Ekaterina II của Nga
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Mục từ "Catherine Vĩ đại" dẫn đến bài này. Xin đọc về các nghĩa khác tại Catherine Vĩ đại (định hướng).
Ekaterina II Đại đế Екатерина II Великая |
||
---|---|---|
Ekaterina II Đại đế sau khi mới lên ngôi (1762).
|
||
Nữ hoàng nước Nga | ||
Trị vì | 9 tháng 7 [cũ 28 tháng 6] năm 1762 – 17 tháng 11 [cũ 6 tháng 11] năm 1796 | |
Đăng quang | 12 tháng 9 năm 1762 | |
Tiền nhiệm | Pyotr III | |
Kế nhiệm | Pavel I | |
Hoàng hậu nước Nga | ||
Ở ngôi | 25 tháng 12 năm 1761 – 9 tháng 7 năm 1762 | |
Thông tin chung | ||
Phu quân |
|
|
Tình nhân |
|
|
Hậu duệ | Pavel I của Nga Anna Petrovna Aleksey Bobrinsky |
|
Tên đầy đủ | Sophie Friederike Auguste | |
Tước vị |
|
|
Hoàng tộc | Nhà Romanov Nhà Ascania |
|
Thân phụ | Christian August, Vương công xứ Anhalt-Zerbst | |
Thân mẫu | Johanna Elisabeth xứ Holstein-Gottorp | |
Sinh | 2 tháng 5, 1729 Stettin, Pomerania, Vương quốc Phổ |
|
Mất | 6 tháng 11, 1796 (67 tuổi) Sankt-Peterburg, Đế quốc Nga |
|
An táng | Đại giáo đường Thánh Phêrô và Phaolô tại Sankt-Peterburg | |
Tôn giáo | Chính Thống giáo Nga |
Mục lục
Trước khi lên ngôi Nữ hoàng
Bà có tên khai sinh là Sophie Friederike Auguste von Anhalt-Zerbst-Dornburg, xuất thân từ một gia đình quý tộc Phổ. Thân phụ là Christian August, Vương công xứ Anhalt-Zerbst. Ông phục vụ triều đình Phổ và được phái làm Toàn quyền xứ Stettin (nay là Szczecin, Ba Lan). Sophie chào đời tại Stettin vào ngày 9 tháng 7 (theo lịch cũ là ngày 28 tháng 6) năm 1762. Bởi những toan tính ngoại giao chiến lược, khi mới 14 tuổi, Sophie đã bị sắp đặt sẽ cưới Thái tử của nước Nga. Năm 1744, Sophie tới Sankt Peterburg. Cùng năm, bà cải đạo sang Chính Thống giáo Nga. Với tôn giáo mới, bà có tên mới là Ekaterina.Năm 1761, Nữ hoàng Elizaveta qua đời. Pyotr III lên kế ngôi, còn Ekaterina trở thành Hoàng hậu nước Nga. Pyotr III nguyên là Hoàng tử Karl Peter Ulrich, con trai của Công tước người Đức Charles Frederick và Anna Petrovna (con gái đầu của Pyotr Đại đế và Nữ hoàng Ekaterina I). Từ nhỏ đến năm 14 tuổi, Karl sống trong Hoàng cung nước Phổ dưới triều vua Friedrich II Đại Đế. Năm 1742 được Nữ hoàng Elizaveta đưa trở về Nga, nhưng không thích cuộc sống nước Nga, khinh bỉ mọi thứ của nước Nga và chỉ tôn thờ nhà vua nước Phổ. Sofie, vợ ông thì ngược lại. Tuy xuất thân là một Quận chúa người Đức bà lại rất quan tâm tới nước Nga, nền văn hóa Nga và phong tục tập quán của nước Nga.
Nước Nga lúc bấy giờ đã tham gia cuộc chiến tranh Bảy năm (1756 - 1763), với ý tưởng cùng nước Áo chia cắt nước Phổ, và vào năm 1761, nhờ thiên tài quân sự của vua Friedrich II Đại Đế nên nước Phổ chặn đứng được liên quân Nga - Áo - Pháp - Thụy Điển - Sachsen. Tuy nhiên, do nhiều khó khăn nên cuối cùng nước Phổ dường như đã đứng trước nguy cơ thất bại, đến nỗi có lúc ông ta từng nghĩ đến chuyện nhận lấy cái chết của Cato Trẻ.[2] Song, toàn bộ liên quân chống Phổ lúc bấy giờ đều kiệt quệ cả, nước Nga mất vô số nhân lực và tiền của, nên họ vẫn không thể diệt được nước Phổ. Không những thế, vào ngày 5 tháng 1 năm 1762, Nữ hoàng Elizaveta Petrovna qua đời, Nga hoàng Pyotr III lên nối ngôi vua.[3]
Ngay lập tức Nga hoàng Pyotr III tiến hành đàm phán với nước Phổ; không những thế, ông còn ký hòa ước liên minh với Phổ chống lại Áo - trước đây không lâu đã từng là liên minh của mình, và hoàn trả hết đất đai đã bị Quân đội Nga chiếm đóng cho vua Phổ Friedrich II Đại Đế.[3] Những hoạt động bài Nga và chính sách đối ngoại của Pyotr III đã gây công phẫn trong hàng ngũ sĩ quan, giới quý tộc ở Sankt-Peterburg và giới tăng lữ. Một âm mưu lật đổ vị Hoàng đế mới lên ngôi được hình thành do chính Hoàng hậu Ekaterina đứng đầu. Người ta đã đồn rằng bà sẽ đưa nước Nga gia nhập trở lại với liên minh chống Phổ.[3]
Lên ngôi Nữ hoàng Nga
Ekaterina là một người đàn bà thông minh, quyết đoán. Những người ủng hộ bà là quý tộc trong triều đình và các sỹ quan cận vệ. Sáng ngày 28 tháng 6 năm 1762, Ekaterina mặc quân phục sĩ quan cưỡi ngựa đến doanh trại các trung đoàn cận vệ đọc tuyên cáo lên án chính sách chống lại nước Nga của chồng mình là Pyotr III. Quân cận vệ tuyên thệ trước Ekaterina và tôn bà lên làm Nữ hoàng nước Nga. Nga hoàng Pyotr bị bắt giam và một tuần sau bị giết trong một vụ ẩu đả vì say rượu. Ekaterina II lên ngôi, rút đạo quân Nga giúp Phổ về nước, nhưng nước Nga thôi không tham gia cuộc chiến tranh 7 năm với Phổ nữa. Tuy không xâm lược được những vùng đất mới nhưng một loạt chiến thắng và chiến bại của quân đội Nga đã đưa Đế quốc Nga trở thành liệt cường hùng mạnh nhất của vùng Đông Âu, và sẽ còn là mối đe dọa lớn nhất đối với Vương quốc Phổ, đồng thời làm suy giảm thế mạnh của một cường quốc cũng chính là đồng minh của nước Nga - nước Pháp.[3][4][5]Ekaterina II thưởng công rất hậu cho những sĩ quan cận vệ đã đưa mình lên ngôi Nữ hoàng nước Nga. Bà phân phát cho giới quý tộc hơn 80 vạn nông dân, miễn cho giới quý tộc mọi nghĩa vụ quân dịch và công vụ. Đối với nông dân thì Nữ hoàng thẳng tay đàn áp, bắt lính hoặc đưa đi Xibia làm khổ sai. Dưới thời trị vì của bà nổi lên nhiều địa chủ ác bá mà điển hình là bà Saltukova ở Moskva, người đã cướp đi sinh mạng của 75 nông dân. Bà đánh đập nông dân rất dã man, đổ nước sôi lên người họ, bắt họ ở trần đứng ở ngoài trời băng giá. Các địa chủ buôn bán nông dân như buôn bán nô lệ, đổi nông dân lấy chó săn, gán nông dân vào các cuộc đỏ đen là chuyện thường tình. [cần dẫn nguồn]
Thấu hiểu nỗi thống khổ của nông dân, một người Cozak vùng sông Đông là Yemyelyan Ivanovich Pugachyov đã phát động nông dân vùng lên chống lại sự bóc lột của địa chủ. Đến tháng 3 năm 1774, quân nổi dậy đã lên đến 5 vạn người. Pugachyov thành lập một quân đội phiên chế thành những trung đoàn, đại đội và những đơn vị nhỏ hơn, tổ chức cho quân nổi dậy luyện tập quân sự. Quân lính của Pugachyov hoạt động trên một địa bàn rộng lớn ở vùng núi Ural và ngoại sông Volga, chiếm được nhiều thành phố và đánh bại nhiều đơn vị hải quân của triều đình Nga. Ekaterina II ngừng chiến với đế quốc Ottoman và điều các tướng lĩnh dày dặn thao lược cầm quân đi đàn áp quân nổi dậy. Yếu thế, quân nổi dậy Pugachyov bị đánh bại phải lánh về Ural, rồi phải chạy qua Volga về phương Nam. Đến tháng 8 năm 1774, quân khởi nghĩa hầu như bị dẹp tan. Vị thủ lĩnh nổi dậy bị phản bội, giữa đêm bị bắt nộp cho Nữ hoàng. Yemyelyan Ivanovich Pugachyov bị bắt nhốt trong cũi sắt đưa về thành phố Moskva và tháng 1 năm sau bị hành hình. [cần dẫn nguồn]
