CNM365 Chào ngày mới 28 tháng 7 Wikipedia Ngày này năm xưa. Ngày Phòng chống Viêm gan Thế giới; ngày Quốc khánh tại Peru (1821). Năm 1794 – Một lãnh đạo Cách mạng Pháp là Maximilien de Robespierre (hình) bị xử tử cùng 21 người khác tại Paris, Pháp. Năm 1914 – Đế quốc Áo-Hung tuyên chiến với Serbia một tháng sau vụ ám sát thái tử Áo-Hung, Chiến tranh thế giới thứ nhất chính thức bùng nổ. Năm 1976 – Động đất 8,3 độ richter xảy ra ở Đường Sơn, Hà Bắc, Trung Quốc, khiến hàng trăm nghìn người thiệt mạng và bị thương. Năm 1990 – Alberto Fujimori chính thức nhậm chức tổng thống Peru, trở thành người gốc Nhật đầu tiên đứng đầu một nhà nước ở Mỹ Latinh.
Peru
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Cộng hoà Peru | |||||
---|---|---|---|---|---|
República del Perú (tiếng Tây Ban Nha) | |||||
|
|||||
Quốc ca | |||||
"Himno Nacional del Perú" (tiếng Tây Ban Nha) "Quốc ca Peru" |
|||||
Hành chính | |||||
Chính phủ | Cộng hòa | ||||
Tổng thống | Ollanta Humala | ||||
Thủ tướng | René Cornejo | ||||
Ngôn ngữ chính thức | Tây Ban Nha | ||||
Thủ đô | Lima |
||||
Thành phố lớn nhất | thủ đô | ||||
Địa lý | |||||
Diện tích | 1.285.216 km² 496.225 mi² (hạng thứ 20) |
||||
Diện tích nước | 0,41 % | ||||
Múi giờ | PET (UTC−5) | ||||
Lịch sử | |||||
28 tháng 7, 1821 | Tuyên bố | ||||
9 tháng 12, 1824 | Thống nhất | ||||
14 tháng 8, 1879 | Công nhận | ||||
Dân cư | |||||
Tên dân tộc | Người Peru | ||||
Dân số ước lượng (2013) | 30.475.144 người (hạng thứ 40) | ||||
Dân số (2007) | 28.220.764 người | ||||
Mật độ | 23 người/km² (hạng 191) | ||||
Kinh tế | |||||
GDP (PPP) (2014) | Tổng số: $370,735 tỉ USD[1] Bình quân đầu người: 11.797 USD[1] |
||||
GDP (danh nghĩa) (2014) | Tổng số: 220,564 tỷ USD[1] Bình quân đầu người: 7.019 USD[1] |
||||
HDI (2010) | 0,723[2] cao (hạng thứ 63) | ||||
Hệ số Gini (2009) | ▼48[3] (cao) | ||||
Đơn vị tiền tệ | Nuevo Sol (PEN ) |
||||
Thông tin khác | |||||
Tên miền Internet | .pe | ||||
Mã điện thoại | +51 | ||||
Lái xe bên | phải | ||||
Quechua, Aymara và các ngôn ngữ thiểu số khác là ngôn ngữ đồng chính thức tại các địa phương mà chúng chiếm ưu thế. |
Lãnh thổ Peru là quê hương của nhiều nền văn hóa cổ đại, trải dài từ văn minh Norte Chico- một trong các nền văn minh cổ xưa nhất trên thế giới, đến Đế quốc Inca- quốc gia lớn nhất châu Mỹ thời kỳ tiền Colombo. Đế quốc Tây Ban Nha chinh phục khu vực vào thế kỷ 16 và thiết lập một phó vương quốc với thủ đô tại Lima. Sau khi giành được độc lập vào năm 1821, Peru trải qua các giai đoạn bất ổn định chính trị và khủng hoảng ngân sách, cũng như các giai đoạn ổn định và kinh tế tiến bộ.
Peru là một nước cộng hòa dân chủ đại nghị, được chia thành 25 vùng. Địa lý Peru biến đổi từ các đồng bằng khô hạn ở vùng duyên hải Thái Bình Dương đến các đỉnh của dãy Andes và các khu rừng nhiệt đới ở bồn địa Amazon. Peru là một quốc gia đang phát triển, có chỉ số phát triển con người ở mức cao và mức nghèo là khoảng 25,8%.[4] Các hoạt động kinh tế chính của quốc gia gồm có khai mỏ, chế tạo, nông nghiệp và ngư nghiệp.
Peru là quốc gia đa dân tộc, với dân số ước tính là 30,4 triệu, thành phần dân tộc bao gồm người da đỏ, người gốc Âu, người gốc Phi và người gốc Á. Ngôn ngữ chính được nói là tiếng Tây Ban Nha, song một lượng đáng kể người Peru nói tiếng Quechua hay các ngôn ngữ bản địa khác. Sự kết hợp của các truyền thống văn hóa khiến cho Peru có sự đa dạng lớn trên các lĩnh vực như nghệ thuật, ẩm thực, văn chương, và âm nhạc.
Mục lục
Từ nguyên
Từ Peru có khởi nguyên trong các ngôn ngữ khác nhau ở nam bộ Pháp và tây bắc bộ Tây Ban Nha và cũng tìm thấy tại xứ Corse, tuy nhiên đối với người châu Âu, từ Peru là phù hợp nhất để thay thế tên gọi nguyên bản Birú, là tên của một quân chủ bản địa sống vào đầu thế kỷ 16 gần vịnh San Miguel thuộc Panama ngày nay.[5] Khi các nhà thám hiểm Tây Ban Nha đến thăm lãnh thổ của ông vào năm 1522, đó là phần cực nam của Tân Thế giới mà người châu Âu biết đến.[6] Do đó, khi Francisco Pizarro khám phá khu vực ở xa hơn về phía nam, chúng được đặt tên là Birú hay Peru.[7]Vương quốc Tây Ban Nha trao cho tên gọi này địa vị pháp lý trong Capitulación de Toledo năm 1529, theo đó gọi tên Đế quốc Inca là tỉnh Peru.[8] Dưới sự cai trị của Tây Ban Nha, quốc gia nhận tên gọi Phó vương quốc Peru, và trở thành nước Cộng hòa Peru sau chiến tranh giành độc lập.
Lịch sử
Các bằng chứng sớm nhất về sự hiện diện của con người tại lãnh thổ Peru có niên đại khoảng 9.000 năm TCN.[9] Xã hội phức tạp cổ nhất được biết đến tại Peru là văn minh Norte Chico, nền văn minh này hưng thịnh dọc theo bờ biển Thái Bình Dương trong khoảng từ 3.000 đến 1.800 TCN.[10] Theo sau những phát triển ban đầu này là các nền văn hóa khảo cổ học như Cupisnique, Chavin, Paracas, Mochica, Nazca, Wari, và Chimú. Vào thế kỷ 15, người Inca nổi lên thành một quốc gia hùng mạnh, tạo thành đế quốc lớn nhất châu Mỹ thời kỳ tiền Colombo, Đế quốc Inca tồn tại gần một thế kỷ.[11] Các xã hội Andes dựa vào nông nghiệp, sử dụng các kỹ thuật như thủy lợi và ruộng bậc thang; chăn nuôi lạc đà và ngư nghiệp cũng là hoạt động quan trọng. Tổ chức xã hội dựa trên sự hỗ thù và tái phân phối do các xã hội này không có khái niệm về thị trường hay tiền tệ.[12]Vào tháng 12 năm 1532, một toán conquistador dưới quyền chỉ huy của Francisco Pizarro đánh bại và bắt giữ Hoàng đế Inca Atahualpa. Mười năm sau, Vương quốc Tây Ban Nha thiết lập Phó vương quốc Peru để quản lý hầu hết các thuộc địa tại Nam Mỹ của họ.[13] Phó vương Francisco de Toledo tái tổ chức quốc gia trong thập niên 1570, hoạt động kinh tế chính là khai mỏ bạc và nguồn lao động chính là những lao động cưỡng bức người da đỏ.[14]
Các thoi bạc của Peru cung cấp thu nhập cho Vương quốc Tây Ban Nha và thúc đẩy một mạng lưới mậu dịch phức tạp trải rộng đến tận châu Âu và Philippines.[15] Tuy nhiên, vào thế kỷ 18, sản lượng bạc suy giảm và kinh tế đa dạng hóa khiến cho thu nhập của vương thất Tây Ban Nha giảm mạnh.[16] Nhằm phản ứng, triều đình ban hành các cải cách Bourbon, với một loạt các chiếu chỉ nhằm tăng thuế và phân chia Phó vương quốc.[17] Các luật mới kích động các cuộc nổi dậy như của Túpac Amaru II, song tất cả đều bị đàn áp.[18]
Vào đầu thế kỷ 19, trong khi hầu hết Nam Mỹ bị cuốn vào các cuộc chiến giành độc lập, thì Peru vẫn là một thành trì của những người bảo hoàng. Do giới tinh hoa dao động giữa giải phóng và trung thành với chế độ quân chủ Tây Ban Nha, Peru chỉ giành được độc lập sau khi bị chiếm đóng do chiến dịch quân sự của José de San Martín và Simón Bolívar.[19] Trong những năm đầu cộng hòa, đấu tranh cục bộ nhằm giành quyền lực giữa các lãnh đạo quân sự khiến cho chính trị bất ổn định.[20]
Đặc tính dân tộc Peru được rèn luyện trong giai đoạn này, khi mà các kế hoạch của Simón Bolívar nhằm thành lập một Liên minh Mỹ Latinh gặp khó khăn và một liên minh với Bolivia sớm tàn.[21] Từ thập niên 1840 đến thập niên 1860, Peru trải qua một giai đoạn ổn định trong nhiệm kỳ tổng thống của Ramón Castilla nhờ thu nhập quốc gia tăng lên từ xuất khẩu phân chim.[22] Tuy nhiên, đến thập niên 1870, tài nguyên này bị cạn kiệt, quốc gia lâm vào tình trạng nợ nần nghiêm trọng, và đấu tranh chính trị lại nổi lên.[23]
Peru chiến bại trước Chile trong Chiến tranh Thái Bình Dương 1879–1883, phải nhượng hai tỉnh Arica và Tarapacá theo các hiệp ước Ancón và Lima. Tiếp sau đấu tranh nội bộ hậu chiến là một giai đoạn ổn định dưới sự lãnh đạo của Đảng Bình dân, giai đoạn này kéo dài đến khi bắt đầu chế độ độc tài của Augusto B. Leguía.[24] Đại khủng hoảng khiến Leguía bị hạ bệ, hồi phục rối loạn chính trị, và Đảng Nhân dân Cách mạng châu Mỹ (APRA) nổi lên.[25] Trong ba thập niên sau đó, chính trị Peru có đặc điểm là tình trạng kình địch giữa tổ chức này và một liên minh của giới tinh hoa và quân sự.[26]
Năm 1968, Lực lượng vũ trang Peru dưới sự chỉ huy của Tướng General Juan Velasco Alvarado tiến hành đảo chính chống Tổng thống Fernando Belaunde. Chế độ mới cam kết cải cách triệt để nhằm thúc đẩy phát triển, song không nhận được ủng hộ rộng rãi.[27] Năm 1975, Tướng Francisco Morales Bermúdez thay thế Velasco, làm tệ liệt các cải cách, và giám thị việc tái lập chế độ dân chủ.[28] Trong thập niên 1980, Peru phải đối mặt với nợ nước ngoài lớn, lạm phát ngày càng tăng, buôn bán ma túy nổi lên, và bạo lực chính trị quy mô lớn.[29] Trong nhiệm kỳ tổng thống của Alberto Fujimori (1990–2000), quốc gia bắt đầu phục hồi; tuy nhiên, các cáo buộc độc đoán, tham nhũng, và vi phạm nhân quyền buộc Fujimori phải từ nhiệm sau cuộc bầu cử năm 2000 gây tranh cãi.[30] Từ khi chế độ của Fujimori kết thúc, Peru cố gắng chống tham nhũng trong khi duy trì tăng trưởng kinh tế.[31]
Chính quyền
Peru là một nước cộng hòa dân chủ đại nghị tổng thống với một hệ thống đa đảng. Theo hiến pháp hiện nay, Tổng thống là nguyên thủ quốc gia và chính phủ; người này được bầu cho một nhiệm kỳ 5 năm. Tổng thống chỉ định Thủ tướng, và cố vấn trong việc bổ nhiệm các thành viên khác của Hội đồng Bộ trưởng. Nghị viện theo nhất viện chế với 130 thành viên được bầu cho một nhiệm kỳ 5 năm. Các dự luật có thể được nhánh hành pháp hoặc lập pháp đệ trình, chúng sẽ thành luật sau khi được Nghị viện thông qua và được Tổng thống ban hành. Bộ máy tư pháp độc lập trên danh nghĩa, song sự can thiệp của chính quyền đối với các vấn đề pháp luật đã phổ biến trong suốt lịch sử và được cho là vẫn tiếp tục đến nay.[32]Chính phủ Peru được bầu cử trực tiếp, và bầu cử là bắt buộc đối với tất cả công dân từ 18 đến 70 tuổi. Cuộc bầu cử tổ chức vào năm 2011 kết thúc với chiến thắng của ứng cử viên tổng thống Ollanta Humala thuộc liên minh Gana Perú trước Keiko Fujimori thuộc Fuerza 2011.[33] Nghị viện hiện gồm có Gana Perú (47 ghế), Fuerza 2011 (37 ghế), Alianza Parlamentaria (20 ghế), Alianza por el Gran Cambio (12 ghế), Solidaridad Nacional (8 ghế) và Concertación Parlamentaria (6 ghế).[34]
Các xung đột biên giới với các quốc gia láng giềng chi phối quan hệ đối ngoại của Peru, hầu hết chúng đều được giải quyết xong trong thế kỷ 20.[35] Hiện nay, Peru có tranh chấp giới hạn hàng hải với Chile trên Thái Bình Dương.[36] Peru là một thành viên tích cực của một số tổ chức khu vực và là một trong số các quốc gia sáng lập Cộng đồng các quốc gia Andes. Quốc gia này cũng tham gia các tổ chức quốc tế như Tổ chức các quốc gia châu Mỹ và Liên Hiệp Quốc. Quân đội Peru gồm có lực lượng lục quân, hải quân và không quân; nhiệm vụ chính của quân đội Peru là bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia.[37] Các lực lượng vũ trang trực thuộc Bộ Quốc phòng và Tổng thống với vai trò là Tổng tư lệnh. Chế độ cưỡng bách tòng quân bị bãi bỏ vào năm 1999, thay thế là phục vụ quân sự tự nguyện.[38]
Khu vực
- Vùng
- Tỉnh
Địa lý
Peru có diện tích 1.285.216 km2 (496.225 sq mi), nằm ở tây bộ Nam Mỹ. Quốc gia này có biên giới với Ecuador và Colombia ở phía bắc, Brasil ở phía đông, Bolivia ở phía đông nam, Chile ở phía nam, và phía tây là Thái Bính Dương. Dãy núi Andes chạy song song với Thái Bình Dương; dãy núi này phân quốc gia thành ba khu vực về mặt địa lý. costa (duyên hải) ở phía tây là một đồng bằng hẹp, phần lớn là khô hạn ngoại trừ các thung lũng hình thành từ các sông theo mùa. sierra (đất cao) là khu vực Andes; gồm có cao nguyên Altiplano và đỉnh cao nhất quốc gia là Huascarán với cao độ 6.768 m (22.205 ft).[40] Vùng thứ ba là selva (rừng rậm) với địa hình bằng phẳng trải rộng với các rừng mưa Amazon mở rộng về phía đông. Khoảng 60% diện tích quốc gia thuộc vùng thứ ba này.[41]Hầu hết sông tại Peru bắt nguồn từ các đỉnh của dãy Andes và chảy vào một trong ba lưu vực. Những sông đổ về Thái Bình Dương có đặc điểm là dốc và ngắn, dòng chảy không liên tục. Các chi lưu của sông Amazon có chiều dài lớn hơn, có dòng chảy lớn hơn nhiều, và có độ dốc nhỏ hơn khi ra khỏi khu vực sierra. Các sông đổ vào hồ Titicaca thường có chiều dài ngắn và có dòng chảy lớn.[42] Các sông dài nhất chảy qua lãnh thổ Peru là Ucayali, Marañón, Putumayo, Yavarí, Huallaga, Urubamba, Mantaro, và Amazon.[43]
Ảnh hưởng của dãy Andes và hải lưu Humboldt khiến quốc gia này có sự đa dạng rất lớn về khí hậu. Khu vực costa có nhiệt độ ôn hòa, lượng mưa thấp, độ ẩm cao, trừ phần phía bắc ấm hơn và có lượng mưa lớn hơn.[44] Khu vực sierra có mưa thường xuyên vào mùa hạ, nhiệt độ và ẩm độ giảm theo cao độ cho đến các đỉnh núi đóng băng của dãy Andes.[45] Khu vực selva có đặc trưng là lượng mưa lớn và nhiệt độ cao, ngoại trừ phần cực nam- là nơi có mùa đông lạnh và có mưa theo mùa.[46] Do địa hình và khí hậu đa dạng, Peru có đa dạng sinh học cao với 21.462 loài thực vật và động vật ghi nhận được tính đến năm 2003; 5.855 trong số đó là loài đặc hữu.[47]
Kinh tế
Kinh tế Peru được Ngân hàng Thế giới phân loại là thu nhập trung bình cao[48] và lớn thứ 39 thế giới.[49] Năm 2011, Peru là một trong các nền kinh tế tăng trưởng nhanh nhất thế giới nhờ bùng nổ kinh tế trong thập niên 2000.[50] Peru có chỉ số phát triển con người 0,752 theo số liệu năm 2011. Về mặt lịch sử, kinh tế quốc gia gắn liền với xuất khẩu, thu về ngoại tệ mạnh để chi cho nhập khẩu và thanh toán nợ nước ngoài.[51] Mặc dù chúng đem đến thu nhập đáng kể, song tăng trưởng độc lập và phân bổ thu nhập công bằng hơn tỏ ra khó đạt được.[52] Theo dữ liệu năm 2010, 31,3% tổng dân số Peru là người nghèo.[53]Chính sách kinh tế của Peru thay đổi nhiều trong những thập niên qua. Chính phủ của Juan Velasco Alvarado (1968–1975) tiến hành các cải cách triệt để, trong đó có cải cách ruộng đất, quốc hữu hóa các công ty ngoại quốc, mở đầu hệ thống kinh tế kế hoạch, và thiết lập một khu vực quốc doanh lớn. Mục tiêu của các chính sách này là tái phân phối thu nhập và chấm dứt sự phụ thuộc kinh tế vào các quốc gia phát triển song kết quả là thất bại.[54]
Bất chấp kết quả này, hầu hết các cải cách vẫn được thực hiện cho đến thập niên 1990, khi chính phủ tự do hóa của Alberto Fujimori chấm dứt việc kiểm soát giá, bảo hộ mậu dịch, hạn chế đầu tư trực tiếp nước ngoài, và hầu hết quyền sở hữu nhà nước trong các công ty.[55] Các cải cách dẫn đến tăng trưởng kinh tế liên tục từ 1993, ngoại trừ một sự sụt giảm sau Khủng hoảng tài chính châu Á 1997.[56]
Các ngành dịch vụ chiếm 53% tổng sản phẩm quốc nội của Peru, kế tiếp là ngành chế tạo (22,3%), công nghiệp khai khoáng (15%), và các loại thuế (9,7%).[57] Tăng trưởng kinh tế gần đây được thúc đẩy thông qua ổn định kinh tế vĩ mô, cải thiện các điều kiện thương mại, tăng đầu tư và tiêu dùng.[58] Mậu dịch dự kiến sẽ tăng hơn nữa sau khi thực hiện một thỏa thuận mậu dịch tự do với Hoa Kỳ được ký vào năm 2006.[59] Các mặt hàng xuất khẩu chính của Peru là đồng, vàng, thiếc, hàng dệt may, và bột cá; Các đối tác mậu dịch chính của Peru là Hoa Kỳ, Trung Quốc, Brasil và Chile.[60]
Nhân khẩu
Peru là một quốc gia đa dân tộc, hình thành từ các nhóm dân tộc khác nhau trong năm thế kỷ. Người da đỏ sống ở lãnh thổ Peru ngày nay từ hàng thiên niên kỷ trước khi người Tây Ban Nha chinh phục khu vực vào thế kỷ 16; theo sử gia Noble David Cook thì dân số của họ giảm từ khoảng 5–9 triệu vào thập niên 1520 xuống khoảng 600.000 vào năm 1620 với nguyên nhân chủ yếu là các bệnh truyền nhiễm.[62] Người Tây Ban Nha và người da đen châu Phi đến với số lượng lớn trong thời thuộc địa, họ hỗn chủng trên quy mô lớn với nhau và với người bản địa. Những người Âu đến từ Ý, Tây Ban Nha, Pháp, Anh Quốc, và Đức dần nhập cư đến Peru sau khi quốc gia này độc lập.[63] Peru giải phóng nô lệ da đen vào năm 1854.[64] Người Hoa đến vào thập niên 1850, họ thay thế các công nhân nô lệ, và từ đó có ảnh hưởng rất lớn đối với xã hội Peru.[65]Cuộc điều tra dân số năm 1940 là cuộc điều tra dân số cuối cùng tại Peru nỗ lực phân loại các cá nhân theo dân tộc, khi đó 53% dân số nhận là người da trắng hoặc mestizo (lai da trắng và da đỏ) và 46% nhận là người da đỏ.[66] Theo CIA World Factbook, phần lớn dân cư Peru là người da đỏ, hầu hết là Quechua và Aymara, sau đó là người mestizo.[49] Trong một cuộc nghiên cứu vào năm 2006 của Cơ quan quốc gia về Thống kê và Tin học (INEI), dân cư Peru phần lớn nhận là mestizo (59,5%), sau đó là Quechua (22,7%), Aymara (2,7%), Amazon (1,8%), đen/Mulatto (1,6%), trắng (4,9%), và "khác" (6,7%).[61]
Với khoảng 29,5 triệu cư dân, Peru là quốc gia đông dân thứ 5 tại Nam Mỹ.[67] Mức tăng trưởng dân số giảm từ 2,6% xuống 1,6% trong giai đoạn 1950 đến 2000; dân số Peru dự kiến đạt khoảng 42 triệu vào năm 2050.[68] Năm 2007, 75,9% dân cư Peru sống tại các khu vực đô thị và 24,1% tại các khu vực nông thôn.[69] Các thành phố chính là Lima, Arequipa, Trujillo, Chiclayo, Piura, Iquitos, Cusco, Chimbote, và Huancayo; các thành phố này đều có trên 250.000 cư dân theo điều tra dân số năm 2007.[70] Có 15 bộ lạc da đỏ chưa tiếp xúc tại Peru.[71]
Tiếng Tây Ban Nha là ngôn ngữ thứ nhất của 83,9% người Peru 5 tuổi hoặc lớn hơn theo số liệu năm 2007. Tiếng Tây Ban Nha cùng tồn tại với một số ngôn ngữ bản địa, thông dụng nhất là tiếng Quechua được 12% dân số nói. Các ngôn ngữ bản địa và ngoại quốc khác được nói nhiều vào thời điểm đó lần lượt chiếm 2,7% và 0,1% dân số Peru.[72]
Theo điều tra dân số năm 2007, 81,3% dân số trên 12 tuổi mô tả bản thân là tín hữu Công giáo, 12,5% là tín hữu Tin Lành, 3,3% theo các giáo phái khác, và 2,9% không tôn giáo.[73] Tỷ lệ biết chữ ước tính là 92,9% trong năm 2007; mức này tại các khu vực nông thôn (80,3%) thấp hơn các khu vực thành thị (96,3%).[74] Giáo dục tiểu học và trung học là bắt buộc và các trường công miễn học phí.[75]
Văn hóa
Văn hóa Peru chủ yếu bắt nguồn từ truyền thống của người da đỏ và người Tây Ban Nha,[76] tuy nhiên nó cũng chịu ảnh hưởng từ các dân tộc Á, Phi, và Âu khác. Truyền thống nghệ thuật của Peru có truy nguyên từ những đồ gốm, đồ dệt may, trang sức, và công trình điêu khắc của văn hóa tiền Inca. Người Inca duy trì các nghề thủ công này và đạt được những thành tựu về kiến trúc như xây dựng Machu Picchu. Baroque chi phối nghệ thuật Peru thuộc địa, song cũng có cải biến theo truyền thống bản địa.[77]Trong giai đoạn thuộc địa, nghệ thuật hầu hết tập trung vào chủ đề tôn giáo; biểu hiện là số lượng nhà thờ đông đảo trong thời kỳ này và các bức họa của trường phái Cuzco.[78] Nghệ thuật đình đốn sau khi độc lập, kéo dài cho đến khi ý thức hệ Indigenismo nổi lên vào đầu thế kỷ 20.[79] Từ thập niên 1950, nghệ thuật Peru được chiết trung hóa và định hình bởi cả dòng chảy nghệ thuật ngoại quốc và địa phương.[80]
Văn chương Peru bắt nguồn từ truyền thống truyền khẩu của các nền văn minh thời kỳ tiền Colombo. Người Tây Ban Nha đem đến chữ viết vào thế kỷ 16; văn chương thuộc địa bao gồm các biên niên sử và văn chương tôn giáo. Sau khi độc lập, chủ nghĩa phong tục và chủ nghĩa lãng mạn trở thành những thể loại văn học phổ biến nhất, minh chứng qua các tác phẩm của Ricardo Palma.[81] Phong trào Indigenismo vào đầu thế kỷ 20 do các nhà văn như Ciro Alegría[82] và José María Arguedas lãnh đạo.[83] Văn chương Peru hiện đại được thừa nhận là nhờ vào các tác gia như Mario Vargas Llosa, ông là một thành viên quan trọng của phong trào Mỹ Latinh bùng nổ.[84]
Ẩm thực Peru pha trộn giữa các món ăn da đỏ và Tây Ban Nha, với ảnh hưởng mạnh của cách nấu ăn kiểu Trung Hoa, châu Phi, Ả Rập, Ý, và Nhật Bản.[85] Các món ăn phổ biến là anticuchos, ceviche, và pachamanca. Khí hậu đa dạng của Peru tạo diều kiện cho sự phát triển của các loại thực vật và động vật khác nhau, là một điều tốt cho ẩm thực.[86]
Âm nhạc Peru có nguồn gốc Andes, Tây Ban Nha và châu Phi.[87] Vào thời kỳ tiền Tây Ban Nha, biểu hiện âm nhạc có sự khác biệt lớn giữa các vùng; quena và tinya là hai nhạc cụ phổ biến.[88] Người Tây Ban Nha đưa đến nhiều nhạc cụ mới, chẳng hạt như ghi-ta và hạc, kéo theo sự phát triển của các nhạc cụ tạp giao như charango.[89] Đóng góp của người gốc Phi cho âm nhạc Peru gồm các nhịp điệu của họ và cajón, một nhạc cụ gõ.[90] Vũ đạo dân gian Peru gồm có marinera, tondero, zamacueca, diablada và huayno.[91]
Tham khảo
- ^ a ă â b “Peru”. Quỹ Tiền tệ Quốc tế. Truy cập ngày 23 tháng 5 năm 2013.
