Saturday, July 12, 2014

Chào ngày mới 9 tháng 7

Argunov Ekaterina Alekseevna.jpg
CNM365 Chào ngày mới 9 tháng 7 Wikipedia Ngày này năm xưa. Ngày Độc lập tại Argentina (1816) và Nam Sudan (2011). Năm 455 – Tổng tư lệnh quân đội La Mã Avitus lên ngôi hoàng đế Đế quốc Tây La Mã tại Toulouse. Năm 1762 – Hoàng hậu Ekaterina II (hình) được tôn làm Nữ hoàng Nga, chồng của bà là Sa hoàng Pyotr III bị bắt giam. Năm 1877Giải Vô địch Wimbledon đầu tiên khởi tranh, hiện là giải lâu đời nhất và có uy tín nhất của môn quần vợt. Năm 1944Chiến tranh thế giới thứ hai: Các lực lượng Hoa Kỳ chiếm đảo Saipan thuộc Quần đảo Mariana từ Nhật Bản.

Ekaterina II của Nga

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Ekaterina II Đại đế
Екатерина II Великая
Argunov Ekaterina Alekseevna.jpg
Ekaterina II Đại đế sau khi mới lên ngôi (1762).
Nữ hoàng nước Nga
Trị vì 9 tháng 7 [ 28 tháng 6] năm 176217 tháng 11 [ 6 tháng 11] năm 1796
Đăng quang 12 tháng 9 năm 1762
Tiền nhiệm Pyotr III Vua hoặc hoàng đế
Kế nhiệm Pavel I Vua hoặc hoàng đế
Hoàng hậu nước Nga
Ở ngôi 25 tháng 12 năm 17619 tháng 7 năm 1762
Thông tin chung
Phu quân
Tình nhân
Hậu duệ Pavel I của Nga Vua hoặc hoàng đế
Anna Petrovna
Aleksey Bobrinsky
Tên đầy đủ Sophie Friederike Auguste
Tước vị
Hoàng tộc Nhà Romanov
Nhà Ascania
Thân phụ Christian August, Vương công xứ Anhalt-Zerbst
Thân mẫu Johanna Elisabeth xứ Holstein-Gottorp
Sinh 2 tháng 5, 1729
Stettin, Pomerania, Vương quốc Phổ
Mất 6 tháng 11, 1796 (67 tuổi)
Sankt-Peterburg, Đế quốc Nga
An táng Đại giáo đường Thánh Phêrô và Phaolô tại Sankt-Peterburg
Tôn giáo Chính Thống giáo Nga
Ekaterina II (Tiếng Nga: Екатерина II Великая), còn gọi là Ekaterina Đại đế (Yekaterina II Velikaya) (2 tháng 5 năm 172917 tháng 11 năm 1796) là Nữ hoàng Nga, cai trị toàn bộ lãnh thổ đế quốc Nga từ 28 tháng 6 năm 1762 cho tới khi qua đời. Có thể nói bà là hiện thân của chế độ quân chủ chuyên chế Nga hoàng, tuy nhiên bà có công lớn trong việc đưa nước Nga thực sự trở thành một cường quốc tại châu Âu vào thế kỷ 18. Dưới triều đại của bà, Quân đội Nga đánh tan tác quân Thổ Ottoman.[1]

Trước khi lên ngôi Nữ hoàng

Bà có tên khai sinh là Sophie Friederike Auguste von Anhalt-Zerbst-Dornburg, xuất thân từ một gia đình quý tộc Phổ. Thân phụ là Christian August, Vương công xứ Anhalt-Zerbst. Ông phục vụ triều đình Phổ và được phái làm Toàn quyền xứ Stettin (nay là Szczecin, Ba Lan). Sophie chào đời tại Stettin vào ngày 9 tháng 7 (theo lịch cũ là ngày 28 tháng 6) năm 1762. Bởi những toan tính ngoại giao chiến lược, khi mới 14 tuổi, Sophie đã bị sắp đặt sẽ cưới Thái tử của nước Nga. Năm 1744, Sophie tới Sankt Peterburg. Cùng năm, bà cải đạo sang Chính Thống giáo Nga. Với tôn giáo mới, bà có tên mới là Ekaterina.
Năm 1761, Nữ hoàng Elizaveta qua đời. Pyotr III lên kế ngôi, còn Ekaterina trở thành Hoàng hậu nước Nga. Pyotr III nguyên là Hoàng tử Karl Peter Ulrich, con trai của Công tước người Đức Charles FrederickAnna Petrovna (con gái đầu của Pyotr Đại đế và Nữ hoàng Ekaterina I). Từ nhỏ đến năm 14 tuổi, Karl sống trong Hoàng cung nước Phổ dưới triều vua Friedrich II Đại Đế. Năm 1742 được Nữ hoàng Elizaveta đưa trở về Nga, nhưng không thích cuộc sống nước Nga, khinh bỉ mọi thứ của nước Nga và chỉ tôn thờ nhà vua nước Phổ. Sofie, vợ ông thì ngược lại. Tuy xuất thân là một Quận chúa người Đức bà lại rất quan tâm tới nước Nga, nền văn hóa Nga và phong tục tập quán của nước Nga.
Nước Nga lúc bấy giờ đã tham gia cuộc chiến tranh Bảy năm (1756 - 1763), với ý tưởng cùng nước Áo chia cắt nước Phổ, và vào năm 1761, nhờ thiên tài quân sự của vua Friedrich II Đại Đế nên nước Phổ chặn đứng được liên quân Nga - Áo - Pháp - Thụy Điển - Sachsen. Tuy nhiên, do nhiều khó khăn nên cuối cùng nước Phổ dường như đã đứng trước nguy cơ thất bại, đến nỗi có lúc ông ta từng nghĩ đến chuyện nhận lấy cái chết của Cato Trẻ.[2] Song, toàn bộ liên quân chống Phổ lúc bấy giờ đều kiệt quệ cả, nước Nga mất vô số nhân lực và tiền của, nên họ vẫn không thể diệt được nước Phổ. Không những thế, vào ngày 5 tháng 1 năm 1762, Nữ hoàng Elizaveta Petrovna qua đời, Nga hoàng Pyotr III lên nối ngôi vua.[3]
Ngay lập tức Nga hoàng Pyotr III tiến hành đàm phán với nước Phổ; không những thế, ông còn ký hòa ước liên minh với Phổ chống lại Áo - trước đây không lâu đã từng là liên minh của mình, và hoàn trả hết đất đai đã bị Quân đội Nga chiếm đóng cho vua Phổ Friedrich II Đại Đế.[3] Những hoạt động bài Nga và chính sách đối ngoại của Pyotr III đã gây công phẫn trong hàng ngũ sĩ quan, giới quý tộcSankt-Peterburg và giới tăng lữ. Một âm mưu lật đổ vị Hoàng đế mới lên ngôi được hình thành do chính Hoàng hậu Ekaterina đứng đầu. Người ta đã đồn rằng bà sẽ đưa nước Nga gia nhập trở lại với liên minh chống Phổ.[3]

