Sultan
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Đối với các định nghĩa khác, xem Sultan (định hướng).
Sultan (tiếng Ả Rập: سلطان Sultān) là một tước hiệu chỉ định nhà vua được dùng ở các xứ nơi Hồi giáo là quốc giáo, và có nhiều ý nghĩa qua các đời. Ban đầu sultan là một danh từ trừu tượng trong tiếng Ả Rập có nghĩa là "sức mạnh", "quyền lực" hoặc "sự thống trị". Vào khoảng năm 1000 sultan trở thành vương hiệu và đến khoảng năm 1250 thì được dùng rộng rãi ở nhiều nước châu Á và châu Phi.Theo các từ điển Anh-Việt hay Pháp-Việt (như ở đây), sultan được dịch là "vua Thổ Nhĩ Kỳ" (The Sultan), hay "Vua (của một số nước Hồi giáo)". Ngoài ra, nhiều tài liệu cũng dịch chức này là "quốc vương", "hoàng đế", "Hồi vương"...
Một lãnh thổ do sultan cai trị theo tiếng Ả Rập gọi là sultanat (tiếng Ả Rập: سلطنة). Các thứ tiếng như Anh, Pháp cũng dùng theo danh từ này, phát âm chệch đi đôi chút. Theo các từ điển Anh-Việt, "sultanate" nghĩa là "ngôi vua ở các nước Hồi giáo", có tài liệu khác ghi "sultanat" là "Hồi quốc".
Tại đế quốc Ottoman, mẹ của một sultan đang trị vì được gọi là valide sultan, có thể dịch là hoàng thái hậu.
Những nữ hoàng cai trị các sultanat được gọi là sultana. Những người vợ của sultan cũng được gọi là sultana. Nhưng theo ý kiến của một số người, chỉ có những hoàng hậu, hoàng phi nào giúp chồng lo việc trị nước mới được gọi là sultana.
Mục lục
Lịch sử
Vị sultan đầu tiên
Vào khoảng năm 900, đế quốc Abbas, có lãnh thổ trải từ Trung Á đến Bắc Phi, bị suy yếu. Các khalip đứng đầu đế quốc này chỉ còn thực quyền ở thủ đô Bagdad và một ít đất đai khác. Khắp nơi, các tổng đốc đổi các tỉnh thành các nước độc lập, và thôn tính lẫn nhau. Các tổng đốc này thường được gọi là êmia. Lại có các êmia cai quản các địa hạt cấp nhỏ hơn, như một, hai thành trì. Các êmia nhỏ này thường phải khéo ngoại giao và khéo chọn phe để tồn tại.Khoảng năm 940, loạn lớn, nhà Abbas tưởng đã mất ngôi. Lúc bấy giờ có 3 anh em họ Buya đứng lên dẹp loạn, tái lập lại uy quyền của khalip ở các tỉnh trung ương, đại khái vùng Iraq và Iran. Người trẻ nhất trong 3 anh em à Ahmad ibn Buway chiếm được thủ đô Bagdad năm 945 và được phong tước « amîr al-umarâ’ » (êmia của các êmia), cũng hay gọi là « đại êmia ». Từ đó họ Buya nắm quyền chính trong triều và trở thành một triều đại truyền được hơn 100 năm, nối nhau áp chế các khalip.
Xuất xứ từ một tỉnh của đế quốc Abbas, tiếp nối theo nhà Samani, đế quốc Ghaznavi ở một phần của Trung Á, Iran và Ấn Độ chuyển sang một giai đoạn bành trướng mạnh dưới thời Mahmud của Ghazni (997 - 1030). Vị quốc trưởng này tỏ ý không thần phục nhà Buya, nên không muốn mang tước hiệu êmia. Ông ta cũng không muốn tranh chức khalip [1], nên đã chọn cho mình một vương hiệu mới là sultan.
Nhà Đại Seljuk
Những năm cuối đời, Mahmud của Ghazni đã phải chật vật đối phó với họ Seljuk nổi lên trong lãnh thổ. Họ này, dưới sự lãnh đạo của thủ lĩnh Togrul Beg, đã chiếm được phần lớn đế quốc Ghaznavi vào năm 1040. Sau đó, Togrul Beg tiến về phương tây, chiếm trọn lãnh thổ nhà Buya và thay nhà này kềm chế các khalip. Ông và các hậu duệ mang tước hiệu sultan, đóng đô ở Isfahan, nhân danh khalip truyền mệnh lệnh cho các êmia.Vài triều đại kế tiếp
Họ Seljuk không thống nhất được lâu. Họ phân chia thành các nước lớn nhỏ, trong số đó vua vài nước cũng xưng là sultan như nhà Seljuk của Tiểu Á (1077 - 1307) hay nhà Seljuk của Hamadan (1118 - 1194).Một triều đại xưng sultan nổi tiếng kế tiếp là nhà Ayyub. Nhà này do Salah ad-Din, mệnh danh Saladin Khôn Ngoan khởi đầu ở Ai Cập năm 1169. Ông nhận lệnh của khalip từ Bagdad và thống lĩnh nhiều êmia chiến tranh với Thập Tự Quân.
Trong các thế kỷ kế tiếp, thêm nhiều nước đã có vua xưng sultan, từ Maroc phía tây cho đến các tiểu quốc ở Indonesia phía đông. Gần Việt Nam đã có những sultan ở Philippines, Malaysia, Thái Lan và Vân Nam. Họ cùng tước hiệu này để biểu trưng sự gắn bó của họ với đạo Hồi, và cũng thường với hàm ý tôn trọng khalip.
Năm 1383, khalip bóng mờ của Cairo phong chức sultan cho Murad I của đế quốc Ottoman đang mạnh lên; các vua Ottoman trước đó chỉ là êmia hay bey - nhỏ hơn sultan. Một trường hợp đặc biệt, các sultan của đế quốc Ottoman, từ năm 1517 trở đi, thường kiêm xưng luôn tước hiệu khalip.
Những vị "nữ sultan"
Vị nữ sultan đầu tiên cai trị trên danh nghĩa của chính mình (trước đó đã có những người mẹ nhiếp chính cho các sultan còn thơ ấu) có lẽ là Sultana Razya (1236 - 1240) thuộc nhà sultan Mamluk ở Bắc Ấn. Bà đã kiến lập nhiều trường học, hàn lâm viện, trung tâm nghiên cứu, và thư viện công cộng. Bà không cho mọi người gọi bà là sultana mà phải gọi sultan. Theo bà, chỉ có các hậu, phi vợ của sultan mới là sultana.Chand Sultana, tức Chand Bibi đã làm nhiếp chính cho xứ của chồng là xứ Bijapur từ năm 1580 đến năm 1590. Sau đó bà lại làm nhiếp chính cho quê hương bà là xứ Ahmednagar vùng Mumbai từ năm 1596 đến năm 1599. Bà biết nhiều thứ tiếng, trong đó có tiếng Ả Rập, tiếng Ba Tư, tiếng Kannada, tiếng Marathi và tiếng Thổ Nhĩ Kỳ.
Đế quốc Ottoman có một giai đoạn gọi là « Thời Nữ Đế » (tiếng Thổ Nhĩ Kỳ: kadinlar saltanati) kéo dài khoảng 130 năm. Trong giai đoạn này, nhiều bà thái hậu, hoặc thái hoàng thái hậu như Kosem Sultan (1589 - 1651) đã nhiều lần chấp chính thay con cháu còn chưa khôn lớn.
Ở xứ Sulu, vợ của sultan có danh hiệu là "panguian", chứ không phải "sultana".
Hiện đại
Ngày nay, danh hiệu sultan vẫn còn được dùng tại:- Brunei. Hassanal Bolkiah, vị sultan thứ 29 của tiểu quốc này đã được xếp hạng là người giàu nhất thế giới năm 1997.
- Cộng hoà Indonesia. Chức sultan vẫn còn được cha truyền con nối tại:
- 3 triều đình của Cirebon.
- Triều đình của Pontianak.
- Triều đình của Ternate.
- Triều đình của Tidore.
- Triều đình của Yogyakarta.
- 7 trong 9 xứ họp thành liên bang Malaysia: Johor, Kedah, Kelantan, Pahang, Perak, Selangor và Terengganu. Cả 7 xứ này đều nằm ở bán đảo Mã Lai.
- Xứ Oman ở bán đảo Ả Rập.
Các chức tước
Ít được biết đến hơn, danh từ sultan còn được dùng để đặt tên chức tước hay cấp bậc trong quân đội.Tại hãn quốc Astrakhan của người Thát Đát, sultan là tên của một phẩm tước dành cho quý tộc.
Tại đế quốc Ba Tư sau thế kỷ thứ 15, sultan là một cấp bậc trong quân đội suýt soát ngang với cấp Đại úy tại châu Âu.
Họ và tên
Sultan cũng là họ và tên của nhiều người. Tên Sultan là một tên thông dụng trong phái nam, tên Sultana bên phái nữ thì hiếm hơn.Một số người mang tên Sultan đã trở thành nổi tiếng như:
- Tippu Sultan, vua xứ Mysore ở miền nam Ấn Độ từ năm 1782 đến năm 1799. Ông xưng hiệu là Padishah (Vương Chủ).
- Nursultan Nazarbayev, tổng thống xứ Kazakhstan từ năm 1990. Nursultan là ghép từ hai chữ Nur (tiếng Ả Rập: ánh sáng) và sultan.
- Sultan bin Abdul Aziz Al Saud, đông cung thái tử vương quốc Ả Rập Saudi từ ngày 1 tháng 8 năm 2005.
Chú thích
- ^ The Cambridge History of Iran, vo l 4, tr 169, 170, 179, 183.
Tham khảo
Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về Sultan |
- Vương Thuyền - phần nói về Ba Tư xưa
- Prince Sultan Bin Abdulaziz International Prize for Water - Official Website
- WorldStatesmen - see each present nation
- "Constantinople City of the World's Desire", Philip Mansel, Penguin Books, 1997.
- "Les grandes dates de l'Islam", sous la direction de Robert Mantran, Editions Larousse, Paris 1990.
- "The Cambridge History of Iran - vol 4 - From the Arab invasion to the Saljuks", Cambridge University Press 1975, ISBN 0-521-20093-8.
Thể loại:
Hassanal Bolkiah Mu'izzaddin Waddaulah là đương kim Sultan, Thủ tướng, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Bộ trưởng Bộ Tài chính của Brunei Darussalam. Ông là vị Sultan thứ 29 của đất nước Brunei.
Hassanal Bolkiah sinh ngày 15 tháng 7 năm 1946, là trưởng nam của Omar Ali Saifuddien III - vị Sultan thứ 29 của Brunei. Năm 1961, ông được phong làm Thái tử. Năm 1966, ông sang Anh học tại Trường Sĩ quan Lục quân Hoàng gia Sandhurst. Năm 1967, ông về nước và kế vị vua cha. Cũng như cha, ông được Nữ hoàng Elizabeth II của Anh phong tước Hiệp sĩ. Năm 1984, Brunei độc lập, ông kiêm giữ chức Thủ tướng, Bộ trưởng Quốc phòng và Bộ trưởng Tài chính.
Sultan Hassanal Bolkiah có 1 Hoàng hậu - Raja Isteri Pengiran Anak Saleha, và 2 cung phi - Pengiran Isteri Mariam và Pengiran Isteri Azrinaz Mazhar. Ngài có 7 Công chúa và 5 Hoàng tử (tính cả Thái tử Al - Muhtadee Billah)
Quốc vương Brunei hiện sở hữu khối tài sản khổng lồ, có cả một Airbus 340 bên cạnh sáu chuyên cơ nhỏ, hơn 2 trực thăng, 6.000 ôtô và một cung điện 1.788 phòng. Ông cũng là người cho xây dựng nhà thờ Hồi giáo nạm vàng và kim cương.[1]
Ông Obama đã bày tỏ sự ngưỡng mộ đối với ông Bolkiah: "Tôi nghĩ có lẽ ông ấy là nguyên thủ duy nhất trên thế giới tự điều khiển một chiếc Boeing 747". Ông Obama còn đùa: "Nếu các phi công Không lực 1 (Air Force One) gặp vấn đề, chúng tôi đã biết sẽ tham vấn ai".Lỗi chú thích: Thẻ
- Từ và thuật ngữ Ả Rập
- Nguyên thủ quốc gia
- Tước hiệu Hồi giáo
- Lịch sử Hồi giáo
- Quân hàm
- Tước vị hoàng tộc
- Tước vị quý tộc
- Địa vị
- Sultan
- Tước hiệu
- Tước hiệu Thổ Nhĩ Kỳ
- Tước hiệu quốc gia hay nhóm người thiểu số
- Tước hiệu Afghanistan
- Tước hiệu Pakistan
- Tước hiệu Iran
- Từ mượn Ả Rập
- Chức vụ có thẩm quyền
- Làng Thổ Nhĩ Kỳ theo tỉnh
- Tước hiệu quý tộc
Hassanal Bolkiah
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Hassanal Bolkiah | |
---|---|
Sultan Yang Dipertuan Negara Hassan al Bolkiah Mu'izzaddin Waddaulah |
|
Sultan của Brunei | |
Tại vị | 4 tháng 10, 1967 (46 năm, 283 ngày) |
Đăng quang | 1 tháng 8, 1968 |
Tiền nhiệm | Omar Ali Saifuddien III |
Heir-Apparent | Al-Muhtadee Billah |
Thông tin chung | |
Hậu duệ | Al-Muhtadee Billah Azim 'Abdul Malik Abdul Mateen 'Abdul Wakeel Rashidah Muta-Wakkilah Majeedah Hafizah 'Azemah Fadzilah Ameerah |
Sinh | 15 tháng 7, 1946 Istana Darussalam, Bandar Seri Begawan, Brunei, British Empire |
Tôn giáo | Muslim - Sunni |
Hassanal Bolkiah sinh ngày 15 tháng 7 năm 1946, là trưởng nam của Omar Ali Saifuddien III - vị Sultan thứ 29 của Brunei. Năm 1961, ông được phong làm Thái tử. Năm 1966, ông sang Anh học tại Trường Sĩ quan Lục quân Hoàng gia Sandhurst. Năm 1967, ông về nước và kế vị vua cha. Cũng như cha, ông được Nữ hoàng Elizabeth II của Anh phong tước Hiệp sĩ. Năm 1984, Brunei độc lập, ông kiêm giữ chức Thủ tướng, Bộ trưởng Quốc phòng và Bộ trưởng Tài chính.
Sultan Hassanal Bolkiah có 1 Hoàng hậu - Raja Isteri Pengiran Anak Saleha, và 2 cung phi - Pengiran Isteri Mariam và Pengiran Isteri Azrinaz Mazhar. Ngài có 7 Công chúa và 5 Hoàng tử (tính cả Thái tử Al - Muhtadee Billah)
Xa hoa và giàu có
Quốc vương Hassanal Bolkiah vốn nổi tiếng là giàu có với tài nguyên dầu mỏ dồi dào của đất nước Brunei. Ông sở hữu chuyên cơ riêng Boeing 747 với giá 400 triệu và sử dụng khoảng 120 triệu USD để tân trang bằng vàng ròng và pha lê thương hiệu nổi tiếng Lalique.[1]Quốc vương Brunei hiện sở hữu khối tài sản khổng lồ, có cả một Airbus 340 bên cạnh sáu chuyên cơ nhỏ, hơn 2 trực thăng, 6.000 ôtô và một cung điện 1.788 phòng. Ông cũng là người cho xây dựng nhà thờ Hồi giáo nạm vàng và kim cương.[1]
Cá tính đặc biệt
Ngày 11.3.2013, quốc vương Hassanal Bolkiah đã tự lái chuyên cơ của mình là chiếc Boeing 747 đến Washington D,C để hội đàm cùng Tổng thống Obama về các vấn đề hợp tác dầu khí và biến đổi khí hậu. Đặc biệt Tổng thống Obama mong muốn Hội nghị thượng đỉnh Mỹ - ASEAN do Brunei chủ trì vào tháng 10 tới sẽ diễn ra tốt đẹp.[1]Ông Obama đã bày tỏ sự ngưỡng mộ đối với ông Bolkiah: "Tôi nghĩ có lẽ ông ấy là nguyên thủ duy nhất trên thế giới tự điều khiển một chiếc Boeing 747". Ông Obama còn đùa: "Nếu các phi công Không lực 1 (Air Force One) gặp vấn đề, chúng tôi đã biết sẽ tham vấn ai".Lỗi chú thích: Thẻ
<ref>
sai; thẻ ref không có nội dung thì phải có tênTham khảo
Liên kết ngoài
Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về Hassanal Bolkiah |
- Government of Brunei
- Leppard, David. "Sultan caught in property feud", Times Online, 30 July 2006
- A Brunei Royal Scandal & Bad Business Dealings
- Kennedy, Dominic. "The prince, the lawyer and his wife lose out in court", The Times, 26 January 2007. article regarding Thomas Derbyshire and Faith Zaman losing appeal against freezing of assets in multi-million dollar fraud case
- Forbes World's Richest People 1997, Forbes.com
- Brunei's Battle Royal, Business Week
- Unofficial website about the sultan; linked 17 February 2006
- Usborne, David. "Brotherly love runs out", 11 February 2006, about the sultan's legal fight with his brother; linked 17 February 2006
- Sultan of Brunei, New Internationalist, May 2000
- Brunei, a Shellfare State – a report of a visit to Brunei
Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về Hassanal Bolkiah |
Nhà thờ Mộ Thánh
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nhà thờ Mộ Thánh (Kitô giáo Đông phương gọi là Nhà thờ Phục sinh), là một nhà thờ nằm ở bên trong bức tường thành của thành phố cổ Jerusalem. Nhà thờ này ở gần khu Muristan.[1]
Nơi đây được tôn kính như đồi Golgotha (đồi Can Vê hay Golgotha)[2] nơi chúa Giêsu bị đóng đinh vào thập giá[3] và cũng được cho là gồm cả nơi mà chúa Giêsu được mai táng và đã sống lại sau 3 ngày. Nhà thờ này là điểm viếng thăm quan trọng của những Kitô hữu hành hương ít nhất từ thế kỷ thứ 4. Ngày nay nhà thờ này cũng được dùng làm trụ sở chính của Thượng phụ Chính thống giáo Hy Lạp ở Jerusalem (Greek Orthodox Patriarch of Jerusalem), trong khi quyền kiểm soát nhà thờ này được chia sẻ giữa nhiều giáo hội Kitô giáo khác nhau, như Chính Thống giáo Đông phương, Chính Thống giáo Cổ Đông phương và Giáo hội Công giáo Rôma. Các giáo hội Anh giáo và Tin Lành không có sự hiện diện thường trực trong nhà thờ này.[4] và các thực thể thế tục trong các thỏa thuận phức tạp về cơ bản không thay đổi trong nhiều thế kỷ.
Khoảng năm 325-326 hoàng đế Constantine I ra lệnh phá đền thờ Aphrodite và đào đất nền của đền thờ đưa đi nơi khác, rồi chỉ thị cho Macarius of Jerusalem - vị giám mục địa phương – xây một nhà thờ trên địa điểm này. Tập Itinerarium Burdigalense[8] tường thuật trong năm 333: Tại đây, hiện nay, do lệnh của hoàng đế Constantine, đã xây dựng một vương cung Thánh đường, tức là một nhà thờ đẹp lạ lùng.[9] Hoàng đế Constantine hướng dẫn cho mẹ ông – hoàng thái hậu Helena - xây các nhà thờ trên những địa điểm tưởng nhớ tới cuộc đời của chúa Giêsu. Bà đã hiện diện từ năm 326 trong việc xây dựng nhà thờ này và đích thân tham gia các cuộc khai quật và xây dựng.
Trong khi khai quật, Helena (được cho là) đã tái phát hiện Thánh giá thật, và ngôi mộ (chôn xác Chúa), dù rằng tường thuật của Eusebius không đề cập tới sự có mặt của Helena tại nơi khai quật cũng như việc phát hiện Thánh giá, mà chỉ nói tới ngôi mộ. Theo Eusebius, ngôi mộ đưa ra một bằng chứng rõ ràng, có thể nhìn thấy rằng đó chính là ngôi mộ của chúa Giêsu;[10][11] Socrates Scholasticus (s. khoảng năm 380), trong quyển Ecclesiastical History (Lịch sử Giáo hội Kitô) của ông đã mô tả đầy đủ việc phát hiện này[12] (sau này được Sozomen và Theodoret nhắc lại) trong đó nhấn mạnh vai trò của Helena trong việc khai quật và xây dựng nhà thờ này; cũng giống như Nhà thờ Giáng Sinh ở Bethlehem (cũng do Constantine và Helena thiết lập) để tưởng nhớ việc đản sinh của chúa Giêsu, thì Nhà thờ mộ Thánh là để tưởng niệm cái chết và sự sống lại của Ngài.