- ^ “Human Development Report 2010”. United Nations. 2010. Truy cập ngày 5 tháng 11 năm 2010.
- ^ “Gini Index”. World Bank. Truy cập ngày 2 tháng 3 năm 2011.
- ^ UN: Peru Posts One of Region’s Best Reductions in Poverty in 2011. Andean Air Mail and Peruvian Times, 28 tháng 11 năm 2012.
- ^ Porras Barrenechea, tr 83.
- ^ Porras Barrenechea, tr 84.
- ^ Porras Barrenechea, tr 86.
- ^ Porras Barrenechea, tr 87.
- ^ Dillehay, Tom, Duccio Bonavia and Peter Kaulicke. "The first settlers". In Helaine Silverman (ed.), Andean archaeology. Malden: Blackwell, 2004, ISBN 0631234012, p. 20.
- ^ Haas, Jonathan, Creamer, Winifred and Ruiz, Alvaro (2004). “Dating the Late Archaic occupation of the Norte Chico region in Peru”. Nature 432: 1020–1023. doi:10.1038/nature03146. PMID 15616561.
- ^ D'Altroy, Terence. The Incas. Malden: Blackwell, 2002, ISBN 1405116765, pp. 2–3.
- ^ Mayer, Enrique. The articulated peasant: household economies in the Andes. Boulder: Westview, 2002, ISBN 081333716X, pp. 47–68
- ^ Recopilación de leyes de los Reynos de las Indias. Madrid: Cultura Hispánica, 1973, vol. II, pp. 12–13.
- ^ Bakewell, Peter. Miners of the Red Mountain: Indian labor in Potosi 1545–1650. Albuquerque: University of New Mexico, 1984, ISBN 0826307698, p. 181.
- ^ (tiếng Tây Ban Nha) Suárez, Margarita. Desafíos transatlánticos. Lima: FCE/IFEA/PUCP, 2001, pp. 252–253.
- ^ Andrien, Kenneth. Crisis and decline: the Viceroyalty of Peru in the seventeenth century. Albuquerque: University of New Mexico Press, 1985, ISBN 1597403237, pp. 200–202.
- ^ Burkholder, Mark. From impotence to authority: the Spanish Crown and the American audiencias, 1687–1808. Columbia: University of Missouri Press, 1977, ISBN 0826202195, pp. 83–87.
- ^ O'Phelan, Scarlett. Rebellions and revolts in eighteenth century Peru and Upper Peru. Cologne: Böhlau, 1985, ISBN 3412010855, 9783412010850, p. 276.
- ^ Anna, Timothy. The fall of the royal government in Peru. Lincoln: University of Nebraska Press, 1979, ISBN 0803210043, pp. 237–238.
- ^ Walker, Charles. Smoldering ashes: Cuzco and the creation of Republican Peru, 1780–1840. Durham: Duke University Press, 1999, ISBN 0822382164, pp. 124–125.
- ^ Gootenberg (1991) tr 12.
- ^ Gootenberg (1993) tr 5–6.
- ^ Gootenberg (1993) tr 9.
- ^ Mücke, Ulrich. Political culture in nineteenth-century Peru. Pittsburgh: University of Pittsburgh Press, 2004, ISBN 0822942291, pp. 193–194.
- ^ Klarén, tr 262–276.
- ^ Palmer, David. Peru: the authoritarian tradition. New York: Praeger, 1980, ISBN 0030461162, p. 93
- ^ Philip, George. The rise and fall of the Peruvian military radicals. London: University of London, 1978, pp. 163–165.
- ^ Schydlowsky, Daniel and Juan Julio Wicht. "Anatomy of an economic failure". In Cynthia McClintock and Abraham Lowenthal (ed.), The Peruvian experiment reconsidered. Princeton: Princeton University Press, 1983, ISBN 0691076480, pp. 94–143 (106–107).
- ^ Klarén, tr 406–407.
- ^ BBC News, Fujimori: Decline and fall. Truy cập 21 tháng 7 năm 2007.
- ^ The Economist, Peru. Truy cập 18 tháng 7 năm 2007.
- ^ Clark, Jeffrey. Building on quicksand. Truy cập ngày 24 tháng 7 năm 2007.
- ^ (tiếng Tây Ban Nha) Oficina Nacional de Procesos Electorales, [1]. Truy cập 28 tháng 7 năm 2011.
- ^ (tiếng Tây Ban Nha) Congreso de la República del Perú, [2]. Truy cập ngày 27 tháng 8 năm 2011.
- ^ St John, Ronald Bruce. The foreign policy of Peru. Boulder: Lynne Rienner, 1992, ISBN 1555873049, pp. 223–224.
- ^ BBC News, Peru–Chile border row escalates. Truy cập 16 tháng 5 năm 2007.
- ^ Ministerio de Defensa. Libro Blanco de la Defensa Nacional. Lima: Ministerio de Defensa, 2005, p. 90.
- ^ Ley N° 27178, Ley del Servicio Militar, Các điều số 29, 42 và 45.
- ^ Monika Huber, Wolfgang Kaiser (tháng 2 năm 2013). “Mixed Feelings”. dandc.eu.
- ^ Andes Handbook, Huascarán. 2 tháng 6 năm 2002.
- ^ Instituto de Estudios Histórico–Marítimos del Perú, El Perú y sus recursos: Atlas geográfico y económico, tr. 16.
- ^ Instituto de Estudios Histórico–Marítimos del Perú, El Perú y sus recursos: Atlas geográfico y económico, tr 31.
- ^ Instituto Nacional de Estadística e Informática, Perú: Compendio Estadístico 2005, tr. 21.
- ^ Instituto de Estudios Histórico–Marítimos del Perú, El Perú y sus recursos: Atlas geográfico y económico, tr. 24–25.
- ^ Instituto de Estudios Histórico–Marítimos del Perú, El Perú y sus recursos: Atlas geográfico y económico, tr. 25–26.
- ^ Instituto de Estudios Histórico–Marítimos del Perú, El Perú y sus recursos: Atlas geográfico y económico, tr. 26–27.
- ^ Instituto Nacional de Estadística e Informática, Perú: Compendio Estadístico 2005, tr 50.
- ^ Ngân hàng Thế giới, Data by country: Peru. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2011.
- ^ a ă Peru. CIA, The World Factbook
- ^ BBC, Peru country profile. Truy cập 1 tháng 10 năm 2011.
- ^ Thorp, tr 4.
- ^ Thorp, tr 321.
- ^ Instituto Nacional de Estadística e Informática, Evolución de la Pobreza en el Perú al 2010, tr 38.
- ^ Thorp, pp. 318–319.
- ^ Sheahan, John. Searching for a better society: the Peruvian economy from 1950. University Park, Pennsylvania: The Pennsylvania State University Press, 1999, ISBN 0271018720, p. 157.
- ^ (tiếng Tây Ban Nha) Banco Central de Reserva, Producto bruto interno por sectores productivos 1951–2006. Truy cập 27 tháng 12 năm 2010.
- ^ số liệu năm 2006. (tiếng Tây Ban Nha) Banco Central de Reserva, Memoria 2006, p. 204. Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2010.
- ^ (tiếng Tây Ban Nha) Banco Central de Reserva, Memoria 2006, tr. 15, 203. Truy cập 27 tháng 12 năm 2010.
- ^ Office of the U.S. Trade Representative, United States and Peru Sign Trade Promotion Agreement, 12 tháng 4 năm 2006. Truy cập 27 tháng 12 năm 2010.
- ^ số liệu năm 2006. (tiếng Tây Ban Nha) Banco Central de Reserva, Memoria 2006, tr 60–61. Truy cập 27 tháng 12 năm 2010.
- ^ a ă The Socioeconomic Advantages of Mestizos in Urban Peru. princeton.edu. tr 4–5.
- ^ Cook, Noble David. Demographic collapse: Indian Peru, 1520–1620. Cambridge: Cambridge University Press, 1981, ISBN 0521523141, p. 114.
- ^ Vázquez, Mario. "Immigration and mestizaje in nineteenth-century Peru". In: Magnus Mörner, Race and class in Latin America. New York: Columbia University Press, 1970, ISBN 0231032951, pp. 79–81.
- ^ "Peru apologises for abuse of African-origin citizens". BBC News. 29 tháng 11 năm 2009
- ^ Mörner, Magnus. Race mixture in the history of Latin America. Boston: Little, Brown and Co., 1967, p. 131
- ^ Galindo, Alberto Flores (2010). In Search of an Inca: Identity and Utopia in the Andes. Cambridge University Press. tr. 247. ISBN 0521598613.
- ^ United Nations, World Population ProspectsPDF (2.74 MB), pp. 44–48. Truy cập 29 tháng 7 năm 2007.
- ^ Instituto Nacional de Estadística e Informática, Perú: Estimaciones y Proyecciones de Población, 1950–2050, tr 37–38, 40.
- ^ Instituto Nacional de Estadística e Informática, Perfil sociodemográfico del Perú, tr 13.
- ^ Instituto Nacional de Estadística e Informática, Perfil sociodemográfico del Perú, tr 24.
- ^ "Isolated Peru tribe threatened by outsiders". USATODAY.com. 31 tháng 1 năm 2012
- ^ Instituto Nacional de Estadística e Informática, Perfil sociodemográfico del Perú, tr 111.
- ^ Instituto Nacional de Estadística e Informática, Perfil sociodemográfico del Perú, tr 132.
- ^ Instituto Nacional de Estadística e Informática, Perfil sociodemográfico del Perú, tr 93.
- ^ Constitución Política del Perú, điều thứ 17.
- ^ Belaunde, Víctor Andrés. Peruanidad. Lima: BCR, 1983, p. 472.
- ^ Bailey, tr 72–74.
- ^ Bailey, tr 263.
- ^ Lucie-Smith, Edward. Latin American art of the 20th century. London: Thames and Hudson, 1993, ISBN 0500203563, pp. 76–77, 145–146.
- ^ Bayón, Damián. "Art, c. 1920–c. 1980". In: Leslie Bethell (ed.), A cultural history of Latin America. Cambridge: University of Cambridge, 1998, ISBN 0521626269, pp. 425–428.
- ^ Martin, "Literature, music and the visual arts, k. 1820–1870", tr. 37–39.
- ^ Martin, "Narrative since c. 1920", pp. 151–152.
- ^ Martin, "Narrative since c. 1920", pp. 178–179.
- ^ Martin, "Narrative since c. 1920", tr 186–188.
- ^ Custer, tr. 17–22.
- ^ Custer, tr 25–38.
- ^ Romero, Raúl "Andean Peru", tr 385–386.
- ^ Olsen, Dale. Music of El Dorado: the ethnomusicology of ancient South American cultures. Gainesville: University Press of Florida, 2002, ISBN 0813029201, pp. 17–22.
- ^ Turino, Thomas. "Charango". In: Stanley Sadie (ed.), The New Grove Dictionary of Musical Instruments. New York: MacMillan Press Limited, 1993, vol. I, ISBN 0333378784, p. 340.
- ^ Romero, Raúl "La música tradicional y popular", tr 263–265.
- ^ Romero, Raúl "La música tradicional y popular", tr 243–245, 261–263.
Thư mục
- Bailey, Gauvin Alexander. Art of colonial Latin America. London: Phaidon, 2005, ISBN 0714841579.
- Constitución Política del Perú. 29 tháng 12 năm 1993.
- Custer, Tony. The Art of Peruvian Cuisine. Lima: Ediciones Ganesha, 2003, ISBN 9972920305.
- Garland, Gonzalo. "Perú Siglo XXI", series of 11 working papers describing sectorial long-term forecasts, Grade, Lima, Peru, 1986-1987.
- Garland, Gonzalo. Peru in the 21st Century: Challenges and Possibilities in Futures: the Journal of Forecasting, Planning and Policy, Volume 22, Nº 4, Butterworth-Heinemann, London, England, May 1990.
- Gootenberg, Paul. (1991) Between silver and guano: commercial policy and the state in postindependence Peru. Princeton: Princeton University Press ISBN 0691023425.
- Gootenberg, Paul. (1993) Imagining development: economic ideas in Peru's "fictitious prosperity" of Guano, 1840–1880. Berkeley: University of California Press, 1993, 0520082907.
- Instituto de Estudios Histórico–Marítimos del Perú. El Perú y sus recursos: Atlas geográfico y económico. Lima: Auge, 1996.
- Instituto Nacional de Estadística e Informática. Perú: Compendio Estadístico 2005PDF (8.31 MB). Lima: INEI, 2005.
- Instituto Nacional de Estadística e Informática. Perfil sociodemográfico del Perú. Lima: INEI, 2008.
- Instituto Nacional de Estadística e Informática. Perú: Estimaciones y Proyecciones de Población, 1950–2050. Lima: INEI, 2001.
- Klarén, Peter. Peru: society and nationhood in the Andes. New York: Oxford University Press, 2000, ISBN 0195069285.
- Bản mẫu:DOClink. September 28, 1999.
- Ley N° 27867, Ley Ley Orgánica de Gobiernos Regionales. November 16, 2002.
- Martin, Gerald. "Literature, music and the visual arts, c. 1820–1870". In: Leslie Bethell (ed.), A cultural history of Latin America. Cambridge: University of Cambridge, 1998, pp. 3–45.
- Martin, Gerald. "Narrative since c. 1920". In: Leslie Bethell (ed.), A cultural history of Latin America. Cambridge: University of Cambridge, 1998, pp. 133–225.
- Porras Barrenechea, Raúl. El nombre del Perú. Lima: Talleres Gráficos P.L. Villanueva, 1968.
- Romero, Raúl. "La música tradicional y popular". In: Patronato Popular y Porvenir, La música en el Perú. Lima: Industrial Gráfica, 1985, pp. 215–283.
- Romero, Raúl. "Andean Peru". In: John Schechter (ed.), Music in Latin American culture: regional tradition. New York: Schirmer Books, 1999, pp. 383–423.
- Thorp, Rosemary and Geoffrey Bertram. Peru 1890–1977: growth and policy in an open economy. New York: Columbia University Press, 1978, ISBN 0231034334
Đọc thêm
- Kinh tế
- (tiếng Tây Ban Nha) Banco Central de Reserva. Cuadros Anuales Históricos.
- (tiếng Tây Ban Nha) Instituto Nacional de Estadística e Informática. Perú: Perfil de la pobreza por departamentos, 2004–2008. Lima: INEI, 2009.
- Concha, Jaime. "Poetry, c. 1920–1950". In: Leslie Bethell (ed.), A cultural history of Latin America. Cambridge: University of Cambridge, 1998, pp. 227–260.
Liên kết ngoài
Tìm thêm về Peru tại những đồng dự án của Wikipedia: | |
Từ điển ở Wiktionary | |
Sách ở Wikibooks | |
Cẩm nang du lịch ở Wikivoyage | |
Hồ sơ ở Wikiquote | |
Văn kiện ở Wikisource | |
Hình ảnh và phương tiện ở Commons | |
Tin tức ở Wikinews | |
Tài liệu giáo dục ở Wikiversity |
- Hồ sơ quốc gia từ BBC News
- Peru từ Encyclopædia Britannica
- Mục “Peru” trên trang của CIA World Factbook.
- Peru trên UCB Libraries GovPubs
- Peru tại Dự án thư viện mở (trang đề nghị)
- Wikimedia Atlas của Peru, có một số bản đồ liên quan đến Peru.