Lên ngôi Nữ hoàng Nga

Ekaterina II trong trang phục sĩ quan
Ekaterina là một người đàn bà thông minh, quyết đoán. Những người ủng hộ bà là quý tộc trong triều đình và các sỹ quan cận vệ. Sáng ngày 28 tháng 6 năm 1762, Ekaterina mặc quân phục sĩ quan cưỡi ngựa đến doanh trại các trung đoàn cận vệ đọc tuyên cáo lên án chính sách chống lại nước Nga của chồng mình là Pyotr III. Quân cận vệ tuyên thệ trước Ekaterina và tôn bà lên làm Nữ hoàng nước Nga. Nga hoàng Pyotr bị bắt giam và một tuần sau bị giết trong một vụ ẩu đả vì say rượu. Ekaterina II lên ngôi, rút đạo quân Nga giúp Phổ về nước, nhưng nước Nga thôi không tham gia cuộc chiến tranh 7 năm với Phổ nữa. Tuy không xâm lược được những vùng đất mới nhưng một loạt chiến thắng và chiến bại của quân đội Nga đã đưa Đế quốc Nga trở thành liệt cường hùng mạnh nhất của vùng Đông Âu, và sẽ còn là mối đe dọa lớn nhất đối với Vương quốc Phổ, đồng thời làm suy giảm thế mạnh của một cường quốc cũng chính là đồng minh của nước Nga - nước Pháp.[3][4][5]
Ekaterina II thưởng công rất hậu cho những sĩ quan cận vệ đã đưa mình lên ngôi Nữ hoàng nước Nga. Bà phân phát cho giới quý tộc hơn 80 vạn nông dân, miễn cho giới quý tộc mọi nghĩa vụ quân dịch và công vụ. Đối với nông dân thì Nữ hoàng thẳng tay đàn áp, bắt lính hoặc đưa đi Xibia làm khổ sai. Dưới thời trị vì của bà nổi lên nhiều địa chủ ác bá mà điển hình là bà Saltukova ở Moskva, người đã cướp đi sinh mạng của 75 nông dân. Bà đánh đập nông dân rất dã man, đổ nước sôi lên người họ, bắt họ ở trần đứng ở ngoài trời băng giá. Các địa chủ buôn bán nông dân như buôn bán nô lệ, đổi nông dân lấy chó săn, gán nông dân vào các cuộc đỏ đen là chuyện thường tình. [cần dẫn nguồn]
Thấu hiểu nỗi thống khổ của nông dân, một người Cozak vùng sông ĐôngYemyelyan Ivanovich Pugachyov đã phát động nông dân vùng lên chống lại sự bóc lột của địa chủ. Đến tháng 3 năm 1774, quân nổi dậy đã lên đến 5 vạn người. Pugachyov thành lập một quân đội phiên chế thành những trung đoàn, đại đội và những đơn vị nhỏ hơn, tổ chức cho quân nổi dậy luyện tập quân sự. Quân lính của Pugachyov hoạt động trên một địa bàn rộng lớn ở vùng núi Ural và ngoại sông Volga, chiếm được nhiều thành phố và đánh bại nhiều đơn vị hải quân của triều đình Nga. Ekaterina II ngừng chiến với đế quốc Ottoman và điều các tướng lĩnh dày dặn thao lược cầm quân đi đàn áp quân nổi dậy. Yếu thế, quân nổi dậy Pugachyov bị đánh bại phải lánh về Ural, rồi phải chạy qua Volga về phương Nam. Đến tháng 8 năm 1774, quân khởi nghĩa hầu như bị dẹp tan. Vị thủ lĩnh nổi dậy bị phản bội, giữa đêm bị bắt nộp cho Nữ hoàng. Yemyelyan Ivanovich Pugachyov bị bắt nhốt trong cũi sắt đưa về thành phố Moskva và tháng 1 năm sau bị hành hình. [cần dẫn nguồn]
Lo sợ trước phong trào nổi dậy của nhân dân, Nữ hoàng Ekaterina II tiến hành hàng loạt biện pháp để củng cố chế độ chuyên chế và chế độ nông nô. Nước Nga dưới thời trị vì của bà được chia ra làm 50 tỉnh (mỗi tỉnh gồm khoảng 40 vạn dân) để dễ bề cai trị, tỉnh lại chia ra làm các huyện nhỏ khoảng 3 vạn dân. Tỉnh và huyện nào cũng có Quân độicảnh sát để ngăn chặn các cuộc nổi loạn. [cần dẫn nguồn]

Chính sách đối nội

Trong những năm đầu trị vì nước Nga, Nữ hoàng Ekaterina II muốn được tôn vinh làm Nữ hoàng khai sáng cho đất nước. Về đối nội, bà lấy chính sách ngu dân để trị nước, trong ý nghĩ luôn khẳng định rằng nô lệ và đầy tớ tồn tại từ thở khai thiên lập địa, song bề ngoài tỏ ra là người chủ trương nâng cao dân trí cho nước nhà.[cần dẫn nguồn] Đó là việc Nữ hoàng mời nhà triết học người Pháp Denis Diderot (1713-1784), người sáng lập Bộ bách khoa toàn thư các ngành khoa học, nghệ thuật và các nghề thủ công sang Sankt-Peterburg để xuất bản cuốn Bách khoa toàn thư; trao đổi thư từ với nhà văn, nhà khai sáng Pháp Voltaire (1694-1778), được nhà triết học này mệnh danh là "Semiramis của phương Bắc"[6][7]. Bà cũng say mê đọc các tác phẩm của Montesquieu (1689-1775), v.v... Ý tưởng khai sáng của các nhà tư tưởng Pháp được Nữ hoàng lý giải theo cách riêng của mình, lại cố tìm trong các tác phẩm của họ những điều có thể biện minh cho chế độ chuyên chế và chế độ nông nô đang tồn tại ở nước Nga bấy giờ.
Ekaterina II công khai thi hành chính sách củng cổ trật tự nhà nước phong kiến. Các tạp chí của nhà khai sáng Nga Nikolay Ivanovich Novikov (1744-1818) bị cấm vĩnh viễn năm 1773. Mùa thu năm đó, Diderot đến kinh đô Sankt-Peterburg cũng không thỏa thuận được với Nữ hoàng về việc xuất bản bộ Bách khoa toàn thư. Nhà tư tưởng Pháp đau lòng thốt lên: [cần dẫn nguồn]
Ôi, con mắt của nhà triết học và con mắt của nhà độc tài nhìn nhận sự vật thật là khác nhau!
Năm 1789 cuộc Đại cách mạng Pháp nổ ra, và vua Louis XVI bị chém đầu năm 1793. Pháp được công bố là nước cộng hòa, chế độ phong kiến sụp đổ. Ảnh hưởng của cuộc Đại cách mạng Pháp như một làn gió tràn vào nước Nga im lìm sau khi nghĩa quân Pugatsov bị đàn áp. Viên sĩ quan S.N. Glinka dịch bài ca cách mạng La Marseillaise ra tiếng Nga. Nhà văn Ia. B. Kniazhnin viết vở bi kịch Vadim Novgrodski kêu gọi lật đổ chế độ quân chủ chuyên chế và thiết lập nền cộng hòa. Là người kinh bang kế thế nhưng lúc này Ekaterina II cảm thấy lo sợ trước nguy cơ nổi loạn. Với bên ngoài, Ekaterina II kêu gọi các vua chúa châu Âu ủng hộ để giải phóng nước Pháp thoát khỏi "những tên cướp" và khôi phục chế độ quân chủ; bên trong thì ra sức đàn áp hòng dập tắt mầm móng khởi nghĩa: giam cầm Novikov ở pháo đài Shlisselburgskaia còn nhà văn Kniazhnin bị bỏ tù và mất trong ngục năm 1790.
Năm 1790 cuốn sách Cuộc hành trình từ Sankt-Peterburg tới Moskva đến tay Ekaterina. Bà đọc xong cuốn sách và lên án gay gắt nhà văn và nhà tư tưởng Nga Aleksandr Nikolayevich Radishchev (1749-1802): "tác giả cuốn sách gieo rắc bệnh truyền nhiễm từ Pháp". Phẫn nộ trước một tiếng chuông báo hiệu sự lung lay của chế độ quân chủ chuyên chế ở Nga. Ekaterina cho rằng một tác giả phiến loạn còn tệ hơn cả Yemyelyan Ivanovich Pugachyov, ngay sau đó liền ra chiếu chỉ bắt và khép án tử hình nhà văn Radishchev, nhưng sợ làm quá tay có thể gây mầm mống nổi loạn, tức nước vỡ bờ nên giảm án tử hình xuống còn 10 năm đi lưu đày tại Xibia. [cần dẫn nguồn]
Cỗ xe ngựa kéo được Ekaterina II sử dụng trong ngày đăng quang, hiện đang được trưng bày tại bảo tàng Hermitage, Sankt-Peterburg
Từ nước Pháp dội tới nước Nga tin dữ đối với Ekaterina II và cả triều đình nước Nga. Tháng 1 năm 1793, vua Louis XVI bị tử hình, Ekaterina II bị cơn sốc thật sự và phát bệnh.[cần dẫn nguồn] Cả triều đình nước Nga để tang vua Pháp.[cần dẫn nguồn] Để giữ cho chế độ quân chủ nước Nga không trượt theo vết xe của nước Pháp, Ekaterina lập tức cắt quan hệ ngoại giaobuôn bán với nước Pháp. Những gì của nước Pháp cách mạng tồn tại trên nước Nga lúc này đều bị loại trừ. Những tác phẩm của các nhà tư tưởng và khai sáng nước Pháp đều có lệnh đưa ra khỏi thư viện và đem đốt đi. Nước Nga đón nhận hàng nghìn quý tộc Pháp sang cư trú. Bá tước của Artois em trai vua Louis XVI đến Sankt-Peterburg được đón tiếp nồng hậu. Nữ hoàng Ekaterina II trao cho bá tước một triệu ruble và một thanh kiếm có ghi dòng chữ ở lưỡi kiếm: Chúa phù hộ cho đức vua (ám chỉ Louis XVI). [cần dẫn nguồn]

