CNM365 Chào ngày mới 11 tháng 2 Wikipedia Ngày này năm xưa Ngày Cách mạng Hồi giáo thắng lợi tại Iran. Năm 660 TCN – Theo truyền thống, vào ngày 1 tháng 1 năm Tân Dậu, Thiên hoàng Jimmu (hình) tức vị, Nhật Bản kiến quốc. Năm 1531 – Quốc vương Anh Henry VIII được công nhận là nguyên thủ của Giáo hội Anh. Năm 1841 – Nguyễn Phúc Miên Tông đăng cơ làm hoàng đế thứ ba của triều Nguyễn tại điện Thái Hòa, đặt niên hiệu là Thiệu Trị. Năm 1889 – Hiến pháp Đại Nhật Bản đế quốc được ban hành, đây là bản hiến pháp đầu tiên của một quốc gia châu Á. Năm 1990 – Nhà hoạt động chống apartheid Nelson Mandela được phóng thích khỏi nhà giam sau 27 năm bị giam giữ.
Nelson Mandela
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Xin xem các mục từ khác có tên tương tự ở Nelson Mandela (định hướng).
Nelson Mandela | |
---|---|
Mandela vào năm 2008 |
|
Chức vụ
|
|
Nhiệm kỳ | 10 tháng 5 năm 1994 – 14 tháng 6 năm 1999 |
Tiền nhiệm | Frederik Willem de Klerk Vai trò Tổng thống Nam Phi |
Kế nhiệm | Thabo Mbeki |
Nhiệm kỳ | 3 tháng 9 năm 1998 – 14 tháng 6 năm 1999 |
Tiền nhiệm | Andrés Pastrana Arango |
Kế nhiệm | Thabo Mbeki |
Thông tin chung
|
|
Đảng | Đại hội Quốc gia châu Phi |
Sinh | 18 tháng 7, 1918 Mvezo, Liên hiệp Nam Phi |
Mất | 05 tháng 12, 2013 (95 tuổi) |
Nơi ở | Điền trang Houghton, Nam Phi |
Học trường | Đại học Fort Hare Đại học London External System Đại học Nam Phi Đại học Witwatersrand |
Tôn giáo | Tin Lành |
Vợ hoặc chồng | Evelyn Ntoko Mase (1944–1957) Winnie Madikizela (1957–1996) Graça Machel (1998–nay) |
Trang web | Quỹ Mandela |
Tại Nam Phi, Mandela còn được biết tới với tên gọi Madiba, một tước hiệu danh dự mà bộ lạc của ông thường trao cho những già làng.
Mandela đã nhận hơn 250 giải thưởng trong hơn bốn thập niên, trong đó có Giải Nobel Hòa bình năm 1993.
Mục lục
Thơ ấu
Nelson Mandela thuộc chi nhỏ nhất của dòng họ phong kiến Thembu, trị vì các lãnh thổ Transkei thuộc tỉnh Cape của Nam Phi.[3] Ông sinh ra tại Mvezo, một ngôi làng nhỏ thuộc huyện Umtata, thủ phủ của Transkei.[3] Ông cố ruột Ngubengcuka của ông (mất năm 1832) đã trị vì với danh hiệu Inkosi Enkhulu, tức là vua của người Thembu.[4] Một trong những con trai của nhà vua, có tên là Mandela, chính là ông nội của Nelson và đây chính là nguồn gốc họ Mandela của ông. Tuy nhiên, vì ông là con trai của Inkosi với một người vợ thuộc bộ tộc Ixhiba (gọi là "Tả gia"[5]), các con cháu thuộc chi này tuy vẫn thuộc Hoàng gia nhưng không bao giờ được thừa kế ngai vàng Thembu.Cha của Nelson Mandela, Gadla Henry Mphakanyiswa, là người đứng đầu bộ lạc ở thị trấn Mvezo.[6][liên kết hỏng] Tuy vậy, do không được chính quyền thuộc địa vừa lòng, Mphakanyiswa bị tước chức và cả gia đình bị chuyển đến Qunu. Dù vậy, Mphakanyiswa vẫn là thành viên Hội đồng Cơ mật của Inkosi, và đóng vai trò là người hỗ trợ cho Jongintaba Dalindyebo lên ngôi quốc vương Thembu. Dalindyebo sau này đã trả ơn ông bằng cách nhận nuôi Mandela sau khi Mphakanyiswa chết.[7] Cha của Mandela có bốn bà vợ, sinh tổng cộng 13 người con (bốn trai, chín gái).[7] Mandela là con của bà vợ thứ ba, Nosekeni Fanny. Fanny là con của Nkedama thuộc bộ tộc Mpemvu Xhosa, thuộc về nhà Hữu gia, là vùng đất nơi Mandela đã trải qua phần lớn thời thơ ấu.[8] Tên của ông Rolihlahla có nghĩa là "kéo cành cây", hay một cách thông tục, có nghĩa là "kẻ gây rối".[9][10]
Rolihlahla Mandela là người đầu tiên trong gia đình được đi học, tại đó cô giáo Mdingane đã đặt cho ông một cái tên tiếng Anh là "Nelson".[11]
Lúc Mandela lên chín, cha ông qua đời vì bệnh lao phổi, quan nhiếp chính Jongintaba trở thành người giám hộ hợp pháp của ông.[7] Mandela đi học trường truyền giáo thuộc Hội Giám lý nằm kế bên lâu đài của quan nhiếp chính. Theo phong tục của người Thembu, ông được thụ giáo lúc 16 tuổi, rồi đi học Học viện Clarkebury Boarding.[12] Mandela đã hoàn tất Bằng sơ trung học chỉ trong vòng hai năm, thay vì ba năm như thông thường.[12] Để chuẩn bị thừa kế vị trí thành viên Hội đồng Cơ mật của cha mình, năm 1937, Mandela chuyển đến trường Healdtown, ngôi trường tại Fort Beaufort, nơi hầu hết con cháu hoàng tộc Thembu đều đi học.[13] Vào lúc 19 tuổi, ông bắt đầu quan tâm đến bộ môn quyền anh và chạy bộ tại trường.[8]
Sau đó, ông đậu vào học bằng Cử nhân tại Trường Đại học Fort Hare, nơi ông đã gặp Oliver Tambo. Tambo và Mandela sau này là những người bạn và đồng nghiệp thân thiết. Mandela cũng kết bạn với người bà con Kaiser ("K.D.") Matanzima, người thuộc dòng trực hệ của Hữu gia của người Thembu, là người thừa kế ngai vàng Transkei[5], vì vai trò mà sau đó đã đưa ông đến với chính sách Bantustan. Chính sự ủng hộ chính sách này của ông và Mandela đã khiến hai người trở thành phe chính trị đối lập.[8] Cuối năm thứ nhất, Mandela tham gia vào vụ tẩy chay của Hội sinh viên nhằm chống lại quy định của trường đại học, và bị buộc phải rời trường Fort Hare không được trở lại chừng nào ông chưa chấp nhận cuộc bầu cử của vào Hội.[14] Sau này, lúc ở trong tù, Mandela đã học bằng Cử nhân luật của Chương trình đào tọa từ xa của Đại học Luân Đôn.
Một thời gian ngắn sau khi rời Fort Hare, Jongintaba đã thông báo với Mandela và Justice (con của quan nhiếp chính và là người thừa kế ngai vàng) rằng ông đã sắp xếp đám cưới cho cả hai người. Những thanh niên trẻ không vừa lòng với sự sắp đặt này, và quyết định chuyển đến sống ở Johannesburg.[15] Khi đến Johannesburg, Mandela xin một chân canh gác tại một khu mỏ.[16] Tuy nhiên, ông chủ lập tức đuổi việc Mandela khi hay rằng ông là con nuôi đang chạy trốn của Quan nhiếp chính. Mandela chuyển sang làm tập sự ở một công ty luật ở Johannesburg, Witkin, Sidelsky và Edelman, nhờ quen biết với một người bạn và người hướng dẫn, nhân viên địa ốc Walter Sisulu.[16] Khi làm việc tại hãng Witkin, Sidelsky và Edelman, Mandela đã hoàn tất tấm bằng Cử nhân hàm thụ của Trường Đại học Nam Phi, sau đó ông học luật tại Trường Đại học Witwatersrand, tại đó ông kết bạn tới bạn học và sau này là đồng chí chống chủ nghĩa apartheid của ông Joe Slovo, Harry Schwarz và Ruth First. Slovo sau này là Bộ trưởng Bộ cư trú, còn Schwarz là Đại sứ Nam Phi tại Hoa Kỳ. Trong thời gian này, ông sống tại thành phố ngoại ô Alexandra, phía bắc Johannesburg.[17]
Hoạt động chính trị
Sau chiến thắng của Đảng Quốc gia, ủng hộ chính sách phân biệt chủng tộc apartheid[18] của những người Afrikaner, Mandela bắt đầu tham gia tích cực vào hoạt động chính trị. Ông đã lãnh đạo rất thành công trong Chiến dịch Phản đối của ANC năm 1952 và Đại hội Nhân dân năm 1955, từ đó thông qua Hiến chương Tự do là nền tảng cơ bản cho cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa apartheid.[19][20] Trong thời gian này, Mandela và luật sư đồng nghiệp Oliver Tambo điều hành một công ty luật có tên là Mandela và Tambo, nhận bào chữa miễn phí hoặc giá rẻ cho nhiều người da đen thiếu luật sư đại diện.[21]Mahatma Gandhi có ảnh hưởng lớn đến cách thức đấu tranh của Mandela, và cả phương pháp dành thắng lợi của các nhà hoạt động chống chủ nghĩa apartheid các thế hệ sau.[22][23] Mandela đã từng tham dự một hội nghị diễn ra tại New Delhi từ ngày 29-30 tháng 1 năm 2007 đánh dấu 100 năm ngày Gandhi đưa ra thuyết satyagraha (phản kháng bất bạo động) tại Nam Phi.[24]
Ban đầu, khi kiên trì đường lối đấu tranh bất bạo động, Mandela và 150 người khác bị bắt giam vào ngày 5 tháng 12 năm 1956 và bị buộc tội phản quốc. Sau quá trình xét xử kéo dài từ năm 1956-1961, tất cả các bị cáo đều được tuyên trắng án.[25] Từ năm 1952–1959, xuất hiện một lực lượng các nhà hoạt động da đen mới được gọi là những người Toàn Phi đã cản trở các hoạt động của ANC ở khu vực thành phố của người da đen, lực lượng này đòi hỏi phải có các biện pháp quyết liệt hơn nhằm chống lại chế độ của Đảng Quốc gia.[26] Những nhà lãnh đạo ANC lúc bấy giờ là Albert Luthuli, Oliver Tambo và Walter Sisulu không những cho rằng những người Toàn Phi đang đi quá đà mà còn cảm thấy quyền lãnh đạo của họ đang bị đe dọa.[26] Vì thế cánh lãnh đạo của ANC đã củng cố vị thế của mình bằng cách liên minh với các đảng phái chính trị nhỏ của những người Da trắng, Da màu, lẫn Da đỏ nhằm tranh thủ lôi kéo rộng rãi số người ủng hộ hơn phái Toàn Phi.[26] Những người Toàn Phi nhạo báng Hiến chương Tự do trong Hội nghị tại Kliptown năm 1955 vì đảng ANC với số lượng thành viên áp đảo 100.000 người mà chỉ có được một phiếu trong liên minh Đại hội. Bốn trong năm tổng thư ký của các đảng phái tham gia đại hội đều đã ngầm tham gia Đảng Cộng sản Nam Phi (SACP) tái cơ cấu, gắn liền với chính sách của Moskva.[27][28] Đến năm 2003 Blade Nzimande, Tổng thư ký SACP, tiết lộ rằng Walter Sisulu, Tổng thư ký của đảng ANC, cũng đã bí mật gia nhập SACP vào năm 1955[29] có nghĩa là cả năm Tổng thư ký đều là người của SACP và do đó giải thích lý do tại sao Sisulu quyết định đưa vai trò của ANC từ vai trò chi phối xuống thành một trong năm bên ngang vai nhau.