Nhà thờ do hoàng đế Constantine xây gồm 2 nhà thờ nối liền với nhau trên 2 địa điểm thiêng liêng khác nhau, trong đó là một vương cung Thánh đường (gọi là Martyrium (Tử đạo) mà một phụ nữ tên Egeria đã viếng thăm trong thập niên 380), một atrium[13] (tên là Triportico) với đồi Golgotha truyền thống ở một góc, và một rotunda (phòng lớn hình tròn), gọi là Anastasis (Phục sinh), nơi có di tích của một ngôi "mộ đục vào trong núi đá" mà Helena và giám mục Macarius xác định là mộ mai táng chúa Giêsu. Mặt đá ở đầu phía tây của tòa nhà được đục bỏ, mặc dù không biết rõ là ở thời Constantine nó còn lại bao nhiêu, vì việc nghiên cứu khảo cổ đã phát hiện là ngôi đền thờ nữ thần Aphrodite rộng tới khu phòng lớn hình tròn (rotunda) hiện nay,[14] và vì thế mép ngoài của đền thờ phải xa hơn về phía tây. Theo truyền thuyết, Constantine đã cho đục bỏ mặt đá chung quanh ngôi mộ, mà không làm hại nó, để cô lập ngôi mộ, ở trung tâm của gian phòng lớn hinh tròn (rotunda) là một nhà nhỏ được gọi là "Kouvouklion" (Kουβούκλιον; tiếng Hy Lạp hiện đại = ngăn phòng nhỏ) hoặc Aedicule[15] (từ chữ Latin: aediculum = ngôi nhà nhỏ), được cho là bao quanh ngôi mộ này, mặc dù ngày nay không có thể xác minh truyền thuyết nói trên, vì các di tích còn lại được hoàn toàn bao bọc bởi một vỏ bọc bằng đá cẩm thạch. Việc khám phá ra các ngôi mộ kokhim[16] ngay bên ngoài tường phía tây của nhà thờ, và gần đây hơn việc điều tra khảo cổ học ở sàn của gian phòng lớn hinh tròn, cho thấy một mũi núi hẹp có độ dài ít nhất 10 yard (= 9,14 m) đã phải nhô ra từ mặt đá nếu những vật ở bên trong ngăn phòng nhỏ (Aedicule) đã một lần tồn tại bên trong nó. Kiến trúc vòm của gian phòng lớn hình tròn đã được hoàn thành vào cuối thế kỷ thứ 4. Hàng năm, Giáo Hội Chính Thống giáo Đông phương cử hành lễ kỷ niệm ngày Thánh hiến nhà thờ Phục sinh (nhà thờ Mộ Thánh) vào ngày 13 tháng 9 (đối với những nhà thờ theo Lịch Julius truyền thống, ngày13 hiện rơi vào ngày 26 tháng 9 của Lịch Gregory hiện đại).
Cuộc thập tự chinh thứ nhất đã được hình dung như là một cuộc hành hương có vũ trang, và không có người thập tự chinh nào có thể coi cuộc hành trình của mình là hoàn thành trừ khi anh ta đã cầu nguyện như một người hành hương tại Mộ Thánh. Hoàng thân Godfrey de Bouillon tham gia Thập tự chinh, người đã trở thành người Thập tự chinh đầu tiên chiếm được Jerusalem, đã quyết định không sử dụng danh hiệu vua trong suốt cuộc đời mình, và tự tuyên bố mình là "Advocatus Sancti Sepulchri ( Người bảo vệ Mộ Thánh).
Ở thời Thập tự chinh, một bể chứa nước dưới vương cung Thánh đường cũ được đồn đại là nơi mà hoàng thái hậu Helena tìm thấy Thánh Giá thật, và bắt đầu được tôn kính như vậy; dù rằng bể đó sau này trở thành "Nhà nguyện phát hiện Thánh Giá", không có bằng chứng cho tin đồn trước thế kỷ 11, và việc nghiên cứu khảo cổ hiện đại bây giờ cho thấy bể chứa được Monomachos sửa chữa ở thế kỷ 11.[14]
Nhà chép sử biên niên William xứ Týros tường thuật việc làm lại nhà thờ này ở giữa thế kỷ thứ 12. Quân Thập tự chinh nghiên cứu khu phế tích phía đông của nơi này, đôi khi đào bới qua đống đổ nát, và trong khi cố gắng đào tìm bể chứa nước, họ đã phát hiện ra một phần mức nền nguyên thủy bao quanh ngôi đền của Hadrian; họ đã quyết định biến nơi này thành một nhà nguyện cung hiến cho Helena (Nhà nguyện Thánh nữ Helena), mở rộng đường hầm khai quật ban đầu của họ thành một cầu thang thích hợp. Quân Thập tự chinh bắt đầu tái trang bị nhà thờ theo kiểu kiến trúc Roman và thêm vào một tháp chuông. Những công trình xây dựng lại này đã hợp nhất các nhà nguyện nhỏ ở đây thành một tổng thể và đã được hoàn thành dưới thời trị vì của Nữ hoàng Melisende trong năm 1149, lần đầu tiên đặt tất cả các nơi Thánh nằm chung dưới một mái nhà. Nhà thờ này trở thành trụ sở của Latin Patriarchs[23] thứ nhất, và cũng là trụ sở của scriptorium (phòng viết các bản sao)của vương quốc Jerusalem. Nhà thờ, cùng với phần còn lại của thành phố Jerusalem, đã bị rơi vào tay Saladin năm 1187, mặc dù hiệp ước thành lập sau cuộc thập tự chinh thứ ba cho phép cho các người hành hương Kitô giáo được tới nhà thờ này. Hoàng đế Friedrich II của đế quốc La Mã Thần Thánh chiếm lại thành phố và nhà thờ theo một hiệp ước trong thế kỷ 13, trong khi bản thân ông đang bị vạ tuyệt thông, dẫn đến kết quả kỳ cục là ngôi nhà thờ linh thiêng nhất của Kitô giáo được đặt dưới quyền của một tín hữu bị Giáo hội cấm chỉ tham gia nghi lễ phụng vụ. Năm 1244, cả thành phố Jerusalem và nhà thờ này bị Khwarezm chiếm.
Năm 1808, một cuộc hỏa hoạn lại làm hư hại nhà thờ lần nữa, khiến cho mái vòm của Rotunda sụp đổ và phá tan phần trang trí bên ngoài của Edicule. Rotunda và phần bên ngoài của Edicule được xây dựng lại trong năm 1809-1810 bởi kiến trúc sư Komminos of Mytilene theo phong cách kiến trúc Baroque thịnh hành thời đó. Đám cháy không lan vào bên trong Aedicule, và phần trang trí bằng đá cẩm thạch của Mộ được khôi phục lại từ năm 1555, mặc dù nội thất của tiền phòng, bây giờ được gọi là "nhà nguyện thiên thần", đã được xây dựng lại một phần theo mặt bằng hình vuông, thay cho phần cuối dạng bán cầu ở phía tây trước đó.
Một firman (sắc lệnh) khác năm 1853 của sultan củng cố sự phân chia nhà thờ hiện tại giữa các cộng đồng (Chính Thống giáo và Công giáo) và thiết lập một nguyên trạng cho các sắp xếp để "tồn tại mãi mãi", gây ra những bất đồng ý kiến về việc bảo trì và thậm chí các thay đổi nhỏ, bao gồm cả bất đồng về việc loại bỏ một cái thang ở bên ngoài ban-công cuối nhà thờ dưới một cửa sổ; cái thang này vẫn ở nguyên một vị trí kể từ đó đến nay.[27]
Tấm ốp đá cẩm thạch màu đỏ mà Komminos dùng cho Aedicule đã xuống cấp nặng và bị lìa khỏi cấu trúc cơ bản. Từ năm 1947 "chính quyền Anh ủy trị Palestine" (chính quyền Anh cai trị Palestine theo ủy nhiệm của Liên Hiệp Quốc) đã cho đặt một khung sắt ốp bên ngoài để giữ tấm đá cẩm thạch nói trên khỏi bị hư hại. Cho tới nay vẫn không có thỏa thuận nào (giữa các bên) về việc tu bổ sửa chữa tấm ốp nói trên. Vòm nóc nhà thờ hiện nay được xây từ năm 1870, đã được tu bổ trong thời gian từ năm 1994-1997, như là một phần của những việc trùng tu mở rộng hiện đại Nhà thờ Mộ Thánh, được tiến hành từ năm 1959. Trong thời gian từ năm 1973 tới 1978 các công trình phục hồi và khai quật bên trong tòa nhà và dưới khu phố Muristan gần đó, đã xác định được rằng nơi này nguyên là một mỏ đá, mà từ đó "meleke" trắng, đá vôi đã được khai thác.[28] Về phía đông của Nhà nguyện Thánh Helena, những người khai quật đã phát hiện một ô trống có chứa một bản vẽ tàu thủy La Mã ở thế kỷ thứ 2 sau Công Nguyên,[29] 2 bức tường thấp chống đỡ nền của ngôi đền từ thế kỷ thứ 2 của thời Hadrian, và một bức tường cao hơn ở thế kỷ thứ 4 được xây dựng để chống đỡ Vương Cung Thánh Đường của Constantine.[30][31] Gần đây nhà chức trách Giáo hội Chính thống Armenia đã cải tạo nơi khảo cổ này thành "nhà nguyện Thánh Vartan", và làm một lối đi bộ nhân tạo trên mỏ đá ở phía bắc của nhà nguyện, để có thể đi vào nhà nguyện này từ "nhà nguyện Thánh Helena (nếu được phép).
Đã có vài tranh cãi trong năm 2010, khi Hội đồng thành phố Jerusalem đe dọa cúp nước dẫn vào nhà thờ do tranh cãi về các hóa đơn tiền nước.[32]
Catholicon
Rotunda (Phòng tròn lớn trên có mái vòm)
Phiến đá xức dầu
Nhà nguyện jacobite
Mộ ông Giuse Arimathie
Nhà nguyện Chính thống giáo copte
Gian cung thánh latin
Bàn thờ thánh Maria Madalena
Nhà nguyện dòng Phanxicô kính việc Chúa sống lại hiện ra với Đức Mẹ
Nhà người Hồi giáo gác cửa nhà thờ
Lối vào nhà thờ (cánh ngang phía nam)
Nhà nguyện dòng Phanxicô kính 7 sự đau khổ Đức Mẹ
Nhà nguyện Công giao kính việc đóng đinh Chúa
Nhà nguyện Chính thống giáo Hy Lạp ở đồi Canvê
Bàn thờ trên đồi Canvê
Bàn thờ Stabat Mater
Bàn thờ nơi Chúa bị đóng đinh
Gian cung thánh Chính thống giáo Hy Lạp
Vòm Đức Mẹ Marria
Nhà nguyện nơi Chúa bị nhốt
Nhà nguyện Chính thống giáo Hy Lạp kính thánh Longinus
Nhà nguyện Chính thống giáo Armenia về việc lính Do Thái chia áo Chúa Giêsu
Nhà nguyện nơi Chúa bị sỉ nhục
Nhà nguyện thánh Helena
Nhà nguyện nơi phát hiện Thánh giá thật
Nhà nguyện thánh Vardan
Mỏ khai thác đá thời xưa
Lối vào nhà thờ là thông qua một cửa duy nhất ở cánh ngang phía nam nhà thờ. Lối đi hẹp này để vào một tòa nhà lớn như vậy đã tỏ ra có những lúc rất nguy hiểm. Ví dụ, khi một đám cháy xảy ra vào năm 1840, hàng chục người hành hương đã bị dẫm đạp đến chết. Năm 1999, các cộng đồng (Chính Thống giáo và Công giáo) đã đồng ý làm một cửa thoát hiểm mới ở nhà thờ, nhưng cho tới nay cũng chưa thấy nói cửa đó đã được làm hay chưa.
Bên dưới đồi Can-vê và 2 nhà nguyện ở đó, trên sàn chính, là Nhà nguyện của Adam. Theo truyền thuyết, Chúa Giêsu bị đóng đinh trên nơi mà hộp sọ Adam được chôn cất. Đá của đồi Can-vê được nhìn thấy bị nứt thông qua một cửa sổ trên bức tường bàn thờ, vết nứt theo truyền thuyết được cho là gây ra bởi trận động đất xảy ra khi Chúa Giêsu gục chết trên thập giá, và được các học giả nói là do kết quả của việc khai thác đá ở một chỗ nứt tự nhiên trong đá.[33]
Việc thiết lập "nguyên trạng" năm 1853 cũng không làm ngưng được bạo hành, vẫn thường tiếp tục xẩy ra, ngay cả trong thời hiện đại. Trong một ngày mùa hè nóng bức năm 2002, một tu sĩ giáo hội Chính Thống Coptic đã di chuyển chiếc ghế của mình từ vị trí đã thỏa thuận vào trong bóng râm. Việc này được các tu sĩ Chính Thống giáo Ethiopian coi như thái độ thù địch, dẫn tới đánh lộn khiến 11 người phải nhập viện.[38]
Trong một vụ va chạm khác vào năm 2004 trong khi giáo hội Chính Thống giáo đang cử hành "Lễ suy tôn Thánh giá"thì một cửa ở nhà nguyện của dòng Phanxicô (Công giáo) vẫn mở. Điều này được bên Chính Thống giáo coi như không tôn trọng họ, nên đã nổ ra vụ ẩu đả khiến vài người bị bắt, nhưng không ai bị thương nặng.[39]
Ngày Chúa nhật Lễ Lá, trong tháng 4 năm 2008, một cuộc cãi lộn đã nổ ra khi một tu sĩ Hy Lạp bị một phe đối lập tống ra khỏi tòa nhà. Cảnh sát đã được gọi tới nhưng cũng bị những người hăng máu đang cãi lộn tấn công luôn.[40] Một cuộc va chạm giữa các tu sĩ Armenia và Hy Lạp cũng đã nổ ra trong ngày chúa nhật 9.11.2008, trong khi cử hành Lễ kính Thánh Giá.[41][42]
Theo thỏa thuận nguyên trạng (status quo), không phần chung nào của nhà thờ được bố trí lại nếu không có sự đồng thuận của tất cả các cộng đồng tôn giáo nói trên. Điều này thường dẫn tới tình trạng bỏ bê không sửa chữa kịp thời các hư hại khi các cộng đồng nói trên không thỏa hiệp được với nhau. Điển hình là tình trạng chậm trễ trong việc tu sửa edicule (gian phòng nhỏ chứa mộ Chúa), khiến cho nhu cầu sửa chữa nơi này hiện nay trở nên cấp thiết.
Một ví dụ bất tiện khác về thỏa thuận giữ nguyên trạng là một chiếc thang bằng gỗ dưới cửa sổ bên ngoài lan can trên lối vào nhà thờ: một người nào đó đã đặt chiếc thang này ở đây trước năm 1852, mà theo thỏa thuận giữ nguyên trạng thì nơi đây là phần chung, nên chiếc thang vẫn nằm y nguyên ở vị trí này cho tới ngày nay, không ai được đụng vào.[43][44]
Không cộng đoàn nào kiểm soát lối vào chính. Năm 1192, Saladin phân công việc kiểm soát cửa vào nhà thờ cho hai gia đình người Hồi giáo lân cận. Gia tộc Joudeh Al-Goudia được giao phó nhiệm vụ giữ các chìa khóa của nhà thờ, còn gia tộc Nusseibeh phụ trách giữ cửa. Biện pháp bố trí này còn tồn tại tới ngày nay. Gia đình Joudeh Al-Goudia nắm giữ các tài liệu của các vua Hồi giáo Ottoman cai trị Jerusalem xác định họ là gia đình duy nhất được trao phó các chìa khóa của nhà thờ.
Khả năng có thể một ngôi mộ ở thế kỷ thứ nhất được đặt ở phía tây thành phố Jerusalem thật đáng ngờ, vì theo Akiba ben Joseph - vị lãnh đạo giáo sĩ Do Thái ở cuối thế kỷ thứ nhất - được trích dẫn trong sách Mishnah (sách chép luật Do Thái truyền khẩu) – thì các ngôi mộ không được đặt ở phía tây thành phố vì gió ở Jerusalem thường thổi tới từ hướng tây, và như vậy sẽ đem theo mùi ô uế của xác chết vào thành phố cùng Núi Đền Thờ.[51]. Hồ sơ khảo cổ cho biết là những chỉ thị do Akiba ben Joseph nêu ra bên trên cho việc chọn địa điểm mai táng, được tuân thủ cách cứng nhắc; hầu như mọi ngôi mộ của Jerusalem cổ truyền đều nằm ở phía đông thành phố, trên Núi Olives, ngoại trừ vài ngôi mộ nằm cách một kilometre về phía tây, và các ngôi mộ trong Nhà thờ Mộ Thánh[52]
Tuy nhiên, ta phải lưu ý rằng, nơi được cho là hốc tường đặt cuộn kinh Torah trong ngôi nhà dường như nguyên thủy được xây dựng dùng làm đền thờ Kitô-Do Thái giáo từ khoảng năm 70 tới năm 135 sau Công nguyên trên vị trí theo truyền thuyết là Cenacle (Nhà Tiệc Ly) hoặc phòng ở tầng trên của Last Supper (Bữa ăn cuối cùng) và nay được xác định là vị trí King David's Tomb (Mộ vua David) thì không hướng về Núi Đền Thờ, mà hướng về vị trí Ngôi Mộ Thánh,[53] điều đó có lẽ cho thấy là cộng đồng Kitô hữu xây dựng nó đã bắt đầu chuyển nhiều truyền thống tôn giáo mà ban đầu kết hợp với Đền Thờ (Do Thái giáo) thành những nơi mà họ kết hợp với cái chết và sự phục sinh của chúa Giêsu (chẳng hạn như nơi an táng tổ phụ Adam và trung tâm thế giới)
Nơi đây được tôn kính như đồi Golgotha (đồi Can Vê hay Golgotha)[2] nơi chúa Giêsu bị đóng đinh vào thập giá[3] và cũng được cho là gồm cả nơi mà chúa Giêsu được mai táng và đã sống lại sau 3 ngày. Nhà thờ này là điểm viếng thăm quan trọng của những Kitô hữu hành hương ít nhất từ thế kỷ thứ 4. Ngày nay nhà thờ này cũng được dùng làm trụ sở chính của Thượng phụ Chính thống giáo Hy Lạp ở Jerusalem (Greek Orthodox Patriarch of Jerusalem), trong khi quyền kiểm soát nhà thờ này được chia sẻ giữa nhiều giáo hội Kitô giáo khác nhau, như Chính Thống giáo Đông phương, Chính Thống giáo Cổ Đông phương và Giáo hội Công giáo Rôma. Các giáo hội Anh giáo và Tin Lành không có sự hiện diện thường trực trong nhà thờ này.[4] và các thực thể thế tục trong các thỏa thuận phức tạp về cơ bản không thay đổi trong nhiều thế kỷ.
Mục lục
- 1 Lịch sử
- 2 Việc bố trí bên trong nhà thờ hiện nay
- 2.1 Sơ đồ mặt bằng về các bố tri bên trong nhà thờ
- 2.2 Đồi Can Vê (Golgotha)
- 2.3 Tấm đá xức dầu
- 2.4 Rotunda và Aedicule
- 2.5 Nhà thờ chính của tu viện Chính Thống giáo (Catholicon) và lối đi
- 2.6 Khu phức hợp thuộc Giáo hội Chính thống Armenia
- 2.7 Phía bắc Aedicule
- 2.8 Phía nam Aedicule
- 2.9 Mái nhà thờ
- 3 Nguyên trạng
- 4 Sự liên quan tới đền thờ nữ thần Aphrodite
- 5 Nghi ngờ tính xác thực của địa điểm này
- 6 Gallery hình
- 7 Tham khảo
- 8 Thư mục
- 9 Đọc thêm
- 10 Liên kết ngoài
Lịch sử
Việc xây dựng
Vào đầu thế kỷ thứ 2, địa điểm của nhà thờ hiện nay là đền thờ nữ thần Aphrodite; nhiều nhà văn thời xưa mô tả nơi đây là đền thờ nữ thần Venus, vị thần của người La Mã tương đương nữ thần Aphrodite. Eusebius, trong quyển Life of Constantine của ông cho rằng[5] địa điểm nhà thờ này có nguồn gốc từ một nơi tôn kính của Kitô giáo, nhưng hoàng đế Hadrianus đã cố ý cho đổ đất lấp những nơi của Kitô giáo này, rồi xây đền thờ của riêng ông trên đỉnh (đất lấp), do ông ghét Kitô giáo[6]. Mặc dù Eusebius không nói nhiều, nhưng dường như đền thờ nữ thần Aphrodite đã được xây dựng như một phần trong cuộc tái thiết Jerusalem của Hadrianus giống như Aelia Capitolina[7] năm 135, sau khi Jerusalem bị tàn phá bởi cuộc Chiến tranh Do Thái-La Mã thứ nhất năm 70 và cuộc nổi dậy của Simon bar Kokhba năm 132–135.Khoảng năm 325-326 hoàng đế Constantine I ra lệnh phá đền thờ Aphrodite và đào đất nền của đền thờ đưa đi nơi khác, rồi chỉ thị cho Macarius of Jerusalem - vị giám mục địa phương – xây một nhà thờ trên địa điểm này. Tập Itinerarium Burdigalense[8] tường thuật trong năm 333: Tại đây, hiện nay, do lệnh của hoàng đế Constantine, đã xây dựng một vương cung Thánh đường, tức là một nhà thờ đẹp lạ lùng.[9] Hoàng đế Constantine hướng dẫn cho mẹ ông – hoàng thái hậu Helena - xây các nhà thờ trên những địa điểm tưởng nhớ tới cuộc đời của chúa Giêsu. Bà đã hiện diện từ năm 326 trong việc xây dựng nhà thờ này và đích thân tham gia các cuộc khai quật và xây dựng.