- (tiếng Tây Ban Nha) Cổng thông tin điện tử của Chính phủ Peru
Alberto Fujimori
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Alberto Fujimori | |
---|---|
Chức vụ
|
|
Nhiệm kỳ | 28 tháng 7 năm 1990 – 22 tháng 11 năm 2000 |
Tiền nhiệm | Alan García |
Kế nhiệm | Valentín Paniagua Corazao |
Thông tin chung
|
|
Đảng | Cambio 90 (1990-1999) Peru 2000 (2000) Si Cumple (2006) People's New Party (2007) |
Sinh | 28 tháng 7, 1938 Lima, Peru |
Vợ | Susana Higuchi (đã ly hôn) Satomi Kataoka |
Binh nghiệp
|
Mục lục
Nhiệm kỳ tổng thống thứ nhất
Năm 1990, Fujimori chạy đua chức Tổng thống Peru và nhận được 29% phiếu bầu, xếp thứ hai sau tiểu thuyết gia Mario Vargas Llosa, người chỉ nhận được 34% phiếu. Không ứng cứ viên nào đạt đủ số lượng phiếu cần thiết để chiến thắng. Trong đợt bầu cử lại, Fujimori đã đặc biệt chú trọng đến cử tri ở vùng nông thôn, đến những người thổ dân châu Mỹ và những người có dòng máu pha trộn châu Âu và thổ dân châu Mỹ và những người nghèo nghi ngờ Vargas Llosa có quan hệ với giới giàu có. Cả hai ứng cử viên đều hứa hẹn cải thiện tình hình kinh tế tồi tệ của Peru—đã bị làm xấu đi bởi những cuộc tấn công của nhóm Sendero Luminoso (Con đường Ánh sáng), một tổ chức du kích của những người theo tư tưởng Mao và phong trào Cách mạng Tupac Amarú. Fujimori đã giành chiến thắng với 60% số phiếu ủng hộ - một tỷ lệ đa số cao nhất từng có đạt được bởi một ứng cử viên ở Peru, khiến ông trở thành người gốc Nhật đầu tiên lên chức Tổng thống Peru. Ngay lập tức sau khi nhậm chức, ông đã thiết lập quan hệ với Nhật Bản với hy vọng giành được một phần viện trợ nước ngoài của Nhật Bản. Ông cũng áp dụng những biện pháp cải cách kinh tế cứng rắn để giảm lạm phát cao.Tháng 4 năm 1992, Fujimori giải tán quốc hội, áp đặt kiểm duyệt báo chí, đình chỉ một số phần của hiến pháp và bắt giữ một số đối thủ chính trị. Ông tuyên bố rằng những hành động này là cần thiết để hiện đại hoá Peru, chống khủng hoảng kinh tế và chống lại tổ chức Sendero Luminoso, những kẻ buôn bán ma túy và nạn tham nhũng. Ông đã thành công trong việc bắt sống và giam tù thủ lĩnh của Sendero Luminoso Abimael Guzmán Reynoso. Ngày 13 tháng 11, một âm mưu đảo chính bị chặn đứng và ngày 22 tháng 11 một quốc hội đơn viện đã được bầu ra thay cho quốc hội lưỡng viện mà Fujimori trước đó đã giải tán. Đảng của Fujimori, Thay đổi 90, giành đa số ghế. Quốc hội này đã thông qua luật cho phép tổng thống tìm kiếm sự tái tranh cử và nghiêm cấm người thân của các tổng thống đương quyền chạy đua cho các văn phòng bầu cử hay phê phán các chính sách của tổng thống. Fujimori đã ủng hộ quy định sau để chặn họng vợ mình là Susana Higuchi, một người hay lên tiếng phê phán chính quyền của ông. Các đại biểu đã thông qua cơ cấu của quốc hội đơn viện và các luật bầu cử, mà tất cả đã được trở thành một phần của bản hiến pháp tháng 12 năm 1993.
Các chính sách kinh tế của Fujimori nhấn mạnh đến các hình thức kinh tế thị trường tự do, tư hữu hoá các công ty quốc doanh và đầu tư nước ngoài. Giữa thập niên 1990, các chính sách này đã khiến Peru phục hồi tốc độ tăng trưởng kinh tế và có tốc độ vượt 12% vào năm 1994 nhưng nền kinh tế được cải thiện không giúp được nhiều cho hàng triệu người nghèo Peru.
Nhiệm kỳ tổng thống thứ hai
Năm 1994 Fujimori thông báo ý định tái tranh cử của mình năm 1995. Ông cũng ly thân với vợ và tháng 8 năm 1994 ông đã chính thức phế truất tước đệ nhất phu nhân của vợ. Bà đã lập chính đảng riêng với tên gọi Phong trào chính trị thế kỷ 21 Hoà thuận để chạy đua với chính phủ của ông. Tuy nhiên đảng Hoà thuận bị phán quyết vô hiệu tháng 12 năm 1994 vì không đạt được số chữ ký cần thiết để đủ tiêu chuẩn là một chính đảng hợp pháp. Tháng 4 năm 1995, Fujimori lại giành chiến thắng vang dội và đảng của ông duy trì quyền kiểm soát quốc hội.Trong một nỗ lực chống khủng bố, Fujimori đã ban cho quân đội quyền hành rộng rãi bắt bớ những kẻ bị tình nghi khủng bố và xét xử họ trong các toà án binh với ít quyền pháp lý. Hoạt động du kích giảm từ năm 1992 và Fujimori cho rằng chiến dịch của mình đã loại trừ phần lớn các thành viên khủng bố. Trong nhiệm kỳ hai của mình, Fujimori tuyên bố ân xá cho các thành viên của quân đội và cảnh sát Peru bị buộc tội hay kết án lạm dụng nhân quyền giữa 1980 và 1995. Hành động của ông bị các nhà hoạt động nhân quyền và nhiều nước lên án.
Dù hiến pháp mới của Peru hạn chế tổng thống trong hai nhiệm kỳ liên tục, năm 1996, quốc hội bỏ phiếu cho phép Fujimori tái tranh cử năm 2000. Quốc hội lúc này do đảng của Fujimori kiểm soát lý luận rằng nhiệm kỳ đầu của Fujimori không được tính theo hiến pháp mới vì điều đó đã xảy ra dưới thời bản hiến pháp cũ có hiệu lực.
Fujimori đã phải đối mặt với khủng hoảng tháng 12 năm 1996 khi những kẻ phiến loạn của phong trào Tupac Amarú đã bắt giữ con tin tại khu nhà ở Đại sứ Nhật tại Peru, bắt giữ hàng trăm nhà ngoại giao và quan chức chính phủ và những người quyền cao chức trọng làm con tin. Chính phủ của Fujimori đã thương lượng với lực lượng phiến quân nhưng bác bỏ yêu sách chính của họ: thả các thành viên của Tupac Amarú đang bị giam tù. Sau 4 tháng, nhóm bắt cóc đã thả dần và chỉ giữ lại 72 con tin (so với 500 người ban đầu). Tháng 4 năm 1997, Fujimori đã hạ lệnh cho quân chính phủ tràn vào tấn công. Một con tin, hai lính đặc công và 14 con tin bị chết. Sự việc đã làm tăng tiếng tăm của Fujimori cứng rắn và sử dụng vũ lực hơn là thoả hiệp để đạt mục đích của mình. Tỷ lệ ủng hộ ông giảm xuống còn 67%.
Nhiều vụ bê bối chính phủ đã làm hỏng hình ảnh công chúng của Fujimori. Tháng 5, liên minh của Fujimori ở quốc hội đã sa thải ba thẩm pháp toà án hiến pháp, những người đã phán quyết Fujimori không đủ tư cách theo quy định của hiến pháp để chạy đua tranh cử thêm một nhiệm kỳ tổng thống nữa. Quốc hội đã thay các thẩm phán và những thẩm phán này đã lật lại quyết định và công bố Fujimori đủ tư cách chạy đua thêm một nhiệm kỳ tổng thống nữa.
Chứng cứ cho thấy chính quyền cũng đã uỷ nhiệm cho việc nghe trộm điện thoại các nhân vật chính trị đối lập và trả lương 600.000 USD cho người đứng đầu không chính thức cơ quan tình báo của Fujimori. Hình ảnh của Fujimori cùng bị xấu thêm trước công chúng khi một đài truyền hình đã phát thông tin cho thấy cơ quan tình báo đã tra tấn hai điệp viên tình báo nữ vì đã tiết lộ thông tin về việc chính phủ có kế hoạch gây khó dễ cho các phóng viên và các nhân vật chính trị đối lập. Chính phủ phản ứng lại vụ bê bối bằng cách huỷ bỏ quyền công dân của người chủ đài truyền hình sinh ra tại Israel, buộc ông ta phải từ bỏ quyền kiểm soát đài này. Tỷ lệ ủng hộ Fujimori giảm xuống còn 20% do những vụ bê bối này cũng như động tác thay các thẩm phán Tòa án hiến pháp.
Sự nghiệp chính trị của Fujimori phục hồi sau đợt thời tiết khắc nghiệt do hiện tượng el Niño gây ra tại Peru cuối năm 1997 và đầu năm 1998. Mưa và lũ lụt nghiêm trọng giết chết hơn 200 người Peru và gây hại nhiều nơi. Fujimori đã lăn xả vào giải quyết các hư hại này và đã đi thăm các khu vực bị hư hại và có những biện pháp chỉ đạo cá nhân đưa ra các biện pháp khắc phục.
Nhiệm kỳ tổng thống thứ ba
Trong nỗ lực chạy đua nhiệm kỳ tổng thống lần thứ ba, Fujimori đã thu hút chỉ trích quốc tế vì những lạm dụng và đối mặt với thách thức mạnh mẽ bất ngờ từ Alejandro Toledo, một giáo sư kinh doanh. Trong cuộc tranh cử tháng 4, không ứng cử viên nào giành được 50% số phiếu và cuộc bầu cử phải được tổ chức lại vào tháng 5. Tuy nhiên Toledo đã tẩy chay cuộc bầu cử vì cho rằng đã có gian lận, và Fujimori được tái đắc cử.Nhiệm kỳ tổng thồng của Fujimori bắt đầu rắc rối tháng 9 năm 2000 khi người đứng đầu cơ quan tình báo của ông là Vladimiro Montesinos có dính líu đến mộ vụ bê bối tham nhũng. Một đoạn băng video phát trên truyền hình Peru cho thấy Montesinos đang hối lộ một nhà chính trị đối lập. Cảnh phim đã củng cố lại những tố cáo gian lận xung quanh cuộc bầu cử nhiệm kỳ thứ ba của Fujimori. Sau khi sa thải Montesinos, đã chạy trốn qua Panama, Fujimori kêu gọi một cuộc bầu cử tổng thống sớm vào tháng 4 năm 2001 và hứa không chạy đua nữa. Quyền lực của Fujimori đã sụp đổ tháng 11 năm 2000. Một nỗ lực được công khai dẫn đến việc bắt giữ Montesinos, đã trở về Peru tháng sau, đã thất bại khiến cho uy tín chính trị của Fujimori yếu đi. Đến giữa tháng 11, Fujimori phải đối mặt với phe đối lập về cáo buộc tham nhũng và gian lận.
Bị phế truất và sống lưu vong tại Nhật Bản
Trong khi Fujimorri đang ở nước ngoài tham dự Hội nghị Thượng đỉnh Thương mại Vành đai Thái Bình Dương, các đảng đối lập đã chiếm lấy quyền kiểm soát quốc hội. Fujimori thông báo từ Nhật Bản rằng ông sẽ từ chức tổng thống. Trong một bản khiển trách Fujimori trước công chúng, Quốc hội Peru đã bác bỏ đơn từ chức của Fujimori và đã bỏ phiếu phế truất Fujimori do thiếu đạo đức. Năm 2003, di sản chính trị của Fujimori đã tan thành mây khói khi Ủy ban Hòa giải và Sự thật Peru do chính phủ bổ nhiệm đã điều tra các lạm dụng về nhân quyền trong thời nổi dậy của phong trào Sendero Luminoso đã phê phán nghiêm khắc Fujimori. Uỷ ban này đã tìm thấy các hoạt động chống khủng bố của Fujimori ủng hộ mở đường cho việc lạm dụng nhân quyền rộng rãi, bao gồm cả tra tấn và giết người mà cơ quan tình báo dưới thời Montesinos đã thực hiện.Wikimedia Commons có thêm thể loại hình ảnh và phương tiện truyền tải về Alberto Fujimori |
Tham khảo
Chiến tranh thế giới thứ nhất
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
|
|
Cuộc chiến tranh này là một trong những sự kiện lịch sử có ảnh hưởng lớn nhất trong lịch sử thế giới.[1] Đây là cuộc chiến tranh có chiến trường chính bao trùm khắp châu Âu và ảnh hưởng ra toàn thế giới, lôi kéo tất cả các cường quốc châu Âu và Bắc Mỹ vào vòng chiến với số người chết trên 20 triệu người với sức tàn phá và ảnh hưởng về vật chất tinh thần cho nhân loại rất sâu sắc và lâu dài. Khác với các cuộc chiến tranh trước đó, người Âu châu phải chiến đấu cả trên chiến trường lẫn ở hậu phương. Phụ nữ phải làm việc thay nam giới, đồng thời sự phát triển của kỹ nghệ cũng có ảnh hưởng đến tính chất chiến tranh; có thể thấy sự hiệu quả của xe tăng trong chiến đấu kể từ cuộc Đại chiến này.[2][7] Chiến tranh chiến hào gắn liền với cuộc Đại chiến thế giới lần thứ nhất trong thời gian đầu của nó.[8]
Đây là cuộc chiến giữa phe Hiệp Ước (chủ yếu là Anh, Pháp, Nga, Ý và sau đó là Hoa Kỳ, Brasil) và phe Liên Minh (chủ yếu là Đức, Thổ Ottoman, Áo-Hung và Bulgaria). Cuộc Đại chiến mở đầu với sự kiện Hoàng thái tử Áo-Hung bị ám sát, dẫn đến việc người Áo - Hung tuyên chiến với Serbia.[9][10] Sự kiện này được nối tiếp bởi việc Hoàng đế Đức là Wilhelm II truyền lệnh cho các tướng xua quân tấn công Bỉ, Luxembourg, và Pháp, theo kế hoạch schlieffen.[11] Hơn 70 triệu quân nhân được huy động ra trận tiền, trong số đó có 60 triệu người Âu châu, trong một trong những cuộc chiến tranh lớn nhất trong sử sách.[12][13] Trong cuộc chiến tranh kinh hoàng này, Pháp là nước chịu tổn thất nặng nề hơn cả và hoàn toàn bị khánh kiệt, dẫn tới đại bại của bọn họ trong các cuộc chiến tranh về sau.[14][15] Những trận đánh khốc liệt nhất trong cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ nhất cũng diễn ra trên đất Pháp.[16] Một trận đánh đáng nhớ của cuộc Đại chiến là tại Verdun cùng năm đó, khi quân Đức tấn công thành cổ Verdun của Pháp, nhưng không thành công.[17] Song, trận chiến đẫm máu nhất là tại sông Somme (1916), khi liên quân Anh - Pháp đánh bất phân thắng bại với quân Đức.[18]
Tất cả những Đế quốc quân chủ đều sụp đổ trong cuộc chiến tranh này, nó tạo điều kiện cho đảng Bolshevik lên nắm quyền tại nước Nga, và mở đường cho Adolf Hitler lên nắm quyền tại Đức.[1] Tuy nước Đức thua cuộc nhưng về thương mại và công nghiệp họ không bị tổn hại gì lớn (ít ra còn hơn hẳn Pháp[3]), vì thế về những mặt này họ đã chiến thắng cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ nhất.[19] Không có một nước nào thật sự chiến thắng cuộc chiến tranh này. Sau chiến tranh, châu Âu lâm vào tình trạng khủng hoàng và những cao trào dân tộc chủ nghĩa trỗi dậy ở các nước bại trận.[1] Điển hình là ở Thổ Nhĩ Kỳ, bão táp phong trào Cách mạng Giải phóng Dân tộc rầm rộ, đưa dân tộc này dần dần hồi phục, và buộc phe Entente phải xóa bỏ những điều khoản khắc nghiệt sau khi cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ nhất chấm dứt.[20][21]
Trước đây ở các nước nói tiếng Anh dùng từ "Đại chiến" (Great War). Vài thập kỷ sau, tên gọi Chiến tranh thế giới lần thứ nhất (World War I) mới được áp dụng để phân biệt với cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai.[22] Chính những vấn đề liên quan tới Hiệp định Versailles (1918) đã khiến cho cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ hai bùng nổ.[23]
Mục lục
- 1 Mục đích
- 2 Quy mô, tính chất
- 3 Nguyên nhân, bản chất chiến tranh
- 4 Diễn biến
- 5 Đặc điểm chiến tranh trong thế chiến thứ nhất
- 6 Hậu quả của chiến tranh
- 7 Những bài học chính trị của Thế chiến thứ nhất
- 8 Xem thêm
- 9 Chú thích
- 10 Tài liệu tham khảo
- 11 Liên kết ngoài
Mục đích
Đây là một cuộc chiến để lập lại trật tự thế giới mới, nó làm sụp đổ bốn đế chế hùng mạnh của châu Âu và thế giới lúc đó là Đế quốc Nga, Đế chế Đức, Đế quốc Áo-Hung và Đế quốc Ottoman, làm thay đổi sâu sắc bộ mặt của châu Âu và thế giới. Tuy nhiên mặc dù là cuộc chiến đẫm máu và khốc liệt như vậy nhưng cuộc chiến này đã không giải quyết được các mâu thuẫn gốc rễ và "thế giới mới" mà nó tạo ra còn đặt châu Âu và thế giới trước các vấn đề và mâu thuẫn khác còn trầm trọng hơn như phát sinh nhà nước theo chủ nghĩa cộng sản tại Nga, chủ nghĩa quân phiệt và chủ nghĩa phát xít tại Ý, Đức và Nhật, sự chia cắt, xâm phạm quyền tự quyết của các dân tộc... Những vấn đề đó sẽ dẫn đến bùng nổ Chiến tranh thế giới thứ hai. Đó là lý do một số nhà nghiên cứu cho rằng Chiến tranh thế giới thứ hai chỉ là sự nối tiếp của Chiến tranh thế giới thứ nhất sau 20 năm tạm nghỉ lấy sức.Chiến tranh thế giới thứ nhất xảy ra giữa hai khối liên minh quân sự được hình thành sau thế kỷ 19: một bên là liên minh ba đế quốc Anh - Pháp - Nga, hay được gọi là khối hiệp ước Entente ba bên (trong tiếng Pháp entente có nghĩa là sự đồng thuận, hiệp ước) sau này còn thêm Hoa Kỳ và một số nước khác tham gia; bên kia là phe Liên minh Trung tâm (Central Powers, hay còn gọi là Liên minh ba nước) gồm Đức, Áo – Hung và Ý. Tuy nhiên sau đó Ý chiến đấu bên phía Entente ba bên nhưng Liên minh Trung tâm lại có thêm đồng minh là Đế quốc Ottoman, Bulgaria. Trong khi vai trò của các đồng minh chính trong Entente ba bên khá đồng đều trong việc gánh vác sức nặng chiến tranh thì ở bên phía Liên minh Trung tâm vai trò các đồng minh chính là mờ nhạt hơn, chỉ Đức có vai trò trụ cột vì thực tế mâu thuẫn chủ yếu gây nên chiến tranh là gắn liền với tham vọng chính trị kinh tế của đế quốc Đức lúc đó. Lúc bấy giờ, hai cường quốc quân sự hùng mạnh nhất của châu Âu là Đức và Anh.[24]
Quy mô, tính chất
Về khía cạnh chính trị – quân sự đây là lần đầu tiên thế giới biết đến một kiểu chiến tranh tổng lực, chiến tranh toàn diện. Chiến tranh diễn ra không những ác liệt trên bộ, trên không, trên biển mà các bên thực hiện bao vây bóp nghẹt kinh tế của nhau, đánh vào ý chí và bản lĩnh chịu đựng của dân tộc, thử thách tiềm lực kinh tế và sức mạnh tinh thần của đối phương. Các cường quốc như Đế quốc Nga và đặc biệt là Đế quốc Đức đã thất bại và sụp đổ khi quân đội của họ còn đang trên đất đối phương, khi quân địch còn chưa xâm phạm lãnh thổ của mình, mà họ đã thua trận vì xã hội kiệt sức không thể kham nổi chiến tranh – một kiểu chiến tranh tiêu hao với cường độ cực cao.Chiến tranh thế giới thứ nhất diễn ra theo một kiểu chiến lược chiến tranh hiện đại. Trước đây châu Âu đã từng có các cuộc chiến theo liên minh nhiều nước như Chiến tranh Kế vị Tây Ban Nha, Chiến tranh Kế vị Áo, Chiến tranh Bảy năm, Chiến tranh Napoléon, v.v... Nhưng những cuộc chiến đó có kết quả chiến tranh phụ thuộc vào một hoặc vài trận đánh lớn có tính quyết định diễn ra trong 1–2 ngày tại một điểm quyết chiến hoặc một vài chiến dịch trong vài tuần hoặc một vài tháng, các hoạt động chiến sự xen kẽ với hoà bình. Kết cục chiến tranh không triệt để: thua trận thì ký hoà ước nhượng bộ, chờ vài năm hồi phục tiềm lực rồi lại tham chiến tiếp (điển hình như các cuộc chiến thời Napoléon I). Các cuộc chiến đó phụ thuộc rất nhiều, nếu không nói là phần lớn, vào tài thao lược của nhà cầm quân. Còn từ nay, kể từ Thế chiến I, lần đầu tiên nhân loại chứng kiến một kiểu chiến tranh lâu dài, quy mô, huỷ diệt. Chiến sự dàn trải trên khắp chiến trường, khắp cả châu lục. Vai trò cá nhân của thống soái trong chiến tranh bị hạn chế mà tiềm lực kinh tế và ý chí, sức mạnh tinh thần của quốc gia nổi lên là yếu tố quyết định.
