Phú Sĩ
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Phú Sĩ sơn | |||||||||||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Núi Phú sĩ phản chiếu trên hồ Yamanaka |
|||||||||||||||||||
Độ cao | 3.776 m (12.388 ft)[1] | ||||||||||||||||||
Phần lồi | 3.776 m (12.388 ft)Xếp hạng | ||||||||||||||||||
Danh sách | Đỉnh cao Nhật Bản Ultra Danh sách núi ở Nhật Bản 100 ngọn núi nổi tiếng Nhật Bản |
||||||||||||||||||
Phiên âm IPA | [ɸɯꜜdʑisaɴ] | ||||||||||||||||||
Vị trí | |||||||||||||||||||
Chūbu, Đảo Honshu, Nhật Bản | |||||||||||||||||||
Tọa độ | 35°21′28,8″B 138°43′51,6″ĐTọa độ: 35°21′28,8″B 138°43′51,6″Đ[1] | ||||||||||||||||||
Bản đồ địa hình | Cơ quan không gian địa lý 25000:1 富士山[2] 50000:1 富士山 |
||||||||||||||||||
Địa chất | |||||||||||||||||||
Kiểu | Stratovolcano | ||||||||||||||||||
Lần phun trào gần nhất | 1707-08[3] | ||||||||||||||||||
Leo núi | |||||||||||||||||||
Chinh phục lần đầu | năm 663 bởi nhà sư vô danh | ||||||||||||||||||
Hành trình dễ nhất | Đi bộ đường dài | ||||||||||||||||||
|
Mục lục
Địa lý
Núi Phú Sĩ trải dài trên địa phận tỉnh Shizuoka và tỉnh Yamanashi, ở phía Tây Nam Tokyo.Đây là một núi lửa còn hoạt động và là ngọn núi cao nhất của Nhật Bản với độ cao tuyệt đối: 3.776 mét. Đỉnh núi Phú Sĩ quanh năm tuyết phủ, tạo nên một vẻ đẹp hùng vĩ, tráng lệ. Dưới chân núi có 5 hồ nước ngọt lớn, đó là: Kawaguchi, Yamanaka, Sai, Motosu và Shoji. Cùng với Hồ Ashi ở gần đó, chúng tạo nên một cảnh quan tuyệt đẹp cho ngọn núi. Đây là một phần trong Công viên Quốc gia Phú Sĩ-Hakone-Izu.
Địa chất
Các nhà khoa học đã xác định được 4 thời kỳ hoạt động núi lửa khác nhau hình thành nên ngọn núi Phú Sĩ. Thời kỳ đầu tiên là Sen-komitake, được tạo nên từ lõi anđêxit mới được phát hiện gần đây ở sâu bên trong núi. Cái tên Sen-komitake được lấy theo chữ "Phú Sĩ Komitake" là một lớp đá bazan được hình thành từ hàng trăm nghìn năm trước. Khoảng 100,000 năm trước, một ngọn núi "Phú Sĩ cổ" đã được hình thành trên đỉnh núi Phú Sĩ Komitake. Hiện tại, ngọn núi "Phú Sĩ mới" được cho là hình thành trên đỉnh núi "Phú Sĩ cổ" khoảng 10,000 năm trước. [1] Hiện nay, ngọn núi lửa này thuộc loại đang hoạt động với nguy cơ phun trào thấp. Lần gần đây nhất ghi nhận được sự phun trào là năm 1707 trong thời kỳ Edo. Tại thời điểm này, có một miệng núi lửa mới, dọc theo đỉnh thứ 2 đã hình thành xuống nửa chừng bề mặt của nó. Miệng núi lửa này có tên là Hōei-zan, đặt theo tên của một triều đại.Núi Phú Sĩ là nơi giao nhau của mảng lục địa Á Âu, mảng lục địa Okhotsk và lục địa Philippin. Chúng lần lượt tạo nên phần phía tây, phía đông của nước Nhật và bán đảo Izu.
Tên gọi
Các tên gọi khác
Tên ngọn núi viết bằng Kanji 富士山 khi phiên sang chữ Latinh có thể thành Fuji-san hoặc đôi khi là Fuji Yama, do chữ 山 (sơn) trong tiếng Nhật có nhiều cách đọc là San, Zan và Yama.Ngoài ra, trong tiếng Nhật, từ "富士" có thể được phát âm thành "Huzi" do đặc trưng của âm ふ. Tuy nhiên, cách phát âm chuẩn vẫn là "Fuji".