Trong khi khai quật, Helena (được cho là) đã tái phát hiện Thánh giá thật, và ngôi mộ (chôn xác Chúa), dù rằng tường thuật của Eusebius không đề cập tới sự có mặt của Helena tại nơi khai quật cũng như việc phát hiện Thánh giá, mà chỉ nói tới ngôi mộ. Theo Eusebius, ngôi mộ đưa ra một bằng chứng rõ ràng, có thể nhìn thấy rằng đó chính là ngôi mộ của chúa Giêsu;[10][11] Socrates Scholasticus (s. khoảng năm 380), trong quyển Ecclesiastical History (Lịch sử Giáo hội Kitô) của ông đã mô tả đầy đủ việc phát hiện này[12] (sau này được Sozomen và Theodoret nhắc lại) trong đó nhấn mạnh vai trò của Helena trong việc khai quật và xây dựng nhà thờ này; cũng giống như Nhà thờ Giáng Sinh ở Bethlehem (cũng do Constantine và Helena thiết lập) để tưởng nhớ việc đản sinh của chúa Giêsu, thì Nhà thờ mộ Thánh là để tưởng niệm cái chết và sự sống lại của Ngài.
Nhà thờ do hoàng đế Constantine xây gồm 2 nhà thờ nối liền với nhau trên 2 địa điểm thiêng liêng khác nhau, trong đó là một vương cung Thánh đường (gọi là Martyrium (Tử đạo) mà một phụ nữ tên Egeria đã viếng thăm trong thập niên 380), một atrium[13] (tên là Triportico) với đồi Golgotha truyền thống ở một góc, và một rotunda (phòng lớn hình tròn), gọi là Anastasis (Phục sinh), nơi có di tích của một ngôi "mộ đục vào trong núi đá" mà Helena và giám mục Macarius xác định là mộ mai táng chúa Giêsu. Mặt đá ở đầu phía tây của tòa nhà được đục bỏ, mặc dù không biết rõ là ở thời Constantine nó còn lại bao nhiêu, vì việc nghiên cứu khảo cổ đã phát hiện là ngôi đền thờ nữ thần Aphrodite rộng tới khu phòng lớn hình tròn (rotunda) hiện nay,[14] và vì thế mép ngoài của đền thờ phải xa hơn về phía tây. Theo truyền thuyết, Constantine đã cho đục bỏ mặt đá chung quanh ngôi mộ, mà không làm hại nó, để cô lập ngôi mộ, ở trung tâm của gian phòng lớn hinh tròn (rotunda) là một nhà nhỏ được gọi là "Kouvouklion" (Kουβούκλιον; tiếng Hy Lạp hiện đại = ngăn phòng nhỏ) hoặc Aedicule[15] (từ chữ Latin: aediculum = ngôi nhà nhỏ), được cho là bao quanh ngôi mộ này, mặc dù ngày nay không có thể xác minh truyền thuyết nói trên, vì các di tích còn lại được hoàn toàn bao bọc bởi một vỏ bọc bằng đá cẩm thạch. Việc khám phá ra các ngôi mộ kokhim[16] ngay bên ngoài tường phía tây của nhà thờ, và gần đây hơn việc điều tra khảo cổ học ở sàn của gian phòng lớn hinh tròn, cho thấy một mũi núi hẹp có độ dài ít nhất 10 yard (= 9,14 m) đã phải nhô ra từ mặt đá nếu những vật ở bên trong ngăn phòng nhỏ (Aedicule) đã một lần tồn tại bên trong nó. Kiến trúc vòm của gian phòng lớn hình tròn đã được hoàn thành vào cuối thế kỷ thứ 4. Hàng năm, Giáo Hội Chính Thống giáo Đông phương cử hành lễ kỷ niệm ngày Thánh hiến nhà thờ Phục sinh (nhà thờ Mộ Thánh) vào ngày 13 tháng 9 (đối với những nhà thờ theo Lịch Julius truyền thống, ngày13 hiện rơi vào ngày 26 tháng 9 của Lịch Gregory hiện đại).
Hư hại và phá hủy
Nhà thờ này bị hư hỏng bởi trận hỏa hoạn năm 614 khi vua Khosrau II của Đế chế Ba Tư xâm chiếm Jerusalem và chiếm giữ Thánh Giá. Năm 630, Hoàng đế Heraclius hành quân thắng lợi tiến vào thành Jerusalem và phục hồi Thánh Giá đích thực để xây dựng lại Nhà thờ Mộ Thánh. Dưới sự cai trị của người Hồi giáo, nó vẫn còn là một nhà thờ Kitô giáo. Các nhà cai trị Hồi giáo ban đầu đã bảo vệ các địa điểm Kitô giáo của thành phố, cấm phá hủy và sử dụng như khu nhà ở. Năm 966, các cửa và mái nhà bị đốt cháy trong một cuộc bạo loạn Ngày 18.10.1009, khalip Al-Hakim bi-Amr Allah của nhà Fatimid ra lệnh phá hủy toàn bộ nhà thờ. Người ta tin rằng Al-Hakim "đã bực tức vì số lượng lớn các người hành hương tới Jerusalem trong mùa Phục Sinh, đặc biệt để chiêm ngắm phép lạ hàng năm của ngọn lửa thiêng trong Mộ Chúa. Các biện pháp chống lại nhà thờ này là một phần của một chiến dịch chống lại các nơi thờ phượng Kitô giáo ở Palestine và Ai Cập, gây ra rất nhiều thiệt hại khác: Adhemar Chabannes ghi nhận rằng nhà thờ Thánh George ở Lydda với nhiều nhà thờ khác đã bị tấn công, và Nhà thờ Mộ Thánh bị triệt phá bình địa... Nhà văn Kitô giáo Yahya ibn Sa'id tường thuật là mọi thứ đã bị san bằng, ngoại trừ những phần không thể phá hủy được hoặc quá khó khăn để gỡ bỏ.[17]Xây dựng lại
Trong các cuộc đàm phán trên phạm vi rộng giữa nhà Fatimid và Đế quốc Byzantine trong các năm 1027-1028 một thỏa thuận đã đạt được, theo đó vị Caliph mới Ali az-Zahir (con trai của Al-Hakim) đồng ý cho phép xây dựng lại và trang trí lại nhà thờ này.[18] Đổi lại,nhà thờ Hồi giáo (mosque) ở Constantinople được phép mở cửa lại và các bài giảng được công bố nhân danh az-Zahir.[18] Các nguồn Hồi giáo nói rằng một thỏa thuận phụ cũng được ký kết, cho phép nhiều Kitô hữu đã từng bị cưỡng bách phải cải theo Hồi giáo trong cuộc bách hại của Al-Hakim, được công khai từ bỏ đạo Hồi.[18] Ngoài ra, khi phóng thích 5.000 tù nhân Hồi giáo, đế quốc Byzantine cũng đòi được khôi phục các nhà thờ khác đã bị Al-Hakim phá hủy cùng việc tái thành lập Patriarch (tòa Thượng phụ) ở Jerusalem.[18] Việc xây dựng lại nhà thờ tốn một khoản tiền rất lớn, được hoàng đế Constantine IX Monomachos và thượng phụ Nicephorus của Constantinople tài trợ, cuối cùng đã hoàn tất vào năm 1048.[19] Mặc dù đế quốc Byzantine đã tiêu một khoản tiền lớn vào dự án này, "nhưng cũng không thể xây dựng lại toàn bộ, mà chỉ tập trung vào gian phòng lớn hình tròn (rotunda) cùng những tòa kiến trúc chung quanh, còn vương cung Thánh đường lớn vẫn còn là đống đổ nát".[17] Công trình xây dựng lại gồm "một sân lộ thiên với 5 nhà nguyện nhỏ liên hợp".[20] Các nhà nguyện nằm ở phía đông của sân phục sinh, nơi từng có bức tường của nhà thờ lớn. Các nhà nguyện này tưởng niệm các cảnh cuộc thương khó của chúa Giêsu, chẳng hạn nơi giam giữ và nơi đánh đòn chúa Giêsu. Việc Thánh hiến các nhà nguyện này cho thấy tầm quan trọng của lòng sùng kính của các người hành hương đối với chúa Giêsu. Các nhà nguyện này được mô tả như một loại Via Dolorosa[21] thu nhỏ lại'... vì chỉ có ít hoặc không có việc xây dựng lại ở địa điểm vương cung Thánh đường lớn. Những người hành hương từ phương Tây tới Jerusalem trong thế kỷ 11 thấy phần lớn nơi Thánh thiêng vẫn còn đổ nát".[17] Việc kiểm soát Jerusalem – và do đó cả Nhà thờ Mộ Thánh - tiếp tục thay tay nhiều lần giữa nhà Fatimid và vương triều Seljuq (trung thành với Nhà Abbas ở Baghdad) cho tới khi có cuộc Thập tự chinh năm 1099.[22]Thời Thập Tự chinh
Nhiều sử gia cho rằng mối quan tâm chính của Giáo hoàng Urban II, khi kêu gọi tiến hành cuộc Thập tự chinh thứ nhất, là mối đe dọa từ cuộc xâm lược vùng Tiểu Á của Thổ Nhĩ Kỳ đối với Constantinople để đáp ứng lời kêu gọi của Hoàng đế Alexios I Komnenos (của Constantinople). Các nhà sử học đồng ý là số phận của Jerusalem - và do đó của nhà thờ Mộ Thánh - được quan tâm, nếu không phải là mục tiêu trước mắt của chính sách của Giáo hoàng năm 1095. Ý tưởng chiếm Jerusalem đã được chú trọng nhiều hơn khi cuộc Thập tự chinh được tiến hành. Khu vực nhà thờ xây dựng lại được các hiệp sĩ của cuộc Thập tự chinh chiếm lại từ tay Nhà Fatimid ngày 15 tháng 7 năm 1099.[17]Cuộc thập tự chinh thứ nhất đã được hình dung như là một cuộc hành hương có vũ trang, và không có người thập tự chinh nào có thể coi cuộc hành trình của mình là hoàn thành trừ khi anh ta đã cầu nguyện như một người hành hương tại Mộ Thánh. Hoàng thân Godfrey de Bouillon tham gia Thập tự chinh, người đã trở thành người Thập tự chinh đầu tiên chiếm được Jerusalem, đã quyết định không sử dụng danh hiệu vua trong suốt cuộc đời mình, và tự tuyên bố mình là "Advocatus Sancti Sepulchri ( Người bảo vệ Mộ Thánh).
Ở thời Thập tự chinh, một bể chứa nước dưới vương cung Thánh đường cũ được đồn đại là nơi mà hoàng thái hậu Helena tìm thấy Thánh Giá thật, và bắt đầu được tôn kính như vậy; dù rằng bể đó sau này trở thành "Nhà nguyện phát hiện Thánh Giá", không có bằng chứng cho tin đồn trước thế kỷ 11, và việc nghiên cứu khảo cổ hiện đại bây giờ cho thấy bể chứa được Monomachos sửa chữa ở thế kỷ 11.[14]
Nhà chép sử biên niên William xứ Týros tường thuật việc làm lại nhà thờ này ở giữa thế kỷ thứ 12. Quân Thập tự chinh nghiên cứu khu phế tích phía đông của nơi này, đôi khi đào bới qua đống đổ nát, và trong khi cố gắng đào tìm bể chứa nước, họ đã phát hiện ra một phần mức nền nguyên thủy bao quanh ngôi đền của Hadrian; họ đã quyết định biến nơi này thành một nhà nguyện cung hiến cho Helena (Nhà nguyện Thánh nữ Helena), mở rộng đường hầm khai quật ban đầu của họ thành một cầu thang thích hợp. Quân Thập tự chinh bắt đầu tái trang bị nhà thờ theo kiểu kiến trúc Roman và thêm vào một tháp chuông. Những công trình xây dựng lại này đã hợp nhất các nhà nguyện nhỏ ở đây thành một tổng thể và đã được hoàn thành dưới thời trị vì của Nữ hoàng Melisende trong năm 1149, lần đầu tiên đặt tất cả các nơi Thánh nằm chung dưới một mái nhà. Nhà thờ này trở thành trụ sở của Latin Patriarchs[23] thứ nhất, và cũng là trụ sở của scriptorium (phòng viết các bản sao)của vương quốc Jerusalem. Nhà thờ, cùng với phần còn lại của thành phố Jerusalem, đã bị rơi vào tay Saladin năm 1187, mặc dù hiệp ước thành lập sau cuộc thập tự chinh thứ ba cho phép cho các người hành hương Kitô giáo được tới nhà thờ này. Hoàng đế Friedrich II của đế quốc La Mã Thần Thánh chiếm lại thành phố và nhà thờ theo một hiệp ước trong thế kỷ 13, trong khi bản thân ông đang bị vạ tuyệt thông, dẫn đến kết quả kỳ cục là ngôi nhà thờ linh thiêng nhất của Kitô giáo được đặt dưới quyền của một tín hữu bị Giáo hội cấm chỉ tham gia nghi lễ phụng vụ. Năm 1244, cả thành phố Jerusalem và nhà thờ này bị Khwarezm chiếm.
Các thời sau này
Các tu sĩ dòng Phanxicô trùng tu thêm vào năm 1555, vì nó đã bị bỏ bê mặc dù số lượng khách hành hương tăng lên. Các tu sĩ dòng Phanxicô xây lại Aedicule (căn phòng nhỏ), mở rộng cấu trúc để dựng lên một tiền phòng (ante-chamber).[24] Sau cuộc trùng tu năm 1555, quyền kiểm soát nhà thờ thay đổi giữa các tu sĩ dòng Phanxicô và Chính Thống giáo, tùy thuộc bên nào có thể kiếm được firman (sắc lệnh nhà vua) thuận lợi từ Sublime Porte[25]. vào một thời điểm cụ thể, thường là thông qua hối lộ hoàn toàn, và những cuộc va chạm dữ dội không phải là hiếm. Không có thỏa thuận về vấn đề này, mặc dù đã được nói đến tại các cuộc đàm phán Hiệp ước Karlowitz năm 1699.[26] Năm 1767, mệt mỏi vì cãi nhau, "Sublime Porte" đã ban hành một "firman" phân chia nhà thờ cho các bên tranh chấp.Năm 1808, một cuộc hỏa hoạn lại làm hư hại nhà thờ lần nữa, khiến cho mái vòm của Rotunda sụp đổ và phá tan phần trang trí bên ngoài của Edicule. Rotunda và phần bên ngoài của Edicule được xây dựng lại trong năm 1809-1810 bởi kiến trúc sư Komminos of Mytilene theo phong cách kiến trúc Baroque thịnh hành thời đó. Đám cháy không lan vào bên trong Aedicule, và phần trang trí bằng đá cẩm thạch của Mộ được khôi phục lại từ năm 1555, mặc dù nội thất của tiền phòng, bây giờ được gọi là "nhà nguyện thiên thần", đã được xây dựng lại một phần theo mặt bằng hình vuông, thay cho phần cuối dạng bán cầu ở phía tây trước đó.
Một firman (sắc lệnh) khác năm 1853 của sultan củng cố sự phân chia nhà thờ hiện tại giữa các cộng đồng (Chính Thống giáo và Công giáo) và thiết lập một nguyên trạng cho các sắp xếp để "tồn tại mãi mãi", gây ra những bất đồng ý kiến về việc bảo trì và thậm chí các thay đổi nhỏ, bao gồm cả bất đồng về việc loại bỏ một cái thang ở bên ngoài ban-công cuối nhà thờ dưới một cửa sổ; cái thang này vẫn ở nguyên một vị trí kể từ đó đến nay.[27]
Tấm ốp đá cẩm thạch màu đỏ mà Komminos dùng cho Aedicule đã xuống cấp nặng và bị lìa khỏi cấu trúc cơ bản. Từ năm 1947 "chính quyền Anh ủy trị Palestine" (chính quyền Anh cai trị Palestine theo ủy nhiệm của Liên Hiệp Quốc) đã cho đặt một khung sắt ốp bên ngoài để giữ tấm đá cẩm thạch nói trên khỏi bị hư hại. Cho tới nay vẫn không có thỏa thuận nào (giữa các bên) về việc tu bổ sửa chữa tấm ốp nói trên. Vòm nóc nhà thờ hiện nay được xây từ năm 1870, đã được tu bổ trong thời gian từ năm 1994-1997, như là một phần của những việc trùng tu mở rộng hiện đại Nhà thờ Mộ Thánh, được tiến hành từ năm 1959. Trong thời gian từ năm 1973 tới 1978 các công trình phục hồi và khai quật bên trong tòa nhà và dưới khu phố Muristan gần đó, đã xác định được rằng nơi này nguyên là một mỏ đá, mà từ đó "meleke" trắng, đá vôi đã được khai thác.[28] Về phía đông của Nhà nguyện Thánh Helena, những người khai quật đã phát hiện một ô trống có chứa một bản vẽ tàu thủy La Mã ở thế kỷ thứ 2 sau Công Nguyên,[29] 2 bức tường thấp chống đỡ nền của ngôi đền từ thế kỷ thứ 2 của thời Hadrian, và một bức tường cao hơn ở thế kỷ thứ 4 được xây dựng để chống đỡ Vương Cung Thánh Đường của Constantine.[30][31] Gần đây nhà chức trách Giáo hội Chính thống Armenia đã cải tạo nơi khảo cổ này thành "nhà nguyện Thánh Vartan", và làm một lối đi bộ nhân tạo trên mỏ đá ở phía bắc của nhà nguyện, để có thể đi vào nhà nguyện này từ "nhà nguyện Thánh Helena (nếu được phép).
Đã có vài tranh cãi trong năm 2010, khi Hội đồng thành phố Jerusalem đe dọa cúp nước dẫn vào nhà thờ do tranh cãi về các hóa đơn tiền nước.[32]
Việc bố trí bên trong nhà thờ hiện nay
Sơ đồ mặt bằng về các bố tri bên trong nhà thờ
Phòng nhỏ (chứa Mộ Thánh)Catholicon
Rotunda (Phòng tròn lớn trên có mái vòm)
Phiến đá xức dầu
Nhà nguyện jacobite
Mộ ông Giuse Arimathie
Nhà nguyện Chính thống giáo copte
Gian cung thánh latin
Bàn thờ thánh Maria Madalena
Nhà nguyện dòng Phanxicô kính việc Chúa sống lại hiện ra với Đức Mẹ
Nhà người Hồi giáo gác cửa nhà thờ
Lối vào nhà thờ (cánh ngang phía nam)
Nhà nguyện dòng Phanxicô kính 7 sự đau khổ Đức Mẹ
Nhà nguyện Công giao kính việc đóng đinh Chúa
Nhà nguyện Chính thống giáo Hy Lạp ở đồi Canvê
Bàn thờ trên đồi Canvê
Bàn thờ Stabat Mater
Bàn thờ nơi Chúa bị đóng đinh
Gian cung thánh Chính thống giáo Hy Lạp
Vòm Đức Mẹ Marria
Nhà nguyện nơi Chúa bị nhốt
Nhà nguyện Chính thống giáo Hy Lạp kính thánh Longinus
Nhà nguyện Chính thống giáo Armenia về việc lính Do Thái chia áo Chúa Giêsu
Nhà nguyện nơi Chúa bị sỉ nhục
Nhà nguyện thánh Helena
Nhà nguyện nơi phát hiện Thánh giá thật
Nhà nguyện thánh Vardan
Mỏ khai thác đá thời xưa
Lối vào nhà thờ là thông qua một cửa duy nhất ở cánh ngang phía nam nhà thờ. Lối đi hẹp này để vào một tòa nhà lớn như vậy đã tỏ ra có những lúc rất nguy hiểm. Ví dụ, khi một đám cháy xảy ra vào năm 1840, hàng chục người hành hương đã bị dẫm đạp đến chết. Năm 1999, các cộng đồng (Chính Thống giáo và Công giáo) đã đồng ý làm một cửa thoát hiểm mới ở nhà thờ, nhưng cho tới nay cũng chưa thấy nói cửa đó đã được làm hay chưa.