Trên chiến trường về khía cạnh thuần tuý quân sự đây là một cuộc chiến tranh đã có các đặc trưng hiện đại: quân đội là quân đội đông đảo. Lần đầu tiên trên thế giới chiến tranh theo chiến thuật đội hình tản mát không còn các khối quân lực xếp hàng tấn công và phòng thủ theo đội hình ô vuông dày đặc rất đặc trưng của mọi cuộc chiến tranh trước đây. Cuộc chiến tranh này đặc trưng áp đảo bởi hình thức chiến tranh trận địa mà điển hình nhất là hệ thống chiến hào trở thành phương tiện phòng thủ chính yếu, thành quách pháo đài đã không còn vai trò phòng ngự quan trọng nữa. Các bên phòng thủ trong chiến hào với hệ thống ụ súng máy, dây thép gai, bãi mìn và trận địa pháo dày đặc với chiến tuyến ngăn đôi giữa hai phía đối địch. Chiến tranh trận địa hay chiến tranh chiến hào ở thời kỳ đó thường có tính chất là rất khó tấn công và rất dễ phòng thủ nên chiến tranh có diễn biến chậm chạp ít năng động ít có các chiến thắng quân sự dứt khoát. Kết cục chiến tranh phụ thuộc vào sự chịu đựng dẻo dai của các bên đối kháng đối với gánh nặng chiến tranh tiêu hao tổng lực.
Trong lực lượng Hiệp Ước, Anh-Pháp và Nga chia sẻ gánh nặng chiến tranh tương đối đồng đều trong khi phe Liên Minh chỉ có thể trông cậy vào nước Đức là chủ yếu.
Nguyên nhân, bản chất chiến tranh
Nguyên nhân trực tiếp
- Xem bài chính: Vụ ám sát thái tử Áo-Hung.
Nguyên nhân và bản chất của chiến tranh này là rất phức tạp, đa diện, nhưng có thể được tổng kết như sau:
Chủ nghĩa đế quốc
Lenin và những người Bolshevik, cùng một phần lớn những người xã hội chủ nghĩa của châu Âu phân tích có cơ sở và cho rằng chiến tranh là mâu thuẫn của sự phát triển của các nước chủ nghĩa đế quốc cầm đầu ở châu Âu và chiến tranh có tính chất chiến tranh đế quốc: đó là sự phân chia lại thế giới của các đế quốc, là cuộc chiến tranh phi nghĩa đối với tất cả các phe tham chiến.Nguyên nhân theo phân tích của Lenin: sự lớn mạnh của Đế quốc Đức sau Chiến tranh Pháp-Phổ đã đẩy mạnh những tham vọng chiếm lĩnh thuộc địa và chia lại thị trường thế giới của nước này, nhưng tham vọng này gặp phải sự phản kháng của các "đế quốc già" là Anh Quốc, Pháp và Nga. Các "đế quốc già" này về cơ bản đã chiếm lĩnh những thuộc địa bao la khắp thế giới và muốn duy trì quyền thống trị của mình, không muốn "chia phần" cho những thế lực mới nổi như Đức. Đế quốc Áo – Hung và Đế quốc Ottoman từ lâu đã suy yếu không còn đủ "tư cách" và vai trò để có ảnh hưởng trong khu vực Trung Âu, Balkan và Kavkaz. Các cường quốc khác can thiệp vào khu vực đó để tranh giành ảnh hưởng với nhau... Sự mâu thuẫn mang tính chất đế quốc chủ nghĩa đòi hỏi một cuộc "chém giết lớn" để phân ngôi thứ và lập lại trật tự thế giới có lợi cho kẻ thắng trên cơ sở chiếm mất phần của kẻ thua.
Liên minh quân sự, chạy đua vũ trang, quân phiệt
Một nhóm nguyên nhân khác cũng được các nhà nghiên cứu chỉ ra là hệ thống các liên minh quân sự, sự chạy đua vũ trang và chủ nghĩa quân phiệt của các đế chế:- Liên minh quân sự theo khối: Trong các mâu thuẫn và tương đồng quyền lợi, các quốc gia tìm kiếm lôi kéo thành lập các hiệp ước liên minh quân sự để tăng cường thế lực, bành trướng ảnh hưởng. Việc này làm cho tình hình thế giới càng trở nên cực kỳ căng thẳng vì bất cứ một xung đột quốc gia nào đều có thể trở thành xung đột quốc tế, điều này là rất điển hình cho Thế chiến I. Và thực tế cho thấy từ một sự kiện ám sát có tính dân tộc trong một Đế chế Áo – Hung, mâu thuẫn đã được cộng hưởng, khuếch đại và trở thành chiến tranh thế giới.
- Chạy đua vũ trang: điển hình là trước thế chiến Anh Quốc cho hạ thuỷ lớp chiến liệt hạm Dreadnought với các tính năng chiến đấu cách mạng trên biển, tạo nên chạy đua vũ trang quyết liệt giữa Anh Quốc và Đức. Việc các quốc gia chạy đua vũ trang để duy trì và giành ưu thế quân sự trên bộ và trên biển dẫn đến sự phản ứng tương ứng của phía đối địch. Kết quả là cả hai phe đều cảm thấy bị đe doạ từ phía bên kia và lại càng chạy đua vũ trang và lại bị đe doạ ở mức độ mới cao hơn. Đây cũng là một nguyên nhân gây nên chiến tranh.
- Chủ nghĩa quân phiệt: tại các quốc gia quân chủ chuyên chế như Đế quốc Nga, Đế chế Đức, Đế quốc Áo – Hung và Đế quốc Ottoman và cả ở các quốc gia khác thì tầng lớp quân nhân, tướng lĩnh có một thế lực và ảnh hưởng rất lớn. Họ không hề bị kiểm soát bởi các thiết chế dân chủ, lại rất gần gũi Hoàng đế và luôn có xu hướng hiếu chiến và tinh thần ái quốc mãnh liệt của chủ nghĩa Sôvanh (chauvinism).
Chủ nghĩa dân tộc
Sau thế kỷ 19 tại châu Âu khi những giá trị tự do cá nhân và quyền tự quyết của cá nhân được nhận thức thì hiển nhiên nhận thức về quyền dân tộc tự quyết của các dân tộc đang bị điều khiển bởi các dân tộc cường quốc sẽ trỗi dậy và gặp phải sự ngăn trở của các dân tộc khác. Sự thức tỉnh tình cảm dân tộc thường đi kèm với chủ nghĩa xô-vanh và trên con đường tìm vị thế của mình các dân tộc nhỏ thường tìm sự bảo trợ của các đồng minh lớn để chống lại các kẻ thù cận kề. Điều đó dẫn đến các xung đột được tích luỹ và chiến tranh là cách giải toả cuối cùng.Chủ nghĩa dân tộc là nguyên nhân chính của vụ ám sát hoàng tử Áo-Hung tại Bosnia. Đế quốc Nga và Đế chế Ottoman đã đi đến chiến tranh tại Balkan năm 1878. Sau cuộc chiến, Nga có ảnh hưởng lớn ở Balkan. Áo-Hung lại điều khiển chính phủ ở Bosnia và năm 1908 thì gạt Thổ Nhĩ Kỳ ra khỏi đây, nắm toàn bộ ảnh hưởng ở Bosnia. Nga vận động các nước còn lại trên bán đảo Balkan lập ra Liên minh Balkan hi vọng khối này sẽ đẩy lùi Áo-Hung. Nhưng do những mâu thuẫn trước kia đối với Đế chế Ottoman, khối này đã không chống lại Áo-Hung mà gây Chiến tranh Balkan lần thứ nhất năm 1912-1913 với Thổ Nhĩ Kỳ. Song do sự phân chia quyền lợi không đều, Chiến tranh Balkan lần thứ hai năm 1913 lại bùng phát, và Bulgaria là nước bại trận. Đến năm 1914, Thổ Nhĩ Kỳ gần như chỉ có một ít ảnh hưởng ở bán đảo này, chủ yếu ở Albania. Áo-Hung lại trở thành kẻ thù lớn của Liên minh Balkan. Serbia, nước theo chủ nghĩa dân tộc mạnh mẽ nhất tại Balkan lúc này đã vận động chủ nghĩa dân tộc Bosnia là nước có chung đường biên giới với Serbia để đánh đuổi Áo-Hung ra khỏi Balkan. Một phần tử được trợ giúp bởi tổ chức dân tộc Bàn tay đen của Serbia đã ám sát hoàng tử Áo-Hung vào 28 tháng 6 năm 1914. Sau đó, Áo-Hung đe dọa Serbia và một tháng sau, Áo-Hung tuyên bố chiến tranh với Serbia vào ngày 28 tháng 7 năm 1914.
Chiến tranh là tất yếu?
Trong các học giả thế giới khi đề cập nguyên nhân chiến tranh có xuất hiện câu hỏi: Liệu có thể tránh được cuộc chiến tranh này không? Với những nguyên nhân khách quan và chủ quan như vậy thì ở tầm quốc tế và lịch sử nhân loại có thể nói: với trình độ giác ngộ chính trị của nhân loại vào đầu thế kỷ 20, khi tư duy chính trị vẫn là tư duy nước lớn, tư duy đế quốc chủ nghĩa, khi cách tiếp cận các vấn đề quốc tế luôn theo nguyên tắc "tối đa quyền lợi cho mình, tối thiểu cho đối phương" thì Thế chiến thứ nhất là "phải xảy ra và không thể tránh được". Cuộc chiến này sẽ cùng với Thế chiến thứ hai sẽ tập cho nhân loại phải suy nghĩ theo kiểu tư duy mới là "cùng tồn tại hoà bình, các bên cùng có lợi". Để nhận thức được như vậy nhân loại phải trả giá gần trăm triệu mạng người trong hai cuộc đại chiến và các cuộc chiến khác trong thế kỷ 20. Đó là bài học chính trị quý giá nhất của đại chiến mà nhiều khi nơi này hay nơi khác bài học đó vẫn còn bị "quên".Các quan tâm quyền lợi
Các nước tham chiến
- Anh: Chặn đứng tham vọng tranh giành thuộc địa, chia lại thị trường của Đế chế Đức. Ngăn cản ảnh hưởng của nước này, cố gắng giới hạn Đức trong phạm vi châu Âu không để nước này thành cường quốc đại dương đe dọa quyền lợi thương mại thuộc địa của mình. Hạ cấp Đế quốc Ottoman và Đế quốc Áo - Hung xuống thành những cường quốc hạng hai để chiếm lĩnh quyền lợi tại khu vực Trung Cận Đông rất nhiều dầu mỏ.
- Pháp: Cũng giống như Anh nhưng ngoài ra còn để phục thù Chiến tranh Pháp – Phổ (1871) quyết giành lại hai tỉnh Alsace và Lorraine từ Đức. Hạ bậc Đế quốc Đức để trừ mối hoạ sau này (sau chiến tranh phía Pháp đề nghị trong Hội nghị Versailles một hình thức bồi thường chiến phí khủng khiếp để Đức không bao giờ ngóc đầu dậy được).
- Nga: Loại bỏ sự can thiệp và ảnh hưởng của Đức tại Ba Lan, Ukraina và vùng Baltic, loại bỏ sự cản trở của Đế quốc Ottoman khỏi các vùng Kavkaz và Balkans và loại bỏ sự xuất hiện của Áo-Hung tại Balkan. Xâm chiếm các vùng ảnh hưởng của Ottoman và Áo-Hung.
- Đức: Thoát khỏi sự kiềm tỏa của Anh-Pháp, đòi hỏi một thị trường, thuộc địa tương xứng với tiềm lực cường quốc thế giới của mình. Mở rộng vùng ảnh hưởng của mình về phía Đông tại Ba Lan, Ukraina, Baltic, sau đó là Phần Lan.
- Áo – Hung: Nỗ lực cuối cùng chứng tỏ mình còn là một cường quốc, cố giữ lại những gì còn giữ được trước sự nhòm ngó của các cường quốc khác. Hai địch thủ trước mắt của Áo – Hung là Nga và Ý.
- Ý: Một cường quốc đang lên nhưng chưa định hình, muốn có một vai trò và tiếng nói lớn hơn ở châu Âu và đặc biệt tại Balkans. Trở lực chính của nước này đầu tiên là Anh sau đó định hướng lại chĩa mũi nhọn đấu tranh vào Áo – Hung.
- Ottoman: Đây là một đế chế lâu đời và lạc hậu ở Trung Cận Đông bị Anh, Pháp, Nga chèn ép ở Cận Đông (Anh, Pháp) và tại Kavkaz và Balkans (Nga). Đây là nỗ lực cuối cùng để duy trì đế chế.
- Nhật Bản: Cũng là một cường quốc đang lên. Sau chiến tranh Nga-Nhật, Nhật Bản trở thành cường quốc và có tham vọng được xâm chiếm cả Trung Quốc, gây ảnh hưởng ở Đông Nam Á. Sau khi ký kết Hiệp ước Anh-Nhật năm 1902, Nhật Bản chĩa súng vào Đức và Áo-Hung.
Các nước đồng tham chiến khác
- Hoa Kỳ: Giống như Ý và Nhật, Hoa Kỳ cũng là một cường quốc đang nổi. Hoa Kỳ muốn có ảnh hưởng lớn hơn trên thế giới, và yêu cầu các nước tôn trọng quyền lợi của Hoa Kỳ trên toàn cầu, trong đó có cả châu Âu, châu Á và châu Phi. Đức và Anh không ủng hộ lắm về việc này.
- Brazil: Từng là một đế quốc, song Brazil vẫn không từ bỏ tham vọng được gây ảnh hưởng trên thế giới. Brazil đã có ý định can thiệp vào chiến tranh từ năm 1914, nhưng phải chờ khi Hoa Kỳ tuyên chiến, thì Brazil mới vào cuộc.
- Romania: Là một quốc gia được Nga giải phóng khổi ách cai trị của người Thổ, Romania có tham vọng được tham chiến cùng Nga trong chiến tranh. Romania muốn có ảnh hưởng ở vùng Transilvania vốn đang bị kiểm soát bởi Áo-Hung và gây ảnh hưởng lên các nước Balkan khác. Romania còn muốn giành lấy vùng Wallachia khỏi tay người Áo-Hung.
- Bulgaria: Là nước mạnh nhất vùng Balkan. Bulgaria nung nấu tham vọng phục thù sau chiến tranh Balkan lần 2 bằng việc đòi lại quyền lợi ở Macedonia và bán đảo Tiểu Á.
- Hy Lạp: Muốn chiếm lại những vùng đất đã mất dưới tay người Thổ. Chiếm đảo Síp và chiếm lại cố đô Constantinople.
- Bồ Đào Nha: Theo Anh, không muốn chia thị trường cho Đức.
- Bỉ: Giống Anh nhưng do ít thuộc địa, nên chấp nhận trung lập. Song sau khi Đức xâm lược Bỉ, nên Bỉ tuyên chiến. Ngoài ra Bỉ còn muốn giành lấy phần còn lại của vùng Wallonie khỏi tay người Đức.
- Serbia: Là nước mang nặng chủ nghĩa dân tộc nhất vùng Balkan. Serbia muốn giải phóng toàn bộ Balkan, chủ yếu là Bosnia, Croatia và Slovenia khỏi tay Áo-Hung.
Các nước trung lập có liên quan
- Tây Ban Nha: Là một cựu đế quốc đã suy yếu và khủng hoảng trầm trọng, thậm chí nặng hơn Nga, Tây Ban Nha đã vậy còn thua trận trong chiến tranh với Hoa Kỳ. Khi cận kề chiến tranh, vua Alfonso XIII đã quyết định trung lập. Tuy vậy, Tây Ban Nha dường như khá ủng hộ Đức để phục thù Anh và Hoa Kỳ, những nước có mâu thuẫn gay gắt với Tây Ban Nha trong lịch sử.
- México: Là quốc gia có biên giới chung với Hoa Kỳ. Sau chiến tranh Hoa Kỳ-México, México đã bị Hoa Kỳ cướp mất một phần lãnh thổ lớn ở phía Bắc mà ngày nay đã sáp nhập vào Hoa Kỳ. México có tham vọng trả thù Hoa Kỳ nên đã dẫn đến xung đột. Tuy nhiên, cuộc Cách mạng Mexico đã khiến Mexico lục đục, dẫn đến hai phe phái thân Mỹ-Anh và thân Đức, trong đó, Pancho Villa, một người theo chủ nghĩa dân tộc, đã ủng hộ Đức chống lại Hoa Kỳ trong khi phe chính phủ của Porfirio Díaz và sau đó là Victoriano Huerta thì ủng hộ Anh-Mỹ.
- Hà Lan: Là một đế quốc già và ốm yếu, nhưng Hà Lan đã tránh xung đột thành công với Đức và sau đó là Anh. Khi gần xảy ra xung đột giữa Anh và Đức, Hà Lan, bất chấp được Anh mời chào, vẫn tuyên bố trung lập.
- Thụy Điển: Giống Brazil, Thụy Điển là một cựu đế quốc, song lại thiếu tham vọng. Tuy nhiên, khi gần chiến tranh, Thụy Điển cũng tuyên bố trung lập, song thái độ của Thụy Điển, cùng với Tây Ban Nha, lại khá ủng hộ Đức vì một lí do: thù địch dai dẳng với Nga trong lịch sử, chủ yếu về lãnh thổ Phần Lan. Thụy Điển đã cho các tàu chiến và tàu ngầm Đức đóng quân tại các căn cứ hải quân của Thụy Điển.
- Đan Mạch: Khi còn mang tên Phổ, Phổ đã đưa quân tấn công Đan Mạch và thắng lớn trong chiến tranh Schleswig. Từ đó, Đan Mạch liên tục thù hằn Phổ và sau đó là Đức, nên tuy tuyên bố trung lập, song Đan Mạch vẫn ngầm ủng hộ Anh. Thêm nữa là xích mích với Thụy Điển cũng khiến Đan Mạch thêm thù địch với Đức.
- Na Uy: Là một vương quốc độc lập nhưng lệ thuộc Thụy Điển, Na Uy tỏ ra ủng hộ Thụy Điển hơn so với các nước khác. Khi xảy ra nguy cơ chiến tranh, Na Uy và Thụy Điển tuyên bố trung lập, nhưng ủng hộ Đức.
- Ba Tư: Ba Tư, dưới sự lãnh đạo của triều đại Pahlavi, đã liên tục bị châu Âu chèn ép. Tuy nhiên, triều đình ở đây lại bị chính phủ Thụy Điển, một nước thân Đức, khống chế. Ba Tư muốn đòi lại quyền lợi chính đáng, song do bị Thụy Điển kiểm soát nên liên tục gặp khó khăn.
Diễn biến
1914: Đức phải chiến đấu trên hai mặt trận
Kế hoạch đánh nhanh thắng nhanh của Đức bị phá vỡ:Ngày 1 tháng 8 năm 1914 Đức tuyên chiến với Nga, ngày 3 tháng 8 với Pháp; ngày 4 tháng 8 Anh tuyên chiến với Đức và đổ bộ vào lục địa. Chiến tranh lớn đã nổ ra.
Mặt trận phía Tây
Mặt trận phía Đông
Như vậy Quân đội Đức đã phải bị động đánh nhau trên hai mặt trận và kế hoạch đánh nhanh thắng nhanh của nước này đã thất bại. Các bên tham chiến đi vào chiến tranh chiến hào. Thực chất, đây không phải là lần đầu tiên người Đức phải chiến đấu trên hai mặt trận: trong cuộc Chiến tranh Bảy Năm (1756 - 1763), Vương quốc Phổ dưới sự lãnh đạo tài tình của vua Friedrich II Đại Đế (1712 - 1786) cũng đã lâm vào tình trạng "lưỡng nan thọ địch" (người Phổ đã chiến thắng cuộc chiến tranh này).[35][36]
Diễn biến ở các chiến trường khác trong năm 1914
Đế quốc Nhật Bản lợi dụng việc các cường quốc đang tham gia cuộc chiến tranh ở Châu Âu đã quyết định thực hiện kế hoạch bành trướng ở Viễn Đông. Ngày 15 tháng 8 1914 Nhật Bản gửi tối hậu thư cho Đức đòi nước này chuyển cho Nhật Bản vùng Giao Châu (Trung Quốc) và hạn cho Đức phải trả lời trong 8 ngày. Đức không trả lời tối hậu thư của Nhật Bản nên ngày 23 tháng 8 năm 1914 Nhật Bản tuyên chiến với Đức và nhanh chóng chiếm Giao Châu và tuyến đường sắt Thanh Đảo-Tế Nam (Trung Quốc) và một loạt hòn đảo là thuộc địa của Đế chế Đức tại Thái Bình Dương. Ngày 11 tháng 11 1914, Thanh Đảo, thuộc địa của Đức ở Trung Quốc, đầu hàng Nhật Bản sau 43 ngày bị bao vây. Sau những hoạt động quân sự này, Nhật Bản không có hoạt động nào khác tham gia Chiến tranh thế giới lần thứ nhất.Ngày 21 tháng 9 1914, quân Úc chiếm đóng New Guinea là thuộc địa của Đế chế Đức ở Thái Bình Dương. Ngày 5 tháng 11 1914, quân Đức chiến thắng quân Anh ở Đông Phi thuộc Đức (nay là Tanzania). Năm ấy, Sultan Ottoman là Mehmed V phản đối liên minh Đức - Ottoman. Nhưng rồi, theo lời khuyên của Bộ trưởng Chiến tranh Ismail Enver, Mehmed V với tư cách là Sultan kiêm Khalip phát động Thánh chiến (Jihad) chống phe Entente.[37]
1915 – 1916: Đức chủ động tấn công
- Chiến tranh chiến hào trên các chiến trường:
Mặt trận phía Đông 1915 – 1916
Năm 1915 nước Đức quyết định tập trung lực lượng loại Nga ra khỏi vòng chiến, xoá bỏ mặt trận phía Đông. Quân Đức trên mặt trận phía Tây chủ động chuyển sang phòng ngự trước liên quân Anh, Pháp và từ tháng 4 đến tháng 8 năm 1915 dồn binh lực sang mặt trận phía Đông để đánh đòn tiêu diệt đối với quân đội Nga. Cuộc tấn công đã thắng lợi to lớn: trong Chiến dịch Gorlice-Tarnów phía nam Ba Lan, liên quân Đức - Áo-Hung xông pha như vũ bão, quân Nga thua to phải tháo chạy trong hỗn loạn.[38] Họ thực hiện cuộc đại rút lui: bỏ Galicia, bỏ Ba Lan và sau đó phải bỏ cả một phần vùng Baltic. Thượng tướng August von Mackensen của Đức, với sự giúp đỡ tài tình của Đại tá Hans von Seeckt, đã làm nên chiến công hiển hách, khiến ông được thăng hàm Thống chế.[39] Chiến dịch Gorlice–Tarnów trở nên một trong những chiến thắng vĩ đại nhất của lực lượng Quân đội Đức trong suốt cuộc Đại chiến thứ nhất này.[40] Tuy thắng lợi to lớn, chiếm được một vùng rộng lớn đất đai của Đế quốc Nga nhưng Đức không thể buộc Nga ra khỏi chiến tranh. Nga hoàng Nikolai II vẫn quyết tâm theo đuổi chiến đấu đến thắng lợi cuối cùng. Và đến cuối năm 1915 thì thực lực của nước Đức cũng đã cạn, không thể phát triển thêm nữa. Mặt trận phía Đông đến cuối năm 1915 lại đi vào ổn định của chiến tranh chiến hào.Từ tháng 6 đến cuối tháng 8 năm 1916 quân đội Nga (phương diện quân Tây Nam, tư lệnh Aleksei Alekseevich Brusilov) lại một lần nữa lợi dụng quân Đức đang mải bận đánh trận Verdun bên Pháp tiến hành tấn công thắng lợi lớn tại Galicia, đánh tan tác quân đội Áo – Hung, bắt được vô số binh sĩ Áo - Hung[41] và thực sự làm quân đội nước này mất khả năng tiến hành các chiến dịch lớn chống lại Entente ba bên. Chiến dịch Brusilov được xem là chiến thắng vẻ vang nhất của quân Nga, khiến Brusilov trở thành người anh hùng của phe Entente trên Mặt trận phía Đông.[41] Để cứu vãn tình hình mặt trận phía đông, nước Đức lại phải kéo quân từ mặt trận phía Tây về can thiệp và đánh bẹp quân Nga, sau đó tràn sâu vào chiếm cả Ukraina lẫn Belarus, nước Nga trên bờ sụp đổ nhưng sau đó Đức phải chuyển quân sang phía Tây, Nga được cứu thoát, hai bên lại đi vào cầm cự trong chiến hào cho đến khi Nga ra khỏi chiến tranh cuối năm 1917 vì sụp đổ trong phong trào cách mạng.