Chính sách đối ngoại

Nếu trong lĩnh vực đối nội, Ekaterina không hoàn toàn thực hiện được những mong muốn của mình, thì trong lĩnh vực đối ngoại bà đã làm được nhiều thành tích hơn. Những sự thành công này một phần nhờ vào tài năng và sự lãnh đạo của Ekaterina, một phần cũng nhờ vào việc Ekaterina đã tập hợp được những cận thần xuất sắc và tài ba.[8] Đế quốc Nga dưới thời Ekatêrina II đã thưc hiện nhiều hoạt động bành trướng lãnh thổ và thôn tính được các khu vực Bắc ven biển Đen, Krym, Bắc Kavkaz, vùng lãnh thổ phía Tây Ukraina, Bạch Nga, Litva với tổng diện tích lên tới 518 nghìn cây số vuông (20 vạn dặm vuông).
Rõ ràng việc củng cố chế độ quân chủ chuyên chế là quốc sách đối nội đầu tiên của Ekaterina II. Trong chính sách bang giao với các nước châu Âu, Ekaterina II cũng đặt mục đích củng cố Đế quốc Nga trên vũ đài chính trị châu lục này, nhất là trong tình hình các cường quốc châu Âu có thuộc địa ở Nam ÁĐông Nam Á đang phát huy ảnh hưởng của mình, và Ekaterina II và triều đình Nga cảm thấy lo ngại trước tình thế lúc bấy giờ đối với nước Nga chưa có hải quân ở Kamchatkacảng trên bờ biển Okhotsk Thái Bình Dương. Nhìn chung tất cả những chính sách đối ngoại của Ekaterina hoàn toàn nhằm mục đích phục vụ cho cái mà bà coi là quyền lợi của nước Nga, và gốc tích dân tộc Đức dường không có ảnh hưởng gì đến quyết sách của nữ Nga hoàng[9].
Từ sau khi hoàn toàn thoát khỏi ách thống trị của đế quốc Mông Cổ, nước Nga phải đối phó với ba đối thủ chính trên lĩnh vực đối ngoại: đế quốc Ottoman, Vương quốc Ba Lan và Vương quốc Thụy Điển. Thụy Điển đã suy yếu sau khi bị Pyotr I đánh bại trong cuộc chiến tranh kéo dài 20 năm và không còn là vật cản trên con đường bành trướng của Nga nữa. Ba Lan cũng bị những mâu thuẫn nội bộ xâu xé và hoàn toàn nằm dưới sự bảo hộ của Nga từ thời Pyotr I. Chính sách của Nga đối với Ba Lan là duy trì một quốc gia Ba Lan nguyên vẹn nằm dưới tầm ảnh hưởng của Nga, mưu dùng Ba Lan làm một nước đệm ngăn cách Nga với các cường quốc châu Âu. Tuy nhiên, đổi lại Nga phải chấp nhận từ bỏ việc bành trướng sang phía Tây, điều mà Đại đế Ekaterina II ít mong muốn nhất.[8]
Lúc này chỉ còn thế lực của đế quốc Ottoman, đóng đô tại Thổ Nhĩ Kỳ.