Núi Phú Sĩ còn có các tên gọi khác cũ hơn hoặc thi vị hơn như: Fuji-no-Yama (ふじの山, ngọn núi Fuji), Fuji-no-Takane (ふじの高嶺, đỉnh núi cao Fuji), Fuyō-hō (芙蓉峰, đỉnh núi Hoa phù dung) và Fu-gaku (富岳 hoặc 富嶽, trong đó 岳 tức nhạc, nghĩa là núi lớn).
Từ nguyên gốc
Chữ Kanji hiện nay của tên gọi "núi Phú Sĩ", 富 (phú) và 士 (sĩ), nhưng có vẻ như các chữ này được áp dụng cho một cách đọc sẵn có.Tên gốc của từ Phú Sĩ vẫn chưa được rõ, nhưng nó liên quan tới toàn bộ lịch sử với các chữ Hán khác nhau theo từ gốc dân gian. Một trong những từ gốc dân gian cổ nhất cho rằng từ Fuji xuất phát từ chữ 不二 (bất + nhị), có nghĩa là có một không hai. Một từ gốc dân gian khác cho rằng nó xuất phát từ chữ 不尽 (bất + tận), có nghĩa là không bao giờ kết thúc.
Có lẽ từ gốc phổ biến nhất là từ cho rằng tên của ngọn núi có chữ Hán là 富士 (phú + sĩ).
Lịch sử
Người ta cho rằng người đầu tiên lên đến đỉnh ngọn núi này là một nhà sư khuyết danh. Trước thời đại Meiji, vì Phú Sĩ là một ngọn núi thiêng nên phụ nữ không được phép trèo lên đỉnh núi. Ngày nay, đây là một địa điểm du lịch nổi tiếng và lý tưởng cho rất nhiều nhà leo núi (xem bên dưới).Núi Phú Sĩ là một ngọn núi lửa hấp dẫn, thường là chủ đề của các tác phẩm nghệ thuật như bức "Nhìn về núi Phú Sĩ" của họa sĩ Hokusai. Ngọn núi này cũng góp mặt và là chủ đề của rất nhiều tác phẩm văn thơ Nhật Bản qua các thời kỳ.
Núi Phú Sĩ cũng là một địa điểm truyền thống của các chiến binh xưa: các samurai đã dùng chân núi như một điểm tập luyện, gần thị trấn Gotemba ngày nay. Năm 2005, Cục Phòng vệ Nhật Bản và Lực lượng Hải quân Hoa Kỳ đã tiến hành tập trận ở gần chân núi Phú Sĩ.
Leo núi
Thời gian nhiều người đăng sơn Phú Sĩ nhất là trong khoảnng hai tháng, từ mồng 1 tháng 7 đến 27 tháng 8. Có khoảng 200,000 lượt người leo lên ngọn núi này mỗi năm; trong số đó 30% là người nước ngoài. Hành trình trèo núi mất khoảng 3 đến 7 giờ, trong khi hạ sơn thì mau hơn, chỉ mất khoảng 2 đến 5 giờ. Đường đi có thể chia ra 10 trạm cơ bản; từ điểm khởi đầu lên tới trạm thứ 15 là đã trèo 2300 mét so với mực nước biển. Hầu hết các hành trình trèo núi là vào ban đêm để khi lên đến đỉnh thì gặp lúc mặt trời mọc buổi sớm mai. Vì lượng người leo núi rất đông, vấn nạn hàng năm là lượng rác thải dọc đường. Dù vậy, đăng sơn Phú Sĩ vẫn là một cuộc hành trình hấp dẫn đặc biệt.Rừng Aokigahara
Aokigahara là một cánh rừng ở chân núi Phú Sĩ. Trong số những truyền thuyết về cánh rừng này, truyện dân gian Nhật Bản cho rằng chất đá ở đây có hàm lượng trầm tích sắt rất lớn, có thể làm vô hiệu hóa la bàn và các thiết bị định vị toàn cầu. Do vậy người đi rừng rất dễ lạc. Tuy nhiên theo khoa học thì trường điện từ do sắt gây ra rất yếu nên không mấy ảnh hưởng các thiết bị. Hiển nhiên là Cục Phòng vệ Nhật Bản và lính Thủy quân lục chiến Mỹ thường tập trận trong rừng mà la bàn cùng máy định vị toàn cầu và các thiết bị điện tử khác vẫn hoạt động không bị trở ngại.Đặc biệt rừng Aokigahara có những hang động đóng băng quanh năm. Theo truyền thuyết thì ma quỷ, yêu tinh phá rối vẫn thường xuất hiện trong rừng này. Phải chăng đó có liên hệ với việc địa điểm Aokigahara Jukai là một nơi thường có người tự tử và vong hồn người chết mãi mãi lảng vảng nơi này. Với hơn 78 xác người đã tự tử tại đây nhà chức trách đã phải cảnh báo về nạn tự tử trong rừng này.
