Colombia
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Cộng hoà Colombia | |||||
---|---|---|---|---|---|
República de Colombia (tiếng Tây Ban Nha) | |||||
|
|||||
Khẩu hiệu | |||||
Libertad y Orden (tiếng Tây Ban Nha: "Tự do và trật tự") |
|||||
Quốc ca | |||||
¡Oh, Gloria Inmarcesible! (tiếng Tây Ban Nha: "Ôi niềm vinh quang không phai nhoà") |
|||||
Hành chính | |||||
Chính phủ | Cộng hòa | ||||
Tổng thống | Juan Manuel Santos | ||||
Ngôn ngữ chính thức | tiếng Tây Ban Nha | ||||
Thủ đô | Bogotá |
||||
Thành phố lớn nhất | Bogotá | ||||
Địa lý | |||||
Diện tích | 1.141.748 km² (hạng 26) | ||||
Diện tích nước | 8,8% % | ||||
Múi giờ | UTC-5 | ||||
Lịch sử | |||||
Ngày thành lập | - Tuyên bố: 20 tháng 7 năm 1810 - Được công nhận: 7 tháng 8 năm 1819 |
||||
Dân cư | |||||
Dân số ước lượng (2012) | 45.239.079[1] người (hạng 29) | ||||
Dân số (2005) | 42.888.592 người | ||||
Mật độ | 40 người/km² (hạng 168) | ||||
Kinh tế | |||||
GDP (PPP) (2010) | Tổng số: 429,866 tỷ đô la Mỹ | ||||
HDI (2010) | 0,689 trung bình (hạng 79) | ||||
Đơn vị tiền tệ | Peso Colombia (COP ) |
||||
Thông tin khác | |||||
Tên miền Internet | .co |
Mục lục
Nguồn gốc tên gọi
Tên gọi "Colombia" lấy theo tên của Christopher Columbus (Cristóbal Colón tiếng Tây Ban Nha, Cristóvão Colombo tiếng Bồ Đào Nha, Cristòfor Colom tiếng Catalan, Christophe Colomb tiếng Pháp, Cristoforo Colombo tiếng Ý) và được bày tỏ bởi Francisco de Miranda như là một từ tham chiếu đến Tân Thế Giới, đặc biệt là các lãnh thổ Mỹ và các thuộc địa Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha. Tên này được áp dụng bởi Cộng hòa Colombia năm 1819 thành lập bởi liên bang của Venezuela, New Granada và Ecuador.Năm 1830, khi Venezuela và Ecuador ly khai, vùng Cundinamarca còn lại trở thành một quốc gia, Cộng hòa Tân Granada. Năm 1863 Tân Granada đổi tên chính thức thành Hợp chủng quốc Colombia và năm 1886 đổi thành tên như ngày nay: Cộng hòa Colombia.
Lịch sử
Tiền Colombo
Khoảng năm 10000 trước Công Nguyên, các xã hội săn bắn hái lượm đã tổn tại gần nơi hiện là Bogotá (tại "El Abra" và "Tequendama") họ buôn bán với nhau và với các nền văn hóa sống dọc Châu thổ Sông Magdalena. Bắt đầu thiên niên kỷ thứ nhất trước Công Nguyên, các nhóm người Amerindians đã phát triển các hệ thống chính trị gồm các "cacicazgo" với một cơ cấu quyền lực hình kim tự tháp đứng đầu là các tù trưởng. Bên trong Colombia, hai nền văn hóa có hệ thống cacicazgo phức tạp nhất là Tayrona tại vùng Caribe, và Muisca tại các cao nguyên quanh Bogotá, cả hai đều thuộc ngữ hệ Chibcha. Người Muisca được coi là đã sở hữu một trong những hệ thống chính trị phức tạp nhất tại Nam Mỹ, sau người Inca.Thuộc địa
Những nhà thám hiểm Tây Ban Nha lần đầu khám phá vùng đất ven biển Caribe vào năm 1500 dưới sự lãnh đạo của Rodrigo de Bastidas. Christopher Columbus đã tới gần Caribe năm 1502. Năm 1508, Vasco Nuñez de Balboa bắt đầu chinh phục lãnh thổ này qua vùng Urabá. Năm 1513, ông cũng là người Châu Âu đầu tiên khám phá Thái Bình Dương mà ông gọi là Mar del Sur (hay "Biển phương Nam"), con đường trên thực tế sẽ đưa những kẻ chinh phục Tây Ban Nha tới Peru và Chile. Năm 1525, thành phố Châu Âu đầu tiên tại lục địa Châu Mỹ được thành lập, là Santa María la Antigua del Darién tại Khu Chocó ngày nay. Dân số chủ yếu sống trên vùng này là hàng trăm bộ tộc Chibchan và "Karib", hiện được gọi là dân tộc Caribe, và người Tây Ban Nha đã dùng chiến tranh để chinh phục họ, bệnh dịch, công cuộc khai thác và chính cuộc chinh phục này đã đưa lại một thảm họa về nhân chủng làm giảm sút số lượng người bản xứ. Ở thế kỷ mười sáu, người Châu Âu bắt đầu đưa nô lệ từ Châu Phi tới.Độc lập
Từ đầu những giai đoạn Chinh phục và Thuộc địa, đã có nhiều phong trào phản kháng chống lại ách cai trị Tây Ban Nha, đa số chúng đều bị đàn áp hay quá yếu ớt để có thể mang lại sự thay đổi. Phong trào phản kháng cuối cùng, với mục tiêu đòi độc lập từ Tây Ban Nha, nổ ra khoảng năm 1810, sau khi St. Domingue giành độc lập năm 1804 (Haiti ngày nay), và nước này chỉ có thể cung cấp sự hỗ trợ nhỏ nhoi cho những lãnh đạo phong trào là: Simón Bolívar và Francisco de Paula Santander. Simón Bolívar đã trở thành tổng thống đầu tiên của Colombia/ Fransisco de Paula Santander là Phó tổng thống, và khi Simón Bolívar rút lui, Santander đã trở thành tổng thống thứ hai của Colombia. Cuộc nổi dậy cuối cùng đã giành thắng lợi năm 1819 khi lãnh thổ Phó vương New Granada trở thành nhà nước Cộng hòa Đại Colombia được tổ chức thành một Liên minh cùng Ecuador và Venezuela (Panama từng là một phần của Colombia).Tranh giành chính trị
Sự chia rẽ chính trị và lãnh thổ trong nội bộ đã dẫn tới sự ly khai của Venezuela và Quito (Ecuador ngày nay) năm 1830. Ở thời điểm này, cái gọi là "Khu Cundinamarca" đã chấp nhận cái tên "Nueva Granada", và giữ nó cho tới tận năm 1856 khi nó trở thành "Confederación Granadina" (Liên bang Grenadine). Sau một cuộc nội chiến kéo dài hai năm năm 1863, "Liên bang Colombia" được thành lập và tồn tại tới năm 1886, khi cuối cùng đất nước này trở thành Cộng hòa Colombia. Sự chia rẽ nội bộ tiếp tục diễn ra giữa các lực lượng chính trị lưỡng đảng, thỉnh thoảng gây ra những cuộc nội chiến rất đẫm máu, nổi bật nhất là cuộc nội chiến nghìn ngày (1899 - 1902) cùng với những ý đồ của Mỹ nhằm thiết lập ảnh hưởng trong vùng (đặc biệt trong việc xây dựng và quản lý Kênh đào Panama) đã dẫn tới sự ly khai của Khu Panama năm 1903 và lãnh thổ này đã trở thành một quốc gia. Colombia sa lầy vào cuộc chiến tranh kéo dài một năm với Peru về tranh chấp lãnh thổ liên quan tới Khu Amazonas và thủ phủ Leticia của nó.La Violencia
Mặt trận quốc gia
Xung đột vũ trang Colombia
Để thay thế hiến pháp năm 1886 trước đó, một hiến pháp mới đã được phê chuẩn năm 1991 (Hiến pháp Colombia năm 1991), sau khi được Hội đồng Lập hiến Colombia soạn thảo. Hiến pháp được thêm vào những điều khoản quan trọng về chính trị, sắc tộc, nhân quyền và bình đẳng nam nữ, chúng sẽ dần được thực hiện, dù tình trạng phát triển không đều, tranh cãi, và tụt hậu vẫn tồn tại. Hiến pháp mới cũng ngăn cấm hành động dẫn độ người mang quốc tịch Colombia sang Hoa Kỳ, các tổ hợp ma túy đã tiến hành vận động hành lanh tại Nghị viện và đưa ra một chiến dịch đe dọa vũ lực nhằm ngăn chặn sự phê chuẩn hành động dẫn độ. Nhiều cuộc tấn công khủng bố và hành quyết kiểu mafia đã diễn ra. Các tổ hợp ma túy cũng đã tìm cách gây ảnh hưởng tới chính phủ cũng như cơ cấu chính trị Colombia, như trường hợp vụ sandal Quy trình 8000.
Trong những thập kỷ gần đây nước này tiếp tục gặp phải khó khăn từ ảnh hưởng của các hoạt động buôn bán thuốc phiện và những cuộc chiến tranh du kích như của FARC, và các nhóm bán quân sự như AUC (hiện đã được giải ngũ nhưng một số thành viên vẫn còn hoạt động) cùng với các phe nhóm nhỏ khác đã tham dự vào cuộc xung đột vũ trang đẫm máu. Các tổ hợp ma túy giàu mạnh đã giúp Colombia cân bằng thương mại bằng cách tạo ra một luồng thu ngoại tệ lớn và ổn định, chủ yếu là dollar Mỹ. Mặt khác, các thủ lãnh ma túy cũng làm bất ổn định chính phủ. Những cuộc nổi loạn của các nhóm khác nhau dẫn tới tình trạng sử dụng hành động bắt cóc và buôn lậu ma tuý để kiếm tiền hoạt động, chúng thường hoạt động tại các vùng nông thôn rộng lớn và hẻo lãnh và thỉnh thoảng có thể gây thiệt hại tới các hệ thống viễn thông và giao thông giữa các vùng. Từ đầu thập niên 1980, những nỗ lực nhằm đàm phán một thỏa thuận giữa chính phủ và các phe phiến loạn khác nhau đã được tiến hành, có trường hợp thành công có trường hợp chỉ một phần phe nổi dậy chịu giải giáp. Một trong những nỗ lực gần đây nhất đã diễn ra khi chính quyền của Tổng thống Andrés Pastrana Arango, đàm phán với FARC trong giai đoạn 1998 và 2002.
Cuối thập niên 1990, Tổng thống Andrés Pastrana đã đưa ra một sáng kiến gọi là Kế hoạch Colombia, với hai mục tiêu chấm dứt xung đột vũ trang và thúc đẩy một chiến lược chống ma tuý mạnh. Yếu tố gây tranh cãi nhất của Kế hoạch là chiến lược chống ma tuý, gồm việc tăng hoạt động phun thuốc tiêu diệt cây coca từ trên không. Hành động này bị nhiều phe phái phản đối, họ cho rằng phun thuốc diệt cây từ trên không cũng có thể gây hại tới các loại cây khác, và gây ra những hậu quả xấu tới sức khỏe người dân. Những lời chỉ trích sáng kiến này cũng cho rằng kế hoạch thể hiện một cách tiếp cận mang tính quân sự cho các vấn đề nảy sinh từ tình trạng bất bình đẳng trong xã hội.
Trong thời cầm quyền của Tổng thống Álvaro Uribe, người được bầu với lời hứa hẹn áp dụng các biện pháp quân sự với FARC và các nhóm tội phạm khác, một số chỉ số an ninh đã được cải thiện, như số vụ bắt cóc giảm (từ 3700 năm 2000 xuống còn 800 năm 2005) và các vụ giết người cũng giảm hơn 48% từ tháng 7 năm 2002 tới tháng 5 năm 2005. Có ý kiến cho rằng những thành công này đã khuyến khích phát triển kinh tế và ngành du lịch.[3]
Những nhà phân tích và phê bình bên trong Colombia đồng ý rằng đã có một số tiến bộ trong nhiều lĩnh vực như đề cập ở trên, nhưng lý do mang lại thành công vẫn chưa được đồng thuận và tính chính xác của những con số cũng là một vấn đề. Một số phe đối lập đã chỉ trích chiến lược an ninh của chính phủ, cho rằng chúng chưa đủ để giải quyết các vấn đề phức tạp tại Colombia và rằng nó đã góp phần tạo nên một môi trường thích hợp cho sự tiếp diễn của một số vụ vi phạm nhân quyền.
Địa lý
Bề mặt địa hình Colombia khá phức tạp. phía tây đất nước là phần đa dạng nhất. Bắt đầu từ bờ biển Thái Bình Dương ở phía tây và dời về phía đông ở vĩ độ 5 độ bắc, một dải liên tục các hình thể địa hình nối tiếp nhau. Ở cực tây là những đồng bằng thấp ven biển Thái Bình Dương hẹp và đứt quãng, dựa vào Serranía de Baudó, dải núi thấp nhất và hẹp nhất Colombia. Tiếp theo là vùng đất thấp Río Atrato/Río San Juan rộng hơn, địa điểm từng được đề xuất như một vị trí thay thế cho Kênh đào Panama để trở thành con đường nối giữa Đại Tây Dương và Thái Bình Dương nhân tạo.
Dãy núi lớn nhất phía tây, Cordillera Occidental, là một dải núi với độ cao trung bình, đỉnh cao nhất lên tới 4.000 m (13.000 ft). Châu thổ Sông Cauca, một vùng nông nghiệp quan trọng với nhiều thành phố bên trong, chia cắt Cordillera Occidental khỏi dải Cordillera Central to lớn. Nhiều núi lửa phủ băng tuyết tại Cordillera Central với các đỉnh cao hơn 5.500 m (18.000 ft). Châu thổ Sông Magdalena nhiều bùn và tốc độ dòng chảy nhỏ, một tuyến đường vận tải quan trọng, chia cắt Cordillera Central khỏi dãy núi chính phía đông, Cordillera Oriental. Các đỉnh của Cordillera Oriental có độ cao trung bình. Đặc điểm tạo sự khác biệt giữa những dãy núi này Colombia với những dãy núi khác là nó tạo ra nhiều lòng chảo lớn. Ở phía đông, nơi dân cư thưa thớt, các vùng đất thấp phẳng tới hơi gồ ghề được gọi là llanos chiếm tới 60 phần trăm tổng diện tích đất canh tác quốc gia.
Dải đất vắt ngang đất nước này không bao gồm hai vùng của Colombia: các vùng đất thấp ven biển Caribe và Sierra Nevada de Santa Marta, cả hai đều nằm ở phía bắc đất nước. Các vùng đất thấp phía tây chủ yếu là đầm lầy; các đầm lầy lau sậy trong vùng được người dâm Colombia gọi là ciénagas. Bán đảo Guajira ở phía đông là vùng bán khô cằn. Sierra Nevada là một tam giác đáng chú ý với những đỉnh núi phủ băng tuyết vượt cao lên trên phần phía đông của vùng đất thấp này.
Vị trí gần đường xích đạo của Colombia gây ảnh hưởng tới thời tiết nước này. Các vùng đất thấp thường nóng. Những ảnh hưởng độ cao trên nhiệt độ rất lớn. Nhiệt độ giảm khoảng 2°C (3.5°F) với mỗi 300-meter (1.000-foot) tăng độ cao so với mực nước biển. Lượng mưa khác biệt theo từng vùng tại Colombia, có xu hướng tăng khi đi về phía nam. Điều này đặc biệt đúng với các vùng đất thấp phía đông. Ví dụ, lượng mưa tại nhiều phần ở Bán đảo Guajira hiếm khi vượt quá 75 cm (30 in) trên năm. Tuy nhiên, khu vực nhiều mưa phía đông nam Colombia thường xảy ra những trận mưa lớn với lượng mưa hơn 500 cm (200 in) mỗi năm. Lượng mưa ở hầu hết các vùng còn lại của đất nước nằm giữa hai khoảng trên.
Độ cao không chỉ gây ảnh hưởng trên thời tiết, mà còn cả thực vật. Trên thực tế, độ cao là một trong những yếu tố gây ảnh hưởng lớn nhất tới các loại thực vật tại Colombia. Các khu vực núi non có thể được chia thành nhiều khu vực thực vật theo độ cao, dù độ cao giới hạn của mỗi vùng có thể khác biệt phụ thuộc theo vĩ độ.
"Tierra caliente" (đất nóng), dưới 1.000 m (3.300 ft), là vùng đất với những thực vật nhiệt đới như chuối. Tierra templada (đất ôn hoà), trải dài từ độ cao 1.000 tới 2.000 m (3.300 tới 6.600 ft), là vùng trồng cà phê và ngô. Lúa mì và khoai tây được trồng nhiều tại "tierra fría" (đất lạnh), ở những độ cao từ 2.000 tới 3.200 m (6.600 tới 10.500 ft). Tại "zona forestada" (vùng rừng), nằm ở độ cao giữa 3.200 và 3.900 m (10.500 và 12.800 ft), nhiều loại cây đã bị chặt làm củi. Những đồng cỏ không cây cối bao phủ phần lớn páramos, hay những vùng đồng cỏ trên núi cao, ở độ cao 3.900 tới 4.600 m (12.800 tới 15.100 ft). Trên 4.600 m (15.100 ft), nơi nhiệt độ dưới mức đóng băng, là "tierra helada", một vùng thường có băng tuyết.
Thực vật cũng phản ánh lượng mưa. Vùng đất bán khô cằn phía đông bắc với chủ yếu những cây bụi rải rác. Ở phía nam, các savannah (đồng cỏ nhiệt đới) bao phủ phần llano Colombia. Các vùng nhiều mưa phía đông nam với những khu rừng mưa nhiệt đới. Tại vùng núi, là những mô hình thực vật phức tạp. Phía sườn núi nhiều mưa với màu xanh của cây cối sum sê, trong khi ở sườn bên kia, nơi ít mưa, có thể khô nẻ.