Chiến tranh Nga-Thổ Nhĩ Kỳ

Đế quốc Ottoman cùng với chư hầu của mình là Hãn quốc Krym đã nắm giữ các lãnh thổ ở phía Nam Ukraina và chặn con đường tiến ra biển Đen của Nga. Do đó, Nga buộc phải khuất phục Thổ để mở con đường tiền xuống khu vực này. Trong khi Nga lên hàng liệt cường dưới các triều vua Pyotr I và Ekaterina II,[10] Thổ Nhĩ Kỳ là một đế quốc dai sức. Suốt từ thời Pyotr I, Nga đã nhiều lần lâm chiến với Thổ nhưng rốt cuộc cũng không thu được thành quả gì đáng kể. Và việc gây chiến với họ cũng động chạm tới quyền lợi của nhiều quốc gia châu Âu, từ Áo, Ba Lan, Phổ cho đến Anh, Thụy Điển. Vì vậy, chính phủ Nga hoàng không thể một mình gây chiến với Thổ mà phải kiếm tìm một liên minh vững chắc.[8][9]
Trước hết, nước Nga cần có một liên minh. Từ sau thời Pyotr I tới nay nước Nga luôn đứng giữa hai lựa chọn: 1) Áo, Pháp; 2) Anh, Phổ. Lần này, để nhanh chóng chấm dứt của cuộc chiến tranh Bảy năm với Áo và Pháp, Nữ hoàng Ekaterina II Đại Đế quyết định liên minh với Phổ dù trong chỉ dụ đầu tiên ngày 28 tháng 6 năm 1762, bà đã gọi vua Friedrich II Đại Đế là "kẻ thù tàn bạo nhất của nước Nga"[9].[11] Giành được sự ủng hộ của Phổ cũng cần thiết trong việc Ekaterina đưa Stanisław August Poniatowski - một kẻ không có cá tính và nghị lực lên làm vua Ba Lan hòng giúp Nga khống chế nước này.[9][12] Nhưng bực tức trước ý đồ nô dịch Ba Lan của các thế lực ngoại bang, giới quý tộc Ba Lan đã khích động nhân dân nổi dậy chống lại Poniatowski. Còn Pháp vì lo sợ liên minh Nga - Phổ nên đã phá Nga bằng cách ủng hộ Ba Lan và khích Thổ gây chiến chống Nga. Cuộc chiến tranh Nga - Thổ bùng nổ.
Với ưu thế về quân số, đế quốc Ottoman chủ động cắt quan hệ ngoại giao và đến tháng 9 năm 1768 họ tuyên chiến với Nga. Trong chiến tranh, quân Ottoman liên tiếp bị đánh bại bởi quân Nga dưới sự chỉ huy của các tướng lĩnh tài ba. Gôlítxưn đánh bại quân Ottoman trên sông Dnepr và tiến vào Moldavia, đánh bại quân chư hầu của Hãn quốc Krym và giành được chiến thắng quan trọng ở trận Kagul (1770). Đôngôruki chọc thủng phòng tuyến Pêrêkốp và tàn phá Krym. Một đạo quân Nga khác chiếm Benđơ và tràn vào Bungari (1771). Còn đô đốc Alêchxây Ooclôp đã tiêu diệt hạm đội Ottoman ở đảo Kiôxơ, trong trận Chesmen và kích động người dân ở Morea nổi loạn chống Sultan của đế quốc Ottoman (1770).[12] Sau đó chiến cuộc tạm dừng và hai bên mở một cuộc đàm phán, nhưng cuộc thương lượng nhanh chóng đi vào bế tắc và chiến tranh tiếp tục bùng nổ vào năm 1772. Tuy nhiên quân Ottoman lại tiếp tục thất bại. Đại quân Nga tràn vào Bungari. Trước tình cảnh đó, triều đình Ottoman hoảng sợ, họ buộc phải ký hòa ước Küçük Kaynarca (1774), từ bỏ các pháo đài tại Azov và tại Krym, thừa nhận nền độc lập của Hãn quốc Krym và mở cửa các cảng biển Đen cho tàu Nga ra vào.[12] Giờ đây, Đại đế Ekaterina II đã hoàn tất được mơ ước của Nga hoàng Pyotr I ngày xưa: mở một con đường ra biển Đen.
Sau cuộc chiến, Hãn quốc Krym nhanh chóng nằm dưới sự ảnh hưởng của Nga. Vào năm 1783, Krym chính thức trở thành một lãnh thổ của Nga dưới sự cai quản của Phó vương Grigory Patyómkin. Năm 1787, Patyómkin đã tổ chức một chuyến tuần du hoành tráng ở Krym với sự tham gia của các sứ thần Áo, Pháp và Anh nhằm phô diễn cho châu Âu thấy sự cường tráng của đế quốc Nga. Tuy nhiên chuyến tuần du đã khiến triều Ottoman tức giận và vào tháng 6 cùng năm, chiến tranh Nga - Thổ lại bùng nổ. Tuy nhiên quân Ottoman lại chịu nhiều thất bại thảm hại ở trên bộ lẫn trên biển trước các tướng Nga là Suvorov và Alêchxây Ooclôp. Cuối cùng, sau khi pháo đài quan trọng Ismail bị Nga chiếm vào tháng 12/1790, triều Ottoman phải ký hòa ước Iaşi vào ngày 9 tháng 1 năm 1792, qua đó họ phải cắt thêm một phần lãnh thổ nằm giữa hai con sông Buc Nam và sông Dnepr cho Nga, nơi sau này cảng Odessa được xây dựng.[13] Hòa ước này đã cho phép người Nga nắm quyền kiểm soát khu vực biển Đen.

Ba lần chia cắt Ba Lan

Hai năm trước khi cuộc chiến tranh lần đầu với đế quốc Ottoman kết thúc, quan hệ giữa Đế quốc Nga và Liên bang Ba Lan-Litva đã xảy ra một sự biến quan trọng: việc chia cắt Ba Lan lần thứ nhất (1772). Cuộc chiến tranh Bảy năm đã đem lại cho nước Nga một thành tựu là gạt bỏ hoàn toàn ảnh hưởng của nước Pháp và Thụy Điển vào Liên bang Ba Lan - Litva.[3] Ngay từ năm 1769, theo gợi ý của vua nước Phổ là Friedrich II Đại đế, ba liệt cường Nga, Áo, Phổ đã ngầm bàn thảo với nhau về việc chia sẻ lãnh thổ của Ba Lan. Sau khi đánh bại liên quân Nga - Áo - Pháp và xóa bỏ dự định chia cắt Vương quốc Phổ của liên quân này, vua Friedrich II Đại Đế lo sợ Quân đội Nga sẽ xâm chiếm kinh thành Constantinopolis của Đế quốc Ottoman, do đó ông đề nghị Nữ hoàng Ekaterina II Đại Đế phải trả giá cho những chiến thắng của bà trước quân Ottoman: cái giá đó là Vương quốc Ba Lan chứ không phải là Đế quốc Ottoman.[14] Vào năm 1770, ở miền Nam Ba Lan xảy ra một cuộc bạo loạn và vua Poniatowski yêu cầu Đế quốc Áo phái quân tới chi viện. Người Áo đã giúp Ba Lan dẹp cuộc nổi loạn, nhưng cũng thừa cơ chiếm luôn một phần lãnh thổ của Liên bang Ba Lan-Litva. Đế quốc Nga và Vương quốc Phổ nghe tin hết sức sốt ruột, liền triệu tập với Áo một cuộc hội nghị để bàn bạc việc chia xẻ lãnh thổ Ba Lan. Ngày 5 tháng 8 năm 1772, ba nước ký điều ước chia cắt Ba Lan. Liên bang Ba Lan-Litva lúc này đang suy yếu buộc phải chịu mất hai phần bảy lãnh thổ và 5 trong số 12 triệu dân. Đế quốc Nga được chia miền Tây Belarus (không bao gồm Minsk) rộng 92 nghìn cây số vuông với 1,3 triệu dân.[15][16]
Chịu ảnh hưởng của cuộc Đại cách mạng Pháp (1789), và đương lúc Nga còn đang bận bịu trong cuộc đàm phán với đế quốc Ottoman, nhân dân Ba Lan lại đứng lên khởi nghĩa (1791). Một đạo quân Nga được phái sang. Và kết quả là việc chia cắt Ba Lan lần thứ hai - sản phẩm của sự hợp tác giữa Nga với Phổ, nước mà trước đó không lâu vừa mới đứng về phía Thổ Nhĩ Kỳ trong cuộc chiến Nga - Thổ. Lần này Nga nhận được phần còn lại của Belarus, Ukraina và phân nửa xứ Livônia; tổng cộng Nga chiếm một vùng lãnh thổ rộng 25 vạn cây số vuông với 1 triệu dân.[16][17]
Không cam chịu, người Ba Lan lại nổi dậy, và lần này Nga lại tiếp tục cùng với Áo và Phổ thẳng tay đàn áp. Và việc chia cắt Ba Lan lần thứ ba diễn ra vào năm 1795, lúc này Nga được chia phần còn lại của xứ Livônia và miền Cuốclen với tổng diện tích 12 vạn cây số vuông và dân số 1,2 triệu người. Quốc gia Ba Lan độc lập bị xóa tên khỏi bản đồ châu Âu thời bấy giờ.[16][17]
Sau ba lần tham gia chia cắt Ba lan, Đế quốc Nga đã kiểm soát được một vùng lãnh thổ rộng đến 462000 cây số vuông với 3,5 triệu dân (62% diện tích và 45% dân số Ba Lan lúc đó)[16] bao gồm toàn bộ khu vực miền Đông Ban Tích, thay thế vai trò của Thụy Điển tại miền Ban Tích, cũng như thu hồi lại gần như toàn bộ lãnh thổ của nhà nước Nga Kiép xưa kia. Nhưng Nga cũng phải trả một cái giá lớn cho những gì mà nó giành được. Có nhận định cho rằng, những sự kiện diễn ra sau đó cho thấy Ekaterina đã phạm một sai lầm không thể sửa chữa được trong quan hệ với Ba Lan: vai trò chủ đạo của Ekaterina II trong các lần chia cắt Ba Lan đã để lại tác hại lâu dài trong quan hệ hai nước, gây ra mối thù hằn, ác cảm dai dẳng kéo dài cho đến tận ngày nay. Việc thống trị Ba Lan và các dân tộc vùng Baltic sẽ gây cho Nga nhiều vấn đề nan giải sau này. Đành rằng trước đây Ba Lan đã từng đem quân xâm lược Nga và đe dọa đến độc lập chủ quyền của Nga, nhưng sau đó Ba Lan đã bị Nga đánh bại và suy yếu. Kể từ thời vua Pyotr I Đại Đế, Ba Lan đã hoàn toàn nằm trong sự khống chế của Nga. Thêm nữa việc phân chia Ba Lan đã mang lại lợi ích lớn lao cho Vương quốc Phổ:[18] khu vực Pomerania và Đông Phổ đã được thống nhất về mặt lãnh thổ và tạo điều kiện thuận lợi cho việc tăng cường sức mạnh của mình. Điều này mang lại một mối đe dọa lớn đối với Đế quốc Nga vì sau vì ngay từ thế kỷ thứ 10, Đế quốc La Mã Thần thánhĐức Quốc xã sau này luôn theo đuổi chính sách "Đông tiến" đe dọa đến sự tồn vong của các dân tộc Xlavơ trong đó có người Nga.[19]