Trong năm 1959, ANC mất phần lớn sự ủng hộ từ lực lượng chiến đấu khi phần lớn những người Toàn Phi, với sự hỗ trợ tài chính từ Ghana và chính trị từ những người Sotho tại tỉnh Transvaal, đã ly khai để thành lập Đại hội Toàn Phi (PAC) dưới sự lãnh đạo của Robert Sobukwe và Potlako Leballo.[30]
Hoạt động chống Chủ nghĩa Apartheid
Vào năm 1961, Mandela trở thành người đồng sáng lập và là lãnh đạo cánh vũ trang của ANC, Umkhonto we Sizwe (tạm dịch Cây giáo của Quốc gia, cũng viết tắt là MK).[31] Ông điều hành các chiến dịch phá hoại chống lại các mục tiêu quân sự và của chính quyền, lên kế hoạch cho một cuộc chiến tranh du kích nếu phương cách phá hoại vẫn không chấm dứt được chế độ apartheid.[32] Mandela cũng quyên tiền cho MK ở nước ngoài và sắp xếp các buổi huấn luyện bán quân sự cho nhóm.[32]Người đồng chí trong đảng ANC Wolfie Kadesh giải thích chiến dịch đánh bom do Mandela dẫn dắt như sau: "Khi chúng tôi biết rằng chúng tôi sẽ bắt đầu vào ngày 16 tháng 12 năm 1961, nhằm làm nổ tung những vị trí là biểu tượng của chủ nghĩa apartheid, như văn phòng giấy thông hành, tòa án địa phương, và những nơi tương tự... bưu điện và... các văn phòng chính phủ. Nhưng chúng tôi dự định thực hiện điều đó sao cho không có ai bị thương vong."[33] Mandela đã nói về Wolfie: "Kiến thức về chiến tranh và kinh nghiệm trận mạc của ông là cực kỳ hữu ích đối với tôi."[10]
Mandela đã xem bước chuyển sang đấu tranh vũ trang là phương kế cuối cùng; nhiều năm trời với chính sách đàn áp và bạo lực ngày càng tăng của chính quyền đã cho ông thấy sự phản kháng bất bạo động chống chủ nghĩa apartheid nhiều năm qua đã không và cũng không thể thu được tiến triển nào.[10][34]
Sau này, chủ yếu vào thập niên 1980, MK đã tiến hành chiến tranh du kích chống lại chế độ apartheid với nhiều thương vong là dân thường.[32] Mandela sau này thừa nhận rằng ANC, trong cuộc chiến đấu chống lại apartheid, cũng vi phạm quyền con người, chỉ trích thẳng thừng những đảng viên trong đảng ông cố gắng đưa những câu chữ phản ánh sự thật ra khỏi báo cáo của Ủy ban Sự thật và Hòa giải.[35]
Cho đến tận tháng 7 năm 2008, Mandela và các đảng viên ANC vẫn bị hạn chế đi đến Hoa Kỳ - ngoại trừ trụ sở Liên Hiệp Quốc ở Manhattan — nếu không có giấy phép cho phép đặc biệt của Ngoại trưởng Hoa Kỳ, vì họ bị quy là khủng bố trong thời kỳ chế độ apartheid ở Nam Phi.[36][37]
Bị bắt giữ và phiên tòa Rivonia
Ngày 5 tháng 8 năm 1962 Mandela bị bắt sau khi ẩn náu được 17 tháng, và giam giữ tại Pháo đài Johannesburg.[38] Vụ bắt giữ này xảy ra do Cơ quan Tình báo Trung ương Hoa Kỳ (CIA) đã tiết lộ nơi ẩn náu và nhân dạng giả của Mandela cho an ninh.[39][40][41] Ba ngày sau đó, người ta đã đọc lời buộc tội ông chủ mưu kêu gọi công nhân đình công vào năm 1961 và vượt biên bất hợp pháp tại tòa. Ngày 25 tháng 10 năm 1962, Mandela bị tuyên án 5 năm tù giam. Hai năm sau vào ngày 11 tháng 6 năm 1964, ông lại phải ra tòa một lần nữa vì những hoạt động trong Hội đồng Quốc gia châu Phi (ANC).[42]Trong lúc Mandela đang trong tù, cảnh sát đã bắt giữ nhiều lãnh đạo cốt cán của ANC vào ngày 11 tháng 7 năm 1963, tại Liliesleaf Farm, Rivonia, phía bắc Johannesburg. Mandela được ghép vào xét xử chung, và tại Phiên tòa Rivonia, họ bị chánh án, Tiến sĩ Percy Yutar, cáo buộc nhiều tội danh trong đó chủ yếu là phá hoại (Mandela thừa nhận tội này) và các tội tương đương với phản quốc, nhưng chính quyền dễ chứng minh hơn.[43] Lời buộc tội thứ hai cáo buộc các bị cáo âm mưu một cuộc xâm lược của ngoại quốc vào Nam Phi, Mandela phủ nhận tội danh này.[43]
Trong lời phát biểu tại ghế bị cáo mở đầu phiên biện hộ trong phiên tòa ngày 20 tháng 4 năm 1964 tại Tòa án Tối cao Pretoria, Mandela đã nói rằng việc ANC lựa chọn sử dụng vũ lực chỉ là một sách lược mà thôi.[44] Lời phát biểu của ông đã mô tả ANC đã sử dụng các biện pháp hòa bình như thế nào để chống lại chủ nghĩa apartheid trong nhiều năm trời cho đến khi xảy ra vụ Thảm sát Sharpeville.[45] Sự kiện đó đi kèm với cuộc trưng cầu dân ý để thành lập Cộng hòa Nam Phi và sự tuyên bố tình trạng khẩn cấp cùng với việc cấm chỉ hoạt động của ANC đã khiến cho Mandela và các đồng chí của ông thấy rằng lựa chọn duy nhất của họ chỉ có thể thông qua các hành động phá hoại, nếu không chẳng khác nào một sự đầu hàng vô điều kiện.[45] Mandela tiếp tục giải thích cách họ hình thành Tuyên ngôn Umkhonto we Sizwe vào ngày 16 tháng 12 năm 1961 dự kiến sẽ phô bày sự thất bại của các chính sách của Đảng Quốc gia sau khi nền kinh tế bị đe dọa cho những người ngoại quốc không còn sẵn lòng đầu tư vào đất nước nữa.[46] Ông kết thúc bài phát biểu bằng những lời sau đây: "Tôi cống hiến cả đời tôi cho sự nghiệp đấu tranh của người dân châu Phi. Tôi đã chiến đấu chống lại sự thống trị của người da trắng, và tôi cũng chiến đấu chống lại sự thống trị của người da đen. Tôi yêu mến lý tưởng về một xã hội dân chủ và tự do trong đó mọi người dân sống với nhau hòa thuận và bình đẳng. Đó là lý tưởng mà tôi hy vọng sẽ sống vì nó và đạt được nó. Nhưng nếu cần, tôi cũng sẵn sàng chết vì lý tưởng đó."[34]
Bram Fischer, Vernon Berrange, Harry Schwarz, Joel Joffe, Arthur Chaskalson và George Bizos là các luật sự bảo vệ cho bên bị.[47] Harold Hanson cũng được bổ sung vào cuối phiên tòa để giúp giảm nhẹ tội danh.[48] Tất cả mọi người trừ Rusty Bernstein đều bị tuyên là có tội, nhưng họ thoát khỏi án treo cổ mà bị tuyên tù chung thân vào ngày 12 tháng 6 năm 1964.[48] Lời buộc tội gồm có tham gia lên kế hoạch hành động vũ trang, cụ thể là bốn cáo buộc phá hoại, mà Mandela thừa nhận, và một âm mưu chính trị trợ giúp nước ngoài xâm lược Nam Phi, tội này bị Mandela phủ nhận.[48]
Thời gian trong tù
Nelson Mandela bị giam giữ tại Đảo Robben và đã ở đấy 18 năm trong tổng số 27 năm trong tù của ông.[49] Khi ở trong tù, ông dần dần trở nên nổi tiếng với vai trò là nhà lãnh đạo da đen đáng chú ý nhất tại Nam Phi.[1] Ở trên đảo, ông và các tù nhân khác phải lao động khổ sai ở một mỏ đá vôi.[50] Điều kiện sống trong tù rất cơ bản. Tù nhân cũng bị phân chia theo sắc tộc và tù nhân da đen là những người nhận được lượng thực phẩm ít nhất.[51] Tù chính trị được giam giữ riêng biệt với thường phạm và được hưởng ít quyền lợi hơn.[52] Mandela đã mô tả rằng, do bị xếp vào tù nhân nhóm D (hạng thấp nhất) ông chỉ được phép có một người khách viếng thăm và nhận một lá thư mỗi sáu tháng.[53] Những lá thư thường bị trễ khá lâu và rất khó đọc do chế độ kiểm duyệt trong nhà tù.[10]Lúc ở trong tù Mandela đã tham gia khóa học từ xa của Đại học Luân Đôn và nhận bằng Cử nhân Luật.[54] Ông sau đó được đề cử làm Hiệu trưởng danh dự của Đại học Luân Đôn trong cuộc bình chọn năm 1981, nhưng vị trí này đã thuộc về Công chúa Anne.[54]
Trong cuốn hồi ký Inside BOSS xuất bản năm 1981[55] điệp viên Gordon Winter đã kể về việc ông này tham gia kế hoạch giải cứu Mandela vào năm 1969: kế hoạch này bị Winter tiết lộ thay mặt cho cơ quan tình báo Nam Phi, họ muốn Mandela trốn thoát để họ có thể xử bắn ông khi tìm bắt lại. Kế hoạch này đã bị Cơ quan Tình báo Anh chặn đứng.[55]
Vào tháng 3 năm 1982 Mandela được chuyển từ Đảo Robben sang Nhà tù Pollsmoor, cùng với các nhà lãnh đạo ANC khác như Walter Sisulu, Andrew Mlangeni, Ahmed Kathrada và Raymond Mhlaba.[53] Đã có suy đoán rằng đây là cách để xóa bỏ sức ảnh hưởng của các nhà lãnh đạo cấp cao này đối với thế hệ những nhà hoạt động da đen trẻ đang bị giam tại Đảo Robben, cái gọi là "Trường Đại học Mandela".[56] Tuy nhiên, Thủ tướng Kobie Coetsee thuộc Đảng Quốc gia nói rằng việc chuyển trại này giúp cho việc liên hệ giữa họ và chính quyền Nam Phi được thuận tiện hơn.[57]
Tháng 2 năm 1985 Tổng thống P.W. Botha đề nghị trả tự do cho Mandela với điều kiện ông phải 'từ bỏ phương cách đấu tranh chính trị bằng bạo lực một cách vô điều kiện'.[58] Coetsee và các bộ trưởng khác phản đối đề xuất của Botha, cho rằng Mandela sẽ không bao giờ yêu cầu tổ chức của ông từ bỏ đấu tranh vũ trang để đổi lấy sự tự do cho cá nhân mình.[59] Đúng là Mandela đã bác bỏ đề xuất và đưa ra lời tuyên bố thông qua cô con gái Zindzi trong đó nói rằng "Thứ tự do đang được đề nghị cho tôi là cái gì trong khi tổ chức của nhân dân vẫn bị cấm đoán? Chỉ có những người tự do mới có thể thương lượng mà thôi. Một tù nhân không thể tham gia vào một thỏa hiệp nào hết."[57]
Cuộc gặp đầu tiên giữa Mandela và chính quyền Đảng Quốc gia diễn ra vào tháng 11 năm 1985, khi Kobie Coetsee gặp gỡ Mandela tại Bệnh viện Volks Hospital ở Cape Town nơi Mandela đang tịnh dưỡng sau cuộc phẫu thuật tuyến tiền liệt.[60] Trong bốn năm sau đó, một loạt các cuộc gặp mang tính thăm dò đã diễn ra, làm nền tảng cho các cuộc tiếp xúc và thương lượng về sau, nhưng tiến bộ thực sự thì không nhiều.[57]
Vào năm 1988 Mandela được chuyển đến Nhà tù Victor Verster và ở đó cho đến khi ông được phóng thích. Người ta đã dỡ bỏ nhiều hạn chế đối với ông và những người như Harry Schwarz đã có thể tự do thăm viếng ông. Schwarz, một người bạn của Mandela, biết ông từ khi họ học chung lớp luật ở trường đại học. Ông này cũng là luật sư biện hộ cho Mandela tại Phiên tòa Rivonia và sau này là đại sứ tại Washington khi Mandela làm tổng thống.
Trong suốt thời kỳ Mandela bị giam giữ, đã có nhiều áp lực ở trong cũng như ngoài nước đòi chính quyền Nam Phi phải trả tự do cho ông, với khẩu hiệu nổi tiếng Free Nelson Mandela! (Nelson Mandela Tự do)[61] Đến năm 1989, Nam Phi có sự chuyển biến khi Botha bị đột quỵ và Frederik Willem de Klerk thay thế vào vị trí tổng thống.[62] De Klerk tuyên bố thả tự do cho Mandela vào tháng 2 năm 1990.[63]
Mandela đã được Ủy hội Chữ thập đỏ Quốc tế viếng thăm vài lần khi ông còn ở Đảo Robben và sau này ở nhà tù Pollsmoor. Mandela đã nói về những chuyến thăm viếng như sau: "với cá nhân tôi, và với những ai đã từng trải qua thời gian là tù chính trị, Hội chữ thập đỏ là một tia sáng nhân đạo trong thế giới tăm tối thiếu nhân tính của nhà tù chính trị."[64][65]
Trả tự do
Ngày 2 tháng 2 năm 1990, Tổng thống Quốc gia F.W. de Klerk đã hủy lệnh cấm hoạt động đối với Đảng ANC và các tổ chức chống chủ nghĩa apartheid khác, đồng thời thông báo Mandela sẽ sớm được trả tự do.[66] Mandela được trả tự do từ Nhà tù Victor Verster ở Paarl vào ngày 11 tháng 2 năm 1990. Sự kiện này được phát hình trực tiếp trên khắp thế giới.[67]Vào ngày được phóng thích, Mandela đã có một bài diễn văn gửi đến toàn quốc.[68] Ông tuyên bố cam kết hòa bình và hòa giải với những người da trắng thiểu số trong nước, nhưng nói rõ rằng cuộc đấu tranh vũ trang của ANC vẫn chưa chấm dứt khi ông nói "phương sách đấu tranh vũ trang vào năm 1960 khi chúng tôi hình thành phái quân sự trong ANC (Umkhonto we Sizwe) đơn thuần là hành động tự vệ chống lại sự tàn bạo của chủ nghĩa apartheid. Các yếu tố đưa đến cuộc đấu tranh vũ trang đến nay vẫn hiển diện. Chúng tôi không có sự lựa chọn nào khác ngoài việc phải tiếp tục. Chúng tôi bày tỏ hy vọng một không khí có lợi cho một cuộc thương lượng sẽ sớm được tạo ra, để nhu cầu đấu tranh vũ trang không còn nữa."
Ông cũng nói rằng tập trung chính của ông là mang lại hòa bình cho những người da đen đa số và cho họ quyền bỏ phiếu trong những cuộc bầu cử cấp quốc gia lẫn địa phương.[68]
Thương thuyết
Sau khi được trả tự do, Mandela trở lại làm lãnh đạo ANC, rồi từ năm 1990 đến 1994, ông lãnh đạo đảng này trong cuộc thương lượng đa đảng dẫn tới cuộc bầu cử đa sắc tộc đầu tiên trong nước.[69]Năm 1991, ANC tổ chức hội nghị toàn quốc đầu tiên của mình ở Nam Phi sau khi được dỡ bỏ lệnh cấm, hội nghị đã bầu Mandela làm Tổng Thống (President) của tổ chức. Người bạn và người đồng nghiệp lâu năm của ông, Oliver Tambo, người lãnh đạo tổ chức lưu vong khi Mandela còn ở trong tù, trở thành Chủ tịch Quốc gia (National Chairperson).[70]
Vai trò lãnh đạo của Mandela trong cuộc thương thuyết, cũng như mối quan hệ của ông với Tổng thống F.W. de Klerk, đã được thừa nhận khi họ cùng được trao Giải Nobel Hòa bình năm 1993. Tuy nhiên, mối quan hệ này thỉnh thoảng trở nên căng thẳng, cụ thể như trong một phát biểu nảy lửa vào năm 1991 khi ông nói De Klerk là người cầm đầu một "chế độ không hợp pháp, mất uy tín, gồm toàn những người thiểu số". Cuộc thương thuyết có lần đã đổ vỡ do vụ thảm sát Boipatong tháng 6 năm 1992, khi đó Mandela cùng đoàn đại biểu của ANC bước ra khỏi cuộc thương thuyết, cáo buộc chính quyền De Klerk đồng lõa với các vụ giết chóc.[71] Tuy nhiên, những cuộc hội đàm đã được tiếp diễn sau vụ thảm sát Bisho tháng 9 năm 1992, khi bóng ma bạo lực khiến cho người ta nhận thấy hội đàm là cách duy nhất để tiến tới một giải pháp.[10]
Sau vụ ám sát nhà lãnh đạo ANC Chris Hani tháng 4 năm 1993, lại dấy lên sự sợ hãi đất nước sẽ lại tan vỡ trong bạo lực.[72] Mandela đã gửi thông điệp toàn quốc yêu cầu mọi người bình tĩnh, trong bài phát biểu với vai trò 'tổng thống' dù khi đó ông chưa phải là tổng thống thực sự. Mandela nói rằng "tối nay tôi đang nói với từng người Nam Phi, cả đen lẫn trắng, những lời nói xuất phát từ sâu thẳm lòng mình. Một người da trắng đầy thành kiến và căm giận đã đến đất nước chúng ta và thực hiện một hành vi sai lầm đến mức khiến cả nước phải đối mặt với vực thẳm khủng hoảng. Một người phụ nữ da trắng, gốc Afrikan, đã liều mạng sống của bà để chúng ta có thể biết đến, và mang lại sự công bằng cho vụ ám sát này. Vụ giết người máu lạnh nhằm vào Chris Hani đã tạo một làn sóng rung chuyển đất nước và thế giới... Giờ đây đã đến lúc mọi người dân Nam Phi sát cánh cùng nhau để chống lại bất cứ hành vi nào nhằm phá hủy những gì Chris Hani đã cống hiến cả đời ông cho nó – sự tự do cho tất cả chúng ta".[73] Dù đã có một số vụ bạo loạn xảy ra sau vụ ám sát, các bên thương lượng vẫn tích cực hành động, và sớm thỏa thuận một cuộc bầu cử dân chủ diễn ra vào ngày 27 tháng 4 năm 1994, chỉ hơn một năm sau vụ ám sát Hani.[57]
Thời kỳ làm Tổng thống Nam Phi
Cuộc bầu cử đa sắc tộc đầu tiên ở Nam Phi với quyền bỏ phiếu được trao cho tất cả mọi người đã diễn ra vào ngày 27 tháng 4 năm 1994. ANC giành được 62% số phiếu bầu, và Mandela, với vai trò là lãnh đạo ANC, đã nhậm chức làm Tổng thống da đen đầu tiên của Nam Phi vào ngày 10 tháng 5 năm 1994, de Klerk của Đảng Quốc gia là phó tổng thống thứ nhất và Thabo Mbeki là phó tổng thống thứ hai trong Chính phủ Thống nhất Quốc gia.[74] Với vị trí là Tổng thống từ tháng 5 năm 1994 cho đến tháng 6 năm 1999, Mandela đã chủ trì sự chuyển giao từ quyền lực của thiểu số và chủ nghĩa apartheid, giành được sự tôn trọng của quốc tế đối với những nỗ lực hòa giải quốc gia và thế giới của ông.[75] Mandela đã khích lệ những người Nam Phi da đen ủng hộ cho đội Springbok (đội tuyển rugby quốc gia Nam Phi) trước đây bị dân chúng ghét bỏ khi Nam Phi tổ chức Cúp Rugby Thế giới 1995.[76] Sau khi Springbok giành chiến thắng trong trận chung kết trước New Zealand, Mandela đã trao cúp vô địch cho đội trưởng Francois Pienaar, một người Afrikan, trên người mặc chiếc áo đấu Springbok với con số 6 của Pienaar sau lưng. Hành động này được xem là bước tiến lớn của sự hòa giải giữa người Nam Phi da trắng và da đen.[77]Sau khi nhậm chức tổng thống, một trong những dấu hiệu đặc trưng của Mandela là chiếc áo Batik của ông, còn được biết đến với cái tên "Áo Madiba", kể cả trong những sự kiện long trọng.[78] Trong hành động quân sự đầu tiên sau thời kỳ apartheid của Nam Phi, Mandela đã ra lệnh cho quân đội xâm nhập lãnh thổ Lesotho vào tháng 9 năm 1998 để bảo vệ chính quyền của Thủ tướng Pakalitha Mosisili. Vụ việc này diễn ra sau một cuộc bỏ phiếu gây tranh cãi trong đó lực lượng phản đối đã đe dọa đến chính quyền thiếu ổn định này.[79] Những nhà bình luận và phê bình trong đó có cả các nhà hoạt động vì AIDS như Edwin Cameron đã chỉ trích Mandela vì sự thiếu hiệu quả của chính quyền ông trong việc ngăn chặn cuộc khủng hoảng AIDS.[80][81] Sau khi nghỉ hưu, Mandela thừa nhận rằng ông đã thất bại vì đã không chú ý nhiều hơn đến bệnh dịch HIV/AIDS.[82][83] Mandela từ đó đã có một số bài phát biểu chống lại bệnh dịch AIDS.[84][85]
Vụ xử Lockerbie
Tổng thống Mandela có sự quan tâm đặc biệt trong việc giúp đỡ giải quyết tranh cãi kéo dài giữa một bên là quốc gia Lybia dưới thời Gaddafi, còn bên kia là Hoa Kỳ và Anh, đối với việc mang ra xét xử hai người Lybia bị truy tố vào tháng 11 năm 1991 và bị buộc tội phá hoại Chuyến bay 103 của Pan Am, khiến nó rơi tại thị trấn Lockerbie của Scotland ngày 21 tháng 12 năm 1988, làm cho 270 người thiệt mạng.[86] Từ đầu năm 1992, Mandela đã có lời đề nghị không chính thức gửi tới Tổng thống George H.W. Bush yêu cầu xét xử hai nghi phạm Lybia tại quốc gia thứ ba. Bush tỏ ra tán thành đề nghị này, cả Tổng thống François Mitterrand của Pháp và Vua Juan Carlos I của Tây Ban Nha cũng vậy.[87] Vào tháng 11 năm 1994 – sáu tháng sau khi ông đắc cử tổng thống – Mandela chính thức đề nghị Nam Phi nên là nơi diễn ra phiên toàn xét xử vụ đánh bom Chuyến bay 103 của Pan Am.[88]Tuy nhiên, Thủ tướng Anh John Major thẳng thừng từ chối ý tưởng này nói rằng chính phủ Anh không tin tưởng vào tòa án nước ngoài.[89] Đến ba năm sau, Mandela một lần nữa lại gửi lời đề nghị đến người kế nhiệm Major, Tony Blair, khi ông có chuyến viếng thăm Luân Đôn vào tháng 7 năm 1997. Cuối năm đó, tại Cuộc họp những người đứng đầu chính phủ của khối Thịnh vượng chung năm 1997 tại Edinburgh tháng 10 năm 1997, Mandela đã cảnh báo:
"Không thể có một quốc gia vừa là nguyên cáo, vừa là bên nguyên lẫn quan tòa."Cuối cùng đã có một thỏa hiệp để tổ chức phiên tòa ở Trại quân sự Zeist ở Hà Lan, xét xử theo Luật Scotland, và Tổng thống Mandela bắt đầu thương thuyết với Đại tá Gaddafi để dẫn độ hai bị cáo (Megrahi và Fhimah) vào tháng 4 năm 1999.[90] Sau phiên tòa kéo dài 9 tháng, phán quyết đã được công bố vào ngày 31 tháng 1 năm 2001. Fhimah được tuyên trắng án, nhưng Megrahi bị buộc tội và phải lãnh 27 năm tù trong một nhà tù ở Scotland. Kháng cáo lần đầu của Megrahi đã bị bác vào tháng 3 năm 2002, và cựu tổng thống Mandela đã đến thăm người này tại nhà tù Barlinnie vào ngày 10 tháng 6 năm 2002.