Lo sợ trước phong trào nổi dậy của nhân dân, Nữ hoàng Ekaterina II tiến hành hàng loạt biện pháp để củng cố chế độ chuyên chế và chế độ nông nô. Nước Nga dưới thời trị vì của bà được chia ra làm 50 tỉnh (mỗi tỉnh gồm khoảng 40 vạn dân) để dễ bề cai trị, tỉnh lại chia ra làm các huyện nhỏ khoảng 3 vạn dân. Tỉnh và huyện nào cũng có Quân đội và cảnh sát để ngăn chặn các cuộc nổi loạn. [cần dẫn nguồn]
Chính sách đối nội
Trong những năm đầu trị vì nước Nga, Nữ hoàng Ekaterina II muốn được tôn vinh làm Nữ hoàng khai sáng cho đất nước. Về đối nội, bà lấy chính sách ngu dân để trị nước, trong ý nghĩ luôn khẳng định rằng nô lệ và đầy tớ tồn tại từ thở khai thiên lập địa, song bề ngoài tỏ ra là người chủ trương nâng cao dân trí cho nước nhà.[cần dẫn nguồn] Đó là việc Nữ hoàng mời nhà triết học người Pháp Denis Diderot (1713-1784), người sáng lập Bộ bách khoa toàn thư các ngành khoa học, nghệ thuật và các nghề thủ công sang Sankt-Peterburg để xuất bản cuốn Bách khoa toàn thư; trao đổi thư từ với nhà văn, nhà khai sáng Pháp Voltaire (1694-1778), được nhà triết học này mệnh danh là "Semiramis của phương Bắc"[6][7]. Bà cũng say mê đọc các tác phẩm của Montesquieu (1689-1775), v.v... Ý tưởng khai sáng của các nhà tư tưởng Pháp được Nữ hoàng lý giải theo cách riêng của mình, lại cố tìm trong các tác phẩm của họ những điều có thể biện minh cho chế độ chuyên chế và chế độ nông nô đang tồn tại ở nước Nga bấy giờ.Ekaterina II công khai thi hành chính sách củng cổ trật tự nhà nước phong kiến. Các tạp chí của nhà khai sáng Nga Nikolay Ivanovich Novikov (1744-1818) bị cấm vĩnh viễn năm 1773. Mùa thu năm đó, Diderot đến kinh đô Sankt-Peterburg cũng không thỏa thuận được với Nữ hoàng về việc xuất bản bộ Bách khoa toàn thư. Nhà tư tưởng Pháp đau lòng thốt lên: [cần dẫn nguồn]
“ | Ôi, con mắt của nhà triết học và con mắt của nhà độc tài nhìn nhận sự vật thật là khác nhau! | ” |
Năm 1790 cuốn sách Cuộc hành trình từ Sankt-Peterburg tới Moskva đến tay Ekaterina. Bà đọc xong cuốn sách và lên án gay gắt nhà văn và nhà tư tưởng Nga Aleksandr Nikolayevich Radishchev (1749-1802): "tác giả cuốn sách gieo rắc bệnh truyền nhiễm từ Pháp". Phẫn nộ trước một tiếng chuông báo hiệu sự lung lay của chế độ quân chủ chuyên chế ở Nga. Ekaterina cho rằng một tác giả phiến loạn còn tệ hơn cả Yemyelyan Ivanovich Pugachyov, ngay sau đó liền ra chiếu chỉ bắt và khép án tử hình nhà văn Radishchev, nhưng sợ làm quá tay có thể gây mầm mống nổi loạn, tức nước vỡ bờ nên giảm án tử hình xuống còn 10 năm đi lưu đày tại Xibia. [cần dẫn nguồn]
Từ nước Pháp dội tới nước Nga tin dữ đối với Ekaterina II và cả triều đình nước Nga. Tháng 1 năm 1793, vua Louis XVI bị tử hình, Ekaterina II bị cơn sốc thật sự và phát bệnh.[cần dẫn nguồn] Cả triều đình nước Nga để tang vua Pháp.[cần dẫn nguồn] Để giữ cho chế độ quân chủ nước Nga không trượt theo vết xe của nước Pháp, Ekaterina lập tức cắt quan hệ ngoại giao và buôn bán với nước Pháp. Những gì của nước Pháp cách mạng tồn tại trên nước Nga lúc này đều bị loại trừ. Những tác phẩm của các nhà tư tưởng và khai sáng nước Pháp đều có lệnh đưa ra khỏi thư viện và đem đốt đi. Nước Nga đón nhận hàng nghìn quý tộc Pháp sang cư trú. Bá tước của Artois em trai vua Louis XVI đến Sankt-Peterburg được đón tiếp nồng hậu. Nữ hoàng Ekaterina II trao cho bá tước một triệu ruble và một thanh kiếm có ghi dòng chữ ở lưỡi kiếm: Chúa phù hộ cho đức vua (ám chỉ Louis XVI). [cần dẫn nguồn]
Chính sách đối ngoại
Nếu trong lĩnh vực đối nội, Ekaterina không hoàn toàn thực hiện được những mong muốn của mình, thì trong lĩnh vực đối ngoại bà đã làm được nhiều thành tích hơn. Những sự thành công này một phần nhờ vào tài năng và sự lãnh đạo của Ekaterina, một phần cũng nhờ vào việc Ekaterina đã tập hợp được những cận thần xuất sắc và tài ba.[8] Đế quốc Nga dưới thời Ekatêrina II đã thưc hiện nhiều hoạt động bành trướng lãnh thổ và thôn tính được các khu vực Bắc ven biển Đen, Krym, Bắc Kavkaz, vùng lãnh thổ phía Tây Ukraina, Bạch Nga, Litva với tổng diện tích lên tới 518 nghìn cây số vuông (20 vạn dặm vuông).Rõ ràng việc củng cố chế độ quân chủ chuyên chế là quốc sách đối nội đầu tiên của Ekaterina II. Trong chính sách bang giao với các nước châu Âu, Ekaterina II cũng đặt mục đích củng cố Đế quốc Nga trên vũ đài chính trị châu lục này, nhất là trong tình hình các cường quốc châu Âu có thuộc địa ở Nam Á và Đông Nam Á đang phát huy ảnh hưởng của mình, và Ekaterina II và triều đình Nga cảm thấy lo ngại trước tình thế lúc bấy giờ đối với nước Nga chưa có hải quân ở Kamchatka và cảng trên bờ biển Okhotsk Thái Bình Dương. Nhìn chung tất cả những chính sách đối ngoại của Ekaterina hoàn toàn nhằm mục đích phục vụ cho cái mà bà coi là quyền lợi của nước Nga, và gốc tích dân tộc Đức dường không có ảnh hưởng gì đến quyết sách của nữ Nga hoàng[9].
Từ sau khi hoàn toàn thoát khỏi ách thống trị của đế quốc Mông Cổ, nước Nga phải đối phó với ba đối thủ chính trên lĩnh vực đối ngoại: đế quốc Ottoman, Vương quốc Ba Lan và Vương quốc Thụy Điển. Thụy Điển đã suy yếu sau khi bị Pyotr I đánh bại trong cuộc chiến tranh kéo dài 20 năm và không còn là vật cản trên con đường bành trướng của Nga nữa. Ba Lan cũng bị những mâu thuẫn nội bộ xâu xé và hoàn toàn nằm dưới sự bảo hộ của Nga từ thời Pyotr I. Chính sách của Nga đối với Ba Lan là duy trì một quốc gia Ba Lan nguyên vẹn nằm dưới tầm ảnh hưởng của Nga, mưu dùng Ba Lan làm một nước đệm ngăn cách Nga với các cường quốc châu Âu. Tuy nhiên, đổi lại Nga phải chấp nhận từ bỏ việc bành trướng sang phía Tây, điều mà Đại đế Ekaterina II ít mong muốn nhất.[8]
Lúc này chỉ còn thế lực của đế quốc Ottoman, đóng đô tại Thổ Nhĩ Kỳ.
Chiến tranh Nga-Thổ Nhĩ Kỳ
Trước hết, nước Nga cần có một liên minh. Từ sau thời Pyotr I tới nay nước Nga luôn đứng giữa hai lựa chọn: 1) Áo, Pháp; 2) Anh, Phổ. Lần này, để nhanh chóng chấm dứt của cuộc chiến tranh Bảy năm với Áo và Pháp, Nữ hoàng Ekaterina II Đại Đế quyết định liên minh với Phổ dù trong chỉ dụ đầu tiên ngày 28 tháng 6 năm 1762, bà đã gọi vua Friedrich II Đại Đế là "kẻ thù tàn bạo nhất của nước Nga"[9].[11] Giành được sự ủng hộ của Phổ cũng cần thiết trong việc Ekaterina đưa Stanisław August Poniatowski - một kẻ không có cá tính và nghị lực lên làm vua Ba Lan hòng giúp Nga khống chế nước này.[9][12] Nhưng bực tức trước ý đồ nô dịch Ba Lan của các thế lực ngoại bang, giới quý tộc Ba Lan đã khích động nhân dân nổi dậy chống lại Poniatowski. Còn Pháp vì lo sợ liên minh Nga - Phổ nên đã phá Nga bằng cách ủng hộ Ba Lan và khích Thổ gây chiến chống Nga. Cuộc chiến tranh Nga - Thổ bùng nổ.