Chuyện ngoài lề
- Ca sĩ Kyu Sakamoto đã từng thuê người đem một cây đàn piano lên núi để thực hiện một buổi hòa nhạc.
- Logo của công ty Atari và Infiniti đều được thiết kế theo biểu tượng của núi Phú Sĩ.
- Núi Egmont ở New Zealand tương đối giống núi Phú Sĩ ở một số góc nhìn. Vì vậy nó đã được dùng thay thế cho núi Phú Sĩ trong một số phim, như phim The Last Samurai.
- Ngọn núi Volcan Osorno ở miền nam Chile cũng có những điểm hấp dẫn giống như núi Phú Sĩ.
- Một nhà hàng Nhật ở Tooting, London cũng được đặt tên là núi Phú Sĩ.
Xem thêm
Thư viện hình
-
Bức "Núi Phú Sĩ đỏ" của họa sĩ nổi tiếng Hokusai
Liên kết ngoài
Wikivoyage có chỉ dẫn du lịch về Mt. Fuji |
Ghi chú
- ^ a ă Triangulation stationis là 3775.63m. “Information inspection service of the Triangulation station” (bằng tiếng Nhật). Cơ quan không gian địa lý Nhật Bản,(甲府-富士山-富士山). Truy cập ngày 8 tháng 2 năm 2011.
- ^ “Map inspection service” (bằng tiếng Nhật). Geospatial Information Authority of Japan,(甲府-富士山-富士山). Truy cập ngày 8 tháng 2 năm 2011.
- ^ “Fuji: Eruptive History”. Global Volcanism Program. Viện Smithsonian.
- ^ http://archive.is/20130624235014/www.channelnewsasia.com/news/asiapacific/japan-s-mt-fuji-granted/720700.html
Wikimedia Commons có thêm thể loại hình ảnh và phương tiện truyền tải về Phú Sĩ |
Fidel Castro
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Fidel Castro | |
---|---|
Fidel Castro năm 2011 |
|
Sinh | 13 tháng 8, 1926 Birán, Holguín, Cuba |
Quốc gia | Cuba |
Học vấn | Colegio de Belen Đại học La Habana |
Tiền nhiệm | Osvaldo Dorticós Torrado |
Kế nhiệm | Raúl Castro |
Đảng phái chính trị | Đảng Cộng sản Cuba |
Tín ngưỡng | Tự coi mình như một người thế tục, trước kia theo Công giáo Rôma, bị Giáo hoàng Gioan XXIII rút phép thông công (khai trừ khỏi giáo hội) vào năm 1962 |
Vợ (hoặc chồng) | (1) Mirta Díaz-Balart Gutierrez (ly dị 1955) (2) Dalia Soto del Valle |
Con cái | Fidel Angel Castro Diaz-Balart Alina Fernandez-Revuelta Alexis Castro-Soto Alejandro Castro-Soto Antonio Castro-Soto Angel Castro-Soto Alain Castro-Soto Jorge Angel Castro[1] Francisca Pupo[1] |
Người thân | Natalia Revuelta y Clews |
Chữ ký | |
Ông sinh ra trong một gia đình giàu có và đã có bằng luật. Khi học tập ở Đại học La Habana, ông bắt đầu sự nghiệp chính trị và trở thành một nhân vật được biết đến trong chính giới Cuba.[3] Sự nghiệp chính trị của ông tiếp tục với những lời chỉ trích mang tính chủ nghĩa dân tộc đối với Tổng thống Fulgencio Batista, và sự ảnh hưởng chính trị của Hoa Kỳ với Cuba. Ông trở thành một nhân vật chống Batista kịch liệt và thu hút sự chú ý của chính quyền.[4] Cuối cùng ông cầm đầu cuộc tấn công thất bại năm 1953 vào Pháo đài Moncada, sau đó bị bắt, xét xử, tống giam và thả tự do. Sau đó ông tới Mexico[5][6] để tổ chức và huấn luyện một cuộc tấn công vào chế độ Batista ở Cuba. Ông và các đồng chí cách mạng rời Mexico tới miền Đông Cuba tháng 12 năm 1956.