Đồi Can Vê (Golgotha)
Ở phía nam của bàn thờ, qua hành lang nhỏ (một lối đi chung quanh phía cuối gian cung Thánh của nhà thờ) là một cầu thang lên đồi Can-vê (Golgotha), theo truyền thuyết là nơi đóng đinh chúa Giêsu và là nơi được trang trí nhiều nhất của nhà thờ. Bàn thờ chính ở đây thuộc về Chính Thống giáo Hy Lạp, trong đó có Đá đồi Can-vê (chặng đàng Thánh giá thứ 12). Đá này có thể nhìn thấy dưới lớp kính trên cả hai phía của bàn thờ, bên dưới bàn thờ có một lỗ được cho là chỗ để dựng thập giá lên. Bên Công giáo (dòng Phanxicô) có một bàn thờ ở bên cạnh: Nhà nguyện (tưởng niệm việc) Đóng đinh vào thập giá (chặng đường Thánh giá thứ 11). Phía bên trái bàn thờ này, về hướng nhà nguyện của Chính Thống giáo, có một tượng đức Mẹ Maria, được tin là làm những phép lạ (chặng đường Thánh giá thứ 13, nơi xác chúa Giêsu được tháo khỏi thập giá đem xuống trao cho gia đình).Bên dưới đồi Can-vê và 2 nhà nguyện ở đó, trên sàn chính, là Nhà nguyện của Adam. Theo truyền thuyết, Chúa Giêsu bị đóng đinh trên nơi mà hộp sọ Adam được chôn cất. Đá của đồi Can-vê được nhìn thấy bị nứt thông qua một cửa sổ trên bức tường bàn thờ, vết nứt theo truyền thuyết được cho là gây ra bởi trận động đất xảy ra khi Chúa Giêsu gục chết trên thập giá, và được các học giả nói là do kết quả của việc khai thác đá ở một chỗ nứt tự nhiên trong đá.[33]
Tấm đá xức dầu
Ngay bên trong lối vào là Tấm đá xức dầu (The Stone of Anointing), mà truyền thuyết cho là nơi Joseph of Arimathea đã đặt xác chúa Giêsu lên để xức dầu chuẩn bị chôn. Tuy nhiên, truyền thuyết này chỉ được chứng thực từ thời Thập tự chinh, và tấm đá hiện nay chỉ được thêm vào trong lần tái thiết năm 1810.[24]Rotunda và Aedicule
Rotunda (Phòng lớn hình tròn) nằm ở giữa nhà thờ, bên dưới vòm lớn hơn trong 2 vòm của nhà thờ. Ở giữa Rotunda là nhà nguyện được gọi là Edicule (ngăn phòng nhỏ), trong đó có Mộ Thánh. Edicule có hai phòng: phòng đầu tiên có tấm đá của Thiên thần, một mảnh của phiến đá được cho là đã niêm phong ngôi mộ sau khi chôn cất Chúa Giêsu; còn phòng thứ hai chứa chính ngôi mộ.Nguyên trạng ở Rotunda
Dưới biện pháp nguyên trạng (status quo) giáo hội Chính Thống giáo Đông phương, Giáo hội Công giáo Rôma và Giáo hội tông đồ Armenia đều có quyền ở bên trong Mộ Thánh, và cả 3 cộng đồng giáo hội trên đều cử hành phụng vụ hoặc lễ misa hàng ngày ở đây. Rotunda cũng được dùng cho những lễ nghi khác trong những dịp đặc biệt, chẳng hạn như lễ Holy Fire (Lửa thiêng) trong ngày Thứ bẩy tuần Thánh do Thượng phụ Chính thống giáo Hy Lạp của Jerusalem cử hành. Ở phía sau, trong một nhà nguyện xây dựng bằng lưới sắt mắt cáo trên nền đá hình bán nguyệt, có một bàn thờ do giáo hội Chính Thống giáo Coptic sử dụng.Nhà thờ chính của tu viện Chính Thống giáo (Catholicon) và lối đi
- The Catholicon (nhà thờ chính của tu viện Chính Thống giáo) - Ở phía đông đối diện với Rotunda là một kiến trúc của Thập tự quân chứa bàn thờ chính của Nhà thờ, ngày nay là nhà thờ chính của tu viện Chính Thống giáo (catholicon). Mái vòm thứ nhì, nhỏ hơn nằm ngay trên trung tâm điểm giao nhau giữa cánh dọc và cánh ngang nhà thờ ở gian cung Thánh nơi đặt một omphalos (tượng đá hình cái rốn của người) từng được cho là trung tâm thế giới (kết hợp với nơi đóng đinh chúa Giêsu cùng thập giá và nơi Chúa phục sinh). Phía đông của omphalos là một iconostasis[34] lớn ngăn cách hậu điện linh thiêng của Chính Thống giáo, trước ngai của thượng phụ Chính Thống giáo Hy Lạp ở Jerusalem ở phía nam đối diện với ngai của thượng phụ Chính Thống giáo Hy Lạp ở thành Antioch ở phía bắc.
- Nơi giam chúa Kitô - Ở phía đông của nhà thờ là Nơi giam chúa Kitô, được các tu sĩ dòng Phanxicô cho là nơi giam giữ chúa Giêsu. Chính Thống giáo Hy Lạp cho rằng nơi giam chúa Giêsu thực sự là ở bên trong Monastery of the Praetorium (Tu viện Dinh Pháp quan) của họ, ở gần nhà thờ mang tên Nhà thờ Ecce Homo[35], ở chặng thứ nhất trên Via Dolorosa[36]. Giáo hội Chính Thống Armenia coi một chỗ hốc tường trong Monastery of the Flagellation (tu viện Chúa Giêsu bị đánh đòn), gần chặng thứ hai trên "Đường đau khổ", là Nơi giam chúa Kitô. Một bể chứa nước trong số các phế tích gần Church of St. Peter in Gallicantu[37] cũng được coi là Nơi giam chúa Kitô.
- Greek Chapel of St. Longinus - Nhà nguyện Chính Thống giáo Hy Lạp, cung hiến cho Thánh Longinus, một binh sĩ La Mã mà theo Tân Ước đã đâm ngọn dáo mác vào cạnh sườn chúa Giêsu khi bị đóng đinh trên thập giá.
- Armenian Chapel of Division of Robes -
- Greek Chapel of the Derision – nhà nguyện tưởng niệm việc chúa Giêsu bị người Do Thái nhạo báng ở cực nam của hành lang có che chắn.
Khu phức hợp thuộc Giáo hội Chính thống Armenia
- Nhà nguyện Thánh nữ Helena - giữa 2 nhà nguyện đầu tiên có cầu thang đi xuống nhà nguyện Thánh nữ Helena, thuộc giáo hội Chính Thống Armenia.
- Nhà nguyện Thánh Vartan - ở phía bắc của nhà nguyện Thánh nữ Helena là một cửa sắt rèn trang trí lộng lẫy, bên ngoài là một bệ nhân tạo để nhìn Quarry (Mỏ Đá), và dẫn tới Nhà nguyện Thánh Vartan. Nhà nguyên này chứa các di vật khảo cổ từ đền thờ của Hadrian và Vương cung Thánh đường của Constantine. Các khu vực này thường đóng cửa.
- Nhà nguyện phát hiện Thánh giá thật - một cầu thang khác 22 bậc từ Nhà nguyện Thánh nữ Helena dẫn xuống Nhà nguyện phát hiện Thánh giá thật của Công giáo Rôma, được tin là nơi mà Thánh giá thật được tìm thấy.
Phía bắc Aedicule
- Nhà nguyện Maria Magdalena – Nhà nguyện này ở nơi mà Maria Magdalena gặp lại chúa Giêsu sau khi Ngài sống lại.
- Nhà thờ dòng Phanxicô -
Phía nam Aedicule
Ba nhà nguyện Thánh James người Công chính, Thánh Gioan Tẩy giả và Forty Martyrs of Sebaste (40 vị tử đạo ở Sebaste, nay là Sivas ở Thổ Nhĩ Kỳ),của Chính Thống giáo Hy Lạp, ở phía nam Rotunda và phía tây sân trước ban đầu tạo thành khu liên hợp "nhà rửa tội" (baptistery) của giáo hội Constantinean, nhà nguyện ở cực nam là tiền sảnh, nhà nguyện ở giữa là "nhà rửa tội" thực sự, còn nhà nguyện phía bắc là một phòng trong đó vị thượng phụ xức dầu cho người mới được rửa tội trước khi dẫn họ vào Rotunda ở phía bắc của khu liên hợp này.Mái nhà thờ
Người ta có thể lên mái nhà thờ từ sân nhỏ bên trong của Tòa thượng phụ Chính Thống giáo Hy Lạp ở Jerusalem.Nguyên trạng
Những cộng đồng tôn giáo chính trông nom nhà thờ này là Chính Thống giáo Đông phương, Chính Thống giáo Armenia và Giáo hội Công giáo Rôma, trong đó Chính Thống giáo Đông phương có phần lớn nhất. Trong thế kỷ 19, Giáo hội Chính thống Coptic, Giáo hội Chính thống Ethiopia và Giáo hội Chính thống Syria cũng được tham gia với trách nhiệm ít hơn, trong đó có các nơi Thánh thiêng cùng những cấu trúc bên trong và chung quanh nhà thờ này. Thời gian và các nơi thờ phượng dành cho mỗi cộng đồng được điều chỉnh chặt chẽ ở các khu vực chung.Việc thiết lập "nguyên trạng" năm 1853 cũng không làm ngưng được bạo hành, vẫn thường tiếp tục xẩy ra, ngay cả trong thời hiện đại. Trong một ngày mùa hè nóng bức năm 2002, một tu sĩ giáo hội Chính Thống Coptic đã di chuyển chiếc ghế của mình từ vị trí đã thỏa thuận vào trong bóng râm. Việc này được các tu sĩ Chính Thống giáo Ethiopian coi như thái độ thù địch, dẫn tới đánh lộn khiến 11 người phải nhập viện.[38]
Trong một vụ va chạm khác vào năm 2004 trong khi giáo hội Chính Thống giáo đang cử hành "Lễ suy tôn Thánh giá"thì một cửa ở nhà nguyện của dòng Phanxicô (Công giáo) vẫn mở. Điều này được bên Chính Thống giáo coi như không tôn trọng họ, nên đã nổ ra vụ ẩu đả khiến vài người bị bắt, nhưng không ai bị thương nặng.[39]
Ngày Chúa nhật Lễ Lá, trong tháng 4 năm 2008, một cuộc cãi lộn đã nổ ra khi một tu sĩ Hy Lạp bị một phe đối lập tống ra khỏi tòa nhà. Cảnh sát đã được gọi tới nhưng cũng bị những người hăng máu đang cãi lộn tấn công luôn.[40] Một cuộc va chạm giữa các tu sĩ Armenia và Hy Lạp cũng đã nổ ra trong ngày chúa nhật 9.11.2008, trong khi cử hành Lễ kính Thánh Giá.[41][42]
Theo thỏa thuận nguyên trạng (status quo), không phần chung nào của nhà thờ được bố trí lại nếu không có sự đồng thuận của tất cả các cộng đồng tôn giáo nói trên. Điều này thường dẫn tới tình trạng bỏ bê không sửa chữa kịp thời các hư hại khi các cộng đồng nói trên không thỏa hiệp được với nhau. Điển hình là tình trạng chậm trễ trong việc tu sửa edicule (gian phòng nhỏ chứa mộ Chúa), khiến cho nhu cầu sửa chữa nơi này hiện nay trở nên cấp thiết.
Một ví dụ bất tiện khác về thỏa thuận giữ nguyên trạng là một chiếc thang bằng gỗ dưới cửa sổ bên ngoài lan can trên lối vào nhà thờ: một người nào đó đã đặt chiếc thang này ở đây trước năm 1852, mà theo thỏa thuận giữ nguyên trạng thì nơi đây là phần chung, nên chiếc thang vẫn nằm y nguyên ở vị trí này cho tới ngày nay, không ai được đụng vào.[43][44]
Không cộng đoàn nào kiểm soát lối vào chính. Năm 1192, Saladin phân công việc kiểm soát cửa vào nhà thờ cho hai gia đình người Hồi giáo lân cận. Gia tộc Joudeh Al-Goudia được giao phó nhiệm vụ giữ các chìa khóa của nhà thờ, còn gia tộc Nusseibeh phụ trách giữ cửa. Biện pháp bố trí này còn tồn tại tới ngày nay. Gia đình Joudeh Al-Goudia nắm giữ các tài liệu của các vua Hồi giáo Ottoman cai trị Jerusalem xác định họ là gia đình duy nhất được trao phó các chìa khóa của nhà thờ.
Sự liên quan tới đền thờ nữ thần Aphrodite
Như đã nói trên, nơi đây đã từng là đền thờ nữ thần Aphrodite trước khi Constantine cho xây nhà thờ, một chi tiết mà truyền thuyết Kitô giáo cho là do Hadrian cố ý đặt đền thờ trên ngôi mộ của chúa Giêsu như một sự coi khinh Kitô giáo. Tuy nhiên, đền thờ của Hadrian được đặt ở vị trí này thực ra chỉ đơn thuần vì đây là nơi giao nhau của tuyến đường chính bắc nam (mà bây giờ là Suq Khan-ez-Zeit) với một trong hai đường chính đông-tây (mà bây giờ là Via Dolorosa tức Đường đau khổ hay Đường Thánh giá),[cần dẫn nguồn] và tiếp cận trực tiếp với forum (quảng trường lộ thiên, nơi dân chúng tụ họp) (mà bây giờ là vị trí của Muristan[45](hẹp hơn); theo truyền thống của các thành phố La Mã thì Forum được đặt ở ngã tư giao lộ giữa con đường chính nam-bắc gặp con đường chính đông tây (mà nay là El-Bazar/phố David). Cả đền thờ và Forum chiếm toàn bộ khoảng không gian của giao lộ giữa 2 đường chính đông-tây (vài di tích trên mặt đất của phần cuối đền thờ phía đông có tường bao quanh vẫn còn tồn tại ở chỗ phái bộ truyền giáo Nga lưu vong" (Russian Mission in Exile).Sự liên quan tới thành phố Jerusalem
Phúc âm mô tả ngôi mộ chúa Giêsu nằm ở bên ngoài bức tường thành Jerusalem cổ,[46] vì thông thường nơi mai táng trong thời cổ được coi là nơi không sạch sẽ, do đó thường không nằm phía trong các tường thành[47], tuy nhiên Nhà thờ Mộ Thánh lại nằm ở khu giữa thành phố do Hadrian lập nên, tức bên trong các tường thành Jerusalem cổ, do vua Hồi giáo Suleiman the Magnificent xây năm 1538. Người ta cho rằng thành Jerusalem vào thời chúa Giêsu thì hẹp hơn nhiều, nên vị trí này lúc đó nằm bên ngoài các tường thành, sau đó thành phố được nới rộng dần ra kể từ khi Herod Agrippa (41–44) được lịch sử ghi nhận là đã nới rộng thành phố về hướng bắc và hướng tây. Khu vực ngay phía nam và phía đông của ngôi mộ thời xưa là mỏ khai thác đá[48] Năm 2007, nhà khảo cổ Dan Bahat cho biết 6 ngôi mộ từ thế kỷ thứ nhất đã được tìm thấy trong khu vực Nhà thờ Mộ Thánh. Điều đó có nghĩa là nơi này (đã) nằm ở bên ngoài thành phố, không còn nghi ngờ gì nữa....,[49] Việc xác định niên đại các ngôi mộ được căn cứ trên sự kiện là chúng thuộc kiểu kokh, kiểu mộ thông thường ở thế kỷ thứ nhất; tuy nhiên, kiểu mộ kokh cũng là thông thường ở đầu thế kỷ thứ 3 trước Công nguyên.[50]Khả năng có thể một ngôi mộ ở thế kỷ thứ nhất được đặt ở phía tây thành phố Jerusalem thật đáng ngờ, vì theo Akiba ben Joseph - vị lãnh đạo giáo sĩ Do Thái ở cuối thế kỷ thứ nhất - được trích dẫn trong sách Mishnah (sách chép luật Do Thái truyền khẩu) – thì các ngôi mộ không được đặt ở phía tây thành phố vì gió ở Jerusalem thường thổi tới từ hướng tây, và như vậy sẽ đem theo mùi ô uế của xác chết vào thành phố cùng Núi Đền Thờ.[51]. Hồ sơ khảo cổ cho biết là những chỉ thị do Akiba ben Joseph nêu ra bên trên cho việc chọn địa điểm mai táng, được tuân thủ cách cứng nhắc; hầu như mọi ngôi mộ của Jerusalem cổ truyền đều nằm ở phía đông thành phố, trên Núi Olives, ngoại trừ vài ngôi mộ nằm cách một kilometre về phía tây, và các ngôi mộ trong Nhà thờ Mộ Thánh[52]
Tuy nhiên, ta phải lưu ý rằng, nơi được cho là hốc tường đặt cuộn kinh Torah trong ngôi nhà dường như nguyên thủy được xây dựng dùng làm đền thờ Kitô-Do Thái giáo từ khoảng năm 70 tới năm 135 sau Công nguyên trên vị trí theo truyền thuyết là Cenacle (Nhà Tiệc Ly) hoặc phòng ở tầng trên của Last Supper (Bữa ăn cuối cùng) và nay được xác định là vị trí King David's Tomb (Mộ vua David) thì không hướng về Núi Đền Thờ, mà hướng về vị trí Ngôi Mộ Thánh,[53] điều đó có lẽ cho thấy là cộng đồng Kitô hữu xây dựng nó đã bắt đầu chuyển nhiều truyền thống tôn giáo mà ban đầu kết hợp với Đền Thờ (Do Thái giáo) thành những nơi mà họ kết hợp với cái chết và sự phục sinh của chúa Giêsu (chẳng hạn như nơi an táng tổ phụ Adam và trung tâm thế giới)
Nghi ngờ tính xác thực của địa điểm này
Mặc dù việc xác định Aedicule (căn phòng nhỏ) là nơi có mộ chúa Giêsu không phải là giáo lý đức tin đối với bất cứ nhóm Kitô hữu đa số nào, nhưng các Kitô hữu Chính Thống giáo và Công giáo vẫn tin chắc vào địa điểm truyền thống này. Tuy nhiên, do nhiều vấn đề về địa điểm này nẩy sinh, nên nhiều học giả đã bác bỏ tính hợp thức của nơi này.[54] Chính sự kiện là bên ngoài thành phố Jerusalem vào đầu thiên niên kỷ thứ nhất Kitô giáo có nhiều nơi được gọi trong các biệt ngữ địa phương là "Golgotha" (bởi vì tất cả những nơi đó đã được sử dụng như một nơi hành quyết tội nhân) đã làm cho nhiệm vụ tìm kiếm địa điểm đích thực nơi Chúa Giêsu bị hành hình trở nên phức tạp.[55] Trong khi đó, vị trí truyền thống của Golgotha bị một số nhà sử học coi như không thích hợp để dùng làm nơi hành quyết tử tội bằng cách đóng đinh vào thập giá, do cấu trúc đá nhô ra phía trước của nó.[56] Sau thời gian lưu trú ở Palestine trong các năm 1882–83, tướng Charles George Gordon đã tìm thấy một địa điểm ở bên ngoài các tường thành cổ mà ông ta cho là vị trí đích thực của đồi Golgotha. Mặc dù Nhà thờ Mộ Thánh có ngôi mộ chỉ cách đồi Golgotha (trong nhà thờ) vài yards (0,9144 mét), nhưng không có lý do đặc biệt nào để coi việc đặt 2 nơi gần nhau (mộ và đồi Golgotha) là cần thiết; tuy nhiên, Gordon theo nguyên tắc này, kết luận rằng địa điểm đồi Golgotha mà ông ta tìm thấy cũng phải nằm gần nơi mai táng chúa Giêsu, nên xác định một ngôi mộ gần đó – nay gọi là Garden Tomb[57] – là nơi mai táng chúa Giêsu. Các vật sành sứ và khảo cổ tìm thấy trong khu vực này sau đó được xác định có niên đại từ thế kỷ thứ 7 trước Công nguyên, nên theo ý kiến các nhà khảo cổ thì nơi có ngôi Garden Tomb đã bị bỏ hoang từ thế kỷ thứ nhất sau CN.[58] Về mặt Kinh Thánh thì điều này không phù hợp với 3 trình thuật Phúc âm (Matthew, Luca, và Gioan) trong đó đặc biệt nói rằng ngôi mộ của chúa Giêsu là mới và trong đó chưa có đặt xác ai. Mặc dù có những phát hiện về khảo cổ, nhưng Garden Tomb đã trở thành nơi ưa thích cho các người Tin Lành hành hương. Những nhà lãnh đạo Giáo hội Các Thánh hữu Ngày sau của Chúa Giêsu Kitô đã rất do dự trong việc xác định chính thức, dù rằng nhiều tín đồ Mormon coi Garden Tomb là địa điểm chính xác của ngôi mộ chúa Giêsu.Gallery hình
-
Tượng omphalos (Rốn vũ trụ) và tường phía bắc của Catholicon.