Mặt trận phía Tây 1915 - 1916
Trong các năm 1915, 1916 mặt trận phía Tây đánh nhau cực kỳ quyết liệt nhưng không có nhiều đột biến: các chiến dịch tại Ypres (bắc Bỉ), Champagne và Artois (bắc Pháp) quân hai bên nhiều lần cố gắng chọc thủng phòng tuyến của nhau nhưng đều thất bại. Tại đây đầu tiên là quân Đức đã sử dụng vũ khí hoá học sau đó quân Entente ba bên đáp trả gây chết ngạt rất nhiều cho quân sỹ hai bên. Năm 1916 diễn ra trận Verdun nổi tiếng nhất trong thế chiến này, diễn ra trên đất Pháp (từ 21 tháng 2 đến 18 tháng 12 năm 1916) đây là nỗ lực của Đức tấn công đánh bại quân Pháp chiếm Paris loại Pháp ra khỏi chiến tranh: quân Đức tấn công rất mãnh liệt thành cổ Verdun để hướng về Paris và quân Pháp cố thủ đến cùng, hai bên tranh chấp chiến tuyến vô cùng ác liệt, chết vô số nhưng chiến tuyến chỉ dịch chuyển lên xuống được dưới 10 km. Sau này Verdun vì số lượng thương vong quá lớn được gọi là "cối xay thịt". Quân Pháp kiệt quệ và cả hai phe đều không thể thắng được trận đại chiến Verdun này.[17] Để phản công giải nguy cho Verdun tháng 9 năm 1916 quân Anh đã tấn công tại trận sông Somme nhưng cũng không có kết quả rõ rệt. Trận này lần đầu tiên trong lịch sử quân sự thế giới quân Anh đã sử dụng xe tăng tấn công và đã đạt hiệu quả chiến thuật rất cao. Nhưng nỗ lực của liên quân Anh - Pháp coi như thất bại.[17]Tại các mặt trận phía Nam 1915 – 1916
Ngày 23 tháng 5 năm 1915 Ý gia nhập khối Đồng minh ba bên (Anh- Pháp- Nga) để chống Áo, 14 tháng 10 năm 1915 Bulgary tham gia vào phe liên minh Đức, Áo để chống Serbia. Mặt trận phía Nam tuy quy mô nhỏ nhưng sôi động hẳn lên.- Chiến trường Ý – Áo: tháng 5 năm 1915 quân Ý mở chiến dịch Isonzo chống quân Áo nhưng thất bại và bị Áo phản công chiếm Gorizia sau lợi thế nhỏ bé này mặt trận Ý – Áo đi vào ổn định cho đến tận cuối năm 1917.
- Chiến trường Balkans: Chiến thắng vẻ vang của quân Đức trong Chiến dịch Gorlice–Tarnów trên Mặt trận phía Đông tạo điều kiện cho Bulgaria nhảy vào tham chiến.[40] Tại Balkans tháng 10 năm 1915 liên quân Đức – Áo – Bulgaria đánh tan quân Serbia tại Novo Brdo và quân Serbia phải rút lui sâu vào Albania và Hy Lạp. Để cứu nguy cho Serbia và gây áp lực lên Hy Lạp tham gia chống Liên minh Trung tâm, cuối năm 1915 liên quân Anh, Pháp tiến hành chiến dịch đổ bộ lên Salonica của Hy lạp nhưng nước này không tham gia chống Đức, Áo, Bulgaria. Chiến sự tại mặt trận Balkans tại Salonica ổn định, yên tĩnh lạ thường và các bên dường như không muốn đánh nhau cho đến tận cuối chiến tranh. Người ta gọi mặt trận Salonica là "trại tù binh lớn".
- Chiến trường Trung Cận Đông: từ tháng 2 năm 1915 đến tận tháng 1 năm 1916 liên quân Anh, Pháp mở chiến dịch hải quân đổ bộ rất lớn trong lịch sử chiến tranh thế giới – chiến dịch Dardanelles đổ bộ gần 60 vạn quân để chiếm hai eo biển Dardanelles, Bosporus và thủ đô Istanbul để buộc Đế quốc Ottoman ra khỏi chiến tranh. Người anh hùng dân tộc Mustafa Kemal Atatürk đã xuất binh đập tan tác quân Entente, làm thất bại chiến dịch của địch.[42] Nhờ đó, Đế quốc Ottoman vẫn đứng vững và giáng trả hiệu quả, Entente ba bên phải di tản quân về Hy Lạp.
- Chiến trường Kavkaz: Tại Kavkaz quân Nga có lực lượng nhỏ hơn nhưng đã đại thắng quân Ottoman tại trận Sarikamis (từ 29 tháng 12 năm 1914 đến 4 tháng 1 năm 1915) sau đó trong năm 1915, 1916 và cho đến tận cuối năm 1917 khi Nga sụp đổ vì cách mạng, quân Nga tại Kavkaz liên tiếp đánh lui quân Ottoman, tiến lên chiếm xứ nay là Armenia. Vì người Armenia theo Chính thống giáo có cảm tình với Nga nên chính quyền Đế quốc Ottoman đã thi hành chính sách diệt chủng người Armenia làm gần 1 triệu người Armenia chết, có chấn động lớn trong dư luận châu Âu và thế giới về Thế chiến I.
1917 Năm bản lề
Năm này là năm bản lề của chiến tranh: Tại mặt trận phía tây, liên quân chuyển sang tấn công. Chiến tranh tàu ngầm không hạn chế trên biển, Hoa Kỳ tham chiến chống Đức. Cách mạng tại Nga làm nước này rời bỏ chiến tranh.Quân Anh-Pháp-Nga chuyển sang tấn công
Trong năm 1917 lợi thế đã nghiêng sang phía Anh-Pháp-Nga ba bên, vòng vây trên biển siết chặt kinh tế Đức của Hải quân Hoàng gia Anh đã cho thấy các kết quả. Liên quân Pháp-Anh liên tục mở các cuộc tấn công lớn trên tất cả các mặt trận.- Chiến trường Trung Cận Đông: quân Anh liên tiếp chiến thắng quân Ottoman và chiếm Baghdad (Iraq) tháng 3 năm 1917 và tổ chức thành công chiến dịch Sinai và chiến dịch Palestine chiếm Jerusalem vào tháng 12 năm 1917.
- Chiến trường Ý – Áo: tại chiến trường này cuối năm 1917 khi cách mạng nổ ra ở Nga, không còn mặt trận phía Đông, quân Đức – Áo được tiếp viện một lực lượng hùng hậu trong đó có các đơn vị xung kích của Đức làm nòng cốt, đã tổ chức chiến dịch Caporetto (26 tháng 10 năm 1917) và đã thắng lợi vang dội tiêu diệt 6 vạn và bắt gần 30 vạn quân Ý. Quân Anh, Pháp phải cứu viện lập phòng tuyến cố thủ tại sông Piave. Và thế trận dừng lại ở đây cho đến hết chiến tranh. Tuy thắng lợi của Đức, Áo tại Caporetto rất to lớn nhưng vai trò thứ yếu của mặt trận Ý – Áo không làm đảo lộn thế chiến lược của chiến tranh và thực lực của phe Trung tâm cũng không cho phép phát triển thành quả.
- Mặt trận phía Tây: Liên quân Anh, Pháp đã nắm quyền chủ động chiến trường, trong năm 1917 tại mặt trận này chỉ có họ tấn công nhưng không thể chọc thủng nổi tuyến phòng thủ rắn chắc của quân Đức. Các cuộc tấn công tại Verdun, Ypres, Cambrai với sử dụng ồ ạt xe tăng đều thất bại. Đặc biệt từ 9 tháng 4 đến 5 tháng 5 năm này quân đội Pháp mở chiến dịch Nivelle (theo tên của Tổng tư lệnh quân đội Pháp Robert Georges Nivelle – người soạn thảo kế hoạch) với số lượng áp đảo gấp 2 lần quân Đức, kết quả: với số thương vong 50 vạn và đã thất bại và ngày nay trận này được gọi là "lò mổ của Nivelle". Đến cuối năm 1917 phòng tuyến Đức tại mặt trận phía Tây vẫn chưa thể phá vỡ nổi.
Chiến tranh tàu ngầm không hạn chế, Hoa Kỳ tham chiến
Sau này nhiều nhà nghiên cứu Anh đã công nhận Anh thực tế đã trên nguy cơ thua trận nếu chiến tranh tàu ngầm của Đức hiệu quả hơn nữa. Ban đầu Đức trông cậy vào hạm đội tàu nổi của mình nhưng hạm đội Đức không thể đua tranh được với hạm đội hùng hậu của Hải quân Hoàng gia Anh nên nhiệm vụ bóp nghẹt kinh tế Anh được giao cho hạm đội tàu ngầm rất nổi tiếng của Đức. Đức chạy đua với thời gian xây dựng lực lượng tàu ngầm và sử dụng chúng hiệu quả để đánh phá tuyến vận tải biển quan trọng sống còn đối với Anh.Để tăng hiệu quả áp lực lên Anh tháng 2 năm 1917 Tổng tham mưu trưởng Đức Erich Ludendorff thuyết phục được Thủ tướng Đức (Chancellor) tuyên bố chiến tranh tàu ngầm không hạn chế chống mọi tàu của mọi quốc tịch chuyên chở tiếp tế cho Anh. Lượng trọng tải tàu bị đánh chìm tăng lên nhanh chóng đạt mức trung bình 500.000 tấn/tháng và đạt đỉnh trong tháng 4 năm 1917 là 860.000 tấn. Nước Anh trước nguy cơ bại trận: tình hình rất nghiêm trọng, đã có nạn đói trong nước. Từ tháng 8 năm 1917 Anh áp dụng chiến thuật vận tải mới là hạm đội áp tải để vô hiệu hoá đòn đánh của tàu ngầm và chiến thuật này là cực kỳ hiệu quả và nước Anh đã thoát hiểm hoạ chết đói. Nhưng để đối phó lại, tàu ngầm Đức áp dụng chiến thuật "nổi lên đánh đêm": hạm đội Anh chỉ hiệu quả chống tàu ngầm khi chúng bị phát hiện dưới mặt nước hoặc bị nổi lên ban ngày. Khi vào ban đêm tàu ngầm Đức nổi lên bơi lẫn vào đoàn tàu vận tải thì Hải quân Anh không biết cách làm thế nào. Đây là chiến thuật rất hiệu quả của Đức và nếu chiến tranh kéo dài chưa biết kết quả sẽ thế nào: Các tàu ngầm Đức luôn theo sát các đoàn convoy của Anh nhưng thay vì tấn công, chúng chờ đến đêm nổi lên bơi lẫn vào đoàn tàu vận tải, áp mạn ở cự ly gần và dùng pháo lần lượt tiêu diệt từng chiếc một. Một thảm hoạ cho hình thức convoy của Anh.
Hoa Kỳ từ đầu thế kỷ 20 theo đuổi chính sách không can thiệp và giữ trung lập trong chiến tranh. Nhưng tâm lý nhân dân và chính giới Hoa Kỳ luôn giành tình cảm cho người Anh nên dù vẫn giữ quan hệ với Đức, Hoa Kỳ luôn dành cho Anh những thuận lợi để duy trì chiến tranh. Với việc Đức tuyên bố chiến tranh tàu ngầm không hạn chế đánh cả vào tàu Mỹ, lại cộng thêm sự kiện bức điện Zimmermann đã làm dư luận Hoa Kỳ hết kiên nhẫn, họ đòi chính phủ tham chiến chống Đức. Ngày 6 tháng 4 năm 1917 Hoa Kỳ cắt mọi quan hệ và tuyên bố chiến tranh với Đức. Vào cuối năm 1918 khi Đức đầu hàng, lực lượng viễn chinh Hoa Kỳ tại châu Âu chưa thật lớn và Quân đội Hoa Kỳ không đóng vai trò chủ đạo trong việc đánh thắng quân Đức trên chiến trường, nhưng rõ ràng với tiềm lực kinh tế rất lớn của mình giúp cho Entente và các mối ràng buộc chính trị, kinh tế nhất là các khoản cho vay với Đức bị dứt bỏ thì sự tham chiến của Hoa Kỳ là một yếu tố cực mạnh có lợi cho Đồng Minh.
Cách mạng tại Nga, Nga ra khỏi chiến tranh
Nền kinh tế Nga không chịu nổi sức nặng chiến tranh, dân chúng khốn cùng, thất nghiệp, chết đói... Lại cùng những thất bại nặng nề trước quân Đức trên mặt trận, tất cả những cái đó gây bất mãn cao độ trong nhân dân và quân đội. Quân lính đã quá khổ vì chiến tranh lại căm thù tầng lớp sĩ quan quý tộc, không còn lòng ái quốc ban đầu khi mới chiến đấu. Mâu thuẫn nội bộ của quân đội Nga cũng là quá lớn: thậm chí chiến dịch tấn công của tướng Brusilov tháng 6 năm 1916 chống quân Áo – Hung tại Galicia cũng bị các sỹ quan cao cấp khác ghen ghét không hợp tác. Đến năm 1917 người Nga đã quá căm giận nhà cầm quyền và không thể chịu nổi hơn chiến tranh khi quân Đức chỉ cách Thủ đô hơn 100 km. Mặt khác những người cộng sản Nga (Bolshevik) chống chiến tranh đế quốc "Biến chiến tranh đế quốc thành nội chiến cách mạng", nhân dân và binh sỹ đã không thể chịu nổi và muốn theo Đảng Bolshevik của Lenin tiến hành cách mạng. Đến tháng 3 năm 1917, Cách mạng tháng 2 đã nổ ra, Sa hoàng thoái vị. Đây là bước chuyển để những người Bolshevik thắng lợi hoàn toàn trong Cách mạng tháng Mười Nga. Tuy giữa hai cuộc cách mạng Nga vẫn còn trong khối Đồng minh ba bên nhưng thực tế quân đội sau cách mạng tháng 2 đã tan rã, không còn kỷ luật, quân sỹ tự bỏ ngũ, tự rút lui và truy lùng các sỹ quan mà trước đây họ căm thù để xử lý. Mặt trận phía Đông nhanh chóng biến mất, quân Đức nhân đà tan rã của quân Nga nhanh chóng theo chân kéo sâu vào lãnh thổ địch để ra yêu sách. Sau cách mạng tháng 10, Lenin đề nghị các bên tham chiến một nền hoà bình ngay lập tức không có chia cắt lãnh thổ, không bồi thường chiến phí, đề nghị này không được ai chấp nhận. Với việc ký kết hoà ước Brest-litovsk riêng rẽ với Đức vào ngày 3 tháng 3 năm 1918, Xô Viết ra khỏi chiến tranh với những nhân nhượng rất to lớn: trả độc lập cho Ba Lan và các vùng Tây Belarus, Ukraina, các tỉnh Baltic, trả bồi thường cho Đức và ngoài ra nước Nga Xô viết không thể đủ lực lượng để ngăn cản phong trào độc lập của Phần Lan nên đã dễ dàng trao trả độc lập cho nước này.Sau này khi Đức thua trận 1918, nước Nga Xô viết đã thu hồi lại phần lớn Ukraina chỉ còn tây Ukraina, Tây Belarus bị nhập vào thành phần Ba Lan, Ba Lan và vùng Baltic giành được độc lập. Phải đến trước Thế chiến II Liên Xô mới nhân lúc Đức đang tấn công mặt trận phía Tây, tranh thủ tái chiếm các vùng Tây Belarus, Tây Ukraina, Baltic và nhập các vùng này vào lãnh thổ Liên Bang Xô viết.
1918 Phe Trung tâm thua trận
Trong năm 1918 Đế chế Đức huy động những nỗ lực tấn công tuyệt vọng cuối cùng nhưng đều thất bại. Khi Đức đã kiệt quệ các nguồn lực, Đồng minh tấn công tổng lực thắng lợi. Nước Đức suy kiệt và cách mạng đã nổ ra. Trong khi đó, quân Áo - Hung đại bại tại Ý, ngọn lửa phong trào dân tộc chủ nghĩa đã bùng cháy ở nhiều miền đất trên khắp Đế quốc Áo - Hung. Vào tháng 10 năm 1918, Đế quốc Áo - Hung sụp đổ.[43] Phe Trung tâm đầu hàng.Cuộc tấn công mùa xuân của Đức
Tiếp theo chiến dịch Michael quân Đức tuyệt vọng ném thêm quân liên tiếp vào các chiến dịch tiếp theo nhưng đó đã là những nỗ lực ngày càng bất lực (cho dầu họ đạt được chiến thắng vang dội trong trận sông Aisne lần thứ ba[44]), và cuối cùng là cố gắng bao vây Reims vào ngày 15 tháng 7 năm 1918 đó là trận sông Marne lần thứ hai, tại đây liên quân Anh, Pháp phản công thắng lợi. Đến cuối tháng 7 quân Đức lại trở về vị trí ban đầu. Nỗ lực tuyệt vọng cuối cùng của Đức đã tiêu tan.
Đồng minh tấn công tổng lực thắng lợi
Khi Quân Đức đã rã rời suy kiệt không còn dự bị để phát triển tiến công, liên quân Entente liền huy động tổng phản công trên toàn măt trận. Đức không còn khả năng chống trả kiên cường như trước đây nữa. Cuộc tấn công của liên quân đã phát triển thắng lợi và được gọi là 100 ngày tấn công: bắt đầu từ 8 tháng 8 bằng trận Amiens, liên quân đồng loạt phối hợp tấn công: với tập đoàn quân của Pháp bên phải, quân Anh bên trái, các quân đoàn Canada và Úc làm mũi nhọn tấn công chính diện với hàng trăm xe tăng và 12 vạn quân đã đánh lui quân Đức hàng chục km. Chiến thắng lớn tại Amiens trở thành công tích hiển hách nhất của Quân đội Anh trong cuộc Đại chiến thứ nhất, và cũng là thắng lợi lớn nhất của phe Entente trên Mặt trận phía Tây kể từ sau trận sông Marne lần thứ nhất.[45] Sau mấy tuần tiến công thắng lợi ngày 21 tháng 8 quân Anh tổ chức trận Sông Somme lần thứ hai đánh lui tập đoàn quân số 2 của Đức về vị trí của phòng tuyến Hindenburg là phòng tuyến bắt đầu chiến tranh. Đến cuối tháng 9 sau các cố gắng bất thành liên quân dừng lại ở tuyến Hindenburg và tại đây sau cách mạng tại Đức, quân Đức đã đầu hàng.Cách mạng tại Đức
Công tước Max von Baden được chỉ định làm thủ tướng và ngay lập tức bắt đầu đàm phán hoà bình. Ngày 9 tháng 11 năm 1918 von Baden tuyên bố nhà vua phải thoái vị, đế quốc Đức sụp đổ, vua Wilhelm II được Hà Lan cho tị nạn chính trị và Cộng hoà Weimar ra đời.