Quan hệ với các nước châu Âu

Mặc dù hiểu rõ "di sản" của chế độ quân chủ chuyên chế của mình, Đại đế Êkatêrina II luôn mong muốn các quốc gia khác công nhận Nga là một quốc gia chịu ảnh hướng của trào lưu Khai sáng. Bà biến nước Nga thành người hòa giải các mâu thuẫn và xung đột giữa các vương quốc châu Âu  – điều mà sau này vào thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20 nước Anh sẽ thực hiện. Vì vậy, Đại đế Ekaterina II đã đứng ra làm trọng tài trong cuộc Chiến tranh Kế vị Bayern giữa Đế quốc ÁoVương quốc Phổ (1778 - 1779); cũng như cuộc chiến tranh Bảy năm trước kia, nước Áo lại bị nước Phổ đánh bại trong cuộc chiến tranh này[20]. Năm 1780 bà lập ra Liên minh các nước trung lập vũ trang với mục đích bảo vệ những đội thuyền trung lập đến từ Hải quân Hoàng gia Anh trong cuộc Cách mạng Mỹ (1775 - 1783).
Bước vào thập niên 1780, Nữ hoàng Ekaterina II Đại Đế và Quốc vương Friedrich II Đại Đế là hai nhân vật duy nhất có uy thế anh hùng trên toàn cõi châu Âu. Nữ hoàng Áo Maria Theresia qua đời vào năm 1780, con bà là Hoàng đế Joseph II lên nắm Hoàng quyền. Vào năm 1781, liên minh phòng thủ Nga - Áo được thành lập, và liên minh Nga - Phổ bị xóa sổ.[21]
Vương quốc Thụy Điển vốn bị ảnh hưởng bởi nước Pháp nhưng với cuộc chiến tranh Bảy năm thì nước Nga đã xua tan ảnh hưởng này.[3] Từ năm 1788 đến 1790, Đế quốc Nga bị lôi kéo vào cuộc chiến tranh chống Vương quốc Thuỵ Điển dưới thời vua Gustav III, một người cháu gọi Đại đế Ekaterina II bằng dì. Lo lắng trước những chiến thắng liên tiếp và thanh thế càng lúc càng lớn của nước Nga trong cuộc chiến tranh chống Đế quốc Ottoman, các nước Phổ, Anh, Hà Lan đã đề nghị triều đình Gustav III xua quân tấn công Nga khi nước này còn đang bận bịu trong cuộc chiến tranh với Ottoman.[17]. Tuy nhiên, trái với dự tính của Gustav III, Quân đội Thụy Điển đã bị Hạm đội Baltic của Nga đánh bại. Việc Vương quốc Đan MạchNa Uy tuyên chiến với Thụy Điển vào năm 1788 (xem Cuộc chiến tranh Sân khấu), tình thế của Vương quốc Thụy Điển càng trở nên bi đát hơn. Tuy nhiên sau cùng thì người Đan Mạch cũng bị đẩy lui và vua Gustav III đập tan tác quân Nga tại Trận hải chiến Svensksund (1790). Hai nước quyết định ký Hòa ước Värälä (14/8/1790) với hiệu lực 20 năm, theo đó hai bên phải tôn trọng nguyên trạng lãnh thổ của đối phương như trước cuộc chiến tranh. Như vậy là Vương quốc Thụy Điển đã thoát khỏi số phận của Liên bang Ba Lan-Litva trước kia.[17].