Canh tác Coca là hoạt động phi pháp chính tại Colombia. Ở nhiều vùng nông thôn, nhiều dải đất lớn được dùng trồng coca. Theo những con số của Hoa Kỳ, năm 2004 ước tính 114.100 hécta (281.947 acres) đất đã được sử dụng cho mục đích này, và đất nước này có tiềm năng sản xuất 430.000 mét tấn cocaine mỗi năm.[4] According to a United Nations Office on Drugs and Crime survey, coca cultivation was estimated at 212.511 acres (86.000 hectares) in tháng 12 năm 2006.[5]
Trong năm 2006 Chính phủ Colombia đã phá hủy khoảng 73.000 hécta (180.387 acres) vượt mọi kỷ lục trong trồng cây coca. Chính phủ Colombia hiện có kế hoạch phá hủy khoảng 50.000 hécta (123.553 acres) trồng cây coca năm 2007 và họ tuyên bố sẽ chỉ còn 20.000 hécta (49.421 acres) được dùng cho mục đích này, và chúng cũng sẽ bị tiêu diệt trong năm 2008.[6] Tuy những nỗ lực tiêu diệt cây coca của Colombia đã khiến việc trồng cây phải chuyển địa điểm, chúng vẫn không hạn chế được số lượng diện tích sử dụng trồng loại cây này. [1] Việc này khiến mọi người nghi ngờ kế hoạch triệt hạ toàn bộ cây coca năm 2008 của Colombia.
Chính trị
Nhánh hành pháp
Colombia là một nhà nước cộng hòa với nhánh hành pháp thống lĩnh cơ cấu chính phủ. Cho đến tận gần đây, tổng thống cùng phó tổng thống do dân bầu trực tiếp với nhiệm kỳ bốn năm; tổng thống vừa là lãnh đạo chính phủ vừa là lãnh đạo nhà nước. Tuy nhiên, ngày 19 tháng 10 năm 2005, Nghị viện Colombia đã sửa đổi hiến pháp, cho phép các tổng thống nước này cầm quyền hai nhiệm kỳ bốn năm liên tục. Tuy nhiên, các thống đốc khu, thị trưởng thành phố và thị trấn cùng các quan chức nhánh hành pháp khác chỉ được bầu cho một nhiệm kỳ ba năm, và không được tái ứng cử ngay sau đó.Ngày 28 tháng 5 năm 2006, tổng thống Álvaro Uribe Vélez đã được tái cử với 62% số phiếu, 22% thuộc Carlos Gaviria Díaz của phe Dân chủ Độc lập, và 12% cho Horacio Serpa Uribe thuộc Đảng Tự do.
Nhánh lập pháp
Hệ thống lưỡng viện Colombia là Nghị viện Colombia, (hay Congreso trong tiếng Tây Ban Nha), gồm Viện đại biểu Colombia với 166 ghế và Thượng viện Colombia với 102 ghế. Các thành viên của cả hai viện được bầu theo phổ thông đầu phiếu với nhiệm kỳ bốn nă. Cùng với các nghị sĩ, người dân Colombia cũng bầu các đại biểu Khu và các hội đồng thành phố.Nhánh tư pháp
Trong thập niên 1990, hệ thống tư pháp Colombia đã trải qua nhiều cuộc cải cách quan trọng và hiện đang trong quá trình chuyển tiếp từ một hệ thống thẩm tra thành một hệ thống đối lập. Nhiều vùng trồng cà phê tại Colombia và Bogotá đã chấp nhận hệ thống đối lập, thủ tục áp dụng tại những khu vực còn lại sẽ bắt đầu ngày 1 tháng 1 năm 2006. Đứng đầu hệ thống tư pháp là Tòa án Hiến pháp và các thành viên được Nghị viện chỉ định dựa trên giới thiệu của Tổng thống và các viên chức cấp cao.Các viện kiểm soát
Procuraduría General de la Nación (General Procurement of the Nation), Defensoría del Pueblo, (Bảo vệ Nhân dân) Auditoría General de la República (Kiểm toán công cộng chung) và Contraloría General de la República (Kiểm soát chung của nền cộng hoà).Các viện bầu cử
Consejo Nacional Electoral (Hội đồng bầu cử quốc gia) và Registraduría Nacional del Estado Civil (Cơ quan đăng ký dân sự nhà nước)Colombia cũng là một thành viên của Cộng đồng quốc gia Nam Mỹ
Chính sách ngoại giao
Colombia duy trì quan hệ đồng minh chiến lược với Mỹ, coi Mỹ là bạn hàng chính và nguồn cung cấp viện trợ quan trọng (khoảng 5 tỷ USD trong 8 năm qua, là nước nhận viện trợ nhiều nhất của Mỹ ở Mỹ Latinh). Mỹ tiếp tục thực hiện "Kế hoạch Colombia" thông qua tài trợ, cung cấp thiết bị quân sự dưới danh nghĩa chống ma túy và khủng bố. Tháng 8 năm 2009, Chính phủ Colombia ký thoả thuận cho phép Mỹ sử dụng 7 căn cứ quân sự trên lãnh thổ Colombia.Bên cạnh đó, Colombia chú trọng thúc đẩy quan hệ với các nước Mỹ Latinh, thúc đẩy liên kết khu vực, từng tham gia tích cực vào các quá trình thương lượng hoà bình giải quyết các cuộc xung đột ở Trung Mỹ. Tuy nhiên, quan hệ với các nước Nam Mỹ, đặc biệt là Ecuador và Venezuela, thời gian qua vẫn căng thẳng, thậm chí gián đoạn sau sự kiện Colombia tấn công lực lượng du kích cánh tả trên lãnh thổ Ecuador (2008), ký thoả thuận quân sự với Mỹ (2009) và tố cáo Venezuela chứa chấp và trợ giúp du kích cánh tả (2009-2010)... Từ khi lên nắm quyền, Chính phủ của Tổng thống Santos bày tỏ thái độ mềm dẻo hơn với các nước láng giềng, nối lại quan hệ ngoại giao với Venezuela và Ecuador bị cắt đứt dưới thời Tổng thống Uribe (tháng 7 năm 2010). Colombia chủ trương đa đạng hoá quan hệ với các khu vực khác trên giới, trong đó có khu vực Châu Á - Thái Bình Dương.
Colombia là thành viên của Liên Hợp Quốc, Phong trào không liên kết, Tổ chức các nước châu Mỹ (OEA), hiện đang xin gia nhập APEC.
Phân cấp hành chính
1 Amazonas 2 Antioquia 3 Arauca 4 Atlántico 5 Bolívar 6 Boyacá 7 Caldas 8 Caquetá 9 Casanare 10 Cauca 11 Cesar 12 Chocó 13 Córdoba 14 Cundinamarca 15 Guainía 16 Guaviare 17 Huila |
18 La Guajira 19 Magdalena 20 Meta 21 Nariño 22 Norte de Santander 23 Putumayo 24 Quindío 25 Risaralda 26 San Andrés và Providencia 27 Santander 28 Sucre 29 Tolima 30 Valle del Cauca 31 Vaupés 32 Vichada 33 Bogotá* (vùng thủ đô) |
|
Các thành phố
- Bogotá (thủ đô) - La Atenas Suramericana ("Athens của Nam Mỹ")
- Santiago de Cali - La Sucursal del Cielo, La Sultana del Valle ("Nhánh Thiên đường", "Vua Thung lũng")
- Medellín - La Ciudad de la Eterna Primavera, Capital de la Montaña ("Thành phố Mùa xuân Vĩnh cửu", "Thủ phủ của núi non")
- Barranquilla - La Puerta de Oro de Colombia ("Cổng Vàng Colombia")
- Cartagena - La Heroica ("Anh hùng")
- Cúcuta - La Hermosa Villa ("Làng đẹp")
- Bucaramanga - La Ciudad Bonita ("Thành phố xinh đẹp")
- Pereira - La Querendona, Trasnochadora y Morena ("Người đàn bà da đen đáng yêu không bao giờ ngủ")
- Santa Marta - La Perla de Oro ("Trân châu vàng")
- Ibagué - Capital Musical de Colombia ("Thủ phủ âm nhạc Colombia")
- Bello
- Pasto - Ciudad Sorpresa ("Thành phố kinh ngạc")
- Neiva - Neivayork, la Capital Bambuquera de América ("Neivayork, thủ phủ Bambuquo của Châu Mỹ")
- Manizales - La Ciudad de las Puertas Abiertas ("Thành phố với những cánh cổng rộng mở")
- Soledad
- Villavicencio - La Puerta al Llano ("Cổng cánh đồng trụi")
- Soacha
- Armenia - La Ciudad Milagro ("Thành phố huyền diệu")
- Valledupar - Capital Mundial del Vallenato ("Thủ phủ Vallenato của Thế giới")
- Itagüí
- Montería - La Capital Ganadera de Colombia ("Thủ phủ gia súc Colombia")
- Sincelejo - La Ciudad de las Corralejas ("Thành phố của những cuộc 'Chạy đua với bò'")
- Floridablanca, Colombia
- Palmira
- Buenaventura - Bello Puerto del Mar ("Hải cảng xinh đẹp")
- Popayán - La Ciudad Blanca ("Thành phố trắng")
- Barrancabermeja
- Dos Quebradas
- Envigado
- Tuluá - Corazón del Valle ("Trái tim của Thung lũng")
- Maicao
- Florencia, Colombia - La puerta del Amazonas ("Cánh cổng vào Amazones")
- Cartago
- Girardot
- Sogamoso
- Buga
Kinh tế
Các vấn đề nước này hiện phải đối mặt khá đa dạng từ vấn đề với hệ thống trợ cấp tới thuốc phiện và tỷ lệ thất nghiệp cao. Nhiều định chế tài chính quốc tế đã ca ngợi những chương trình cải cách do Tổng thống hiện tại Alvaro Uribe theo đuổi, gồm các biện pháp nhằm giảm thâm hụt lĩnh vực công cộng xuống dưới 2.5% tổng sản phẩm quốc nội (GDP). Chính sách kinh tế và chiến lược an ninh dân chủ gây nhiều tranh cãi của chính phủ có gây ảnh hưởng tới sự tin tưởng đang gia tăng vào nền kinh tế, và tăng trưởng GDP năm 2003 nằm trong số những tỷ lệ cao nhất Mỹ Latinh.
Colombia là nước giàu khoáng sản và năng lượng: đứng đầu khu vực về trữ lượng than (chiếm 40% tổng trữ lượng của Mỹ Latinh), thứ hai khu vực về tiềm năng thuỷ điện (sau Brasil), dầu lửa có trữ lượng khoảng 3,1 tỷ thùng, ngoài ra còn có vàng, bạc, pla-tin... Điều kiện khí hậu và thổ nhưỡng thuận lợi cho phát triển nông nghiệp, nhất là cà phê (chiếm 16% xuất khẩu thế giới), hoa, thuốc lá, thịt bò, ngũ cốc, hoa quả...
Từ đầu thập kỷ 90, Colombia tiến hành cải cách kinh tế theo hướng tự do hoá, với các biện pháp giảm thuế, bỏ quản lý tài chính, tiến hành tư nhân hoá, thả nổi tỷ giá hối đoái, mở cửa cho đầu tư nước ngoài. Thời gian gần đây, Colombia là nền kinh tế tăng trưởng khá cao trong khu vực (2006: 6%; 2007: 7,5%) và có dấu hiệu phục hồi tích cực trong năm 2010 (quý I tăng 3,34%, dự kiến cả năm tăng 3,8%) sau giai đoạn suy giảm 2008-2009 do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế - tài chính toàn cầu. Sau khi lên nắm quyền, Chính phủ Santos cam kết tiếp tục duy trì chính sách tài chính chặt chẽ, đầu tư mạnh vào xây dựng cơ sở hạ tầng, giữ lạm phát thấp, giảm tỉ lệ thất nghiệp, ổn định đồng nội tệ, tập trung tăng cường tự do hoá thương mại, nâng cao chất lượng giáo dục, y tế; xây dựng hạ tầng, cải thiện nhà ở cho nhân dân...;
Xuất khẩu chủ yếu gồm dầu lửa, than, cà phê, hoa tươi, chuối, dược phẩm, xi măng… sang các thị trường chính: Mỹ, Venezuela, Hà Lan. Nhập khẩu chủ yếu gồm máy công nghiệp, phương tiện vận tải, hàng hóa tiêu dùng, lương thực, hoá chất, quặng kim loại…từ các thị trường chính: Mỹ, Trung Quốc, Mexico, Brasil, Pháp, Đức.
Du lịch
Trong những dịp lễ hội nổi tiếng nhất như Hội chợ Cali, Carnival Barranquilla, Liên hoan Nhà hát Iberoamerican và Festival Hoa là những thời gian đông khách du lịch nhất tại Colombia. Nhiều người tới Colombia trong lễ Giáng sinh và các ngày lễ dịp Độc lập của Colombia. Columbia cũng là nước sở hữu số tết nhiều nhất trên thế giới với 1000 ngày tết trong một năm, do Columbia là một đất nước có nhiều sắc tộc và sắc dân khác nhau nên họ sống với một quần thể quốc gia tương đồng nhưng lại có nhiều nền văn hóa truyền thống khác nhau.[8]Dù các văn phòng tư vấn du lịch không chuộng Colombia vì FARC và các nhóm du kích khác tại đây, số du khách tới nước này vẫn tăng trong những năm gần đây. Lý do có lẽ nhờ cách tiếp cận cứng rắn hiện tại của Tổng thống Álvaro Uribe được gọi là an ninh dân chủ để đẩy các nhóm phiến loạn ra xa khỏi các thành phố lớn, các xa lộ và địa điểm du lịch có nhiều du khách quốc tế. Từ khi tổng thống Uribe nhậm chức năm 2002, ông đã giúp gia tăng đáng kể tính ổn định và an ninh bằng cách tăng cường sức mạnh quân sự và sự hiện diện cảnh sát trên khắp quốc gia. Điều này đã mang lại các kết quả rõ rệt cho nền kinh tế đất nước, đặc biệt là ngành du lịch với du khách quốc tế. Năm 2006, các quan chức ngành du lịch hy vọng 1.5 triệu du khách nước ngoài sẽ tới Colombia, con số tăng 50% so với năm trước đó. Thậm chí Lonely Planet, một nhà xuất bản ấn phẩm du lịch thế giới, đã xếp hạng Colombia như một trong mười điểm đến hàng đầu trên thế giới trong danh sách của họ năm 2006.[9] Năm 2004 Tổ chức Du lịch Thế giới báo cáo Colombia đã đạt mức tăng cao thứ ba về số du khách đến tại Nam Mỹ trong giai đoạn 2000 và 2004 (9.2%). Chỉ Peru và Suriname có mức tăng cao hơn trong cùng giai đoạn.[10]
Du lịch sinh thái
- Vườn Cà phê Quốc gia Colombia (Montenegro, Quindío)
- Vườn quốc gia Nevado del Ruiz (gần Manizales)
- Vườn PANACA
- Vườn Tayrona (Santa Marta)
- Desierto de Tatacoa
- Vườn Quốc gia Chicamocha Canyon
- Đảo Gorgona và Malpelo
Văn hoá
|
|
Đề mục này cần được mở rộng. |
Giáo dục
Vận tải
Các sân bay chính của Colombia là Sân bay Quốc tế El Dorado tại Bogotá. Nhiều công ty hàng không quốc gia (Avianca, AeroRepública, AIRES và SATENA), và các công ty hàng không quốc tế (như Iberia, American Airlines, Varig, Copa, Continental, Delta, Air Canada, Aerogal,TAME, TACA) có các chuyến bay đi và đến El Dorado. Sân bay của Bogotá là một trong những sân bay lớn và đắt đỏ nhất Mỹ Latinh. Vì vị trí trung tâm của Colombia tại Châu Mỹ, có nhiều công ty dịch vụ vận chuyển đường bộ, đường hàng không quốc gia và quốc tế hoạt động tại nước này.
Nhân khẩu
Sự di chuyển dân cư từ vùng nông thôn ra thành thị diễn ra nhiều giai đoạn giữa thế kỷ hai mươi, nhưng từ đó đã giảm dần. Dân số thành thị tăng từ 31% trên tổng dân cư năm 1938, lên 57% năm 1951 và khoảng 70% năm 1990. Con số hiện tại khoảng 77%. Ba mươi thành phố có số dân 100.000 người hay cao hơn. Chín khu đất thấp phía đông, chiếm khoảng 54% diện tích Colombia chiếm chưa tới 3% dân số và mật độ dân cư trung bình chưa tới một người trên một kilômét vuong (hai người trên dặm vuông). Tổng dân số Colombia năm 2015 dự kiến sẽ cao hơn 52 triệu người.[11]
Nước này có sự đa dạng sắc tộc phản ánh một lịch sử nhiều diễn biến cũng như số lượng các dân tộc đã từng sống tại đây từ những thời tiền sử tới hiện tại. Sự lai tạp sắc tộc từ lịch sử của nhiều nhóm sắc tộc chính đã hình thành nên các cơ bản của nhân khẩu học Colombia hiện nay: người nhập cư Châu Âu, người bản xứ, người Phi, người Á, người Trung Đông và những người nhập cư gần đây khác. Nhiều dân tộc bản xứ đã bị hấp thu vào trong dân cư mestizo, nhưng 700.000 người bản xứ hiện còn đại diện cho hơn tám mươi nhăm văn hóa khác biệt. Những người nhập cư Châu Âu chủ yếu là những người thực dân Tây Ban Nha, nhưng một số nhỏ thuộc các nước Châu Âu khác (Hà Lan, Đức, Pháp, Thụy Sĩ, Bỉ và ở mức thấp hơn là Ba Lan, Lithuania, Anh và Croatia) đã nhập cư tới đây trong Chiến tranh thế giới thứ hai và Chiến tranh lạnh. Ví dụ, cựu thị trưởng Bogotá Antanas Mockus là con trai một người nhập cư Lithuania. Người Phi trước đây được đưa tới làm nô lệ, đa số tại các vùng đất thấp ven biển, bắt đầu từ đầu thế kỷ mười sáu, và tiếp tục tới thế kỷ mười chín. Sau khi chế độ nô lệ bị hủy bỏ, một ý thức hệ quốc gia về mestizaje đã khuyến khích hòa trộn người bản xứ, người Âu, và các cộng đồng Amerindia vào trong một cộng đồng sắc tộc mestizo duy nhất.[12] Các sắc tộc di cư khác gồm người Á và Trung Đông, đặc biệt là người Liban, Jordani, Syria, Trung Quốc, Nhật Bản và Triều Tiên.