Với ưu thế về quân số, đế quốc Ottoman chủ động cắt quan hệ ngoại giao và đến tháng 9 năm 1768 họ tuyên chiến với Nga. Trong chiến tranh, quân Ottoman liên tiếp bị đánh bại bởi quân Nga dưới sự chỉ huy của các tướng lĩnh tài ba. Gôlítxưn đánh bại quân Ottoman trên sông Dnepr và tiến vào Moldavia, đánh bại quân chư hầu của Hãn quốc Krym và giành được chiến thắng quan trọng ở trận Kagul (1770). Đôngôruki chọc thủng phòng tuyến Pêrêkốp và tàn phá Krym. Một đạo quân Nga khác chiếm Benđơ và tràn vào Bungari (1771). Còn đô đốc Alêchxây Ooclôp đã tiêu diệt hạm đội Ottoman ở đảo Kiôxơ, trong trận Chesmen và kích động người dân ở Morea nổi loạn chống Sultan của đế quốc Ottoman (1770).[12] Sau đó chiến cuộc tạm dừng và hai bên mở một cuộc đàm phán, nhưng cuộc thương lượng nhanh chóng đi vào bế tắc và chiến tranh tiếp tục bùng nổ vào năm 1772. Tuy nhiên quân Ottoman lại tiếp tục thất bại. Đại quân Nga tràn vào Bungari. Trước tình cảnh đó, triều đình Ottoman hoảng sợ, họ buộc phải ký hòa ước Küçük Kaynarca (1774), từ bỏ các pháo đài tại Azov và tại Krym, thừa nhận nền độc lập của Hãn quốc Krym và mở cửa các cảng biển Đen cho tàu Nga ra vào.[12] Giờ đây, Đại đế Ekaterina II đã hoàn tất được mơ ước của Nga hoàng Pyotr I ngày xưa: mở một con đường ra biển Đen.
Sau cuộc chiến, Hãn quốc Krym nhanh chóng nằm dưới sự ảnh hưởng của Nga. Vào năm 1783, Krym chính thức trở thành một lãnh thổ của Nga dưới sự cai quản của Phó vương Grigory Patyómkin. Năm 1787, Patyómkin đã tổ chức một chuyến tuần du hoành tráng ở Krym với sự tham gia của các sứ thần Áo, Pháp và Anh nhằm phô diễn cho châu Âu thấy sự cường tráng của đế quốc Nga. Tuy nhiên chuyến tuần du đã khiến triều Ottoman tức giận và vào tháng 6 cùng năm, chiến tranh Nga - Thổ lại bùng nổ. Tuy nhiên quân Ottoman lại chịu nhiều thất bại thảm hại ở trên bộ lẫn trên biển trước các tướng Nga là Suvorov và Alêchxây Ooclôp. Cuối cùng, sau khi pháo đài quan trọng Ismail bị Nga chiếm vào tháng 12/1790, triều Ottoman phải ký hòa ước Iaşi vào ngày 9 tháng 1 năm 1792, qua đó họ phải cắt thêm một phần lãnh thổ nằm giữa hai con sông Buc Nam và sông Dnepr cho Nga, nơi sau này cảng Odessa được xây dựng.[13] Hòa ước này đã cho phép người Nga nắm quyền kiểm soát khu vực biển Đen.
Ba lần chia cắt Ba Lan
Chịu ảnh hưởng của cuộc Đại cách mạng Pháp (1789), và đương lúc Nga còn đang bận bịu trong cuộc đàm phán với đế quốc Ottoman, nhân dân Ba Lan lại đứng lên khởi nghĩa (1791). Một đạo quân Nga được phái sang. Và kết quả là việc chia cắt Ba Lan lần thứ hai - sản phẩm của sự hợp tác giữa Nga với Phổ, nước mà trước đó không lâu vừa mới đứng về phía Thổ Nhĩ Kỳ trong cuộc chiến Nga - Thổ. Lần này Nga nhận được phần còn lại của Belarus, Ukraina và phân nửa xứ Livônia; tổng cộng Nga chiếm một vùng lãnh thổ rộng 25 vạn cây số vuông với 1 triệu dân.[16][17]
Không cam chịu, người Ba Lan lại nổi dậy, và lần này Nga lại tiếp tục cùng với Áo và Phổ thẳng tay đàn áp. Và việc chia cắt Ba Lan lần thứ ba diễn ra vào năm 1795, lúc này Nga được chia phần còn lại của xứ Livônia và miền Cuốclen với tổng diện tích 12 vạn cây số vuông và dân số 1,2 triệu người. Quốc gia Ba Lan độc lập bị xóa tên khỏi bản đồ châu Âu thời bấy giờ.[16][17]
Sau ba lần tham gia chia cắt Ba lan, Đế quốc Nga đã kiểm soát được một vùng lãnh thổ rộng đến 462000 cây số vuông với 3,5 triệu dân (62% diện tích và 45% dân số Ba Lan lúc đó)[16] bao gồm toàn bộ khu vực miền Đông Ban Tích, thay thế vai trò của Thụy Điển tại miền Ban Tích, cũng như thu hồi lại gần như toàn bộ lãnh thổ của nhà nước Nga Kiép xưa kia. Nhưng Nga cũng phải trả một cái giá lớn cho những gì mà nó giành được. Có nhận định cho rằng, những sự kiện diễn ra sau đó cho thấy Ekaterina đã phạm một sai lầm không thể sửa chữa được trong quan hệ với Ba Lan: vai trò chủ đạo của Ekaterina II trong các lần chia cắt Ba Lan đã để lại tác hại lâu dài trong quan hệ hai nước, gây ra mối thù hằn, ác cảm dai dẳng kéo dài cho đến tận ngày nay. Việc thống trị Ba Lan và các dân tộc vùng Baltic sẽ gây cho Nga nhiều vấn đề nan giải sau này. Đành rằng trước đây Ba Lan đã từng đem quân xâm lược Nga và đe dọa đến độc lập chủ quyền của Nga, nhưng sau đó Ba Lan đã bị Nga đánh bại và suy yếu. Kể từ thời vua Pyotr I Đại Đế, Ba Lan đã hoàn toàn nằm trong sự khống chế của Nga. Thêm nữa việc phân chia Ba Lan đã mang lại lợi ích lớn lao cho Vương quốc Phổ:[18] khu vực Pomerania và Đông Phổ đã được thống nhất về mặt lãnh thổ và tạo điều kiện thuận lợi cho việc tăng cường sức mạnh của mình. Điều này mang lại một mối đe dọa lớn đối với Đế quốc Nga vì sau vì ngay từ thế kỷ thứ 10, Đế quốc La Mã Thần thánh và Đức Quốc xã sau này luôn theo đuổi chính sách "Đông tiến" đe dọa đến sự tồn vong của các dân tộc Xlavơ trong đó có người Nga.[19]
Quan hệ với các nước châu Âu
Mặc dù hiểu rõ "di sản" của chế độ quân chủ chuyên chế của mình, Đại đế Êkatêrina II luôn mong muốn các quốc gia khác công nhận Nga là một quốc gia chịu ảnh hướng của trào lưu Khai sáng. Bà biến nước Nga thành người hòa giải các mâu thuẫn và xung đột giữa các vương quốc châu Âu – điều mà sau này vào thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20 nước Anh sẽ thực hiện. Vì vậy, Đại đế Ekaterina II đã đứng ra làm trọng tài trong cuộc Chiến tranh Kế vị Bayern giữa Đế quốc Áo và Vương quốc Phổ (1778 - 1779); cũng như cuộc chiến tranh Bảy năm trước kia, nước Áo lại bị nước Phổ đánh bại trong cuộc chiến tranh này[20]. Năm 1780 bà lập ra Liên minh các nước trung lập vũ trang với mục đích bảo vệ những đội thuyền trung lập đến từ Hải quân Hoàng gia Anh trong cuộc Cách mạng Mỹ (1775 - 1783).Bước vào thập niên 1780, Nữ hoàng Ekaterina II Đại Đế và Quốc vương Friedrich II Đại Đế là hai nhân vật duy nhất có uy thế anh hùng trên toàn cõi châu Âu. Nữ hoàng Áo Maria Theresia qua đời vào năm 1780, con bà là Hoàng đế Joseph II lên nắm Hoàng quyền. Vào năm 1781, liên minh phòng thủ Nga - Áo được thành lập, và liên minh Nga - Phổ bị xóa sổ.[21]
Vương quốc Thụy Điển vốn bị ảnh hưởng bởi nước Pháp nhưng với cuộc chiến tranh Bảy năm thì nước Nga đã xua tan ảnh hưởng này.[3] Từ năm 1788 đến 1790, Đế quốc Nga bị lôi kéo vào cuộc chiến tranh chống Vương quốc Thuỵ Điển dưới thời vua Gustav III, một người cháu gọi Đại đế Ekaterina II bằng dì. Lo lắng trước những chiến thắng liên tiếp và thanh thế càng lúc càng lớn của nước Nga trong cuộc chiến tranh chống Đế quốc Ottoman, các nước Phổ, Anh, Hà Lan đã đề nghị triều đình Gustav III xua quân tấn công Nga khi nước này còn đang bận bịu trong cuộc chiến tranh với Ottoman.[17]. Tuy nhiên, trái với dự tính của Gustav III, Quân đội Thụy Điển đã bị Hạm đội Baltic của Nga đánh bại. Việc Vương quốc Đan Mạch và Na Uy tuyên chiến với Thụy Điển vào năm 1788 (xem Cuộc chiến tranh Sân khấu), tình thế của Vương quốc Thụy Điển càng trở nên bi đát hơn. Tuy nhiên sau cùng thì người Đan Mạch cũng bị đẩy lui và vua Gustav III đập tan tác quân Nga tại Trận hải chiến Svensksund (1790). Hai nước quyết định ký Hòa ước Värälä (14/8/1790) với hiệu lực 20 năm, theo đó hai bên phải tôn trọng nguyên trạng lãnh thổ của đối phương như trước cuộc chiến tranh. Như vậy là Vương quốc Thụy Điển đã thoát khỏi số phận của Liên bang Ba Lan-Litva trước kia.[17].
