hóa Quốc gia tại Quyết định số 43/VH QĐ ngày 7 /1/1993.
Hôm sau, tôi duyên may lại tình cờ gặp được Bố tát Nhựt Tông ở trên chuyến xe buyt từ Suối Tiên đi ngã tư Bà Rịa- Vũng Tài. Và tôi đã theo gót chân Bố tát vân du chùa Long Phước 98 Trần Xuân Độ, Phường 6 tại Núi Lớn, phía sau Thích Ca Phật Đài, thành phố Vũng Tàu, thăm thiền sư Thiện Lý, Quốc Toàn, luận bàn đạo Phật ngày nay, Nguyễn Du và thế sự .
Nguyễn Du và Hồ Xuân Hương là Từ Hải và nàng Kiều chăng ?
Nguyễn Du nửa đêm đọc lại
https://sites.google.com/site/hoangkimvietnam/chaongaymoi/nguyendu
Video yêu thích
http://www.youtube.com/user/hoangkimvietnam
Trở về trang chính
Hoàng Kim, hoangkim, hoangkimvietnam, Ngọc Phương Nam, Chào ngày mới Thung dung, Dạy và học, Cây Lương thực, Tin Nông nghiệp Việt Nam, Food Crops, Cassava in Vietnam, Khát khao xanh, Dayvahoc, Học mỗi ngày, Danh nhân Việt , Food Crops News, Điểm chính, CNM365, KimTwitter, KimFaceBook Đọc lại và suy ngẫm, Việt Nam tổ quốc tôi, Tình yêu cuộc sống, Thơ cho con
No comments:
Post a Comment