Phe Trung tâm đầu hàng
Bắt đầu từ cuối tháng 9 năm 1918 phe Trung tâm nhanh chóng đầu hàng: đầu tiên là Bulgaria (29 tháng 9), 30 tháng 10 Đế quốc Ottoman đầu hàng, 4 tháng 11 hai nước Áo, Hungary đầu hàng riêng biệt do Đế quốc Áo - Hung của Vương triều Habsburg đã sụp đổ.Vào ngày 8 tháng 11 năm 1918 phái đoàn Đức đến toa tàu hoả riêng của Thống chế Ferdinand Foch tại cánh rừng Compiegne (Pháp). Khi Foch hỏi họ đến để làm gì, họ nói với ông ta rằng họ muốn nghe những lời thỉnh cầu ngừng bắn của phe Entente. Foch trả lời rằng ông ta không hề có yêu cầu ngừng bắn gì cả. Nhưng rồi, Matthias Erzberger đã buộc Foch phải đọc các điều khoản của thỏa thuận ngừng bắn. Vào ngày 11 tháng 11 năm 1918, cũng chính tại toa tàu hỏa cá nhân của Foch, ngừng bắn được ký kết giữa hai bên.[46]
Ngày 28 tháng 6 năm 1919 các nước thắng trận đã ký hiệp định hoà bình với Đức là Hiệp định Versailles với các hạn chế ngặt nghèo cho sự phát triển sau chiến tranh của Đức (phải đến tháng 10 năm 2010 nước Đức mới hoàn thành xong khoản chiến phí nặng nề cho cuộc chiến này.[47]) Và các hiệp định hoà bình cũng được ký kết giữa phe thắng trận với từng quốc gia thua trận là Áo, Hungary và Bulgaria. Đến năm 1920, phe Entente ký kết Hiệp định Sevres với Sultan Mehmed VI theo đó Đế quốc Ottoman phải chịu vô cùng thiệt thòi.[48] Đây là một đòn giáng nặng nề vào Đế quốc Ottoman.[49] Thế chiến thứ nhất đã kết thúc.
Đặc điểm chiến tranh trong thế chiến thứ nhất
Thế chiến thứ nhất lần đầu tiên trong lịch sử thế giới là một cuộc chiến tranh hiện đại, tổng lực, toàn diện và có sử dụng vũ khí hủy diệt hàng loạt, là cuộc chiến tranh với đầy đủ chiến tranh trên bộ, trên không và trên biển. Các nhà nghiên cứu quân sự đánh giá cuộc chiến trên bộ của chiến tranh này là chiến tranh với công nghệ của thế kỷ 20 và với tư duy chiến thuật của thế kỷ 19 với phương thức tiến hành chiến tranh lạc hậu đánh nhau thương vong cực kỳ to lớn mà hiệu quả chiến đấu rất thấp. Ngược lại chiến tranh trên biển và trên không mang tính chất rất cách mạng với hình thức chiến tranh khác rất xa với các cuộc chiến tranh trước đây, và sau này được Thế chiến thứ hai phát triển lên mức cao hơn.Chiến tranh trên bộ
Nhìn một cách tổng thể chiến tranh trên bộ của thế chiến thứ nhất là cuộc chiến tranh chiến hào với các tư duy phòng thủ trận địa với chiến thuật tấn công lạc hậu. Với hình thức phòng thủ trong chiến hào có chiều sâu với hệ thống dây thép gai, bãi mìn và các hỏa điểm súng máy cố thủ, phía sau có pháo binh yểm trợ, thì chiến tranh có "sự mất cân đối" rất lớn giữa "tấn công" và "phòng ngự": trong khi quân phòng ngự với vũ khí hiện có có thể dễ dàng để bẻ gãy các cuộc tấn công của đối phương: các súng máy trong công sự, lô cốt, pháo binh và bãi mìn dây thép gai gây chết chóc rất lớn cho các cuộc tấn công của kỵ binh và làn sóng người của bộ binh đối phương, và nếu mất tuyến phòng ngự thì cũng có đủ thời gian để có thể nhanh chóng kéo quân dự bị tới lập tuyến mới phía sau. Ngược lại quân tấn công thường rất lúng túng và với hy sinh rất lớn mới có thể đánh chiếm được các tuyến phòng thủ của địch và cũng không có phương tiện và phương cách để phát triển tấn công. Trong năm 1915 quân Đức đã chọc thủng phòng tuyến Nga và tấn công thắng lợi nhưng đó là do sự quá kém cỏi về xã hội, kinh tế và tư duy quân sự lạc hậu của Nga so với Đức. Với các quân đội có trình độ phát triển tương đương như Anh, Pháp, Đức thì sự mất cân đối tấn công – phòng thủ này dẫn đến tình trạng chiến tranh chiến hào lâu dài ổn định không ai dứt điểm nổi ai mà chỉ ép dần đối phương từng tí một (một cuộc tấn công tiến lên được 10 – 20 km đã được coi là thắng lợi). Kết quả chiến tranh phụ thuộc vào sức chịu đựng dẻo dai của các bên đối với sức nặng lâu dài của chiến tranh.Cũng trong chiến tranh này đã xuất hiện các hình thức chiến thuật để đánh chiếm chiến tuyến địch và phát triển tấn công trên cơ sở vũ khí hiện có và thể hiện sáng chói nhất là chiến thắng vang dội của phương diện quân Tây Nam của Nga dưới sự chỉ huy của tướng Aleksey Alekseyevich Brusilov tại Galicia tháng 6 năm 1916 chống quân Áo – Hung: với một quân đội Nga yếu kém, lạc hậu, mất tinh thần sau trận thảm bại năm 1915, nhưng với sự chuẩn bị kỹ lưỡng, quân Nga đã chọc thủng chiến tuyến Áo – Hung và tấn công ồ ạt trên diện rộng đánh bại quân đội Áo – Hung. Tuy nhiên sau khi rút kinh nghiệm quân phòng thủ cũng đã khắc chế được các chiến thuật mới này và hình thức chiến tranh chiến hào vẫn là chủ đạo và bất biến. Chỉ đến khi xe tăng xuất hiện và phát triển thì hình thức chiến tranh chiến hào này mới bắt đầu lỏng lẻo và đến Thế chiến thứ hai nó đã tỏ rõ sự bất lực trước sức tấn công cơ động và cuộc chiến tranh chiến hào cuối cùng trên thế giới là cuộc Chiến tranh Triều Tiên.
Chiến tranh trên biển, trên không
Chiến tranh trên biển của thế chiến thứ nhất diễn ra rất quyết liệt và được gọi là trận chiến Đại Tây Dương lần thứ nhất nó mang tính chất hoàn toàn mới so với các cuộc chiến tranh trên biển trước đây: Cuộc chiến này báo hiệu chấm dứt thời đại các trận hải chiến lớn của của các armada cổ điển (hạm đội mặt nước). Việc bao vây kinh tế đánh phá giao thông trên biển được thực hiện một cách hiệu quả hơn bằng phương tiện chiến tranh rất mới là tàu ngầm. Và trong cuộc chiến này tuy lực lượng Hải quân Đức còn thua xa Hải quân Hoàng gia Anh nhưng lực lượng tàu ngầm Đức khi đó với kỹ thuật hiện đại đã làm rất tốt công việc đánh phá vận tải biển của Anh, đã có lúc làm phát sinh nạn đói ở nước này.Thời gian đầu chiến tranh các tàu vận tải của Anh đi tự do không có bảo vệ nên bị tàu ngầm Đức đánh đắm rất nhiều dưới hình thức "săn mồi tự do". Để hạn chế thiệt hại do tàu ngầm, Anh đã áp dụng biện pháp "convoy" (đoàn hộ tống): các tàu vận tải đi theo đoàn lớn dưới sự bảo vệ bên ngoài của tàu chiến. Biện pháp này ban đầu rất hiệu quả vì khi đó tàu ngầm còn rất thô sơ mang được ít ngư lôi và ngư lôi chất lượng không cao hay bắn trượt, nên tàu ngầm thường chỉ bắn ngư lôi vào tàu chiến đối phương, còn để tiêu diệt tàu vận tải thì bằng cách nổi lên dùng pháo bắn. Với sự bảo vệ của đoàn tàu chiến trong convoy thì việc này không thực hiện được nữa. Sau đó tàu ngầm Đức đổi chiến thuật: các tàu ngầm đi thành bầy lớn khi phát hiện đoàn convoy thì thay vì tấn công chúng bám theo chờ trời tối thì nổi lên bơi lẫn vào đoàn convoy và lần lượt hạ thủ các tàu vận tải, chiến thuật này về sau vẫn áp dụng cho cả Thế chiến II... Việc đánh vận tải và đảm bảo vận tải diễn ra quyết liệt và rất năng động từ hai phía. Để tăng cường sức ép lên nước Anh, Đức đã hai lần tuyên bố chiến tranh tàu ngầm không hạn chế không chấp nhận trung lập của bất kỳ tàu của quốc gia nào, tàu ngầm Đức bắn cả vào tàu Mỹ chở hàng cho Anh là nguyên nhân để Hoa Kỳ tham gia chiến tranh chống Đức.
Trong Thế chiến I lần đầu tiên xuất hiện một loại binh chủng mới là không quân tác chiến trên trời. Vì là loại hình mới trang bị còn rất thô sơ nên chiến tranh trên không chưa có ý nghĩa lớn và chưa thể gây được tác động lớn đến kết quả chiến tranh. Tuy nhiên nó cũng đã có các hình thức chiến đấu mà ngay sau chiến tranh được các bên tích cực phát triển đó là không chiến của các máy bay cánh cố định đánh nhau; tấn công mặt đất của máy bay đối với lực lượng mặt đất; ném bom tầm xa với các zapperlin, trinh sát bởi máy bay hoặc khinh khí cầu.
Các vũ khí mới
Thế chiến thứ nhất đã cho thấy các thứ vũ khí mới với hiệu quả huỷ diệt rất mạnh.- Vũ khí hoá học là đặc sản của Thế chiến I: lần đầu tiên loài người sử dụng vũ khí hoá học nhân tạo một cách ồ ạt và quy mô lớn với các dạng hoá chất độc khác nhau từ loại ít nguy hiểm nhất là hơi cay hay chất làm chảy nước mắt đến loại khí nguy hiểm hơn nhưng không chết người chỉ loại khỏi vòng chiến như hơi mù tạc, Yprit (gây lở loét da và lấy tên theo địa điểm diễn ra trận tấn công hoá học là Ypres) và cao hơn nữa là hơi ngạt clo và các chất gây tử vong khác như phosgene. Để chống lại vũ khí hoá học các bên đã sử dụng phương tiện rất hiệu quả là mặt nạ phòng độc. Vào cuối kỳ chiến tranh việc sử dụng vũ khí hoá học giảm hẳn vì các bên sợ leo thang rất nguy hiểm của loại vũ khí này và việc dùng chúng nhiều khi phản tác dụng (gió đổi chiều thì tự hại quân mình) vì thời kỳ đó việc phát tán tác nhân hoá học còn thô sơ chủ yếu dựa vào gió.
- Súng máy: là loại vũ khí tuy ra đời từ trước thế chiến nhưng trong thế chiến đã thể hiện rõ uy lực của mình và làm thay đổi chiến thuật chiến đấu. Do trình độ kỹ thuật khi đó còn chưa cao con người mới chỉ có thể chế tạo súng máy bắn nhanh có kích thước to nên nó không phải là vũ khí cá nhân mà bố trí cố định để phòng thủ, trong khi đó quân bộ binh tấn công vẫn dùng súng trường lên quy lát bắn phát một, đó cũng là một nguyên nhân gây nên sự mất cân đối tấn công - phòng thủ. Súng máy đặt trong công sự dễ dàng vô hiệu hoá các cuộc tấn công bằng bộ binh "làn sóng người" và các cuộc tấn công của kỵ binh. Chính với sự phát triển của súng máy mà kỵ binh hết thời và ngày càng suy giảm.
- Đạn pháo mảnh: Để chống lại làn sóng bộ binh tấn công các bên áp dụng đạn pháo mảnh để tăng tính sát thương, chính số lượng chết trận nhiều nhất của quân sỹ là do pháo binh với đạn pháo mảnh. Với sự áp dụng của pháo binh bắn nhanh, đạn mảnh uy lực huỷ diệt lớn cộng với hoả lực súng máy đã làm chấm dứt chiến thuật đội hình ô vuông và làm phát sinh đội hình tản mát của bộ binh và kéo theo các thay đổi khác của tác chiến trên bộ.
- Máy bay: đây là cuộc chiến tranh có sự tham gia đông đảo đầu tiên của máy bay, do máy bay đang ở giai đoạn đầu phát triển còn rất thô sơ nhưng nó đã có các hành động chiến đấu rất hiệu quả và sau này được các bên nhận thấy các tiềm năng phát triển rất lớn. Trong đại chiến máy bay làm các nhiệm vụ không chiến (đánh nhau với máy bay địch), tấn công mặt đất, trinh sát, liên lạc.
- Tàu ngầm: đây là vũ khí có hiệu quả nhất của Thế chiến I. Với tàu ngầm thì một hạm đội yếu có thể chống lại một hạm đội mạnh một cách hiệu quả. Một sự đầu tư nhỏ hơn (vào tàu ngầm) mang lại hiệu quả lớn hơn nhiều khi xây dựng các hạm tàu mặt nước lớn. Điều đó giải thích tại sao Hải quân Đức dồn sức xây dựng lực lượng tàu ngầm U boat của mình trong cả Thế chiến I và Thế chiến II. Thời gian này tàu ngầm còn rất thô sơ hoạt động nổi là chủ yếu, chỉ lặn xuống khi gặp tàu chiến đối phương và vũ khí ngư lôi mang theo cũng không nhiều, độ chính xác kém, thường tàu ngầm chỉ dùng ngư lôi để bắn tàu chiến đối phương khi đang lặn, còn đối với tàu vận tải thì nó nổi lên dùng pháo để bắn chìm. Với sự nguy hiểm của tàu ngầm đã diễn ra cuộc đấu tranh quyết liệt giữa phá giao thông và bảo vệ giao thông trên biển cũng như giữa tàu ngầm và tàu săn ngầm với các thiết bị thuỷ âm phát hiện tàu ngầm. Trong thế chiến này lực lượng tàu ngầm của Đức đã đánh chìm rất lớn số tải trọng tàu vận tải của Anh và làm kinh tế Anh lao đao, nhưng đồng thời nó cũng bị thiệt hại rất nặng nề.
- Xe tăng: đây là vũ khí ra đời trong thế chiến để khắc phục sự mất cân đối giữa tấn công và phòng ngự tuy xe tăng còn rất thô sơ thiếu độ tin cậy nhưng đã chứng minh được tiềm năng phát triển của mình và các bên đua nhau chế tạo xe tăng. Từ trận đầu tham chiến vào tháng 9 năm 1916 tại trận Sông Somme đến năm 1917 phía Entente có trận Cambrai đã huy động hơn 400 xe tăng để tấn công. Tuy nhiên xe tăng trong thế chiến I vì các tính năng còn yếu kém của mình mới chỉ được sử dụng như phương tiện yểm trợ bộ binh để đánh chiến tuyến của địch, chỉ đến Thế chiến thứ hai xe tăng mới phát huy hết tính năng tấn công cơ động thọc sâu của nó.
Hậu quả của chiến tranh
Ảnh hưởng kinh tế, địa - chính trị
- Thế chiến thứ nhất để lại rất nhiều hậu quả trước mắt và lâu dài. Cuộc chiến làm hơn mười triệu người chết và hàng chục triệu người khác bị tàn phế, các thành phố, làng mạc, đường sá, cầu cống, nhà máy bị phá hủy. Số tiền các nước tham chiến chi phí cho chiến tranh lên tới khoảng 85 tỉ đôla. Ngoài sức mạnh tàn phá nhân mạng, kinh tế, vật chất, nó còn gây hãi hùng lâu dài về tâm lý cho cả châu Âu gây ra một thế hệ bị mất mát của châu Âu. Chính cuộc chiến này làm cho châu Âu tụt hậu và mất đi vai trò lãnh đạo văn minh nhân loại mà nó đã đảm đương trong hơn 300 năm qua và dần dần vai trò đó chuyển sang bên kia đại dương cho Hoa Kỳ.
- Chiến tranh gây ra sự thay đổi rất lớn trong bản đồ chính trị châu Âu. Cuộc chiến dẫn đến sự sụp đổ của bốn đế quốc Nga (1917), Đức (1918), Áo - Hung (1918), Ottoman (1923) với các triều đình quân chủ hàng trăm năm bị suy đổ trong đó hai cường quốc Áo - Hung và Ottoman bị phân rã và mất hẳn vai trò cường quốc. Hai đế quốc Đức, Nga bị cắt xén lãnh thổ và bị kiềm chế với tình cảm dân tộc nước lớn bị tổn thương sâu sắc và đó là đất đai rất tốt cho tư tưởng phục thù để dẫn đến một thế chiến mới. Rất nhiều các nước nhỏ xuất hiện từ sự phân rã của các đế quốc và từ sự phân chia mang tính chủ quan, quan liêu của các cường quốc thắng trận dẫn đến các mâu thuẫn lộn xộn gây mất ổn định thế giới sau này.
- Chiến tranh này cho thấy rõ mâu thuẫn ghê gớm của hệ thống thuộc địa một nguyên nhân của đại chiến thế giới, tuy rằng sau chiến tranh nó còn tiếp tục tồn tại theo quán tính nhưng ngay sau Thế chiến II, nó bị tất cả các nước, cả thuộc địa và cả các chủ thuộc địa cùng dỡ bỏ.
- Thế chiến thứ nhất cũng ngay lập tức đem lại những thay đổi về hệ thống chính trị tại các nước châu Âu. Tại Đức, nền quân chủ bị lật đổ, Cộng hòa Weimar ra đời. Tuy nhiên nền cộng hòa này cũng sớm đối mặt liên tục với những khó khăn chồng chất về kinh tế và xã hội, và tồn tại được 15 năm trước khi Adolf Hitler lên nắm quyền. Một trong những ảnh hưởng lâu dài nhất của Thế chiến thứ nhất là sự ra đời của Liên Bang Xô Viết. Chiến tranh đã làm cho người dân Nga lâm vào tình trạng vô cùng khó khăn. Hoàn cảnh này đã đẩy Nga vào cuộc Cách mạng tháng Mười với sự thắng lợi của chủ nghĩa cộng sản. Điều đó khiến cho các nước phương Tây vô cùng lo sợ và đề phòng sự lan rộng của chủ nghĩa cộng sản, làm nảy sinh những mối nghi ngờ liên tục lẫn nhau giữa các nước này và Liên Xô gần như suốt cả thế kỉ 20. Thế chiến I kết thúc cũng là sự mở màn cho thế lực phát xít lên ngôi tại nhiều nước trong bối cảnh xã hội bất ổn như tại Ý và Đức. Như vậy châu Âu sau cuộc chiến đã có sự chia rẽ rõ rệt về mặt chính trị giữa các thế lực cộng sản, phát xít và phương Tây, tạo bệ phóng cho một cuộc thế chiến mới.
Ảnh hưởng tâm lý - xã hội
Chiến tranh đồng thời gây ra các xu hướng tâm lý - xã hội đối nghịch:- Một mặt trước đây rất nhiều tầng lớp người châu Âu bị cuốn theo tình cảm dân tộc chủ nghĩa và sau chiến tranh họ nhận thức ra được kết quả mà chủ nghĩa dân tộc quá đáng có thể mang lại nên họ bắt đầu định hướng lại theo một tinh thần mới với tinh thần chủ nghĩa quốc tế và xu hướng hoà bình chủ nghĩa, nhân đạo chủ nghĩa. Sau chiến tranh, thế giới đã tổ chức ra Hội Quốc Liên và phong trào hoà bình nảy nở mạnh ra trên khắp toàn cầu đó là các thể hiện của xu thế này.
- Mặt khác có một xu hướng hoàn toàn đối nghịch hẳn lại: Đó là sự thất vọng vào các giá trị nhân văn của loài người và phát sinh tâm lý tôn sùng sức mạnh, tôn sùng bạo lực với sự tin tưởng rằng chỉ có sức mạnh và sự cứng rắn mới là chỗ dựa đáng tin cậy trong thời đại bất ổn này. Đây là cơ sở để nảy nở tâm lý thô bạo và chủ nghĩa hư vô, hoài nghi, tâm lý này là đất đai rất tươi tốt cho chủ nghĩa quân phiệt và chủ nghĩa phát xít và các xu hướng cực đoan nảy nở và bám rễ trong xã hội sau chiến tranh. Sau khi Triều đình Ottoman phải ký Hiệp định Sevres, ngọn lửa dân tôc chủ nghĩa đã bùng cháy, với cuộc Chiến tranh Giải phóng Dân tộc Thổ Nhĩ Kỳ do Chính phủ đối lập cuả lãnh tụ Mustafa Kemal Atatürk phát động tại Ankara, nhằm phản đối việc Sultan Mehmed VI ký kết Hiệp định Sevres và đánh đuổi quân Entente (lần này bao gồm Anh, Pháp, Ý, Hy Lạp). Lợi dụng quân Entente còn quá mỏi mệt với cuộc Đại chiến vừa qua, phe dân tộc chủ nghĩa Thổ Nhĩ Kỳ tổ chức tiến công đánh tan tác quân Entente, buộc địch phải ký Hiệp định Lausanne (1923). Với Hiệp định này, Đế quốc Ottoman sụp đổ, Sultan Mehmed VI thóai vị, và nước Cộng hòa Thổ Nhĩ Kỳ ra đời vào tháng 10 năm 1923.[49][50][51][52]
- Chiến tranh cũng đồng thời gây ra cảm giác đây là kết thúc của "thế giới cũ" là kết thúc của chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa đế quốc. Trên nền tảng đó các phong trào cộng sản và phong trào chủ nghĩa xã hội nảy nở và phát triển rất mạnh mẽ ở châu Âu và trên thế giới.