Megrahi sau đó được chuyển đến nhà tù Greenock và không còn bị biệt giam nữa.[92] Tháng 8 năm 2009, Megrahi, sau khi được chẩn đoán bị ung thư và chỉ còn sống được 3 tháng, đã được trả tự do trong một đợt ân xá và được phép trở về Libya. Quỹ Nelson Mandela đã ủng hộ quyết định ân xá cho Megrahi trong một bức thư gửi tới Chính quyền Scotland thay mặt cho Mandela.[93]'Megrahi hoàn toàn cô độc', Mandela nói trong cuộc họp báo nhỏ trong phòng thăm viếng của nhà tù. 'Anh ta không có ai để nói chuyện cả. Đây là sự hành hạ về tâm lý mà một người đàn ông phải chịu đựng trong suốt thời gian dài chịu án hoàn toàn một mình. Sẽ công bằng hơn nếu anh ta được chuyển đến một quốc gia Hồi giáo — và có nhiều quốc gia Hồi giáo mà phương Tây tin tưởng. Nó sẽ giúp gia đình anh dễ viếng thăm anh hơn nếu anh ở một nơi như vương quốc Maroc, Tunisia hay Ai Cập.'[91]
Hôn nhân và gia đình
Mandela đã kết hôn ba lần, và có 6 con, 20 đứa cháu và số chắt thì ngày càng tăng. Ông là ông nội của Tù trưởng Mandla Mandela.[94]Cuộc hôn nhân đầu tiên
Cuộc hôn nhân đầu tiên của Mandela là kết hôn với Evelyn Ntoko Mase người cũng như Mandela, xuất thân từ nơi về sau gọi là vùng Transkei của Nam Phi, mặc dù thực ra họ gặp nhau tại Johannesburg.[95] Hai người chia tay vào năm 1957 sau 13 năm chung sống, ly dị vì sự căng thẳng do ông thường xuyên vắng nhà, dành quá nhiều thời gian cho công cuộc cách mạng, và một phần do bà là tín đồ Chứng nhân Jehovah, một tôn giáo đòi hỏi một sự trung lập về chính trị.[96] Evelyn Mase chết năm 2004.[97] Hai người có với nhau hai con trai, Madiba Thembekile (Thembi) (1946–1969) và Makgatho Mandela (1950–2005), và hai con gái, cả hai đều có tên Makaziwe Mandela (được biết đến với tên Maki; sinh 1947 và 1953). Đứa con gái đầu chết lúc 9 tháng tuổi, và họ đặt tên đứa con gái thứ hai theo tên cô con gái đầu lòng.[98] Các con của họ đều đi học Trường Thế giới Thống nhất ở Waterford Kamhlaba.[99] Thembi chết trong tai nạn xe hơi năm 1969 ở tuổi 25, khi Mandela đang bị giam giữ tại Đảo Robben, và Mandela không được phép tham dự lễ tang.[100] Makgatho chết vì bệnh AIDS năm 2005, khi 54 tuổi.[101]Cuộc hôn nhân thứ hai
Người vợ thứ hai của Mandela, Winnie Madikizela-Mandela, cũng xuất thân từ vùng Transkei, mặc dù hai người cũng gặp nhau tại Johannesburg, nơi bà là công chức da đen đầu tiên của thành phố.[102] Họ có hai con gái, Zenani (Zeni), sinh ngày 4 tháng 2 năm 1958 và Zindziswa (Zindzi) Mandela-Hlongwane, sinh năm 1960.[102] Zindzi chỉ mới 18 tháng tuổi khi cha cô bị giam tại nhà tù Đảo Robben. Sau này, Winnie phải chịu mối bất hòa trong gia đình, phản ảnh cuộc xung đột chính trị của đất nước; khi chồng bà đang chịu án chung thân ở Đảo Robben, còn cha bà lại làm bộ trưởng nông nghiệp ở Transkei.[102] Cuộc hôn nhân kết thúc bằng một cuộc ly thân rồi ly dị, được kích thêm từ mối bất hòa về chính trị.[103]Mandela vẫn mòn mỏi trong tù khi con gái ông Zenani kết hôn với Hoàng thân Thumbumuzi Dlamini năm 1973, anh trai của Vua Mswati III của Swaziland.[104] Mặc dù bà có ấn tượng sâu sắc về cha mình, nhà chức trách Nam Phi không cho phép bà thăm ông từ khi bà 4 tuổi cho đến lúc bà 16 tuổi.[105] Hai vợ chồng Dlamini sinh sống và kinh doanh tại Boston.[106] Một trong hai đứa con trai của họ, Hoàng tử Cedza Dlamini (sinh năm 1976), được giáo dục tại Hoa Kỳ, đã đi theo bước chân của ông ngoại làm một người ủng hộ cho quyền con người và trợ giúp nhân đạo.[106]
Zindzi Mandela-Hlongwane đã làm nên lịch sử trên toàn thế giới khi bà đọc bài diễn văn của Mandela từ chối lời đề nghị tha bổng có điều kiện vào năm 1985. Bà là nữ doanh nhân tại Nam Phi với ba con, đứa đầu lòng là con trai, Zondwa Gadaffi Mandela.[107]
Cuộc hôn nhân thứ ba
Mandela đã tái giá vào sinh nhật lần thứ 80 của ông năm 1998, với Graça Machel nhũ danh Simbine, góa phụ của Samora Machel, cựu tổng thống Mozambique và là đồng minh của ANC bị chết trong vụ rơi máy bay 12 năm trước đó.[108] Cuộc hôn nhân là kết quả của hàng tháng trời thương thảo ở cấp quốc tế để đặt ra đồ sính lễ chưa từng có trong lịch sử để được rút khỏi bộ tộc của Machel. Một thỏa thuận miệng đã được thực hiện bởi nhà vua truyền thống đại diện cho Mandela, Vua Buyelekhaya Zwelibanzi Dalindyebo.[109] Ông nội của thủ lĩnh tối cao là quan nhiếp chính Jongintaba Dalindyebo, người đã sắp xếp cuộc hôn nhân cho Mandela, đã lảng tránh bằng cách trốn sang Johannesburg vào năm 1940.[15]Mandela hiện vẫn còn ngôi nhà tại Qunu do đứa cháu trai nối dõi của ông quản lý, hiện ông vẫn trả tiền học phí và giữ quyền ủy viên hội đồng.[110]
Nghỉ hưu
Mandela là Tổng thống đắc cử lớn tuổi nhất của Nam Phi khi ông nhậm chức ở tuổi 75 vào năm 1994. Ông đã quyết định không cầm quyền nhiệm kỳ thứ hai và nghỉ hưu vào năm 1999, người kế nhiệm ông là Thabo Mbeki.Sau khi rời ghế Tổng thống, Mandela tiếp tục đóng vai trò tích cực trong nhiều tổ chức xã hội và vì quyền con người. Ông biểu lộ sự ủng hộ phong trào Make Poverty History (Biến đói nghèo thành dĩ vãng) mà trong đó Chiến dịch ONE là một bộ phận.[111] Giải golf gây quỹ Khách mời Nelson Mandela, do Gary Player chủ trì, đã thu được hơn 20 triệu rand cho các quỹ vì trẻ em từ lúc bắt đầu năm 2000.[112]
Mandela cũng là người ủng hộ cho Làng trẻ em SOS, tổ chức chuyên quyên tiền giúp đỡ trẻ em mồ côi và bị bỏ rơi lớn nhất thế giới.[113] Mandela cũng xuất hiện trong một đoạn quảng cáo cho Thế vận hội mùa đông 2006, và đã được trích dẫn trong chiến dịch Chúc mừng nhân loại của Ủy ban Olympic Quốc tế:[114]
Tạm dịch:For seventeen days, they are roommates. For seventeen days, they are soulmates. And for twenty-two seconds, they are competitors. Seventeen days as equals. Twenty-two seconds as adversaries. What a wonderful world that would be. That's the hope I see in the Olympic Games.
Trong mười bảy ngày, chúng ta là bạn hữu. Trong mười bảy ngày, chúng ta là tâm giao. Và trong mười hai giây, chúng ta là đối thủ. Mười bảy ngày bình đẳng. Mười hai giây đối địch. Thế giới như thế mới tuyệt vời làm sao. Đó là niềm hy vọng mà tôi thấy được trong Thế vận hội.