Các nhóm sắc tộc
Tương tự như tất cả các quốc gia Mỹ Latinh khác, các cuộc điều tra dân số tại Colombia không lấy dữ liệu sắc tộc, vì thế con số phần trăm dưới đây chủ yếu là ước tính từ các nguồn khác, và có thể rất khác biệt. Những con số thống kê cho thấy người Colombia chủ yếu là tín đồ Cơ đốc giáo La Mã và đại đa số nói tiếng Tây Ban Nha, và phần lớn trong số họ mang dòng máu lai Âu, Phi, Amerindians.58% dân số là người mestizo, hay lai Âu và Amerindian, và 20% có tổ tiên là người da trắng Châu Âu. 14% là người lai trắng đen, hay lai giữa người da đen Châu Phi và người có tổ tiên da trắng, 4% có tổ tiên da đen và 3% lai Phi và Amerindian. Người Amerindians thuần chủng chiếm 1% dân số.[13] Theo dữ liệu phong tục học, tại Colombia có 101 ngôn ngữ được liệt kê, trong số đó 80 ngôn ngữ được dùng trong đời sống hàng ngày. Có khoảng 500.000 người sử dụng các ngôn ngữ bản xứ tại Colombia ngày nay.[14]
Hơn hai phần ba người Colombia sống tại các vùng đô thị - một con số lớn hơn khá nhiều so với tỷ lệ trung bình thế giới. Tỷ lệ biết chữ (92.5%) tại Colombia cũng cao hơn mức trung bình thế giới, và tỷ lệ tăng trưởng dân số hơi cao hơn mức trung bình thế giới. Tương tự, một phần lớn người Colombia ở độ tuổi trẻ, chủ yếu vì mức tử vong trẻ em đã giảm gần đây. 33% dân số ở độ tuổi 14 hay thấp hơn, chỉ 4% ở độ tuổi 5 hay già hơn.
Tôn giáo
Hiến pháp Colombia đảm bảo quyền tự do tôn giáo, những cũng nói rằng Quốc gia "không phải theo vô thần hay bất khả tri, cũng không phải không quan tâm tới tình cảm tôn giáo của người dân Colombia." Các nhóm tôn giáo dễ dàng được công nhận là những đoàn thể được tổ chức, nhưng một số nhóm tôn giáo nhỏ có gặp phải khó khăn khi muốn được công nhận là các thực thể tôn giáo, vốn bị đòi hỏi phải tiến hành các hoạt động giáo lý tại các cơ sở công cộng.[15]
Tội phạm
|accessyear=
(trợ giúp)</r>Jose Fernando Torres Varela chịu trách nhiệm tới một nửa các vụ tội phạm tại Colombia.
Ở một số thời điểm Colombia cũng có tỷ lệ các vụ giết người cao nhất thế giới với 62 vụ trên 100.000 dân.[16] Tuy nhiên, trong những năm gần đây con số này đã giảm còn 39 vụ trên 100.000 dân giúp nước này giảm thứ hạng trong Danh sách quốc gia theo tỷ lệ vụ giết người trên dân số ở mức dưới trung bình của Nam Mỹ. Hơn 90% người thiệt mạng là nam giới. Các vùng như Putumayo, Guaviare và Arauca vẫn có tỷ lệ 100 hay hơn nữa vụ giết người trên 100.000 dân năm 2005. Trong khi ấy, tại nước Venezuela láng giềng tỷ lệ này đã tăng từ 13 năm 1991 lên 33 vụ trên 100.000 dân năm 2005 và Ecuador đã tăng từ 11 năm 1991 lên 18 năm 2004.
Trong giai đoạn 1992 - 1999 tổng cộng 5.181 vụ bắt cóc xảy ra tại Colombia, chiếm hai phần ba số vụ được thông báo trên thế giới.[16] Trong năm 2005, 800 vụ bắt cóc được thông báo, (thấp hơn 73% so với năm 2002) trong số đó 35% nạn nhân được giải thoát trong cùng năm. Năm 2005, 18.960 xe cộ bị ăn trộm (giảm 37% so với năm 2002) và 18.111 người bị giết hại (giảm 38% so với năm 2002).[17]
Tình hình nhân quyền
Tổ chức Ân xá Quốc tế đã tóm tắt trong bản Báo cáo thường niên của họ năm 2006: "Dù số lượng các vụ giết hại và bắt cóc ở một số vùng trong nước đã giảm, nhiều trường hợp vi phạm nhân quyền nghiêm trọng do tất cả các bên trong cuộc xung đột tiến hành vẫn ở mức độ báo động. Đặc biệt lo ngại là các báo cáo về những vụ hành quyết không cần xét xử do các lực lượng vũ trang tiến hành, những vụ giết hại thường dân bởi các nhóm vũ trang đối lập và bán du kích, và việc ép buộc các cộng đồng dân cư phải dời bỏ chỗ ở.Hơn 55 phần trăm số người phải dời bỏ nhà cửa là phụ nữ. Bạo hành tình dục, có thể dẫn tới việc mang thai ngoài ý muốn, thường xảy ra khi phụ nữ phải dời chỗ ở. Các nạn nhân, theo thông báo của Tạp chí Ms. Magazine, thỉnh thoảng phải viện đến cách phá thai bất hợp pháp. Nhưng phá thai hiện đã được cho phép tại Colombia trong trường hợp các vụ hiếp dâm, loạn luân và khi sức khỏe bà mẹ gặp nguy hiểm.http://www.msmagazine.com/winter2007/newrights.asp "New Rights, Old Wrongs." Ms. Magazine, Winter 2007.
Những nhóm bán du kích, được cho là đã giải giáp theo các điều khoản của một bộ luật gây nhiều tranh cãi được phê chuẩn tháng 7 vẫn tiếp tục các hành động vi phạm nhân quyền, trong khi các nhóm vũ trang đối lập tiếp tục tiến hành nhiều hành động nghiêm trọng, ở diện rộng vi phạm luật nhân đạo quốc tế. Các cá nhân có thể phải chịu trách nhiệm về các tội ác chiến tranh và tội ác chống lại nhân loại vẫn chưa bị đưa ra trước tòa án."^ [3]
Xem thêm
- Xung đột vũ trang Colombia
- Viễn thông Colombia
- Các khu Colombia
- Giáo dục Colombia
- Quan hệ nước ngoài Colombia
- Quân đội Colombia
- Cung cấp nước sạch và vệ sinh tại Colombia
- Danh sách nhân vật Colombia
Thư mục
Internet
- ^ Dân số các Quốc Gia trên Thế Giới, CIA World Factbook ước tính
- ^ http://www.mofahcm.gov.vn/vi/mofa/cn_vakv/
- ^ Come to Sunny Colombia The Economist, 29 tháng 6 năm 2006.
- ^ a ă Colombia, The World Factbook, U.S. Central Intelligence Agency, cập nhật 12 tháng 12 năm 2006.
- ^ “Coca cultivation in Andes stabilizes in 2005, farmers need help to find alternative livelihoods”. United Nations Office on Drugs and Crime. 20 tháng 6 năm 2006. Truy cập ngày 29 tháng 12 năm 2014. Đã bỏ qua tham số không rõ
|accessyear=
(trợ giúp) - ^ Colombian coca destruction(2007)
- ^ Montanaro, Ann. “A Concise History of Pop-up and Movable Books”. Truy cập ngày 1 tháng 2 năm 2007.
- ^ http://www.extremetourist.com/destinations/guide.php?country=Colombia&PHPSESSID=adf1f96f6e668d4711b8a8d8365c1934
- ^ “Hot Destination: Colombia”. Christian Science Monitor. 9 tháng 5 năm 2006.
- ^ International Tourist Arrivals by Country of Destination, Tourism Market Trends, 2005 Edition, World Tourism Organization.
- ^ Colombia, Human Development Report 2006, United Nations Development Programme.
- ^ El Choco: The African Heart of Colombia, Luis Gilberto Murillo Urrutia, speech given New York, 23 tháng 2 năm 2001
- ^ “Intute - World Guide - Colombia”. Truy cập ngày 8 tháng 3 năm 2007.
- ^ The Languages of Colombia
- ^ a ă International Religious Freedom Report 2005, by the Bureau of Democracy, Human Rights, and Labor, U.S. Department of State, 8 tháng 11 năm 2005.
- ^ a ă â Colombian Crime Statistics (1990s)
- ^ Colombian Crime Statistics(2005)
Sách
- Academia Colombiana de Historia (1986), Historia extensa de Colombia (41 volúmenes). Bogotá: Ediciones Lerner, 1965-1986. ISBN 958-95013-3-8 (Obra completa)
- Barrios, Luis (1984), Historia de Colombia. Quinta edición, Bogotá: Editorial Cultural
- Bedoya F., Víctor A. (1944), Historia de Colombia: independencia y república con bases fundamentales en la colonia. Colección La Salle, Bogotá: Librería Stella
- Bushnell, David (1996), Colombia una nación a pesar de sí misma: de los tiempos precolombinos a nuestros días. Bogotá: Planeta Editores. ISBN 958-614-487-9
- Caballero Argaez, Carlos (1987), 50 años de economía: de la crisis del treinta a la del ochenta. Segunda edición, Colección Jorge Ortega Torres, Bogotá: Editorial Presencia, Asociación Bancaria de Colombia. ISBN 958-9040-03-9
- Cadavid Misas, Roberto (2004), Cursillo de historia de Colombia: de la conquista a la independencia. Bogotá: Intermedio Editores. ISBN 958-709-134-5
- Calderón Schrader, Camilo; Gil, Antonio; Torras, Daniel (2001), Enciclopedia de Colombia (4 volúmenes). Barcelona: céano Grupo Editorial, 2001. ISBN 84-494-1947-6 (Obra completa)
- Calderón Schrader, Camilo (1993), Gran enciclopedia de Colombia (11 volúmenes). Bogotá: Círculo de Lectores. ISBN 958-28-0294-4 (obra completa)
- Cavelier Gaviria, Germán (2003), Centenario de Panamá: una historia de la separación de Colombia en 1903. Bogotá: Universidad Externado de Colombia. ISBN 958-616-718-6
- Forero, Manuel José (1946), Historia analítica de Colombia desde los orígenes de la independencia nacional. Segunda edición, Bogotá: Librería Voluntad.
- Gómez Hoyos, Rafael (1992), La independencia de Colombia. Madrid: Editorial Mapfre, Colecciones Mapfre 1492. ISBN 84-7100-596-4
- Granados, Rafael María (1978), Historia general de Colombia: prehistoria, conquista, colonia, independencia y Repúbica. Octava edición, Bogotá: Imprenta Departamental Antonio Nariño.
- Hernández de Alba, Guillermo (2004), Como nació la República de Colombia. Colección Bolsilibros. Bogotá: Academia Colombiana de Historia. ISBN 958-8040-35-3
- Hernández Becerra, Augusto (2001), Ordenamiento y desarreglo territorial en Colombia. Bogotá: Universidad Externado de Colombia, ISBN 958-616-555-8
- Hernández Rodríguez, Guillermo (1949), De los Chibchas a la colonia y a la república. Bogotá: Universidad Nacional de Colombia. Sección de Extensión Cultural.
- Jaramillo Uribe, Jaime; Tirado Mejía, Alvaro; Calderón Schrader, Camilo (2000), Nueva historia de Colombia (12 volúmenes). Bogotá: Planeta Colombiana Editorial. ISBN 958-614-251-5 (Obra completa)
- Ocampo López, Javier (1999), El proceso ideológico de la emancipación en Colombia. Colección La Línea de Horizonte, Bogotá: Editorial Planeta. ISBN 958-614-792-4
- Reichel-Dolmatoff, Gerardo (1998), Colombia indígena. Medellín: Hola Colina. ISBN 958-638-276-1
- Restrepo, José Manuel (1974), Historia de la revolución de la República de Colombia. Medellín: Editorial Bedout.
- Rivadeneira Vargas, Antonio José (2002), Historia constitucional de Colombia 1510-2000. Tunja: Editorial Bolivariana Internacional. Tercera edición.
- Tovar Pinzón, Hermes (1975), El movimiento campesino en Colombia durante los siglos XIX y XX. Bogotá: Ediciones Libres, segunda edición.
- Trujillo Muñoz Augusto (2001), Descentralización, regionalización y autonomía local. Bogotá: Universidad Nacional de Colombia.
- Vidal Perdomo Jaime (2001), La Región en la Organización Territorial del Estado. Bogotá: Universidad del Rosario.
- Central Intelligence Agency: The World Factbook. 2005.
Liên kết ngoài
Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về Colombia |
Wikivoyage có chỉ dẫn du lịch về Colombia |
Tìm thêm về Colombia tại những đồng dự án của Wikipedia: | |
Từ điển ở Wiktionary | |
Sách ở Wikibooks | |
Cẩm nang du lịch ở Wikivoyage | |
Hồ sơ ở Wikiquote | |
Văn kiện ở Wikisource | |
Hình ảnh và phương tiện ở Commons | |
Tin tức ở Wikinews | |
Tài liệu giáo dục ở Wikiversity |
- Government
- (tiếng Tây Ban Nha) Portal del Estado - Colombia Online Portal
- (tiếng Tây Ban Nha) Presidencia de la República de Colombia - President
- (tiếng Tây Ban Nha) Ministerio de Comercio, Industria y Turismo
- Banco de la República - Central Bank
- (tiếng Tây Ban Nha) Departamento Administrativo Nacional de Estadistica - Statistics
- (tiếng Tây Ban Nha) Instituto Nacional de Vías - Transport and Road Agency
- (tiếng Tây Ban Nha) Senate of Colombia
- (tiếng Tây Ban Nha) Colombia's House of representatives
- (tiếng Tây Ban Nha) Colombia's Judicial branch
- (tiếng Tây Ban Nha) Policia Nacional - Police
- Armada Nacional de Colombia - Navy
- Ejército Nacional de Colombia - Army
- (tiếng Tây Ban Nha) Departamento Administrativo de Seguridad - Homeland Security
- Other
- (tiếng Tây Ban Nha) Colombian Stock Exchange
- Encyclopaedia Britannica Colombia Country Page
- CIA World Factbook - Colombia
- (tiếng Tây Ban Nha) - Maps of Colombia - Major Cities Maps
- Colombianosenelmundo.com Colombian Radio Stations online...
|
|
Neil Armstrong
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
|
Bài viết hoặc đoạn này cần thêm chú thích nguồn gốc để có thể kiểm chứng thông tin. Những nội dung không có nguồn có thể bị đặt vấn đề và xóa bỏ. Mời bạn bổ sung chú thích từ các nguồn đáng tin cậy để giúp cải thiện bài viết. |
Neil Armstrong | |
---|---|
Nhà du hành vũ trụ USAF / NASA |
|
Quốc tịch | Hoa Kỳ |
Hiện trạng | Đã qua đời |
Sinh | 5 tháng 8, 1930 Wapakoneta, Ohio, Hoa Kỳ |
Mất | 25 tháng 8, 2012 (82 tuổi) Columbus, Ohio, Hoa Kỳ |
Nghề trước |
Phi công hải quân, phi công thử nghiệm |
Thời gian trên không gian | 8 ngày, 14 giờ, 12 phút và 31 giây:) |
Chọn | 1957 MISS Group; 1960 Dyna-Soar; 1962 NASA Astronaut Group 2 |
Phi vụ | Gemini 8, Apollo 11 |
Huy hiệu công vụ |
|
Thông tin trong bài này hoặc đoạn này không thể kiểm chứng được do không được chú giải từ bất kỳ nguồn tham khảo nào. Xin bạn hãy cải thiện bài viết này bằng cách bổ sung chú thích tới các nguồn uy tín. Nếu bài được dịch từ Wikipedia ngôn ngữ khác thì hãy chuyển nguồn tham khảo từ phiên bản đó cho bài này. |
Khi đặt chân xuống Mặt Trăng, ông đã nói một câu bất hủ: "Đây là bước đi nhỏ bé của một người, nhưng là bước tiến khổng lồ của nhân loại".
Thật khó tin rằng những nhà du hành vũ trụ đã chấp nhận những rủi ro. Trước khi tàu Apollo 11 cất cánh, nhiều người đã nghĩ tới tình huống xấu nhất trong chuyến đi của 3 nhà du hành. Một trong những chuyên gia viết bài phát biểu cho Tổng thống Mỹ Richard Nixon đã chuẩn bị bài phát biểu với tựa đề: "Thảm họa Mặt Trăng". Bài phát biểu bắt đầu bằng câu: "Số phận đã quyết định rằng những người thám hiểm Mặt Trăng yên nghỉ vĩnh viễn trên đó trong thanh bình". Theo kế hoạch, nếu nỗ lực rời khỏi Mặt Trăng thất bại, trung tâm điều khiển dưới mặt đất sẽ cắt đứt mọi liên lạc với khoang đổ bộ và phó mặc mạng sống của hai phi hành gia.[cần dẫn nguồn] May mắn thay! Cả 3 phi hành gia đã trở về Trái Đất an toàn, mở ra kỷ nguyên mới cho nhân loại về con người chinh phục vũ trụ.
Cuộc đời và sự nghiệp
Armstrong sinh ngày 5/8/1930 tại tiểu bang Ohio, Mỹ.Vào khoảng những năm 1956, ông là một phi công lái thử tại Trạm Bay Tốc độ cao NACA ở Căn cứ Không quân Edwards, tiểu bang California.
Sau quãng thời gian làm một phi công lái thử, Armstrong có bước ngoặt quan trọng trong cuộc đời và sự nghiệp. Ông chuyển sang làm một nhà du hành vũ trụ.
Năm 1969, Armstrong nhận nhiệm vụ tham gia chuyến bay Apollo 11 và sứ mệnh đại diện cho cả ngành hàng không vũ trụ Mỹ trong việc đặt chân lên Mặt Trăng. Người Mỹ rất khao khát làm được điều này, sau khi người Nga đã đi trước một bước với việc đưa được con người vào vũ trụ 8 năm trước đó.
Sáng sớm ngày 21/7/1969, Armstrong trở thành người đầu tiên đặt chân xuống Mặt Trăng với câu nói nổi tiếng: "Đây là bước đi nhỏ của một con người, nhưng là bước tiến lớn của nhân loại". Sau đó Armstrong và bạn đồng hành Aldrin cùng căng lá quốc kỳ Mỹ trên Mặt Trăng. Sự kiện này được truyền hình trực tiếp trên toàn thế giới và có đến vài trăm triệu người đã theo dõi qua màn hình tivi đen trắng.