Những bài học chính trị của Thế chiến thứ nhất
“ | Về công nghiệp và thương mại, Đức đã chiến thắng cuộc chiến tranh. Những công xưởng của họ vẫn còn nguyên, những khoản nợ chiến tranh của họ chỉ nằm trong nước và sẽ được thanh toán dễ dàng bằng việc vận động hành chính... | ” |
—Georges Benjamin Clemenceau[19]
|
- Chiến tranh thế giới cho thấy, trong điều kiện của các mối quan hệ chặt chẽ của thế giới, của công nghệ cao, quy mô toàn cầu, với độ tàn phá khủng khiếp của chiến tranh thì "không ai có thể có lợi trong chiến tranh nếu nó nổ ra, thậm chí là chiến tranh khu vực". Đối với Đế quốc Anh, cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ nhất là một chiến thắng kiểu Pyrros của họ. Họ gặp khó khăn trong việc duy trì Đế chế rộng lớn của họ kể từ sau cuộc chiến kinh hoàng này.[53] Pháp còn thể hiện chiến thắng kiểu Pyrros rõ ràng hơn Anh Quốc. Nhờ có cao trào Cách mạng Nga năm 1917, Pháp không thể liên minh với nước Nga được nữa.[54] Người Đức đã đập phá tan tành những trung tâm công nghiệp của Pháp và chinh phạt được đủ đất đai để có thể thực hiện phần lớn chiến lược về cuối cuộc Đại chiến.[55] Cả Anh Quốc và Pháp đều chỉ có thể chấm dứt cuộc chiến nhờ sự đổ bộ của quân Mỹ.[56] Cuộc chiến tranh chứng tỏ rằng nước Đức mạnh hơn Pháp, do đó Pháp không thể nào một mình thắng Đức.[57] Bị khánh kiệt, nhiều người Pháp sau cuộc Đại chiến thường cho rằng "chúng ta không thể làm nên một trận Verdun nữa".[58] Thủ tướng Pháp Clemenceau cũng thừa nhận rằng trong vài năm tới, nước Đức sẽ bỏ xa Pháp về công nghiệp, thương mại và tài chính.[59] Với những lợi thế này, sau chiến tranh nước Đức phát triển bỏ xa Pháp và tạo điều kiện cho Đức một lần nữa lên tranh hùng tranh bá.[3][60] Giữa thập niên năm 1920, nhiều người Pháp tin chắc rằng nước này sẽ một lần nữa bị người Đức tiến công.[15] Cho đến năm 1939, mọi việc đã chứng tỏ chiến thắng kiểu Pyrros của các nước Entente dẫn đến sự suy yếu của bọn họ.[61] Chiến thắng kiểu Pyrros của Pháp trong cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ nhất kế tiếp đại bại thê thảm của Pháp trong cuộc chiến tranh chống Phổ (1870 - 1871), và được kế tiếp bởi đại bại tả tơi của quân Pháp trước các chiến binh tinh nhuệ Đức vào năm 1940 và trước những cao trào đấu tranh giành độc lập của các dân tộc thuộc địa (như vào năm 1954 tại Việt Nam và 1962 tại Algérie). Và, như đã nói, không lâu sau cuộc Đại chiến, vào năm 1923, các nước Anh, Pháp, Ý, Hy Lạp đều phải chịu thất bại trong cuộc Chiến tranh Giải phóng Dân tộc Thổ Nhĩ Kỳ.[62][63] Những chiến bại thê thảm ấy cũng là vì sự nhừ đòn và tổn hại khủng khiếp của Pháp trong cuộc Đại chiến 1914 - 1918 này.[15][64]
- Thế giới đã đi vào giai đoạn phát triển kinh tế, văn hoá, chính trị có trình độ cao, ở mức trình độ đó thế giới không thể còn chỗ cho chủ nghĩa đế quốc và các loại chủ nghĩa nước lớn trắng trợn. Với các quan hệ quốc tế chặt chẽ và quyền lợi đan xen thì chủ nghĩa ích kỷ ở phạm vi quốc gia và quốc tế tất yếu dẫn đến xung đột đối kháng, và chiến tranh thì đều thiệt hại cho tất cả các bên. Tư duy đế quốc chủ nghĩa phải bị loại trừ ra khỏi các quan hệ quốc tế, nảy sinh loại tư duy mới là "cùng tồn tại hoà bình, thoả hiệp các lợi ích trên cơ sở các bên cùng có lợi". Chính vì vậy ngay sau Thế chiến I các nước đã đồng lòng tổ chức ra Hội Quốc Liên với mục tiêu để điều hoà các quan hệ quốc tế trên cơ sở các bên cùng chấp nhận được.
- Hệ thống thuộc địa như nguyên nhân của mâu thuẫn phải bị loại bỏ, bắt đầu từ Thế chiến I hệ thống thuộc địa thế giới bắt đầu lỏng lẻo và đến sau Thế chiến II thì diễn ra quá trình phi thực dân hoá ồ ạt với sự cổ vũ và chấp nhận của tất cả các cường quốc thế giới.
- Một bài học rất to lớn của Thế chiến I và II cho thấy: "yếu tố dân tộc quốc gia là có động lực rất lớn và các quyền lợi chính đáng của nó phải được tôn trọng". Tình hình quốc tế không thể yên nếu dựa trên cơ sở không tôn trọng tình cảm, quyền lợi chính đáng của quốc gia, dân tộc. Một dân tộc bị dồn vào thế cùng đường sẽ phản ứng rất mãnh liệt gây hậu hoạ cho hoà bình thế giới. Một ví dụ rất điển hình: sự kiềm chế kìm hãm càng chặt chẽ đối với Đức sau Thế chiến I chỉ càng thúc đẩy chủ nghĩa phục thù với sự tìm kiếm các phương sách càng quyết liệt, cực đoan hơn của Hitler và cuối cùng là với các kết quả thảm khốc đối với người kìm hãm. Sau Thế chiến II Hoa Kỳ như một thế lực lãnh đạo thế giới đã nhận thức được vấn đề này nên trong chương trình tái thiết sau chiến tranh đã giúp đỡ cả các nước kẻ thù thua trận: Đức, Ý, Nhật để các nước này vươn lên không ở vị thế buộc phải lao tiếp vào chủ nghĩa phục thù.
- Và một bài học cuối đúc rút từ các bài học trên "Vấn đề chiến tranh và hoà bình là vấn đề chung của cả thế giới". Một khi chiến tranh nổ ra nó dễ dàng kéo cả thế giới vào cuộc. Với hậu quả quá khốc liệt của chiến tranh loài người phải nhận thức được sự cần thiết "cần ngăn chặn nó trước khi quá muộn" đó phải là nỗ lực chung của tất cả các nước.
Xem thêm
- Chiến tranh thế giới thứ hai
- Các trận đánh trong thế chiến thứ nhất
- Một Hòa bình để Kết thúc Mọi Hòa bình
Chú thích
- ^ a ă â b Spencer Tucker, Priscilla Mary Roberts, World War I: encyclopedia, Tập 1, trang 123
- ^ a ă Michael J. Romano, CliffsAP European History, trang 161
- ^ a ă â Barry R. Posen, The sources of military doctrine: France, Britain, and Germany between the world wars, trang 109
- ^ a ă Tucker & Roberts 2005, tr. 273
- ^ Con số đối với Đế quốc Anh
- ^ Con số đối với chính quốc Pháp và các thuộc địa
- ^ David Fraser, The Grenadier Guards, trang 22
- ^ Spencer Tucker, Priscilla Mary Roberts, World War I: encyclopedia, Tập 1, trang 1175
- ^ Nigel Thomas, Dušan Babac, Armies in the Balkans 1914-18, các trang 3-4.
- ^ Nigel Thomas, Dušan Babac, Armies in the Balkans 1914-18, trang 19
- ^ Samuel Lyman Atwood Marshall, World War I, các trang 51-58.
- ^ Keegan 1988, tr. 8
- ^ Bade & Brown 2003, tr. 167–168
- ^ Karl-Heinz Frieser, John T. Greenwood, The Blitzkrieg legend: the 1940 campaign in the West, trang 320
- ^ a ă â Michael Adas, Essays on Twentieth-Century History, trang 188
- ^ Spencer E. Ante, Creative capital: Georges Doriot and the birth of venture capital, trang 28
- ^ a ă â Sir Alistair Horne, The Price of Glory: Verdun 1916, các trang 328-331.
- ^ Richard Evans, Disasters That Changed Australia, trang 29
- ^ a ă Conan Fischer, Europe Between Democracy and Dictatorship: 1900 - 1945, trang 109
- ^ Patrick Howarth, Intelligence chief extraordinary: the life of the ninth Duke of Portland, trang 42
- ^ Michael Graham Fry, Erik Goldstein,Richard Langhorne, Guide to International Relations and Diplomacy, trang 146
- ^ Sparknotes Chiến tranh thế giới lần thứ nhất
- ^ Keegan 1988, tr. 11
- ^ Dennis E. Showalter, Tannenberg: Clash of Empires 1914, trang 1
- ^ Jonathan Martin Kolkey, Germany on the march: a reinterpretation of war and domestic politics over the past two centuries, trang 190
- ^ Heinrich August Winkler, Germany: the long road west, Tập 2, trang 304
- ^ Jackson J. Spielvogel, Western Civilization: Since 1500
- ^ Henry William Elson, Modern times and the living past, trang 657
- ^ Spencer Tucker, Priscilla Mary Roberts, World War I: encyclopedia, Tập 1, trang 113
- ^ Marc Ferro, Nicholas II: last of the tsars, trang 160
- ^ a ă Giles MacDonogh, The Last Kaiser: The Life of Wilhelm II, trang 435
- ^ Ronald Pawly, The Kaiser's warlords: German commanders of World War I, trang 45
- ^ Dennis E. Showalter, Tannenberg: Clash of Empires 1914, trang 2
- ^ Elite 078 - Trench Warfare WWI 1914-1916 NXB Osprey tr 17
- ^ Jonathan Martin Kolkey, Germany on the march: a reinterpretation of war and domestic politics over the past two centuries, trang 98
- ^ Anne Commire, Historic World Leaders: Europe (A-K), trang 462
- ^ Spencer Tucker, Priscilla Mary Roberts, World War I: encyclopedia, Tập 1, trang 778
- ^ David R. Shermer, World War I, trang 112
- ^ Ronald Pawly, The Kaiser's warlords: German commanders of World War I, trang 52
- ^ a ă Matthias Strohn, The German Army and the Defence of the Reich: Military Doctrine and the Conduct of the Defensive Battle 1918-1939, trang 90
- ^ a ă David R. Shermer, World War I, các trang 141-142.
- ^ J. M. Winter, Blaine Baggett, The Great War and the shaping of the 20th century, trang 112
- ^ Carl Cavanagh Hodge, Encyclopedia of the Age of Imperialism, 1800-1914: A-K, trang 308
- ^ Ronald Pawly, The Kaiser's warlords: German commanders of World War I, trang 53
- ^ David R. Shermer, World War I, trang 209
- ^ Leonard V. Smith, Stéphane Audoin-Rouzeau, Annette Becker, France and the Great War, 1914-1918, trang 157
- ^ http://quocphong.baodatviet.vn/Home/QPCN/lichsuquansu/Nhung-chuyen-thu-vi-ve-chien-tranh/20123/198395.datviet
- ^ David W. Del Testa, Florence Lemoine, John Strickland, Government leaders, military rulers, and political activists, trang 12
- ^ a ă Spencer Tucker, Priscilla Mary Roberts, World War I: encyclopedia, Tập 1, trang 779
- ^ B.V. Rao, History Of Modern Europe (1789-1992), trang 201
- ^ Gerd Nonneman, Analyzing Middle East foreign policies and the relationship with Europe, trang 220
- ^ Spencer Tucker, Priscilla Mary Roberts, World War I: encyclopedia, Tập 1, trang 878
- ^ Adolf Hitler, Secret conversations, 1941-1944, trang 42
- ^ Kenneth Mouré, Martin S. Alexander, Crisis and renewal in France, 1918-1962, trang 96
- ^ Hew Strachan, The First World War: To arms, trang 163
- ^ Henri F. Ellenberger, The discovery of the unconscious: the history and evolution of dynamic psychiatry, trang 826
- ^ Wladyslaw Wszebor Kulski, De Gaulle and the world: the foreign policy of the Fifth French Republic, trang 262
- ^ Richard Mayne, Douglas Johnson, Robert Tombs, Cross Channel currents: 100 years of the Entente Cordiale, trang 68
- ^ Arno J. Mayer, Politics and diplomacy of peacemaking: containment and counterrevolution at Versailles, 1918-1919, trang 647
- ^ Thomas B. Buell, John N. Bradley, Thomas E. Griess, Jack W. Dice, John H. Bradley, The Second World War: Europe and the Mediterranean, trang 31
- ^ Frank Field, Three French writers and the Great War: Studies in the rise of communism and fascism, trang 2
- ^ Christopher Houston, Islam, Kurds and the Turkish nation state, trang 126
- ^ Ivar Spector, The Soviet Union and the Muslim world, 1917-1958, trang 82
- ^ Anne Sa'adah, Contemporary France: a democratic education, trang 39
Tài liệu tham khảo
- American Armies and Battlefields in Europe: A History, Guide, and Reference Book, U.S. Government Printing Office, 1938, OCLC 59803706
- Army Art of World War I, U.S. Army Center of Military History: Smithsonian Institution, National Museum of American History, 1993, OCLC 28608539
- Asghar, Syed Birjees (12 tháng 6 năm 2005), A Famous Uprising, Dawn Group, truy cập ngày 2 tháng 11 năm 2007
- Ashworth, Tony (2000), Trench warfare, 1914-18: the live and let live system, London: Pan, ISBN 0330480685, OCLC 247360122 Đã bỏ qua tham số không rõ
|originalyear=
(trợ giúp) - Bade, Klaus J; Brown, Allison (tr.) (2003), Migration in European History, The making of Europe, Oxford: Blackwell, ISBN 0631189394, OCLC 52695573 (translated from the German)
- Balakian, Peter (2004), The Burning Tigris: The Armenian Genocide and America's Response, New York: HarperCollins, ISBN 0060558709, OCLC 56822108
- Bass, Gary Jonathan (2002), Stay the Hand of Vengeance: The Politics of War Crimes Tribunals, Princeton, New Jersey: Princeton University Press, tr. 424pp, ISBN 0691092788, OCLC 248021790
- Blair, Dale (2005), No Quarter: Unlawful Killing and Surrender in the Australian War Experience, 1915-1918, Charnwood, Australia: Ginninderra Press, ISBN 1740272919, OCLC 62514621
- Blumberg, Arnold biên tập (1995), Great Leaders, Great Tyrants?, Westport, Connecticut: Greenwood Press, ISBN 0313287511, OCLC 30400598
- Brands, Henry William (1997), T. R.: The Last Romantic, New York: Basic Books, ISBN 0465069584, OCLC 36954615
- Cecil, Lamar (1996), Wilhelm II: Emperor and Exile, 1900-1941 II, Chapel Hill, North Carolina: University of North Carolina Press, tr. 176, ISBN 0807822833, OCLC 186744003
- Chickering, Rodger (2004), Imperial Germany and the Great War, 1914-1918, Cambridge: Cambridge University Press, ISBN 0521839084, OCLC 55523473
- Clark, Charles Upson (1927), Bessarabia, Russia and Roumania on the Black Sea, New York: Dodd, Mead, OCLC 150789848
- Coffman, Edward M (1998), The War to End All Wars: The American Military Experience in World War I, Lexington, Kentucky: University Press of Kentucky, ISBN 0813109558, OCLC 38842092
- Cook, Tim (2006), “The politics of surrender: Canadian soldiers and the killing of prisoners in the First World War”, The Journal of Military History 70 (3): 637–665, doi:10.1353/jmh.2006.0158
- Cornish, Nik; Karachtchouk, Andrei (ill.) (2001), The Russian Army 1914-18, Men-at-Arms, Oxford: Osprey Publishing, tr. 48, ISBN 1841763039, OCLC 248331622
- Coulthard-Clark, Christopher D (2001), The Encyclopaedia of Australia's Battles, Crows Nest, New South Wales: Allen & Unwin, tr. 320pp, ISBN 1865086347, OCLC 48793439
- Cruttwell, Charles Robert Mowbray Fraser (2007), A History of the Great War, 1914–1918, Chicago: Academy Chicago Publishers, ISBN 0897333152 Đã bỏ qua tham số không rõ
|originalyear=
(trợ giúp) general military history - Dignan, Don K (February năm 1971), “The Hindu Conspiracy in Anglo-American Relations during World War I.”, The Pacific Historical Review (University of California Press) 40 (1): 57–76, ISSN 0030-8684
- Duffy, Michael, Somme, First World War.com, truy cập 25 tháng 2 năm 2007
- Dupuy, Trevor Nevitt (1979), Numbers, Predictions and War, Indianapolis: Bobbs-Merrill, ISBN 0672521318, OCLC 4037624
- Eksteins, Modris (1989), Rites of Spring: The Great War and the Birth of the Modern Age, London: Bantam, ISBN 0593018621, OCLC 19455240 an analysis of cultural changes before, during, and after the war
- Ellis, John; Cox, Michael (2001), The World War I Databook: The Essential Facts and Figures for All the Combatants, London: Aurum, ISBN 1854107666, OCLC 46506978
- Esposito, Vincent J (1997), 1900–1918, The West Point Atlas of American Wars II, New York: Henry Holt, ISBN 0805053050, OCLC 39644150 despite the title covers entire war
- Evans, David (2004), The First World War, Teach yourself, London: Hodder Arnold, ISBN 0340884894, OCLC 224332259
- Evans, Leslie (27 tháng 5 năm 2005), Future of Iraq, Israel-Palestine Conflict, and Central Asia Weighed at International Conference, UCLA International Institute, truy cập ngày 30 tháng 12 năm 2008
- Falls, Cyril Bentham (1959), The Great War, New York: Putnam, ISBN 0399501002, OCLC 8664179 general military history
- Ferguson, Niall (1999), The Pity of War, New York: Basic Books, tr. 563pp, ISBN 046505711X, OCLC 41124439
- Ferguson, Niall (2006), The War of the World: Twentieth-Century Conflict and the Descent of the West, New York: Penguin Press, ISBN 1594201005
- Fischer, Fritz (1967), Germany's Aims in the First World War, New York: Norton, OCLC 1558559 (original German title "Griff nach der Weltmacht: Die Kriegzielpolitik des kaiserlichen Deutschland 1914/18")
- Fischer, Fritz; Jackson, Marian (1975), War of Illusions: German Policies From 1911 to 1914, New York: Norton, OCLC 221830012 (original German title "Krieg der Illusionen die deutsche Politik von 1911 - 1914")
- Fortescue, Granville Roland (28 tháng 10 năm 1915), London in Gloom over Gallipoli; Captain Fortescue in Book and Ashmead-Bartlett in Lecture Declare Campaign Lost. Say Allies Can't Advance; Attack on Allied Diplomacy in Correspondent's Doleful Talk Passed by Censor, New York Times
- Fraser, Thomas G (April năm 1977), “Germany and Indian Revolution, 1914-18”, Journal of Contemporary History (Sage Publications) 12 (2): 255–272, doi:10.1177/002200947701200203, ISSN 00220094
- Fromkin, David (2001), A Peace to End All Peace: The Fall of the Ottoman Empire and the Creation of the Modern Middle East, New York: Owl Books, tr. 119, ISBN 0805068848, OCLC 53814831
- Fromkin, David (2004), Europe's Last Summer: Who Started the Great War in 1914?, New York: Alfred A. Knopf, ISBN 0375411569, OCLC 53937943
- Fussell, Paul (1975), The Great War and Modern Memory, New York: Oxford University Press, ISBN 0195019180, OCLC 1631561 on literature
- Gelvin, James L (2005), The Israel-Palestine Conflict: One Hundred Years of War, Cambridge: Cambridge University Press, ISBN 0521852897, OCLC 59879560
- Gilbert, Martin (2004), The First World War: A Complete History, Clearwater, Florida: Owl Books, tr. 306, ISBN 0805076174, OCLC 34792651
- Gray, Edwyn A (1994), The U-Boat War, 1914–1918, London: L Cooper, ISBN 0850524059, OCLC 59816503 Đã bỏ qua tham số không rõ
|original-title=
(trợ giúp) - Green, John Frederick Norman (1938), “Obituary: Albert Ernest Kitson”, Geological Society Quarterly Journal (Geological Society) 94
- Haber, LF (1986), The Poisonous Cloud: Chemical Warfare in the First World War, Oxford: Clarendon, ISBN 0198581424, OCLC 12051072
- Halpern, Paul G (1995), A Naval History of World War I, New York: Routledge, ISBN 1857284984, OCLC 60281302
- Harrach, Franz, “Archduke Franz Ferdinand's Assassination, 28 tháng 6 năm 1914: Memoir of Count Franz von Harrach”, Primary Documents (First World War.com)
- Hardach, Gerd (1977), The First World War 1914–1918, London: Allen Lane, ISBN 0713910240, OCLC 3174153 Đã bỏ qua tham số không rõ
|original-title=
(trợ giúp) economics - Heller, Charles E (1984), Chemical warfare in World War I: the American experience, 1917-1918, Fort Leavenworth, Kansas: Combat Studies Institute, OCLC 123244486
- Henig, Ruth Beatrice (2002), The Origins of the First World War, Lancaster Pamphlets (ấn bản 3), London: Routledge, ISBN 0415262054, OCLC 59470456
- Herbert, Edwin (2003), Small Wars and Skirmishes 1902-1918: Early Twentieth-century Colonial Campaigns in Africa, Asia and the Americas, Nottingham: Foundry Books Publications, ISBN 1901543056