Sức khỏe
Tháng 7 năm 2001 Mandela được chẩn đoán bệnh ung thư tuyến tiền liệt và tiến hành chữa trị. Ông được xạ trị trong 7 tuần.[115] Năm 2003, Mandela bị CNN thông báo nhầm là đã chết khi bản cáo phó viết sẵn của ông (cùng với vài yếu nhân khác) do sơ xuất đã hiển thị trên website của CNN vì lỗi bảo vệ mật khẩu.[116] Vào năm 2007, một nhóm cánh tả không chính thống đã phổ biến email và tin nhắn SMS giả mạo nói rằng nhà chức trách đang giấu giếm cái chết của Mandela và những người Nam Phi da trắng sẽ bị tàn sát sau tang lễ của ông. Mandela lúc đó đang đi nghỉ tại Mozambique.[117]Tháng 6 năm 2004, ở tuổi 85, Mandela thông báo rằng ông sẽ không tham gia các hoạt động công cộng nữa. Sức khỏe của ông dần giảm sút, và ông muốn có nhiều thời gian hơn với gia đình. Mandela nói rằng không định cách ly hoàn toàn khỏi công chúng, nhưng muốn mình ở vị thế "sẽ gọi cho các bạn để hỏi xem tôi có được chào đón hay không, chứ không phải được mời làm các thứ và tham dự các sự kiện nữa. Lời thỉnh cầu của tôi là: Đừng gọi cho tôi, tôi sẽ gọi cho các bạn."[118] Từ năm 2003, ông ít xuất hiện trước công chúng hơn và ít phát ngôn trước các vấn đề.[119] Tóc ông bạc trắng và ông di chuyển chậm chạp với sự hỗ trợ của gậy. Cũng có báo cáo là ông đang bị chứng mất trí nhớ của người già.[120]
Sinh nhật lần thứ 90 của Mandela đã được tổ chức ở nhiều nơi khắp đất nước ngày 18 tháng 7 năm 2008, lễ mừng chính được tổ chức tại quê nhà Qunu của ông.[121] Một buổi hòa nhạc vinh danh ông cũng được tổ chức tại Hyde Park, Luân Đôn.[122] Trong buổi diễn văn kỷ niệm sinh nhật của mình, Mandela kêu gọi những người giàu hãy giúp đỡ người nghèo trên khắp thế giới.[121] Mặc dù vẫn ít xuất hiện trong suốt kỳ World Cup 2010 tại Nam Phi, Mandela cũng xuất hiện tại buổi bế mạc, tại đó ông đã được "chào đón nhiệt liệt".[123]
The Elders
Ngày 18 tháng 7 năm 2007, Nelson Mandela, Graça Machel, và Desmond Tutu tụ họp một nhóm các nhà lãnh đạo thế giới tại Johannesburg để đóng góp sự hiểu biết và khả năng lãnh đạo độc lập để giải quyết các vấn đề khó khăn nhất trên thế giới. Nelson Mandela thông báo lập nên một nhóm mới, The Elders, trong một bài diễn văn nhân sinh nhật lần thứ 89 của mình.[124]Tổng giám mục Tutu làm chủ tịch của The Elders. Các thành viên sáng lập nhóm bao gồm Graça Machel, Kofi Annan, Ela Bhatt, Gro Harlem Brundtland, Jimmy Carter, Lý Triệu Tinh, Mary Robinson và Muhammad Yunus.[125]
"Nhóm này có tiếng nói tự do và khẳng khái, hoạt động công khai lẫn hậu trường về bất cứ hành động nào cần thực hiện", Mandela nói. "Cùng với nhau chúng tôi sẽ hoạt động để ủng hộ lòng can đảm tại nơi có sợ hãi, nuôi dưỡng thỏa thuận tại nơi có tranh chấp, và truyền hy vọng tại nơi tuyệt vọng."[126]
Chống AIDS
Sau khi về hưu, một trong những sự quan tâm chính của Mandela là đấu tranh chống lại bệnh dịch AIDS. Ông đã có bài phát biểu bế mạc Hội nghị về AIDS Quốc tế lần thứ XIII năm 2000, tại Durban, Nam Phi.[127] Vào năm 2003, ông hỗ trợ bằng cách cho phép chiến dịch gây quỹ chống AIDS 46664 sử dụng số hiệu tù nhân của ông.[128] Tháng 7 năm 2004, ông bay tới Bangkok để phát biểu tại Hội nghị về AIDS Quốc tế lần thứ XV.[129] Con trai ông, Makgatho Mandela, chết vì bệnh AIDS vào ngày 6 tháng 1 năm 2005.[130]Phê phán chính sách ngoại giao của Mỹ và Anh
Nelson Mandela phản đối mạnh mẽ vụ can thiệp của NATO tại Kosovo năm 1999 và gọi đó là nỗ lực của các cường quốc nhằm kiểm soát thế giới.[131] Năm 2002 và 2003, Mandela chỉ trích chính sách ngoại giao của chính quyền Tổng thống Mỹ George W. Bush trong nhiều bài phát biểu.[132][133] Phê phán về việc thiếu sự tham gia của Liên Hiệp Quốc trong quyết định bắt đầu Chiến tranh Iraq, ông nói, "Đó là một bi kịch, những gì đang xảy ra, những gì Bush đang làm. Nhưng Bush giờ đây đang làm xói mòn Liên Hiệp Quốc." Mandela cho rằng ông chỉ ủng hộ hành động chống lại Iraq nếu đó là do Liên Hiệp Quốc ra lệnh. Mandela cũng nói bóng gió đến việc Liên Hiệp Quốc có lẽ đã bị ảnh hưởng bởi sự phân biệt chủng tộc vì đã không tuân theo ý kiến của Liên Hiệp Quốc và tổng thư ký Kofi Annan về vấn đề chiến tranh. "Có phải vì tổng thư ký Liên Hiệp Quốc hiện tại là một người da đen hay không? Họ không bao giờ làm vậy khi tổng thư ký là người da trắng".[134]Ông kêu gọi nhân dân Mỹ tham gia vào các cuộc biểu tình lớn chống lại Bush và kêu gọi các nhà lãnh đạo thế giới, đặc biệt là những nước có quyền phủ quyết trong Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc, phản đối Bush.[135] "Điều tôi lên án ở đây là chỉ một cường quốc, với một vị tổng thống không có óc chiến lược, người không thể nghĩ cho đúng đắn, giờ đang muốn đẩy thế giới vào một cuộc tàn sát." Ông tấn công Hoa Kỳ vì các thành tích xấu về nhân quyền và đã thả bom nguyên tử xuống Nhật Bản trong Chiến tranh thế giới II. "Nếu có một quốc gia có hành động tàn ác đến mức không thể diễn tả được bằng lời, đó là Hợp chúng quốc Hoa Kỳ. Họ bất cần."[134] Nelson Mandela cũng chê trách nặng nề Thủ tướng Anh Tony Blair và gọi ông là "ngoại trưởng của Mỹ."[136]
Tranh chấp với Ismail Ayob
Ismail Ayob từng là một người bạn tin cậy và là luật sư riêng của Mandela trong hơn 30 năm. Vào tháng 5 năm 2005, Ayob được Mandela yêu cầu dừng bán các ấn phẩm có chữ ký của Mandela và tính toán lại lợi nhuận thu được từ việc bán chúng. Tranh chấp này đã khiến Mandela đệ đơn lên Tòa án Tối cao Nam Phi vào năm đó.[137] Ayob cho rằng mình không làm điều gì sai trái,[138] và nói rằng ông là nạn nhân của một chiến dịch bôi nhọ do các cố vấn của Mandela, mà cụ thể là luật sư George Bizos, dựng lên.[139]Vào năm 2005 và 2006, Ayob và vợ con của ông trở thành đối tượng chỉ trích của các cố vấn của Mandela. Vụ tranh chấp này được truyền thông rộng rãi, với Ayob được mô tả ở vị thế phản diện, cao điểm là khi Mandela đệ đơn lên Tòa án Tối cao. Đã có những cuộc họp công khai trong đó những người thân cận của Mandela chỉ trích Ayob và công chúng còn kêu gọi tẩy chay Ayob và gia đình ông.[140] Lời biện hộ của Ismail và Zamila Ayob (vợ ông, và cũng là bị cáo liên quan) đưa ra các văn bản do Mandela ký và được các thư ký của ông làm chứng, từ đó bác bỏ nhiều lý lẽ của Nelson Mandela và các cố vấn.[141]
Tranh chấp này một lần nữa lại xuất hiện trên mặt báo vào tháng 2 năm 2007 khi trong một phiên tòa tại Tòa án Tối cao Johannesburg, Ayob hứa sẽ trả 700.000 rand cho Mandela, chuyển qua các quỹ vì trẻ em của Mandela, và gửi lời xin lỗi,[142] [143] mặc dù sau đó ông cho rằng ông là nạn nhân của "Sự trả thù" từ Mandela.[144] Một số nhà bình luận bày tỏ sự cảm thông cho vị thế của Ayob, nói rằng vị trí biểu tượng của Mandela khiến cho Ayob khó mà được đối xử một cách công bằng.[139]
Lý lẽ
Ayob, George Bizos và Wim Trengove là những người được ủy thác của Quỹ Ủy thác Nelson Mandela, được thành lập để cất giữ hàng triệu rand do các nhân vật kinh doanh nổi tiếng, trong đó có gia đình Oppenheimer, tặng cho Nelson Mandela vì lợi ích của con và cháu của ông.[145] Ayob sau này rút lui của Quỹ ủy thác. Vào năm 2006, hai người được ủy thác còn lại của Nelson Mandela Trust đã tố cáo Ayob đã chi tiêu tiền từ quỹ ủy thác mà không báo cho họ biết.[146] Ayob tuyên bố rằng số tiền này là để trả cho Dịch vụ Doanh thu Nam Phi, cho con và cháu của Mandela, cho chính Mandela, và trả cho bốn năm làm việc của công ty kế toán.[143]Bizos và Trengrove từ chối thông qua việc chi trả cho con cháu của Nelson Mandela và tiền trả cho công ty kế toán. Phiên tòa đã thỏa thuận rằng Ismail Ayob phải trả số tiền này, tổng cộng hơn 700.000 rand, cho quỹ ủy thác vì lẽ Ayob đã chưa được sự đồng ý của hai ủy thác viên khác trước khi dùng tiền.[147] Người ta cũng khẳng định là Ayob đã có những nhận xét phỉ báng Mandela trong bản khai, vì thế tòa cũng yêu cầu Ayob xin lỗi.[148] Người ta đã cho thấy các nhận xét này, tập trung vào các tài khoản ở nước ngoài của Nelson Mandela và việc không trả thuế cho các tài khoản này, không xuất phát từ lời khai của Ayob mà là từ chính lời khai của Nelson Mandela và George Bizos.[149]
Tranh cãi về Kim cương máu
Trong một bài viết trong báo The New Republic tháng 12 năm 2006, Nelson Mandela bị chỉ trích vì một số lời nhận xét tốt đẹp về ngành công nghiệp kim cương. Người ta lo ngại là điều này sẽ làm lợi cho những nhà cung cấp kim cương máu.[150] Trong bức thư gửi tới Edward Zwick, đạo diễn của bộ phim Kim cương máu, Mandela nói rằng:Bài báo trên New Republic nói rằng lời bình luận này, cũng như các sáng kiến và phát biểu trong cuộc đời ông và trong thời gian làm tổng thống Nam Phi, bị ảnh hưởng từ cả tình bạn với Harry Oppenheimer, cựu chủ tịch De Beers, lẫn từ quan điểm 'quyền lợi quốc gia hẹp hòi' của Nam Phi (là nhà sản xuất kim cương chính).[152]...sẽ cực kỳ đáng tiếc nếu bộ phim này vô tình sai sự thật, và kết quả là, khiến cho thế giới tin rằng cần phải có hành động thích hợp để ngưng việc mua kim cương được khai thác từ châu Phi.... Chúng tôi hy vọng rằng khát khao được kể một câu chuyện lịch sử về câu chuyện có thật hấp dẫn và quan trọng sẽ không dẫn đến sự mất ổn định tại các quốc gia sản xuất kim cương ở châu Phi, và cuối cùng là nhân dân các nước đó.[151]
Zimbabwe và Robert Mugabe
Robert Mugabe, tổng thống Zimbabwe, người đã lãnh đạo đất nước này từ khi độc lập năm 1980, đã nhận được nhiều lời chỉ trích trên thế giới vì trận đánh giết chết khoảng 3000 người vào thập niên 1980 cũng như tham nhũng, quản lý yếu kém, đàn áp chính trị và theo gia đình trị dẫn đến nền kinh tế nước này sụp đổ.[153][154]Mặc dù cùng xuất thân là những nhà hoạt động vì tự do quốc gia, Mandela và Mugabe ít khi được xem là gần gũi. Mandela chỉ trích Mugabe vào năm 2000, nhắc tới những nhà lãnh đạo châu Phi đã giải phóng đất nước họ nhưng khư khư giữ ghế quá lâu.[155][156] Khi về hưu, Mandela ít nhắc đến Zimbabwe và các vấn đề đối nội đối ngoại hơn,[119] đôi khi đưa đến chỉ trích là không biết sử dụng ảnh hưởng của mình để khuyến khích giảm bớt chính sách của mình.[157] Luật sư của ông George Bizos tiết lộ rằng Mandela đã được khuyên để giữ gìn sức khỏe ông phải tránh tham gia vào các hoạt động nhiều áp lực như các tranh cãi về chính trị.[158] Tuy nhiên, vào năm 2007, Mandela đã nỗ lực thuyết phục Mugabe rời chức "sớm hơn", với "chút ít chân giá trị còn lại", trước khi ông bị săn đuổi như Augusto Pinochet. Mugabe không phản ứng gì trước lời phát biểu này.[159] Vào tháng 6 năm 2008, ở cao trào khủng hoảng trong cuộc bầu cử tổng thống Zimbabwe, Mandela lên án "sự thất bại thảm hại của quyền lãnh đạo" tại Zimbabwe.[160]
Tôn vinh
Theo một bài viết trên tạp chí Newsweek, "Mandela đã có được một vị trí bất khả xâm phạm khi nhắc đến Nam Phi. Ông là nhà giải phóng dân tộc, vị cứu tinh, là Washington và Lincoln hòa lại làm một".[161]Tháng 11 năm 2009, Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc thông báo ngày sinh của Mandela, 18 tháng 7, sẽ được gọi là "Ngày Mandela" để ghi nhớ sự đóng góp của ông vào nền tự do của thế giới.[162]
Huân huy chương
Mandela đã nhận được nhiều giải thưởng của Nam Phi, nước ngoài và quốc tế, trong đó có Giải Nobel Hòa bình năm 1993 (cùng với Frederik Willem de Klerk),[163] được Nữ hoàng Elizabeth II trao Huân chương Công lao và Baliff Grand Cross của Huân chương Thánh John, Huân chương Tự do Tổng thống của George W. Bush.[164]Bản mẫu:Failed verification[165] Tháng 7 năm 2004, thành phố Johannesburg trao tặng danh hiệu cao nhất cho Mandela sự tự do của thành phố tại buổi lễ ở Orlando, Soweto.[166]Ông cũng thường nhận được sự tán dương khi đi ra nước ngoài. Trong chuyến thăm Canada năm 1998, 45.000 học sinh đã chào đón ông khi ông có bài phát biểu tại SkyDome, Toronto.[167] Vào năm 2001, ông là người còn sống đầu tiên trở thành Công dân danh dự của Canada (người nhận danh hiệu duy nhất trước đó là Raoul Wallenberg sau khi đã mất).[168] Khi còn ở Canada, ông cũng nhận Huân chương Canada, là một trong số ít người nước ngoài nhận được huân chương này.[169]
Năm 1981, ông đư5ơc trao Giải Bruno Kreisky. Năm 1988, ông đoạt Giải thưởng Sakharov của Nghị viện châu Âu và Giải Nhân quyền của Liên Hiệp Quốc. Năm 1990 ông nhận được Giải thưởng Bharat Ratna của chính phủ Ấn Độ và là người cuối cùng nhận được Giải thưởng Hòa bình Lenin của Liên Xô.[170] Vào năm 1992 ông được nhận Giải thưởng Hòa bình Atatürk của Thổ Nhĩ Kỳ. Ông đã từ chối giải thưởng vì cho rằng Thổ Nhĩ Kỳ lúc đó đang vi phạm nhân quyền,[171] nhưng đến năm 1999 thì chấp nhận giải thưởng[172] Vào năm 1992 ông nhận được Nishan-e-Pakistan, giải thưởng phục vụ cộng đồng cao nhất của Pakistan.[173] Năm 2004, ông được trao Giải Ý thức toàn cầu của Câu lạc bộ Budapest.
Bài hát ca ngợi
Nhiều nghệ sĩ đã viết bài hát và nhạc về Mandela. Một trong những nhóm nổi tiếng nhất là The Specials đã thu âm bài hát "Free Nelson Mandela" vào năm 1983. Stevie Wonder viết bài hát đã đoạt giải Oscar "I Just Called to Say I Love You" cho Mandela, dẫn đến bài này bị Hãng thông tấn Nam Phi cấm lưu hành.[174] Vào năm 1985, album Nelson Mandela của Youssou N'Dour là bản phát hành đầu tiên tại Mỹ của ca sĩ người Senegal này.Năm 1988, một buổi hòa nhạc Kỷ niệm ngày sinh lần thứ 70 của Mandela đã diễn ra tại Sân vận động Wembley ở Luân Đôn là trung tâm của phong trào chống chủ nghĩa apartheid, tại đó nhiều ca sĩ đã góp tiếng nói ủng hộ Mandela.[175] Jerry Dammers, tác giả của bài hát Nelson Mandela, là một thành viên trong ban tổ chức.[175] Simple Minds đã thu âm bài hát "Mandela Day" dành cho buổi hòa nhạc,[175] Santana đã thu âm bản giao hưởng "Mandela",[175] Tracy Chapman trình diễn bài "Freedom Now", dành tặng cho Mandela và phát hành album Crossroads,[175] Salif Keita đến từ Mali, có chơi ở buổi hòa nhạc, sau này có đến thăm Nam Phi và năm 1995 thu âm bài hát "Mandela" trong album Folon.[175]
Tại Nam Phi, "Asimbonanga (Mandela)" ("Chúng tôi chưa thấy ông") trở thành một trong những bài hát nổi tiếng nhất của Johnny Clegg, xuất hiện trong album Third World Child năm 1987.[176] Hugh Masekela, khi đó đang lưu vong ở Anh, đã hát bài "Bring Him Back Home (Nelson Mandela)" vào năm 1987.[177] Bài hát "Black President" vào năm 1989 của Brenda Fassie, cũng dành tặng Mandela, trở nên cực kỳ nổi tiếng dù nó bị cấm tại Nam Phi.[178] Nhạc sĩ nhạc reggae người Nigeria Majek Fashek đã phát hành đĩa đơn, "Free Mandela" vào năm 1992, đưa ông thành một trong nhiều nghệ sĩ Nigeria phát hành bài hát liên quan đến phong trào chống chủ nghĩa apartheid và đến Mandela.
Vào năm 1990, ban nhạc rock ở Hồng Kông Beyond đã ra mắt bài hát tiếng Quảng Đông nổi tiếng, "Days of Glory". Bài hát với chủ đề chống chủ nghĩa apartheid đã nhắc đến cuộc đấu tranh anh hùng của Mandela vì sự công bằng sắc tộc.[179] Nhóm Ladysmith Black Mambazo đã đi cùng với Mandela tới buổi trao Giải Nobel Hòa bình tại Oslo, Na Uy vào năm 1993, và trình diễn trong buổi nhậm chức năm 1994. Vào năm 2003, Mandela đồng ý đưa tên tuổi của ông vào chiến dịch 46664 chống lại căn bệnh AIDS, đặt theo số tù của ông. Nhiều nhạc sĩ nổi tiếng đã trình diễn trong các buổi hòa nhạc.[180]
Sơ lược tiểu sử của Mandela đã được chiếu trong bản video nhạc "If Everyone Cared" của Nickelback vào năm 2006.[181] Bài hát "Turn This World Around" của Raffi dựa trên bài diễn văn của Mandela khi ông giải thích thế giới cần phải "xoay vòng, vì những đứa trẻ".[182] Một buổi hòa nhạc kỷ niệm 90 năm ngày sinh của Mandela đã diễn ra tại Hyde Park, Luân Đôn ngày 27 tháng 6 năm 2008.[183]
Sách tiểu sử đã xuất bản
Tự truyện của Mandela, Long Walk to Freedom, được xuất bản vào năm 1994. Mandela đã bắt đầu viết cuốn sách này một cách bí mật khi ở trong tù.[184] Trong quyển sách này Mandela không tiết lộ điều gì về sự đồng lõa của F. W. de Klerk trong những vụ bạo lực xảy ra vào thập niên 80 và 90, hay vai trò của bà vợ cũ Winnie Mandela trong những vụ tắm máu đó. Tuy nhiên, ông sau này có cộng tác cùng với bạn ông, nhà báo Anthony Sampson bàn luận về các vấn đề này trong Mandela: The Authorised Biography.[185] Một chi tiết khác mà Mandela đã bỏ qua là cuốn sách có phần giả mạo Goodbye Bafana.[186] Tác giả của nó, cai ngục James Gregory trên đảo Robben, nhận mình là bạn tâm tình của Mandela trong tù và đã xuất bản những chi tiết về những vụ yêu đương trong gia đình của người tù.[186] Sampson luôn nói rằng Mandela không biết rõ Gregory lắm, nhưng có thể Gregory đã kiểm duyệt những bức thư gửi cho Mandela nên khám phá ra những chi tiết về đời tư của Mandela. Sampson cũng quả quyết rằng các cai ngục khác nghi ngờ Gregory là mật thám của chính phủ và Mandela đang xem xét việc kiện Gregory.[187]Điện ảnh và truyền hình
Bộ phim Mandela and De Klerk kể lại câu chuyện phóng thích Mandela.[188] Mandela do Sidney Poitier đóng vai. Goodbye Bafana, một bộ phim phóng sự nói về cuộc đời của Mandela, ra mắt tại liên hoan phim Berlin ngày 11 tháng 2 năm 2007. Bộ phim có diễn viên Dennis Haysbert đóng vai Mandela và diễn tả tình bạn trong tù giữa Mandela và James Gregory.[189]Trong loạt chương trình truyền hình Mỹ The Cosby Show cháu nội của Cliff và Claire Huxtable được đặt theo tên của Nelson và Winnie để tôn vinh Mandela và bà vợ khi đó của ông Winnie.