-
Phiến đá nứt ở đồi Golgotha, nhìn từ Nhà nguyện Adam.
Tham khảo
- ^ khu phố có các tiệm buôn bán thuộc khu vực Kitô giáo ở Jerusalem
- ^ Church of the Holy Sepulchre, Jerusalem
- ^ McMahon, Arthur.L. (1913). “Holy Sepulchre”. Catholic Encyclopedia. New York: Robert Appleton Company.
- ^ The search for a Protestant Holy Sepulchre: the Garden Tomb in nineteenth-century Jerusalem, The Journal of Ecclesiastical History, April 01, 1995, Kochav, Sarah
- ^ NPNF2-01. Eusebius Pamphilius: Church History, Life of Constantine, Oration in Praise of Constantine | Christian Classics Ethereal Library
- ^ Eusebius, Life of Constantine, 3:26
- ^ tên Latin đầy đủ là Colonia Aelia Capitolina, một thành phố do hoàng đế Hadrianus xây dựng trên vùng Jerusalem, và bị quân đội La Mã chiếm đóng, rồi bị phá hủy từ năm 70 sau Công nguyên
- ^ hành trình của một người Burdigalense (nay là Bordeaux, Pháp) hành hương tới Đất Thánh
- ^ Itinerarium Burdigalense, trang 594
- ^ Eusebius, Life of Constantine, Chapter 28
- ^ NPNF2-01. Eusebius Pamphilius: Church History, Life of Constantine, Oration in Praise of Constantine | Christian Classics Ethereal Library
- ^ NPNF2-02. Socrates and Sozomenus Ecclesiastical Histories | Christian Classics Ethereal Library
- ^ phòng lớn hoặc sân lộ thiên có hàng cột ở cạnh, thường là ở giữa một tòa nhà có các phòng bao bọc 4 bên chung quanh
- ^ a ă Virgilio Corbo, The Holy Sepulchre of Jerusalem (1981)
- ^ Americans spell this as Edicule
- ^ một ngôi mộ liên hợp được đặc trưng bởi một loạt các hang dài và hẹp, tỏa ra từ một căn phòng trung tâm, trong đó người chết được đặt mai táng
- ^ a ă â b Morris 2005
- ^ a ă â b Lev 1991
- ^ Foakes-Jackson 1921
- ^ Fergusson 1865
- ^ đường khổ nạn = đường mà Chúa Giêsu vác thập giá đi qua tới nơi chịu đóng đinh
- ^ Gold 2007
- ^ Thượng phụ Công giáo Đông phương theo nghi lễ latin ở Jerusalem
- ^ a ă Jerome Murphy-O'Connor, The Holy Land, (2008), page 56
- ^ Cổng đài danh dự của thủ tướng ở Constantinople, trụ sở chính phủ của sultan đế quốc Ottoman, chỉ chính phủ đế quốc Ottoman
- ^ Geschichte der europäischen Staaten, Geschichte des östreichischen Kaiserstaates, János Nepomuk Jozsef Mailáth (gróf), Band 4, Seite 262, F. Perthes, Hamburg 1848.
- ^ http://www.bibleinterp.com/articles/sepulchre.shtm The Church of the Holy Sepulchre:A Work in Progress
- ^ Hesemann, Michael (1999). Die Jesus-Tafel. Freiburg. tr. 170. ISBN 3-451-27092-7. (tiếng Đức)
- ^ [1]Bản mẫu:Citation broken
- ^ Jerome Murphy-O'Connor, The Holy Land, (1998), page 59
- ^ the height difference can be easily seen - the yellowish wall on the left is the 4th century wall, the pinkish wall on the right is the 2nd century wall
- ^ Israel threatens to cut off water supply to Church of the Holy Sepulchre, AsiaNews.it
- ^ [2] (archived from the original)
- ^ bình phong gồm các ảnh Thánh ngăn cách giữa hậu điện và phần còn lại của nhà thờ
- ^ "Này là Người", lời tổng trấn Pilate nói với dân Do Thái khi đưa chúa Giêsu sau khi bị đánh đòn ra cho họ xem
- ^ Đường đau khổ = đường mà chúa Giêsu vác thập giá đi từ dinh tổng trấn Pilate tới đồi Golgotha để chịu đóng đinh
- ^ "nhà thờ Thánh Phêrô nghe tiếng gà gáy", theo Thánh kinh, Phêrô đã chối là không quen biết chúa Giêsu 3 lần trong đêm chúa Giêsu bị bắt, cho tới khi nghe tiếng gà trống gáy lúc rạng đông thì ông tỉnh ngộ, ăn năn hối tiếc lời chối của mình
- ^ Christian History Corner: Divvying up the Most Sacred Place | Christianity Today | A Magazine of Evangelical Conviction
- ^ Fisher-Ilan, Allyn (28 tháng 9 năm 2004). “Punch-up at tomb of Jesus”. The Guardian (London). Truy cập ngày 18 tháng 4 năm 2010.
- ^ Armenian, Greek worshippers come to blows at Jesus' tomb - Haaretz - Israel News
- ^ “Riot police called as monks clash in the Church of the Holy Sepulchre”. London: Times Online. 10 tháng 11 năm 2008. Truy cập ngày 11 tháng 11 năm 2008.
- ^ “Once again, monks come to blows at Church of Holy Sepulcher”. The Associated Press. 11 tháng 10 năm 2008. Truy cập ngày 11 tháng 11 năm 2008.
- ^ http://coastdaylight.com/ladder.html
- ^ An unusual and rare location of the ladder was documented by an Israeli tour guide in February 2009 [3]
- ^ khu phố buôn bán trong khu vực Kitô giáo thuộc thành Jerusalem cổ
- ^ for example, Hebrews 13:12
- ^ [Toynbee, Jocelyn M. C. Death and Burial in the Roman World, pp. 48-49, JHU Press. 1996. ISBN 0-8018-5507-1. An exception in the Classical World were the Lycians of Anatolia. There are also the Egyptian mortuary-temples, where the object of worship was the deified royal person entombed, but Egyptian temples to the major gods contained no burials. For an extreme example, see ancient Delos.
- ^ See Discoveries at Archaeological excavations at Meleke.
- ^ Dan Bahat in German television ZDF, April 11, 2007
- ^ Rachel Hachlili, (2005) Jewish Funerary Customs, Practices and Rites in the Second Temple Period
- ^ Baba Batra 25a
- ^ Ephraim Stern, (editor), New Encyclopedia of Archaeological Excavations in the Holy Land, 1993
- ^ http://www.centuryone.org/apostles.html
- ^ Given that the area of Golgotha was understood by the early Jerusalem church to have been further south than the site now occupied by the Church of the Holy Sepulchre, it would certainly have been miraculous if, given the history here outlined, Constanline's workmen had struck the right tomb. […] We can deduce from the late second-century evidence of Melito of Sardis that the Jerusalem church pointed out Golgotha as lying under the colonnaded streets of the forum or the adjacent Cardo Maximus or Decumanus. This location is confirmed by the evidence of Eusebius, writing in his Onomasticon. The site of Golgotha was close to the temple of Venus, built by order of the emperor Hadrian, but further south. With Constantine came a relocation of Golgotha. The emperor made the identification of the site as actually lying under the temple of Venus. He wished to destroy this and replace it with a new Christian temple in honour of the 'saving sign', the cross, which had proved the instrument of his success. Proof of his having chosen the correct site, for those who may have been doubtful amongst the Jerusalem church, came with the finding of the wood of Christ's cross in the course of excavating the Hadrianic fill. The matter was clinched when an empty tomb was discovered and heralded as being that belonging to Christ. Further tombs which came to light were simply cut away. […] Christians began to see the rock of the cross as being the precise place where Jesus' cross had been positioned; the decorative cross was believed to have replaced the cross of wood on which the Saviour had died. The rock of the cross, the former Venus shrine, became Golgotha itself. It may well have been that the belief that Hadrian built a temple on Golgotha led to the idea that pagans wished to annihilate sites with Christian significance in general, so that it was precisely for this reason that the Christians were inclined to accept that the birthplace of Christ was in the cave of Tammuz-Adonis in Bethlehem. But the evidence suggests that Hadrian did not build his temple exactly over Golgotha, and that neither the Rock of Calvary nor the supposed Tomb of Christ was venerated by Christians before the fourth century. - Christians And The Holy Places - The Myth Of Jewish-Christian Origins, Joan E. Taylor, Clarendon Press Oxford, Oxford University Press 1993.
- ^ "However, around 398 Jerome vehemently dismissed the legend as a fable (in Matt. xvii. 33). He repeated the reference to the person discoursing on Ephesians, but he went on to say that it was just "a popular interpretation", which was "pleasing to the ears" of people. Nevertheless, Golgotha did not gain its name because of Adam's skull, but because it was local jargon for "execution place", or "place of beheading". He explained that outside the gate of Jerusalem there were areas where criminals were executed, and these were each called "Golgotha", even in his day. Jesus was therefore killed in "the field of the condemned", as a criminal among criminals. Furthermore, said Jerome implicitly arguing against Origen, the Jews did not have a tradition that Adam was buried at Golgotha. Jerome knew of the tradition of Adam's burial at Hebron (cf. Lib. loc. 75.23). Since Jerome was familiar with Jerusalem and its surroundings, his first-hand knowledge of the language of the local population provides weighty evidence for a proper understanding of the name "Golgotha". Perhaps, if there were other "execution places" around Jerusalem, this would account for Cyril of Jerusalem's specification of the "Christian Golgotha" in his lectures as being "pre-eminent" (Cat. xiii. 39, or x. 19), a double entendre of a word which appears to refer both to the physical height of the hill (part rock, part fill) of Golgotha and to its importance.- "Christians And The Holy Places - The Myth Of Jewish-Christian Origins", Joan E. Taylor, Clarendon Press Oxford, Oxford University Press 1993, p.130
- ^ "Golgotha was no longer seen as the site as a whole but as the rocky outcrop with the cross on its summit. It became one of the many sacred sites within a growing complex of shrines and buildings. The actual form of the rock was obscured and no one realized just how unlikely a place it would have been for a crucifixion; it was naturally hollow and stood 12 metres above bedrock on the east, and 5 metres above bedrock on the west. In other words, any Roman soldiers who wished to crucify three people on the top of this unstable spur would have had to overcome enormous difficulties, to say the least." - "Christians And The Holy Places - The Myth Of Jewish-Christian Origins", Joan E. Taylor, Clarendon Press Oxford, Oxford University Press 1993, p.131
- ^ Mộ trong Vườn, một ngôi mộ nằm bên ngoài tường thành cổ Jerusalem gần Cổng Damascus
- ^ Gabriel Barkay, The Garden Tomb, published in Biblical Archaeology Review March/April 1986
Thư mục
- Lev, Yaacov (1991). State and Society in Fatimid Egypt. Boston: Brill Academic Publishers. ISBN 9789004093447.
- Fergusson, James (1865). History of Architecture in All Countries. J. Murray.
- Gold, Dore (2007). The Fight for Jerusalem. Washington: Regnery Publishing, Inc. ISBN 159698029X.
- McMahon, Arthur.L. (1913). “Holy Sepulchre”. Catholic Encyclopedia. New York: Robert Appleton Company.
- Coüasnon, Charles (1974). The Church of the Holy Sepulchre in Jerusalem. London: Oxford University Press for the British Academy. ISBN 0197259383.
- Bokenkotter, Thomas (2004). A Concise History of the Catholic Church. Doubleday. tr. 155. ISBN 0385505841.
- Foakes-Jackson, Frederick John (1921). An Introduction to the History of Christianity. Macmillan Company.
- Bahat, Dan (1986). “Does the Holy Sepulchre church mark the burial of Jesus?”. Biblical Archaeology Review 12 (3): 26–45
Đọc thêm
- Corbo, Virgilio C. (1981). Il Santo Sepolcro di Gerusalemme. Aspetti archeologici dalle origini al periodo crociata (bằng Italian). 3 Vol. Jerusalem: Studium Biblicum Franciscanum (Yerûšālayim). OCLC 164994330.
- Biddle, Martin (1999). The Tomb of Christ. Scarborough: Sutton Publishing. ISBN 0750919264.
- Biddle, Martin; Seligman, Jon; Tamar, Winter; Avni, Gideon (2000). The Church of the Holy Sepulchre. New York: Rizzoli in cooperation with Israel Antiquities Authority, distributed by St. Martin's Press. ISBN 0847822826.
- Gibson, Shimon; Taylor, Joan E. (1994). Beneath the Church of the Holy Sepulchre Jerusalem: The archaeology and early history of traditional Golgotha. London: Committee of the Palestine Exploration Fund. ISBN 0903526530.
- Krüger, Jürgen; Mendrea, Dinu; Nalbandian, Garo (2000). Die Grabeskirche Zu Jerusalem. Geschichte — Gestalt — Bedeutung. München: Schnell & Steiner. ISBN 3795412730.
- Roese, Gerhard (2002). Die Rekonstruktion des Turmes der Grabeskirche in Jerusalem (bằng tiếng Đức). Darmstadt: Roese-Design. ISBN 3000097759.
- Cohen, Raymond (2008). Saving the Holy Sepulchre: How Rival Christians Came Together to Rescue Their Holiest Shrine. Oxford Oxfordshire: Oxford University Press. ISBN 0195189663.
Liên kết ngoài
Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về Church of the Holy Sepulchre |
General sites
- Article with Photos (article, interactive plan, photo gallery)
- OrthodoxWiki (article)
- Sacred Destinations (article, interactive plan, photo gallery)
- The Reconstruction of the Tower of the Church of the Holy Sepulchre in Jerusalem (article)
- The Holy Sepulchre in Jerusalem (article, photos & video)
Custodians
- Franciscan Custody of the Holy Land (Roman Catholic custodians)
- Brotherhood of the Holy Sepulchre (Greek Orthodox custodians)
- Joudeh family (Muslim custodian)
- Nuseibeh family (Muslim custodian)
- Homily of John Paul II in the church of the Holy Sepulchre
Primary sources and scholarly articles
- Egeria's description in the 380s
- The Church of the Resurrection (EHR 7:417‑436, 669‑684)
Photo galleries
- Photos Gallery of the Church - allaboutJerusalem.com
- Inside Photos of the Church
- Jerusalem Shots
- Photo Gallery of the Church of the Holy Sepulchre in 2007
- Virtual tour Full HD December 2007
- VR Panoramic Images of the Church of the Holy Sepulchre
- Unique 360 degrees panoramic tour
Miscellaneous
- The Wall Street Journal on factional disputes over the Church
- Miracle of the Holy Fire
- Commemoration of the Founding of the Church of the Resurrection (Holy Sepulchre) at Jerusalem Orthodox icon and synaxarion for September 13
- "Divvying up the Most Sacred Place by Chris Armstrong, Christianity Today, Week of July 29, 2002, retrieved February 28, 2006.
Nhà Fatima
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nhà Fatima hay al-Fāṭimiyyūn (tiếng Ả Rập الفاطميون) là một triều đại khalip theo Hồi giáo Shi'a Ismaili đã ngự trị một vùng lãnh thổ rộng lớn trong thế giới Ả Rập, từ Biển Đỏ ở phía Đông tới Đại Tây Dương ở phía Tây. Khởi nghiệp từ Tunisia, Vương triều Fatima mở rộng quyền thống trị của mình qua vùng ven biển Địa Trung Hải của châu Phi,
và cuối cùng đưa Ai Cập thành trung tâm của Nhà nước khalip này. Ở đỉnh
của mình, thêm vào Ai Cập, Nhà nước Khalip Fatima kiểm soát nhiều lãnh
thổ ở Maghreb, Sudan, Sicilia, vùng Levant, và Hijaz.
Vương triều Fatima thiết lập thành phố Mahdia ở Tunisia và đóng đô tại đây, và xây dựng thành phố Cairo năm 969. Sau đó, Nhà nước Khalip dời đô về Cairo, với Ai Cập trở thành trung tâm chính trị, văn hóa và tôn giáo của quốc gia. Thế kỷ 4 theo Hồi lịch, tức thế kỷ 10 theo Tây lịch, được Louis Massignon đánh giá là ‘thế kỷ Ismaili trong lịch sử Hồi giáo’.[1]
Đôi khi người ta dùng thuật ngữ Fatimite để chỉ các công dân dưới chế độ Khalip này. Nhánh Ismaili của đạo Shia trở thành tầng lớp thống trị của quốc gia. Các quốc trưởng nhà Fatima cũng kiêm nhiệm Imam của Shia Ismaili, do đó, họ đóng vai trò tôn giáo quan trọng đối với các tín Hồi giáo Ismaili. Họ cũng nằm trong hàng loạt người nắm giữ chứ vụ khalip, như một số tín đồ Hồi giáo công nhận. Do vậy, đây trở thành một thời kỳ duy nhất trong lịch sử mà các hậu duệ của Ali (Vương triều này được đặt theo tên của vợ Ali là Fatima) và chế độ Khalip được hợp nhất ở một mức độ nào đó, ngoại trừ giai đoạn cuối của Nhà nước Khalip Rashidun dưới quyền bản thân Ali.
Nhà nước Khalip được ca ngợi vì thực thi một mức độ khoan dung tôn giáo đối với các nhánh ngoài Ismaili của đạo Hồi cũng như đối với người Do Thái, người Malta Ki-tô giáo và người Copt Ki-tô giáo.[2]
Không những là một trong những đế quốc Ả Rập quan trọng nhất trong thời đại Hồi giáo, Vương triều Fatima còn nổi bật vì vai trò hệ trọng của người Berber trong cuộc khai quốc của nó. Nhà nước khalip tồn tại từ năm 909 đến năm 1171, khi Saladin xưng làm Sultan xứ Ai Cập, và tuyên bố Ai Cập trên danh nghĩa trở lại thần phục nhà Abbas theo Hồi giáo Sunni.
Vương triều Fatima thiết lập thành phố Mahdia ở Tunisia và đóng đô tại đây, và xây dựng thành phố Cairo năm 969. Sau đó, Nhà nước Khalip dời đô về Cairo, với Ai Cập trở thành trung tâm chính trị, văn hóa và tôn giáo của quốc gia. Thế kỷ 4 theo Hồi lịch, tức thế kỷ 10 theo Tây lịch, được Louis Massignon đánh giá là ‘thế kỷ Ismaili trong lịch sử Hồi giáo’.[1]
Đôi khi người ta dùng thuật ngữ Fatimite để chỉ các công dân dưới chế độ Khalip này. Nhánh Ismaili của đạo Shia trở thành tầng lớp thống trị của quốc gia. Các quốc trưởng nhà Fatima cũng kiêm nhiệm Imam của Shia Ismaili, do đó, họ đóng vai trò tôn giáo quan trọng đối với các tín Hồi giáo Ismaili. Họ cũng nằm trong hàng loạt người nắm giữ chứ vụ khalip, như một số tín đồ Hồi giáo công nhận. Do vậy, đây trở thành một thời kỳ duy nhất trong lịch sử mà các hậu duệ của Ali (Vương triều này được đặt theo tên của vợ Ali là Fatima) và chế độ Khalip được hợp nhất ở một mức độ nào đó, ngoại trừ giai đoạn cuối của Nhà nước Khalip Rashidun dưới quyền bản thân Ali.