- Herrmann, David G (1996), The Arming of Europe and the Making of the First World War, Princeton, New Jersey: Princeton University Press, ISBN 0691033749, OCLC 32509928
- Herwig, Holger H (1996), The First World War: Germany and Austria-Hungary 1914–1918, London: Arnold, ISBN 0340573481, OCLC 60154404
- Heyman, Neil M (1997), World War I, Guides to historic events of the twentieth century, Westport, Connecticut: Greenwood Press, ISBN 0313298807, OCLC 36292837
- Hickey, Michael (2003), The Mediterranean Front 1914-1923, The First World War 4, New York: Routledge, tr. 60–65, ISBN 0415968445, OCLC 52375688
- Higham, Robin DS; Showalter, Dennis E biên tập (2003), Researching World War I: A Handbook, Westport, Connecticut: Greenwood Press, ISBN 031328850X, OCLC 51922814, historiography, stressing military themes
- Hinterhoff, Eugene (1984), “The Campaign in Armenia”, trong Young, Peter, Marshall Cavendish Illustrated Encyclopedia of World War I (New York: Marshall Cavendish) ii, ISBN 0863071813
- Hooker, Richard (1996), The Ottomans, truy cập ngày 30 tháng 12 năm 2008
- Hoover, Herbert; Wilson, Woodrow (1958), Ordeal of Woodrow Wilson, New York: McGraw-Hill, OCLC 254607345
- Howard, Michael Eliot (2002), The First World War, Oxford: Oxford University Press, tr. 175, ISBN 0192853627, OCLC 59376613, general military history
- Hubatsch, Walther; Backus, Oswald P (1963), Germany and the Central Powers in the World War, 1914–1918, Lawrence, Kansas: University of Kansas, OCLC 250441891
- Hughes, Thomas L (October năm 2002), “The German Mission to Afghanistan, 1915-1916”, German Studies Review (German Studies Association) 25 (3): 447–476, doi:10.2307/1432596, ISSN 01497952
- Hull, Cordell; Berding, Andrew Henry Thomas (1948), The Memoirs of Cordell Hull 1, New York: Macmillan, tr. 81, OCLC 228774232
- Isaac, Jad; Hosh, Leonardo (7-9 tháng 5 năm 1992), Roots of the Water Conflict in the Middle East, University of Waterloo
- Isenberg, Michael Thomas (1981), War on Film: The American Cinema and World War I, 1914-1941, Fairleigh Dickinson University Press, ISBN 0838620043, OCLC 5726236
- Johnson, James Edgar (2001), Full Circle: The Story of Air Fighting, London: Cassell, ISBN 0304358606, OCLC 45991828
- Joll, James (1984), The Origins of the First World War, London: Longman, ISBN 0582490162, OCLC 9852205
- Jones, Howard (2001), Crucible of Power: A History of U. S. Foreign Relations Since 1897, Wilmington, Delaware: Scholarly Resources Books, ISBN 0842029184, OCLC 46640675
- Kaplan, Robert D. (February năm 1993), “Syria: Identity Crisis”, The Atlantic, truy cập ngày 30 tháng 12 năm 2008
- Karp, Walter (1979), The Politics of War (ấn bản 1), ISBN 006012265X, OCLC 4593327, Wilson's maneuvering U.S. into war
- Keegan, John (1998), The First World War, Hutchinson, ISBN 0091801788, general military history
- Keene, Jennifer D (2006), World War I, Westport, Connecticut: Greenwood Press, tr. 5, ISBN 0313331812, OCLC 70883191 Đã bỏ qua tham số không rõ
|seriestitle=
(trợ giúp) - Kennedy, David M (1982), Over Here: The First World War and American Society, Oxford: Oxford University Press, ISBN 0195032098, OCLC 9906841, covers politics & economics & society
- Kennett, Lee B (1992), The First Air War, 1914–1918, New York: Free Press, ISBN 0029173019, OCLC 22113898
- Keynes, John Maynard (1920), The Economic Consequences of the Peace, New York: Harcourt, Brace and Howe, OCLC 213487540
- Kitchen, Martin (2000), Europe Between the Wars, New York: Longman, ISBN 0582418690, OCLC 247285240 Đã bỏ qua tham số không rõ
|originalyear=
(trợ giúp) - Knobler, Stacey L biên tập (2005), The Threat of Pandemic Influenza: Are We Ready? Workshop Summary, Washington DC: National Academies Press, ISBN 0309095042, OCLC 57422232
- Lee, Dwight Erwin biên tập (1953), The Outbreak of the First World War: Who Was Responsible?, Boston: Heath, tr. 74pp, OCLC 8824589, readings from multiple points of view
- Lehmann, Hartmut; van der Veer, Peter biên tập (1999), Nation and religion: perspectives on Europe and Asia, Princeton, New Jersey: Princeton University Press, ISBN 0691012326, OCLC 39727826
- Lewy, Guenter (2005), The Armenian Massacres in Ottoman Turkey: A Disputed Genocide, Salt Lake City, Utah: University of Utah Press, ISBN 0874808499, OCLC 61262401
- Lyons, Michael J (1999), World War I: A Short History (ấn bản 2), Prentice Hall, ISBN 0130205516
- Ludendorff, Erich (1919), My War Memories, 1914-1918, OCLC 60104290 Đã bỏ qua tham số không rõ
|original_title=
(trợ giúp) also published by Harper as "Ludendorff's Own Story, August 1914-November 1918: The Great War from the Siege of Liege to the Signing of the Armistice as Viewed from the Grand Headquarters of the German Army" OCLC 561160 - Marsden, William Edward (2001), The School Textbook: Geography, History, and Social Studies, London: Routledge, tr. 177, ISBN 0713040432, OCLC 46836724
- Maurice, Frederick Barton (18 tháng 8 năm 1918), “Foe's reserves now only 16 divisions; Allies' Counteroffensive has reduced them from 60, Gen. Maurice says Ludendorff in dilemma; he must choose between giving up offensive projects and shortening his line”, New York Times
- Millett, Allan Reed; Murray, Williamson (1988), Military Effectiveness, Boston: Allen Unwin, ISBN 0044450532, OCLC 220072268
- Moon, John Ellis van Courtland (July năm 1996), “United States Chemical Warfare Policy in World War II: A Captive of Coalition Policy?”, The Journal of Military History 60 (3): 495–511, doi:10.2307/2944522
- Morton, Desmond; Granatstein, Jack L (1989), Marching to Armageddon: Canadians and the Great War 1914–1919, ISBN 0886192099, OCLC 21449019
- Morton, Desmond (1992), Silent Battle: Canadian Prisoners of War in Germany, 1914-1919, Toronto: Lester Pub, ISBN 1895555175, OCLC 29565680
- Mosier, John (2001), “Germany and the Development of Combined Arms Tactics”, Myth of the Great War: How the Germans Won the Battles and How the Americans Saved the Allies, New York: Harper Collins, ISBN 0060196769
- Muller, Jerry Z (March/April năm 2008), “Us and Them - The Enduring Power of Ethnic Nationalism”, Foreign Affairs, truy cập ngày 30 tháng 12 năm 2008
- Neiberg, Michael S (2005), Fighting the Great War: A Global History, Cambridge, Mass: Harvard University Press, ISBN 0674016963, OCLC 56592292
- Nicholson, Gerald WL (1962), Canadian Expeditionary Force, 1914-1919: Official History of the Canadian Army in the First World War (ấn bản 1), Ottawa: Queens Printer and Controller of Stationary, OCLC 2317262
- Phillimore, George Grenville; Bellot, Hugh HL (1919), “Treatment of Prisoners of War”, Transactions of the Grotius Society 5: 47–64, OCLC 43267276
- Pitt, Barrie (2003), 1918: The Last Act, Barnsley: Pen and Sword, ISBN 0850529743, OCLC 56468232
- Pope, Stephen; Wheal, Elizabeth-Anne biên tập (1995), The Macmillan Dictionary of the First World War, ISBN 033361822X, OCLC 60238536
- Price, Alfred (1980), Aircraft versus Submarine: the Evolution of the Anti-submarine Aircraft, 1912 to 1980, London: Jane's Publishing, ISBN 0710600089, OCLC 10324173 Deals with technical developments, including the first dipping hydrophones
- Robbins, Keith (1993), The First World War, New York: Oxford University Press, ISBN 0192891499, OCLC 26402515, short overview
- Ross, Stewart Halsey (1996), Propaganda for War: How the United States was Conditioned to Fight the Great War of 1914-1918, Jefferson, North Carolina: McFarland, ISBN 0786401117, OCLC 185807544
- Gilpin, Robert (1989), trong Rotberg, Robert I; Rabb, Theodore K, The Origin and Prevention of Major Wars, Cambridge: Cambridge University Press, tr. 225, ISBN 0521379555, OCLC 123169187
- Salibi, Kamal Suleiman (1993), “How it all began - A concise history of Lebanon”, A House of Many Mansions - the history of Lebanon reconsidered, I.B. Tauris, ISBN 1850430918, OCLC 224705916
- Shapiro, Fred R; Epstein, Joseph (2006), The Yale Book of Quotations, Yale University Press, ISBN 0300107986
- Silkin, Jon biên tập (1996), The Penguin Book of First World War Poetry (ấn bản 2), New York: Penguin, ISBN 0141180099, OCLC 37105631
- Singh, Jaspal, History of the Ghadar Movement, panjab.org.uk, truy cập ngày 31 tháng 10 năm 2007
- Sisemore, James D (2003), The Russo-Japanese War, Lessons Not Learned, U.S. Army Command and General Staff College
- Snyder, Jack L (1984), Ideology of the Offensive, Ithaca: Cornell University Press, ISBN 0801416574
- Southgate, Troy, The Fischer Controversy
- Speed, Richard B., III (1990), Prisoners, Diplomats and the Great War: A Study in the Diplomacy of Captivity, New York: Greenwood Press, ISBN 0313267294, OCLC 20694547
- Stevenson, David (1996), Armaments and the Coming of War: Europe, 1904-1914, New York: Oxford University Press, ISBN 0198202083, OCLC 33079190
- Stevenson, David (2004), Cataclysm: The First World War As Political Tragedy, New York: Basic Books, tr. 560pp, ISBN 0465081843, OCLC 54001282, major reinterpretation
- Stevenson, David (2005), The First World War and International Politics, Oxford: Clarendon, OCLC 248297941
- Stokesbury, James (1981), A Short History of World War I, New York: Morrow, ISBN 0688001289
- Strachan, Hew (2004), The First World War: Volume I: To Arms, New York: Viking, ISBN 0670032956, OCLC 53075929: the major scholarly synthesis. Thorough coverage of 1914
- Taylor, AJP (1963), The First World War: An Illustrated History, Hamish Hamilton, OCLC 2054370
- Taylor, John M (Summer 2007), “Audacious Cruise of the Emden”, The Quarterly Journal of Military History 19 (4): 38–47, doi:10.1353/jmh.2007.0331, ISSN 0899-3718
- Terraine, John (1963), Ordeal of Victory, Philadelphia: Lippincott, tr. 508pp, OCLC 1345833
- Tuchman, Barbara Wertheim (1962), The Guns of August, New York: Macmillan, OCLC 192333, tells of the opening diplomatic and military manoeuvres
- Tuchman, Barbara Wertheim (1966), The Zimmerman Telegram (ấn bản 2), New York: Macmillan, ISBN 0026203200, OCLC 233392415
- Tucker, Spencer (1999), European Powers in the First World War: An Encyclopedia, ISBN 081533351X, OCLC 40417794
- Tucker, Spencer C (2005), Encyclopedia of World War I. A Political, Social and Military History, Santa Barbara: ABC-Clio, ISBN 1851094202
- van der Vat, Dan (1988), The Atlantic Campaign, London: Grafton, ISBN 0586206957 Connects submarine and antisubmarine operations between wars, and suggests a continuous war
- Venzon, Anne Cipriano; Miles, Paul L biên tập (1995), The United States in the First World War: An Encyclopedia, Taylor & Francis, ISBN 0824070550
- von der Porten, Edward P (1969), German Navy in World War II, New York: T. Y. Crowell, OCLC 164543865
- Westwell, Ian (2004), World War I Day by Day, St. Paul, Minnesota: MBI Pub., tr. 192pp, ISBN 0760319375, OCLC 57533366
- Wiggin, Addision (29 tháng
11 năm 2006),
[www.dailyreckoning.com.au/bretton-woods-agreement/2006/11/29/ “Bretton
Woods agreement”] Kiểm tra giao thức
|url=
(trợ giúp), The Daily Reckoning (Port Phillip Publishing) - Wilgus, William John (1931), Transporting the A. E. F. in Western Europe, 1917–1919, New York: Columbia University Press, OCLC 1161730
- Winter, Denis (1982), The First of the Few: Fighter Pilots of the First World War, Allen Lane, tr. 223pp, ISBN 0713912782
- Winter, Jay M (2005), The Experience of World War I (ấn bản 2), Oxford University Press, ISBN 0195207769, topical essays; well illustrated
- Zieger, Robert H (2001), America's Great War: World War I and the American experience, Lanham, Maryland: Rowman & Littlefield, tr. 50, ISBN 0847696456
- “Country Briefings: Israel”, The Economist, 28 tháng 7 năm 2005, truy cập ngày 30 tháng 12 năm 2008
- Israeli Foreign Ministry, Ottoman Rule, Jewish Virtual Library, truy cập ngày 30 tháng 12 năm 2008
Liên kết ngoài
Wikimedia Commons có thêm thể loại hình ảnh và phương tiện truyền tải về Chiến tranh thế giới thứ nhất |
- Các loại số liệu đề tài của Thế chiến thứ nhất
- Các hình ảnh về Thế chiến thứ nhất bằng tiếng Nga
- Ảnh lưu trữ của Quân Đức về Mặt trận phía đông
|
|
Động đất Đường Sơn 1976
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
(đổi hướng từ Động đất Đường Sơn)
Về bộ phim tái hiện trận động đất này, xem Đường Sơn đại địa chấn.
Động đất Đường Sơn | |
---|---|
Ngày | 28 tháng 7, 1976 |
Độ lớn | 7,8 độ Richter |
Tâm chấn | Đường Sơn, Hà Bắc (Trung Quốc) |
Quốc gia và vùng chịu ảnh hưởng |
Trung Quốc |
Thương vong | 242.419 đến 779.000 người chết |
Diễn biến
Theo ghi chép thì một ngày trước khi động đất xảy ra, mực nước giếng ở một làng ngoại vi Đường Sơn đã dâng lên và hạ xuống ba lần, khí cũng thoát ra từ miệng giếng ở một làng khác vào ngày 12 tháng 7 và tăng lên trong hai ngày 25 và 26 tháng 7.[5] Hơn nửa tháng trước sự kiện, một nhà nghiên cứu của Ủy ban động đất Trung Quốc cũng đã rút ra kết luận rằng vùng Đường Sơn có thể sẽ phải hứng chịu một trận động đất cường độ lớn trong khoảng thời gian từ ngày 22 tháng 7 cho tới ngày 5 tháng 8 sau khi ông nhận thấy rằng có nhiều dấu hiệu địa chất bất thường được báo về từ Bắc Kinh, Thiên Tân, Đường Sơn, Trương Gia Khẩu.[1] Thông tin này đã được chia sẻ cho khoảng 60 người trong đó có một quan chức lãnh đạo của huyện Thanh Long, Tần Hoàng Đảo.[1]Nhận thấy mức độ nghiêm trọng của lời cảnh báo, lãnh đạo Thanh Long đã chỉ thị cho nhân dân của huyện này chuẩn bị đối phó với thiên tai.[1] Chừng 470.000 dân của Thanh Long đã được chuẩn bị tinh thần, di tản tới nơi an toàn và huấn luyện cách đối phó với thảm họa.[1] Quyết định này sau đó đã được đánh giá cao vì nó giúp giảm tỉ lệ thương vong với kết quả là tỉ lệ thương vong ở Thanh Long thấp hơn rất nhiều so với các huyện không được chuẩn bị khác.
Trận động đất xảy ra vào lúc 3 giờ 42 phút sáng giờ địa phương (tức 19 giờ 42 phút ngày 27 tháng 7 tính theo giờ quy chuẩn quốc tế) và kéo dài trong vòng 10 giây.[6] Số liệu đo đạc chính thức của Trung Quốc cho thấy trận động đất này có cường độ 7,8 độ Richter.[4] Khoảng 16 giờ sau, Đường Sơn còn phải hứng chịu một đợt dư chấn có cường độ tương tự, nguyên nhân làm gia tăng con số thương vong. Các trung tâm dân cư lân cận như Tần Hoàng Đảo, Thiên Tân và thậm chí là Bắc Kinh đều phải hứng chịu thiệt hại nhẹ. Chấn động của cơn động đất đã lan tới tận Tây An nằm cách tâm chấn hơn 760 km.
Thống kê thiệt hại
Nguyên nhân đầu tiên khiến con số thương vong lên cao là vì trận động đất xảy ra vào thời điểm hầu hết mọi người đang ngủ nên họ hoàn toàn không chuẩn bị phải đương đầu với một thảm họa lớn. Hơn nữa Đường Sơn vốn được coi là một khu vực không nhạy cảm với động đất, vì vậy nhà cửa ở đây không được thiết kế kháng chấn dẫn đến sự tàn phá nặng nề đối với thành phố. 85% công trình xây dựng ở Đường Sơn bị phá hủy hoàn toàn hoặc không thể sử dụng được tiếp sau động đất.[6] Thiệt hại kinh tế của trận động đất ước tính lên tới 10 tỷ Nhân dân tệ.[4]Theo thống kê ban đầu của Chính phủ Trung Quốc đã có 655.000 người thiệt mạng,[7] con số này sau đó được giảm xuống còn từ 240.000 đến 255.000 người, con số chính thức đưa ra năm 1988 là 242.419 người,[2] ước tính 164.000 người khác cũng bị thương nặng vì trận động đất.[4] Một vài nguồn vẫn cho rằng con số người thiệt mạng lên tới khoảng 700.000 người.[8]
Hậu quả
Chính phủ Trung Quốc từ chối nhận sự trợ giúp của Liên hiệp quốc vì muốn tự sử dụng lực lượng cứu trợ trong nước.[7] Riêng Thượng Hải đã cử 56 đội y tế tới Đường Sơn, lực lượng Giải Phóng quân Trung Quốc cũng tham gia tích cực trong công tác cứu trợ.[7] Đường Sơn sau đó đã được xây dựng lại hoàn toàn và ngày nay lại trở thành một thành phố công nghiệp mới với hơn 1 triệu dân.Trận động đất Đường Sơn xảy ra trong một năm được coi là tai họa của xã hội và chính trị Trung Quốc, trước trận động đất vài tháng, Chu Ân Lai qua đời, cũng trong năm 1976 sau sự kiện Đường Sơn lần lượt tới Chu Đức và Mao Trạch Đông cũng qua đời. Các sự kiện này đã ảnh hưởng mạnh đến vị thế của Tứ nhân bang vốn trước năm 1976 vẫn được coi là có quyền lực cực lớn.[9] Tháng 10 năm 1976 chỉ 3 tháng sau vụ động đất, Tứ nhân bang bị lật đổ và cuộc Cách mạng Văn hóa cũng chấm dứt.
Tham khảo
- ^ a ă â b c Zschau, Jochen. Küppers, Andreas N. [2003] (2003). Early Warning Systems for Natural Disaster Reduction. ISBN 3-540-67962-6
- ^ a ă â Spignesi, Stephen J. [2005] (2005). Catastrophe!: The 100 Greatest Disasters of All Time. ISBN 0-8065-2558-4
- ^ News.bbc.co.uk on this day 4132109
- ^ a ă â b Stoltman, Joseph P. Lidstone, John. Dechano, M. Lisa. [2004] (2004). International Perspectives On Natural Disasters. Springer publishing. ISBN 1-4020-2850-4
- ^ Rosenberg, Jennifer. "Tangshan: The Deadliest Earthquake". About.com.
- ^ a ă Roza, Greg. [2007] (2007). Earthquake: True Stories of Survival. The Rosen Publishing. ISBN 1-4042-0997-2
- ^ a ă â Spence, Jonathan. [1991] (1991). The Search for Modern China. W. W. Norton & Company. ISBN 0-393-30780-8
- ^ Theodore S. Glickman. [1993] (1993). Acts of God and Acts of Man. DIANE Publishing. ISBN 1-56806-371-7
- ^ Lu, Ning. [2000] (2000). The Dynamics of Foreign-Policy Decisionmaking in China. Westview Press. ISBN 0-8133-3746-1
Liên kết ngoài
- "Tangshan: The Deadliest Earthquake" trên trang About.com
Danh sách các trận động đất tại Trung Quốc
|
|
---|---|
Thiểm Tây 1556 · Đường Sơn 1976 · Tứ Xuyên 2008 · Ngọc Thụ 2010 · Vân Nam 2011 · Myanmar 2011 · Vân Nam 2012 · Lô Sơn 2013 · Định Tây 2013
|
Video yêu thích
http://www.youtube.com/user/hoangkimvietnam
Trở về trang chính
Hoàng Kim, hoangkim, hoangkimvietnam, Ngọc Phương Nam, Chào ngày mới Thung dung, Dạy và học, Cây Lương thực, Tin Nông nghiệp Việt Nam, Food Crops, Cassava in Vietnam, Khát khao xanh, Dayvahoc,Học mỗi ngày, Danh nhân Việt , Food Crops News, Điểm chính, CNM365, Kim LinkedIn, KimTwitter, KimFaceBook Đọc lại và suy ngẫm, Việt Nam tổ quốc tôi, Tình yêu cuộc sống, Thơ cho con
No comments:
Post a Comment