Trong cảnh cuối năm 1992 bộ phim Malcolm X, Mandela – vừa được phóng thích sau 27 năm ở tù – đóng vai thầy giáo trong một lớp học Soweto.[190] Ông nhắc lại một phần bài diễn văn nổi tiếng nhất của Malcolm X, trong đó có câu: "Chúng ta sinh ra trên Trái Đất với quyền làm người, phải được tôn trọng như một con người, được trao những quyền của một con người trong xã hội này, trên Trái Đất này, vào ngày này, điều chúng ta muốn đưa thành hiện thực..." Đoạn cuối nổi tiếng của câu đó là "bằng bất cứ giá nào."[191] Mandela đã thông báo với đạo diễn Spike Lee rằng ông không thể đọc câu này trước máy quay vì sợ chính quyền apartheid sẽ dùng nó chống lại ông. Lee đã rất biết ơn, và những giây cuối cùng của bộ phim là đoạn phim trắng đen của chính Malcolm X đọc câu này.[191]
Mandela và đội trưởng Springboks, Francois Pienaar, là chủ đề của cuốn sách năm 2008 của John Carlin, Playing the Enemy: Nelson Mandela and the Game that Made a Nation,[192] trong đó nhấn mạnh vai trò của chiến thắng trong Giải rugby vô địch thế giới 1995 tại Nam Phi thời hậu apartheid. Carlin bán quyền làm phim cho Morgan Freeman.[193] Bộ phim này, có tên Invictus,[194] được đạo diễn bởi Clint Eastwood, trong đó Freeman đóng vai Nelson Mandela và Matt Damon vai Pienaar.[193]
Tượng đài
Vào ngày 30 tháng 4 năm 2001, Khu vườn Nelson Mandela ở Quảng trường Thiên niên kỷ, Leeds đã chính thức khai trương và Nelson Mandela được tặng giải sự tự do của thành phố và được tặng một 'con cú vàng' (biểu tượng của Leeds) làm kỷ niệm. Trong bài phát biểu bên ngoài Đại sảnh Leeds trước 5000 người, Mandela đã cảm ơn nhầm 'nhân dân Liverpool vì sự hào phóng của các bạn'.[195]Vào ngày 31 tháng 3 năm 2004, Quảng trường Sandton ở Johannesburg được đổi tên thành Quảng trường Nelson Mandela, sau khi người ta dựng bức tượng Nelson Mandela cao 6 mét ở quảng trường để vinh danh nguyên thủ Nam Phi của mình.[196]
Vào ngày 29 tháng 8 năm 2007, một bức tượng Nelson Mandela được khánh thành tại Quảng trường Nghị viện ở Luân Đôn bởi Richard Attenborough, Ken Livingstone, Wendy Woods, và Gordon Brown.[197] Chiến dịch dựng tượng bắt đầu vào năm 2000 bởi Donald Woods, một nhà báo Nam Phi lưu vong vì tham gia phong trào chống chủ nghĩa apartheid. Mandela nói rằng nó đại diện cho không chỉ ông, mà còn cho những ai đang chống lại áp bức, đặc biệt tại Nam Phi.[198] Ông nói thêm: "Lịch sử đấu tranh tại Nam Phi đầy những câu chuyện về các nam nữ anh hùng, một số họ là nhà lãnh đạo, một số là người ủng hộ. Tất cả họ đều xứng đáng được ghi nhớ."[199]
Vào ngày 27 tháng 8 năm 2008, một bức tượng của Nelson Mandela được khánh thành tại Trại cải tạo Drakenstein Groot giữa Paarl và Franshhoek trên đường R301, gần Cape Town. Trước đây có tên Victor Verster, đây là nơi Mandela trải qua những năm cuối cùng trong thời gian 27 năm ở tù, khi ông và các đồng chí ở ANC đã thương thảo với chính quyền apartheid về những điều khoản để ông được tự do và bản chất của nước Nam Phi mới. Bức tượng được đặt ngay nơi Mandela bước bước đi đầu tiên với tư thế một người tự do. Ngay bên ngoài cổng tù – đỉnh điểm của Long Walk to Freedom – tên tự truyện của Mandela.[200][201]
Sau Trận động đất Loma Prieta năm 1989 phá hủy phần Cầu cạn đường Cypress của Xa lộ Nimitz tại Oakland, California, thành phố đã đổi tên con đường này và đặt tên là Mandela Parkway.
Tại Leicester, nước Anh, có một Công viên Nelson Mandela với khẩu hiệu "Nam Phi thuộc về tất cả những ai sống tại đó, dù Trắng hay Đen".
Các câu nói
Về Thể thao- "Thể thao là phương tiện hữu hiệu có khả năng làm thay đổi cục diện thế giới, là công cụ hữu ích cho tương quan thân hữu và nền hòa bình của thế giới..." [3]
Chú thích
- ^ a b “Nelson Mandela - Biography”. Nobelprize.org. The Nobel Foundation. 1993. Truy cập ngày 30 tháng 4 năm 2009.
- ^ Mandela 1996, trang 16, 17
- ^ a b “South Africa: Celebrating Mandela At 90”. AllAfrica.com. 17 tháng 7 năm 2008. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ Kopkind, Andrew (16 tháng 3 năm 1990). “Book Review - Higher than Hope”. Entertainment Weekly. Time Inc. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ a b Mafela, Munzhedzi James (tháng 10 năm 2008). “The revelation of African culture in Long Walk to Freedom”. Indigenous Biography and Autobiography. Australian National University. Truy cập ngày 18 tháng 7 năm 2009.
- ^ “President of South Africa: Nelson Mandela”. Chalre Associates. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.[liên kết hỏng]
- ^ a b c Aikman (2003), pp 70–71
- ^ a b c Mandela, Nelson (2006). Mandela: The Authorized Portrait. Kansas City, Mo.: Andrews McMeel Pub. tr. 13. ISBN 0-7407-5572-2. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2008.
- ^ Mandela 1996, p.7
- ^ a b c d e Mandela, Nelson (1994). Long Walk to Freedom. Little, Brown and Company.
- ^ Mandela 1996, p. 9. "Không ai trong gia đình tôi đi học cả [...] Trong ngày nhập học, cô giáo của tôi, cô Mdingane, đặt cho mỗi đứa một cái tên tiếng Anh. Hồi đó đây là thông lệ của người châu Phi và rõ ràng nó thể hiện xu hướng thiên về tiếng Anh trong nền giáo dục mà chúng tôi thụ hưởng. Hôm đó, cô Mdingane bảo với tôi tên mới của tôi sẽ là Nelson. Tại sao cô lại đặt cho tôi tên này, tôi cũng không biết nữa."
- ^ a b “Mandela celebrates 90th birthday”. BBC. 17 tháng 7 năm 2008. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ “Healdtown Comprehensive School”. Historic Schools Project: South Africa. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ Mandela 1996, pp. 18-19.
- ^ a b Mandela 1996, pp. 10, 20.
- ^ a b “Nelson Mandela Biography - Early Years”. Nelson Mandela Foundation. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ “Nelson Mandela Children's Fund - Organise”. Nelson Mandela Children's Fund. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ “The 1948 election and the National Party Victory”. South African History Online. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ “The Defiance Campaign”. African National Congress. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ “Congress of the People, 1955”. African National Congress. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ Callinicos, Luli (2004). Oliver Tambo: Beyond the Engeli Mountains. New Africa Books. tr. 173. ISBN 0864866666.
- ^ Mandela, Nelson (3 tháng 1 năm 2000). “The Sacred Warrior”. Time 100: The Most Important People of the Century. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2008.
- ^ Bhana, Surendra; Vahed, Goolam (2005). The Making of a Political Reformer: Gandhi in South Africa, 1893–1914. tr. 149.
- ^ Bhalla, Nita (29 tháng 1 năm 2007). “Mandela calls for Gandhi's non-violence approach”. Reuters. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2008.
- ^ “Nelson Mandela's Testimony at the Treason Trial 1956-60”. African National Congress. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ a b c “ANC - Statement to the Truth and Reconciliation Commission”. African National Congress. Tháng 8 năm 1996. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ Shillington, Kevin (2005). Encyclopedia of African History. CRC Press. tr. 1449. ISBN 1579582451.
- ^ “The Freedom Charter”. African National Congress. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ SACP Salutes Walter Sisulu
- ^ Leeman, Bernard (1996). Trong Alexander, Peter; Hutchison, Ruth; Schreuder, Deryck. The PAC of Azania in Africa Today. The Humanities Research Centre, The Australian National University Canberra: The Australian National University Canberra. ISBN 07315 24918.
- ^ “Umkhonto is Born”. African National Congress. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ a b c Whittaker, David J. (2003). The Terrorism Reader . Routledge. tr. 244. ISBN 0415301017.
- ^ “Tell me about the bomb at the brickworks - Frontline The Long Walk of Nelson Mandela”. PBS.
- ^ a b Mandela, Nelson (20 tháng 4 năm 1964). “"I am Prepared to Die" — Nelson Mandela's statement from the dock at the opening of the defence case in the Rivonia Trial”. African National Congress. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2008.
- ^ “Mandela admits ANC violated rights, too”. Financial Times. 2 tháng 11 năm 1998.
- ^ “BBC News: US shamed by Mandela terror link”. 10 tháng 4 năm 2008.
- ^ “Mandela taken off US terror list”. BBC News. 1 tháng 7 năm 2008. Truy cập ngày 1 tháng 7 năm 2008.
- ^ “5 August - This day in history”. The History Channel. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ Blum, William. “How the CIA sent Nelson Mandela to prison for 28 years”. Third World Traveller. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2008.
- ^ Stein, Jeff (14 tháng 11 năm 1996). “Our Man in South Africa”. Salon.com. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2008.
- ^ Weiner, Tim (2007). Legacy of Ashes. Penguin Group. tr. 362. ISBN 978-1-846-14046-4.
- ^ Katwala, Sunder (11 tháng 2 năm 2001). “The Rivonia Trial”. The Guardian. London. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ a b “ANC Lilliesleaf Farm arrests”. South African History Online. 11 tháng 7 năm 1963. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ Mandela, Nelson (20 tháng 4 năm 1964). “An ideal for which I am prepared to die”. The Guardian. London. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ a b “The Sharpeville Massacre”. TIME. 4 tháng 4 năm 1960. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ “Manifesto of Umkhonto we Sizwe”. African National Congress. 16 tháng 12 năm 1961. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2008.
- ^ “Rivonia Trial Papers”. Aluka. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ a b c “Toward Robben Island: The Rivonia Trial”. African National Congress. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ “Mandela's jail overrun by rabbits”. BBC. 15 tháng 10 năm 2008. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ “A monument to Mandela: the Robben Island years”. The Independent (London: Independent Print Limited). 2 tháng 9 năm 2007. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ “Political prisoner recalls time on Robben Island”. The Michigan Daily. 17 tháng 10 năm 2002. Truy cập ngày 9 tháng 3 năm 2010.
- ^ Holmes, Steven A. (22 tháng 6 năm 1994). “Robben Island Journal; South Africa Ponders Fate of Apartheid's Bastille”. NY Times. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ a b Kathrada, Ahmed; Mandela, Nelson (2004). Memoirs. Zebra. tr. 246. ISBN 1868729184.
- ^ a b “The Big Read: Nelson Mandela: a living legend”. Daily Observer. 25 tháng 7 năm 2008. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ a b Winter, Gordon (1981). Inside BOSS. Penguin Books.
- ^ Hallengren, Anders (11 tháng 9 năm 2001). “Nelson Mandela and the Rainbow of Culture”. Nobelprize.org. The Nobel Foundation. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 8 năm 2008. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ a b c d Sparks, Allister (1994). Tomorrow is Another Country. Struik.
- ^ Cowell, Alan (1 tháng 2 năm 1985). “South Africa hints at conditional release for jailed black leaders”. NY Times. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ “Mandela's response to being offered freedom”. ANC. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ “Key Dates in South African History”. Nelson Mandela Children's Fund. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ “Free Nelson Mandela”. ANC. Tháng 7 năm 1988. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ “PW Botha, unrepentant defender of apartheid, dies aged 90”. The Independent (London: Independent Print Limited). 1 tháng 11 năm 2006. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ Malam, John (2002). The Release of Nelson Mandela: 11 February 1990. Cherrytree Books. ISBN 1842341030.
- ^ http://icrc.org/web/eng/siteeng0.nsf/html/south-africa-feature-020709 South Africa: commemorating 150 years since the battle of Solferino
- ^ http://icrc.org/web/eng/siteeng0.nsf/htmlall/5pkj9a Nelson Mandela: Red Cross a "beacon of humanity" for political prisoners
- ^ “1990: Freedom for Nelson Mandela”. BBC. 11 tháng 2 năm 1990. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ Ormond, Roger (12 tháng 2 năm 1990). “Mandela free after 27 years”. The Guardian. London. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ a b “Nelson Mandela's address to Rally in Cape Town on his Release from Prison”. ANC. 11 tháng 2 năm 1990. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ “A Crime Against Humanity - Analysing the Repression of the Apartheid State”. South African History Online. Truy cập ngày 23 tháng 12 năm 2008.
- ^ “Profile of Nelson Rolihlahla Mandela”. African National Congress. Truy cập ngày 8 tháng 5 năm 2007.
- ^ “Boipatong Massacre”. African National Congress. 18 tháng 6 năm 1992. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2008.
- ^ “Chris Hani assassinated. (Obituary)”. Social Justice. Truy cập ngày 23 tháng 12 năm 2008.
- ^ “Statement of the President of the ANC, Nelson Mandela on the assassination of Martin Chris Hani”. 10 tháng 4 năm 1993. Truy cập ngày 23 tháng 12 năm 2008.
- ^ “Mandela becomes SA's first black president”. BBC. 10 tháng 5 năm 1994. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2008.
- ^ “The Nobel Peace Prize 1993 - Presentation Speech”. Nobelprize.org. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ “Mandela rallies Springboks”. BBC Sport. 6 tháng 10 năm 2003. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ Carlin, John (19 tháng 10 năm 2007). “How Nelson Mandela won the rugby World Cup”. The Daily Telegraph (London). Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ Khumalo, Fred (5 tháng 8 năm 2004). “How Mandela changed SA fashion”. BBC. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ Thai, Bethuel (4 tháng 10 năm 1998). “Lesotho to hold re-elections within 15 to 18 months”. Lesotho News Online. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2008.
- ^ Sampson, Anthony (6 tháng 7 năm 2003). “Mandela at 85”. The Observer. London. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2008.
- ^ Robinson, Simon (11 tháng 4 năm 2007). “The Lion In Winter”. Time. Time Inc. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2008.
- ^ “Can Mandela's AIDS Message Pierce the Walls of Shame?”. Peninsula Peace and Justice Center. 9 tháng 1 năm 2005. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2008.