Với việc trở thành người đầu tiên đặt chân lên Mặt Trăng, Armstrong vụt sáng để trở thành một biểu tưởng đáng tự hào của rất nhiều thế hệ người Mỹ. Ngày nay, vẫn còn rất nhiều thanh niên Mỹ coi ông là một tấm gương sáng để noi theo.
Sau khi thực hiện "bước tiến dài của nhân loại" trên Mặt Trăng vào năm 1969, nhà du hành Neil Armstrong duy trì cuộc sống bình lặng và tránh xa ánh hào quang của quá khứ.
Ngay sau chuyến bay lên Mặt Trăng, Armstrong tuyên bố ông sẽ không bay lên vũ trụ nữa. Ông từ bỏ mọi chức vụ tại NASA vào năm 1971 và nhận công việc giảng dạy tại khoa Cơ khí Hàng không của Đại học Cincinnati ở tiểu bang Ohio. Mặc dù từng lái máy bay chiến đấu cho hải quân Mỹ, làm phi công thử nghiệm và phi hành gia cho Cơ quan Hàng không vũ trụ Mỹ (NASA), Armstrong chưa bao giờ cho phép bản thân chìm đắm trong ánh hào quang sau chuyến bay lên Mặt Trăng vào năm 1969. Ông rất hiếm khi xuất hiện trước công chúng. Vô số công ty muốn ông trở thành người phát ngôn của họ, nhưng ông liên tục từ chối và chỉ chấp nhận lời mời của một số doanh nghiệp.
"Tôi, bây giờ và mãi mãi, chỉ là một kỹ sư bình thường", ông từng tuyên bố như vậy vào năm 2000.
Khi xuất hiện tại thành phố Dayton vào năm 2003 để tham dự một sự kiện, Armstrong bước lên sân khấu nhưng chỉ phát biểu trước đám đông trong vài giây và không hề đề cập tới Mặt Trăng. Sau đó ông nhanh chóng rời sân khấu.
Luôn lẩn tránh ống kính của báo giới, nhưng vào năm 2010, Armstrong xuất hiện trước công chúng để bày tỏ sự lo ngại về chính sách của Tổng thống Obama đối với chương trình thám hiểm vũ trụ. Sau khi nắm quyền, ông Obama không ưu tiên tới việc trở lại Mặt Trăng mà chú trọng vào việc tư nhân hóa hoạt động vận tải vũ trụ.
Cùng với hơn 10 phi cựu phi hành gia của NASA, ông ký một thư kêu gọi chính phủ Mỹ hướng tới Mặt Trăng trong tương lai.
Ngày 25/8/2012, Armstrong qua đời tại chính quê hương Ohio, vì những di chứng sau một ca phẫu thuật tim.
Nhận định
John Logsdon, giáo sư danh dự của Đại học George Washington, bình luận: "Việc Armstrong đặt chân lên Mặt Trăng sẽ là một thành tựu mà nhân loại sẽ nhớ mãi. Đó thực sự là sự kiện truyền thông toàn cầu của loài người. Khoảng 600 triệu người, tương đương 20% dân số thế giới, đã xem những bước đi đầu tiên của con người trên Mặt Trăng"Roger Launius, một nhà nghiên cứu của Viện Smithsonian tại Mỹ, cho rằng khi các thế hệ sau liệt kê hai sự kiện lịch sử đáng nhớ nhất của thế kỷ 20, họ sẽ nghĩ tới chuyến đổ bộ đầu tiên lên Mặt Trăng và quả bom nguyên tử đầu tiên:"Không ai có thể đánh giá thấp tầm quan trọng của chuyến đổ bộ đầu tiên lên Mặt Trăng trong lịch sử nhân loại và Armstrong sẽ gắn với sự kiện ấy mãi mãi"
Douglas Brinkley, một chuyên gia về lịch sử thế kỷ 20 của Đại học Rice tại Mỹ, bình luận: "Chuyến thám hiểm tới châu Mỹ từ 500 năm trước của Christopher Columbus tạo ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử. Tương tự, Neil Armstrong và phi thuyền Apollo 11 cũng tạo nên một thời đại mới"
Howard McCurdy, giáo sư bộ môn vũ trụ và chính sách công của Đại học America tại Mỹ, phát biểu: "20 năm trước khi tàu Apollo 11 bay lên Mặt Trăng, người ta vẫn chỉ nghĩ đó là một giấc mơ viển vông, nhưng Neil Armstrong đã biến nó thành hiện thực. Nếu chúng ta có thể thực hiện điều không tưởng trong lĩnh vực thám hiểm vũ trụ, chúng ta có thể tạo nên kỳ tích tương tự trong những lĩnh vực khác", "Armstrong nhắc tới nhân loại, chứ không phải người Mỹ, trong câu nói bất hủ của ông. Với hành động đó, Armstrong muốn khẳng định chuyến đổ bộ của ông là thành tựu của cả thế giới"
Douglas Brinkley, nhà nghiên cứu lịch sử của Đại học Rice tại Mỹ và từng phỏng vấn Armstrong, nói rằng Armstrong có đầy đủ phẩm chất mà NASA đặt ra đối với người đầu tiên bước trên Mặt Trăng. Kiến thức về kỹ thuật của ông là ưu điểm nổi bật nhất. "Tôi nghĩ điểm đáng ngưỡng mộ nhất của Armstrong chính là thái độ lẩn tránh vinh quang. Ông ấy là vị anh hùng đích thực trong thời đại mà con người sẵn sàng làm những việc phi lý để trở nên nổi tiếng".
Charles Bolden, giám đốc NASA: "Mọi cuốn sách lịch sử sẽ nhắc tới Neil Armstrong. Người ta sẽ nói rằng ông ấy là người đầu tiên đặt chân lên một thiên thể ngoài Trái Đất"
Gia đình Armstrong tuyên bố trong cáo phó trong đám tang ông: "Neil Armstrong là một vị anh hùng bất đắc dĩ, bởi ông ấy nghĩ rằng đặt chân lên Mặt Trăng chỉ là một phần của công việc"
Tham khảo
Phương tiện liên quan tới Neil Armstrong tại Wikimedia Commons
Thể loại:
Aliaksandr Ryhoravič Lukašenka (tiếng Belarus: Аляксандр Рыгоравіч Лукашэнка, Alyaksandr Ryhoravich Lukashenka), [alʲaˈksandr rɨˈɣoravʲɪtʃ ɫukaˈʂɛnka]; tiếng Nga: Александр Григорьевич Лукашенко, Aleksandr Grigoryevich Lukashenko, [ɐlʲɪˈksandr ɡrʲɪˈɡorʲjɪvʲɪtɕ ɫʊkɐˈʂɛnkə]; sinh ngày 30 hay 31 tháng 8 năm 1954[3][4]) là người nắm giữ chức vụ Tổng thống của Belarus từ ngày 20 tháng 7 năm 1994.[5]
Trước khi bắt đầu sự nghiệp chính trị, A. R. Lukašenka là giám đốc của
một nông trại quốc doanh. Trong thời gian Lukašenka lãnh đạo, các hành
động của chính quyền Belarus bị các tổ chức nhân quyền nhìn nhận là đã
vượt ra ngoài giới hạn của luật pháp quốc tế và nhân quyền đã bị vi phạm.[6][7][8] Belarus từng bị các lãnh đạo châu Âu và Hoa Kỳ trước đây và hiện nay gọi là "thành lũy cuối cùng của chế độ độc tài" ở châu Âu.[9][10][11] Ông và một số quan chức Belarus khác cũng là những đối tượng bị Liên minh châu Âu áp đặt các biện pháp trừng phạt vì lý do vi phạm nhân quyền.[12][13]
Năm 1990, A. R. Lukašenka được bầu làm một đại biểu trong Hội đồng Tối cao của Cộng hòa Belarus. Ông là đại biểu duy nhất trong Quốc hội Belarus bỏ phiếu chống lại việc phê chuẩn thỏa thuận tháng 12 năm 1991 để giải thể Liên bang Xô viết là lập nên Cộng đồng các Quốc gia Độc lập thay thế.[18]
Sau khi nổi lên là một đối thủ đáng gờm của tham nhũng,[18] năm 1993, A. R. Lukašenka được bầu làm chủ tịch của ủy ban chống tham nhũng của Quốc hội Belarus.[18] Vào cuối năm 1993, ông đã buộc tội 70 viên chức cấp cao trong chính quyền, bao gồm Chủ tịch Quốc hội S. S. Šuškiévič, phạm các tội tham nhũng như biển thủ công quỹ của nhà nước để phục vụ cho mục đích cá nhân. S. S. Šuškiévič đã thất bại trong một cuộc bỏ phiếu bất tín nhiệm và từ chức. Tuy nhiên, chưa từng có đủ chứng cứ để chống lại S. S. Šuškiévič, ông ta ngày càng không được lòng mọi người trong một quốc hội mà những nhân vật bảo thủ chiếm đa số, và họ nắm lấy cơ hội này để lật đổ ông.[19][20]
Một bản hiếp pháp mới của Belarus đã được ban hành vào đầu năm 1994, và nó đã mở đường cho cuộc bầu cử tổng thống dân chủ đầu tiên vào tháng bảy. Có sáu ứng cử viên, bao gồm A. R. Lukašenka, ông đã vận động một cách độc lập theo một cương lĩnh dân túy "đánh bại mafia." A. R. Lukašenka giành chiến thắng với 45,1% số phiếu bầu trong khi V. F. Kiebic nhận được 17,4%, Z. S. Pazniak nhận được 12.9% và S. S. Šuškiévič nhận được 9,9%.[21] Lukashenko đã chiến thắng trong cuộc bầu cử vòng nhì vào ngày 10 tháng 7 với 80,1% số phiếu.[22] Một thời gian ngắn sau cuộc bầu cử tổng thống tại Belarus, ông đã bày tỏ với Đuma Quốc gia của Nga tại Moskva về đề xuất thành lập một Liên bang mới của các nhà nước Slav, và sẽ lên đến đỉnh điềm bằng việc thành lập Nhà nước Liên bang vào năm 1999.[23]
Sau cuộc trưng cầu dân ý, A. R. Lukašenka đã triệu tập một hội đồng quốc hội từ các thành viên Quốc hội ủng hộ ông. Sau khi 12 đại biểu rút chữ ký của mình khỏi bản kiến nghị luận tội, quốc hội cũ chỉ còn lại 40 đại biểu, song họ không có nơi để họp, do chính quyền đã đóng cửa tòa nhà quốc hội "để tu sửa". Tuy nhiên, trong một thời gian, Liên minh châu Âu và Ủy hội châu Âu vẫn xem tàn dư của quốc hội cũ là hội đồng lập pháp hợp pháp.[28] Vào đầu năm 1998, Ngân hàng Trung ương Nga đã tạm ngừng việc giao dịch bằng đồng Rúp Belarus, khiến đồng tiền này bị sụt giá. A. R. Lukašenka đã phản ứng bằng cách nắm quyền kiểm soát Ngân hàng Quốc gia Cộng hòa Belarus, sa thải toàn bộ ban lãnh đạo ngân hàng và đổ lỗi cho phương Tây về việc giá trị đồng bạc quốc gia rơi tự do. Chính phủ Nga thân phương Tây khi đó cáo buộc Lukašenka âm mưu "kiểm soát bằng bàn tay độc tài".[29]
A. R. Lukašenka cáo buộc các chính phủ nước ngoài đã âm mưu chống lại ông, và đến tháng 4 năm 1998, ông đã trục xuất các đại sứ khỏi khu liên hợp Drazdy gần Minsk, cấp cho họ một tòa nhà khác. Vụ việc Drazdy đã gây ra sự phản đối quốc tế và khiến Hoa Kỳ và Liên minh châu Âu áp đặt lệnh cấm đi lại đối với Lukashenko.[30] Mặc dù các đại sứ cuối cùng đã được trở lại khu liên hợp sau khi tranh cãi lắng xuống, A. R. Lukašenka vẫn đẩy mạnh các cuộc khẩu chiến chống phương Tây. Ông tuyên bố rằng các chính quyền phương Tây đã cố gắng làm suy yếu Belarus trên mọi mặt, thậm chí là cả thể thao, trong Thế vận hội Mùa đông 1998 tại Nagano, Nhật Bản.[31]
Khi bùng phát Chiến tranh Kosovo năm 1999, A. R. Lukašenka đã đề nghị Tổng thống Nam Tư Slobodan Milosevic về việc Nam Tư gia nhập Liên bang Nga-Belarus.[32] Sau cuộc tấn công Iraq 2003, các cơ quan tình báo Hoa Kỳ đã đưa ra một báo cáo mà theo đó thì các sĩ quan phụ tá của Saddam Hussein đã xoay xở để có được hộ chiếu Belarus trong khi đang ở Syria. Đồng thời, báo cáo cũng nói rằng không có vẻ như Belarus sẽ cung cấp một nơi ẩn náu an toàn cho Saddam và hai con trai.[33] Các chính sách đối ngoại của A. R. Lukašenka đã khiến chính quyền các nước Phương Tây có lập trường cứng rắn hơn trong việc chống lại ông. Hoa Kỳ đặc biệt tức giận trước các thương vụ vũ khí giữa Belarus với Iran và Iraq, và các nhà lãnh đạo chính trị Mỹ ngày càng gọi Belarus là "chế độ độc tài cuối cùng của châu Âu".[34] Liên minh châu Âu quan tâm đến vấn đề an ninh cho nguồn cung khí đốt của họ từ Nga, các đường ống khí đốt phải đi qua Belarus, và đã tích cực quan tâm đến các vấn đề của đất nước này. Tính đến năm 2004, EU và Belarus chia sẻ một đường biên giới dài hơn 1000 km với sự gia nhập mới của Ba Lan, Latvia và Litva.[35]
Nhà cầm quyền Belarus tuyên bố họ sẽ dẹp yên bất ổn trong trường hợp có biểu tình quy mô lớn hậu bầu cử (giống như đã xảy ra trong Cách mạng Cam tại Ukraina). Mặc dù vậy, người biểu tình đã tập hợp đông đảo sau cuộc bầu cử và là cuộc biểu tình có số người tham gia đông đảo nhất mà phe đối lập tập hợp được trong nhiều năm, với các vụ phản đối ban đêm và các cuộc biểu dương lực lượng tại Minsk. Số người có mặt trong cuộc biểu tình phản đối kết quả bầu cử ban đêm lớn nhất là khoảng 10.000 theo ước tính của phóng viên AP.[44] Các quan sát viên bầu cử đến từ Cộng đồng các Quốc gia Độc lập (SNG) và Tổ chức An ninh và Hợp tác châu Âu (OSCE) có đánh giá khác nhau về cuộc bầu cử tại Belarus.[45] OSCE ra tuyên bố vào ngày 20 tháng 3 năm 2006 rằng cuộc bầu cử tổng thống đã không đáp ứng được tiêu chuẩn về một cuộc bầu cử công bằng của OSCE và A. R. Lukašenka đã sử dụng quyền lực nhà nước để không cho phép người dân được thể hiện ý muốn của họ một cách tự do và công bằng tại hòm phiếu, đe dọa và đàn áp các tiếng nói độc lập."[46] Những người đứng đầu của tất cả 25 quốc gia thành viên Liên minh châu Âu đã tuyên bố rằng cuộc bầu cử là "sai sót về cơ bản", ngược lại, Ngoại trưởng Nga tuyên bố rằng, "Một thời gian dài trước cuộc bầu cử, Văn phòng Các tổ chức Dân chủ và Nhân quyền của OSCE đã tuyên bố rằng cuộc bầu cử sẽ không hợp pháp và cơ quan đã khá thiên vị trong tường thuật về tiến triển và kết quả của cuộc bầu cử, do đó đóng một vai trò xúi giục."[47]
A. R. Lukašenka sau đó đã tuyên bố rằng ông đã gian lận trong kết quả bầu cử chống lại chính mình để có được một con số hợp ý các quốc gia phương Tây. Mặc dù kết quả bầu cử cho thấy rằng ông đã giành được 93,5% số phiếu, song ông đã chỉ đạo cho chính phủ thông báo kết quả là 86%. Ông lưu ý rằng, điều này vẫn không làm hài lòng các nhà phê bình nước ngoài.[48] Một số người dân tộc chủ nghĩa Nga, chẳng hạn như D. O. Rogozin và Phong trào chống nhập cư bất hợp pháp, đã tuyên bố rằng họ muốn thấy A. R. Lukašenka trở thành Tổng thống Nga vào năm 2008. A. R. Lukašenka đã cho biết rằng ông sẽ không chạy đua vào chức Tổng thống Nga; nếu sức khỏe của mình vẫn tốt, ông sẽ tái tranh cử tổng thống Belarus vào năm 2011.[49]
Tháng 4 năm 2009, ông đã hội đàm với Đức Giáo hoàng Giáo hoàng Bênêđictô XVI tại Vatican, đánh dấu chuyến thăm đầu tiên của ông đến Tây Âu sau một thập kỷ bị Liên minh châu Âu áp lệnh cấm đi lại.[54]
Vào ngày bầu cử, hai ứng cử viên tổng thống đã bị cảnh sát đánh đập[8] trong các cuộc biểu tình phản đối khác nhau.[59][60][61] Vào đêm bầu cử, những người biểu tình phản đối đã cố gắng xông vào tòa nhà của chính phủ Belarus, đập vỡ các cửa sổ và cửa ra vào trước khi cảnh sát chống bạo động có thể đẩy lui được họ.[62] Số người biểu tình được các hãng tin tức lớn tường thuật là khoảng hoặc trên 10.000 người.[63][64][65][66][67][68][69] Hàng trăm người phản đối kết quả bầu cử đã bị bắt giữ, trong đó có ít nhất bảy ứng cử viên tổng thống.[8] Ủy ban Bầu cử Trung ương tuyên bố rằng Lukashenko đã chiến thắng với 79,65% số phiếu (ông giành được 5.130.557 phiếu) trong 90,65% số cử tri đi bầu.[70] Tổ chức An ninh và Hợp tác châu Âu coi cuộc bầu cử là "không hoàn thiện" trong khi phái đoàn của Cộng đồng các Quốc gia Độc lập thì ca ngợi cuộc bầu cử là "tự do và minh bạch".[71] Một vài ngoại trưởng châu Âu nhận xét cuộc bầu cử và các cuộc biểu tình phản đối bầu cử là "bước lùi đáng tiếc trong sự phát triển của quản trị dân chủ và tôn trọng nhân quyền tại Belarus."[72] Tuy nhiên, OSCE cũng lưu ý rằng đã có một số cải tiến trong thời gian bầu cử, bao gồm việc các ứng cử viên được tiến hành các cuộc tranh luận trên truyền hình và truyền tải các thông điệp của họ mà không bị cản trở.[73]