Khu vực Thái Bình Dương
Tình hình từ cuối thập niên 1760 ở miền Bắc Thái Bình Dương khi Ekaterina II chưa lên ngôi đã đặt đế quốc Nga ở vào vị trí thua kém so với ba cường quốc Anh, Pháp và Tây Ban Nha về chính sách gây ảnh hưởng của nước mình vượt ra ngoài biên giới. Chỉ vài năm sau khi Ekaterina II lên ngôi, chính phủ Tây Ban Nha đã phái 5 đoàn thám hiểm đến bờ biển bán đảo California phía Tây Bắc Mỹ vào năm 1769. Cũng vào khoảng thời gian đó để gây ảnh hưởng của đế quốc Nga ra bên ngoài, người Nga đã có đoàn thám hiểm eo biển giữa châu Á và châu Mỹ. Trong khi đi tìm eo biển này, người Nga đã bắt gặp một đoàn thám hiểm thứ ba do James Cook chỉ huy chỉ huy đã đặt chân lên bán đảo Alaska phía Tây Bắc châu Mỹ và bán đảo Kamchatka phía Đông Bắc châu Á. Thời gian này, các cường quốc cạnh tranh nhau ở châu Âu đã có thuộc địa của mình tại các nước Đông Nam Á và Ấn Độ. Dựa vào các thuộc địa này, các đại đế quốc châu Âu phát huy ảnh hưởng của mình trên vùng biển Thái Bình Dương một cách hiệu quả hơn. Tình hình này buộc đế quốc Nga không thể khoanh tay đứng nhìn các đại đế quốc châu Âu bỏ xa mình. Triều đình Nga hoàng của Ekaterina II ra tuyên bố chính thức với những phát hiện của người Nga ở vùng đất phía Tây Bắc Bắc Mỹ. Ngày 28 tháng 12 năm 1786, Nữ hoàng Nga ký chiếu chỉ điều từ biển Baltic một đoàn thám hiểm vòng quanh thế giới dưới sự chỉ huy của G.I. Mulovski đến bán đảo Kamchatka. Ủy ban Hải quân của Chính phủ Hoàng gia gửi tới Mulovski lời dặn nói rõ sau khi mô tả và ghi vào bản đồ những hòn đảo giữa Kamchatka và Nhật Bản thì phải đưa những hòn đảo ấy vào danh sách sở hữu Nhà nước của Đế chế Nga, cắm quốc huy và chôn xuống đất ở những nơi cần thiết những huy chương có ghi chữ Nga và chữ Latin. Cuộc chiến tranh Nga - Thổ Nhĩ Kỳ và Nga - Thụy Điển làm cho cuộc thám hiểm này không thực hiện được, song chủ trương chính sách đối ngoại của Đế quốc Nga chứng tỏ Ekaterina II vẫn tiếp tục chính sách của Pyotr Đại đế là khẳng định vị thế đại đế quốc của Nga trong châu Âu và bên ngoài châu Âu.Cuối đời trong khi bài trừ ảnh hưởng của Đại cách mạng Pháp lan truyền sang nước Nga, Ekaterina II vẫn chủ trương tiếp tục củng cố vị trí đế quốc của Nga ở vùng biển Thái Bình Dương. Đặc biệt thời gian này (năm 1792) để mở rộng buôn bán ở khu vực Thái Bình Dương, một đoàn thám hiểm người Nga đã đặt chân đến đảo Hokkaido của Nhật Bản theo sáng kiến của viện sĩ Erik Laksman.
Sinh hoạt riêng tư
Ekaterina II và các tình nhân
Nữ hoàng Ekaterina II bị chỉ trích là rất phóng đãng trong cuộc sống riêng tư. Thậm chí, các nhà cách mạng Jacobin đã gọi bà là "Hoàng hậu Messalina của phương Bắc", ví bà với người vợ khét tiếng dâm đãng của Hoàng đế Claudius vào thời La Mã cổ đại.[7][22] Quả thực từ khi lấy chồng năm 15 tuổi cho đến lúc qua đời ở tuổi 67, Ekaterina có rất nhiều người tình, từ những đại quý tộc tài năng quyền cao chức trọng như Công tước Saltykov, Tư lệnh Grigôri Óoclôp, Phó vương Krym Patyómkin cho đến những kẻ bất tài và có cuộc sống riêng tư rất đáng ngờ[19]: Zavadovski (một cậu tình nhân rất trẻ), Zorick, Mamonov, Yermolof, Arkarov (một tên gián điệp), Landskov (một họa sĩ), Công tước Platon Alexandrovich Zubov (trẻ hơn bà tới gần 40 tuổi), v.v...Người tình đầu tiên của Ekaterina II là một viên thượng quan trong triều - Bá tước Sergei Vasilievich Saltykov. Chính Ekaterina đã loan tin đồn rằng Pavel Petrovitch (tức Nga hoàng Pavel I) là kết quả của cuộc tình vụng trộm đó, dù Pavel giống hệt với vua cha Pyotr III về ngoại hình xấu xí và về trí lực thấp kém. Người yêu thứ hai của bà, người đã đưa bà đến ngôi Nữ hoàng nước Nga chính là một vị quan cao cấp trong triều, Grigori Orlov, anh ruột của đại úy Alexey Orlov trong Quân đội Nga hoàng. Hai người có với nhau một đứa con: Công tước Aleksey Grigorievich Bobrinsky. Người tình thứ ba là Vassiltchikov. Nữ hoàng Nga cũng có quan hệ tình cảm với Stanisław August Poniatowski, người được bà đưa lên làm vua Ba Lan. Bà và Poniatowski đã có với nhau một người con gái tên Anna.
Nhưng người tình có ảnh hưởng nhất tới bà chính là Nguyên soái Grigori Alexandrovich Patyómkin, Phó vương bán đảo Krym. Bản thân Patyómkin đã giúp Ekaterina chọn lựa những thanh niên xinh đẹp khỏe mạnh tới hầu hạ bà sau khi mối quan hệ giữa hai người kết thúc vào năm 1776.
Trái với tính keo kiệt của Pyotr I Đại đế, Ekaterina II đã làm hao tổn công quỹ không ít vì bà tổ ra rất hậu hĩnh với những người tình, ngay cả khi mối quan hệ giữa họ đã kết thúc. Ví dụ người tình Zavadovski đã nhận được một khoản tiền 5 vạn rúp, bổng lộc 5 nghìn rúp và đất đai với 4 nghìn nông nô sau khi kết thúc quan hệ với Nữ hoàng Nga. Tuy nhiên, không một người tình nào có thể ảnh hưởng đến các quyết sách của Ekaterina. Bà vẫn quyết định đưa Poniatowski lên ngôi vua Ba Lan bất chấp sự phản đối của Grigôri Óoclôp và bà lưu đày ông khi Grygory tự ý rời bỏ nhiệm sở. Bà thẳng tay bác những lời cầu xin của Patyómkin khi thấy chúng quá vô lý và đi ngược lại quyền lợi quốc gia. Và còn nhiều ví dụ khác nữa. Tất nhiên bà có thiên vị cho các tình nhân, bà ban chức tước bổng lộc cho họ, bước đường thăng quan tiến chức của họ diễn ra nhanh hơn, nhưng bà là Nga hoàng, chủ nhân của họ, ra các quyết sách theo ý kiến riêng của mình, chứ không phải theo các tình nhân.[23]
Một nhà nghiên cứu đã nhận xét như sau:
“ | Lịch sử chân thật không nên chú tâm quá đáng đến nếp sinh hoạt của các vị vương nếu nếp sinh hoạt đó không ảnh hưởng nhiều đến diễn biến của các sự việc. | ” |
Nhận định
|
Thông tin trong bài này hoặc đoạn này không thể kiểm chứng được do không được chú giải từ bất kỳ nguồn tham khảo nào. Xin bạn hãy cải thiện bài viết này bằng cách bổ sung chú thích tới các nguồn uy tín. Nếu bài được dịch từ Wikipedia ngôn ngữ khác thì hãy chuyển nguồn tham khảo từ phiên bản đó cho bài này. |
Hình ảnh
Chú thích
- ^ David Williams, Simplified Astronomy for Astrologers, trnag 52
- ^ Gerhard Ritter, Frederick the Great: A Historical Profile, trang 124
- ^ a ă â b c d Stacy Bergstrom Haldi, Why wars widen: a theory of predation and balancing, các trang 31-32, trang 38.