Castro lên nắm quyền lực sau thắng lợi của cuộc cách mạng Cuba lật đổ chế độ độc tài được Hoa Kỳ tài trợ[7] của Fulgencio Batista,[8] và một thời gian ngắn sau đó trở thành Thủ tướng Cuba.[9] Năm 1965 ông trở thành Bí thư thứ nhất của Đảng Cộng sản Cuba và lãnh đạo cuộc chuyển tiếp Cuba trở thành một nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa độc đảng. Năm 1976 ông trở thành Chủ tịch Hội đồng Nhà nước cũng như Hội đồng Bộ trưởng. Ông cũng giữ cấp bậc tối cao quân đội Comandante en Jefe ("Tổng chỉ huy") các lực lượng vũ trang Cuba.
Sau một cuộc phẫu thuật ruột bởi một bệnh hệ tiêu hoá không được tiết lộ được cho là diverticulitis,[10] Castro đã chuyển giao các chức vụ của mình cho Phó chủ tịch thứ nhất, đồng thời là em trai ông, Raúl Castro, ngày 31 tháng 7 năm 2006. Ngày 19 tháng 2 năm 2008, năm ngày trước khi thời hạn nhiệm kỳ của ông kết thúc, ông thông báo không tiếp tục tham gia tranh cử một nhiệm kỳ nữa với cả chức danh chủ tịch và tổng tư lệnh.[11][12] Ngày 24 tháng 2 năm 2008, Quốc hội "bầu" Raúl Castro kế nhiệm ông làm Chủ tịch Cuba.[13]
Trong lịch sử hiện đại, Fidel Castro là một nhà lãnh đạo nhận được những nhận định mâu thuẫn.[2] Truyền thông phương Tây miêu tả ông là một nhà độc tài[14][15][16][17][18] và thời gian cầm quyền của ông là dài nhất trong lịch sử Mỹ Latinh hiện đại.[15][16][17][18], tổ chức theo dõi nhân quyền Hoa Kỳ buộc tội ông tạo ra một "bộ máy đàn áp".[19] Tuy nhiên, nhân dân Cuba thì xem ông là một vị anh hùng, người đã thực hiện cuộc cách mạng và đấu tranh vì nền độc lập của đất nước Cuba. Họ gọi ông là "Fidel vô cùng yêu mến" và tôn vinh "sự nhạy cảm đặc biệt của ông đối với những người khác" cùng với "tinh thần chiến đấu không mệt mỏi vì lý tưởng".[20].
Trên bình diện quốc tế, Castro đã trở thành một "anh hùng thế giới theo khuôn mẫu của Garibaldi" đối với mọi người trên khắp thế giới đang nỗ lực chống lại chủ nghĩa đế quốc[21] Ông đã được trao tặng rất nhiều giải thưởng và huân chương danh dự của các nước, và đã được xem là nguồn cảm hứng cho nhiều nhà lãnh đạo nổi tiếng khác như Ahmed Ben Bella và Nelson Mandela, người sau đó trao tặng ông giải thưởng dân sự cao nhất của Nam Phi cho người nước ngoài, Huân chương Hảo Vọng[22]
Ngoài ra, Castro cũng được xem là một trong những nhà cách mạng kiệt xuất nhất nửa sau thế kỷ XX,[23] là biểu tượng của sự ủng hộ về mặt tinh thần đối với nhân dân những xứ có đời sống kinh tế thấp hoặc là bị chính quyền trấn áp trên thế giới. Chính phủ Castro đóng vai trò không nhỏ trong cuộc giải phóng người da đen Nam Phi khỏi chế độ Apartheid nói riêng cũng như những cuộc đấu tranh đòi độc lập diễn ra tại các quốc gia châu Phi thời bấy giờ nói chung.[2]. Bản thân ông cũng là nhà lãnh tụ đã vượt qua nhiều sóng gió và nguy hiểm nhất: tháng 12/2011, Sách Kỷ lục Guinness đã công nhận ông là người bị ám sát nhiều nhất (638 lần), chủ yếu bởi tổ chức Tình báo Trung ương Mỹ CIA tiến hành[24].