- ^ Quist-Arcton, Ofeibea (19 tháng 7 năm 2003). “South Africa: Mandela Deluged With Tributes as He Turns 85”. AllAfrica.com. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2008.
- ^ “Mandela's stark Aids warning”. BBC News. 1 tháng 12 năm 2000. Truy cập ngày 23 tháng 12 năm 2008.
- ^ Wines, Michael (7 tháng 1 năm 2005). “Mandela, Anti-AIDS Crusader, Says Son Died of Disease”. NY Times. Truy cập ngày 23 tháng 12 năm 2008.
- ^ Brown, Derek (31 tháng 1 năm 2001). “Lockerbie trial: what happened when”. The Guardian. London. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ McGreal, Chris (11 tháng 5 năm 1999). “Mandela shies away from global role in retirement”. The Guardian. London. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ “Families say SA trial site acceptable”. Dispatch. 27 tháng 10 năm 1997. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2008.
- ^ “Mandela's parting shot at Major over Lockerbie”. The Guardian. 11 tháng 5 năm 1999. tr. 13.
- ^ “Analysis: Lockerbie's long road”. BBC. 31 tháng 1 năm 2001. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2008.
- ^ “Mandela appeals on behalf of Lockerbie bomber”. London: guardian.co.uk. 10 tháng 6 năm 2002. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2008.
- ^ “Lockerbie bomber 'leaves solitary confinement'”. The Daily Telegraph (London). 25 tháng 2 năm 2005. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ “Mandela backs Lockerbie decision”. bbc online. 30 tháng 8 năm 2009. Truy cập ngày 30 tháng 8 năm 2009. Đã bỏ qua tham số không rõ
|publish date=
(trợ giúp) - ^ Soszynski, Henry. “Genealogical Gleanings”. University of Queensland. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2008.
- ^ “Nelson Mandela - Timeline”. Nelson Mandela Foundation. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ “Mandela's life and times”. BBC. 16 tháng 7 năm 2008. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ “Madiba bids final farewell to his first wife”. Independent Online. Independent News & Media. 8 tháng 5 năm 2004. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ “Nelson Mandela Biography - Black History”. Biography.com. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ “UWC - Presidents and Patrons”. United World Colleges. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 5 năm 2008. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ Smith, Charlene; Tutu, Desmond (2004). Mandela: In Celebration of a Great Life. Struik. tr. 41. ISBN 1868728285.
- ^ Timberg, Craig (7 tháng 1 năm 2005). “Mandela Says AIDS Led to Death of Son”. The Washington Post (The Washington Post Company). Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2010.
- ^ a b c “Winnie Mandela”. ANC. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2008.
- ^ “Nelson and Winnie Mandela divorce; Winnie fails to win $5 million settlement.”. Jet. 8 tháng 4 năm 1996. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2008.
- ^ “Swaziland prince and princess attend Boston University”. WGBH Boston. 13 tháng 5 năm 1987. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2008.
- ^ “Daddy Stayed In Jail. That Was His Job'; Zenani Mandela's Life Without Father”. The Washington Post. The Washington Post Company. 8 tháng 11 năm 1987. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2008.
- ^ a b “AILA International Fellows Program”. Center for Strategic & International Studies. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2008.
- ^ “Zondwa Gadaffi Mandela”. Aurora Empowerment Systems. Truy cập ngày 20 tháng 9 năm 2009.
- ^ “Mandela gets married on 80th birthday”. CNN. 18 tháng 7 năm 1998. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2008.
- ^ Ngcukana, Lubabalo. “andela, Kaunda honour king”. Daily Dispatch. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2008.
- ^ de Bruyne, Marnix. “Zuidelijk Afrika”. Netherlands Institute for Southern Africa. Đã bỏ qua tham số không rõ
|accessdtieeps tuate=
(trợ giúp) - ^ “2005: The year of Make Poverty History”. Make Poverty History. Truy cập ngày 1 tháng 5 năm 2007.
- ^ “SA's best to join international stars for charity”. Nelson Mandela Invitational. 5 tháng 9 năm 2007. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2008.
- ^ “Nelson Mandela”. SOS Children's Villages. Truy cập ngày 1 tháng 8 năm 2008.
- ^ “Celebrate Humanity 2004” (PDF). International Olympic Committee. 2004. Truy cập ngày 1 tháng 5 năm 2007.
- ^ “Mandela 'responding well to treatment'”. BBC. 15 tháng 8 năm 2001. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2008.
- ^ “The Smoking Gun: Archive”. The Smoking Gun. 2003. Truy cập ngày 1 tháng 5 năm 2007.
- ^ Groenewald, Yolandi; Joubert, Pearlie (2 tháng 3 năm 2007). “Not yet uhuru”. Mail & Guardian.
- ^ “"I'll call you"”. SouthAfrica.info. 2 tháng 6 năm 2004. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2008.
- ^ a b Carroll, Rory (18 tháng 7 năm 2006). “Mandela keeps his opinions to himself as a nation marks its idol's birthday”. The Guardian (London). Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2008.
- ^ “Is Nelson Mandela Losing His Memory?”. Who2.com. 7 tháng 12 năm 2009.
- ^ a b “Nelson Mandela Celebrates 90th Birthday by Urging Rich to Help Poor”. Fox News. 18 tháng 7 năm 2008. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2008.
- ^ Bingham, John (6 tháng 5 năm 2008). “Hyde Park concert to mark Mandela's 90th”. The Independent. London: Independent Print Limited. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2008.
- ^ http://www.guardian.co.uk/world/2010/jul/11/nelson-mandela-world-cup-final
- ^ “Mandela joins ‘Elders’ on turning 89”. MSNBC. 20 tháng 7 năm 2007. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2008.
- ^ “Mandela launches The Elders”. SAinfo. 19 tháng 7 năm 2007. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2008.
- ^ “Nelson Mandela announces The Elders”. The Elders. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 4 năm 2008. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2008.
- ^ Paul Tebas, MD, "Closing Ceremony," http://www.thebody.com/content/art16140.html
- ^ “About 46664”. 46664.com. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2008.
- ^ “XV International AIDS Conference - Daily Coverage”. Kaisernetwork. 15 tháng 7 năm 2004. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2008.
- ^ “Mandela's eldest son dies of Aids”. BBC. 6 tháng 1 năm 2005. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2008.
- ^ [1]
- ^ “Mandela warns Bush over Iraq”. BBC. 1 tháng 9 năm 2002. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2008.
- ^ Cornwell, Rupert (31 tháng 1 năm 2003). “Mandela lambastes 'arrogant' Bush over Iraq”. The Independent. London: Independent Print Limited. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2008.
- ^ a b Fenton, Tom (30 tháng 1 năm 2003). “Mandela Slams Bush On Iraq”. CBS. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2008.
- ^ “Mandela Slams Bush On Iraq”. CBS News. 30 tháng 1 năm 2003. Truy cập ngày 23 tháng 12 năm 2008.
- ^ [2]
- ^ Chanda, Abhik Kumar (10 tháng 5 năm 2005). “Mandela sues over forged sketches”. Mail & Guardian. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2008.
- ^ Mabuza, Ernest (13 tháng 7 năm 2005). “Ayob denies gain from Mandela art”. Business Day. Bản gốc lưu trữ ngày 31 tháng 3 năm 2008. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2008.
- ^ a b Moya, Fikile-Notsikelelo (5 tháng 8 năm 2005). “Poor Ismail Ayob”. Mail & Guardian. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2008.
- ^ Keet, Jacques (21 tháng 7 năm 2005). “Courts 'have final word on Mandela-Ayob clash'”. Business Day. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 1 năm 2008. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2008.
- ^ Mabuza, Ernest (18 tháng 7 năm 2005). “Bizos behind vicious campaign to discredit, defame me — Ayob”. Business Day. Bản gốc lưu trữ ngày 31 tháng 3 năm 2008.
- ^ “Ayob to pay back Mandela money”. News24. 27 tháng 2 năm 2007. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2008.
- ^ a b Gordin, Jeremy (4 tháng 3 năm 2007). “What caused the Ayob, Mandela spat?”. Sunday Independent (Independent News & Media). Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2008.
- ^ Schmidt, Michael (3 tháng 3 năm 2007). “Mandela waging a vendetta - Ayob”. Pretoria News.
- ^ “Mandela's lawyers take Ismail to court over money”. Mail & Guardian. 25 tháng 2 năm 2007. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2008.
- ^ Sefara, Makhudu; Mapiloko, Jackie (3 tháng 3 năm 2007). “Madiba set me up, says Ayob”. News24. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2008.
- ^ Adams, Sheena (8 tháng 7 năm 2006). “'Ayob tried to cover up unlawful spending'”. IOL. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2008.
- ^ Mkhwanazi, Siyabonga (28 tháng 2 năm 2007). “Lawyer to pay back R800000 to Mandela trust”. Pretoria News (South Africa). Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2008.
- ^ Mabuza, Ernest (10 tháng 3 năm 2007). “Ayob Runs Out of Cash But Accuses Mandela Again”. Business Day. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2008.
- ^ Bates, Rob (22 tháng 6 năm 2006). “Nelson Mandela to speak out for diamond industry”. Jewelers' Circular Keystone. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2008.
- ^ “Half Nelson - Mandela, diamond shill”. The New Republic. 8 tháng 12 năm 2006. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 3 năm 2007. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2008.
- ^ Snead, Elizabeth (15 tháng 6 năm 2006). “Mandela to defend De Beers from bad "Blood"”. LA Times. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2008.
- ^ Chimuka, Garikai (14 tháng 5 năm 2008). “Gukurahundi and current wave of violence similar”. The Zimbabwe Times. Truy cập ngày 26 tháng 10 năm 2008.
- ^ Winter, Joseph (13 tháng 3 năm 2002). “Mugabe's descent into dictatorship”. BBC. Truy cập ngày 26 tháng 10 năm 2008.
- ^ “Mandela expresses anger at Mugabe”. The Namibian. 8 tháng 5 năm 2000. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 6 năm 2008. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2008.
- ^ “Mandela repudiates Mbeki on AIDS stance”. CNN. 29 tháng 9 năm 2000. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2008.
- ^ Hentoff, Matt (23 tháng 5 năm 2003). “Where is Nelson Mandela?”. The Village Voice. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2008.
- ^ Trapido, Michael (10 tháng 6 năm 2008). “Why has Nelson Mandela remained silent on Zimbabwe?”. Thought Leader. Truy cập ngày 25 tháng 6 năm 2008.
- ^ “Mugabe snubs Mandela”. News24. 5 tháng 11 năm 2007. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2010.
- ^ “Failure of leadership in Zim - Mandela”. News24. 25 tháng 6 năm 2008. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2010.
- ^ Father Disfigure by Eve Fairbanks, Newsweek Magazine, 27 August 2009
- ^ “UN gives backing to 'Mandela Day'”. BBC News. 11 tháng 11 năm 2009. Truy cập ngày 11 tháng 11 năm 2009.
- ^ “The Nobel Peace Prize 1993”. Nobelprize.org. Truy cập ngày 26 tháng 10 năm 2008.
- ^ “The Order of Merit”. Royal Insight. Tháng 11 năm 2002. Truy cập ngày 26 tháng 10 năm 2008.Bản mẫu:Failed verification
- ^ “President Honors Recipients of the Presidential Medal of Freedom”. The White House. 9 tháng 7 năm 2002. Truy cập ngày 26 tháng 10 năm 2008.
- ^ “Madiba conferred freedom of Johannesburg”. Gauteng Provincial Government. 27 tháng 7 năm 2004. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 6 năm 2008. Truy cập ngày 26 tháng 10 năm 2008.
- ^ “Mandela and the Children”. Rooney Productions. Truy cập ngày 26 tháng 10 năm 2008.
- ^ “Mandela to be honoured with Canadian citizenship”. CBC News. 19 tháng 11 năm 2001. Truy cập ngày 26 tháng 10 năm 2008.
- ^ “Order of Canada - Nelson Mandela, C.C.”. Governor General of Canada. Truy cập ngày 26 tháng 10 năm 2008.
- ^ “Bharat Ratna Award”. National Portal of India. Truy cập ngày 26 tháng 10 năm 2008.
- ^ “Statement on the Ataturk Award given to Nelson Mandela”. African National Congress. 12 tháng 4 năm 1992. Truy cập ngày 2 tháng 1 năm 2007.
- ^ “Mandela changes his mind”. Turkish Press Review. 7 tháng 1 năm 1999. Truy cập ngày 2 tháng 1 năm 2007.
- ^ “Mandela in Pakistan”. The Independent (London: Independent Print Limited). 3 tháng 10 năm 1992. Truy cập ngày 7 tháng 6 năm 2010.
- ^ “Stevie Wonder Music Banned in South Africa”. The New York Times. 27 tháng 3 năm 1985. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2008.
- ^ a b c d e f Ketchum, Mike. “The Mandela Concert, Wembley 1988”. African National Congress. Truy cập ngày 23 tháng 12 năm 2008.
- ^ Drewett, Michael; Cloonan, Martin (2006). Popular Music Censorship in Africa. Ashgate Publishing. tr. 30. ISBN 0754652912.
- ^ Guernsey, Otis L.; Sweet, Jeffrey; Kronenberger, Louis (21 tháng 5 năm 2008). The Best Plays. University of Michigan. tr. 347. ISBN 1557830401.
- ^ “Brenda Fassie dies”. BBC. 2004. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2008.
- ^ Lee, Carmen (16 tháng 6 năm 2003). “20 Years Ago Today”. Time. Truy cập ngày 27 tháng 5 năm 2008.
- ^ Sherrod, Lonnie R. (2006). Youth Activism: An International Encyclopedia. Greenwood Press. tr. 62. ISBN 0313328129.
- ^ Lamb, Bill. “Nickelback - If Everyone Cared”. About. Truy cập ngày 23 tháng 12 năm 2008.
- ^ Trussell, Jeff. “Freedom Hero: Nelson Mandela”. The My Hero Project. Truy cập ngày 23 tháng 12 năm 2008.
- ^ “Mandela's 90th birthday year celebrates diversity of ideas”. Nelson Mandela Foundation. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2008.
- ^ Mandela 1996, p. 144-148.
- ^ Ann, Talbot (5 tháng 8 năm 1999). “Biography falls short of penetrating myth surrounding ANC leader”. International Committee of the Fourth International (ICFI). Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ a b Gilbey, Ryan (14 tháng 5 năm 2007). “Whitewashed and watered down”. New Statesman. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ Sampson, Anthony (1999). Mandela: The Authorised Biography. HarperCollins. tr. 217.
- ^ Keller, Bill. “Mandela and de Klerk (1997)”. The New York Times. Truy cập ngày 26 tháng 10 năm 2008.
- ^ “Goodbye Bafana - Sypnosis”. Goodbye Bafana - Official site. Truy cập ngày 26 tháng 10 năm 2008.
- ^ Cunningham, Matthew (3 tháng 6 năm 2004). “Creme cameos”. The Guardian. London. Truy cập ngày 26 tháng 10 năm 2008.
- ^ a b Guerrero, Ed (1993). Framing Blackness: The African American Image in Film. Temple University Press. tr. 202. ISBN 1566391261.
- ^ Carlin, John (2008). Playing the Enemy: Nelson Mandela and the Game that Made a Nation. New York: Penguin Press. ISBN 978-1-59420-174-5
- ^ a b Keller, Bill. - "Entering the Scrum". - The New York Times Book Review. - 17 August 2008.
- ^ “The cast of the World Cup film revealed!”. Planet Rugby. 24 tháng 12 năm 2008. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2009.
- ^ Ian Herbert North (1 tháng 5 năm 2001). “Mandela vindicates 'loony left' of Leeds for honouring struggle”. The Independent (London: Independent Print Limited). Truy cập ngày 24 tháng 1 năm 2008.
- ^ “S. Africa renames Sandton Square as Nelson Mandela Square”. Xinhua News Agency. 31 tháng 3 năm 2004. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2008.
- ^ “Nelson Mandela statue is unveiled”. BBC News. 29 tháng 8 năm 2007. Truy cập ngày 23 tháng 12 năm 2008.
- ^ “Broad Parliamentary Support for Trafalgar Square Mandela statue”. London. 21 tháng 5 năm 2003. Truy cập ngày 23 tháng 12 năm 2008.
- ^ “Mandela salutes apartheid heroes”. News24. 29 tháng 8 năm 2007. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2008.
