Bagdad
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Baghdad بغداد |
|
Phố Haifa nhìn qua sông Tigres | |
Tọa độ: 33°20′0″B 44°26′0″Đ | |
---|---|
Quốc gia | Iraq |
Tỉnh | Tỉnh Baghdad |
Thành lập | 0762 |
Chính quyền | |
- Tỉnh trưởng | Hussein Al Tahhan |
Diện tích | |
- Tổng cộng | 734 km² (283,4 mi²) |
Độ cao | 34 m (112 ft) |
Dân số (2004)[1][2] | |
- Tổng cộng | 6.554.126 |
Số ước tính | |
Múi giờ | GMT +3 (UTC) |
- Mùa hè (DST) | +4 (UTC) |
Thành phố kết nghĩa | Beirut, Dubai, Jeddah, Rabat, Pavlodar, Amman |
Website: http://www.baghdadgov.com |
Dân số năm 2003 là 5.772.000, và năm 2011 vào khoảng 7.216.040 là thành phố lớn nhất Iraq[1][2] và là thành phố lớn thứ 2 vùng Tây Nam Á sau Tehran và cũng là thành phố lớn thứ 2 của thế giới Ả Rập, chỉ sau Cairo. Nằm trên bờ sông Tigris tại vị trí 33°20′ độ vĩ Bắc và 44°26′ độ kinh Đông. Đây là một trong những trung tâm của đạo Hồi.
Mục lục
Lịch sử
Khởi thủy
Ngày 30 tháng 7, 762, khalip Al'Mamun xây dựng thành phố. Mansur tin rằng Baghdad là một thành phố lí tưởng để trở thành thủ phủ đế chế Hồi giáo dưới thời Abbasids.[3] Mansur yêu thành phố này đến mức ông đã từng nói: "Đây thực sự là thành phố mà ta phải tìm ra, nơi ta phải sống và nơi mà con cháu ta sẽ ngự trị sau này."[4] Sự phát triển của thành phố được tạo điều kiện bởi vị trí địa lí thuận lợi cả về quân sự lẫn kinh tế (dọc sông Tigris tới biển và đông tây Địa Trung Hải tới phần còn lại của Châu Á. Hội chợ thương mại hàng tháng được tổ chức tại vùng này. Một lí do nữa lí giải vì sao Baghdad lại có địa thế thuận lợi là do sự dồi dào về nguồn nước và khí hậu khô. Nguồn nước, thứ rất khan hiếm trong thời kì này, có mặt ở cả phía bắc và phía nam cổng thành phố, cung cấp đầy đủ nhu cầu của người dân.Baghdad đã làm lu mờ Ctesiphon, thủ phủ trước đây của đế chế Ba Tư, 30 km về phía Đông Nam. Thành phố này đã được những người Hồi Giáo cai quản từ năm 637 nhưng lại nhanh chóng bị bỏ hoang sau khi Baghdad được tìm ra. Babylon bị bỏ hoang từ thế kỉ thứ 2 trước công nguyên, nằm 90 km về phía Nam.
Xây dựng
Từ những năm đầu tiên thành phố đã được coi như Thiên đường trong kinh Qu'ran.[5] Bốn năm trước khi Baghdad được xây dựng, vào năm 758, Mansur đã tập hợp những nhà kĩ sư, những người chuyên vẽ bản đồ, những thợ xây dựng từ khắp nơi trên thế giới đến để thiết kế thành phố. Hơn 100.000 thợ xây dựng đã đến thiết kế thành phố; rất nhiều người đã chia sẻ tiền lương của mình để bắt đầu xây dựng thành phố vĩ đại này.[6] Khung thành phố là 2 hình bán nguyệt lớn đường kính khoảng 19 km (12 dặm). Tháng 7 được lựa chọn để bắt đầu thi công vì 2 nhà thiên văn học, Naubakht Ahvaz and Mashallah tin rằng thành phố nên được xây dựng theo cung Sử tử.[7] Cung Sư Tử rất quan trọng vì nó là thành phần của lửa, biểu tưởng cho năng suất, sự kiêu hãnh và sự phát triển. Những viên gạch dùng để xây dựng thành phố đều 18 inches cả 4 mặt.Những bức tường bao quanh
Bốn bức tường xung quanh Baghdad được đặt tên Kufa, Basra, Khurasan, và Damascus. Những tên này được đặt theo địa danh mà mỗi cánh cổng hướng về. Khoảng cách giữa mỗi cánh cổng này đều ít hơn 1.5 dặm. Mỗi cổng có 2 cửa làm bằng sắt. Vì những cánh cổng này rất nặng nên cần vài người đế đóng hoặc mở chúng.Cung điện Cổng vàng
Ở chính giữa quảng trường trung tâm là cung điện cổng vàng. Cung điện là nơi ở của khalip và gia đình của ông. Ở chính giữa của tòa nhà là một mái vòm xanh cao 39m. Xung quanh cung điện là nơi dạo mát, tòa nhà bên bờ sông nơi chỉ có khalip là có thể cưỡi ngựa tới. Thêm vào đó, cung điện ở gần những lâu đài và dinh thự của những người có quyền thế khác. Gần cổng Syria là nơi ở của những người gác cổng. Tòa nhà đó được xây dựng bởi gạch và cẩm thạch. Quản gia của cung điện sống ở phía sau của tòa nhà còn người chỉ huy lính gác lại sống ở phía trước. Vào năm 813, sau cái chết của khalip Amin, cung điện không còn được dùng làm nơi sống của khalip và gia đình.Dạng tròn là theo kiểu Ả rập. Hai nhà thiết kế được thuê bởi Al-Mansur là Naubakht, một tín đồ đạo thờ lửa, người đã đặt ngày khởi công thành phố dựa theo thiên văn học, và Mashllah, một người Do thái đến từ Khorasan, Iran.
Đế quốc Ottoman đô hộ
Vào thế kỷ 16, Đế chế Ottoman thôn tính vùng đất này và Bagdad trở thành một thành phố thương mại quan trọng trong đế chế. Bagdad được giải phóng trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, khi quân Đồng Minh tràn vào Bagdad và Đế chế Ottoman bại trận.Thời gian gần đây
Nơi đây được biết đến với cuộc Chiến tranh vùng Vịnh năm 1991 do tổng thống Hoa Kỳ Bush (cha) phát động nhằm lật đổ chế độ Saddam Hussein nhưng không thành. Năm 2003, một lần nữa lại nổ ra cuộc Chiến tranh Iraq, lần này là do tổng thống Bush (con) phát động và đã lật đổ được Saddam Hussein.Địa lý
Thành phố nằm trên đồng bằng rộng lớn hai bên bờ sông Tigris. Tigris chia Baghdad thành hai nửa, nửa phía đông được gọi là 'Risafa' và nửa phía tây được gọi là ' Karkh'. Vùng đất của thành phố hầu hết là bằng phẳng và thấp trên các bồi tích được lấp đầy theo chu kỳ lũ của sông.Khí hậu
Baghdad có khí hậu khô hạn cận nhiệt đới (phân loại khí hậu Köppen BWh) và là thành phố nóng nhất thế giới theo nghĩa nhiệt độ cao nhất. Mùa hè từ tháng 6 đến tháng 8, nhiệt độ cao trung bình 44 °C (111 °F) kèm với nắng rực lửa: thực tế lượng mưa được ghi nhận là rất ít vào thời điểm này trong năm và không bao giờ vượt quá 1mm.[8]Lượng mưa hàng năm, chủ yếu rơi từ tháng 11 đến tháng 3, trung bình khoảng 150 mm, cao nhất là 338 mm (13,31 in) và thấp nhất là 37 mm (1,46 in).[9] Vào 11 tháng 1, 2008, có tuyết rơi nhẹ ở Baghdad lần đầu tiên trong lịch sử.[10]
[ẩn]Dữ liệu khí hậu của Baghdad | |||||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Tháng | 1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 | 11 | 12 | Năm |
Cao kỉ lục °C (°F) | 24.8 | 27.1 | 30.9 | 38.6 | 43.5 | 48.8 | 50.0 | 49.9 | 47.7 | 40.2 | 35.6 | 25.3 | 50 |
Trung bình cao °C (°F) | 15.5 | 18.5 | 23.6 | 29.9 | 36.5 | 41.3 | 44.0 | 43.5 | 40.2 | 33.4 | 23.7 | 17.2 | 30,6 |
Trung bình thấp, °C (°F) | 3.8 | 5.5 | 9.6 | 15.2 | 20.1 | 23.3 | 25.5 | 24.5 | 20.7 | 15.9 | 9.2 | 5.1 | 14,9 |
Thấp kỉ lục, °C (°F) | −11 | −10 | −5.5 | −0.6 | 8.3 | 14.6 | 22.4 | 20.6 | 15.3 | 6.2 | −1.5 | −8.7 | −11 |
Lượng mưa, mm (inches) | 27.2 (1.071) |
19.1 (0.752) |
22.0 (0.866) |
15.6 (0.614) |
3.2 (0.126) |
0 (0) |
0 (0) |
0 (0) |
0 (0) |
3.3 (0.13) |
12.4 (0.488) |
20.0 (0.787) |
122,8 (4,835) |
% độ ẩm | 71 | 61 | 53 | 43 | 30 | 21 | 22 | 22 | 26 | 34 | 54 | 71 | 42,3 |
Số ngày mưa TB (≥ 0.001 mm) | 8 | 7 | 8 | 6 | 4 | 0 | 0 | 0 | 0 | 4 | 6 | 7 | 50 |
Số giờ nắng trung bình hàng tháng | 192.2 | 203.3 | 244.9 | 255.0 | 300.7 | 348.0 | 347.2 | 353.4 | 315.0 | 272.8 | 213.0 | 195.3 | 3.240,8 |
Nguồn #1: World Meteorological Organization (UN)[11] | |||||||||||||
Nguồn #2: Climate & Temperature[12] |
Giáo dục
Đại học Mustansiriya được Abbasid Caliph al-Mustansir thành lập năm 1227. Tên trường được đổi thành Đại học Al-Mustansiriya năm 1963. Đại học Baghdad là trường đại học lớn nhất Iraq và lớn thứ 2 trong thế giới Ả Rập.Đại học
Chú thích
- ^ a ă Estimates of total population differ substantially. The Encyclopædia Britannica gives a 2001 population of 4.950.000, the 2006 Lancet Report states a population of 6.554.126 in 2004.