Buổi lễ nhậm chức của Lukashenko vào ngày 22 tháng 1 năm 2011 đã bị các đại sứ của các nước Liên minh châu Âu tẩy chay,[74] trong khi các nước bạn bè SNG chỉ cử các quan chức không cao hơn cấp đại sứ.[75] Trong buổi lễ, Lukashenko đã bảo vệ tính hợp pháp của việc ông tái đắc cử và tuyên bố rằng Belarus sẽ không bao giờ là một phiên bản của Cách mạng Cam Ukraina 2004 và Cách mạng Hoa hồng tại Gruzia năm 2003.[74]
Liên minh châu Âu đã nối lại lệnh cấm đi lại đối với Lukashenko từ ngày 31 tháng 1 năm 2011, theo đó Lukashenko và 156 cộng sự của ông sẽ bị cấm đến các nước thành viên EU, lý do là vì chính quyền Lukashenko đã đàn áp bằng bạo lực những người biểu tình ủng hộ phe đối lập sau cuộc bầu cử.[76][77][78]
Ban đầu, Lukashenko muốn xây dựng lại Belarus khi ông nhậm chức.[81] Kinh tế Belarus khi đó rơi tự do vì lĩnh vực công nghiệp suy giảm và thiếu nhu cầu đối với hàng hóa Belarus.[82] Lukashenko đã đặt nhiều ngành công nghiệp dưới sự kiểm soát của chính phủ và quá trình tư nhân hóa bị làm chậm lại.[83] Từ năm 2001, Lukashenko muốn cải thiện phúc lợi xã hội cho các công dân nước mình và khiến Belarus trở nên "hùng mạnh và phồn vinh".[84] Trả lời một câu hỏi về các chính sách đối nội của Belarus, Tổng thống Hugo Chávez của Venezuela đã nói rằng "Chúng tôi nhìn thấy ở đây một nhà nước có mô hình xã hội giống thư thứ mà chúng tôi bắt đầu tạo ra."[85] Chủ tịch của Đại hội đại biểu Nhân dân toàn quốc Ngô Bang Quốc lưu ý rằng Belarus đã phát triển nhanh chóng dưới thời Lukashenko.[86] Các thành viên nghị viện Litva cũng khen ngợi nền kinh tế Belarus và đóng góp của nó đối với kinh tế Litva, Stanislovas Gedraitis đã nói rằng ông ngạc nhiên trước sự tiến bộ mà Belarus đã tạo ra hầu hết là do những nỗ lực của người lãnh đạo quốc gia.[87]
Một số người chỉ trích Lukashenko đã sử dụng thuật ngữ chủ nghĩa Lukash để nói về hệ thống kinh tế và chính trị mà Lukashenko vận hành tại Belarus.[88] Thuật ngữ này cũng được sử dụng rộng rãi hơn để nói về một học thuyết chính trị độc đoán dựa trên sùng bái cá nhân và hoài niệm thời Xô viết trong một số nhóm nhất định tại Belarus. Không rõ thuật ngữ này được sử dụng khi nào, mặc dù tài liệu đầu tiên sử dụng nó là vào năm 1998, đó là trong bối cảnh khai trương một bảo tàng để tưởng nhớ các nạn nhân của chủ nghĩa Cộng sản với một phần dành cho chủ nghĩa Lukash.[89] Thuật ngữ chủ yếu được những người phản đối Lukashenko sử dụng, chẳng hạn như Zubr.[90]
Lukashenko liên tục phản đối mặt với sự phản đối ở trong nước từ một liên minh các nhóm đối lập được Hoa Kỳ và Liên minh châu Âu ủng hộ. Quốc hội Hoa Kỳ đã tìm cách để hỗ trợ cho các nhóm đối lập bằng việc thông qua Đạo luật Dân chủ Belarus 2004, theo đó đưa vào các biện pháp trừng phạt chính phủ của Lukashenko và cung cấp hỗ trợ tài chính của phe đối lập.[91]
Những người ủng hộ Lukashenko thì cho rằng sự lãnh đạo của ông đã giúp cho Belarus tránh được cuộc khủng hoảng như đã xảy ra với các nước khác thuộc Liên Xô cũ.[92]
Lukashenko nhận xét những lời chỉ trích đối với bạn thân mình: "Tôi đã nghe được những lời buộc tội đó trong hơn 10 năm và chúng tôi đã quen thuộc với nó." Trước khi bỏ phiếu bầu Tổng thống năm 2006, ông nói: "Các cuộc bầu cử tại Belarus được tổ chức cho bản thân chúng ta. Tôi chắn chắn rằng người dân Belarus là những chủ nhân đất nước của mình." Ông cảnh báo rằng bất kỳ ai tham gia một cuộc phản đối sẽ được đối xử như một "kẻ khủng bố", bổ sung thêm rằng: "Chúng ta sẽ vặn cổ họ như làm với một con vịt".[93]
Những người ủng hộ chính sách ‘thay đổi thông qua hứa hẹn’ của Liên minh châu Âu đã đưa ra một loạt luận cứ. Đầu tiên, chính sách cũ của Liên minh châu Âu nhằm cô lập Belarus đã không tạo ra kết quả. Thứ hai, hứa hẹn tạo cơ hội để diễn ra một số thay đổi, tất nhiên không có nghĩa là đảm bảo có thay đổi. Thứ ba, nó cung cấp các cơ hội đối thoại cá nhân và với công luận về việc thay đổi. Thứ tư, hứa hẹn có thể ảnh hưởng đến những người thuộc cấp của Lukashenko, bằng cách cho họ thấy quy tắc châu Âu và thể hiện rằng ‘giá trị châu Âu’ là có thật, không chỉ đơn thuần là một khái niệm hoặc một thuật ngữ đế che giấu một chương trình nghị sự chính trị.[95]
Gần đây, qua hệ giữa Lukashenko với Nga, một đồng minh hùng mạnh, đã xấu đi đáng kể. Trong thời gian chạy đua của cuộc bầu cử tổng thống Belarus năm 2010, một loạt phương tiện truyền thông Nga đã tấn công ứng cử viên Alexander Lukashenko.[56] Kênh NTV do nhà nước Nga kiểm soát đã phát sóng trong suốt tháng bảy một bộ phim tài liệu nhiều phần có tiêu đề 'Bố già', trong đó nêu bật sự biến mất đáng ngờ của một số lãnh đạo đối lập vào cuối thập niên 1990, cũng như nêu bật một tuyên bố mà Lukashenko dường như đã ca ngợi Adolf Hitler.[96] Lukashenko đã gọi cuộc tấn công này là 'tuyên truyền bẩn thỉu'.[97]
Tháng 10 năm 2007, A. R. Lukašenka bị cáo buộc đã có bình luận bài Do Thái và bài Israel một cách rõ ràng. Trong bài nói chuyện "tình trạng tồi tàn của thành phố Babruysk" được phát trực tiếp trên sóng phát thanh quốc gia, ông đã nói rằng: "Đây là một thành phố Do Thái,[100] và những người Do Thái không quan tâm đến nơi họ sinh sống. Họ đã biến Babruysk thành một chuồng lợn. Hãy nhìn Israel—Tôi đã ở đó và tự mình trông thấy... Tôi kêu gọi những người Do Thái có tiền hãy trở lại Babruysk."[101] Các thành viên của Hạ viện Hoa Kỳ đã gửi một bức thư cho đại sứ Belarus tại Hoa Kỳ, M. M. Chvastoŭ, yêu cầu rút lại các bình luận của A. R. Lukašenka.[102] Lời bình luận cũng gây ra phản ứng từ Israel.[103] Kết quả là, P. I. Jakubovič, biên tập viên của tờ báo "Xô Viết Bêlarút" (Savieckaja Bielaruś - Савецкая Беларусь), đã được cử đến Israel, và trong cuộc họp với Bộ Ngoại giao Israel, ông nói rằng các bình luận của A. R. Lukašenka là "một lời nói đùa" sai lầm, và không thể hiện quan điểm của ông với người Do Thái."[104] Đại sứ Belarus tại Israel, Igor Leshchenya, nói rằng tổng thống nước ông là "có thái độ tốt đối với người Do Thái." Sergei Rychenko, thư ký báo chí tại Đại sứ quán Belarus ở Tel Aviv, nói rằng nhiều phần trong những lời bình luận của A. R. Lukašenka đã được dịch sai.[105] Trong thực tế, hai tờ báo Belarus là Nasha Niva (Cánh đồng lúa mì của chúng ta) và Narodnaia Volia (Ý chí của Nhân dân), đã bị đóng cửa vào năm 2006, sau khi bỏ qua một số cảnh báo khi xuất bản các bài báo bị cáo buộc là chống Do Thái và phân biệt chủng tộc.[106]
Ngày 4 tháng 3 năm 2012, A. R. Lukašenka đã phải nhận những lời khiến trách ngoại giao đến từ Đức[107] và gây nhiều tranh cãi khi ông xúc phạm Ngoại trưởng đồng tính Đức, Guido Westerwelle, với tuyên bố "một kẻ độc tài còn hơn một tên đồng tính" hai ngày sau khi các lãnh đạo Liên minh châu Âu (bao gồm Westerwelle) họp thượng đỉnh tại Bruxelles vào ngày 3 tháng 3 và kêu gọi tiến hành các biện pháp mới để gây sức ép lên A. R. Lukašenka vì các cáo buộc vi phạm nhân quyền tại Belarus. Trong cuộc họp, Westerwelle đã gọi A. R. Lukašenka là "kẻ độc tài cuối cùng của châu Âu".[11][108][108]
A. R. Lukašenka có một người con trai ngoài giá thú, Nikolay, sinh năm 2004.[109] Mặc dù không bao giờ được xác nhận chính thức, song dư luận rộng rãi cho rằng mẹ của đứa trẻ là Irina Abelskaya – Hai người đã có một mối tình khi bà là bác sĩ riêng của A. R. Lukašenka.[109][111]
Video yêu thích http://www.youtube.com/user/hoangkimvietnam
Trở về trang chính Hoàng Kim, hoangkim, hoangkimvietnam, Ngọc Phương Nam, Chào ngày mới Thung dung, Dạy và học, Cây Lương thực, Tin Nông nghiệp Việt Nam, Food Crops, Cassava in Vietnam, Khát khao xanh, Dayvahoc,Học mỗi ngày, Danh nhân Việt , Food Crops News, Điểm chính, CNM365, Kim LinkedIn, KimTwitter, KimFaceBook Đọc lại và suy ngẫm, Việt Nam tổ quốc tôi, Tình yêu cuộc sống, Thơ cho con
- Hoàn toàn không có nguồn tham khảo
- Sơ khai Hoa Kỳ
- Sinh 1930
- Mất 2012
- Nhà du hành vũ trụ Mỹ
- Người Ohio
- Người đã đặt chân lên Mặt Trăng
- Cựu chiến binh Chiến tranh Triều Tiên
- Cựu sinh viên Học viện Công nghệ Massachusetts
- Đại lộ Danh vọng Hollywood
Aliaksandr Ryhoravič Lukašenka
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Aliaksandr Ryhoravič Lukašenka Аляксандр Рыгоравіч Лукашэнка Александр Григорьевич Лукашенко |
|
---|---|
Chức vụ
|
|
Nhiệm kỳ | 20 tháng 7 năm 1994 – |
Tiền nhiệm | M. I. Hryb (Chủ tịch của Xô viết Tối cao Byelorussia) |
Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Tối cao của Liên minh Nga-Belarus
|
|
Nhiệm kỳ | 26 tháng 1 năm 2000 – |
Tiền nhiệm | Thành lập chức vụ |
Thông tin chung
|
|
Đảng | Đảng Cộng sản Liên Xô (cho đến 1991) Những người Cộng sản vì Dân chủ(1991–1992)[1] Độc lập (1992–2007) Belaya Rus (2007–nay) |
Sinh | 30 hay 31 tháng 8, 1954 Kopys, Liên Xô (nay là Belarus) |
Tôn giáo | Vô thần Chính Thống giáo[2] |
Con cái | Viktor Dmitry Nikolay |
Trang web | Trang chính thức |
Binh nghiệp
|
Mục lục
Cuộc sống và sự nghiệp ban đầu (1954–1994)
Aliaksandr Ryhoravič Lukašenka sinh ngày 30 hay 31 tháng 8 năm 1954[3][4] tại khu dân cư Kopys ở vùng Vitebsk của Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Belorussia. Ông nội của ông, Trokhym Lukašenka, được sinh ra tại tỉnh Sumi tại Ukraina, gần Shostka (nay là làng Sobycheve).[14] A. R. Lukašenka đã lớn lên mà không có cha bên cạnh, ông bị bạn học chế giễu vì có một người mẹ không chồng.[15] Ông đã tốt nghiệp Viện Giáo dục Mogilev (nay là Đại học A.Kuleshov Nhà nước Mogilev) vào năm 1975 và Học viện Nông nghiệp Byelarussia vào năm 1985. Ông phục vụ trong lực lượng Biên phòng Xô viết từ năm 1975 đến 1977 và trong Lục quân Xô viết từ năm 1980 đến 1982. A. R. Lukašenka lãnh đạo một chi đoàn Komsomol tại Mogilev từ năm 1977 đến 1978. Khi phục vụ trong Lục quân Xô viết, A. R. Lukašenka là một sĩ quan của Sư đoàn bộ binh cơ giới hóa cận vệ 120, đặt căn cứ tại Minsk.[16] Sau khi dời quân ngũ, A. R. Lukašenka trở thành phó chủ tịch của một hợp tác xã. Sau đó, ông được thăng làm giám đốc của nông trường quốc doanh và nhà máy vật liệu xây dựng tại huyện Shklov.[17]Năm 1990, A. R. Lukašenka được bầu làm một đại biểu trong Hội đồng Tối cao của Cộng hòa Belarus. Ông là đại biểu duy nhất trong Quốc hội Belarus bỏ phiếu chống lại việc phê chuẩn thỏa thuận tháng 12 năm 1991 để giải thể Liên bang Xô viết là lập nên Cộng đồng các Quốc gia Độc lập thay thế.[18]
Sau khi nổi lên là một đối thủ đáng gờm của tham nhũng,[18] năm 1993, A. R. Lukašenka được bầu làm chủ tịch của ủy ban chống tham nhũng của Quốc hội Belarus.[18] Vào cuối năm 1993, ông đã buộc tội 70 viên chức cấp cao trong chính quyền, bao gồm Chủ tịch Quốc hội S. S. Šuškiévič, phạm các tội tham nhũng như biển thủ công quỹ của nhà nước để phục vụ cho mục đích cá nhân. S. S. Šuškiévič đã thất bại trong một cuộc bỏ phiếu bất tín nhiệm và từ chức. Tuy nhiên, chưa từng có đủ chứng cứ để chống lại S. S. Šuškiévič, ông ta ngày càng không được lòng mọi người trong một quốc hội mà những nhân vật bảo thủ chiếm đa số, và họ nắm lấy cơ hội này để lật đổ ông.[19][20]
Một bản hiếp pháp mới của Belarus đã được ban hành vào đầu năm 1994, và nó đã mở đường cho cuộc bầu cử tổng thống dân chủ đầu tiên vào tháng bảy. Có sáu ứng cử viên, bao gồm A. R. Lukašenka, ông đã vận động một cách độc lập theo một cương lĩnh dân túy "đánh bại mafia." A. R. Lukašenka giành chiến thắng với 45,1% số phiếu bầu trong khi V. F. Kiebic nhận được 17,4%, Z. S. Pazniak nhận được 12.9% và S. S. Šuškiévič nhận được 9,9%.[21] Lukashenko đã chiến thắng trong cuộc bầu cử vòng nhì vào ngày 10 tháng 7 với 80,1% số phiếu.[22] Một thời gian ngắn sau cuộc bầu cử tổng thống tại Belarus, ông đã bày tỏ với Đuma Quốc gia của Nga tại Moskva về đề xuất thành lập một Liên bang mới của các nhà nước Slav, và sẽ lên đến đỉnh điềm bằng việc thành lập Nhà nước Liên bang vào năm 1999.[23]
Tổng thống Belarus
Nhiệm kỳ đầu tiên (1994–2001)
Thàng 5 năm 1995, đã diễn ra một trong các cuộc bỏ phiếu đầu tiên dưới thời A. R. Lukašenka. Kết quả là không chỉ các biểu tượng quốc gia bị thay đổi mà tiếng Nga còn có được vị thế ngang bằng với tiếng Belarus, Belarus thúc đẩy quan hệ kinh tế chặt chẽ hơn với Nga.[24] Vào mùa hè năm 1996, 70 trong 199 đại biểu của Quốc hội Belarus đã ký vào một bản kiến nghị buộc tội Lukashenko vi phạm Hiến pháp.[25] Một thời gian ngắn sau đó, một cuộc trưng cầu dân ý lại được tổ chức vào ngày 24 tháng 11 năm 1996 trong đó có bốn câu hỏi được Lukashenko đề xuất và ba câu được một nhóm các thành viên Quốc hội đề xuất.[26] Ngày 25 tháng 11, kết quả đã được công bố, theo đó thì 70,5% số phiếu trong 84% cử tri đi bầu đã chấp thuận một hiến pháp được sửa đổi theo hướng tăng thêm rất nhiều quyền lực cho A. R. Lukašenka. Tuy nhiên, Hoa Kỳ và Liên minh châu Âu đã từ chối chấp nhận tính hợp pháp của cuộc trưng cầu dân ý này. Boris Yeltsin, lãnh đạo Nga khi đó, cũng công khai ủng hộ Hoa Kỳ và EU khi cáo buộc Lukašenka "tham quyền cố vị".[27]Sau cuộc trưng cầu dân ý, A. R. Lukašenka đã triệu tập một hội đồng quốc hội từ các thành viên Quốc hội ủng hộ ông. Sau khi 12 đại biểu rút chữ ký của mình khỏi bản kiến nghị luận tội, quốc hội cũ chỉ còn lại 40 đại biểu, song họ không có nơi để họp, do chính quyền đã đóng cửa tòa nhà quốc hội "để tu sửa". Tuy nhiên, trong một thời gian, Liên minh châu Âu và Ủy hội châu Âu vẫn xem tàn dư của quốc hội cũ là hội đồng lập pháp hợp pháp.[28] Vào đầu năm 1998, Ngân hàng Trung ương Nga đã tạm ngừng việc giao dịch bằng đồng Rúp Belarus, khiến đồng tiền này bị sụt giá. A. R. Lukašenka đã phản ứng bằng cách nắm quyền kiểm soát Ngân hàng Quốc gia Cộng hòa Belarus, sa thải toàn bộ ban lãnh đạo ngân hàng và đổ lỗi cho phương Tây về việc giá trị đồng bạc quốc gia rơi tự do. Chính phủ Nga thân phương Tây khi đó cáo buộc Lukašenka âm mưu "kiểm soát bằng bàn tay độc tài".[29]