Khu vực Thái Bình Dương

Tình hình từ cuối thập niên 1760 ở miền Bắc Thái Bình Dương khi Ekaterina II chưa lên ngôi đã đặt đế quốc Nga ở vào vị trí thua kém so với ba cường quốc Anh, PhápTây Ban Nha về chính sách gây ảnh hưởng của nước mình vượt ra ngoài biên giới. Chỉ vài năm sau khi Ekaterina II lên ngôi, chính phủ Tây Ban Nha đã phái 5 đoàn thám hiểm đến bờ biển bán đảo California phía Tây Bắc Mỹ vào năm 1769. Cũng vào khoảng thời gian đó để gây ảnh hưởng của đế quốc Nga ra bên ngoài, người Nga đã có đoàn thám hiểm eo biển giữa châu Áchâu Mỹ. Trong khi đi tìm eo biển này, người Nga đã bắt gặp một đoàn thám hiểm thứ ba do James Cook chỉ huy chỉ huy đã đặt chân lên bán đảo Alaska phía Tây Bắc châu Mỹ và bán đảo Kamchatka phía Đông Bắc châu Á. Thời gian này, các cường quốc cạnh tranh nhau ở châu Âu đã có thuộc địa của mình tại các nước Đông Nam Á và Ấn Độ. Dựa vào các thuộc địa này, các đại đế quốc châu Âu phát huy ảnh hưởng của mình trên vùng biển Thái Bình Dương một cách hiệu quả hơn. Tình hình này buộc đế quốc Nga không thể khoanh tay đứng nhìn các đại đế quốc châu Âu bỏ xa mình. Triều đình Nga hoàng của Ekaterina II ra tuyên bố chính thức với những phát hiện của người Nga ở vùng đất phía Tây Bắc Bắc Mỹ. Ngày 28 tháng 12 năm 1786, Nữ hoàng Nga ký chiếu chỉ điều từ biển Baltic một đoàn thám hiểm vòng quanh thế giới dưới sự chỉ huy của G.I. Mulovski đến bán đảo Kamchatka. Ủy ban Hải quân của Chính phủ Hoàng gia gửi tới Mulovski lời dặn nói rõ sau khi mô tả và ghi vào bản đồ những hòn đảo giữa Kamchatka và Nhật Bản thì phải đưa những hòn đảo ấy vào danh sách sở hữu Nhà nước của Đế chế Nga, cắm quốc huy và chôn xuống đất ở những nơi cần thiết những huy chương có ghi chữ Nga và chữ Latin. Cuộc chiến tranh Nga - Thổ Nhĩ Kỳ và Nga - Thụy Điển làm cho cuộc thám hiểm này không thực hiện được, song chủ trương chính sách đối ngoại của Đế quốc Nga chứng tỏ Ekaterina II vẫn tiếp tục chính sách của Pyotr Đại đế là khẳng định vị thế đại đế quốc của Nga trong châu Âu và bên ngoài châu Âu.
Cuối đời trong khi bài trừ ảnh hưởng của Đại cách mạng Pháp lan truyền sang nước Nga, Ekaterina II vẫn chủ trương tiếp tục củng cố vị trí đế quốc của Nga ở vùng biển Thái Bình Dương. Đặc biệt thời gian này (năm 1792) để mở rộng buôn bán ở khu vực Thái Bình Dương, một đoàn thám hiểm người Nga đã đặt chân đến đảo Hokkaido của Nhật Bản theo sáng kiến của viện sĩ Erik Laksman.

Sinh hoạt riêng tư

Ekaterina II và các tình nhân

Nữ hoàng Ekaterina II bị chỉ trích là rất phóng đãng trong cuộc sống riêng tư. Thậm chí, các nhà cách mạng Jacobin đã gọi bà là "Hoàng hậu Messalina của phương Bắc", ví bà với người vợ khét tiếng dâm đãng của Hoàng đế Claudius vào thời La Mã cổ đại.[7][22] Quả thực từ khi lấy chồng năm 15 tuổi cho đến lúc qua đời ở tuổi 67, Ekaterina có rất nhiều người tình, từ những đại quý tộc tài năng quyền cao chức trọng như Công tước Saltykov, Tư lệnh Grigôri Óoclôp, Phó vương Krym Patyómkin cho đến những kẻ bất tài và có cuộc sống riêng tư rất đáng ngờ[19]: Zavadovski (một cậu tình nhân rất trẻ), Zorick, Mamonov, Yermolof, Arkarov (một tên gián điệp), Landskov (một họa sĩ), Công tước Platon Alexandrovich Zubov (trẻ hơn bà tới gần 40 tuổi), v.v...
Người tình đầu tiên của Ekaterina II là một viên thượng quan trong triều - Bá tước Sergei Vasilievich Saltykov. Chính Ekaterina đã loan tin đồn rằng Pavel Petrovitch (tức Nga hoàng Pavel I) là kết quả của cuộc tình vụng trộm đó, dù Pavel giống hệt với vua cha Pyotr III về ngoại hình xấu xí và về trí lực thấp kém. Người yêu thứ hai của bà, người đã đưa bà đến ngôi Nữ hoàng nước Nga chính là một vị quan cao cấp trong triều, Grigori Orlov, anh ruột của đại úy Alexey Orlov trong Quân đội Nga hoàng. Hai người có với nhau một đứa con: Công tước Aleksey Grigorievich Bobrinsky. Người tình thứ ba là Vassiltchikov. Nữ hoàng Nga cũng có quan hệ tình cảm với Stanisław August Poniatowski, người được bà đưa lên làm vua Ba Lan. Bà và Poniatowski đã có với nhau một người con gái tên Anna.
Nhưng người tình có ảnh hưởng nhất tới bà chính là Nguyên soái Grigori Alexandrovich Patyómkin, Phó vương bán đảo Krym. Bản thân Patyómkin đã giúp Ekaterina chọn lựa những thanh niên xinh đẹp khỏe mạnh tới hầu hạ bà sau khi mối quan hệ giữa hai người kết thúc vào năm 1776.
Trái với tính keo kiệt của Pyotr I Đại đế, Ekaterina II đã làm hao tổn công quỹ không ít vì bà tổ ra rất hậu hĩnh với những người tình, ngay cả khi mối quan hệ giữa họ đã kết thúc. Ví dụ người tình Zavadovski đã nhận được một khoản tiền 5 vạn rúp, bổng lộc 5 nghìn rúp và đất đai với 4 nghìn nông nô sau khi kết thúc quan hệ với Nữ hoàng Nga. Tuy nhiên, không một người tình nào có thể ảnh hưởng đến các quyết sách của Ekaterina. Bà vẫn quyết định đưa Poniatowski lên ngôi vua Ba Lan bất chấp sự phản đối của Grigôri Óoclôp và bà lưu đày ông khi Grygory tự ý rời bỏ nhiệm sở. Bà thẳng tay bác những lời cầu xin của Patyómkin khi thấy chúng quá vô lý và đi ngược lại quyền lợi quốc gia. Và còn nhiều ví dụ khác nữa. Tất nhiên bà có thiên vị cho các tình nhân, bà ban chức tước bổng lộc cho họ, bước đường thăng quan tiến chức của họ diễn ra nhanh hơn, nhưng bà là Nga hoàng, chủ nhân của họ, ra các quyết sách theo ý kiến riêng của mình, chứ không phải theo các tình nhân.[23]
Một nhà nghiên cứu đã nhận xét như sau:
Lịch sử chân thật không nên chú tâm quá đáng đến nếp sinh hoạt của các vị vương nếu nếp sinh hoạt đó không ảnh hưởng nhiều đến diễn biến của các sự việc.

Nhận định

Nữ hoàng Ekaterina II là hiện thân của đế quốc Nga quân chủ chuyên chế.[24] Nhưng bên cạnh đó, hơn 30 năm trị vì của bà đã đưa nước Nga tiến lên một bước để trở thành cường quốc thực sự sánh vai với các cường quốc khác ở châu Âu cuối thế kỷ 18. Là nhà hoạt động nhà nước cơ mưu, Ekaterina II biết nhìn nhận nước Nga trong mối tương quan ở khu vực châu Âu và toàn cầu. Bà là một trong những vị Quân vương vĩ đại nhất và thành công nhất của châu Âu vào thế kỷ XVIII.[25] Nhưng mặt khác, xét trên bình diện phản tiến bộ, Ekaterina đã lợi dụng trí tuệ và nền văn minh thế kỷ Khai sángTây Âu để trị quốc, trấn áp những phong trào quần chúng và khởi nghĩa nông dân, bóp nghẹt các lực lượng tri thức chủ trương lật đổ chế độ quân chủ chuyên chế theo gương Cách mạng tư sản Pháp năm 1789.