- "Baghdad." Encyclopædia Britannica. 2006. Encyclopædia Britannica Online. 13 November, 2006.
- "Mortality after the 2003 invasion of Iraq: a cross-sectional cluster sample survey"PDF (242 KiB). By Gilbert Burnham, Riyadh Lafta, Shannon Doocy, and Les Roberts. The Lancet, 11 tháng 10 năm 2006
- Baghdad from GlobalSecurity.org
- ^ a ă "Cities and urban areas in Iraq with population over 100.000", Mongabay.com
- ^ Corzine, Phyllis (2005). The Islamic Empire. Thomson Gale. tr. 68–69.
- ^ Wiet, Gastron (1971). Baghdad: Metropolis of the Abbasid Caliphate. Univ. of Oklahoma Press.
- ^ Wiet, pg. 13
- ^ Corzine, Phyllis (2005). The Islamic Empire. Thomson Gale. tr. 69.
- ^ Wiet, pg. 12
- ^ Monthly rainfall for Baghdad (WMO #40650)
- ^ Annual Rainfall Statistics for Baghdad (WMO #40650)
- ^ (AFP) – Jan 11, 2008 (11 tháng 1 năm 2008). “Afp.google.com, First snow for 100 years falls on Baghdad”. Afp.google.com. Truy cập ngày 27 tháng 4 năm 2010.
- ^ “World Weather Information Service - Baghdad”. World Meteorological Organization. Truy cập ngày 20 tháng 6 năm 2013.
- ^ “Baghdad Climate Guide to the Average Weather & Temperatures, with Graphs Elucidating Sunshine and Rainfall Data & Information about Wind Speeds & Humidity:”. Climate & Temperature. Truy cập ngày 25 tháng 12 năm 2011.
Liên kết ngoài
Wikimedia Commons có thêm thể loại hình ảnh và phương tiện truyền tải về Bagdad |
Wikivoyage có chỉ dẫn du lịch về Bagdad |
Tra Baghdad trong từ điển mở tiếng Việt Wiktionary |
|
|
Vanuatu
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Ripablik blong Vanuatu République du Vanuatu Republic of Vanuatu Cộng hòa Vanuatu |
|||||
---|---|---|---|---|---|
|
|||||
Khẩu hiệu | |||||
Long God Yumi Stanap (tiếng Bislama: "Hãy trung thành bên Chúa") |
|||||
Quốc ca | |||||
Yumi, Yumi, Yumi (tiếng Bislama: "Chúng ta, chúng ta, chúng ta") |
|||||
Hành chính | |||||
Chính phủ | Cộng hòa nghị viện | ||||
• Tổng thống • Thủ tướng |
Iolu Johnson Abil Sato Kilman |
||||
Ngôn ngữ chính thức | Tiếng Bislama, Anh và Pháp | ||||
Thủ đô | Port Vila |
||||
Thành phố lớn nhất | Port-Vila | ||||
Địa lý | |||||
Diện tích | 12 200 km² (hạng 155) | ||||
Diện tích nước | không đáng kể % | ||||
'
|
|||||
Ngày thành lập | 30 tháng 7 năm 1980 | ||||
Dân cư | |||||
Dân số ước lượng (2005) | 205 754 người (hạng 183) | ||||
Dân số (2002) | 192 910 người | ||||
Mật độ | 15,9 người/km² | ||||
HDI | 0.659 (hạng 118) | ||||
Đơn vị tiền tệ | Vatu (VUV ) |
||||
Thông tin khác | |||||
Tên miền Internet | .vu |
Trước năm 1980, Vanuatu có tên là New Hebrides thuộc sự đồng trị của cả hai nước Anh và Pháp. Người Việt thời đó gọi Vanuatu là Tân Đảo vì thực dân Pháp thường mộ phu chân đăng ở Đông Dương để đi khai phá và canh tác đồn điền ở đó.
Mục lục
Lịch sử
Theo chứng tích khảo cổ thì con người có mặt trên đảo Vanuatu từ khoảng 1300 năm trước Công nguyên.Năm 1606, người Tây Ban Nha dưới sự chỉ huy của Luis Váez de Torres và Pedro Fernández de Quirós đến đảo thám hiểm và cho rằng Vanuatu là một phần của lục địa châu Úc. Mãi đến thế kỷ 18 sau chuyến hải hành thứ hai của nhà thám hiểm người Anh James Cook và đảo được đặt tên "New Hebrides" người châu Âu mới đến định cư vùng đảo.
Trong thời gian ngắn ngủi sau năm 1879, đảo Efate thành lập thể chế cộng hòa dưới tên "Franceville" với đặc điểm là quốc gia độc lập đầu tiên với quyền đầu phiếu phổ thông không phân biệt sắc tộc hay giới tính. Tuy nhiên riêng người da trắng được nhậm chức. Năm 1887, đảo được đặt dưới quyền cai trị quân đội của hai nước Anh và Pháp. Về sau được xác định thông qua nghị định thư năm 1914, chính thức phê chuẩn năm 1923.
Sau chiến tranh thế giới thứ hai, quần đảo New Hebrides được hưởng thể chế sau này đưa đến quyền tự trị năm 1975. Từ đó những bất đồng giữa cộng đồng Anh ngữ (đa số) và cộng đồng Pháp ngữ lại gia tăng. Việc tạm ngừng đấu tranh cho phép thông qua một dự án hiến pháp. Tháng 11 năm 1979, đảng thuộc cộng đồng Anh ngữ giành thắng lợi trong cuộc tuyển cử, Mục sư Walter Lini trở thành Thủ tướng. Cộng đồng Pháp ngữ ở hai đảo Espíritu Santo và Tanna dự định tiến hành li khai. Một lực lượng gồm đội quân của Anh và Pháp phải can thiệp nhằm ngăn cản ý định li khai. Độc lập được tuyên bố ngày 30 tháng 7 năm 1980. Quần đảo New Hebrides đổi tên thành Cộng hòa Vanuatu. Georges Ati Sokomanu được bầu làm Tổng thống.
Năm 1983, đảng của Walter Lini đắc cử. Năm 1984, Sokomanu phải đương đầu với Lini, từ chức và tái đắc cử. Năm 1987, Lini lại giành thắng lợi trong cuộc bầu cử. Tháng 9 năm 1991, Lini rút khỏi chính trường và Maxime Carlot Korman thuộc cộng đồng Pháp ngữ trở thành Thủ tướng. Năm 1994, Jean-Marc Leyé được bầu làm Tổng thống. Năm 1999, John Bani giữ chức Tổng thống và bổ nhiệm Donald Kalpokas vào chức Thủ tướng.
Địa lý
Vanuatu là một quần đảo san hô và núi lửa gồm 83 đảo lớn nhỏ, thuộc quần đảo Melanesia, gồm một quần đảo trải dài từ Bắc đến Nam trên 850 km ở Tây Nam Thái Bình Dương, nằm về phía Đông Bắc New Caledonia. Khoảng 75% diện tích đất đai bao phủ bởi các khu rừng nhiệt đới. Tabwemasana là đỉnh núi cao nhất (1.879 m) thuộc đảo Espíritu Santo (4.860 km2), đảo lớn nhất của quần đảo này. Nhiều ngọn núi lửa thuộc quần đảo này nằm trong "vành đai lửa Thái Bình Dương" hiện vẫn còn hoạt động, nhất là đảo Tanna, Ambrym, Aoba và Gaua.Hai đảo Matthew và Hunter còn trong vòng tranh chấp với Nouvelle-Calédonie. Trong tổng số đó có 14 đảo với diện tích hơn 100 km² là:
Hạng theo diện tích | Tên đảo | Diện tích |
---|---|---|
1 | Espiritu Santo | 3.956 km² |
2 | Malakula | 2.041 km² |
3 | Efate | 900 km² |
4 | Erromango | 888 km² |
5 | Ambrym | 678 km² |
6 | Tanna | 555 km² |
7 | Pentecost | 491 km² |
8 | Epi | 445 km² |
9 | Ambae | 402 km² |
10 | Vanua Lava | 334 km² |
11 | Gaua | 328 km² |
12 | Maewo | 304 km² |
13 | Malo | 180 km² |
14 | Anatom | 159 km² |
Có vài ngọn núi lửa còn hoạt động tại Vanuatu như ngọn Lopevi. Thiên tai địa chấn và núi lửa thường đe dọa quần đảo. Ngọn núi cao nhất Vanuatu là đỉnh Tabwemasana, đo được 1879 m trên đảo Espiritu Santo.