A. R. Lukašenka cáo buộc các chính phủ nước ngoài đã âm mưu chống lại ông, và đến tháng 4 năm 1998, ông đã trục xuất các đại sứ khỏi khu liên hợp Drazdy gần Minsk, cấp cho họ một tòa nhà khác. Vụ việc Drazdy đã gây ra sự phản đối quốc tế và khiến Hoa Kỳ và Liên minh châu Âu áp đặt lệnh cấm đi lại đối với Lukashenko.[30] Mặc dù các đại sứ cuối cùng đã được trở lại khu liên hợp sau khi tranh cãi lắng xuống, A. R. Lukašenka vẫn đẩy mạnh các cuộc khẩu chiến chống phương Tây. Ông tuyên bố rằng các chính quyền phương Tây đã cố gắng làm suy yếu Belarus trên mọi mặt, thậm chí là cả thể thao, trong Thế vận hội Mùa đông 1998 tại Nagano, Nhật Bản.[31]
Khi bùng phát Chiến tranh Kosovo năm 1999, A. R. Lukašenka đã đề nghị Tổng thống Nam Tư Slobodan Milosevic về việc Nam Tư gia nhập Liên bang Nga-Belarus.[32] Sau cuộc tấn công Iraq 2003, các cơ quan tình báo Hoa Kỳ đã đưa ra một báo cáo mà theo đó thì các sĩ quan phụ tá của Saddam Hussein đã xoay xở để có được hộ chiếu Belarus trong khi đang ở Syria. Đồng thời, báo cáo cũng nói rằng không có vẻ như Belarus sẽ cung cấp một nơi ẩn náu an toàn cho Saddam và hai con trai.[33] Các chính sách đối ngoại của A. R. Lukašenka đã khiến chính quyền các nước Phương Tây có lập trường cứng rắn hơn trong việc chống lại ông. Hoa Kỳ đặc biệt tức giận trước các thương vụ vũ khí giữa Belarus với Iran và Iraq, và các nhà lãnh đạo chính trị Mỹ ngày càng gọi Belarus là "chế độ độc tài cuối cùng của châu Âu".[34] Liên minh châu Âu quan tâm đến vấn đề an ninh cho nguồn cung khí đốt của họ từ Nga, các đường ống khí đốt phải đi qua Belarus, và đã tích cực quan tâm đến các vấn đề của đất nước này. Tính đến năm 2004, EU và Belarus chia sẻ một đường biên giới dài hơn 1000 km với sự gia nhập mới của Ba Lan, Latvia và Litva.[35]
Nhiệm kỳ thứ hai (2001–2006)
Cuộc bầu cử tổng thống năm 2001 được tổ chức vào ngày 9 tháng 9, các đối thủ của Lukashenko là U. I. Hančaryk và S. V. Hajdukiévič.[36] Trong chiến dịch tranh cử, A. R. Lukašenka đã hứa hẹn sẽ nâng cao trình độ của ngành nông nghiệp, phúc lợi xã hội và gia tăng sản lượng công nghiệp của Belarus.[37] A. R. Lukašenka đã chiến thắng ngay từ vòng đầu tiên với 75,65% số phiếu. Tuy nhiên, Tổ chức An ninh và Hợp tác châu Âu đã cho rằng quá trình bầu cử "không đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế".[37] Gerard Stoudmann của ODIHR (Cơ quan Các tổ chức Dân chủ và Nhân quyền) của OSCE thì cho rằng "không có bằng chứng về các mánh khóe hay gian lận".[38] Nga thì công khai hoan nghênh việc A. R. Lukašenka tái đắc cử. Tổng thống Nga V. V. Putin đã gọi điện cho A. R. Lukašenka và gửi một bức điện chúc mừng.[37] Jane's Intelligence thì phỏng đoán cái giá cho việc Nga ủng hộ A. R. Lukašenka trong cuộc bầu cử tổng thống là việc Minsk phải từ bỏ quyền quản lý đối với đoạn đường ống Yamal-châu Âu đi qua Belarus.[39] Năm 2004, một cuộc trưng cầu dân ý đã chấp thuận việc loại bỏ giới hạn nhiệm kỳ của tổng thống, cho phép A. R. Lukašenka tiếp tục tái tranh cử vào năm 2006.[40] Belarus đã có tăng trưởng về mặt kinh tế dưới thời A. R. Lukašenka, song phần lớn sự tăng trưởng này là do nước này được quyền nhập khẩu dầu của Nga với giá thấp hơn giá thị trường và sau đó lọc dầu rồi bán lại sang các nước châu Âu khác.[40]Bầu cử tổng thống năm 2006
Sau khi A. R. Lukašenka khẳng định rằng ông sẽ tái tranh cử năm 2005, các nhóm đối lập đã bắt đầu tìm kiểm một ứng cử viên duy nhất. Ngày 16 tháng 10 năm 2005, vào Ngày Đoàn kết với Belarus, nhóm chính trị Zubr và Con đường Thứ ba Belarus đã khuyến khích tất cả các đảng đối lập tập hợp lại sau một ứng cử viên duy nhất để chống lại A. R. Lukašenka trong cuộc bầu cửa vào năm 2006. Người được họ lựa chọn là A. U. Milinkevič, người này chạy đua với A. R. Lukašenka và các ứng cử viên khác.[41] A. R. Lukašenka đã phản ứng lại bằng việc phát biểu rằng bất cứ ai đi đến các cuộc biểu tình của phe đối lập sẽ bị vặn cổ "như một con vịt".[40] Lúc đó, quan chức Anh William Hague đã tiên đoán rằng "Ông Lukashenko đã sắp đặt các cuộc bầu cử bất hợp pháp và phi dân chủ để mở rộng quyền lực và sự kiểm soát của ông ta đối với người dân".[42] Ngày 19 tháng 3 năm 2006, các tiếp xúc với cử tri sau khi họ bỏ phiếu đã cho thấy A. R. Lukašenka sẽ đắc cử nhiệm kỳ ba với số phiếu lớn. Tổ chức EcooM ước đoán A. R. Lukašenka giành 84,2% số phiếu và A. U. Milinkevič chỉ được 2%, trong khi Liên hiệp Thanh niên Cộng hòa Belarus thì ước đoán Lukašenka được 84,2% số phiếu và Milinkevič được 3,1% số phiếu. Tổ chức Gallup thì lưu ý rằng EcooM và Liên hiệp Thanh niên Cộng hòa Belarus là các tổ chức do chính phủ kiểm soát và cả hai đều công bố kết quả thăm dò của mình trước buổi trưa ngày bầu cử, trong khi cuộc bầu cử chỉ kết thúc vào lúc 8h tối.[43]Nhà cầm quyền Belarus tuyên bố họ sẽ dẹp yên bất ổn trong trường hợp có biểu tình quy mô lớn hậu bầu cử (giống như đã xảy ra trong Cách mạng Cam tại Ukraina). Mặc dù vậy, người biểu tình đã tập hợp đông đảo sau cuộc bầu cử và là cuộc biểu tình có số người tham gia đông đảo nhất mà phe đối lập tập hợp được trong nhiều năm, với các vụ phản đối ban đêm và các cuộc biểu dương lực lượng tại Minsk. Số người có mặt trong cuộc biểu tình phản đối kết quả bầu cử ban đêm lớn nhất là khoảng 10.000 theo ước tính của phóng viên AP.[44] Các quan sát viên bầu cử đến từ Cộng đồng các Quốc gia Độc lập (SNG) và Tổ chức An ninh và Hợp tác châu Âu (OSCE) có đánh giá khác nhau về cuộc bầu cử tại Belarus.[45] OSCE ra tuyên bố vào ngày 20 tháng 3 năm 2006 rằng cuộc bầu cử tổng thống đã không đáp ứng được tiêu chuẩn về một cuộc bầu cử công bằng của OSCE và A. R. Lukašenka đã sử dụng quyền lực nhà nước để không cho phép người dân được thể hiện ý muốn của họ một cách tự do và công bằng tại hòm phiếu, đe dọa và đàn áp các tiếng nói độc lập."[46] Những người đứng đầu của tất cả 25 quốc gia thành viên Liên minh châu Âu đã tuyên bố rằng cuộc bầu cử là "sai sót về cơ bản", ngược lại, Ngoại trưởng Nga tuyên bố rằng, "Một thời gian dài trước cuộc bầu cử, Văn phòng Các tổ chức Dân chủ và Nhân quyền của OSCE đã tuyên bố rằng cuộc bầu cử sẽ không hợp pháp và cơ quan đã khá thiên vị trong tường thuật về tiến triển và kết quả của cuộc bầu cử, do đó đóng một vai trò xúi giục."[47]
A. R. Lukašenka sau đó đã tuyên bố rằng ông đã gian lận trong kết quả bầu cử chống lại chính mình để có được một con số hợp ý các quốc gia phương Tây. Mặc dù kết quả bầu cử cho thấy rằng ông đã giành được 93,5% số phiếu, song ông đã chỉ đạo cho chính phủ thông báo kết quả là 86%. Ông lưu ý rằng, điều này vẫn không làm hài lòng các nhà phê bình nước ngoài.[48] Một số người dân tộc chủ nghĩa Nga, chẳng hạn như D. O. Rogozin và Phong trào chống nhập cư bất hợp pháp, đã tuyên bố rằng họ muốn thấy A. R. Lukašenka trở thành Tổng thống Nga vào năm 2008. A. R. Lukašenka đã cho biết rằng ông sẽ không chạy đua vào chức Tổng thống Nga; nếu sức khỏe của mình vẫn tốt, ông sẽ tái tranh cử tổng thống Belarus vào năm 2011.[49]
Nhiệm kỳ thứ ba (2006–2011)
Tháng 9 năm 2008, Belarus đã tổ chức bầu cử quốc hội. Lukashenko đã cho phép một số ứng cử viên đối lập tranh cử, mặc dù kết quả chính thức cho thấy các thành viên đối lập đã không giành được ghế nào trong 110 ghế tại quốc hội. Cuộc bầu cử này bị các thành viên đối lập và những người ủng hộ họ phản đối vì cho rằng nó "không hoàn thiện".[50] Theo phái đoàn quan sát bầu cử của SNG đặt tại Nizhny Novgorod,[51] các cuộc bầu cử tại Belarus phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế.[52] Tổng thống Lukashenko sau đó nhận xét rằng phe đối lập ở Belarus có tài trợ từ nước ngoài.[53]Tháng 4 năm 2009, ông đã hội đàm với Đức Giáo hoàng Giáo hoàng Bênêđictô XVI tại Vatican, đánh dấu chuyến thăm đầu tiên của ông đến Tây Âu sau một thập kỷ bị Liên minh châu Âu áp lệnh cấm đi lại.[54]
Bầu cử tổng thống 2010
Lukashenko là một trong mười ứng cử viên của cuộc bầu cử tổng thống Belarus tổ chức vào ngày 19 tháng 12 năm 2010. Mặc dù ban đầu cuộc bầu cử dự kiến được tổ chức vào năm 2011, song ngày bầu cử đã được đẩy sớm lên để "bảo đảm sự tham gia tối đa của các công dân trong chiến dịch tranh cử" và là "thời gian thuận tiện nhất đối với các cử tri'.[55] Chiến dịch tranh cử có điểm lạ thường khi một loạt các phương tiện truyền thông Nga tấn công ứng cử viên Alexander Lukashenko.[56] Ủy ban Bầu cử Trung ương cho biết rằng tất cả chín ứng cử viên đối lập có khả năng chỉ giành được ít hơn một nửa số phiếu mà ứng cử viên Lukashenko giành được.[57] Song các nhân vật đối lập cho đây là sự hăm dọa[58] và "trò gian trá bẩn thỉu", cuộc bầu cử được xem là tương đối cởi mở trong bối cảnh Belarus mong muốn cải thiện quan hệ với cả Châu Âu và Hoa Kỳ.[57]Vào ngày bầu cử, hai ứng cử viên tổng thống đã bị cảnh sát đánh đập[8] trong các cuộc biểu tình phản đối khác nhau.[59][60][61] Vào đêm bầu cử, những người biểu tình phản đối đã cố gắng xông vào tòa nhà của chính phủ Belarus, đập vỡ các cửa sổ và cửa ra vào trước khi cảnh sát chống bạo động có thể đẩy lui được họ.[62] Số người biểu tình được các hãng tin tức lớn tường thuật là khoảng hoặc trên 10.000 người.[63][64][65][66][67][68][69] Hàng trăm người phản đối kết quả bầu cử đã bị bắt giữ, trong đó có ít nhất bảy ứng cử viên tổng thống.[8] Ủy ban Bầu cử Trung ương tuyên bố rằng Lukashenko đã chiến thắng với 79,65% số phiếu (ông giành được 5.130.557 phiếu) trong 90,65% số cử tri đi bầu.[70] Tổ chức An ninh và Hợp tác châu Âu coi cuộc bầu cử là "không hoàn thiện" trong khi phái đoàn của Cộng đồng các Quốc gia Độc lập thì ca ngợi cuộc bầu cử là "tự do và minh bạch".[71] Một vài ngoại trưởng châu Âu nhận xét cuộc bầu cử và các cuộc biểu tình phản đối bầu cử là "bước lùi đáng tiếc trong sự phát triển của quản trị dân chủ và tôn trọng nhân quyền tại Belarus."[72] Tuy nhiên, OSCE cũng lưu ý rằng đã có một số cải tiến trong thời gian bầu cử, bao gồm việc các ứng cử viên được tiến hành các cuộc tranh luận trên truyền hình và truyền tải các thông điệp của họ mà không bị cản trở.[73]
Buổi lễ nhậm chức của Lukashenko vào ngày 22 tháng 1 năm 2011 đã bị các đại sứ của các nước Liên minh châu Âu tẩy chay,[74] trong khi các nước bạn bè SNG chỉ cử các quan chức không cao hơn cấp đại sứ.[75] Trong buổi lễ, Lukashenko đã bảo vệ tính hợp pháp của việc ông tái đắc cử và tuyên bố rằng Belarus sẽ không bao giờ là một phiên bản của Cách mạng Cam Ukraina 2004 và Cách mạng Hoa hồng tại Gruzia năm 2003.[74]
Liên minh châu Âu đã nối lại lệnh cấm đi lại đối với Lukashenko từ ngày 31 tháng 1 năm 2011, theo đó Lukashenko và 156 cộng sự của ông sẽ bị cấm đến các nước thành viên EU, lý do là vì chính quyền Lukashenko đã đàn áp bằng bạo lực những người biểu tình ủng hộ phe đối lập sau cuộc bầu cử.[76][77][78]
Chính sách đối nội
Lukashenko quảng bá mình là "con người của nhân dân." Do phong cách lãnh đạo của mình, ông thường được gọi thân mật là бацька (bats'ka, "bố").[34] Ông được bầu làm Chủ tịch của Ủy ban Olympic Belarus vào năm 1997.[79] Trong một bài nói chuyện với quốc dân vào ngày 7 tháng 9 năm 2004, Lukashenko đã công bố kế hoạch tổ chức một cuộc trưng cầu dân ý về việc có nên loại bỏ giới hạn nhiệm kỳ tổng thống hay không. Cuộc trưng cầu dân ý đã được tổ chức vào ngày 17 tháng 10 năm 2004, cùng ngày với cuộc bầu cử quốc hội, và theo kết quả chính thức thì 79,42% đã thông qua việc bãi bỏ giới hạn nhiệm kỳ tổng thống. Trước đó, Lukashenko bị giới hạn với quy định tổng thống chỉ được phục vụ trong hai nhiệm kỳ và do đó không được tiếp tục giữ chức tổng thống vào năm 2006.[80] Các nhóm đối lập, Tổ chức An ninh và Hợp tác châu Âu, Liên minh châu Âu, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đã tuyên bố cuộc bỏ phiếu là không theo chuẩn mực của các tiêu chuẩn quốc tế. OSCE đã dẫn ra một ví dụ cho việc này là các lá phiếu đã bị đánh dấu trước.[80]Ban đầu, Lukashenko muốn xây dựng lại Belarus khi ông nhậm chức.[81] Kinh tế Belarus khi đó rơi tự do vì lĩnh vực công nghiệp suy giảm và thiếu nhu cầu đối với hàng hóa Belarus.[82] Lukashenko đã đặt nhiều ngành công nghiệp dưới sự kiểm soát của chính phủ và quá trình tư nhân hóa bị làm chậm lại.[83] Từ năm 2001, Lukashenko muốn cải thiện phúc lợi xã hội cho các công dân nước mình và khiến Belarus trở nên "hùng mạnh và phồn vinh".[84] Trả lời một câu hỏi về các chính sách đối nội của Belarus, Tổng thống Hugo Chávez của Venezuela đã nói rằng "Chúng tôi nhìn thấy ở đây một nhà nước có mô hình xã hội giống thư thứ mà chúng tôi bắt đầu tạo ra."[85] Chủ tịch của Đại hội đại biểu Nhân dân toàn quốc Ngô Bang Quốc lưu ý rằng Belarus đã phát triển nhanh chóng dưới thời Lukashenko.[86] Các thành viên nghị viện Litva cũng khen ngợi nền kinh tế Belarus và đóng góp của nó đối với kinh tế Litva, Stanislovas Gedraitis đã nói rằng ông ngạc nhiên trước sự tiến bộ mà Belarus đã tạo ra hầu hết là do những nỗ lực của người lãnh đạo quốc gia.[87]