Hình ảnh

Chú thích

  1. ^ David Williams, Simplified Astronomy for Astrologers, trnag 52
  2. ^ Gerhard Ritter, Frederick the Great: A Historical Profile, trang 124
  3. ^ a ă â b c d Stacy Bergstrom Haldi, Why wars widen: a theory of predation and balancing, các trang 31-32, trang 38.
  4. ^ William Young, German Diplomatic Relations 1871-1945: The Wilhelmstrasse and the Formulation of Foreign Policy, trang 6
  5. ^ Stephen J. Lee, Aspects of European history, 1494-1789, trang 177
  6. ^ Otto Boele, "The North in Russian romantic literature", Rodopi, 1996, trang 26
  7. ^ a ă Inna Gorbatov, Catherine the Great and the French philosophers of the Enlightenment: Montesquieu, Voltaire, Rousseau, Diderot and Grim, trang 109
  8. ^ a ă â Lê Vinh Quốc, Lê Phụng Hoàng, Nguyễn Thị Thư, trang 86
  9. ^ a ă â b Lê Vinh Quốc, Lê Phụng Hoàng, Nguyễn Thị Thư, trang 88
  10. ^ R.S. Chaurasia, "History of Middle East", Atlantic Publishers & Distributors, 2005, trang 309
  11. ^ Norwood Young, The Life of Frederick the Great, trang 341
  12. ^ a ă â Lê Vinh Quốc, Lê Phụng Hoàng, Nguyễn Thị Thư, trang 89
  13. ^ Lê Vinh Quốc, Lê Phụng Hoàng, Nguyễn Thị Thư, trang 90,91
  14. ^ Bernard Pares, Russia and the Peace, trang 95
  15. ^ Lê Vinh Quốc, Lê Phụng Hoàng, Nguyễn Thị Thư, trang 89, 90
  16. ^ a ă â b Piotr Stefan Wandycz, The Price of Freedom: A History of East Central Europe from the Middle Ages to the Present, Routledge (UK), 2001, ISBN 0-415-25491-4, Google Print, p.133
  17. ^ a ă â b Lê Vinh Quốc, Lê Phụng Hoàng, Nguyễn Thị Thư, trang 91
  18. ^ Heinrich Von Treitschke, George Haven Putnam, Confessions of Frederick the Great and the Life of Frederick the Great, trang 22
  19. ^ a ă Lê Vinh Quốc, Lê Phụng Hoàng, Nguyễn Thị Thư, trang 89, 91
  20. ^ David Williams, Simplified Astronomy for Astrologers, trang 49
  21. ^ Christopher Duffy, Frederick the Great: A Military Life, trang 279
  22. ^ Bruno Naarden, "Socialist Europe and Revolutionary Russia: Perception and Prejudice 1848-1923", Cambridge University Press, 2002, trang 27
  23. ^ a ă Lê Vinh Quốc, Lê Phụng Hoàng, Nguyễn Thị Thư, trang 92,93
  24. ^ Nữ hoàng Ekaterina Đệ nhị: Điều không ghi trên bia mộ - Tư liệu văn hóa - CAND.com.vn
  25. ^ William Edward Hartpole Lecky, A history of England in the eighteenth century, Tập 5, trang 210

Liên kết ngoài


Tiền nhiệm:
Pyotr III của Nga
Nữ hoàng Nga
1762-1796
Kế nhiệm:
Pavel I của Nga


Trận chiến đảo Saipan

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Trận chiến đảo Saipan
Một phần của Chiến tranh Thái Bình Dương thuộc Chiến tranh thế giới thứ hai
LVTs heading for shore.
Các LVT vào đất liền ngày 15 tháng 6 năm 1944. Tàu USS Birmingham ở đằng trước; tàu tuần tiễu đang bắn ở đằng sau là tàu Indianapolis
.
Thời gian 15 tháng 69 tháng 7, 1944
Địa điểm Đảo Saipan thuộc quần đảo Mariana
Kết quả Mỹ chiến thắng
Tham chiến
Flag of the United States Hoa Kỳ Cờ của Đế quốc Nhật Bản Đế quốc Nhật Bản
Chỉ huy
Cờ của Hoa Kỳ Richmond K.Turner
Cờ của Hoa Kỳ Holland Smith
Cờ của Đế quốc Nhật Bản Yoshitsugu Saito 
Flag of the Empire of Japan Chuichi Nagumo 


Lực lượng
71.000 lính 31.000 lính
Tổn thất
2.949 thiệt mạng
10.364 bị thương[1]
24.000 thiệt mạng
5.000 tự sát
921 bị bắt làm tù binh
.
Trận Saipan thuộc mặt trận Chiến tranh Thái Bình Dương của Chiến tranh thế giới thứ hai, diễn ra trên đảo Saipan thuộc quần đảo Mariana ngày 15 tháng 6, 19449 tháng 7, 1944. Tại đây, các sư đoàn Thủy quân lục chiến số 2Thủy quân lục chiến số 4 cùng sư đoàn Bộ binh số 27 của Mỹ do Trung tướng Holland Smith chỉ huy đã đánh bại sư đoàn số 43 thuộc quân đội Đế quốc Nhật Bản của Trung tướng Yoshitsugu Saito.

Bối cảnh

Trong những chiến dịch năm 1943 và nửa đầu 1944, quân Đồng minh đã chiếm được các quần đảo Solomon, quần đảo Gilbert cũng như quần đảo Marshall và bán đảo Papua thuộc New Guinea. Điều này đã tạo điều kiện cho quân Đồng minh tiếp tục đánh chiếm các phòng tuyến chính của quân Nhật: các quần đảo Caroline, Palau và Mariana (bị chiếm đóng bởi người Nhật từ cuối Thế chiến thứ nhất) vốn được phòng thủ rất nghiêm ngặt.
Quân đồng minh đã tiến hành hai chiến dịch để bẻ gãy phòng tuyến này: Thứ nhất, các lực lượng Tây Nam Thái Bình Dương của tướng Douglas MacArthur tiến về Philippines qua đường New Guinea và đảo Morotai. Thứ hai, đội quân Trung tâm Thái Bình Dương của Đô đốc Chester Nimitz tấn công quần đảo Mariana. Việc chọn mục tiêu là quần đảo Mariana bắt nguồn từ việc ra mắt loại máy bay ném bom tầm xa mới B-29 Superfortress. Nếu Mariana nằm trong tay quân Đồng minh, Tokyo sẽ là mục tiêu lý tưởng nằm trong tầm hoạt động 1.500 dặm (2.400 km) của loại máy bay này.
Người Nhật đã sẵn sàng chờ đợi một cuộc tấn công vào nơi nào đó trên vành đai phòng thủ của họ, mặc dù một cuộc tấn công vào quần đảo Caroline được xem là có khả năng xảy ra nhất. Để tăng cường tiếp tế cho các đơi vị đồn trú trên các đảo, họ cần những lực lượng hải quân, không quân mạnh hơn. Vì thế, chiến dịch A-Go, môt cuộc tấn công bằng hàng không mẫu hạm, đã được chuẩn bị cho tháng 6, 1944.