Nhà nước Khalip được ca ngợi vì thực thi một mức độ khoan dung tôn giáo đối với các nhánh ngoài Ismaili của đạo Hồi cũng như đối với người Do Thái, người Malta Ki-tô giáo và người Copt Ki-tô giáo.[2]
Không những là một trong những đế quốc Ả Rập quan trọng nhất trong thời đại Hồi giáo, Vương triều Fatima còn nổi bật vì vai trò hệ trọng của người Berber trong cuộc khai quốc của nó. Nhà nước khalip tồn tại từ năm 909 đến năm 1171, khi Saladin xưng làm Sultan xứ Ai Cập, và tuyên bố Ai Cập trên danh nghĩa trở lại thần phục nhà Abbas theo Hồi giáo Sunni.
Xem thêm
- Tiểu quốc Sicilia
- Danh sách triều đại Hồi giáo Shi'a
- Danh sách Imam nhánh Ismaili
- Danh sách Dai của Dawoodi Bohra
- Ismaili
- Mustali
- Taiyabi
- Dawoodi Bohra
- Ali al-Sulayhi
- Arwa al-Sulayhi
- Bắc Phi Ả Rập hóa
- Constantine châu Phi
Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về Nhà Fatima |
Ghi chúa
- ^ In his "Mutanabbi devant le siècle ismaëlien de l’Islam", in Mém. de l’Inst. Français de Damas, 1935, p.
- ^ Wintle, Justin (May năm 2003). History of Islam. London: Rough Guides Ltd. tr. 136–7. ISBN 1-84353-018-X.
Tài liệu tham khảo
- Halm, Heinz. Empire of the Mahdi. Michael Bonner trans.
- Halm, Heinz. Die Kalifen von Kairo.
- Walker, Paul. Exploring an Islamic Empire: Fatimid History and Its Sources.
Chú thích
- Fatimids entry in the Encyclopaedia of the Orient.
- Institute of Ismaili Studies London.
- The Shia Fatimid Dynasty in Egypt
Thể loại:
- Sơ khai
- Nhà Fatima
- Lịch sử Bắc Phi
- Lịch sử Địa Trung Hải
- Triều đại thuộc dòng dõi Ali
- Triều đại Hồi giáo
- Triều đại Hồi giáo Shi'a
- Ai Cập thời Trung Cổ
- Lịch sử Algeria
- Lịch sử Malta
- Lịch sử Sicilia
- Khoa học Hồi giáo
- Lịch sử Hồi giáo
- Nhánh Ismail
- Hồi giáo Shi'a
- Cựu quốc gia Trung Đông
- Nền quân chủ cũ châu Á
- Nền quân chủ cũ châu Phi
- Cựu quốc gia châu Phi
Đường Cao Tông
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Đường Cao Tông | |
---|---|
Hoàng đế Trung Hoa (chi tiết...) | |
Hoàng đế nhà Đường | |
Trị vì | 15 tháng 7 năm 649 - 27 tháng 12 năm 683 |
Tiền nhiệm | Đường Thái Tông |
Kế nhiệm | Đường Trung Tông |
Thông tin chung | |
Tên húy | Lý Trị |
Niên hiệu | Vĩnh Huy, Hiển Khánh, Long Sóc, Lân Đức, Càn Phong, Tổng Chương, Hàm Hanh, Thượng Nguyên, Nghi Phượng, Điều Lộ, Vĩnh Long, Khai Diệu, Vĩnh Thuần, Hoằng Đạo: Xem văn bản. |
Thụy hiệu | Đầy đủ: Thiên Hoàng Đại thánh Đại hoằng Hiếu hoàng đế Ngắn: Thiên Hoàng đại đế |
Miếu hiệu | Cao Tông |
Triều đại | Nhà Đường |
Thân phụ | Vua Đường Thái Tông |
Thân mẫu | Trưởng Tôn hoàng hậu |
Sinh | 21/7/628 |
Mất | 27/12/683 |
An táng | Càn lăng |
Mục lục
Thời Đường Thái Tông
Làm Tấn vương
Lý Trị sinh ngày Canh Dần (15) tháng 6 năm Mậu Tý[1] (tức 21 tháng 7 năm 628) ở thành Trường An. Ông là con trai thứ 9 của Đường Thái Tông và con trai thứ ba của Văn Đức Thuận Thánh Trưởng Tôn hoàng hậu (không rõ tên thật), lúc đó Đường Thái Tông đã lên ngôi được 2 năm. Năm 631, khi vừa mới 4 tuổi, Lý Trị đã được vua cha phong tước Tấn vương[2]. Sang năm 633 được phong chức Đô Đốc Tịnh châu[3], tuy nhiên do tuổi còn quá nhỏ nên ông vẫn ở lại kinh thành Trường An. Lúc còn nhỏ, ông được đánh giá là hiếu thuận và nhân hậu, được Đường Thái Tông khen ngợiNăm Lý Trị được 9 tuổi (636) thì Trưởng Tôn hoàng hậu qua đời[4][5]. Trong ngày lễ tang của hoàng hậu, Lý Trị đã khóc thương rất nhiều, do đó ông bắt đầu được Đường Thái Tông chú ý đến. Sau đó, ông được phong làm Hữu Vũ Hậu đại tướng quân. Năm 643, thái tử Lý Thừa Càn do âm mưu chống lại Thái Tông nên bị phế truất. Đường Thái Tông lúc đầu muốn lập con trai thứ tư là Ngụy vương Lý Thái làm Thái tử, nhưng sau đó Lý Thái lại cảnh cáo Lý Trị rằng ông vốn chơi thân với Thừa Càn nên sau này ông phải cẩn thận. Thái Tông biết chuyện rất giận và phế truất Lý Thái. Lúc đó, Lý Trị, cũng là người con còn lại của Trưởng Tôn hoàng hậu, được Đường Thái Tông quan tâm nhất. Sau khi bàn bạc với Trưởng Tôn Vô Kị, Phòng Huyền Linh và Lý Tích, ngày 30 tháng 4 năm 643, Thái Tông chính thức phong Lý Trị làm thái tử.
Làm Thái tử
Cuối năm 643, Lý Trị đã 16 tuổi, Đường Thái Tông muốn tìm một gia đình quan lại có thế lực để hỏi cưới con gái họ cho ông, nhưng ông từ chối, Thái Tông bèn thôi. Một thời gian trước đó, khi ông còn chưa làm thái tử, Thái Tông chọn con gái của họ Vương ở Thái Nguyên, cháu chắt quan Thượng thư Tả phó xạ triều Bắc Ngụy Vương Tư Chính là Vương thị (không rõ tên), nạp làm Tấn vương phi. Đến đây, Vương thị được phong Thái tử phi.Lý Trị tuy là thái tử, nhưng bản tánh nhu nhược yếu đuối, lại khiến Thái Tông không hài lòng. Thái Tông từng bàn với đại thần Trưởng Tôn Vô Kị (em Trưởng Tôn hoàng hậu, cậu Lý Trị) về việc thay ngôi thái tử cho con thứ ba là Ngô vương Lý Khác, hoàng tử vốn được Thái Tông coi là tài giỏi giống mình, nhưng Trưởng Tôn Vô Kị lại dùng lời lẽ thuyết phục Thái Tông rằng Lý Trị là người nhân ái trung hậu, có tướng quân vương. Cuối cùng Thái Tông bỏ việc này.
Năm 645, Đường Thái Tông suất quân tiến đánh Cao Câu Ly[6], để Lý Trị đến Định châu[7] và tạm thời chấp chính thay mình. Tuy nhiên chiến dịch thất bại sau một năm giao tranh, Thái Tông sức khỏe vốn suy nhược, lại lao lực rồi bị thương nên lâm bệnh, nổi nhọt khắp người. Khi Thái Tông về Tịnh Châu, Lý Trị đến thỉnh an ông, và dùng miệng hút mũ trong các vết thương của Thái Tông, nên Thái Tông mới có thể bớt bệnh.
Năm 647, thái thú Tề Châu Đoàn Chí Xung dâng sớ yêu cầu Đường Thái Tông thoái vị, nhường ngôi cho Lý Trị. Lý Trị cùng Trưởng Tôn vô Kị khi biết được tin này, rất sợ hãi, nhưng Thái Tông trấn an ông và không truy cứu Chí Xung[8]. Cùng năm đó, Lý Trị cho xây chùa Đại Từ Ân trong ngày mất của Trưởng Tôn hoàng hậu, chùa này hoàn thành năm 648.
Năm 649, Đường Thái Tông bị bệnh nặng, lại nghi ngờ lòng trung thành của đại thần Lý Thế Tích với triều đình sau khi mình mất, bèn giáng Thế Tích làm Đô Đốc Điệp châu[9]. Lý Trị không rõ nguyên do, hỏi lại Thái Tông. Thái Tông nói
- Tài năng và trí tuệ của Thế Tích là hơn người, nhưng ngươi chưa hiểu được con người hắn đâu! Trẫm sợ khi trẫm trăm tuổi thì hắn không trung hiếu với ngươi nên mới đuổi đi. Nếu hắn không do dự mà đi, thì sau này người có thể đề bạt làm Bộc xạ, hoàn toàn tin tưởng. Nếu chần chừ không đi thì phải giết hắn ngay!.
Lên ngôi hoàng đế
Ngày 10 tháng 7 năm 649 (26 tháng 5 ÂL), Đường Thái Tông qua đời ở cung Thúy Vi. Lý Trị và Trưởng Tôn Vô Kị phong tỏa tin tức, bí mật đưa thi hài về hoàng cung, đến 13 tháng 7 (29/5 ÂL) mới phát tang. Ngày 15 tháng 7 (1 tháng 6 ÂL) cùng năm, Lý Trị đang quang ở điện Thái Cực, xưng là Đường Cao Tông[10]. Vì Thế Tích ra đi không do dự, nên ông nghe theo di huấn, bổ Lý Thế Tích làm Bộc xạ, Kiểm giáo Lạc châu thứ sử, Khai phủ nghi đồng tam ti và cho về triều. Ông cũng thăng Trưởng Tôn Vô Kị làm Thái úy, Trung thư lệnh nhưng Vô Kị từ chối không nhận.Ngày 30 tháng 7 cùng năm, Lý Trị cho an táng vua cha ở Chiêu Lăng, đặt miếu hiệu Thái Tông, thụy hiệu Văn Vũ Đại Thánh Quảng Hiếu hoàng đế. Sau đó, ông tuyên bố chấm dứt cuộc chiến tranh Liêu Đông do Đường Thái Tông phát động năm 645. Tháng 12, ông tiến phong Lý Thái làm Bộc vương, ban cho một số đặc quyền đã bị Thái Tông tước bỏ trước đó.
Tháng 1 ÂL năm 650, ông đặt niên hiệu Vĩnh Huy lập Vương thị là Hoàng hậu, cha là Vương Nhân là Ngụy quốc công[11].
Thịnh trị đời Vĩnh Huy (650 - 656)
Ổn định chính sự
Cũng tháng 1 năm 650, Đường Cao Tông ra chiếu viết- Trẫm vừa mới lên ngôi, triều chính có nhiều chỗ bất tiện, bá tánh cũng có lòng nghi ngờ gì, nhưng không thể nói lên được. Nay tuyên thứ sử các châu vào điện để hỏi tật khổ của dân chúng, mà đề ra đường lối cai trị.
Tháng 9 năm 650, Đường Cao Tông muốn ra ngoài tuần du, bèn hỏi ý kiến của Gián nghị đại phu Lạc Dục Na. Dục Na khuyên can rằng chưa nên đi. Cao Tông nghe theo, bỏ việc tuần du. Lý Tích[12] xin được miễn quan tước, Cao Tông chuẩn tấu, bãi chức Phó xạ, nhưng Nghi đồng tam ti và Trung thư môn hạ vẫn giữ nguyên. Mùa đông năm đó, Chử Toại Lương bị Vi Tư Khiêm tố cáo đã ép một số hộ nông bán ruộng đất giá rẻ cho mình để kiếm lợi. Cao Tông tuy không giết nhưng hạ lệnh bãi chức Toại Lương, giáng làm Thứ sử Đồng châu[13].
Chiến tranh với các nước
Năm 651, Tả kiêu vệ tướng quân A Sử Na Hạ Lỗ nghe tin Đường Thái Tông đã chết, bèn chiêu tập dân li tán, chiếm cứ hai châu Tây, Đình. Thứ sử Đình châu Lạc Hoằng Nghĩa tâu lên triều đình. Cao Tông sai Kiều Bảo Minh đến thuyết phục Hạ Lỗ nên chịu quy phục, gửi con vào làm túc vệ trong cung thì sẽ được triều đình phong làm Kiêu Vệ trung lang tướng. Nhưng con Hạ Lỗ là Hi Vận lại khuyên cha nên chạy về phía phía tây tiếp tục kháng Đường. Hạ Lỗ nghe theo, đi về phía tây chiếm được Tây Đột Quyết, tiếm xưng Sa Bát La Khả hãn, được nhiều nước Tây Vực đi theo.Tháng 7 năm 651, Sa Bát La Khã hãn tiến đánh Đình châu[14]. Đường Cao Tông sai Tả Vũ hậu tướng quân Lưu Kiến Phương, Hữu Kiêu Vệ tướng quân Kế Bật Hà Lực làm Hành quân tổng quản; Cao Đức Dật, Tiết Cô Ngô làm phó, đem 3 vạn quân bốn châu Tần, Thành, Kì, Ung cùng 5 vạn ngựa của người Hồi Hột dâng nạp, tiến đánh Tây Đột Quyết. Quân Đường chiến thắng vài trận, nhưng không lâu sau thì rút lui.
Tháng 12 cùng năm, Cao Tông lập đàn tế nam giao và trai giới. Tháng sau, Triệu Hiếu Tổ ở Lang châu đem quân đánh Bạch Thủy Man và giành thắng lợi, quân Đường thu được nhiều của cải đem về.
Năm 654, hai nước Cao Câu Ly, Bách Tế hợp quân xâm lấn Tân La[15]. Vua Tân La sai sứ sang nhà Đường cầu viện. Tháng 2 Cao Tông sai Trình Danh Chấn và Tô Định Phương cứu Tân La. Quân Đường thắng lớn, bắt được 1000 người Cao Câu Ly đem về.
Cùng năm, Cao Tông phong cho Tiết Linh San làm Đạo Hành quân đại tổng quản, thảo phạt Tây Đột Quyết. Sang năm 655, Hạt Bật Đạt Độ ở Tây Đột Quyết chống lại Sa Bát La Khả hãn, sai người cầu viện Đường triều. Cao Tông sai Nguyên Lễ Thần giúp Hạt Bật Đạt Độ, nhưng Lễ Thần chỉ hành quân được vài ngày lại rút về.
Lập thái tử
Đường Cao Tông yêu thương người con trai thứ tư là Ung vương Lý Tố Tiết, do sủng phi là Tiêu thục phi sinh ra, muốn lập Tố Tiết làm Thái tử. Vương hoàng hậu tuy ở địa vị chính thất, nhưng không được sủng ái, nên ghen ghét với Tiêu thục phi. Thấy con trưởng của Cao Tông là Lý Trung (do Lưu phu nhân sinh) mất mẹ từ nhỏ, Vương hoàng hậu bèn nhận Lý Trung làm con và mua chuộc các đại thần trong triều, đề nghị Cao Tông lập Lý Trung làm thái tử.Ngày Đinh Tị tháng 7 ÂL năm 652, Cao Tông theo ý của quần thần, sách lập thái tử Lý Trung và ra lệnh đại xá[16]. Tiêu thục phi rất giận nhưng không làm gì được. Cao Tông chọn Tả bộc xạ Vu Chí Ninh làm Thiếu sư, Hữu bộc xạ Trương Hành làm Thiếu phó, Thị trung Cao Quý Phụ làm Thiếu bảo và Vũ Văn Tiết làm Chiêm sự, dạy học cho Lý Trung.
Hoàng thân mưu phản
Năm 652, triều đình xảy ra việc công chúa Cao Dương, chị của Đường Cao Tông, liên kết với chồng là Phòng Di Ái, con trai Phòng Huyền Linh, âm mưu lập Kinh vương Lý Nguyên Cảnh (con thứ của Đường Cao Tổ) lên làm vua. Phò mã đô úy Sài Lệnh Vũ và Tiết Vạn Triệt hợp mưu vào chuyện này. Cuối năm 652, việc mưu phản bị Trưởng Tôn Vô Kị phát giác. Vô Kị vốn ghen ghét Ngô vương Khác, bèn xúi Di Ái tố cáo Khác có dự vào chuyện này để nhân đó trừ đi. Di Ái bị Vô Kị lừa gạt, cho rằng nếu khai gian như thế sẽ được miễn chết, nên nhận lời.Tháng 2 năm 653, quần thần dâng tấu xin chém đầu Phòng Di Ái, Tiết Vạn Triệt và Tào Lệnh Vũ, đồng thần xin ban rượu độc cho hai công chúa Cao Dương, Ba Lăng cùng Kinh vương Cảnh, Ngô vương Khác[17][18]. Đường Cao Tông vốn không nỡ ra lệnh, nhưng Binh bộ thượng thư Thôi Đôn lấy luật pháp bức ép khiên ông phải nghe theo. Em cùng mẹ với Lý Khác là Thục vương Lý Âm bị phế làm thứ nhân, Phòng Di Trực (con trưởng của Phòng Huyền Linh) bị đày ra Xuân Châu. Trong triều, Giang Hạ vương Lý Đạo Tông và Phò mã đô úy Chấp Thất Tư Lực dâng sớ tố cáo Trưởng Tôn Vô Kị và Chử Toại Lương, đều bị xử tội. Từ đó, quyền lực của Trưởng Tôn Vô Kị ngày càng to, lấn át triều đình. Cao Tông sợ thế Vô Kị, phải mời Chử Toại Lương về triều, phục lại chức cũ.
Tháng 10 năm 653, nữ tử ở Mục Châu là Trần Thạc Trinh khởi binh chống nhà Đường, tự xưng Văn Giai hoàng đế. Cao Tông cử quân đánh dẹp và bình định được.
Thay ngôi hoàng hậu và thái tử
Từ khi còn làm thái tử, Lý Trị đã yêu mến Tài nhân Võ Mị Nương của vua cha. Sau khi Thái Tông qua đời, các cung nhân bị bức phải vào tu ở chùa Cảm Nghiệp. Khi Cao Tông đến thăm chùa, thấy Võ Tài nhân thì tình xưa trỗi dậy, có ý rước về. Vương hoàng hậu trong cung ghen ghét Tiêu thục phi, muốn mượn tay Võ thị giành lấy sự sủng ái của Thục phi, bèn bảo Võ Mị Nương để tóc dài, sau đó xin Cao Tông cho rước về cung. Cao Tông vốn đã sẵn có ý muốn này, nên chuẩn y.Võ Mị Nương vốn gian manh xảo quyệt; từ khi vào cung ra sức lấy lòng Cao Tông và hoàng hậu[10]. Cao Tông cũng hết mực sủng ái bà ta, do thế mà Tiêu thục phi thất sủng, nhiều lần nói xấu Võ thị trước mặt Cao Tông, nhưng ông không nghe mà còn xa lánh Tiêu phi hơn nữa. Năm 653, Võ thị được phong làm Chiêu nghi.
Dần đà, Võ Chiêu nghi lấy luôn được lòng tin của Cao Tông, Vương hoàng hậu biết Võ thị còn đáng sợ hơn cả Tiêu thục phi, nên hối hận đã cho bà ta vào cung. Võ Chiêu nghi cũng không còn tôn trọng hoàng hậu nữa, lại nhiều lần mua chuộc người trong cung của hoàng hậu và Thục phi để theo dõi động tĩnh. Hoàng hậu và Thục phi tố cáo với Cao Tông, nhưng ông không còn tin lời họ nữa.
Tháng 1 năm 654, Võ Chiêu nghi sinh ra An công chúa, nên vô cùng buồn bực, mặc dù công chúa này rất được Cao Tông yêu quý. Vương hoàng hậu một lần tới thăm công chúa, khi hoàng hậu ra về, Chiêu nghi bí mật đóng hết cửa rèm lại, không cho thông khí từ ngoài vào, rồi tự tay bóp mũi giết chết công chúa. Khi Cao Tông đến, Chiêu nghi và tả hữu nói dối rằng việc này là do Hoàng hậu làm ra[10][19]. Cao Tông giận, nói
- Hoàng hậu giết con ta rồi.