- ^ Stern, Jennifer (27 tháng 8 năm 2008). “Long walk immortalised in bronze”. Media Club South Africa. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2009.
- ^ “Nelson Mandela statue unveiled in Cape Town”. Nelson Mandela Foundation. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2009.
- Aikman, David (2003). Great Souls: Six Who Changed a Century. Lexington Books. ISBN 0739104381. Đã bỏ qua tham số không rõ
|authorlnk=
(trợ giúp) - Mandela, Nelson (1996). The Illustrated Long Walk to Freedom. Paul Duncan (abridgement and picture editing). Boston: Little, Brown and Company. ISBN 0316880205.
Đọc thêm
- A Prisoner in the Garden: Opening Nelson Mandela's Prison Archive. Penguin Books. 2005. ISBN 0-143-02495-7.
- Desmond Tutu ; edited by John Allen. (1996). The Rainbow People of God: The Making of a Peaceful Revolution. Doubleday. ISBN 978-0385-48374-2.
- Benson, Mary. Nelson Mandela: The Man and the Movement.
- Bezdrob, Anne Marie du Preez (2006). The Nelson Mandela Story. Samoja Books. ISBN 0-620-36570-6.
- Denenberg, Barry. Nelson Mandela: No Easy Walk To Freedom.
- Hoobler, Dorothy; Hoobler, Thomas (1992). Mandela: The Man, The Struggle, The Triumph. New York: Franklin Watts. ISBN 978-0531152454.
- Juckes, Tim (1995). Opposition in South Africa: The Leadership of Matthews, Nelson Mandela, and Stephen Biko. Westport: Praeger Publishers.
- Mandela, Nelson (1995). Long Walk to Freedom. Little, Brown and Company. ISBN 0-316-54818-9.
- Meredith, Martin. Nelson Mandela: A Biography.
- Sampson, Anthony (1999). Mandela: The Authorised Biography. New York: Vintage Books. ISBN 0-679-78178-1.
- Smith, Charlene. Mandela: In Celebration of a Great Life.
- Stengel, Richard (2009). Mandela's Way: Fifteen Lessons on Life, Love, and Courage. Crown. ISBN 978-0307460684.
- Villa-Vicencio, Charles (1996). The Spirit of Freedom. Berkeley: University of California Press.
Liên kết ngoài
Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và tài liệu về: Nelson Mandela |
- Nelson Mandela – Biography at Nobelprize.org
- Nelson Mandela Foundation
- Nelson Mandela Children's Fund
- Nelson Mandela Children's Fund (Canada)
- Time 100 profile
- Mandela: An Audio History
- Mandela: Son of Africa, Father of a Nation Documentary & Soundtrack
- The Elders
- The Art of Nelson Mandela
- CBC Digital Archives – Nelson Mandela: Prisoner, president, peacemaker
- Nelson Mandela: A Hero's Way - Life magazine
- Martin Meredith: Nelson Mandela: A Biography - Interview May 2010
|
Wikimedia Commons có thêm thể loại hình ảnh và tài liệu về Nelson Mandela |
Thể loại:
Thiên hoàng Jimmu (Nhật: 神武天皇, Jinmu-tennō?, Thần Vũ Thiên Hoàng); còn gọi là: Kamuyamato Iwarebiko; tên thánh: Wakamikenu no Mikoto hay Sano no Mikoto, sinh ra theo ghi chép mang tính thần thoại trong Cổ Sự Ký vào 1 tháng 1 năm 711 TCN, và mất, cũng theo truyền thuyết, ngày 11 tháng 3, năm 585 TCN (cả hai đều theo âm lịch truyền thống Nhật Bản), là người sáng lập theo truyền thuyết của đất nước Nhật Bản, và là vị Thiên hoàng đầu tiên có tên trong Danh sách Thiên hoàng truyền thống.[1] Hoàng gia Nhật Bản
tuyên bố mình là hậu duệ của vua Jimmu. Không thể định rõ được ngày
tháng cuộc đời cũng như triều đại của vị Thiên hoàng này. Triều đại của Thiên hoàng Kimmei
(509? - 571), Thiên hoàng thứ 29 trong danh sách truyền thống, là triều
đầu tiên mà lịch sử đương đại có thể xác định thời gian thẩm tra được.[2]
Theo niềm tin Thần đạo, Jimmu được coi là hậu duệ trực tiếp của nữ thần Mặt trời Amaterasu. Amaterasu có một người con trai gọi là Ame no Oshihomimi no Mikoto rồi có một đứa cháu trai tên là Ninigi-no-Mikoto. Bà cử cháu mình đến quần đảo Nhật Bản, ở đây ông cưới Konohana-Sakuya-hime. Trong số 3 con trai của họ có Hikohohodemi no Mikoto, còn gọi là Yamasachi-hiko, sau này cưới Toyotama-hime. Bà là con gái của Ryūjin, thần biển Nhật Bản. Họ có một người con trai duy nhất tên là Hikonagisa Takeugaya Fukiaezu no Mikoto. Đứa bé bị cha mẹ từ bỏ ngay sau khi sinh và do đó được em gái của mẹ, Tamayori-hime, nuôi nấng. Họ cuối cùng cưới nhau và có 4 con trai. Người con út sau này trở thành Thiên hoàng Jimmu.
Người ta nói rằng ít lâu sau khi Thiên hoàng Jimmu lên nối ngôi, một Trưởng tế được bổ nhiệm (saishu). Cơ quan này thường do một người họ Nakatomi nắm giữ sau thế kỷ 8.[3]
Ngày mừng năm mới của Nhật Bản theo âm lịch được kỷ niệm làm ngày lên ngôi của Thiên hoàng Jimmu.
Năm 1872, triều đình Minh Trị tuyên bố lấy ngày 11 tháng 2 năm 660 TCN theo lịch Gregory làm ngày lập quốc. Ngày lễ bí ẩn này được kỷ niệm là ngày lễ Kigensetsu ("Kỷ nguyên tiết") từ năm 1872 đến năm 1948. Ngày lễ Kigensetsu năm 1940 ngày nay vẫn còn nhiều tranh cãi, nhưng vào đầu thời kỳ Chiêu Hoà, bất kỳ câu hỏi nào cũng bị bỏ qua vì toàn bộ quốc gia đều kỷ niệm năm thứ 2.600 ngày lên ngôi của Thiên hoàng Jimmu.[4]
Ngày lễ này bị đình chỉ sau Chiến tranh Thái Bình Dương, và việc kỷ niệm nó được phục hồi lại năm 1966 với cái tên Kenkoku Kinen no hi ("Kiến quốc kỷ niệm").
Ở Yamato, Nigihayahi no Mikoto, người cũng tự xưng là hậu duệ của thần Takamagahara, được Nagasunehiko bảo vệ. Tuy nhiên, khi Nigihayahi gặp Jimmu, chấp nhận tính hợp pháp của Thiên hoàng, và ông lên làm vua.
Lăng mộ (misasagi) chính thức của Thiên hoàng Jimmu, có thể tìm thấy ở Kashibara tại tỉnh Nara. Lăng mộ này nằm không xa đền Kashibara.
Theo Kojiki, Thiên hoàng Jimmu qua đời ở tuổi 126. Thụy hiệu của ông là “Jimmu” (Thần Vũ). Không nghi ngờ gì nữa cái tên này có dạng tiếng Hán và mang nội hàm Phật giáo, nghĩa là nó phải được hợp thức hóa hàng thế kỷ sau thời kỳ vẫn gán cho Thần Vũ, có lẽ là vào thời mà các huyền thoại về nguồn gốc của triều đại Yamato được biên soạn thành biên niên sử ngày nay vẫn gọi là Kojiki.[5]
- Sinh 1918
- Mất 2013
- Bất bạo động
- Tổng thống Nam Phi
- Người đoạt giải Nobel Hòa bình
- Nhà hoạt động nhân quyền
Thiên hoàng Jimmu
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Thiên hoàng Jimmu Jinmu-tennō 神武天皇 |
|
---|---|
Tranh in Thiên hoàng Jimmu, vào thời kỳ Minh Trị. |
|
Thiên hoàng đầu tiên của Nhật Bản | |
Tại vị | Huyền thoại |
Thiên hoàng Suizei | |
Thông tin chung | |
Sinh | 1 tháng 1, 711 TCN (huyền thoại) |
Mất | 11 tháng 3, 585 TCN (huyền thoại) |
An táng | Unebi-yama no ushitora no sumi no Misasagi (Nara) |
Mục lục
Truyện truyền thuyết
Thiên hoàng Jimmu được coi là một “Thiên hoàng truyền thuyết” vì có rất ít thông tin về ông, và cũng không nhất thiết ám chỉ rằng không có người nào như thế từng tồn tại. Hơn nữa, các học giả chỉ còn biết than vãn rằng, vào thời điểm này, không có đủ cứ liệu lịch sử để thẩm tra và nghiên cứu thêm.Theo niềm tin Thần đạo, Jimmu được coi là hậu duệ trực tiếp của nữ thần Mặt trời Amaterasu. Amaterasu có một người con trai gọi là Ame no Oshihomimi no Mikoto rồi có một đứa cháu trai tên là Ninigi-no-Mikoto. Bà cử cháu mình đến quần đảo Nhật Bản, ở đây ông cưới Konohana-Sakuya-hime. Trong số 3 con trai của họ có Hikohohodemi no Mikoto, còn gọi là Yamasachi-hiko, sau này cưới Toyotama-hime. Bà là con gái của Ryūjin, thần biển Nhật Bản. Họ có một người con trai duy nhất tên là Hikonagisa Takeugaya Fukiaezu no Mikoto. Đứa bé bị cha mẹ từ bỏ ngay sau khi sinh và do đó được em gái của mẹ, Tamayori-hime, nuôi nấng. Họ cuối cùng cưới nhau và có 4 con trai. Người con út sau này trở thành Thiên hoàng Jimmu.
Người ta nói rằng ít lâu sau khi Thiên hoàng Jimmu lên nối ngôi, một Trưởng tế được bổ nhiệm (saishu). Cơ quan này thường do một người họ Nakatomi nắm giữ sau thế kỷ 8.[3]
Ngày mừng năm mới của Nhật Bản theo âm lịch được kỷ niệm làm ngày lên ngôi của Thiên hoàng Jimmu.
Năm 1872, triều đình Minh Trị tuyên bố lấy ngày 11 tháng 2 năm 660 TCN theo lịch Gregory làm ngày lập quốc. Ngày lễ bí ẩn này được kỷ niệm là ngày lễ Kigensetsu ("Kỷ nguyên tiết") từ năm 1872 đến năm 1948. Ngày lễ Kigensetsu năm 1940 ngày nay vẫn còn nhiều tranh cãi, nhưng vào đầu thời kỳ Chiêu Hoà, bất kỳ câu hỏi nào cũng bị bỏ qua vì toàn bộ quốc gia đều kỷ niệm năm thứ 2.600 ngày lên ngôi của Thiên hoàng Jimmu.[4]
Ngày lễ này bị đình chỉ sau Chiến tranh Thái Bình Dương, và việc kỷ niệm nó được phục hồi lại năm 1966 với cái tên Kenkoku Kinen no hi ("Kiến quốc kỷ niệm").
Thiên hoàng Jimmu di cư
Ghi chép truyền thuyết trong Kojiki và Nihon Shoki cho chúng ta biết các anh của Thiên hoàng Jimmu ban đầu sinh ra ở Takachiho, phía Nam đảo Kyūshū (ngày nay là tỉnh Miyazaki), và quyết định đi về phía Đông, vì họ thấy vị trí của mình không thích hợp để trị vì toàn bộ đất nước. Anh trai của Jimmu, Itsuse no Mikoto ban đầu dẫn đầu đoàn di trú, và họ đi về phía Đông qua biển Seto với sự giúp đỡ của tù trưởng địa phương Sao Netsuhiko. Khi họ đến Naniwa (ngày nay là Ōsaka), họ đối mặt với một tù trưởng khác, Nagasunehiko (nghĩa là "người chân dài"), và Itsuse bị giết trong một trận giao tranh sau đó. Thiên hoàng Jimmu nhận ra rằng họ bị đánh bại vì họ đánh về phía Đông, chống lại thần Mặt trời, vì vậy họ quyết định đổ bộ xuống phía Đông bán đảo Kii và đánh về phía Tây. Họ đến Kumano, và với sự hướng dẫn của chim ba chân, Yatagarasu (tạm dịch “quạ 8 cánh”), đến được vùng đất Yamato. Ở đó, họ lại một lần nữa giao chiến với Nagasunehiko và giành chiến thắng.Ở Yamato, Nigihayahi no Mikoto, người cũng tự xưng là hậu duệ của thần Takamagahara, được Nagasunehiko bảo vệ. Tuy nhiên, khi Nigihayahi gặp Jimmu, chấp nhận tính hợp pháp của Thiên hoàng, và ông lên làm vua.
Lăng mộ (misasagi) chính thức của Thiên hoàng Jimmu, có thể tìm thấy ở Kashibara tại tỉnh Nara. Lăng mộ này nằm không xa đền Kashibara.
Theo Kojiki, Thiên hoàng Jimmu qua đời ở tuổi 126. Thụy hiệu của ông là “Jimmu” (Thần Vũ). Không nghi ngờ gì nữa cái tên này có dạng tiếng Hán và mang nội hàm Phật giáo, nghĩa là nó phải được hợp thức hóa hàng thế kỷ sau thời kỳ vẫn gán cho Thần Vũ, có lẽ là vào thời mà các huyền thoại về nguồn gốc của triều đại Yamato được biên soạn thành biên niên sử ngày nay vẫn gọi là Kojiki.[5]
Chú thích
- ^ Brown, Delmer et al. (1979). Gukanshō, p. 249; Varley, Paul. (1980). Jinnō Shōtōki, pp. 84-88; Titsingh, Isaac. (1834). Annales des empereurs du Japon, pp. 1-3.
- ^ Titsingh, pp. 34-36; Brown, pp. 261-262; Varley, pp. 123-124.
- ^ Brown, p. 249 n10.
- ^ Brownlee, John. Japanese Historians and the National Myths, 1600-1945: The Age of the Gods, pp. 136, 180-185.
- ^ Aston, William. (1896). Nihongi, pp. 109-137.
Tài liệu tham khảo
- Aston, William George. (1896). Nihongi: Biên niên sử Nhật Bản từ thời sơ khởi đến năm 697. London: Kegan Paul, Trench, Trubner. [reprinted by Tuttle Publishing, Tokyo, 2007. 10-ISBN 0-8048-0984-4; 13-ISBN 978-0-8048-0984-9 (paper)]
- Brown, Delmer M. and Ichirō Ishida, eds. (1979). [ Jien, c. 1220], Gukanshō (Tương lai và quá khứ, bản dịch và nghiên cứu về Gukanshō, lịch sử trình diễn Nhật Bản viets năm 1219). Berkeley: University of California Press. ISBN 0-520-03460-0
- Brownlee, John (1997). Các sử gia Nhật Bản và huyền thoại quốc gia, 1600-1945: Thời đại của các vị thần. Vancouver: University of British Columbia Press. ISBN 0-7748-0645-1
- Titsingh, Isaac, ed. (1834). [Siyun-sai Rin-siyo/Hayashi Gahō, 1652], Nipon o daï itsi ran; ou, Annales des empereurs du Japon. Paris: Hội nghiên cứu phương Đông Anh và Ireland....Bấm vào link để có một bản copy của cuốn sách đã được số hóa (tiếng Pháp)
- Varley, H. Paul , ed. (1980). [ Kitabatake Chikafusa, 1359], Jinnō Shōtōki ("Biên niên sử của các vị thần và các vị quốc chủ: Jinnō Shōtōki of Kitabatake Chikafusa" do H. Paul Varley dịch). New York: Nhà xuất bản Đại học Columbia. ISBN 0-231-04940-4
Xem thêm
Liên kết ngoài
|
Wikimedia Commons có thêm thể loại hình ảnh và tài liệu về Thiên hoàng Jimmu |
Thể loại:
Hoàng đế Thiệu Trị (16 tháng 6, 1807 – 4 tháng 10, 1847) là vị Hoàng đế thứ ba của nhà Nguyễn, trị vì từ năm 1841 đến 1847.