Thành phố lớn nhất là thủ đô Port Vila trên đảo Efate. Thị trấn thứ nhì là Luganville trên đảo Espiritu Santo.
Vanuatu được công nhận là vùng địa sinh thái đặc biệt (distinct terrestial ecoregion) thuộc phân khu sinh thái (ecozone) Australasia.
Khí hậu
Vuanuatu nằm trong vùng khí hậu cận nhiệt đới. Thời tiết ôn hòa nhờ gió mậu dịch thổi theo hướng Đông Nam. Mùa khô từ tháng 5 đến tháng 10, mùa mưa từ tháng 11 đến tháng 4, lượng mưa trung bình tương đối cao.Hành chính
Kể từ năm 1994, Vanuatu được chia thành sáu tỉnh (province). Tên của sáu tỉnh thì ghép từ tên những đảo phụ thuộc.- Malampa (MALakula, AMbrym, PAama)
- Penama (PENntecost, Ambae, MAewo)
- Sanma (SANto, MAlo)
- Shefa (nhóm SHepherds, EFAte)
- Tafea (Tanna, Aniwa, Futuna, Erromango, Aneityum)
- Torba (TORres, BAnks)
Ngành hành pháp có hành pháp viên (executive officer) do phủ Thủ tướng bổ nhiệm.
Ở cấp tỉnh cũng có vị tổng thống tỉnh bang (provincial president) thuộc cử tri đoàn để bầu ra tổng thống Vanuatu.
Dưới cấp tỉnh là xã (municipality), tương đương với một đảo một. Xã có hội đồng xã và xã trưởng do cư dân bầu nên.
Chính trị
Vanuatu là một nước dân chủ nghị viện. Đứng đầu là Tổng thống với nhiệm kỳ năm năm nắm vai trò lễ nghi. Cử tri đoàn gồm các đại biểu quốc hội và tổng thống tỉnh bang bỏ phiếu bầu tổng thống toàn quốc.Thủ tướng điều hành chính phủ thì do Quốc hội bầu nếu đạt được hơn nửa số phiếu của ¾ đại biểu. Thủ tướng có nhiệm vụ lập nội các, tức hội đồng bộ trưởng để điều hành ngành hành pháp Vanuatu.
Quốc hội Vanuatu là viện lập pháp đơn viện (unicameral) với 52 đại biểu nhiệm kỳ bốn năm do cử tri trực tiếp bầu ra. Quốc hội có thể tự giải tán hay do lệnh Tổng thống với sự cố vấn của Thủ tướng. Song song với Quốc hội là Hội đồng tộc trưởng Malvatu Mauri để cố vấn chính phủ trong những lãnh vực văn hóa và ngôn ngữ Vanuatu.
Các Đảng chính trị chính: Vanuaaku Pati, Đảng thống nhất Dân tộc (NUP) và một số đảng khác.
Đối ngoại
Vanuatu theo đuổi chính sách đối ngoại hòa bình, không liên kết, chống vũ khí hạt nhân. Đến nay, Vanuatu có quan hệ ngoại giao với 74 nước. Vanuatu có quan hệ hợp tác kinh tế và văn hóa chặt chẽ với Úc, New Zealand và EU và Nam Thái Bình Dương. Hiện nay, Vanuatu cũng đang chú trọng phát triển quan hệ với nhiều nước khác, đặc biệt là các nước lớn cung cấp nhiều viện trợ như Trung Quốc, Mỹ và các nước láng giềng khu vực.Vanuatu là thành viên Liên Hợp Quốc (1981), Khối thịnh vượng chung (Common Wealth), Phong trào không liên kết (1983), Cộng đồng Pháp ngữ (ACCT), Ngân hàng thế giới WB, Quỹ tiền tệ quốc tế IMF, Diễn đàn các nước Nam Thái Bình Dương (SPF)...
Kinh tế
Vanuatu có nền kinh tế còn chưa phát triển, chủ yếu là nông nghiệp với quy mô nhỏ, công nghiệp còn khiêm tốn; ngoài ra còn một số ngành khác như đánh bắt hải sản, khai khoáng và du lịch. Tốc độ tăng GDP trung bình khoảng 2,9%. Vanuatu nhập khẩu nhiều máy móc, phương tiện vận tải, thực phẩm, dầu mỏ, hoá chất trong khi xuất khẩu khiêm tốn chủ yếu là cùi dừa, ca cao, thịt bò, gỗ. Bạn hàng và cũng là nước cung cấp viện trợ chính là Úc, Anh, Pháp, Liên minh châu Âu (EU), Nhật bản, New Zealand. Nhập khẩu của Vanuatu từ Úc chiếm khoảng 40% - 50%, New Zealand: 11%, New Caledonia: 8%, Nhật: 10%, Fiji và Pháp: 6%. Thu nhập bình quân đầu người của Vanuatu đạt 2442 USD năm 2008 (số liệu của IMF).[1]Nhân khẩu học
Dân số Vanuatu hiện nay là 205,754 người. Bao gồm các sắc tộc chính: Người Vanuatu (94%), người châu Âu (4%), người gốc Micronesians, Polynesians; người Hoa và người Việt (2%). Người Người Vanuatu (94%), người gốc Micronesians, Polynesians nói tiếng Bislama; người châu Âu, người Hoa và người Việt nói tiếng Anh và tiếng Pháp.Các tôn giáo chính có: Giáo hội Trưởng Lão (Cơ Đốc) 36.7%, Anh giáo 15%, Công giáo 15%, tín ngưỡng bản địa 7.6%, các tôn giáo khác.
Văn hóa
Với dân số khoảng 221.000 người (thống kê 2006), Vanuatu tự hào có 113 ngôn ngữ khác nhau đại hình thành tại vô số đại phương ở những hòn đảo xa xôi. Điều này đã biến quốc đảo này là một trong những nước có nền văn hóa đa dạng nhất trên thế giới.Sự đa dạng là kết quả của hơn 3.000 năm tích tụ từ các dân tộc khác nhau về quốc đảo này đôi khi dẫn đến sự xung đột sắc tộc, tan biến văn hóa và đánh mất đi giá trị truyền thống gốc của nó. Thực phẩm, động vật là những vật quan trọng nhất của đảo vì nó là nguồn cung cấp thức ăn cho người dân và trong đó loài lợn là con vật quan trọng. Xét về khía cạnh sống lợn là con vật linh thiêng nhất cho cuộc sống người dân Vanuatu vì nó không chỉ là nguồn cung cấp thực phẩm, chất dinh dưỡng mà là nền tảng của đời sống nghi thức, biểu tượng của sự giàu có và quyền lực được xác lập từ bấy lâu nay.
Nhịp sống hiện đại đã không làm xáo trộn nét đặc trưng của một nghi thức sống trong gia đình. Mọi khía cạnh của cuộc sống được tổ chức và biểu hiện dưới hình thái của một qui trình sống được tổ chức trong một đại gia tộc mà ở đó con số người thân có thể lên đến hàng trăm người. Mối quan hệ hiếu thảo được bảo tồn và còn lưu giữ nhiều tập tục cổ xưa cắt bao qui đầu khởi sinh cho một sinh linh bé bỏng… và các người chết là một việc người đó được về với tổ tiên vì thế mà được cho là việc làm tối thượng. Nghệ thuật tại quốc đảo này thật đa dạng và biểu cảm dưới nhiều hinh thức khác nhau như từ việc trang trí đồ trang sức, trang trí thân người bởi hình xăm, các mặt nạ, mũ nón, chạm khắc… rất quan trọng đại diện tiêu biểu cho một làng nào đó.
Với xã hội hiện đại, tại quốc đảo nền kinh tế nông nghiệp vẫn là chủ yếu. Họ trồng các loại cây thực phẩm như khoai lang, khoai, sắn, trái cây theo mùa… Với diện tích rừng bị thu hẹp để lấy đất làm nông nghiệp, săn bắt thú hình như không còn phổ biến như xưa và thay vào đó là nuôi động vật, loài lợn là quan trọng là chỗ dựa cho nền kinh tế không chỉ là cung cấp thực phẩm mà là thể hiện sự đẳng cấp giàu có của mình. Văn hóa sống vẫn được bảo tồn và gìn giữ như là một phần của nghi thức cuộc sống. Trên một số hòn đảo, bà mẹ trả tiền để các bác sĩ cắt bao qui đầu trẻ em, các bé trai được đưa vào bụi rậm một tuần, đôi khi cả tháng… có một vài bộ tộc vẫn còn khỏa thân nhưng không như xưa, cánh đàn ông có vỏ bọc dương vật trong khi các phụ nữ vẫn để đôi ngực trần của mình tự nhiên.