Mục lục
Tiểu sử
Fidel Castro sinh ngày 13 tháng 8 năm 1926[25] (có tài liệu chép ngày 14 tháng 8 năm 1927) tại một thị trấn nhỏ tên Birán của Cuba. Cha mẹ của ông, vốn là di dân từ Tây Ban Nha, là chủ đồn điền trồng mía giàu có. Lúc nhỏ Castro theo học trường Dòng Tên. Ông vào Đại học La Habana năm 1945 và tốt nghiệp ngành luật năm 1950.Trong thời gian học đại học, Castro tham gia vào nhiều tổ chức chống đối chính quyền. Ông hành nghề luật sư từ năm 1950 đến 1952; trở thành đảng viên Đảng Chính thống (tiếng Tây Ban Nha: Partido Ortodoxo) và vận động để tranh cử vào Quốc hội Cuba. Thế nhưng ý định của Castro chưa thành thì nổ ra cuộc đảo chính của tướng Fulgencio Batista. Batista muốn lên nắm chính quyền để ngăn cản sự lớn mạnh của Đảng Chính Thống. Dưới sự cai trị của Batista, hàng ngàn chính khách bị ám sát và dân chúng bị sống dưới sự đàn áp.
Castro bắt đầu vận động chống lại Batista bằng biện pháp quân sự. Ông liên kết được hơn 200 phần tử cách mạng trên toàn quốc và trở thành thủ lĩnh của họ. Ngày 26 tháng 7 năm 1953, Castro và các chiến hữu tấn công vào trại lính Moncada. Hơn 80 chiến hữu bị tử trận, Castro bị bắt. Ông bị đưa ra tòa và bị kết án 15 năm tù. Cuối phiên tòa, Castro đã hùng hồn đọc bài diễn văn "Lịch sử sẽ giải oan cho tôi" (La historia me absolverá), phản ánh quan điểm chính trị của ông.
Một năm sau, Batista đại xá cho nhiều tù chính trị, trong đó có Castro. Castro sang Mexico và lập nhóm vũ trang kháng chiến. Nhóm này lấy tên là nhóm Hai Mươi Sáu Tháng Bảy, để tưởng niệm cuộc nổi dậy Moncada ngày 26 tháng 7 trước kia. Trong số những người tham gia vào nhóm này có Che Guevara, một sinh viên y khoa đang tập sự tại Mexico City.
Ngày 2 tháng 12 năm 1956, nhóm Hai Mươi Sáu Tháng Bảy, gồm 80 người, trở lại Cuba trên chiếc thuyền Granma dài 18 mét. Họ nhanh chóng bị tiêu diệt bởi quân chính phủ. Chỉ có 12 người sống sót và rút vào vùng rừng núi Sierra Maestra để tổ chức kháng chiến. Trong số những người sống sót, ngoài Fidel Castro còn có Raul Castro (em trai ông), Che Guevara và Camilo Cienfuegos. Nhóm kháng chiến được quần chúng ủng hộ và phát triển lên đến 800 người. Trong suốt 2 năm, họ áp dụng chiến thuật đánh du kích gây nhiều thiệt hại cho quân chính phủ. Tháng 5 năm 1958, Batista huy động nhiều tiểu đoàn tiến đánh quân kháng chiến. Dù bị thua kém về quân số, phe kháng chiến vẫn thắng nhiều trận quan trọng. Quân của Batista đào ngũ và đầu hàng rất nhiều.
Ngày 1 tháng 1 năm 1959 Fidel Castro đã lãnh đạo thành công cuộc cách mạng Cu Ba. Khi thua cuộc Batista chạy trốn khỏi Cuba.
Một giai đoạn quá độ đã được hình thành. Manuel Urrutia Lleó, một chính trị gia không đảng phái đã được tôn lên làm Tổng thống Cuba vào ngày 3 tháng 1 năm 1959. Manuel đã chỉ định một luật sư và là giáo sư Đại học La Habana là José Miró Cardona làm Thủ tướng. Tuy nhiên, chỉ sau 6 tuần, Miró bất ngờ từ chức. Fidel Castro được chỉ định là Thủ tướng. Ông hứa sẽ xây dựng một chính quyền trong sạch và tôn trọng hiến pháp. Tuy nhiên, chính phủ Castro đã hành hình hàng ngàn người thuộc Đảng Batista.