- ^ William Young, German Diplomatic Relations 1871-1945: The Wilhelmstrasse and the Formulation of Foreign Policy, trang 6
- ^ Stephen J. Lee, Aspects of European history, 1494-1789, trang 177
- ^ Otto Boele, "The North in Russian romantic literature", Rodopi, 1996, trang 26
- ^ a ă Inna Gorbatov, Catherine the Great and the French philosophers of the Enlightenment: Montesquieu, Voltaire, Rousseau, Diderot and Grim, trang 109
- ^ a ă â Lê Vinh Quốc, Lê Phụng Hoàng, Nguyễn Thị Thư, trang 86
- ^ a ă â b Lê Vinh Quốc, Lê Phụng Hoàng, Nguyễn Thị Thư, trang 88
- ^ R.S. Chaurasia, "History of Middle East", Atlantic Publishers & Distributors, 2005, trang 309
- ^ Norwood Young, The Life of Frederick the Great, trang 341
- ^ a ă â Lê Vinh Quốc, Lê Phụng Hoàng, Nguyễn Thị Thư, trang 89
- ^ Lê Vinh Quốc, Lê Phụng Hoàng, Nguyễn Thị Thư, trang 90,91
- ^ Bernard Pares, Russia and the Peace, trang 95
- ^ Lê Vinh Quốc, Lê Phụng Hoàng, Nguyễn Thị Thư, trang 89, 90
- ^ a ă â b Piotr Stefan Wandycz, The Price of Freedom: A History of East Central Europe from the Middle Ages to the Present, Routledge (UK), 2001, ISBN 0-415-25491-4, Google Print, p.133
- ^ a ă â b Lê Vinh Quốc, Lê Phụng Hoàng, Nguyễn Thị Thư, trang 91
- ^ Heinrich Von Treitschke, George Haven Putnam, Confessions of Frederick the Great and the Life of Frederick the Great, trang 22
- ^ a ă Lê Vinh Quốc, Lê Phụng Hoàng, Nguyễn Thị Thư, trang 89, 91
- ^ David Williams, Simplified Astronomy for Astrologers, trang 49
- ^ Christopher Duffy, Frederick the Great: A Military Life, trang 279
- ^ Bruno Naarden, "Socialist Europe and Revolutionary Russia: Perception and Prejudice 1848-1923", Cambridge University Press, 2002, trang 27
- ^ a ă Lê Vinh Quốc, Lê Phụng Hoàng, Nguyễn Thị Thư, trang 92,93
- ^ Nữ hoàng Ekaterina Đệ nhị: Điều không ghi trên bia mộ - Tư liệu văn hóa - CAND.com.vn
- ^ William Edward Hartpole Lecky, A history of England in the eighteenth century, Tập 5, trang 210
Liên kết ngoài
Wikiquote có sưu tập danh ngôn về: |
Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về Ekaterina II của Nga |
- Catherine the Great @ Chronology World History Database
- Some of the code of laws mentioned above, along with other information
- Manifesto of the Empress Catherine II, inviting foreign immigration
- Information about the Battle of Svenskund and the war
- Cái chết của Ekaterina II
- Ekaterina II Vĩ đại
- Briefly about Catherine: The Enlightened Despots
- (tiếng Nga) Phả hệ thế hệ trước Ekaterina II
- Quận chúa trở thành Nữ hoàng Nga vĩ đại
- Phim: The Scarlet Empress (1934),Đạo diễn bởi Josef von Sternberg, với Marlene Dietrich trong vai Ekaterina II; Catherine the Great (1934)
Tiền nhiệm: Pyotr III của Nga |
Nữ hoàng Nga 1762-1796 |
Kế nhiệm: Pavel I của Nga |
|
Trận chiến đảo Saipan
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
|
|
Bối cảnh
Trong những chiến dịch năm 1943 và nửa đầu 1944, quân Đồng minh đã chiếm được các quần đảo Solomon, quần đảo Gilbert cũng như quần đảo Marshall và bán đảo Papua thuộc New Guinea. Điều này đã tạo điều kiện cho quân Đồng minh tiếp tục đánh chiếm các phòng tuyến chính của quân Nhật: các quần đảo Caroline, Palau và Mariana (bị chiếm đóng bởi người Nhật từ cuối Thế chiến thứ nhất) vốn được phòng thủ rất nghiêm ngặt.Quân đồng minh đã tiến hành hai chiến dịch để bẻ gãy phòng tuyến này: Thứ nhất, các lực lượng Tây Nam Thái Bình Dương của tướng Douglas MacArthur tiến về Philippines qua đường New Guinea và đảo Morotai. Thứ hai, đội quân Trung tâm Thái Bình Dương của Đô đốc Chester Nimitz tấn công quần đảo Mariana. Việc chọn mục tiêu là quần đảo Mariana bắt nguồn từ việc ra mắt loại máy bay ném bom tầm xa mới B-29 Superfortress. Nếu Mariana nằm trong tay quân Đồng minh, Tokyo sẽ là mục tiêu lý tưởng nằm trong tầm hoạt động 1.500 dặm (2.400 km) của loại máy bay này.
Người Nhật đã sẵn sàng chờ đợi một cuộc tấn công vào nơi nào đó trên vành đai phòng thủ của họ, mặc dù một cuộc tấn công vào quần đảo Caroline được xem là có khả năng xảy ra nhất. Để tăng cường tiếp tế cho các đơi vị đồn trú trên các đảo, họ cần những lực lượng hải quân, không quân mạnh hơn. Vì thế, chiến dịch A-Go, môt cuộc tấn công bằng hàng không mẫu hạm, đã được chuẩn bị cho tháng 6, 1944.
Trận chiến
Các cuộc oanh tạc và bắn phá hòn đảo bắt đầu ngày 13 tháng 6 năm 1944. 15 chiến hạm được điều động, 165.000 quả đạn pháo được bắn ra.Cuộc đổ bộ bắt đầu lúc 7 giờ ngày 15 tháng 6, 1944. 8.000 lính thủy quân lục chiến trên hơn 300 tàu đổ bộ đổ bộ xuống bờ biển phía tây đảo Saipan vào khoảng 9 giờ. Các đơn vị pháo binh của Nhật chuẩn bị rất cẩn thận: họ đặt những lá cờ trên vịnh để xác định tầm bắn. Điều này cho phép họ phá hủy khoảng 20 xe tăng lội nước bên phía Mỹ. Nhưng khi trời sẩm tối, các sư đoàn lính thủy đánh bộ số 2 và sớ 4 đã đổ bộ trên một khu vực rộng gần 10 km và sâu 1 km vào trong đất liền. Quân Nhật phản công khi trời tối nhưng bị đẩy lùi với thương vong nặng nề. Ngày 16 tháng 6, sư đoàn bộ binh số 27 quân đội Hoa Kỳ đổ bộ và tiến về sân bay Aslito. Quân Nhật một lần nữa lại đánh trả trong đêm. Đến ngày 18 tháng 6, tướng Saito bỏ sân bay Aslito.
Cuộc tấn công làm bất ngờ quân Nhật, vốn đang chờ đợi một cuộc công kích ở hướng nam. Đô đốc Toyada Soemu, tổng tư lệnh Hải quân Nhật, nhận ra đây là thời cơ để sử dụng lực lượng A-Go để tấn công Hải quân Mỹ quanh đảo Saipan. Nhưng kết quả của Trận chiến biển Philippines là một thảm họa đối với Hải quân Đế chế Nhật, họ mất 3 tàu sân bay và hàng trăm máy bay. Không còn hy vọng cho phe phòng thủ trên đảo Saipan.
Không có tiếp viện, tình hình trên đảo trở nên vô vọng, nhưng người Nhật quyết chiến đấu cho đến người cuối cùng. Saito tổ chức binh lính của ông thành những hàng, bám trụ vào núi Tapotchau trong địa hình đồi núi có thể phòng thủ ở trung tâm đảo Saipan. Những biệt danh mà lính Mỹ đặt cho các trận chiến-"Hell’s Pocket" (Túi địa ngục), "Purple Heart Ridge" (Dãy đồi Trái tim tía) và "Death’s Valley" (Thung lũng chết chóc)-đã cho thấy tính khốc liệt của chúng. Quân Nhật sử dụng các hang động trong địa hình núi lửa để cản trở quân Mỹ bằng cách ngày nấp trong hang, đêm xông ra phá vòng vây. Người Mỹ dần dần mở các chiến dịch nhằm "dọn dẹp" các hang động này bằng cách sử dụng những đội lính súng phun lửa hỗ trợ bởi pháo binh và súng máy.
Tuy nhiên, chiến dịch bị phá hỏng bởi những cuộc tranh cãi, mâu thuẫn nội bộ khi Tướng Thủy quân lục chiến Holland "Howling Mad" Smith không hài lòng với những gì mà Sư đoàn bộ binh số 27 đã thể hiện.
Trong trận chiến trên đảo Saipan, những người đọc mã Navajo đóng một vai trò then chốt trong việc chỉ dẫn cho pháo hạm hải quân bắn vào các vị trí của quân Nhật.