Dấu ấn văn hóa Pháp
Giành chủ quyền từ tay thực dân Pháp vào đầu những năm 1980, Vanuatu là đất nước thuộc thế giới thứ ba ở quần đảo Nam Thái Bình Dương. Dấu ấn văn hóa Pháp vẫn in đậm trên những con phố và đặc biệt là thủ đô Port Vila, đồng thời là thành phố lớn nhất trên đảo Efate.
Port Vila nằm trải dài quanh vịnh Vila. Đứng trên cảng, sẽ thấy một khung cảnh tuyệt mỹ, xa xa là những hòn đảo nhô lên giữa đại dương xanh thẳm. Văn hóa Pháp hòa quyện với văn hóa truyền thống của người bản xứ NiVan tạo nên nét độc đáo cho vùng đất này. Những con phố đông đúc, những khu chợ sầm uất ở thủ đô Port Vila nằm dọc theo bến cảng, nơi có nhiều thuyền đang neo đậu.
Hầu hết cư dân ở đây đều đi bộ, chỉ một số ít đi lại bằng xe ô tô (loại xe tải). Những chiếc xe này luôn chật ních người và sẽ phải kinh ngạc về luật giao thông đường bộ ở đây.
Chú thích
Liên kết ngoài
Wikimedia Commons có thêm thể loại hình ảnh và phương tiện truyền tải về Vanuatu |
- Chính phủ Vanuatu
- Vanuatu tại Encyclopædia Britannica (tiếng Anh)
- Vanuatu tại Từ điển bách khoa Việt Nam
|
|
Quốc gia thành viên và quan sát viên của Cộng đồng Pháp ngữ | ||
---|---|---|
Thành viên | Ai Cập · Albania · Andorra · Bỉ (Cộng đồng Pháp ngữ của Bỉ) · Bénin · Bulgaria · Burkina Faso · Burundi · Campuchia · Cameroon · Canada (New Brunswick · Québec) · Cabo Verde · Cộng hòa Trung Phi · Comoros · Congo · Cộng hòa Dân chủ Congo · Côte d'Ivoire · Djibouti · Dominica · Guinea Xích đạo · Cộng hòa Macedonia Guadeloupe · Gabon · Ghana* · Guinée · Guiné-Bissau · Haiti · Hy Lạp · Cộng hòa Síp* · Lào · Luxembourg · Liban · Madagascar · Mali · Mauritania · Mauritius · Moldova · Monaco · Maroc · Niger · Pháp (bao gồm Guyane thuộc Pháp · Martinique · Saint Pierre và Miquelon) · Tchad · Romania · Rwanda · Saint Lucia · São Tomé và Príncipe · Sénégal · Seychelles · Thụy Sĩ · Togo · Tunisia · Vanuatu · Việt Nam | |
Quan sát viên | ||
* Thành viên liên minh. |
|
|
|
|
USS Indianapolis (CA-35)
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Về những tàu chiến Hoa Kỳ khác mang cùng tên, xin xem USS Indianapolis.
Tàu tuần dương USS Indianapolis (CA-35) tại Trân Châu Cảng vào năm 1937 |
|
Phục vụ (Hoa Kỳ) | |
---|---|
Đặt tên theo: | Indianapolis, Indiana |
Hãng đóng tàu: | New York Shipbuilding, Camden, New Jersey |
Đặt lườn: | 31 tháng 3 năm 1930 |
Hạ thủy: | 7 tháng 11 năm 1931 |
Đỡ đầu bởi: | Lucy Taggart |
Hoạt động: | 15 tháng 11 năm 1932 |
Danh hiệu và phong tặng: |
10 Ngôi sao Chiến đấu |
Số phận: | Bị tàu ngầm Nhật I-58 đánh chìm ngày 30 tháng 7 năm 1945 |
Đặc điểm khái quát | |
Lớp và kiểu: | Lớp tàu tuần dương Portland |
Trọng tải choán nước: | 9.950 tấn |
Độ dài: | 177,4 m (582 ft) mực nước 186 m (610 ft 3 in) chung |
Sườn ngang: | 20,1 m (66 ft 1 in) |
Mớn nước: | 5,2 m (17 ft 1 in) |
Động cơ đẩy: | 4 × Turbine hơi nước Parsons 8 × nồi hơi White-Foster 4 × trục công suất 107.000 mã lực (79,8 MW) |
Tốc độ: | 61 km/h (32,7 knot) |
Tầm xa: | 18.000 km ở tốc độ 28 km/h (10.000 hải lý ở tốc độ 15 knot) |
Thủy thủ đoàn: | 629 (thời bình) 1.269 (thời chiến) |
Vũ trang: | 9 × pháo 203 mm (8 inch)/55 caliber 8 × pháo 127 mm (5 inch)/25 caliber[1] 8 × súng máy M2 Browning 0,50 caliber |
Máy bay mang theo: | 2 × thủy phi cơ OS2U Kingfisher |
Vào ngày 30 tháng 7 năm 1945, không lâu sau khi chuyển giao những bộ phận quan trọng của quả bom nguyên tử đầu tiên sử dụng trong chiến đấu đến căn cứ không quân tại Tinian, chiếc tàu tuần dương trúng phải ngư lôi phóng từ tàu ngầm Nhật I-58, và bị chìm chỉ sau 12 phút. Trong số 1.196 thành viên thủy thủ đoàn hiện diện trên tàu, có khoảng 300 người đã chìm theo nó. Số 800 người còn lại phải đối mặt với đói khát và sự tấn công của cá mập, khi họ trôi nổi chờ đợi được giúp đỡ với rất ít bè cứu sinh và hầu như không có thực phẩm và nước uống. Hải quân Mỹ chỉ biết đến vụ chìm tàu sau khi những người sống sót được một đội bay PV-1 Ventura tuần tra thường xuyên phát hiện bốn ngày sau đó. Chỉ có 316 thủy thủ sống sót.[2] Indianapolis là một trong những tàu chiến Mỹ cuối cùng bị đánh chìm bởi hoạt động thù địch của đối phương trong Chiến tranh Thế giới thứ hai; sau đó chỉ có chiếc tàu ngầm USS Bullhead bị máy bay Nhật tấn công bằng mìn sâu và có lẽ đã chìm vào ngày 6 tháng 8 năm 1945.
Mục lục
Thiết kế và chế tạo
Indianapolis được đặt lườn vào ngày 31 tháng 3 năm 1930 bởi hãng New York Shipbuilding tại Camden thuộc New Jersey. Nó được hạ thủy vào ngày 7 tháng 11 năm 1931; được đỡ đầu bởi Cô Lucy Taggart, con gái cựu Nghị sĩ Thomas Taggart từng là Thị trưởng thành phố Indianapolis; và được đưa ra hoạt động tại Xưởng hải quân Philadelphia vào ngày 15 tháng 11 năm 1932, dưới quyền chỉ huy của Thuyền trưởng, Đại tá Hải quân John M. Smeallie.Lịch sử hoạt động
Giữa hai cuộc thế chiến
Sau chuyến đi chạy thử máy tại Đại Tây Dương và vùng vịnh Guantánamo cho đến ngày 23 tháng 2 năm 1932, Indianapolis tiến hành huấn luyện tại khu vực kênh đào Panama và tại vùng biển Thái Bình Dương ngoài khơi Chile. Sau một đợt đại tu tại Xưởng Hải quân Philadelphia, chiếc tàu tuần dương hạng nặng đi đến Maine để đón Tổng thống Franklin Roosevelt tại đảo Campobello thuộc tỉnh New Brunswick của Canada vào ngày 1 tháng 7 năm 1933. Lên đường cùng ngày hôm đó, Indianapolis đi đến Annapolis, Maryland hai ngày sau nơi nó tiếp đãi sáu thành viên nội các. Sau khi Tổng thống rời tàu, nó rời Annapolis ngày 4 tháng 7 quay trở lại Xưởng Hải quân Philadelphia.Indianapolis hoạt động như là soái hạm trong khoảng thời gian còn lại của giai đoạn phục vụ trong thời bình, một lần nữa đón Tổng thống Roosevelt tại Charleston, Nam Carolina vào ngày 18 tháng 11 năm 1936 cho một chuyến viếng thăm hữu nghị đến các nước Nam Mỹ. Sau khi đưa Tổng thống Roosevelt đến Rio de Janeiro, Buenos Aires và Montevideo cho các cuộc viếng thăm cấp nhà nước, nó quay trở về Charleston vào ngày 15 tháng 12 khi Tổng thống và đoàn tháp tùng rời tàu.