Năm 655, Võ Chiêu nghi tố cáo Ngụy quốc phu nhân Liễu thị (mẹ Vương hoàng hậu) cùng hoàng hậu dùng bùa phép hãm hại mình, từ đó Liễu thị không được vào cung nữa. Trong lúc đó, Trung thư xá nhân Lý Nghĩa Phủ vốn bị Trưởng Tôn Vô Kị ghét, vốn bị Vô Kị biếm chức, nhân đó dâng sớ xin phế hậu lên Cao Tông. Cao Tông vui mừng, triệu Phủ vào cung, cho phục chức. Trường An Lệnh Bùi Hành Kiệm cùng Trưởng Tôn Vô Kị và Chử Toại Lương đều lên tiếng can ngăn Cao Tông. Cao Tông không hài lòng, triệu Lý Tích hỏi ý. Tích nói:
Sau đó Hoàng hậu và Thục phi mưu hại Võ Chiêu nghi. Đầu năm 655, Cao Tông chính thức tuyên chiếu, phế Vương hậu và Tiêu phi làm thứ nhân, đày gia tộc đến Lĩnh Nam rồi lập Võ thị làm hoàng hậu[22]
Tiêu thục phi và Vương hoàng hậu bị giam ở biệt viện, Cao Tông chưa dứt hẳn tình, nhiều lần đến thăm. Tiêu thục phi nhân đó khóc lóc xin Cao Tông thương tình. Võ hoàng hậu tức giận, sai chặt hết tay chân hai người, đem đi ngâm giấm.[11]
Sau khi thay ngôi hoàng hậu, đại thần Hứa Kính Tông cũng dâng biểu xin Cao Tông cũng thay luôn ngôi thái tử. Cao Tông bèn bảo Lý Trung tự mình nhường ngôi thái tử. Trung bất đắc dĩ phải nghe theo. Tháng 2 năm 656, Cao Tông phong cho Đại vương Lý Hoằng, con trai trưởng của Võ Tắc Thiên làm hoàng thái tử, giáng thái tử Lý Trung làm Lương vương, đày làm Đô đốc Lương châu. Cha của Võ hoàng hậu là Võ Sĩ Hoạch được truy phong Tư đồ, tước Chu Quốc công.
Cùng năm 656, Đường Cao Tông đổi niên hiệu từ Vĩnh Huy năm thứ sáu thành Hiển Khánh năm thứ nhất. Đến đấy là kết thúc sáu năm của Vĩnh Huy trị vì.
Thời đại Hiển Khánh (656 - 661)
Chiếm Tây Đột Quyết
Tháng 9 năm 656, Đại tướng Trình Tri Tiết theo lệnh Cao Tông, suất quân công đánh Tây Đột Quyết, đánh thắng hai tộc Ca La, Xử Nguyệt ở Mộ Cốc, chém hơn 1000 quân địch. Phó tướng Chu Trí Độ công đánh hai tộc Đột Kị Thi, Xử Mộc Côn, giết được 30000 quân. Tháng 12 cùng năm, Trình Tri Tiết tiến đến Ưng Sa Xuyên, đánh bại 20000 kị binh của Tây Đột Quyết, truy đuổi đến 20 dặm, chém được nhiều quân địch và thu nhiều vàng bạc, khí giới.Sang năm 657, Cao Tông phong Tô Định Phương làm Y Lệ đạo hành quân tổng quản, mượn thêm quân của Hồi Hột, từ hướng bắc tiến vào lãnh thổ của Sa Bát La Khã hãn[23]. Tháng 12 năm đó, Định Phương đại thắng tộc Xử Mộc Côn Bộ, rồi tiến vào Hà Tây. Sa Bát La cùng đường phải đem mười vạn quân ra quyết chiến. Sa Bát La khinh địch nên đại bại, bỏ trốn về phía tây, bị Định Phương đuổi theo. Nhiều quân mã Tây Đột Quyết bị giết chết. Sa Bát La chạy đến Thạch Quốc[24]. Định Phương sau đó lui quân. Không lâu sau, Sa Bát La bị bắt dâng nộp cho nhà Đường.
Sau khi chiếm được Tây Đột Quyết, Đường Cao Tông sai phân nước này làm hai phần đông tây. Lấy A Sử Na Di Xạ làm Tả Vệ đại tướng quân, đóng ở Côn Lăng, A Sử Na Bộ Chân đóng ở Mông Trì, bãi chức Đột Quyết Khã hãn. Tây Đột Quyết lại bị phân chia và ngày càng suy yếu hơn nữa.
Năm 658, hai tướng Tiết Nhân Quý và Trình Danh Chấn xuất quân công đánh Cao Câu Ly, giành chiến thắng, chém hơn 2000 quân địch.
Lưu đày cựu thần
Sau vụ đổi ngôi hoàng hậu, Chử Toại Lương bị Cao Tông biếm làm Đô đốc Đàm châu[25]. Toại Lương nhờ Hàn Viện dâng thư giải oan lên Cao Tông. Cao Tông tỏ ra thông cảm, nhưng vẫn biếm Toại Lương ra Đàm Châu. Năm sau, Toại Lương bị phe cánh của Võ hoàng hậu hãm hại, lại bị biếm đến Quế châu rồi Ái châu, cuối cùng uất ức mà chết vào tháng 10 ÂL năm 658. Đại thần Hàn Viện cũng bị phe cánh của Võ hậu tố cáo làm việc trái phép, bị biếm làm Thứ sử Ái châu.Võ hậu tiếp tục trả thù những người không ủng hộ mình trước kia. Phe cánh của bà ta là Lý Nghĩa Phủ, Hứa Kính Tông nắm đại quyền trong triều, Trưởng Tôn Vô Kị ngày càng mất uy tín. Võ hoàng hậu sai Hứa Kính Tông tìm cớ hãm hại ông ta.
Năm 659, có người tố cáo hai viên quan là Vi Quý Phương và Lý Sào mưu làm việc trái phép, Đường Cao Tông giao cho Hứa Kính Tông điều tra. Kính Tông dụ dỗ Quý Phương khai rằng Triệu Quốc công (tức Vô Kị) có thông đồng với mình. Cao Tông bất ngờ về việc này, nhưng lại sai Kính Tông đưa Vô Kị ra tra xét. Sau đó, ông hạ lệnh bãi bỏ phong ấp và chức Thái úy của Trưởng Tôn Vô Kị, giáng làm Dương Châu đô đốc, đày đến Kiềm Châu[26]. Hứa Kính Tông nhân đó tố cáo Chử Toại Lương cùng Hàn Viện, Liễu Thích, Viện và Thích bị bãi chức, Chử Toại Lương tuy đã chết cũng bị trừ quan tước. Trưởng Tôn Vô Kị cũng bị bức tử trong năm đó[13].
Diệt Đô Man và Bách Tế
Cũng năm 659, quốc vương Đô Man của Tư Kết Khuyết[27] khởi binh chống lại nhà Đường, liên kết với các nước Sơ Lặc, Chu Câu Ba, Yết Bàn Đà...[28]. Cao Tông phái Tô Định Phương đến phía tây đánh dẹp. Định Phương tuyển 10000 quân bộ và 3000 quân kị, một ngày đi 300 dặm, tiến vào quốc đô của Đô Man. Vua Đô Ma hoảng sợ, lại liên tiếp thất bại, phải xin đầu hàng.Đô Man bị dẫn về kinh. Quần thần muốn giết chết ông ta, nhưng Tô Định Phương nói đã hứa tha chết cho Đô Man khi ông ta đầu hàng, vì thế Cao Tông không hạ lệnh giết nữa.
Ở bán đảo Triều Tiên, hai nước Bách Tế, Cao Câu Ly liên kết với nhau, lấn chiếm nước còn lại là Tân La. Năm 660, Đường Cao Tông sai Tô Định Phương và Ngu Bá Anh tiến công Bách Tế để cứu Tân La. Định Phương tiến vào bán đảo, giết được nhiều quân Bách Tế rồi tiến vào quốc đô Bách Tế, sau đó Bách Tế vương và thái tử Long Đào chạy về phía bắc, sau đó bị bắt. Cao Tông ra lệnh sáp nhập Bách Tế vào lãnh thổ nhà Đường, phân làm 37 quận.
Sau đó Tô Định Phương đánh sang Cao Câu Ly. Tuy nhiên, lúc này tình hình đã chuyển sang thế bất lợi cho quân Đường. Người dân Bách Tế lập vua mới lên ngôi, lại nổi dậy kháng Đường. Mặc dù Cao Tông gửi thêm quân vào chiến trường, nhưng vẫn không thay đổi được tình hình. Năm 662, quân Đường lại bị Cao Câu Ly đánh bại nhiều lần, tổn thương nghiêm trọng, lại cộng thêm bão tuyết hoành hành. Tô Định Phương phải rút quân về nước.
Thời đại Long Sóc - Lân Đức (661 - 665)
Bình định Bì Túc Độc
Tháng 10 ÂL năm 660, Đường Cao Tông bị bệnh đau đầu, không thể coi triều, mọi việc đều do Võ hoàng hậu quyết đoán[21].Tù trưởng Hồi Hột là Bà Nhuận, vốn tuân phục nhà Đường vừa chết, cháu là Bỉ Túc Độc nối ngôi, liên kết với các tộc Đồng La, Bộc Cố xâm phạm vào biên giới nhà Đường. Đường Cao Tông sai Trịnh Nhân Thái cùng Lưu Thẩm Lễ, Tiết Nhân Quý, Tiêu Tự Nghiệp thảo phạt Bì Túc Độc. Ban đầu, quân Đường chiến thắng nhiều trận, nhưng sau đó hết lương, thời tiết xấu phải rút về.
Đường Cao Tông sai trị tội Nhân Thái, rồi bổ Khiết Bật Hà Lực cùng Khước Khác đến thay. Người trong Bộ Lạc sợ thế Hà Lực, bèn bắt tù trưởng hơn hai trăm người giao nộp. Hà Lực sai chém tất cả. Chiến sự phía tây tạm yên.
Tháng 10 năm 662, Đường Cao Tông đến Ly Sơn du ngoạn, để thái tử Lý Hoằng giám quốc. Ít lâu sau ông về Trường An.
Bấy giờ Lý Nghĩa Phủ được Võ hậu tin tưởng, nắm quyền trong triều. Năm 663, có người tố cáo Nghĩa Phủ mưu phản. Cao Tông sai giam vào ngục, sau đó đày đến Đình châu.
Tình hình phía tây và phía đông
Tháng 6 năm 663, tù trưởng Man Di ở Liễu Châu Ngô Quân nổi loạn. Cao Tông sai Lưu Bá Anh đánh dẹp. Cùng lúc đó, hai nước Thổ Phiên và Thổ Cốc Hồn xảy ra chiến tranh, đều sai sứ đến nhà Đường xin viện binh. Cao Tông không giúp nước nào[29]. Sau đó Thổ Cốc Hồn bị Thổ Phiên đánh tan. Khả hãn Hạt Bát phải chạy sang nhà Đường lánh nạn. Cao Tông sai Tô Định Phương tuyển quân giúp Thổ Cốc Hồn, nhưng cuối cùng không thắng. Thổ Cốc Hồn bị Thổ Phiên chiếm đóng.Cũng trong năm đó, quân Đường hoàn toàn đánh bại được tàn dư thế lực của Bách Tế, buộc vua Bách Tế phải chạy sang Cao Ly. Cao Tông sai Lưu Nhân Quỹ trấn thủ Bách Tế, chuẩn bị chiến tranh với Cao Câu Ly.
Tháng 10 năm 663, Cao Tông giao bớt việc nước cho thái tử Hoằng, lệnh cứ năm ngày đến nghe quần thần tấu trình việc nước một lần, nếu là việc nhỏ thì cho thái tử tự quyết định[29].
Ý định phế hậu
Lúc này quyền lực của Võ hoàng hậu trong triều đã rất lớn mạnh. Đạo sĩ Quách Hành Chân ra vào cấm trung, nhiều lần dùng tà thuật bị phát giác. Năm 664, Cao Tông biết việc này là do hoàng hậu chủ mưu nên rất tức giận, triệu đại thần Thượng Quan Nghi vào cung. Nghi tâu rằng hoàng hậu chuyên quyền, không giữ đạo làm vợ, cần phải phế đi. Cao Tông chấp thuận, lệnh cho Nghi tìm cơ hội mà ra tay.Tả hữu của ông đem việc này tố cáo với hoàng hậu. Võ hoàng hậu bèn đến chỗ Lý Trị kêu oan. Ông không biết trả lời ra sao, bèn đổ hết mọi chuyện cho Thượng Quan Nghi. Tháng 12 năm đó, Võ Mị Nương sai Hứa Kính Tông tố cáo Thượng Quan Nghi và thái tử cũ Lý Trung phản nghịch, bắt Nghi hạ ngục rồi ban rượu độc cho Lý Trung. Sang đầu năm 665, Thượng Quan Nghi bị chém đầu. Tuy nhiên, sau này Võ hậu trọng dụng cháu của Nghi là Thượng Quan Uyển Nhi[11].
Cũng từ năm 665, mỗi khi Cao Tông lên triều nghe chính, Võ hoàng hậu đều đứng sau rèm để cùng nghe việc, và hầu hết việc trong triều đều do Vũ hậu quyết đoán. Cao Tông và Võ hậu được gọi là Nhị thánh lâm triều.
Thời đại Càn Phong - Tổng Chương - Hàm Hanh (666 - 674)
Phong thiền
Tháng 10 ÂL năm 665, Võ hoàng hậu dâng biểu xin Cao Tông thực hiện phong thiền (tế trời). Cao Tông đồng ý, sau đó đích thân rời Trường An đến Lạc Dương để chuẩn bị. Sang ngày 10 tháng 2 năm 666 (cũng là Tết Âm lịch), ông lên Thái Sơn, chính thức tiến hành nghi lễ. Cao Tông đăng đàn đầu tiên, tiếp theo là Võ hoàng hậu. Sang ngày 12 tháng 2 năm 666, nghi lễ mới hoàn thành.[29]Sau nghi lễ phong thiền, Đường Cao Tông đổi niên hiệu từ Lân Đức thành Tổng Chương (668 - 670) và ra lệnh đại xá trong toàn quốc, trừ những người bị lưu đày dài hạn. Ông cũng đồng loạt thăng chức cho tất cả quan lại triều đình. Lý Nghĩa Phủ vốn bị tội trước đây, nghĩ sẽ được đại xá trong lần này, khi nghe tin đó thì uất ức mà chết. Cùng dịp đó, ông tôn phong Khổng Tử làm Thái sử, Thái Thượng lão quân làm Thái thượng huyền nguyên hoàng đế.
Tháng 4 năm 666, Đường Cao Tông trở về Trường An.
Diệt Cao Câu Ly
Tháng 6 năm 666, Đại li chi (thừa tướng nước Cao Câu Ly) là Uyên Cái Tô Văn chết, con trai trưởng là Uyên Nam Sinh bị hai em là Nam Kiến, Nam Sản thảo phạt, Nam Sinh bỏ trốn, sai người sang nhà Đường cầu cứu. Đường Cao Tông sai Khế Bật Hà Lực làm Liêu Đông đạo an phủ đại sứ, cùng Bàng Đồng Thiện, Cao Khản cùng nhau mượn danh nghĩa cứu Nam Sinh, thực chất là xâm lược Cao Câu Ly.Chị của Võ hoàng hậu là Hàn quốc phu nhân cùng con gái thường vào trong cung, được Cao Tông sủng ái, muốn giữ lại luôn. Khi Hàn Quốc phu nhân mất, Cao Tông phong cho con gái bà ta làm Ngụy quốc phu nhân, muốn phong làm hậu phi. Võ hoàng hậu ghen ghét, bèn đầu độc Ngụy quốc phu nhân rồi đổ tội cho em là Võ Hoài Vận và anh họ là Duy Lương, cho giết hai người.
Sang đầu năm 667, Đường Cao Tông lại cử Lý Tích ra quân tiếp viện cho chiến trường Cao Câu Ly[30]. Mùa thu cùng năm, Lý Tích vượt sông Liêu, chiếm Tân Thành[31] rồi hạ được 16 thành. Tiết Nhân Quý đại phá quân Cao Câu Ly, hợp quân với Uyên Nam Sinh. Năm 668, quân Đường tiến vào Bình Nhưỡng, vua Cao Câu Ly là Bảo Tạng Vương đầu hàng, Cao Câu Ly diệt vong. Tại đất Cao Câu Ly, Đường Cao Tông bắt nhiều người dân chuyển sang sống ở Trung Quốc, chia đất đã chiếm cho Tân La. Tân La thống nhất bán đảo Triều Tiên. Tại những vùng đất đã chiếm, Cao Tông lập ra An Đông Đô hộ phủ, cử Tiết Nhân Quý làm An Đông đô hộ[32][33].
Chống Thổ Phiên và Tân La
Tháng 4 năm 668, Đường Cao Tông đổi niên hiệu Càn Phong thành Tổng Chương[34]. Sang tháng sau, nước Thổ Phiên tiến chiếm 18 châu của nhà Đường. Đường Cao Tông lại cử Tiết Nhân Quý, A Sử Na Đạo Chân, Quách Đãi Phong kháng cự Thổ Phiên. Cùng lúc, tù trưởng Cao Câu Ly là Mâu Sầm khôi phục Cao Câu Ly, lập An Thuấn lên làm vua. Cao Tông sai Cao Khản phát binh thảo phạt. An Thuấn bỏ trốn sang Tân La.Trong khi đó ở phía tây, quân của Tiết Nhân Quý bị quân Thổ Phiên đánh úp, quân Đường đại bại, tử thương vô số. Ba tướng bỏ chạy tháo thân, Đường Cao Tông xét lúc trước họ lập nhiều công trạng, miễn tội chết, nhưng trừ danh. Trong khi đó, sức khỏe của Cao Tông ngày một suy nhược, ông giao quyền hành cho thái tử Lý Hoằng. Lý Hoằng xử lý triều chính, rất được Cao Tông hài lòng. Ông từng có ý muốn sớm nhường ngôi cho Hoằng để lên làm Thái thượng hoàng.
Trong lúc đó ở phía đông, Tân La có ý muốn chiếm lại tất cả đất cũ của Cao Câu Ly bị nhà Đường sáp nhập khi trước, bèn gửi quân giúp Cao Câu Ly. Tháng 1 năm 673, tướng Cao Khản đánh thắng quân Tân La một trận lớn, kìm chân được tham vọng của Tân La.
Đầu năm 674, Cao Tông sai Lưu Nhân Quỹ, Lý Bật và Lý Cẩn kéo quân thảo phạt Tân La vương Pháp Mẫn do đã giúp Cao Câu Ly, miễn chức quan của Pháp Mẫn, lập em là Nhân Vấn làm Tân La vương, sai hộ tống về nước, thay thế Pháp Mẫn. Nhưng Pháp Mẫn sau đó dâng thư tạ tội, Cao Tông phục chức cho Pháp Mẫn và rút quân về.
Thiên hoàng, thiên hậu
Tháng 8 ÂL năm 674, Đường Cao Tông hạ lệnh truy tôn phong hiệu cho tổ tiên của mình: Tuyên Giản công làm Tuyên Hoàng đế, phu nhân Trương thị là Tuyên hoàng hậu; Ý vương làm Quang hoàng đế, phu nhân Giả thị là Quang hoàng hậu, tôn Đường Cao Tổ làm Thần Nghiêu hoàng đế, Đường Thái Tông làm Văn Vũ Thánh hoàng đế, Trưởng Tôn hoàng hậu làm Văn Đức Thánh hoàng hậu. Cao Tông cũng tự xưng là Thiên hoàng thay vì Thiên tử, Võ hoàng hậu làm Thiên Hậu[35], đồng thời đại xá thiên hạ, đổi niên hiệu là Thượng Nguyên. Tháng 9 ÂL, Thiên hoàng phục hồi quan tước cho gia tộc Trưởng Tôn, lấy cháu Trưởng Tôn Vô Kị là Dực kế tước Triệu quốc công.Thời gian xưng hiệu Thiên hoàng
Thái tử qua đời
Đầu năm 675, Thổ Phiên sai sứ đến xin hòa với nhà Đường. Thiên hoàng không bằng lòng.Cũng trong thời gian đó, Thiên hoàng bị bệnh đau đầu rất nặng do uống phải nhiều thuốc kích thích mà Thiên hậu dâng lên. Do ông không thể quản lý triều chính, quyền hành trong triều lọt vào tay Thiên hậu. Các đại thần Hác Xử Tuấn, Lý Nghĩa Diễm can ngăn, Thiên hoàng không nghe. Thiên hậu đưa nhiều tay chân vào triều như Nguyên Vạn Khoảnh, Lưu Y Chi, củng cố thực quyền.