Ngày 7 tháng 7, quân Nhật không còn đường lùi. Tướng Yoshitsugu Saito ra lệnh cho những người lính lành lặn còn lại của ông, khoảng 3.000 người-tự sát, sau đó ông cũng tự vẫn. Hàng trăm thường dân Nhật cũng tự sát trong những ngày cuối của trận chiến. Trong đó, một số nhảy xuống từ "Suicide Cliff" (Vực đá tự sát) và "Banzai Cliff" (Vực đá vạn tuế). Những nỗ lực của lính Mỹ nhằm thuyết phục họ đầu hàng thay vì tự sát đa số không có hiệu quả.
Guy Gabaldon
Binh nhất Guy Gabaldon, một lính Mỹ gốc Mexico quê Los Angeles, California, được chính thức công nhận về việc bắt giữ khoảng 1.000 tù binh Nhật trong suốt trận chiến. Binh nhất Gabaldon, vốn được nuôi dưỡng bởi những người Mỹ gốc Nhật, đã sử dụng vốn tiếng Nhật và mưu mẹo của mình để để thuyết phục binh lính và thường dân Nhật rằng lính Mỹ không phải là những kẻ man rợ, và họ sẽ được đối xử tử tế nếu đầu hàng. Để vinh danh lòng dũng cảm của anh, cấp trên đã trao tặng Guy Gabaldon huân chương Ngôi Sao Bạc (Silver Star)-sau này trở thành Thập tự Hải quân (Navy Cross). Chiến công của anh sau này đã được mô tả trong một bộ phim năm 1960 tựa đề Hell to Eternity do Jeffrey Hunter thủ vai chính.Suốt cuộc chiến, các chỉ huy đã đề nghị trao tặng binh nhất Guy Gabaldon Huân chương Danh dự (Medal of Honor) vì hành động của anh. Tuy nhiên, phần thưởng lúc đầu của anh chỉ là Ngôi Sao Bạc. Năm 1998, những nỗ lực nhằm giành Huân chương Danh dự cho Guy Gabaldon được khởi xướng. Cho đến nay, nó vẫn còn đang tiếp tục.
Kết quả
Thất bại của quân Nhật trong trận đánh Saipan đã kéo theo sự sụp đổ của Thủ tướng Nhật Hideki Tojo. Ngay sau khi tin thất trận bay về Tokyo, Tojo rút lui với tư cách là đầu não của quân đội Nhật Bản. Ngày 18 tháng 7, 1944, Tojo cùng toàn bộ chính phủ từ chức.Sau trận chiến, đảo Saipan trở thành một căn cứ quan trọng cho các chiến dịch khác trong quần đảo Mariana, và cuộc tấn công Philippines sau này (tháng 10/1944), quần đảo Ryukyu cũng như chính Nhật Bản.
Đại úy quân Nhật Sakeo Oba không chịu đầu hàng, ẩn trốn trong những ngọn núi cùng 46 binh lính khác, cho đến khi ông phải đầu hàng ngày 1 tháng 12 năm 1945.
Các bộ phim
Bộ phim Windtalkers năm 2002 đã mô tả lại trận đánh. Tuy nhiên, các cảnh về đảo Saipan lại được quay ở Hawaii và miền nam California.Chú thích
Tham khảo
Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về Trận chiến đảo Saipan |
- Chen, C. Peter. "The Marianas and the Great Turkey Shoot". World War II Database. Retrieved on 2005-05-31.
- Hoffman, Major Carl W., USMC (1950). Saipan: The Beginning of the End. USMC Historical Monograph. Historical Branch, United States Marine Corps. Retrieved on 2005-12-19.
- Jones, Don. Oba, The Last Samurai, Presido Press, 1986. (ISBN 0-89141-245-X)
- Petty, Bruce M. Saipan: Oral Histories of the Pacific War, McFarland and Company, 2001. (ISBN 0-7864-0991-6)
- U.S. Army Campaigns of World War II: Western Pacific. CMH Pub 72-29, U.S. Army Center of Military History: (2003). Retrieved on
Thể loại:
Giải Wimbledon (tiếng Anh: The Championships Wimbledon) là giải vô địch quần vợt Anh. Nó là giải lâu đời nhất và có uy tín nhất của môn quần vợt. Giải được tổ chức vào khoảng tháng 6, tháng 7, là giải thứ 3 trong hệ thống giải Grand Slam hàng năm, sau giải Úc mở rộng và Pháp mở rộng, và trước giải Mỹ mở rộng.
Giải tiến hành trong 2 tuần; trong 4 giải Grand Slam, đây là giải duy
nhất chơi trên sân cỏ. Giải bao gồm các giải đơn nam, đơn nữ, đôi nam,
đôi nữ và đôi nam nữ. Bên cạnh đó có giải trẻ, gồm đơn nam, đơn nữ, đôi
nam và đôi nữ. Ngoài ra còn tổ chức giải mời đặc biệt dành cho các tay
vợt đã giải nghệ: đôi nam từ 35 tuổi trở lên, đôi nam từ 45 tuổi trở
lên, đôi nữ từ 35 tuổi trở lên và giải đôi xe lăn, dành cho người khuyết tật chơi trên xe lăn.
Năm 1922 giải chuyển về địa điểm ngày nay là sân gần Church Road.
Ngày xưa người Anh chỉ chơi quần vợt làm trò thể thao giải trí với tinh thần "thượng võ" (tựa như Thế Vận Hội) cho nên họ xem những người chuyên nghiệp đánh kiếm tiền là "hạ đẳng", không xứng đáng được dự giải Wimbledon. Vì thế ngày xưa Wimbledon (cũng như 3 giải Grand Slam kia: Úc, Pháp, và Mỹ) chỉ cho các tay vợt tài tử (nghiệp dư) tham dự mà thôi. Mãi cho đến khi kỷ nguyên mở rộng của môn quần vợt bắt đầu năm 1968, những tay vợt chuyên nghiệp mới được cho tham dự.
Người Anh rất tự hào về giải đấu này, nhưng kể từ khi tay vợt Anh Fred Perry vô địch năm 1936, mãi đến năm 2013 sau 77 năm Andy Murray mới là tay vợt Anh thứ hai đã vô địch giải đơn nam sau khi giành chiến thắng lịch sử trước Novak Djokovic. Tại giải đơn nữ, chỉ có tay vợt Anh duy nhất Virginia Wade vô địch năm 1977.
Sân thi đấu chính ở Wimbledon có tên là Sân Trung tâm (Centre Court), các trận chung kết luôn diễn ra ở đó. Do thời tiết ở Luân Đôn hay mưa trong thời gian tổ chức giải, người ta đã quyết định lắp mái che di động trên sân, đã hoàn thành năm 2009.
Sân Số 1 nguyên thuỷ gắn liền với Sân Trung tâm, nhưng năm 1997 được làm lại, thay bằng khán đài mới có sức chứa lớn hơn. Người ta nói rằng Sân Số 1 nguyên thuỷ có một không khí rất độc đáo, được nhiều đấu thủ ưa thích, vì vậy việc thay nó đã làm buồn lòng nhiều người. Sân Số 1 cũng là nơi thi đấu một số trận quan trọng như tứ kết giải đơn, và có một màn ảnh truyền hình khổng lồ bên ngoài cho những người tụ tập trên một bãi cỏ cao để xem. Người Anh thường đặt tên cho ngọn đồi theo tên đấu thủ Anh "gà nhà" nào có nhiều hi vọng thắng giải. Ngày trước đấu thủ Anh đó là Tim Henman nên họ gọi là "ngọn đồi Henman". Nay đấu thủ Anh có hi vọng là Andy Murray nên lại gọi là "ngọn đồi Murray". Họ hy vọng có được nhà vô địch đơn nam người Anh đầu tiên kể từ Fred Perry năm 1936.
Sân Số 2 có hỗn danh là "Mồ chôn các nhà vô địch" vì nơi đó nhiều tay vợt có hạng từng thua những đấu thủ xếp hạng thấp hơn. Các nạn nhân có cả Andre Agassi, Pete Sampras... và suýt nữa là thêm Tim Henman ở vòng 1 giải năm 2005.
Trước kia, truyền thống của Sân Trung Tâm còn đòi hỏi các vận động viên khi vào sân và khi rời sân phải cúi chào các người thuộc hoàng tộc ngồi trong Chỗ Ngồi Hoàng Gia (Royal Box), nhưng từ sau 2003 họ chỉ phải chào khi có sự hiện diện của Nữ hoàng (Elizabeth II) hay Thái tử (Charles).
Hàng năm giải bắt đầu 6 tuần trước ngày thứ hai đầu tiên của tháng 8, và kéo dài 2 tuần. Theo truyền thống thì ngày Chủ nhật giữa giải là ngày nghỉ, nhưng do mưa nên đã có 3 lần thông lệ này bị vi phạm, lần gần đây nhất vào năm 2004. Tuần đầu tiên dành cho các vòng đấu ngoài, tuần thứ hai là các trận vòng 4, tứ kết, bán kết và chung kết.
Vô địch đơn nam được nhận một chiếc cúp mạ vàng cao chừng 46 cm (hơn 18 inch). Vô địch đơn nữ nhận một chiếc khay bạc đường kính chừng 48 cm (gần 19 inch), thường gọi là Đĩa Nước Hoa Hồng Vệ Nữ (Venus Rosewater Dish) hoặc gọi tắt là Đĩa Nước Hoa Hồng (Rosewater Dish). Các giải còn lại cũng có cúp. Năm 2009 tiền thưởng là 850.000 bảng Anh cho mỗi danh hiệu vô địch đơn nam và đơn nữ.