1942
Hoạt động tác chiến đầu tiên của nó trong chiến tranh là tại Nam Thái Bình Dương, sâu trong vùng biển do Nhật Bản chi phối ở khoảng 560 km (350 dặm) về phía Nam Rabaul thuộc New Britain. Xế trưa ngày 20 tháng 2 năm 1942, các tàu chiến Mỹ bị tấn công bởi 18 máy bay ném bom hai động cơ chia thành hai đợt. Trong trận chiến diễn ra sau đó, 16 chiếc trong số đó bị bắn rơi bởi hỏa lực phòng không của các con tàu và máy bay tiêm kích cất cánh từ tàu sân bay Lexington. Mọi con tàu đều vô hại, và họ còn bắn rơi hai thủy phi cơ trinh sát đang bám theo. Vào ngày 10 tháng 3, được tăng cường thêm tàu sân bay Yorktown, Lực lượng Đặc nhiệm đã tấn công các cảng Lae và Salamaua thuộc New Guinea nơi quân Nhật đang tập trung những lực lượng đổ bộ. Máy bay xuất phát từ các tàu sân bay Mỹ đã hoàn toàn gây bất ngờ cho đối phương khi cất cánh từ phía Nam, vượt qua dãy núi cao Owen Stanley để nhào xuống tấn công các tàu bè Nhật Bản. Trong khi gây tổn thất nặng nề cho tàu chiến và tàu vận tải của đối phương, các phi công Mỹ còn bắn rơi nhiều máy bay Nhật tìm cách cất cánh để bảo vệ căn cứ. Thiệt hại về phía Mỹ là nhẹ.Indianapolis sau đó quay trở về Hoa Kỳ để đại tu và cải biến tại Xưởng hải quân Mare Island. Sau đợt tái trang bị, Indianapolis hộ tống một đoàn tàu vận tải đi đến Australia, rồi sau đó hướng khu vực Bắc Thái Bình Dương nơi một tình huống bấp bênh xảy ra do việc quân Nhật đổ bộ lên quần đảo Aleut. Đặc điểm thời tiết dọc theo chuỗi quần đảo khô khan cằn cỗi này là lạnh giá, sương mù dai dẳng và khó dự đoán trước, mưa và mưa tuyết liên tục, cùng những cơn bão bất ngờ với gió hung hãn và biển động mạnh.
Vào ngày 7 tháng 8, lực lượng đặc nhiệm mà Indianapolis được bố trí cuối cùng cũng tìm ra khoảng trống trong màn sương mù dày đặc che phủ các vị trí cố thủ của quân Nhật trên đảo Kiska cùng tàu bè đối phương tại các bờ biển lân cận. Các khẩu pháo 203 mm (8 inch) của Indianapolis đã nả vào tất cả các mục tiêu này. Mặc dù sương mù ngăn trở việc quan sát, báo cáo từ các thủy phi cơ của các tàu tuần dương nhìn thấy tàu bè bị đánh chìm trong cảng và các đám cháy tại các cơ sở trên bờ của đối phương. Cuộc tấn công này tỏ ra hoàn toàn bất ngờ cho đối phương đến mức họ phải mất 15 trước khi các khẩu đội trên bờ tìm cách bắn trả, và một số lại bắn lên không, tin rằng đó là một cuộc không kích. Đa số chúng bị dập tắt bởi hỏa lực chính xác từ các tàu chiến. Sau đó tàu ngầm Nhật Bản xuất hiện, nhưng lập tực bị các tàu khu trục Mỹ đánh mìn sâu, thủy phi cơ Nhật cũng thực hiện những cuộc ném bom không hiệu quả. Các hoạt động này được xem là thành công cho dù chỉ có được những thông tin hiếm hoi về kết quả. Nó cũng cho thấy sự cần thiết phải thiết lập những căn cứ gần hơn các đảo bị Nhật Bản chiếm đóng. Vì vậy, lực lượng Mỹ đã chiếm đóng đảo Adak vào cuối tháng, xây dựng một căn cứ xa hơn phù hợp cho các tàu nổi và máy bay dọc theo chuỗi quần đảo từ cảng Dutch trên đảo Unalaska.
1943
Vào tháng 1 năm 1943, Indianapolis hỗ trợ cho việc chiến đóng Amchitka, cho phép Đồng Minh lập thêm một căn cứ khác trên chuỗi quần đảo Aleut. Trong đêm 19 tháng 2, khi Indianapolis và hai tàu khu trục tuần tra khu vực Tây Nam đảo Attu với hy vọng ngăn chặn tàu bè đối phương tăng cường lực lượng và tiếp liệu cho lực lượng tại Kiska và Attu, nó bắt gặp chiếc tàu hàng Nhật Bản Akagane Maru. Chiếc tàu hàng tìm cách chống trả nhưng đã phải chịu đựng hỏa lực pháo của Indianapolis. Akagane Maru nổ tung với một lực rất mạnh và chìm với toàn bộ thủy thủ đoàn, có thể do nó được chất đầy đạn dược. Trong suốt mùa Xuân và mùa Hè, Indianapolis tiếp tục hoạt động tại vùng biển Aleut hộ tống các đoàn tàu vận tải Mỹ và hỗ trợ cho các cuộc đổ bộ. Vào tháng 5, Đồng Minh tái chiếm Attu, lãnh thổ đầu tiên mà Hoa Kỳ giành lại được từ phần đất bị Nhật Bản chiếm đóng từ đầu chiến tranh. Sau khi Attu được kiểm soát, lực lượng Mỹ tập trung sự chú ý lên Kiska, vị trí cố thủ cuối cùng của đối phương tại Aleut. Tuy nhiên, quân Nhật đã xoay xở tìm các triệt thoái toàn bộ lực lượng trú đóng tại đây dưới sự che chở của sương mù dày đặc và liên tục, trước khi lực lượng Đồng Minh đổ bộ lên đảo này vào ngày 15 tháng 8.Sau khi được tái trang bị tại Xưởng hải quân Mare Island, Indianapolis di chuyển đến Hawaii nơi nó trở thành soái hạm của Phó Đô đốc Raymond A. Spruance, Tư lệnh Đệ Ngũ hạm đội Hoa Kỳ. Nó rời Trân Châu Cảng vào ngày 10 tháng 11 cùng với thành phần chủ lực của Lực lượng Tấn công Phương Nam cho Chiến dịch Galvanic, cuộc đổ bộ chiếm đóng quần đảo Gilbert. Vào ngày 19 tháng 11, Indianapolis bắn pháo xuống đảo san hô Tarawa và ngày hôm sau dội pháo lên Makin. Sau đó chiếc tàu tuần dương quay trở lại Tarawa hoạt động hỗ trợ hỏa lực cho cuộc đổ bộ. Trong ngày hôm đó, hỏa lực phòng không của nó đã bắn rơi một máy bay đối phương, cùng nả pháo lên các điểm cố thủ của đối phương trong khi các đơn vị đã đổ bộ lên bờ chiến đấu chống lại quân trú phòng Nhật Bản trong trận Tarawa đẫm máu và tốn kém. Nó tiếp tục vai trò này cho đến khi hòn đảo được tuyên bố kiểm soát ba ngày sau đó. Việc chinh phục quần đảo Marshall được tiếp nối một cách khó nhọc bằng chiến thắng tại quần đảo Gilbert. Indianapolis một lần nữa trở thành soái hạm của Hạm đội 5.
1944
Chiếc tàu tuần dương gặp gỡ các tàu chiến khác trong lực lượng đặc nhiệm của nó tại Tarawa, và một ngày trước ngày đổ bộ Kwajalein, 31 tháng 1 năm 1944, nó nằm trong lực lượng đội tàu tuần dương làm nhiệm vụ tấn công đảo san hô Kwajalein. Việc bắn pháo tiếp tục trong ngày đổ bộ khi hỏa lực của Indianapolis tiêu diệt được hai khẩu đội pháo trên bờ. Ngày tiếp theo, nó xóa sổ một công sự phòng thủ và các mục tiêu khác, cùng hỗ trợ cho lực lượng trên bờ tiến quân. Chiếc tàu chiến tiến vào vũng biển Kwajalein vào ngày 4 tháng 2, và ở lại đó cho đến khi mọi sự đề kháng bị dập tắt.Trong tháng 3 và tháng 4, tiếp tục đảm nhận vai trò soái hạm của Hạm đội 5, Indianapolis tham gia tấn công quần đảo Tây Caroline. Máy bay từ tàu sân bay đã tấn công quần đảo Palau trong các ngày 30–31 tháng 3 chủ yếu nhắm vào tàu bè Nhật. Chúng đã đánh chìm ba tàu khu trục, 17 tàu hàng, năm tàu chở dầu và làm hư hại 17 tàu khác. Ngoài ra, các sân bay bị ném bom và các vùng biển lân cận bị rải mìn để trói chân tàu chiến đối phương. Yap và Ulithi bị tấn công vào ngày 31 tháng 3 và Woleai vào ngày 1 tháng 4. Trong ba ngày đó, máy bay Nhật đã phản công vào hạm đội Mỹ nhưng bị đánh trả mà không gây được thiệt hại nào cho các tàu chiến Mỹ; Indianapolis bắn rơi chiếc máy bay đối phương thứ hai, một chiếc ném bom-ngư lôi, và quân Nhật mất tổng cộng 160 máy bay, bao gồm 46 chiếc bị phá hủy trên mặt đất. Các cuộc tấn công này đã thành công trong việc ngăn chặn lực lượng Nhật Bản tại Caroline can thiệp vào cuộc đổ bộ của quân Mỹ lên New Guinea.