Hoa Kỳ ban đầu công nhận chính quyền Fidel Castro, nhưng sau khi Castro quốc hữu hóa các công ty Hoa Kỳ tại Cuba thì quan hệ Hoa Kỳ – Cuba trở nên lạnh nhạt. Chính sách kinh tế của Castro làm cho Hoa Kỳ nghi ngờ rằng ông theo chủ nghĩa cộng sản và có quan hệ với Liên bang Xô viết – đối địch với Hoa Kỳ trong Chiến tranh Lạnh. Tháng 4 năm 1959 Castro viếng thăm Nhà Trắng nhưng Tổng thống Dwight D. Eisenhower từ chối gặp, thay vào đó là Phó tổng thống Richard Nixon. Sau cuộc gặp gỡ này, Nixon cho rằng Castro là một người "ngây thơ" nhưng không nhất thiết là cộng sản.
Tháng 2 năm 1960, chính quyền Castro ký một hiệp thương với Liên Xô, trong đó Liên Xô đồng ý bán dầu hỏa cho Cuba. Hoa Kỳ cắt đứt mọi quan hệ ngoại giao và áp dụng chính sách cấm vận lên Cuba vào ngày 31 tháng 1 năm 1961. Cuba tiếp tục thắt chặt quan hệ với Liên Xô và ngày càng nhận nhiều viện trợ quân sự và kinh tế.
Ngày 17 tháng 4 năm 1961, Hoa Kỳ yểm trợ một đạo binh gồm 1300 người Cuba lưu vong đổ bộ lên vùng Vịnh Con Heo (tiếng Anh: Bay of Pigs) nhằm mục đích lật đổ Fidel Castro. Cuộc đổ bộ thất bại và nhiều người bị bắt, chín người bị xử tử. Ngày 1 tháng 5 năm 1961, ông tuyên bố Cuba là một quốc gia theo Xã hội chủ nghĩa và chính thức bãi bỏ sự bầu cử đa đảng.[3] Những người phê phán Castro cho rằng ông sợ những cuộc bầu cử sẽ khiến ông mất uy quyền.[3] Cũng trong ngày hôm đó, hàng trăm ngàn người dân Cuba nghe lãnh tụ Castro tuyên bố:[26]
“ |
Cách mạng không kết thúc sau một thời hạn nhất định, vì thế chúng
ta không cần phải bầu cử. Tại châu Mỹ La Tinh này, không có một chính
phủ nào dân chủ hơn chính phủ cách mạng của chúng ta... Nếu ngài Kennedy
không ưa Xã hội chủ nghĩa, thì chúng ta cũng ghét chủ nghĩa đế quốc
vậy. Chúng ta căm ghét chủ nghĩa tư bản. |
” |
—Fidel Castro
|
Ngày 15 tháng 9 năm 1973, giữa lúc cuộc Chiến tranh Việt Nam đang diễn ra, ông đến thăm Quảng Trị, Việt Nam khi đó đang nằm dưới quyền quản lý của Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Đây là chuyến thăm đặc biệt đáng nhớ nhất của không chỉ riêng ông mà còn với những người Việt Nam mà ông đã gặp như Đại tá Hồ Văn A, Thủ tướng Phạm Văn Đồng, Đại tướng Võ Nguyên Giáp.[27]
Cuối năm 1976, một Hiến pháp Cuba mới được xây dựng với những thay đổi về cơ cấu chính quyền. Ngày 2 tháng 12 năm 1976, Fidel Castro được bầu vào chức vụ Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Cộng hòa Cuba, một chức vụ vừa là nguyên thủ quốc gia của Cuba, vừa là người đứng đầu Chính phủ Cuba. Về mặt lý thuyết, chức vụ này được Quốc hội Cuba bầu ra với nhiệm kỳ 5 năm, nhưng trên thực tế ông giữ chức vụ này liên tục trong 32 năm.
Ngày 28 tháng 3 năm 1980, một chiếc xe buýt tông sập cổng tòa đại sứ Peru ở thủ đô La Habana. Trong vòng 48 tiếng, hơn 10.000 người Cuba đã nhân cơ hội tràn vào tòa đại sứ xin tị nạn chính trị. Ngày 10 tháng 4 năm 1980, Castro tuyên bố cho mọi người được tự do rời Cuba qua cảng Mariel ở La Habana. Khoảng hơn 125 nghìn người dân Cuba xuống tàu ra đi, trên một cuộc hành trình được mệnh danh là "Đoàn Tàu Tự Do" hay là cuộc di tản Mariel, đa số đến Florida, Hoa Kỳ.