Thái tử Lý Hoằng không hài lòng việc thiên hậu nắm quyền, muốn đoạt lại quyền lực. Hai con gái của Tiêu thục phi là công chúa Cao An, Tuyên Thành bị Thiên hậu bắt giam, Thái tử xin Thiên hoàng thả ra; lại nhiều lần đắc tội với Thiên hậu, nên bị Thiên hậu ghét bỏ. Giữa năm 675, Thái tử Hoằng mất, có lời đồn cái chết này là do Thiên hậu hạ độc.
Thiên hoàng vốn thương yêu thái tử, nghe tin thái tử đã mất, rất đau lòng, bèn truy tôn Lý Hoằng là Hiếu Kính hoàng đế, miếu hiệu Nghĩa Tông[36]. Cũng trong năm đó, do không hài lòng về hoàng tử Lý Thượng Kim, con trai thứ ba của Cao Tông, Thiên Hậu sai thủ hạ tố cáo Thượng Kim với Thiên hoàng. Cuối cùng Thượng Kim bị bãi chức, đày đến Lễ châu. Sang năm sau, Thiên Hậu lại tố cáo hoàng tử thứ tư là Lý Tố Tiết bỏ không vào triều kiến là bất trung bất hiếu, Cao Tông cũng đày Tố Tiết đến Viên Châu, giáng tước Phiên Dương vương.
Dàn xếp phía đông và tây
Trong khi đó ở vùng đất Cao Câu Ly và Bách Tế mà nhà Đường vừa chiếm được cũng xảy ra nhiều cuộc nổi loạn của người dân nhằm khôi phục quốc gia; cộng thêm sự công kích của Tân La. Bị kháng cự quyết liệt, đầu năm 676, Đường Cao Tông buộc phải dời An Đông đô hộ phủ về Liêu Đông, hầu hết bán đảo Triều Tiên rơi về tay Tân La.Năm 677, Cao Tông phong Cao Tạng, vua cũ của Cao Câu Ly, làm Triều Tiên vương và đưa về nước nhằm lợi dụng ông ta khống chế các thế lực phản loạn ở Cao Câu Ly. Sau đó lại đổi phủ đô hộ An Đông về Tân Thành, đồng thời đưa Phù Dư Long về cai trị Bách Tế. Nhưng Cao Tạng khi về nước lại có ý khôi phục quốc gia, đã tập hợp nhiều quân sĩ và khí giới. Tuy nhiên kế hoạch thất bại, năm 680, quân Đường đánh bại quân của Cao tạng, đày ông ta đến Ba Thục[37].
Trong khi đó quân Thổ Phiên tiếp tục xâm lấn vùng biên cương với nhà Đường, bắt tướng trấn giữ Đỗ Hiếu Thăng và ép Hiếu Thăng viết thư cho Đô đốc Tùng châu Vũ Cư Tịch cũng đầu hàng. Hiếu Thăng không nghe, bỏ trốn về và giữ được Phù châu. Thiên hoàng phong ông ta làm Du Kích tướng quân.
Năm 678, theo gợi ý của Lưu Nhân Quỹ, Thiên hoàng phong Lý Kính Huyền đến trấn giữ phía tây đề phòng Thổ Phiên xâm lược[38]. Tháng 9 ÂL năm 678, thiên hoàng muốn xuất quân thảo phạt Tân La, lão thần Trương Văn Quán tuy có bệnh nặng cũng cố đến gặp để khuyên can. Thiên hoàng đồng ý.[39]. Cũng trong tháng đó, Lý Kính Huyền suất 180000 quân giao chiến với Thổ Phiên ở Thanh Hải, nhưng bị quân Thổ Phiên đánh cho tan tác, Kính Huyền bỏ chạy về Thiện châu. Biết Thổ Phiên là mối đe dọa, Đường Cao Tông từng nhiều lần muốn bàn ra một đối sách lâu dài: hoặc hòa thân, hoặc đem đại quân giao chiến, hoặc tăng cường phòng thủ, nhưng cuối cùng không đi đến quyết định nào.
Năm 679, nghe tin Tùng Cán Tán Phổ của Thổ Phiên đã chết, con là Khí Nỗ Tất Lộng nối ngôi, trong nước quốc dân không phục, muốn lập con thứ của Tán Phổ là Khâm Lăng lên ngôi, Cao Tông muốn nhân đó mà đem quân đánh Thổ Phiên, nhưng nghe can gián của Bùi Hành Kiệm, bèn thôi. Vợ Tán Phổ là công chúa Văn Thành (vốn được Thái Tông gả sang Thổ Phiên) sai sứ sang hòa thân, Cao Tông chấp thuận.
Chống Tây Đột Quyết
Khả hãn của Tây Đột Quyết là A Sử Na Đô Chi lúc trước liên kết với Thổ Phiên, thường xâm lấn đất An Tây, triều đình muốn đem bin thảo phạ. Bùi Hành Kiệm đề nghị rằng vua Ba Tư mới chết, con là Nê Hoàn sư còn ở kinh, nên đưa Hoàn Sư về à nhân đó khống chế Ba Tư mà uy hiếp Đột Quyết. Cao Tông nghe theo, sai Hành Kiệm lập Nê Hoàn Sư làm Ba Tư vương, nhưng cũng bổ Vương Phương Dực trợ giúp, thực chất là để kiềm chế.Tháng 8 năm 679, thấy A Sử Na Đô Chi lơ lỏng phòng bị đối với quân Đường, bèn triệu tù trưởng các châu ở phía bắc mà cùng hợp quân phạt Tây Đột Quyết. Các tướng Hồ hăng hái tòng quân, tổng cộng hơn 100000, sau đó tiến về phía tây. Hành Kiệm nhanh chóng chiếm được Tây Đột Quyết, bắt sống được Đô Chi rồi rút quân về, lưu Lưu Phương Dực ở phủ An Tây, xây thành Toái Diệp ở đó[40].
Tháng 11, Thiền vu đại đô hộ phủ Đột Quyết A Sử Na Đức tạo phản kháng Đường, lập A Sử Na Nê Thục Bặt làm Khả hãn, được 24 châu trong nước hưởng ứng, lực lượng đến khoảng 100000 quân. Cao Tông sai Tiêu Tự Nghiệp, Hoa Đại Trí, Lý Cảnh Gia thảo phạt. Nhưng quân Đường gặp bão tuyết, bị quân Đột Quyết ban đêm công kích. Tự Nghiệp bỏ trốn, Đại Trí, Cảnh Gia rút quân về. Cao Tông bãi quan của Đại Trí, Cảnh Gia và miễn chết cho Tiêu Tự Nghiệp.
Sau đó Đột Quyết lại nhiều lần xâm phạm biên cương. Tháng 3 năm 680, Bùi Hành Kiệm đại thắng quân Tây Đột Quyết ở Hắc Sơn, Khả hãn Nê Thục Bặt bị thủ hạ giết chết, đem thủ cấp ra hàng Đường. Nhà Đường bình định được Tây Đột Quyết[35].
Phế thái tử Lý Hiền
Sau khi Lý Hoằng mất, Thiên hoàng lập con trai thứ hai của mình và Thiên hậu là Ung vương Lý Hiền[41] làm thái tử[35].Đầu xuân năm 679, Đường Cao Tông xuất tuần Đông Đô Lạc Dương. Từ đó đến khi mất, ông ít khi về Trường An mà chủ yếu sống ở Lạc Dương. Lúc bấy giờ ở trong cung, thái tử Lý Hiền tuy là người hiền minh, nhưng do Hàn Quốc phu nhân (chị Thiên Hậu) sinh ra, nên không được lòng Thiên Hậu. Đạo sĩ Minh Sùng Nghiễm được Thiên Hậu coi trọng, thường nói với Thiên Hậu
- Thái tử không thể thừa kế được, Anh vương (Lý Triết) có dung mạo giống Thái Tông.
- Tương vương (Lý Đán) về sau sẽ đại quý[42].
- Là con dân mà mưu nghịch, thiên địa bất dung; nay đại nghĩa diệt thân, có thể nào xá được?.
Cuối đời
Bạo loạn ở Đột Quyết
Tháng 1 ÂL năm Nhâm Ngọ (682), ông cho lập con trai Lý Hiển là Trọng Chiếu làm Hoàng Thái tôn. Mấy tháng sau, ở Đột Quyết A Sử Na Xa Bạc suất quân phản Đường, không lâu sau cho xây Cung Nguyệt thành. Vương Phương Dực đem quân chống lại, phá quân Đột Quyết ở Lệ Thủy chém hơn 1000 thủ cấp. Sau đó Phương Dực đại phá được Xa Bạc lần nữa, bắt được 300 tù trưởng, bình định được Tây Đột Quyết.Cuối năm 682, dư đảng Đột Quyết A Sử Na Cốt Độc Lộc, A Sử Na Đức Nguyên Chân chiêu tập dân chúng tạo phản. Cao Tông sai Tiết Nhân Quý đem quân thảo phạt. Nhân Quý đem quân đại phá được quân Đột Quyết, bắt được hơn 200000 người. Liên tục trong năm 683, quân Đột Quyết nhiều lần đánh phá biên cương nhà Đường[45]
Qua đời
Tháng 12 năm 683, Đường Cao Tông lâm bệnh nặng ở Lạc Dương, bèn triệu Lý Hiển từ Trường An về Lạc Dương trao di chiếu và giao cho đại thần Bùi Viêm phụ chính. Ngày 27 tháng 12 năm 683, Đường Cao Tông băng hà ở điện Trinh Quan, Lạc Dương, hưởng thọ 56 tuổi[45][46]. Thái tử Lý Hiển nối ngôi, tức là Đường Trung Tông. Võ Tắc Thiên trở thành Thái hậu, nắm toàn bộ quyền lực trong triều. Bảy năm sau, bà ta cướp ngôi nhà Đường, lập ra nhà Võ Chu.Thi hài của Cao Tông được an táng ở Kiền lăng.
Niên hiệu
- Vĩnh Huy (永徽): 650 - 655
- Hiển Khánh (顯慶): 656 - tháng 2 âm lịch năm 661
- Long Sóc (龍朔): Tháng 3 âm lịch năm 661 - 663
- Lân Đức (麟德): 664 - 665
- Càn Phong (乾封): 666 - tháng 2 âm lịch năm 668
- Tổng Chương (總章): Tháng 2 âm lịch năm 668 - tháng 2 âm lịch năm 670
- Hàm Hanh (咸亨): Tháng 3 âm lịch năm 670 - tháng 8 âm lịch năm 674
- Thượng Nguyên (上元): Tháng 8 âm lịch năm 674 - tháng 11 âm lịch năm 676
- Nghi Phượng (儀鳳): Tháng 11 âm lịch năm 676 - tháng 6 âm lịch năm 679
- Điều Lộ (調露): Tháng 6 âm lịch năm 679 - tháng 8 âm lịch năm 680
- Vĩnh Long (永隆): Tháng 8 âm lịch năm 680 - tháng 9 âm lịch năm 681
- Khai Diệu (開耀): Tháng 9 âm lịch năm 681 - tháng 2 âm lịch năm 682
- Vĩnh Thuần (永淳): Tháng 2 âm lịch năm 682 - tháng 12 âm lịch năm 683
- Hoằng Đạo (弘道): Tháng 12 âm lịch năm 683.
Gia quyến
- Thân phụ: Thái Tông hoàng đế Lý Thế Dân.
- Thân mẫu: Văn Đức Thuận Thánh hoàng hậu Trưởng Tôn thị (文德皇后长孙氏, 601 - 636).
- Hậu phi:
- Vương hoàng hậu (王皇后), lập năm 650, phế và tử hình năm 655.
- Tắc Thiên Thuận Thánh hoàng hậu Võ thị (則天順聖皇后武氏, 625 - 705), tên Võ Chiếu (武曌), lập năm 655.
- Tiêu thục phi (蕭淑妃), phế và tử hình năm 655.
- Từ tiệp dư (徐婕妤), con gái Từ Hiếu Đức (徐孝德), em gái Từ Hiền phi (徐賢妃) của Đường Thái Tông. Đường thời so sánh bà với Ban tiệp dư nhà Hán, văn chương nổi tiếng. Cô của Từ Kiên (徐坚), là Thập bát học sĩ (十八学士) đời Đường Huyền Tông.
- Lưu cung nhân (刘宫人).
- Trịnh cung nhân (郑宫人).
- Dương cung nhân (杨宫人).
- Hàn quốc phu nhân (韩国夫人), tên là Võ Thuận (武顺), tự là Mỗ Tắc (某则), chị gái Võ hoàng hậu. Bà ban đầu hạ giá Hạ Lan An Thạch (賀蘭安石), sinh ra Hạ Lan Mẫn Chi (賀蘭敏之) và Ngụy Quốc phu nhân Hạ Lan thị. Sau khi Việt Thạch mất, bà do là chị Võ hậu, vào cung thường xuyên và thông dâm với Cao Tông. Khi chết, truy tặng Trịnh quốc phu nhân (郑国夫人). Có thuyết cho rằng bà này sinh ra Chương Hoài thái tử Lý Hiền[47].
- Ngụy quốc phu nhân Hạ Lan thị (魏国夫人賀蘭氏, ? - 666), húy Mẫn Nguyệt (敏月), là con gái Hàn Quốc phu nhân và Hạ Lan An Thạch, cháu gái Võ hoàng hậu và là em gái Hạ Lan Mẫn Chi. Nàng cùng mẹ hay ra vào cung cấm, khi Hàn Quốc phu nhân chết, nàng trở thành sủng phi mới của Cao Tông. Sau bị Võ hoàng hậu đầu độc.[48].
Con cái
Trai
- Lý Trung (644 - 665), con Lưu phu nhân, năm 648 được Thái Tông phong làm Trần vương, năm 651 được lập làm thái tử. Sau khi Võ chiêu nghi lên ngôi hoàng hậu thì Lý Trung bị phế ngôi, giáng làm Lương vương. Năm 660 bị phế làm thứ nhân. Năm 665 bị bức tử, sau truy phong là Yên vương.
- Lý Hiếu, con Trịnh phu nhân. Năm 649 được phong làm Hứa vương, năm 664 qua đời, thụy là Hứa Điệu vương. Sau khi Võ Tắc Thiên lên ngôi, truy tặng làm Nguyên vương, Ích châu đô đốc
- Lý Thượng Kim, con Dương phu nhân, năm 649 được phong làm Kỉ vương, năm 684 đổi phong Tất vương, tự tử vì lo sợ vào năm 690.
- Lý Tố Tiết (646 - 690). Năm 650 được phong làm Ung vương, sang 656 đổi làm Tuân vương, năm 676 giáng làm Bà Dương quận vương, năm 681 thăng làm Cát vương, năm 684 đổi làm Hứa vương, năm 690 bị Võ Tắc Thiên bức tử, táng theo lễ của thứ nhân. Sang thời Đường Trung Trông được truy tặng làm Hứa vương
- Lý Hoằng, con Võ Tắc Thiên (652 - 676), năm 652 được phong làm Đại vương, năm 656 được lập làm Thái tử. Năm 676 qua đời, được Cao Tông truy tặng là Hiếu Kính hoàng đế, miêu hiệu Nghĩa Tông.
- Lý Hiền (653 - 684), con Võ Tắc Thiên. Năm 655 được phong Lộ vương, năm 662 đổi làm Phái vương, năm 672 lại đổi làm Ung vương, đổi tên là Đức, sau đổi lại là Hiền. Năm 676, được lập làm thái tử thay cho Lý Hoằng, sau đó bị phế, đày đến Ba Thục. Năm 684 bị mẹ là Võ Tắc Thiên bức tử[49].
- Trung Tông Lý Hiển
- Duệ Tông Lý Đán (còn có tên là Lý Húc Luân)
Gái
Đường Cao Tông có 4 con gái[50]:- Công chúa Nghĩa Dương Lý Hạ Ngọc (mẹ là Tiêu thục phi, lấy Quyền Nghị)
- Công chúa Cao An (mẹ là Tiêu thục phi, ban đầu phong là công chúa Tuyên Thành, lấy Vương Úc)
- Công chúa An Định (mẹ là Võ hậu, đột tử do lượng khí cacbonic trong phòng quá lớn)
- Công chúa Thái Bình Lý Lệnh Nguyệt (mẹ là Võ hậu, lấy Tiết Thiệu, sau lấy Võ Du Kị (武攸暨)).
Chú thích
- ^ Cựu Đường thư, quyển 2
- ^ Cựu Đường thư, quyển 4
- ^ Đất Tịnh châu nay thuộc địa cấp Thái Nguyên, tỉnh Sơn Tây, Trung Quốc
- ^ Cựu Đường thư, quyển 51, liệt truyện quyển 1
- ^ Tân Đường thư, quyển 76
- ^ Tân Đường thư, quyển 2
- ^ Nay thuộc Hà Bắc, Trung Quốc
- ^ Tư trị thông giám, quyển 198
- ^ Nay thuộc khu tự trị Tây tạng, tỉnh Cam Túc, Trung Quốc
- ^ a ă â Tư trị thông giám, quyển 199
- ^ a ă â Tân Đường thư, quyển 76, liệt truyện quyển 1
- ^ Do chữ Thế phạm húy vào tên của Thái Tông (Thế Dân) nên Cao Tông đổi Lý Thế Tích là Lý Tích
- ^ a ă Tân Đường thư, quyển 105, liệt truyện quyển 30
- ^ Tân Cương, Trung Quốc hiện nay
- ^ Ba nước này đều thuộc bán đảo Triều Tiên hiện nay
- ^ Cựu Đường thư, quyển 4, Bản kỉ 4
- ^ Cựu Đường thư, quyển 76, liệt truyện quyển 26
- ^ Tân Đường thư, quyển 80
- ^ Cựu Đường thư, quyển 6, Bản kỉ 6
- ^ Cựu Đường thư, quyển 67, liệt truyện quyển 17
- ^ a ă Tư trị thông giám, quyển 200
- ^ Cựu Đường thư, quyển 6, bản kỉ quyển 6
- ^ Tân Đường thư, quyển 111, liệt truyện quyển 36
- ^ Thuộc lãnh thổ Uzbekistan ngày nay
- ^ Cựu Đường thư, quyển 80, liệt truyện quyển 30
- ^ Quý Châu, Trung Quốc ngày nay
- ^ Nay thuộc thành phố Bayankhongor, CHND Mông Cổ.
- ^ Các nước này đều nằm ở khu vực Tân Cương, Trung Quốc hiện nay
- ^ a ă â Tư trị thông giám, quyển 201
- ^ Tân Đường thư, quyển 93, liệt truyện quyển 18
- ^ Nay thuộc Phủ Thuận, Liêu Ninh, Trung Quốc
- ^ Tân Đường thư, quyển 220, liệt truyện quyển 145
- ^ Cựu Đường thư, quyển 199, liệt truyện quyển 149
- ^ Cựu Đường thư, quyển 5, Bản kỉ quyển 5
- ^ a ă â Tư trị thông giám, quyển 202
- ^ Cựu Đường thư, quyển 86, liệt truyện quyển 36
- ^ Thành Đô, Tứ Xuyên, Trung Quốc hiện nay
- ^ Nhân Quỹ vốn ghét Kính Huyền nên đề cử ông ta mặc dù biết ông ta không có tài cầm quân
- ^ Mấy ngày sau thì Văn Quán qua đời
- ^ Tân Đường thư, quyển 215 hạ, liệt truyện 140 hạ
- ^ Có thuyết cho Lý Hiền không phải con của Võ Tắc Thiên
- ^ Lý Hiển, Lý Đán là con trai ruột của Thiên Hậu
- ^ Cựu Đường thư, quyển 86, liệt truyện 36
- ^ Tân Đường thư, quyển 4, Bản kỉ 4
- ^ a ă Tư trị thông giám, quyển 203
- ^ Cựu Đường thư, quyển 7, bản kỉ 7
- ^ Tân Đường thư liệt truyện: Đệ lục tam tông chư tử
- ^ Tân Đường thư liệt truyện: Đệ nhất hậu phi thượng
- ^ Cựu Đường thư, quyển 86
- ^ Tân Đường thư: chư đế công chúa liệt truyện
|
http://www.youtube.com/user/hoangkimvietnam
Trở về trang chính
Hoàng Kim, hoangkim, hoangkimvietnam, Ngọc Phương Nam, Chào ngày mới Thung dung, Dạy và học, Cây Lương thực, Tin Nông nghiệp Việt Nam, Food Crops, Cassava in Vietnam, Khát khao xanh, Dayvahoc,Học mỗi ngày, Danh nhân Việt , Food Crops News, Điểm chính, CNM365, Kim LinkedIn, KimTwitter, KimFaceBook Đọc lại và suy ngẫm, Việt Nam tổ quốc tôi, Tình yêu cuộc sống, Thơ cho con
No comments:
Post a Comment