Trong tháng 6, Hạm đội 5 bận rộn với việc tấn công lên quần đảo Mariana. Cuộc công kích lên Saipan bắt đầu bởi những máy bay xuất phát từ tàu sân bay vào ngày 11 tháng 6, rồi tiếp nối bằng lực lượng tàu nổi từ ngày 13 tháng 6, trong đó Indianapolis đảm trách vai trò chủ lực. Đúng ngày đổ bộ 15 tháng 6, Đô đốc Spruance nhận được báo cáo về một hạm đội Nhật Bản lớn bao gồm thiết giáp hạm, tàu sân bay, tàu tuần dương và tàu khu trục đang hướng về phía Nam để giải tỏa áp lực đe dọa các lực lượng của họ đang trú đóng tại Mariana. Vì các hoạt động đổ bộ tại Saipan phải được bảo vệ bằng mọi giá, Đô đốc Spruance không thể kéo lực lượng tàu nổi mạnh mẽ của mình quá xa nơi đổ bộ. Vì vậy, một lực lượng tàu sân bay nhanh đã được tung ra đối phó với mối đe dọa của hạm đội Nhật trong khi một lực lượng khác tấn công các căn cứ không quân Nhật Bản tại Iwo Jima và Chichi Jima tại Bonin và quần đảo Volcano, những nơi có khả năng xuất phát các cuộc không kích của đối phương.
Hạm đội phối hợp Mỹ đã đối đầu với Hạm đội Nhật vào ngày 19 tháng 6 trong Trận chiến biển Philippine. Máy bay từ tàu sân bay Nhật, hy vọng sử dụng các sân bay tại Guam và Tinian để tiếp nhiên liệu và tái vũ trang để tấn công tàu bè Đồng Minh gần bờ, đã bị ngăn chặn bởi máy bay tiêm kích và hỏa lực pháo của các tàu Đồng Minh hộ tống. Ngày hôm đó, Hải quân Mỹ báo cáo đã diệt được 426 máy bay Nhật trong khi chỉ bị tổn thất 29 chiếc.[3] Bản thân Indianapolis bắn rơi một máy bay ném bom-ngư lôi. Cuộc không chiến trong ngày này đã được hạm đội Mỹ biết đến dưới tên gọi "Cuộc săn vịt trời Marianas vĩ đại". Khi sự kháng cự bằng không quân của Nhật bị quét sạch, máy bay từ tàu sân bay Mỹ đã truy đuổi và đánh chìm tàu sân bay Hiyō, hai tàu khu trục và một tàu chở dầu cũng như gây hư hại nặng cho nhiều chiếc khác. Hai tàu sân bay khác Taihō và Shōkaku trước đó đã bị tàu ngầm đánh chìm.
Indianapolis quay trở lại Saipan vào ngày 23 tháng 6 để tiếp tục các hoạt động hỗ trợ pháo tại đây, và sáu ngày sau đó di chuyển đến Tinian tiêu diệt các công trình phòng thủ trên bờ. Trong thời gian đó, Guam bị chiếm lĩnh; và Indianapolis là chiếc tàu Đồng Minh đầu tiên tiến vào cảng Apra kể từ khi căn cứ Mỹ tại đây thất thủ vào đầu chiến tranh. Chiếc tàu tuần dương tiếp tục hoạt động tại quần đảo Mariana trong vài tuần lễ tiếp the sau cho đến khi di chuyển đến Tây Caroline nơi có kế hoạch cho các cuộc đổ bộ tiếp theo. Từ ngày 12 đến ngày 29 tháng 9, nó bắn pháo xuống đảo Peleliu trong nhóm đảo Palau Group, cả trước và sau khi diễn ra cuộc đổ bộ. Sau đó nó di chuyển đến đảo Manus thuộc quần đảo Admiralty nơi nó hoạt động trong 10 ngày trước khi quay trở về Xưởng hải quân Mare Island.
1945
Sau khi hoàn tất việc đại tu, Indianapolis gia nhập lực lượng đặc nhiệm tàu sân bay nhanh của Phó Đô đốc Marc A. Mitscher vào ngày 14 tháng 2 năm 1945. Hai ngày sau, lực lượng đặc nhiệm tung ra cuộc không kích nhắm vào Tokyo để hỗ trợ cho cuộc đổ bộ lên Iwo Jima, được dự định vào ngày 19 tháng 2. Đây là cuộc tấn công đầu tiên bằng tàu sân bay vào chính quốc Nhật Bản kể từ cuộc Không kích Doolittle năm 1942, với mục đích tiêu diệt các căn cứ không quân Nhật Bản cùng các cơ sở khác của "chính quốc". Hạm đội đã đạt được sự bất ngờ chiến thuật hoàn toàn do đã tiếp cận bờ biển Nhật Bản dưới sự che chở của thời tiết xấu. Cuộc tấn công đã diễn ra căng thẳng trong hai ngày; Hải quân Mỹ bị mất 49 máy bay trong khi đã bắn rơi hay tiêu diệt được 499 máy bay đối phương, đạt một tỉ lệ tiêu diệt/thiệt hại 10:1. Lực lượng đặc nhiệm cũng đánh chìm một tàu sân bay, chín tàu tuần duyên, một tàu khu trục, hai tàu khu trục hộ tống và một tàu hàng. Chúng đã phá hủy các kho chứa máy bay, xưởng bảo trì, các cơ sở không quân, nhà máy cùng các mục tiêu công nghiệp khác.Ngay sau trận không kích, Lực lượng đặc nhiệm gấp rút đi đến Bonin để hỗ trợ cho cuộc đổ bộ lên Iwo Jima. Chiếc tàu tuần dương ở lại đó cho đến ngày 1 tháng 3, bảo vệ tàu bè đổ bộ và bắn phá các mục tiêu trên bờ hỗ trợ trực tiếp cho cuộc đổ bộ và tiến quân. Indianapolis quay trở lại lực lượng đặc nhiệm của Đô đốc Mitscher kịp lúc để tham gia một đợt không kích khác xuống Tokyo vào ngày 25 tháng 3, và nhắm vào Hachijo ngoài khơi bờ biển phía Nam đảo Honshū vào ngày hôm sau. Cho dù thời tiết cực kỳ xấu, lực lượng mỹ đã tiêu diệt được 158 máy bay và đánh chìm năm tàu nhỏ trong khi phá hủy các cơ sở trên bờ và tiêu diệt các đoàn tàu hỏa.
Mục tiêu tiếp theo của lực lượng Mỹ là Okinawa thuộc quần đảo Ryukyu, vốn nằm trong tầm hoạt động của máy bay xuất phát từ các đảo chính quốc. Lực lượng đặc nhiệm tàu sân bay nhanh được giao nhiệm vụ vô hiệu hóa các sân bay tại miền Nam Nhật Bản cho đến khi chúng không còn có thể tung ra những sự kháng cự trên không hiệu quả vào cuộc đổ bộ sắp đến. Họ lên đường từ Ulithi vào ngày 14 tháng 3 hướng đến Nhật Bản. Vào ngày 18 tháng 3, nó tung ra cuộc tấn công từ một vị trí cách 160 km (100 dặm) về phía Đông Nam đảo Kyūshū, nhắm vào mục tiêu là các sân bay trên đảo Kyūshū cũng như những tàu bè còn lại của hạm đội Nhật Bản trong các cảng Kobe và Kure ở phía Nam Honshū. Nhật Bản phát hiện ra lực lượng đặc nhiệm Mỹ vào ngày 21 tháng 3, đã tung ra 48 máy bay tấn công các con tàu. Lực lượng tuần tra chiến đấu trên không gồm 24 máy bay tiêm kích đã đánh chặn và bắn rơi toàn bộ số máy bay Nhật Bản.
Cuộc bắn phá chuẩn bị xuống Okinawa bắt đầu vào ngày 24 tháng 3. Indianapolis trải qua 7 ngày rải đạn pháo 203 mm (8 inch) xuống các công sự phòng thủ tại các bãi đổ bộ. Trong thời gian này, máy bay đối phương liên tục tấn công các tàu bè Mỹ. Bản thân Indianapolis đã bắn rơi sáu máy bay và làm hư hại hai chiếc khác. Ngày 31 tháng 3, quan sát viên trên tàu phát hiện một máy bay tiêm kích đối phương ló ra khỏi ánh sáng buổi bình minh và bổ nhào xuống cầu tàu theo hướng thẳng đứng. Các khẩu đội phòng không 20 mm của con tàu khai hỏa, nhưng trong vòng 15 giây chiếc máy bay đã ở bên trên con tàu. Hỏa lực phòng không ác liệt đã khiến nó bị chệch đi, nhưng viên phi công đối phương đã xoay xở cắt bom từ độ cao 8 m (25 ft) trước khi đâm máy bay của mình xuống mặt biển gần mạn trái đuôi tàu. Quả bom xuyên qua sàn tàu, đi ngang qua phòng ăn và chỗ ngủ của thủy thủ đoàn trước khi xuyên thủng thùng chứa nhiên liệu rồi xuyên luôn qua đáy tàu và phát nổ dưới nước bên dưới tàu. Vụ nổ rung động làn thủng hai lổ trên lườn tàu và làm thiệt mạng chín thành viên thủy thủ đoàn. Những vách ngăn của lườn tàu đã ngăn chặn được sự ngập nước lan rộng. Indianapolis bị nghiêng nhẹ qua mạn trái và về phía đuôi, di chuyển đến gặp gỡ chiếc tàu sửa chữa thực hiện các sửa chữa khẩn cấp. Tại đây đã xác định các trục chân vịt bị hư hại, vỡ thùng chứa nhiên liệu và hỏng thiết bị tinh lọc nước. Chiếc tàu tuần dương phải thực hiện chuyến hành trình dài vượt Thái Bình Dương quay trở về Xưởng hải quân Mare Island bằng chính động lực của nó.