Chính quyền Castro áp dụng chính sách kinh tế xã hội chủ nghĩa, quốc hữu hóa các ngành công nghiệp và hợp tác hóa nông nghiệp. Chính sách này làm cho giới trung lưu bất mãn, kể cả những người trước kia ủng hộ kháng chiến. Nhiều người trong số này trốn sang Hoa Kỳ và lập ra những tổ chức chống Fidel Castro tại Florida.
Tháng 1 năm 2004, Luis Eduardo Garzón, thị trưởng của Bogotá – thủ đô của Columbia – sau cuộc gặp gỡ với Castro nói rằng ông ta "trông có vẻ rất ốm yếu". Tháng 5 năm 2004, bác sĩ của Castro bác bỏ các tin đồn cho rằng sức khỏe Castro đang xuống dốc. Ông tuyên bố rằng Castro sẽ sống đến 140 tuổi.
Ngày 20 tháng 10 năm 2004, Castro bị vấp ngã sau khi đọc diễn văn trước một cuộc mít tinh. Cú ngã này làm ông bị vỡ xương tay và đầu gối. Ông ta phải trải qua ba giờ giải phẫu. Sau đó Castro viết một lá thư để đăng lên báo, đài. Trong thư ông cam đoan với công chúng rằng mình vẫn khỏe và sẽ "không mất liên lạc với quí vị".
Sau cuộc phẫu thuật dạ dày năm 2006, Fidel Castro đã tạm trao quyền lãnh đạo đất nước cho người em trai của mình là ông Raul Castro. Kể từ đó, Fidel Castro không xuất hiện trước công chúng.[28][29]
Ngày 18 tháng 2 năm 2008, ông tuyên bố ý định thôi giữ chức vụ Chủ tịch Hội đồng Nhà nước và Tổng tư lệnh quân đội Cuba[25]. Sau gần 50 năm lãnh đạo.
Hình ảnh đại chúng
"Mục tiêu đầu tiên và quan trọng nhất của Fidel luôn luôn là một cam kết thực hiện Bình đẳng xã hội.
Ông khinh thường bất kỳ hệ thống nào trong đó một nhóm người sống tốt
hơn nhiều so với số còn lại. Ông muốn có một hệ thống xã hội cung cấp
các nhu cầu cơ bản cho tất cả mọi người dân - đủ thực phẩm, chăm sóc sức
khỏe, nhà ở và giáo dục miễn phí. Bản chất độc đoán của cuộc cách mạng
Cuba bắt nguồn phần lớn từ mục tiêu này của Fidel. Castro làm những gì
mà đã thuyết phục ông ấy là đúng, là vì lợi ích của nhân dân. Bất cứ ai
chống lại cuộc cách mạng và chống lại nhân dân Cuba, trong đôi mắt của
Castro, chỉ đơn giản là không thể chấp nhận. Do đó, rất ít thể hiện của
tự do cá nhân - tự do ngôn luận và hội họp, được chấp nhận. Đã có tù
nhân chính trị - những người có những hành vi quá mức chống lại cuộc
cách mạng - mặc dù ngày nay số này chỉ khoảng 300, giảm rõ rệt so với
ngày đầu của cuộc cách mạng
Fidel Castro nổi tiếng với giờ làm việc bận rộn, ông thường chỉ ngủ 3 hay 4 giờ mỗi ngày[34] Ông có một trí nhớ "phi thường", các bài phát biểu Castro thường trích dẫn các báo cáo và những cuốn sách ông đã đọc[35] Ngay từ nhỏ, ông đã đam mê các loại vũ khí, nhất là súng[36] và ưa thích cuộc sống ở vùng nông thôn ngoại ô thành phố.[37]
Sử gia và nhà báo Richard Gott coi Castro là "một trong những nhân vật chính trị khác thường nhất của thế kỷ 20", ghi nhận Castro đã trở thành một "anh hùng thế giới theo khuôn mẫu của Garibaldi" với mọi người trên khắp thế giới đang nỗ lực chống lại chủ nghĩa đế quốc[21] Ông đã được trao tặng nhiều giải thưởng danh dự của Chính phủ các nước, và đã được xem là nguồn cảm hứng cho nhiều nhà lãnh đạo nước ngoài như Ahmed Ben Bella và Nelson Mandela, người sau đó trao tặng ông giải thưởng dân sự cao nhất của Nam Phi cho người nước ngoài, Huân chương Hảo Vọng[22]
Đối với những cáo buộc từ phương Tây rằng ông là nhà độc tài, Fidel Castro tuyên bố rằng nhà nước đôi khi phải hạn chế các quyền tự do của các cá nhân để bảo vệ các quyền lợi của tập thể người dân như quyền được lao động, giáo dục, chăm sóc sức khỏe và y tế miễn phí[38]. Bourne Castro ghi nhận rằng tầm ảnh hưởng mạnh mẽ của Castro ở Cuba hoàn toàn là từ những giá trị của bản thân con người ông. Bourne lưu ý rằng rất hiếm có một quốc gia và một dân tộc hoàn toàn ủng hộ bởi "nhân cách từ một con người" như đối với Fidel[39].