Trận chiến

Các cuộc oanh tạc và bắn phá hòn đảo bắt đầu ngày 13 tháng 6 năm 1944. 15 chiến hạm được điều động, 165.000 quả đạn pháo được bắn ra.
Cuộc đổ bộ bắt đầu lúc 7 giờ ngày 15 tháng 6, 1944. 8.000 lính thủy quân lục chiến trên hơn 300 tàu đổ bộ đổ bộ xuống bờ biển phía tây đảo Saipan vào khoảng 9 giờ. Các đơn vị pháo binh của Nhật chuẩn bị rất cẩn thận: họ đặt những lá cờ trên vịnh để xác định tầm bắn. Điều này cho phép họ phá hủy khoảng 20 xe tăng lội nước bên phía Mỹ. Nhưng khi trời sẩm tối, các sư đoàn lính thủy đánh bộ số 2 và sớ 4 đã đổ bộ trên một khu vực rộng gần 10 km và sâu 1 km vào trong đất liền. Quân Nhật phản công khi trời tối nhưng bị đẩy lùi với thương vong nặng nề. Ngày 16 tháng 6, sư đoàn bộ binh số 27 quân đội Hoa Kỳ đổ bộ và tiến về sân bay Aslito. Quân Nhật một lần nữa lại đánh trả trong đêm. Đến ngày 18 tháng 6, tướng Saito bỏ sân bay Aslito.
Cuộc tấn công làm bất ngờ quân Nhật, vốn đang chờ đợi một cuộc công kích ở hướng nam. Đô đốc Toyada Soemu, tổng tư lệnh Hải quân Nhật, nhận ra đây là thời cơ để sử dụng lực lượng A-Go để tấn công Hải quân Mỹ quanh đảo Saipan. Nhưng kết quả của Trận chiến biển Philippines là một thảm họa đối với Hải quân Đế chế Nhật, họ mất 3 tàu sân bay và hàng trăm máy bay. Không còn hy vọng cho phe phòng thủ trên đảo Saipan.
Không có tiếp viện, tình hình trên đảo trở nên vô vọng, nhưng người Nhật quyết chiến đấu cho đến người cuối cùng. Saito tổ chức binh lính của ông thành những hàng, bám trụ vào núi Tapotchau trong địa hình đồi núi có thể phòng thủ ở trung tâm đảo Saipan. Những biệt danh mà lính Mỹ đặt cho các trận chiến-"Hell’s Pocket" (Túi địa ngục), "Purple Heart Ridge" (Dãy đồi Trái tim tía) và "Death’s Valley" (Thung lũng chết chóc)-đã cho thấy tính khốc liệt của chúng. Quân Nhật sử dụng các hang động trong địa hình núi lửa để cản trở quân Mỹ bằng cách ngày nấp trong hang, đêm xông ra phá vòng vây. Người Mỹ dần dần mở các chiến dịch nhằm "dọn dẹp" các hang động này bằng cách sử dụng những đội lính súng phun lửa hỗ trợ bởi pháo binh và súng máy.
Tuy nhiên, chiến dịch bị phá hỏng bởi những cuộc tranh cãi, mâu thuẫn nội bộ khi Tướng Thủy quân lục chiến Holland "Howling Mad" Smith không hài lòng với những gì mà Sư đoàn bộ binh số 27 đã thể hiện.
Trong trận chiến trên đảo Saipan, những người đọc mã Navajo đóng một vai trò then chốt trong việc chỉ dẫn cho pháo hạm hải quân bắn vào các vị trí của quân Nhật.
Những binh sĩ đọc mã Navajo ở Saipan.
Ngày 7 tháng 7, quân Nhật không còn đường lùi. Tướng Yoshitsugu Saito ra lệnh cho những người lính lành lặn còn lại của ông, khoảng 3.000 người-tự sát, sau đó ông cũng tự vẫn. Hàng trăm thường dân Nhật cũng tự sát trong những ngày cuối của trận chiến. Trong đó, một số nhảy xuống từ "Suicide Cliff" (Vực đá tự sát) và "Banzai Cliff" (Vực đá vạn tuế). Những nỗ lực của lính Mỹ nhằm thuyết phục họ đầu hàng thay vì tự sát đa số không có hiệu quả.

Guy Gabaldon

Binh nhất Guy Gabaldon, một lính Mỹ gốc Mexico quê Los Angeles, California, được chính thức công nhận về việc bắt giữ khoảng 1.000 tù binh Nhật trong suốt trận chiến. Binh nhất Gabaldon, vốn được nuôi dưỡng bởi những người Mỹ gốc Nhật, đã sử dụng vốn tiếng Nhật và mưu mẹo của mình để để thuyết phục binh lính và thường dân Nhật rằng lính Mỹ không phải là những kẻ man rợ, và họ sẽ được đối xử tử tế nếu đầu hàng. Để vinh danh lòng dũng cảm của anh, cấp trên đã trao tặng Guy Gabaldon huân chương Ngôi Sao Bạc (Silver Star)-sau này trở thành Thập tự Hải quân (Navy Cross). Chiến công của anh sau này đã được mô tả trong một bộ phim năm 1960 tựa đề Hell to Eternity do Jeffrey Hunter thủ vai chính.
Suốt cuộc chiến, các chỉ huy đã đề nghị trao tặng binh nhất Guy Gabaldon Huân chương Danh dự (Medal of Honor) vì hành động của anh. Tuy nhiên, phần thưởng lúc đầu của anh chỉ là Ngôi Sao Bạc. Năm 1998, những nỗ lực nhằm giành Huân chương Danh dự cho Guy Gabaldon được khởi xướng. Cho đến nay, nó vẫn còn đang tiếp tục.

Kết quả

Thất bại của quân Nhật trong trận đánh Saipan đã kéo theo sự sụp đổ của Thủ tướng Nhật Hideki Tojo. Ngay sau khi tin thất trận bay về Tokyo, Tojo rút lui với tư cách là đầu não của quân đội Nhật Bản. Ngày 18 tháng 7, 1944, Tojo cùng toàn bộ chính phủ từ chức.
Sau trận chiến, đảo Saipan trở thành một căn cứ quan trọng cho các chiến dịch khác trong quần đảo Mariana, và cuộc tấn công Philippines sau này (tháng 10/1944), quần đảo Ryukyu cũng như chính Nhật Bản.
Đại úy quân Nhật Sakeo Oba không chịu đầu hàng, ẩn trốn trong những ngọn núi cùng 46 binh lính khác, cho đến khi ông phải đầu hàng ngày 1 tháng 12 năm 1945.

Các bộ phim

Bộ phim Windtalkers năm 2002 đã mô tả lại trận đánh. Tuy nhiên, các cảnh về đảo Saipan lại được quay ở Hawaii và miền nam California.

Chú thích

Tham khảo

  • Chen, C. Peter. "The Marianas and the Great Turkey Shoot". World War II Database. Retrieved on 2005-05-31.
  • Hoffman, Major Carl W., USMC (1950). Saipan: The Beginning of the End. USMC Historical Monograph. Historical Branch, United States Marine Corps. Retrieved on 2005-12-19.
  • Jones, Don. Oba, The Last Samurai, Presido Press, 1986. (ISBN 0-89141-245-X)
  • Petty, Bruce M. Saipan: Oral Histories of the Pacific War, McFarland and Company, 2001. (ISBN 0-7864-0991-6)
  • U.S. Army Campaigns of World War II: Western Pacific. CMH Pub 72-29, U.S. Army Center of Military History: (2003). Retrieved on


No comments:

Post a Comment