Bị mất
Sau khi hoàn tất việc sửa chữa và đại tu, Indianapolis được lệnh đi đến đảo Tinian, mang theo các linh kiện và nguyên liệu Uranium cho trái bom nguyên tử Little Boy mà sau đó sẽ được ném xuống Hiroshima. Indianapolis rời San Francisco vào ngày 16 tháng 7, đi đến Trân Châu Cảng vào ngày 19 tháng 7, rồi lại lên đường một mình không tàu hộ tống đến Tinian vào ngày 26 tháng 7. Sau đó Indianapolis được gửi đến Guam, nơi một số thành viên thủy thủ đoàn mãn hạn phục vụ được thay thế bởi các thủy thủ khác. Rời Guam ngày 28 tháng 7, nó bắt đầu di chuyển hướng đến Leyte nơi dự định tiến hành huấn luyện trước khi tiếp tục đi đến Okinawa gia nhập Lực lượng Đặc nhiệm 95 dưới quyền Phó Đô đốc Jesse B. Oldendorf. Lúc 00 giờ 14 phút ngày 30 tháng 7, nó bị đánh trúng hai quả ngư lôi từ tàu ngầm Nhật I-58 dưới quyền chỉ huy của Mochitsura Hashimoto. Các vụ nổ đã gây hư hại nghiêm trọng, khiến Indianapolis bị chìm chỉ trong 12 phút. Chiếc tàu ngầm Nhật đã tiếp cận mà không bị phát hiện trước khi tấn công vì chiếc tàu chiến Mỹ không có các thiết bị dò tìm tàu ngầm hiệu quả.Khoảng 300 người trong số 1.196 thành viên thủy thủ đoàn thiệt mạng do vụ chìm tàu. Số 880 người còn lại, với một ít bè cứu sinh và nhiều người thậm chí không có áo phao, nổi trên mặt nước chờ đợi được cứu vớt.[4] Tuy nhiên, các cấp chỉ huy Hải quân đã không nhận được tin tức gì về việc nó bị đánh chìm, do việc nó không tới được điểm đến vào ngày dự định không được ghi nhận và báo cáo. Những người còn sống sót chỉ được phát hiện sau đó bốn ngày rưỡi, lúc 10 giờ 25 phút ngày 2 tháng 8 bởi phi công Đại úy Wilbur (Chuck) Gwinn và phi công phụ Đại úy Warren Colwell trong một chuyến bay tuần tra thường lệ.[5] Chỉ có 321 người được vớt lên khỏi nước còn sống, và sau cùng chỉ còn 316 người sống sót. Họ bị thiếu hụt nước và thực phẩm, một số tìm được ít khẩu phần và đồ hộp trong các mảnh vụn trôi nổi, trong khi phải chịu đựng tình trạng giảm nhiệt, mất nước, ngộ độc muối, phơi nắng, đói và bị cá mập tấn công, trong khi một số bị những người khác tấn công trong những tình trạng mất trí, mê sảng và ảo giác khác nhau.[6] Kênh truyền hình Discovery Channel khẳng định việc chiếc Indianapolis bị đắm đã đưa đến một trong những cuộc tấn công của cá mập nhắm vào con người lớn nhất trong lịch sử, do loài cá mập mũi trắng đại dương thực hiện. Chương trình này cũng cho rằng hầu hết các trường hợp thiệt mạng của Indianapolis đều do phơi nắng, ngộ độc muối và khát nước, và xác những người chết bị cá mập lôi đi.
Gwinn lập tức cho thả một bè cứu sinh và một máy phát sóng vô tuyến. Mọi đơn vị không lực và hải quân có khả năng hoạt động ứng cứu đều được cho tách ra đi đến hiện trường ngay lập tức. Một thủy phi cơ PBY Catalina do Đại úy R. Adrian Marks được gửi đến để trợ giúp và báo cáo.[5] Trên đường bay đến nơi xảy ra sự cố, Marks bay bên trên tàu khu trục hộ tống Cecil J. Doyle và đã ra tín hiệu cho thuyền trưởng của nó, Bộ trưởng hải quân Hoa Kỳ tương lai, Đại tá Hải quân W. Graham Claytor, Jr. về tình trạng khẩn cấp. Bằng sáng kiến của riêng mình, Claytor quyết định chuyển hướng đến nơi xảy ra tai nạn.
Đến hiện trường nhiều giờ trước chiếc Cecil J. Doyle, đội bay của Marks bắt đầu thả các bè cứu sinh và tiếp liệu. Trông thấy thủy thủ bị cá mập tấn công, Marks bất chấp mọi quy định thường lệ cho hạ cánh máy bay xuống mặt biển. Ông bắt đầu đi chậm trên mặt biển vớt những người bơi riêng lẻ vốn chịu nguy cơ bị cá mập tấn công cao nhất.[5] Biết được họ là thủy thủ đoàn của tàu tuần dương Indianapolis, ông gọi điện thông báo tin tức và yêu cầu được trợ giúp ngay lập tức. Cecil J. Doyle trả lời đang lúc nó trên đường đi. Khi thân máy bay của Marks đã chất đầy người, những người còn sống sót sau đó được buộc vào cánh máy bay bằng dây dù, nặng đến mức gây hư hỏng cho đôi cánh khiến nó không còn có thể bay được và phải bị đánh chìm.[5] Marks và đội bay của ông đã cứu được 56 người trong ngày hôm đó.[5]
USS Cecil J. Doyle là chiếc tàu đầu tiên đến được hiện trường.[5] Tiếp cận chiếc Catalina của Marks trong bóng đen hoàn toàn, Cecil J. Doyle phải dừng lại để tránh gây tổn thương cho những người còn sống sót, và bắt đầu cho chuyển những người còn sống sót của Marks lên tàu. Bất chấp sự an toàn cho chính con tàu của mình, Claytor cho hướng thẳng đèn pha tìm kiếm sáng nhất của tàu mình lên trời phục vụ như một cột mốc dẫn đường cho các tàu ứng cứu khác.[5] Dấu hiệu này cũng nhằm thông báo cho đa số những người còn sống là lực lượng tiếp cứu đã đến nơi.[5]
Các tàu khu trục Helm, Madison và Ralph Talbot đã nhận được lệnh đi tiếp cứu từ Ulithi, cùng với những chiếc Dufilho, Bassett và Ringness từ hướng Philippines. Họ đã nỗ lực truy tìm những người có cơ may sống sót cho đến ngày 8 tháng 8.
Thiếu sót của Hải quân trong việc chìm tàu
Ngay trước lúc xảy ra cuộc tấn công, biển động trung bình, và tầm nhìn dao động nhưng nhìn chung là xấu. Indianapolis di chuyển ở tốc độ 31,5 km/h (17 knot). Khi con tàu không đến được Leyte vào ngày 31 tháng 7 theo lịch trình, đã không có báo cáo nào về việc con tàu bị chậm trễ. Đó là do một sự hiểu nhầm trong Hệ thống Báo cáo Di chuyển.Các bảng sơ đồ hành quân được lưu giữ tại các bộ chỉ huy của Tư lệnh Mariana tại Guam và của Tư lệnh Mặt trận biển Philippine tại Leyte. Trên các sơ đồ này, vị trí của mọi con tàu mà bộ tư lệnh quan tâm đều được đánh dấu. Tuy nhiên, đối với những tàu chiến lớn như cỡ Indianapolis, người ta giả định là con tàu sẽ đi tới điểm đến đúng giờ, trừ khi có báo cáo khác. Do đó, vị trí của chúng chỉ dựa trên suy luận mà không căn cứ vào báo cáo. Vào ngày 31 tháng 7, khi nó được cho là đã đến Leyte, Indianapolis được rút khỏi sơ đồ hành quân tại bộ chỉ huy của Tư lệnh Mariana. Nó cũng được ghi nhận là đã đến Leyte bởi bộ chỉ huy của Tư lệnh Mặt trận biển Philippine. Đại úy Hải quân Stuart B. Gibson, Sĩ quan Hành quân dưới quyền Tư lệnh cảng tại Tacloban, là sĩ quan chịu trách nhiệm theo dõi sự di chuyển của Indianapolis. Việc con tàu không có mặt đúng hạn lập tức được Đại úy Gibson biết đến, nhưng đã không điều tra sự việc và không báo cáo ngay lập tức vấn đề này cho cấp trên.[7]
Indianapolis đã gửi tín hiệu cầu cứu trước khi chìm, và ba trạm đã nhận được tín hiệu này, nhưng đã không thực hiện bất kỳ hành động nào. Một viên chỉ huy uống rượu, người khác ra lệnh cho thuộc cấp không được quấy rầy và một người thứ ba cho đó là trò đùa của quân Nhật.[8] Trong một thời gian dài, Hải quân đã phủ nhận việc tín hiệu cầu cứu đã được gửi đi. Việc thu nhận được tín hiệu cầu cứu chỉ được đưa ra ánh sáng sau khi công bố các tài liệu hết hạn bảo mật.