Sử sách nói vua Thiệu Trị là một người hiền hoà, siêng năng cần mẫn nhưng không có tính hoạt động như vua cha. Vả chăng, mọi định chế pháp luật, hành chính, học hiệu, điền địa và binh bị đều được sắp đặt khá quy củ từ thời Minh Mạng, Thiệu Trị chỉ áp dụng theo các định lệ của tiên đế, không có sự cải cách, thay đổi gì mới. Bầy tôi lúc bấy giờ có Trương Đăng Quế, Lê Văn Đức, Doãn Uẩn, Võ Văn Giải, Nguyễn Tri Phương và Lâm Duy Tiếp ra sức giúp rập.
Thiệu Trị cũng nổi tiếng là một vị vua thi sĩ, có để lại rất nhiều bài thơ, nổi tiếng nhất là 2 bài thơ chữ Hán có tên là Vũ Trung Sơn Thủy (Cảnh trong mưa) và Phước Viên Văn hội lương dạ mạn ngâm (Đêm thơ ở Phước Viên). Cả 2 bài không trình bày theo lối thường mà viết thành 5 vòng tròn đồng tâm, mỗi vòng tròn có 1 số chữ, đếm mỗi bài có 56 chữ, ứng với một bài thơ thất ngôn bát cú, nhìn vào như một “trận đồ bát quái”, vua có chỉ cách đọc và đố là kiếm ra 64 bài thơ trong đó nhưng tới nay chưa ai tìm ra được.
Dưới thời vua Thiệu Trị, đất Nam Kỳ có nhiều giặc giã, dân Chân Lạp nổi loạn và quân Xiêm La sang đánh phá. Nhà vua phải dùng binh đánh dẹp, tới năm Thiệu Trị thứ bảy 1847 mới yên được.
Từ khi Thiệu Thị lên ngôi thì việc cấm đạo Thiên Chúa bớt đi, nhưng triều đình vẫn không có cảm tình với Thiên Chúa giáo, và những giáo sĩ ngoại quốc vẫn còn bị giam ở Huế. Có người báo tin đó cho trung tá Pháp là Favin Lévêque coi tàu Héroïne. Trung tá Favin Lévêque đem tàu vào Đà Nẵng xin cho năm người giáo sĩ được tha. Năm Thiệu Trị thứ 5 – Ất Tỵ 1845, có người Giám mục tên Lefèbvre phải án xử tử. Thiếu tướng nước Pháp là Cécile biết, sai quân đem tàu Alcmène vào Đà Nẵng đón Giám mục ra.
Năm Đinh Vị 1847, khi người Pháp biết rằng ở Huế không còn giáo sĩ bị giam nữa, mới sai đại tá De Lapierre và trung tá Rigault de Genouilly đem hai chiếc chiến thuyền vào Đà Nẵng, xin bỏ những chỉ dụ cấm đạo và để cho người trong nước được tự do theo đạo mới.
Khi hai bên còn đang thương nghị về việc này thì quan nước Pháp thấy thuyền của Đại Nam đóng gần tàu của Pháp và ở trên bờ lại thấy có quân đắp đồn lũy, nghĩ rằng có âm mưu bèn phát súng bắn đắm cả những thuyền ấy, rồi nhổ chạy ra biển. Vua Thiệu Trị thấy vậy tức giận, có dụ ra cấm người ngoại quốc vào giảng đạo và trị tội những người trong nước đi theo đạo. Những sự kiện này mở đầu “đường lối ngoại giao pháo hạm” của thực dân Pháp, báo hiệu trước những hành động xâm lược về sau này.
Một vài tháng sau Thiệu Trị lâm bệnh nặng. Theo sử nhà Nguyễn, con trai trưởng của ông là Nguyễn Phúc Hồng Bảo, một người ham chơi, mê cờ bạc, không chịu học hành. Vì vậy khi gọi các quan Trương Đăng Quế, Võ Văn Giải, Nguyễn Tri Phương và Lâm Duy Hiệp vào trăng trối, Thiệu Trị để di chiếu truyền ngôi cho con thứ là Nguyễn Phúc Hồng Nhậm. Hồng Bảo được tin đem binh vào, nhưng bị quan Phạm Thế Lịch giữ lại. Một mình Hồng Bảo vào lạy lục vua cha Thiệu Trị, nhưng ông quay mặt đi không trả lời. Hồng Bảo bị Phạm Thế Lịch và Vũ Văn Giải đưa vào hậu cung và giữ ở đó.
Thiệu Trị qua đời ngày 27 tháng 9 năm Đinh Mùi, tức 4 tháng 10 năm 1847, hưởng thọ 41 tuổi, miếu hiệu là Hiến Tổ(憲祖). Thụy hiệu của ông là Thiệu thiên Long vận Chí thiện Thuần hiếu Khoan minh Duệ đoán Văn trị Vũ công Thánh triết Chương Hoàng đế (紹天隆運至善淳孝寬明睿斷文治武功聖哲章皇帝). Sau khi mất, bài vị nhà vua được đưa vào thờ trong Thế Miếu. Lăng của ông là Xương Lăng, tọa lạc tại làng Cư Chánh, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên.
Ngoài ra; ông còn các bà khác:
Hoàng tử
Trở về trang chính
Hoàng Kim, Ngọc Phương Nam, Thung dung, Dạy và học, Cây Lương thực, Học mỗi ngày, Danh nhân Việt, Food Crops News, KimTwitter, KimFaceBook, CassavaViet, foodcrops.vn
Thiệu Trị
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Xin xem các mục từ khác có tên tương tự ở Thiệu Trị (định hướng).
Nguyễn Hiến Tổ | ||
---|---|---|
Hoàng đế Việt Nam (chi tiết...) | ||
Hoàng đế nhà Nguyễn | ||
Trị vì | 1841 – 1847 | |
Tiền nhiệm | Minh Mạng | |
Kế nhiệm | Tự Đức | |
Thông tin chung | ||
Thê thiếp | Nghi Thiên Chương hoàng hậu Lệnh phi Nguyễn Thị Nhiệm Thục phi Nguyễn Thị Xuyên Lương phi Vũ Thị Viên Đức tần Nguyễn Thị Huyên Và một số bà khác.... |
|
Hậu duệ |
|
|
Tên thật | Nguyễn Phúc Miên Tông | |
Niên hiệu | Thiệu Trị: 1841 - 1847 | |
Thụy hiệu | Chương Hoàng đế | |
Miếu hiệu | Hiến Tổ | |
Triều đại | Nhà Nguyễn | |
Hoàng gia ca | Đăng đàn cung | |
Thân phụ | Minh Mạng | |
Thân mẫu | Tá Thiên Nhân hoàng hậu Hồ Thị Hoa | |
Sinh | 16 tháng 6 năm 1807 Huế, Việt Nam |
|
Mất | 4 tháng 10, 1847 (40 tuổi) Huế, Việt Nam |
|
An táng | Xương Lăng | |
Tôn giáo | Nho giáo |
Mục lục
Thân thế
Thiệu Trị (chữ Hán: 紹治;) tên húy là Nguyễn Phúc Miên Tông (阮福綿宗), ngoài ra còn có tên là Nguyễn Phúc Tuyền (阮福暶) và Dung. Ông là con trưởng của vua Minh Mạng và Tá Thiên Nhân Hoàng hậu Hồ Thị Hoa, sinh ngày 11 tháng 5 năm Đinh Mão, tức 16 tháng 6 năm 1807, tại Huế. 13 ngày sau khi sinh hạ Miên Tông, thân mẫu của ông mất.Trị vì
Khi vua Minh Mạng qua đời, Nguyễn Phúc Miên Tông được di mệnh nối ngôi lấy niên hiệu là Thiệu Trị. Vua Thiệu Trị lên ngôi ngày 20 tháng giêng năm Tân Sửu tức 11 tháng 2 năm 1841 ở điện Thái Hòa, vừa đúng 34 tuổi.Sử sách nói vua Thiệu Trị là một người hiền hoà, siêng năng cần mẫn nhưng không có tính hoạt động như vua cha. Vả chăng, mọi định chế pháp luật, hành chính, học hiệu, điền địa và binh bị đều được sắp đặt khá quy củ từ thời Minh Mạng, Thiệu Trị chỉ áp dụng theo các định lệ của tiên đế, không có sự cải cách, thay đổi gì mới. Bầy tôi lúc bấy giờ có Trương Đăng Quế, Lê Văn Đức, Doãn Uẩn, Võ Văn Giải, Nguyễn Tri Phương và Lâm Duy Tiếp ra sức giúp rập.
Thiệu Trị cũng nổi tiếng là một vị vua thi sĩ, có để lại rất nhiều bài thơ, nổi tiếng nhất là 2 bài thơ chữ Hán có tên là Vũ Trung Sơn Thủy (Cảnh trong mưa) và Phước Viên Văn hội lương dạ mạn ngâm (Đêm thơ ở Phước Viên). Cả 2 bài không trình bày theo lối thường mà viết thành 5 vòng tròn đồng tâm, mỗi vòng tròn có 1 số chữ, đếm mỗi bài có 56 chữ, ứng với một bài thơ thất ngôn bát cú, nhìn vào như một “trận đồ bát quái”, vua có chỉ cách đọc và đố là kiếm ra 64 bài thơ trong đó nhưng tới nay chưa ai tìm ra được.
Dưới thời vua Thiệu Trị, đất Nam Kỳ có nhiều giặc giã, dân Chân Lạp nổi loạn và quân Xiêm La sang đánh phá. Nhà vua phải dùng binh đánh dẹp, tới năm Thiệu Trị thứ bảy 1847 mới yên được.
Từ khi Thiệu Thị lên ngôi thì việc cấm đạo Thiên Chúa bớt đi, nhưng triều đình vẫn không có cảm tình với Thiên Chúa giáo, và những giáo sĩ ngoại quốc vẫn còn bị giam ở Huế. Có người báo tin đó cho trung tá Pháp là Favin Lévêque coi tàu Héroïne. Trung tá Favin Lévêque đem tàu vào Đà Nẵng xin cho năm người giáo sĩ được tha. Năm Thiệu Trị thứ 5 – Ất Tỵ 1845, có người Giám mục tên Lefèbvre phải án xử tử. Thiếu tướng nước Pháp là Cécile biết, sai quân đem tàu Alcmène vào Đà Nẵng đón Giám mục ra.
Năm Đinh Vị 1847, khi người Pháp biết rằng ở Huế không còn giáo sĩ bị giam nữa, mới sai đại tá De Lapierre và trung tá Rigault de Genouilly đem hai chiếc chiến thuyền vào Đà Nẵng, xin bỏ những chỉ dụ cấm đạo và để cho người trong nước được tự do theo đạo mới.
Khi hai bên còn đang thương nghị về việc này thì quan nước Pháp thấy thuyền của Đại Nam đóng gần tàu của Pháp và ở trên bờ lại thấy có quân đắp đồn lũy, nghĩ rằng có âm mưu bèn phát súng bắn đắm cả những thuyền ấy, rồi nhổ chạy ra biển. Vua Thiệu Trị thấy vậy tức giận, có dụ ra cấm người ngoại quốc vào giảng đạo và trị tội những người trong nước đi theo đạo. Những sự kiện này mở đầu “đường lối ngoại giao pháo hạm” của thực dân Pháp, báo hiệu trước những hành động xâm lược về sau này.
Một vài tháng sau Thiệu Trị lâm bệnh nặng. Theo sử nhà Nguyễn, con trai trưởng của ông là Nguyễn Phúc Hồng Bảo, một người ham chơi, mê cờ bạc, không chịu học hành. Vì vậy khi gọi các quan Trương Đăng Quế, Võ Văn Giải, Nguyễn Tri Phương và Lâm Duy Hiệp vào trăng trối, Thiệu Trị để di chiếu truyền ngôi cho con thứ là Nguyễn Phúc Hồng Nhậm. Hồng Bảo được tin đem binh vào, nhưng bị quan Phạm Thế Lịch giữ lại. Một mình Hồng Bảo vào lạy lục vua cha Thiệu Trị, nhưng ông quay mặt đi không trả lời. Hồng Bảo bị Phạm Thế Lịch và Vũ Văn Giải đưa vào hậu cung và giữ ở đó.
Thiệu Trị qua đời ngày 27 tháng 9 năm Đinh Mùi, tức 4 tháng 10 năm 1847, hưởng thọ 41 tuổi, miếu hiệu là Hiến Tổ(憲祖). Thụy hiệu của ông là Thiệu thiên Long vận Chí thiện Thuần hiếu Khoan minh Duệ đoán Văn trị Vũ công Thánh triết Chương Hoàng đế (紹天隆運至善淳孝寬明睿斷文治武功聖哲章皇帝). Sau khi mất, bài vị nhà vua được đưa vào thờ trong Thế Miếu. Lăng của ông là Xương Lăng, tọa lạc tại làng Cư Chánh, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên.
Gia quyến
Vua Thiệu Trị có rất nhiều vợ. Hoàng hậu của ông là Nghi Thiên Chương Hoàng Hậu Phạm Thị Hằng, con ngài Lễ bộ thương thư Phạm Đăng Hưng. Lăng của Thái hoàng thái hậu phía trái điện Xương Lăng. Hoàng hậu được tôn thờ tại Hữu Nhất Án tại Thái Miếu trong Đại nội của Kinh thành Huế.Ngoài ra; ông còn các bà khác:
Phi
- Lệnh phi Nguyễn Thị Nhiệm, người An Giang, con của Kinh môn Quận công Nguyễn Văn Nhân, tiến cung cùng lúc với bà Nghi Thiên hoàng hậu; nhưng chức tước của cha bà lớn hơn của cha bà Nghi Thiên, nên ban đầu bà ở trên bà Nghi Thiên. Nhưng về sau Nghi Thiên hoàng hậu sinh được 1 hoàng tử và 3 công chúa liên tiếp, còn bà chỉ sinh được một công chúa là Nguyễn Phúc Nhàn Yên; phong hiệu An Thạch công chúa; nên bà Nghi Thiên được phong Hoàng quý phi, tiếp quản hậu cung, ở trên bà.
- Thục phi Nguyễn Thị Xuyên (24/7/1808 - 30/9/1885), thụy hiệu Ý Thuận, mộ tại Dương Xuân Thượng, Hương Thủy, Thừa Thiên.
- Lương phi Vũ Thị Viên, người huyện Hương Trà (tỉnh Thừa Thiên), con gái của Phó vệ úy Vũ Hữu Linh.
Tần
- Đức tần Nguyễn Thị Huyên, là người gốc tỉnh Thừa Thiên, nhưng từ đời ông nội đã vào Gia Định. Bà con của Cai cơ Nguyễn Đức Xuyên.
- Đoan tần Trương Thị Hận (16/2/1817 - 2/1/1889), người Tống Sơn, con gái của Vệ úy Minh Đức Hầu Trương Văn Minh, mẹ là bà Vũ Thị Tôn. Tẩm ở Dương Xuân Hạ, Hương Thủy, Thừa Thiên. Đến năm Đinh tị (1917) cải táng về Long Khê, Hương Trà, Thừa Thiên.
- Nhu tần Nguyễn Thị Yên, người Lệ Thủy (Quảng Bình), chị của Thục phi Nguyễn Thị Xuyên.
- Nhàn tần Phan Thị Kháng, người huyện Diên Phước (Quảng Nam), là con gái của Cẩm y vệ hiệu úy Phan Văn Phụng.
- Thuận tần Hoàng Thị Tần, có húy là Tường Vi, người huyện Lệ Thủy, là con gái của Cẩm y thiên bộ Hoàng Văn Quý.
Tiệp dư
- Nguyễn Thị Loan
Quý nhân
- Ngô Thị Xuân
Tài nhân
- Phan Thị Thục
- Đỗ Thị Trinh
- Trương Thị Thúy
- Nguyễn Thị Phương
- Trương Thị Lương
- Vũ Thị Duyên
- Phan Thị Vị
- Trần Thị Sâm
- Trương Thị Vĩnh
- Nguyễn Thị Kinh
- Nguyễn Thị Khuê
- Phan Thị Diệu
Hoàng tử
|
|
Tham khảo
Liên kết ngoài
|
Wikimedia Commons có thêm thể loại hình ảnh và tài liệu về Thiệu Trị |
Thể loại:
Video yêu thích http://www.youtube.com/user/hoangkimvietnam
Trở về trang chính
Hoàng Kim, Ngọc Phương Nam, Thung dung, Dạy và học, Cây Lương thực, Học mỗi ngày, Danh nhân Việt, Food Crops News, KimTwitter, KimFaceBook, CassavaViet, foodcrops.vn
No comments:
Post a Comment