Đối với khán giả, món dâu tây và kem là món ăn Wimbledon truyền thống.
Về phía nam giới, đoạt giải đơn nhiều nhất là 7 lần: William Renshaw, người Anh (1881-86 và 1889), Pete Sampras, người Mỹ (1993-95 và 1997-2000), và Roger Federer, người Thụy Sĩ (2003-2007, 2009, 2012). Ngoài ra William Renshaw còn 5 lần vô địch giải đôi cùng với người anh em song sinh của mình, Ernest Renshaw.
Trong lịch sử cận đại của Wimbledon, vô địch đơn nam nổi tiếng gồm có Bjorn Borg (thắng 5 năm liên tiếp 1976-1980), Pete Sampras (thắng 7 lần: 1993-1995 và 1997-2000), và Roger Federer (thắng 7 lần: 2003-2007, 2009, 2012).
Năm 2013, Andy Murray đã trở thành tay vợt nam đầu tiên sau 77 năm của làng quần vợt vương quốc Anh giành chức vô địch Wimbledon sau khi anh đánh bại Djokovic 3-0 (6-4, 7-5, 6-4) trong trận chung kết.
Danh sách đầy đủ các nhà vô địch:
Giải Vô địch Wimbledon
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
- Mục từ này nói về giải quần vợt Wimbledon. Các nghĩa khác xin xem mục Wimbledon (định hướng).
The Championships Wimbledon | ||
---|---|---|
2009 Wimbledon Championships | ||
Grand Slam | ||
Địa điểm | Wimbledon, Luân Đôn Anh |
|
Mặt sân | Sân cỏ, ngoài trời | |
Bảng nam | 128S / 128Q / 64D | |
Bảng nữ | 128S / 96Q / 64D | |
Tiền thưởng | 12.550.000 £ | |
Trang web chính thức | ||
Các giải Grand Slam | ||
|
Mục lục
Lịch sử
Giải Vô địch được "Câu lạc bộ croquet và quần vợt sân cỏ toàn Anh" (All England Lawn Tennis and Croquet Club) tổ chức lần đầu tiên năm 1877 ở một sân gần Worple Road, Wimbledon, lúc đó chỉ thi đấu đơn nam. Năm 1884, Câu lạc bộ toàn Anh cho thêm đơn nữ và đôi nam; năm 1913 thêm đôi nữ và đôi nam nữ.Năm 1922 giải chuyển về địa điểm ngày nay là sân gần Church Road.
Ngày xưa người Anh chỉ chơi quần vợt làm trò thể thao giải trí với tinh thần "thượng võ" (tựa như Thế Vận Hội) cho nên họ xem những người chuyên nghiệp đánh kiếm tiền là "hạ đẳng", không xứng đáng được dự giải Wimbledon. Vì thế ngày xưa Wimbledon (cũng như 3 giải Grand Slam kia: Úc, Pháp, và Mỹ) chỉ cho các tay vợt tài tử (nghiệp dư) tham dự mà thôi. Mãi cho đến khi kỷ nguyên mở rộng của môn quần vợt bắt đầu năm 1968, những tay vợt chuyên nghiệp mới được cho tham dự.
Người Anh rất tự hào về giải đấu này, nhưng kể từ khi tay vợt Anh Fred Perry vô địch năm 1936, mãi đến năm 2013 sau 77 năm Andy Murray mới là tay vợt Anh thứ hai đã vô địch giải đơn nam sau khi giành chiến thắng lịch sử trước Novak Djokovic. Tại giải đơn nữ, chỉ có tay vợt Anh duy nhất Virginia Wade vô địch năm 1977.
Sân thi đấu
Wimbledon có 19 sân, tất cả đều có mặt sân cỏ. Đây là truyền thống "lawn tennis" (quần vợt trên sân cỏ) của người Anh, vì vậy họ vẫn muốn giữ mặc dù hầu hết tất cả các giải quần vợt khác trên thế giới dùng sân cứng (hard court) hoặc sân đất nện (clay court). Trên sân cỏ banh đi nhanh, nảy thấp và không đều, vì vậy nó thường thích ứng với những tay đấu thủ hay giao banh và chạy lên lưới (serve and volley). Nhưng có trường hợp đặc biệt là Bjorn Borg, vốn là tay vợt trước đó đã thành danh từ sân đất nện rất ít khi lên lưới, nhưng đã vô địch Wimbledon 5 năm liên tiếp (1976-1980).Sân thi đấu chính ở Wimbledon có tên là Sân Trung tâm (Centre Court), các trận chung kết luôn diễn ra ở đó. Do thời tiết ở Luân Đôn hay mưa trong thời gian tổ chức giải, người ta đã quyết định lắp mái che di động trên sân, đã hoàn thành năm 2009.
Sân Số 1 nguyên thuỷ gắn liền với Sân Trung tâm, nhưng năm 1997 được làm lại, thay bằng khán đài mới có sức chứa lớn hơn. Người ta nói rằng Sân Số 1 nguyên thuỷ có một không khí rất độc đáo, được nhiều đấu thủ ưa thích, vì vậy việc thay nó đã làm buồn lòng nhiều người. Sân Số 1 cũng là nơi thi đấu một số trận quan trọng như tứ kết giải đơn, và có một màn ảnh truyền hình khổng lồ bên ngoài cho những người tụ tập trên một bãi cỏ cao để xem. Người Anh thường đặt tên cho ngọn đồi theo tên đấu thủ Anh "gà nhà" nào có nhiều hi vọng thắng giải. Ngày trước đấu thủ Anh đó là Tim Henman nên họ gọi là "ngọn đồi Henman". Nay đấu thủ Anh có hi vọng là Andy Murray nên lại gọi là "ngọn đồi Murray". Họ hy vọng có được nhà vô địch đơn nam người Anh đầu tiên kể từ Fred Perry năm 1936.
Sân Số 2 có hỗn danh là "Mồ chôn các nhà vô địch" vì nơi đó nhiều tay vợt có hạng từng thua những đấu thủ xếp hạng thấp hơn. Các nạn nhân có cả Andre Agassi, Pete Sampras... và suýt nữa là thêm Tim Henman ở vòng 1 giải năm 2005.
Truyền thống
Xanh lá cây đậm và tía là những màu truyền thống của Wimbledon. Wimbledon cũng là giải đấu duy nhất bắt buộc các tay vợt phải mặc trang phục "chủ yếu là màu trắng" trong các trận đấu chính thức của giải.Trước kia, truyền thống của Sân Trung Tâm còn đòi hỏi các vận động viên khi vào sân và khi rời sân phải cúi chào các người thuộc hoàng tộc ngồi trong Chỗ Ngồi Hoàng Gia (Royal Box), nhưng từ sau 2003 họ chỉ phải chào khi có sự hiện diện của Nữ hoàng (Elizabeth II) hay Thái tử (Charles).
Hàng năm giải bắt đầu 6 tuần trước ngày thứ hai đầu tiên của tháng 8, và kéo dài 2 tuần. Theo truyền thống thì ngày Chủ nhật giữa giải là ngày nghỉ, nhưng do mưa nên đã có 3 lần thông lệ này bị vi phạm, lần gần đây nhất vào năm 2004. Tuần đầu tiên dành cho các vòng đấu ngoài, tuần thứ hai là các trận vòng 4, tứ kết, bán kết và chung kết.
Vô địch đơn nam được nhận một chiếc cúp mạ vàng cao chừng 46 cm (hơn 18 inch). Vô địch đơn nữ nhận một chiếc khay bạc đường kính chừng 48 cm (gần 19 inch), thường gọi là Đĩa Nước Hoa Hồng Vệ Nữ (Venus Rosewater Dish) hoặc gọi tắt là Đĩa Nước Hoa Hồng (Rosewater Dish). Các giải còn lại cũng có cúp. Năm 2009 tiền thưởng là 850.000 bảng Anh cho mỗi danh hiệu vô địch đơn nam và đơn nữ.
Đối với khán giả, món dâu tây và kem là món ăn Wimbledon truyền thống.
Các nhà vô địch
Martina Navratilova, người Mỹ gốc Tiệp Khắc, là tay vợt đoạt giải đơn nhiều nhất: 9 lần vô địch đơn nữ, 1978-79, 1982-87 và 1990, ngoài ra còn có 7 lần vô địch đôi nữ và 4 lần vô địch đôi nam nữ. Các tay vợt nữ thành công khác là Helen Wills Moody với 8 lần vô địch giải đơn; Dorothea Douglass Chambers và Steffi Graf, mỗi người 7 lần giải đơn.Về phía nam giới, đoạt giải đơn nhiều nhất là 7 lần: William Renshaw, người Anh (1881-86 và 1889), Pete Sampras, người Mỹ (1993-95 và 1997-2000), và Roger Federer, người Thụy Sĩ (2003-2007, 2009, 2012). Ngoài ra William Renshaw còn 5 lần vô địch giải đôi cùng với người anh em song sinh của mình, Ernest Renshaw.
Trong lịch sử cận đại của Wimbledon, vô địch đơn nam nổi tiếng gồm có Bjorn Borg (thắng 5 năm liên tiếp 1976-1980), Pete Sampras (thắng 7 lần: 1993-1995 và 1997-2000), và Roger Federer (thắng 7 lần: 2003-2007, 2009, 2012).