Diễn biến tiếp theo
Đại tá Hải quân Charles Butler McVay III, người chỉ huy Indianapolis từ tháng 11 năm 1944, đã sống sót khi bị chìm tàu và nằm trong số những người được cứu sống những ngày sau đó. Vào tháng 11 năm 1945, ông bị đưa ra xét xử tại tòa án quân sự và bị kết tội "đặt con tàu của mình vào tình trạng nguy hiểm vì đã không chạy zigzag." Nhiều điểm được đưa ra tại tòa án đầy mâu thuẫn và tranh cãi. Có chứng cứ cho thấy Hải quân đã đặt con tàu vào tình thế nguy hiểm, mệnh lệnh dành cho McVay "chạy zigzag theo ý mình, nếu như điều kiện cho phép." Hơn nữa, Mochitsura Hashimoto, chỉ huy của I-58, chứng nhận rằng chạy zigzag cũng không tạo ra sự khác biệt nào.[9]Thủy sư Đô đốc Chester Nimitz đã ân xá bản án của McVay và đưa ông trở lại phục vụ thường trực trong Hải quân. McVay nghỉ hưu vào năm 1949.[10] Trong khi nhiều người còn sống sót trên chiếc Indianapolis cho rằng McVay không phải chịu trách nhiệm về việc chiếc tàu chiến bị đánh chìm, gia đình một số người tử nạn đã không tha thứ. Cảm giác tội lỗi đè nặng lên vai ông cho đến khi ông tự tử vào năm 1968, sử dụng khẩu súng lục Hải quân được cấp, trên tay còn cầm một người thủy thủ đồ chơi.[11]
Vào tháng 10 năm 2000, Quốc hội Hoa Kỳ thông qua một nghị quyết xác định những ghi chép về Đại tá Hải quân McVay khẳng định "ông được miễn mọi trách nhiệm trong việc mất chiếc Indianapolis." Tổng thống Bill Clinton đã ký vào nghị quyết này.[12] Nghị quyết ghi nhận rằng mặc dù hàng trăm tàu chiến Hải quân Mỹ đã bị mất trong Chiến tranh Thế giới thứ hai, McVay là thuyền trưởng duy nhất bị xét xử tại tòa án quân sự và tàu của mình bị chìm.[13]
Phần thưởng
Indianapolis được tặng thưởng 10 Ngôi sao Chiến đấu do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II.Xác tàu đắm
Vị trí chính xác nơi Indianapolis bị đám không được biết rõ. Trong tháng 7-tháng 8 năm 2001, một cuộc thám hiểm công bố đã tìm thấy xác tàu đắm nhờ sử dụng sonar quét bên và máy ảnh dưới nước gắn trên thiết bị lặn điều khiển từ xa. Bốn thành viên Indianapolis còn sống sót đã tháp tùng theo cuộc thám hiểm, nhưng nó đã thất bại. Đến tháng 6 năm 2005, một cuộc thám hiểm thứ hai được tổ chức để tìm nơi đắm tàu; nó được kênh truyền hình National Geographic theo dõi và công bố kết quả vào tháng 7 trong loạt chương trình Finding of the USS Indianapolis. Những thứ duy nhất tìm thấy, không thể xác định rằng có thuộc về Indianapolis hay không, là nhiều mảnh vụn kim loại được tìm thấy tại nơi được báo cáo nó đã bị chìm.Tưởng niệm
Đài tưởng niệm Quốc gia USS Indianapolis[14] được khánh thành vào ngày 2 tháng 8 năm 1995. Nó tọa lạc ở Canal Walk thuộc Indianapolis. Hình ảnh chiếc tàu tuần dương hạng nặng được tái tạo bằng đá vôi và đá granite, đặt bên cạnh con kênh tại trung tâm thành phố. Danh sách thành viên thủy thủ đoàn được khắc trên đài tưởng niệm, với chú thích đặc biệt cho những người đã thiệt mạng.Một số hiện vật có liên quan đến Indianapolis được lưu giữ tại Bảo tàng Tiểu bang Indiana; chiếc chuông của nó hiện đang ở tại Bảo tàng vũ khí hải quân Heslar. Trung tâm huấn luyện bơi lội của Bộ chỉ huy Huấn luyện Tuyển mộ Hải quân Hoa Kỳ được đặt tên theo USS Indianapolis. Bảo tàng USS Indianapolis được khai trương ngày 7 tháng 7 năm 2007 tại Indiana World War Memorial Plaza.
Văn hóa đại chúng
Trong bộ phim Hàm cá mập (Jaws) của đạo diễn Steven Spielberg năm 1975, nhân vật Sam Quint (do Robert Shaw đóng) tự nhận là một người sống sót từ chiếc USS Indianapolis, và viếc chiến đấu để sinh tồn chống lại sự tấn công của cá mập trong khi chờ đợi được giải cứu là một phần của động cơ thúc đẩy ông theo đuổi cuộc đời của một người săn cá mập.Xem thêm
- Danh sách tàu chiến Hải quân Hoa Kỳ bị mất trong Thế Chiến II
- Danh sách tàu tuần dương của Hải quân Hoa Kỳ
Tham khảo
Chú thích
- ^ Fahey 1941 trang 9.
- ^ http://www.ussindianapolis.org/crew.htm
- ^ Marianas Turkey Shoot
- ^ Lewis L. Haynes (Jul.-Aug. 1995). “Recollections of the sinking of USS Indianapolis (CA-35) by CAPT Lewis L. Haynes, MC (Medical Corps) (Ret.), the senior medical officer on board the ship.”. Navy Medicine. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2009.
- ^ a ă â b c d đ e Marks (tháng 4 năm 1981) trang 48-50
- ^ In Harm's Way: The Sinking of the USS Indianapolis and the Extraordinary Story of Its Survivors
- ^ “The Sinking of USS Indianapolis: Navy Department Press Release, Narrative of the Circumstances of the Loss of USS Indianapolis, 23 tháng 2 năm 1946”. US Navy. 23 tháng 2 năm 1946. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2008.
- ^ Timothy W. Maier (5 tháng 6 năm 2000). “For The Good of the Navy”. Insight on the News. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 7 năm 2012. Truy cập ngày 13 tháng 7 năm 2008.
- ^ Commander Hashimoto's testimony from www.ussindianapolis.org
- ^ Biography of Admiral McVay from www.ussindianapolis.org
- ^ Admiral McVay's suicide
- ^ McVay's exoneration from www.ussindianapolis.org]
- ^ Legislation exonerating Captain McVay
- ^ USS Indianapolis National Memorial
Thư mục
- Bài này có các trích dẫn từ nguồn en:Dictionary of American Naval Fighting Ships thuộc phạm vi công cộng.
- Fahey, James C. (1941). The Ships and Aircraft of the U.S. Fleet, Two-Ocean Fleet Edition. Ships and Aircraft.
- David Harrell (as told by Edgar Harrell), Out of the Depths. 2005. ISBN 1-59781-166-1
- Raymond B. Lech, All the Drowned Sailors, Jove Books, New York, ASIN: B000UE9796
- Marks, R. Adrian (tháng 4 năm 1981). America was Well Represented. United States Naval Institute Proceedings.
- Richard F. Newcomb, "Abandon Ship!: The Saga of the U.S.S. Indianapolis, the Navy's Greatest Sea Disaster" ISBN 0-06-018471-X
- Doug Stanton, In Harm's Way: The Sinking of the USS Indianapolis and the Extraordinary Story of Its Survivors ISBN 0-8050-7366-3
Liên kết ngoài
- Phương tiện liên quan tới USS Indianapolis (CA-35) tại Wikimedia Commons
- Official Museum website
- USS Indianapolis Survivors Organization
- Photographs of Indianapolis
- Allied Warships: USS Indianapolis (CA 35), Heavy cruiser of the Portland class
- USS INDIANAPOLIS COLLECTION, 1898-1991 — an "artificially-created" collection of materials regarding the history of the heavy cruiser USS Indianapolis (CA 35).
|
http://www.youtube.com/user/hoangkimvietnam
Trở về trang chính
Hoàng Kim, hoangkim, hoangkimvietnam, Ngọc Phương Nam, Chào ngày mới Thung dung, Dạy và học, Cây Lương thực, Tin Nông nghiệp Việt Nam, Food Crops, Cassava in Vietnam, Khát khao xanh, Dayvahoc,Học mỗi ngày, Danh nhân Việt , Food Crops News, Điểm chính, CNM365, Kim LinkedIn, KimTwitter, KimFaceBook Đọc lại và suy ngẫm, Việt Nam tổ quốc tôi, Tình yêu cuộc sống, Thơ cho con
No comments:
Post a Comment