Một số người chỉ trích Lukashenko đã sử dụng thuật ngữ chủ nghĩa Lukash để nói về hệ thống kinh tế và chính trị mà Lukashenko vận hành tại Belarus.[88] Thuật ngữ này cũng được sử dụng rộng rãi hơn để nói về một học thuyết chính trị độc đoán dựa trên sùng bái cá nhân và hoài niệm thời Xô viết trong một số nhóm nhất định tại Belarus. Không rõ thuật ngữ này được sử dụng khi nào, mặc dù tài liệu đầu tiên sử dụng nó là vào năm 1998, đó là trong bối cảnh khai trương một bảo tàng để tưởng nhớ các nạn nhân của chủ nghĩa Cộng sản với một phần dành cho chủ nghĩa Lukash.[89] Thuật ngữ chủ yếu được những người phản đối Lukashenko sử dụng, chẳng hạn như Zubr.[90]
Lukashenko liên tục phản đối mặt với sự phản đối ở trong nước từ một liên minh các nhóm đối lập được Hoa Kỳ và Liên minh châu Âu ủng hộ. Quốc hội Hoa Kỳ đã tìm cách để hỗ trợ cho các nhóm đối lập bằng việc thông qua Đạo luật Dân chủ Belarus 2004, theo đó đưa vào các biện pháp trừng phạt chính phủ của Lukashenko và cung cấp hỗ trợ tài chính của phe đối lập.[91]
Những người ủng hộ Lukashenko thì cho rằng sự lãnh đạo của ông đã giúp cho Belarus tránh được cuộc khủng hoảng như đã xảy ra với các nước khác thuộc Liên Xô cũ.[92]
Lukashenko nhận xét những lời chỉ trích đối với bạn thân mình: "Tôi đã nghe được những lời buộc tội đó trong hơn 10 năm và chúng tôi đã quen thuộc với nó." Trước khi bỏ phiếu bầu Tổng thống năm 2006, ông nói: "Các cuộc bầu cử tại Belarus được tổ chức cho bản thân chúng ta. Tôi chắn chắn rằng người dân Belarus là những chủ nhân đất nước của mình." Ông cảnh báo rằng bất kỳ ai tham gia một cuộc phản đối sẽ được đối xử như một "kẻ khủng bố", bổ sung thêm rằng: "Chúng ta sẽ vặn cổ họ như làm với một con vịt".[93]
Chính sách đối ngoại
Mối quan hệ của Lukashenko với Liên minh châu Âu đã trở nên căng thẳng, một phần là do chính sách của ông đối với những người đối lập trong nước. Các cuộc trấn áp của Lukashenko đối với lực lượng đối lập đã khiến ông có biệt danh là "nhà độc tài cuối cùng của châu Âu" và ông cùng một số quan chức Belarus bị áp đặt các biện pháp trừng phạt về đi lại của Liên minh châu Âu. Tuy nhiên, trong một sự thay đổi về chính sách vào tháng 10 năm 2008, Liên minh châu Âu đã quyết định tạm thời dỡ bỏ lệnh trừng phạt đi lại, mục đích chủ yếu là nhằm thuyết phục Belarus không công nhận độc lập cho hai khu vực ly khai Nam Ossetia và Abkhazia.[94] Quyết định này được gia hạn sáu tháng sau đó (năm 2009) và hết hạn vào cuối năm 2009. Ngày 16 tháng 9 năm 2009, Lukashenko đã vào lãnh thổ Liên minh châu Âu lần thứ hai kể từ sau khi tạm thời đình chỉ lệnh trừng phạt, ông đã đến thăm một hội chợ thương mại Belarus tại Vilnius, Litva.Những người ủng hộ chính sách ‘thay đổi thông qua hứa hẹn’ của Liên minh châu Âu đã đưa ra một loạt luận cứ. Đầu tiên, chính sách cũ của Liên minh châu Âu nhằm cô lập Belarus đã không tạo ra kết quả. Thứ hai, hứa hẹn tạo cơ hội để diễn ra một số thay đổi, tất nhiên không có nghĩa là đảm bảo có thay đổi. Thứ ba, nó cung cấp các cơ hội đối thoại cá nhân và với công luận về việc thay đổi. Thứ tư, hứa hẹn có thể ảnh hưởng đến những người thuộc cấp của Lukashenko, bằng cách cho họ thấy quy tắc châu Âu và thể hiện rằng ‘giá trị châu Âu’ là có thật, không chỉ đơn thuần là một khái niệm hoặc một thuật ngữ đế che giấu một chương trình nghị sự chính trị.[95]
Gần đây, qua hệ giữa Lukashenko với Nga, một đồng minh hùng mạnh, đã xấu đi đáng kể. Trong thời gian chạy đua của cuộc bầu cử tổng thống Belarus năm 2010, một loạt phương tiện truyền thông Nga đã tấn công ứng cử viên Alexander Lukashenko.[56] Kênh NTV do nhà nước Nga kiểm soát đã phát sóng trong suốt tháng bảy một bộ phim tài liệu nhiều phần có tiêu đề 'Bố già', trong đó nêu bật sự biến mất đáng ngờ của một số lãnh đạo đối lập vào cuối thập niên 1990, cũng như nêu bật một tuyên bố mà Lukashenko dường như đã ca ngợi Adolf Hitler.[96] Lukashenko đã gọi cuộc tấn công này là 'tuyên truyền bẩn thỉu'.[97]
Phát biểu gây tranh cãi
A. R. Lukašenka cũng gây chú ý với các phát ngôn gây tranh cãi của ông. Năm 1995, ông đã có phát biểu mà có người cho rằng ca ngợi Adolf Hitler: "Lịch sử của Đức là một bản sao của lịch sử Belarus. Đức đã vươn lên từ những đống đổ nát nhờ quyền lực vững chắc và không phải mọi thứ liên quan đến nhân vật nổi tiếng Hitler đều xấu xa. Trật tự của Đức đã phát triển qua nhiều thế kỷ và đạt đỉnh cao của nó dưới thời Hitler."[98] Tuy nhiên, cáo buộc này xuất phát từ kênh truyền hình NTV của Nga, dựa trên một cuộc phỏng vấn của A. R. Lukašenka với tờ báo Đức Handelsblatt, trong đó Hitler thậm chí còn không được đề cập. Người phỏng vấn là Tiến sĩ Markus Zeiner, nói rằng băng ghi âm của cuộc phòng vấn đã bị tách ra khỏi bối cảnh và trình tự các ý kiến đã bị các phương tiện truyền thông Nga thay đổi.[99]Tháng 10 năm 2007, A. R. Lukašenka bị cáo buộc đã có bình luận bài Do Thái và bài Israel một cách rõ ràng. Trong bài nói chuyện "tình trạng tồi tàn của thành phố Babruysk" được phát trực tiếp trên sóng phát thanh quốc gia, ông đã nói rằng: "Đây là một thành phố Do Thái,[100] và những người Do Thái không quan tâm đến nơi họ sinh sống. Họ đã biến Babruysk thành một chuồng lợn. Hãy nhìn Israel—Tôi đã ở đó và tự mình trông thấy... Tôi kêu gọi những người Do Thái có tiền hãy trở lại Babruysk."[101] Các thành viên của Hạ viện Hoa Kỳ đã gửi một bức thư cho đại sứ Belarus tại Hoa Kỳ, M. M. Chvastoŭ, yêu cầu rút lại các bình luận của A. R. Lukašenka.[102] Lời bình luận cũng gây ra phản ứng từ Israel.[103] Kết quả là, P. I. Jakubovič, biên tập viên của tờ báo "Xô Viết Bêlarút" (Savieckaja Bielaruś - Савецкая Беларусь), đã được cử đến Israel, và trong cuộc họp với Bộ Ngoại giao Israel, ông nói rằng các bình luận của A. R. Lukašenka là "một lời nói đùa" sai lầm, và không thể hiện quan điểm của ông với người Do Thái."[104] Đại sứ Belarus tại Israel, Igor Leshchenya, nói rằng tổng thống nước ông là "có thái độ tốt đối với người Do Thái." Sergei Rychenko, thư ký báo chí tại Đại sứ quán Belarus ở Tel Aviv, nói rằng nhiều phần trong những lời bình luận của A. R. Lukašenka đã được dịch sai.[105] Trong thực tế, hai tờ báo Belarus là Nasha Niva (Cánh đồng lúa mì của chúng ta) và Narodnaia Volia (Ý chí của Nhân dân), đã bị đóng cửa vào năm 2006, sau khi bỏ qua một số cảnh báo khi xuất bản các bài báo bị cáo buộc là chống Do Thái và phân biệt chủng tộc.[106]
Ngày 4 tháng 3 năm 2012, A. R. Lukašenka đã phải nhận những lời khiến trách ngoại giao đến từ Đức[107] và gây nhiều tranh cãi khi ông xúc phạm Ngoại trưởng đồng tính Đức, Guido Westerwelle, với tuyên bố "một kẻ độc tài còn hơn một tên đồng tính" hai ngày sau khi các lãnh đạo Liên minh châu Âu (bao gồm Westerwelle) họp thượng đỉnh tại Bruxelles vào ngày 3 tháng 3 và kêu gọi tiến hành các biện pháp mới để gây sức ép lên A. R. Lukašenka vì các cáo buộc vi phạm nhân quyền tại Belarus. Trong cuộc họp, Westerwelle đã gọi A. R. Lukašenka là "kẻ độc tài cuối cùng của châu Âu".[11][108][108]
Cuộc sống cá nhân
Aliaksandr Ryhoravič Lukašenka yêu Halina Radzivonaŭna từ thời trung học, hai người kết hôn vào năm 1975.[109] Con trai cả của hai người, Viktor, cũng được sinh ra vào năm đó.[109] Con trai thứ hai của họ, Dzmitry, sinh ra vào năm 1980.[109] Halina sống riêng trong căn nhà tại ngôi làng gần Shklov.[109] Mặc dù họ vẫn là vợ chồng trên pháp lý, Halina Radzivonaŭna Lukašenka đã bị chồng lạnh nhạt một thời gian ngắn sau khi ông trở thành tổng thống.[110] Tiểu sử của A. R. Lukašenka trên trang thông tin chính thức của Tổng thống Belarus không nhắc đến Galina. Con trai Viktor của A. R. Lukašenka là một 'sĩ quan phụ tá an ninh quốc gia'; và A. R. Lukašenka đã nói công khai về con trai là "một kẻ yếu đuối vô dụng sẽ ngày càng trở nên yếu đuối hơn".[109]A. R. Lukašenka có một người con trai ngoài giá thú, Nikolay, sinh năm 2004.[109] Mặc dù không bao giờ được xác nhận chính thức, song dư luận rộng rãi cho rằng mẹ của đứa trẻ là Irina Abelskaya – Hai người đã có một mối tình khi bà là bác sĩ riêng của A. R. Lukašenka.[109][111]
Huân chương và danh dự
- Huân chương José Martí (Cuba, 2000)[112]
- Huận chương Cách mạng (Libya, 2000)[113]
- Huân chương Thánh Vladimer hạng nhất (2007)[114]
- Huân chương Thánh Dmitry Donskoy hạng nhất (2005)[115]
- Huân chương Thánh Cyril (Giáo hội Chính Thống Belarus) (2006)[116]
- Công dân danh dự của Yerevan, Armenia (2001)[117]
- Bằng danh dự của Cộng đồng Kinh tế Ấu-Á (2006)[118]
- Giải thưởng đặc biệt của Ủy ban Olympic Quốc tế «Gates of the Olymph» (2000)[119]
- Huy chương của Tổ chức FIDOF «For development of world festival movement» (2005)[120]
- Người chiến thắng trong giải thưởng quốc tế Andrey Pervozvanny «For Faith and Loyalty» (1995)[121]
- Huân chương "Phục vụ Tổ quốc ", Hạng 2 (Nga, 2001)[122]
- Huésped Ilustre de Caracas, Venezuela (2010)[123]
- Orden Ciudadano Ilustre (Caracas, Venezuela; 2010)[124]
Tham khảo
- ^ Alyaksandr Hrygorevich Lukashenka, in: Encyclopaedia Britannica Online
- ^ “Europe | Belarus president visits Vatican”. BBC News. 27 tháng 4 năm 2009. Truy cập ngày 1 tháng 8 năm 2012.
- ^ a ă Скандал! Лукашенко изменил биографию (видео и фото) » UDF.BY | Новости Беларуси | Объединённые демократические силы. UDF.BY. Truy cập 2011-04-13.
- ^ a ă Официальный интернет-портал Президента Республики Беларусь/Биография. President.gov.by (1998-05-11). Retrieved 2011-04-13.
- ^ “Belarus — Government”. The World Factbook. Central Intelligence Agency. 18 tháng 12 năm 2008. Bản gốc lưu trữ 10 tháng 12 năm 2008. Truy cập ngày 26 tháng 12 năm 2008.
- ^ “Essential Background – Belarus”. Human Rights Watch. 2005. Truy cập ngày 26 tháng 3 năm 2006.
- ^ “Human rights by country – Belarus”. Amnesty International Report 2007. Amnesty International. 2007. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 12 năm 2007. Truy cập ngày 22 tháng 12 năm 2007.
- ^ a ă â “'Hundreds of protesters arrested' in Belarus”. BBC News. 20 tháng 12 năm 2010. Bản gốc lưu trữ 21 tháng 10 năm 2010. Truy cập ngày 20 tháng 12 năm 2010.
- ^ N.Đ. “Belarus: Khó xảy ra "Cách mạng màu sắc"”. Báo Tiền phong. Truy cập ngày 9 tháng 9 năm 2012.
- ^ Rice: Russia's future linked to democracy, CNN, 2005-04-20
- ^ a ă “Belarus's Lukashenko: "Better a dictator than gay"”. Reuters. 4 tháng 3 năm 2012.
- ^ “Mỹ và EU áp đặt các biện pháp trừng phạt Belarus”. TTXVN/Vietnam+. Truy cập ngày 9 tháng 9 năm 2012.
- ^ Council Regulation (EC) No 765/2006 of 18 May 2006 concerning restrictive measures against President Lukashenko and certain officials of Belarus.
- ^ Малишевский, Виктор; Ульяна Бобоед (15 tháng 8 năm 2003). “В Минск из Канады летит троюродный племянник Лукашенко”. Комсомольской Правды в Белоруссии (bằng tiếng Nga). Truy cập ngày 28 tháng 12 năm 2008.
- ^ “Alexander Lukashenko: Dictator with a difference”. Telegraph.co.uk (London: Telegraph Media Group). 25 tháng 9 năm 2008. Truy cập ngày 26 tháng 12 năm 2008.
- ^ “President Visits New Swimming Complex in Minsk”. President of the Republic of Belarus. 20 tháng 9 năm 2007. Bản gốc lưu trữ 10 tháng 11 năm2007. Truy cập ngày 13 tháng 10 năm 2007.
- ^ “Biographical profile of the President”. President of the Republic of Belarus. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 10 năm 2007. Truy cập ngày 17 tháng 10 năm 2007.
- ^ a ă â Spector, Michael (25 tháng 6 năm 1994). “Belarus Voters Back Populist in Protest at the Quality of Life”. The New York Times. Truy cập ngày 17 tháng 10 năm 2007.
- ^ Prof. David R Maples. "Belarus, the black sheep of Eastern Europe?". The Ukrainian Weekly, No. 41, 1996-10-13.
- ^ Sven Gunnar Simonsen. "Conflicts in the OSCE area", International Peace Research Institute, Oslo, 2004, p. 179 [1]
- ^ Stewart Parker, "The Last Soviet Republic: Alexander Lukashenko's Belarus", 2007, page 62 (ISBN 1-4251-3527-7_
- ^ Country Studies Belarus – Prelude to Independence. Library of Congress. Truy cập 2007-03-21.
- ^ Alyaksandr Lukashenka in: Encyclopaedia Britannica Online, 2009
- ^ Uỷ ban bầu cử TW của Cộng hòa Belarus Các câu hỏi trong cuộc trưng cầu dân ý năm 1995 (tiếng Nga)
- ^ CNN Concern grows over Belarus power struggle. (1996-11-19).
- ^ CNN Belarus president convenes new parliament. (1996-11-26).
- ^ BBC Observers deplore Belarus vote. (2004-10-14).
- ^ British Helsinki Human Rights Group, a 1997 report on Belarus
- ^ BBC Belarus appoints new national bank chief. 1998-03-21.
- ^ Radio Free Europe/Radio Liberty EU PUNISHES BELARUSIAN LEADERSHIP. Written by Jan Maksymiuk. 1998-06-22.
- ^ Associated Press Poor Showing Reportedly Riles Ruler of Belarus. (1998-02-20).
- ^ “The Statement of the Belarus President Alexander Lukashenko”. Serbia Info News. Ministry of Information of the Republic of Serbia. 15 tháng 4 năm 1999. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 9 năm 2007. Truy cập ngày 13 tháng 10 năm 2007.
- ^ “Saddam aides may flee to Belarus: report”. Australian Broadcasting Corporation. 24 tháng 6 năm 2003. Truy cập ngày 13 tháng 10 năm 2007.
- ^ a ă “Profile: Europe's last dictator?”. BBC News. 10 tháng 9 năm 2001. Truy cập ngày 13 tháng 10 năm 2007.
- ^ Martynov, Sergey (2002). “European Union — Belarus: The Time Requirements”. Belarus in the world. Ministry of Foreign Affairs of the Republic of Belarus. Truy cập ngày 13 tháng 10 năm 2007. [[]][liên kết hỏng]
- ^ "Contemporary Belarus: Between Democracy and Dictatorship" (London: RoutledgeCurzon, 2003), with R. Marsh and C. Lawson
- ^ a ă â “Lukashenko claims victory in Belarus election”. USA Today. 10 tháng 9 năm 2001. Truy cập ngày 17 tháng 10 năm 2007.
- ^ Stewart Parker, "The Last Soviet Republic: Alexander Lukashenko's Belarus" p.177
- ^ M J A Standish. "Editor's notes." Jane's Intelligence Digest. 11 tháng 1 năm 2006.