Năm 2013, Andy Murray đã trở thành tay vợt nam đầu tiên sau 77 năm của làng quần vợt vương quốc Anh giành chức vô địch Wimbledon sau khi anh đánh bại Djokovic 3-0 (6-4, 7-5, 6-4) trong trận chung kết.
Danh sách đầy đủ các nhà vô địch:
Kỉ lục
' | Hệ Open | Tay vợt | Số lần | Năm |
---|---|---|---|---|
Giải nam diễn ra từ 1877 | ||||
Vô đich nam nhiều lần nhất | Trước 1968: | William Renshaw | 7 | 1881, 1882, 1883, 1884, 1885, 1886, 1889 |
Sau 1968: | Pete Sampras Roger Federer |
7 | 1993, 1994, 1995, 1997, 1998, 1999, 2000 2003, 2004, 2005, 2006, 2007, 2009, 2012 |
|
Vô địch nam liên tiếp nhiều lần nhất | Trước 1968: | William Renshaw | 6 | 1881, 1882, 1883, 1884, 1885, 1886 |
Sau 1968: | Björn Borg Roger Federer |
5 | 1976, 1977, 1978, 1979, 1980 2003, 2004, 2005, 2006, 2007 |
|
Vô địch đôi nam nhiều lần nhất | Trước 1968: | Reggie Doherty & Laurie Doherty | 8 | 1897, 1898, 1899, 1900, 1901, 1903, 1904, 1905 |
Sau 1968: | Todd Woodbridge | 9 | 1993, 1994, 1995, 1996, 1997, 2000 (với Mark Woodforde), 2002, 2003, 2004 (với Jonas Björkman) | |
Vô đich đôi nam liên tiếp nhiều lần nhất | Trước 1968: | Reggie Doherty & Laurie Doherty | 5 | 1897, 1898, 1899, 1900, 1901 |
Sau 1968: | Todd Woodbridge & Mark Woodforde | 5 | 1993, 1994, 1995, 1996, 1997 | |
Vô địch đôi nam nữ nhiều lần nhất | Trước 1968: | Ken Fletcher
Vic Seixas |
4 | 1963, 1965, 1966, 1968 (với Margaret Court)
1953, 1954, 1955, 1956 (3 với Doris Hart, 1 với Shirley Fry Irvin) |
Sau 1968: | Owen Davidson | 4 | 1967, 1971, 1973, 1974 (với Billie Jean King) | |
Đoạt nhiều chức vô địch nhất (Tổng số vô địch: đơn, đôi, đôi nam nữ) | Trước 1968: | William Renshaw | 14 | 1880–1889 (7 đơn, 7 đôi) |
Sau 1968: | Todd Woodbridge | 9 | 1993–2004 (9 đôi) | |
Giải nữ diễn ra từ 1884 | ||||
Vô địch đơn nữ nhiều lần nhất | Trước 1968: | Helen Wills | 8 | 1927, 1928, 1929, 1930, 1932, 1933, 1935, 1938 |
Sau 1968: | / Martina Navrátilová | 9 | 1978, 1979, 1982, 1983, 1984, 1985, 1986, 1987, 1990 | |
Vô địch đơn nữ liên tiếp nhiều lần nhất | Trước 1968: | Suzanne Lenglen | 5 | 1919, 1920, 1921, 1922, 1923 |
Sau 1968: | / Martina Navrátilová | 6 | 1982, 1983, 1984, 1985, 1986, 1987 | |
Vô địch đôi nữ nhiều lần nhất | Trước 1968: | Elizabeth Ryan | 12 | 1914 (với Agatha Morton), 1919, 1920, 1921, 1922, 1923, 1925 (với Suzanne Lenglen), 1926 (với Mary Browne), 1927, 1930 (với Helen Wills), 1933, 1934 (với Simone Mathieu) |
Billie Jean King | 10 | 1961, 1962 (với Karen Hantze Susman), 1965 (với Maria Bueno), 1967, 1968, 1970, 1971, 1973 (với Rosie Casals), 1972 (với Betty Stöve), 1979 (với Martina Navrátilová) | ||
Sau 1968: | / Martina Navrátilová | 7 | 1976 (với Chris Evert), 1979 (với Billie Jean King), 1981, 1982, 1983, 1984, 1986 (với Pam Shriver) | |
Vô địch đôi nữ liên tiếp nhiều lần nhất | Trước 1968: | Suzanne Lenglen & Elizabeth Ryan | 5 | 1919, 1920, 1921, 1922, 1923 |
Sau 1968: | / Martina Navrátilová & Pam Shriver
/ Natasha Zvereva |
4 | 1981, 1982, 1983, 1984
1991 (với Larisa Neiland), 1992, 1993, 1994 (Gigi Fernández) |
|
Vô địch đôi nam nữ nhiều lần nhất | Trước 1968: | Elizabeth Ryan | 7 | 1919, 1921, 1923 (với Randolph Lycett), 1927 (với Frank Hunter), 1928 (với Patrick Spence), 1930 (với Jack Crawford), 1932 (với Enrique Maier) |
Sau 1968: | / Martina Navrátilová | 4 | 1985 (với Paul McNamee), 1993 (với Mark Woodforde), 1995 (với Jonathan Stark), 2003 (với Leander Paes) | |
Đoạt nhiều chức vô địch nhất (Tổng số chức vô địch: đơn, đôi, đôi nam nữ) | Trước 1968: | Billie Jean King | 20 | 1961–1979 (6 đơn, 10 đôi, 4 đôi nam nữ) |
Elizabeth Ryan | 19 | 1914–1934 (12 đôi, 7 đôi nam nữ) | ||
Sau 1968: | / Martina Navrátilová | 20 | 1976–2003 (9 đơn, 7 đôi, 4 đôi nam nữ) | |
Các kỷ lục khác | ||||
Thắng nhiều game nhất trong trận chung kết | Andy Roddick | 39 | 2009 | |
Thắng nhiều game nhất | John Isner | 92 | 2010 | |
Thi đấu nhiều trận nhất (nam) | Jean Borotra | 223 | 1922–1939, 1948–1964 | |
Thi đấu nhiều trận nhất (nữ) | / Martina Navrátilová | 326 | ||
Thua trận chung kết nhiều nhất (nam hoặc nữ) | Chris Evert Blanche Bingley Hillyard |
7 | ||
Nhà vô địch có thứ hạng thấp nhất(nam) | Goran Ivanišević | thứ 125 | 2001 | |
Đại diện người chiến thắng (nam) | Goran Ivanišević | 2001 | ||
Nhà vô địch có thứ hạng thấp nhất(nữ) | Venus Williams | thứ 31 thế giới(hạt giống số 23 trong giải) | 2007 | |
Trẻ tuổi nhất đoạt giải (nam) | Boris Becker | 17 | 1985 | |
Trẻ tuổi nhất đoạt giải (nữ) | Lottie Dod | 15 | 1887 | |
Trẻ tuổi nhất đoạt giải (đôi nữ) | Martina Hingis | 15 | 1996 | |
Trận chung kết dài nhất (thời gian) | Roger Federer vs Rafael Nadal |
4giờ 48phút | 2008 | |
Trận đấu có nhiều game nhất (game đấu) | John Isner vs Nicolas Mahut |
183 games | 2010 | |
Trận đấu dài nhất (nam) | John Isner vs Nicolas Mahut |
11giờ 5phút | 2010 | |
Trận chung kết dài nhất (nữ) | Lindsay Davenport vs Venus Williams |
2giờ 49phút | 2005 | |
Trận đấu dài nhất (nữ) | Serena Williams vs Elena Dementieva |
2giờ 49phút | 2009 |
Chú Thích
Liên kết ngoài
- Trang web chính thức của giải Wimbledon
- BBC Wimbledon Tennis
- Wimbledon Tennis Tournament
- Những huyền thoại Wimbledon
- Lịch sử Wimbledon
Gallery
Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về Giải Vô địch Wimbledon |
Thể loại:
Video yêu thích
http://www.youtube.com/user/hoangkimvietnam
Trở về trang chính
Hoàng Kim, hoangkim, hoangkimvietnam, Ngọc Phương Nam, Chào ngày mới Thung dung, Dạy và học, Cây Lương thực, Tin Nông nghiệp Việt Nam, Food Crops, Cassava in Vietnam, Khát khao xanh, Dayvahoc,Học mỗi ngày, Danh nhân Việt , Food Crops News, Điểm chính, CNM365, Kim LinkedIn, KimTwitter, KimFaceBook Đọc lại và suy ngẫm, Việt Nam tổ quốc tôi, Tình yêu cuộc sống, Thơ cho con
http://www.youtube.com/user/hoangkimvietnam
Trở về trang chính
Hoàng Kim, hoangkim, hoangkimvietnam, Ngọc Phương Nam, Chào ngày mới Thung dung, Dạy và học, Cây Lương thực, Tin Nông nghiệp Việt Nam, Food Crops, Cassava in Vietnam, Khát khao xanh, Dayvahoc,Học mỗi ngày, Danh nhân Việt , Food Crops News, Điểm chính, CNM365, Kim LinkedIn, KimTwitter, KimFaceBook Đọc lại và suy ngẫm, Việt Nam tổ quốc tôi, Tình yêu cuộc sống, Thơ cho con
No comments:
Post a Comment