- ^ a ă â “Alexander Lukashenko: Dictator with a difference”. The Telegraph (London: Telegraph.co.uk). 25 tháng 9 năm 2008. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 9 năm 2008. Truy cập ngày 26 tháng 9 năm 2008.
- ^ Collin, Matthew (3 tháng 10 năm 2005). “Belarus opposition closes ranks”. BBC News. Truy cập ngày 13 tháng 10 năm 2007.
- ^ Hague, William (16 tháng 3 năm 2006). “One president but plenty of thugs”. London: The Times. Truy cập ngày 9 tháng 2 năm 2011.
- ^ Staff writer (20 tháng 3 năm 2006). “Gallup/Baltic Surveys announces impossibility of independent and reliable exit polls under present conditions in Belarus”. Charter'97. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 9 năm 2007. Truy cập ngày 13 tháng 10 năm 2007.
- ^ Karmanau, Yuras (19 tháng 3 năm 2006). “Incumbent Declared Winner of Belarus Vote”. SFGate (San Francisco Chronicle). Truy cập ngày 13 tháng 10 năm 2007. “The gathering was the biggest the opposition had mustered in years, reaching at least 10,000 before it started thinning out, according to AP reporters' estimates.” [[]][liên kết hỏng]
- ^ Staff Writer (21 tháng 3 năm 2006). “CIS, OSCE observers differ on Belarus vote”. People's Daily Online (People's Daily). Truy cập ngày 13 tháng 10 năm 2007. “Election observers from the Commonwealth of Independent States (CIS) declared the Belarus presidential vote open and transparent on Monday. The Organization for Security and Cooperation in Europe (OSCE) did not assess the election positively.”
- ^ Kramer, David (21 tháng 3 năm 2006). “Ballots on the Frontiers of Freedom: Elections in Belarus and Ukraine”. United States Department of State. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 10 năm 2007. Truy cập ngày 13 tháng 10 năm 2007.
- ^ “West slams Belarus crackdown”. CNN. 24 tháng 3 năm 2006. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 4 năm 2007. Truy cập ngày 17 tháng 10 năm 2007.
- ^ “Лукашенко: Последние выборы мы сфальсифицировали” (bằng tiếng Nga). BelaPAN. 23 tháng 11 năm 2006. Truy cập ngày 13 tháng 10 năm 2007.
- ^ Staff writer (28 tháng 2 năm 2007). “Rightist Group Promote Belarus Dictator Lukashenko as Russian Presidential Candidate”. MosNews. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 2 năm 2007. Truy cập ngày 11 tháng 7 năm 2007.
- ^ "Belarus clean sweep poll 'flawed'", BBC News, 2008-09-29.
- ^ “CIS: Monitoring The Election Monitors”. Radio Free Europe/Radio Liberty. 2 tháng 4 năm 2005. Truy cập ngày 24 tháng 9 năm 2009.
- ^ “CIS observers: Belarus’ elections meet international standards”. National Center of Legal Information of the Republic of Belarus. 29 tháng 9 năm 2008. Truy cập ngày 12 tháng 10 năm 2008.
- ^ “Opposition gewinnt keinen einzigen Sitz — Proteste in Weißrussland” (bằng tiếng Đức). Der Spiegel. 29 tháng 9 năm 2008. Bản gốc lưu trữ 3 tháng 10 năm 2008. Truy cập ngày 30 tháng 9 năm 2008.
- ^ Belarus leader meets Pope in landmark trip. Google.com (2009-04-27). Truy cập 2012-05-19.
- ^ Belarus sets date of presidential election for 19 December 2010. News.belta.by (2010-09-14). Truy cập 2012-05-19.
- ^ a ă RFE/RL. Has Moscow Had Enough Of Belarus's Lukashenka?. (2010-07-19).
- ^ a ă “'Dirty tricks' taint Belarus vote”. Al Jazeera English. 18 tháng 12 năm 2010. Bản gốc lưu trữ 20 tháng 10 năm 2010. Truy cập ngày 23 tháng 12 năm 2010.
- ^ “Activist fears over Belarus vote”. Al Jazeera English. 19 tháng 12 năm 2010. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 12 năm 2010. Truy cập ngày 23 tháng 12 năm 2010.
- ^ “Police break up opposition rally after Belarus poll”. BBC News. 19 tháng 12 năm 2010. Bản gốc lưu trữ 19 tháng 12 năm 2010. Truy cập ngày 19 tháng 12 năm 2010.
- ^ “Two Belarus presidential candidates say attacked by special forces”. RIA Novosti. 19 tháng 12 năm 2010. Truy cập ngày 19 tháng 12 năm 2010.
- ^ “Спецназ избил двух кандидатов в президенты Белоруссии; Некляев без сознания”. Gazeta.ru. 19 tháng 12 năm 2010. Truy cập ngày 19 tháng 12 năm 2010.
- ^ “Protesters try to storm government HQ in Belarus”. BBC News. 20 tháng 12 năm 2010. Bản gốc lưu trữ 20 tháng 12 năm 2010. Truy cập ngày 23 tháng 12 năm 2010.
- ^ “Belarus president re-elected”. Al Jazeera English. 20 tháng 12 năm 2010. Truy cập ngày 23 tháng 12 năm 2010.
- ^ “Belarus president re-elected, others cry fraud”. Associated Press. 24 tháng 12 năm 2010. Truy cập ngày 11 tháng 1 năm 2011.
- ^ “Protesters try to storm government HQ in Belarus”. BBC. 20 tháng 12 năm 2010. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 1 năm 2011. Truy cập ngày 11 tháng 1 năm 2011.
- ^ “Thousands of protestors fill streets in Minsk over election results”. Deutsche Welle. 20 tháng 12 năm 2010. Truy cập ngày 11 tháng 1 năm 2011.
- ^ “Belarus’ Lukashenko re-elected, police crackdown”. Reuters. 19 tháng 12 năm 2010. Truy cập ngày 11 tháng 1 năm 2011.
- ^ “10,000 Belarusians protesting against election”. Forbes. 19 tháng 12 năm 2010. Truy cập ngày 11 tháng 1 năm 2011. [[]][liên kết hỏng]
- ^ “Hundreds arrested in Belarus protests”. FT.com. 20 tháng 12 năm 2010. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 1 năm 2011. Truy cập ngày 11 tháng 1 năm 2011.
- ^ “СООБЩЕНИЕ об итогах выборов Президента Республики Беларусь” (PDF) (bằng tiếng Nga). Ủy ban Bầu cử Trung ương Belarus. 5 tháng 1 năm 2011. Truy cập ngày 26 tháng 12 năm 2010.
- ^ “Belarus vote count 'flawed' says OSCE | World | RIA Novosti”. En.rian.ru. Truy cập ngày 23 tháng 12 năm 2010.
- ^ Lukashenko the Loser. Bức thư chung của Ngoại trưởng Đức, Thụy Điển, Ba Lan và Cộng hòa Séc. NYTimes (2010-12-24)
- ^ “Belarus still has considerable way to go in meeting OSCE commitments, despite certain improvements, election observers say”. OSCE. 20 tháng 12 năm 2010. Truy cập ngày 26 tháng 12 năm 2010.
- ^ a ă Lukashenko Growls at Inauguration, The Moscow Times (2011-01-24)
- ^ Lukashenko is not afraid neither Europe, nor Russia, VIKNO.EU (2011-01-23)
- ^ Judy Dempsey (2011-01-02). U.S. and E.U. Join to Show Support for Belarus Opposition.
- ^ Maclean's The European Union has News for Belarus’s Alexander Lukashenko: You’re Grounded. (2011-02-17).
- ^ Official Journal of the European Union COUNCIL DECISION 2011/69/CFSP. Official Journal of the European Union. (2011-01-31).
- ^ “NOC RB”. National Olympic Committee of the Republic of Belarus. 2002. Bản gốc lưu trữ 17 tháng 10 năm 2007. Truy cập ngày 13 tháng 10 năm 2007.
- ^ a ă “Observers deplore Belarus vote”. BBC News. 18 tháng 10 năm 2004. Truy cập ngày 13 tháng 10 năm 2007.
- ^ “Lukashenko's first term as president”. Brussels Review. 16 tháng 3 năm 2006. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 10 năm 2007. Truy cập ngày 21 tháng 10 năm 2007.
- ^ “Belarus — Industry”. Country Studies. Library of Congress. 1995. Truy cập ngày 8 tháng 10 năm 2007.
- ^ Karatnycky, Adrian; Alexander J. Motyl, Amanda Schnetzer (2001). Nations in Transit, 2001. Transaction Publishers. tr. 101. ISBN 0-7658-0897-8.
- ^ “Lukashenko Sworn in as Belarusian President”. People's Daily Online (People's Daily). 21 tháng 9 năm 2001. Truy cập ngày 17 tháng 10 năm 2007.
- ^ “Chavez forges ties with Belarus”. BBC News (BBC). 25 tháng 7 năm 2005. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 11 năm 2007. Truy cập ngày 17 tháng 10 năm 2007.
- ^ “China Praises Lukashenko for His Successful Opposition To The West”. The China Times. Truy cập ngày 1 tháng 8 năm 2012.
- ^ “Lithuanian MPs praise Lukashenko — Charter'97:: News from Belarus — Belarusian News — Republic of Belarus — Minsk”. Charter97.org. Truy cập ngày 1 tháng 8 năm 2012.
- ^ Aleksandr Potupa (1997-05-02). "Lukashism" has the potential to spread beyond Balarus. Prism Volume: 3 Issue: 6.
- ^ Dubina, Yuras (1998). “A museum to commemorate victims of communism”. Belarus Now. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 9 năm 2007. Truy cập ngày 13 tháng 10 năm 2007. “Belarusian MPs propose to dedicate a section in the future museum to Lukashism”
- ^ “Beware of Lukashism!”. Zubr. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 9 năm 2007. Truy cập ngày 13 tháng 10 năm 2007.
- ^ Office of the Press secretary (20 tháng 10 năm 2004). “Statement on the Belarus Democracy Act of 2004”. The White House. Truy cập ngày 13 tháng 10 năm 2007.
- ^ Pavlov, Nikolai (27 tháng 3 năm 2006). “Belarus protesters go on trial as new rallies loom”. Belarus News and Analysis. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 10 năm 2006. Truy cập ngày 13 tháng 10 năm 2007.
- ^ Staff writer (9 tháng 1 năm 2007). “Profile: Alexander Lukashenko”. BBC News Online (British Broadcasting Corporation). Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 10 năm 2007. Truy cập ngày 13 tháng 10 năm 2007.
- ^ Rafał Czachor, Polityka zagraniczna Republiki Białoruś w latach 1991–2011. Studium politologiczne, Wydawnictwo DWSPiT, Polkowice 2011, p. 299, ISBN 978-83-61234-72-2
- ^ "Mr Lukashenka goes to Vilnius", by Vitali Silitski, EuropeanVoice.com (2009-10-12)[2]
- ^ RFE/RL. Is Lukashenka In The Kremlin's Crosshairs?. (2010-07-08).
- ^ RFE/RL. Lukashenka Calls Russian Media Attacks 'Dirty Propoganda' . (2010-07-29).
- ^ “Bigotry in Belarus”. Jerusalem Post. 20 tháng 10 năm 2007. Truy cập ngày 1 tháng 11 năm 2007.
- ^ "The Last Soviet Republic: Alexander Lukashenko's Belarus" by Stewart Parker, published by Trafford Publishing, 2007, pages 111–112
- ^ Năm 1926, có 21.558 người Do Thái sinh sống tại Babruysk, chiếm 42% dân số thành phố; đến năm 1989 con số này giảm xuống còn 4%. Năm 1999 chỉ có 1.360 người Do Thái trong tổng số 227.000 cơ dân thành phố. Xem Jewish Heritage Research Group in Belarus
- ^ Sofer, Ronny (18 tháng 10 năm 2007). “Belarus president attacks Jews”. Ynet News (Yedioth Internet). Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 10 năm 2007. Truy cập ngày 19 tháng 10 năm 2007.
- ^ “Kirk-Hastings Letter Calls on Belarusian President to Apologize for Blatantly Anti-Semitic Remarks”. Office of Rep. Mark Steven Kirk. 2007. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 11 năm 2007. Truy cập ngày 1 tháng 11 năm 2007.
- ^ “FM Livni condemns anti-Semitic remarks made by Belarusian President”. Israel Ministry of Foreign Affairs. 18 tháng 10 năm 2007. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 10 năm 2007. Truy cập ngày 19 tháng 10 năm 2007.
- ^ “News in Brief”. Haaretz. 31 tháng 10 năm 2007. Truy cập ngày 1 tháng 11 năm 2007.
- ^ “Belarus to send envoy to Israel”. Jerusalem Post. 25 tháng 10 năm 2007. Truy cập ngày 1 tháng 11 năm 2007.
- ^ "The Last Soviet Republic: Alexander Lukashenko's Belarus" by Stewart Parker, published by Trafford Publishing, 2007, page 105
- ^ Germany rebukes Lukashenko over anti-gay comment | euronews, world news. Euronews.com (2012-03-05). Retrieved 2012-05-19.
- ^ a ă World News – 'Better a dictator than gay,' Belarus President Alexander Lukashenko says. Worldnews.msnbc.msn.com (2012-03-05). Retrieved 2012-05-19.
- ^ a ă â b c d đ The comb-over Soviet-style tyrant who could soon be one of the West's favourite allies, Mail Online (2008-07-19)
- ^ ЛЯШКЕВИЧ, Анна. “Галина Лукашенко: Саша — необыкновенный человек”. Комсомольская правда в Белоруссии (bằng tiếng Nga) (БелаПАН). Truy cập ngày 26 tháng 12 năm 2008.
- ^ Parfitt, Tom (6 tháng 4 năm 2009). “Belarus squirms as son follows in dictator's steps”. London: The Guardian. Truy cập ngày 8 tháng 12 năm 2009.
- ^ “А.Г. Лукашенко награжден орденом Хосе Марти”. Вечерний Минск (bằng tiếng Nga). 5 tháng 9 năm 2000. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 9 năm 2007. Truy cập ngày 13 tháng 10 năm 2007.
- ^ “Белоруссия”. Zatulin.ru (bằng tiếng Nga). 15 tháng 11 năm 2000. Bản gốc lưu trữ 29 tháng 9 năm 2007. Truy cập ngày 13 tháng 10 năm 2007.
- ^ “Александр Лукашенко награжден орденом Святого Владимира I степени”. Патриархия.ru (bằng tiếng Nga). 5 tháng 6 năm 2007. Bản gốc lưu trữ 29 tháng 9 năm 2007. Truy cập ngày 13 tháng 10 năm 2007.
- ^ Korobov, Pavel (11 tháng 5 năm 2005). “Патриарх наградил Александра Лукашенко” (bằng tiếng Nga). Religare.ru. Bản gốc lưu trữ 29 tháng 9 năm 2007. Truy cập ngày 13 tháng 10 năm 2007.
- ^ “Александр Лукашенко награжден орденом Белорусской Православной Церкви” (bằng tiếng Nga). Maranatha. 26 tháng 9 năm 2006. Bản gốc lưu trữ 28 tháng 9 năm 2007. Truy cập ngày 13 tháng 10 năm 2007.
- ^ “Honorary Citizens of Yerevan” (bằng tiếng Nga). City of Yerevan, Armenia. Truy cập ngày 13 tháng 10 năm 2007.
- ^ “В Минске прошло заседание Межгосударственного Совета ЕврАзЭС” (bằng tiếng Nga). President of the Republic of Belarus. 23 tháng 6 năm 2006. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 11 năm 2007. Truy cập ngày 13 tháng 10 năm 2007.
- ^ “Олимпийский приз для Беларуси” (bằng tiếng Nga). Пресс-центр НОКа. 12 tháng 6 năm 2006. Bản gốc lưu trữ 27 tháng 9 năm 2007. Truy cập ngày 13 tháng 10 năm 2007.
- ^ “Президент Беларуси Александр Лукашенко удостоен медали "За развитие мирового фестивального движения"” (bằng tiếng Nga). Embassy of the Republic of Belarus in the Russian Federation. 18 tháng 7 năm 2005. Bản gốc lưu trữ 30 tháng 9 năm 2007. Truy cập ngày 13 tháng 10 năm 2007.
- ^ “Лауреаты Международной премии Андрея Первозванного "За Веру и Верность". 1993–2005 годы” (bằng tiếng Nga). Фонд Святого Всехвального апостола Андрея Первозванного. 1995. Bản gốc lưu trữ 27 tháng 9 năm 2007. Truy cập ngày 13 tháng 10 năm 2007.
- ^ “Президент России”. Archive.kremlin.ru. Truy cập ngày 1 tháng 8 năm 2012.
- ^ “Presidente Chávez se reúne con su par bielorruso Lukashenko”. Mre.gov.ve. Truy cập ngày 1 tháng 8 năm 2012.
- ^ “Jorge Rodríguez | Alcalde de Libertador » » Alcalde Jorge Rodríguez entrega llaves de la Ciudad de Caracas al Presidente Lukashenko”. Jorgerodriguez.psuv.org.ve. Truy cập ngày 1 tháng 8 năm 2012.
Liên kết ngoài
Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về Aliaksandr Ryhoravič Lukašenka |
Wikiquote có sưu tập danh ngôn về: |
- Trang chính thức của Tống thống (tiếng Anh) (tiếng Nga) (tiếng Belarus)
- BBC – Tiểu sử: Alexander Lukashenko
- "Farming roots of Belarussia's leader", BBC, 27 tháng 9 năm 2008
Chức vụ | ||
---|---|---|
Tiền vị: Myechyslaw Hryb như là Chủ tịch Xô viết Tối cao Belarus |
Tổng thống Belarus 1994–nay |
Đương nhiệm |
Video yêu thích http://www.youtube.com/user/hoangkimvietnam
Trở về trang chính Hoàng Kim, hoangkim, hoangkimvietnam, Ngọc Phương Nam, Chào ngày mới Thung dung, Dạy và học, Cây Lương thực, Tin Nông nghiệp Việt Nam, Food Crops, Cassava in Vietnam, Khát khao xanh, Dayvahoc,Học mỗi ngày, Danh nhân Việt , Food Crops News, Điểm chính, CNM365, Kim LinkedIn, KimTwitter, KimFaceBook Đọc lại và suy ngẫm, Việt Nam tổ quốc tôi, Tình yêu cuộc sống, Thơ cho con
No comments:
Post a Comment