Đời sống riêng
Những chi tiết về cuộc sống riêng tư của Castro, đặt biệt mà có dính líu tới những thành viên trong gia đình, ít được biết, bởi vì báo chí nhà nước bị cấm đề cập tới.[40] Người viết tiểu sử về Castro, ông Robert E. Quirk ghi nhận là trong suốt cuộc đời của ông, nhà lãnh tụ Cuba "không có khả năng để duy trì một quan hệ tình dục lâu dài với bất cứ người phụ nữ nào."[41] Với người vợ đầu tiên, bà Mirta Díaz-Balart, mà ông cưới vào ngày 11, tháng 10 1948, Castro có một người con trai tên Fidel Ángel "Fidelito" Castro Díaz-Balart, sanh ngày 1, tháng 9 1949. Díaz-Balart và Castro ly dị trong năm 1955, sau đó bà cưới Emilio Núñez Blanco. Sau một thời gian cư trú ở Madrid, Díaz-Balart đã trở về Havana để sống với Fidelito và gia đình ông.[42] Fidelito lớn lên ở Cuba; có một thời, ông làm chủ tịch ủy ban năng lực nguyên tử Cuba nhưng sau đó bị tước chức này bởi chính cha mình.[43]Ngoài ra, Fidel có 5 người con trai khác với người vợ thứ hai, Dalia Soto del Valle: Antonio, Alejandro, Alexis, Alexander "Alex" and Ángel Castro Soto del Valle.[43] Trong khi Fidel ở với Mirta, ông đã ngoại tình với Natalia "Naty" Revuelta Clews, sinh ở Havana vào năm 1925 và đã làm đám cưới với Orlando Fernández, đẻ ra một người con gái tên Alina Fernández|Alina Fernández Revuelta.[43] Alina rời khỏi Cuba vào năm 1993, hóa trang làm một du khách người Tây Ban Nha,[44] và xin tị nạn ở Hoa kỳ. Bà đã chỉ trích chính sách của cha mình.[45] Với một phụ nữ khác không được biết tên, ông có một người con trai khác, tên Jorge Ángel Castro. Fidel còn có một người con gái khác, Francisca Pupo (sanh năm 1953) kết quả của một cuộc tình một đêm. Pupo và chồng bà bây giờ sống ở Miami.[1][46] Castro thường có quan hệ tình dục một đêm với các người đàn bà khác.[47]
Chị em gái của ông, bà Juanita Castro sống ở Hoa Kỳ ngay từ đầu thập niên 1960. Khi bà đi tỵ nạn, đã nói là "Tôi không thể hờ hững với những gì đang xảy ra trên đất nước tôi. Hai anh em của tôi, Fidel và Raúl đã biến nước tôi thành một nhà tù khổng lồ được bao quanh bởi biển cả. Người dân đang bị trói buộc và hành hạ bởi chủ nghĩa Cộng sản quốc tế."[48]
Các vụ ám sát nhằm vào Fidel Castro
Ủy ban Giáo Hội tuyên bố đã tìm ra ít nhất tám nỗ lực của CIA nhằm ám sát Fidel Castro trong giai đoạn 1960-1965 Fabian Escalante, nguyên giám đốc đã nghỉ hưu của cơ quan phản gián Cuba, người được giao nhiệm vụ bảo vệ Fidel Castro, ước tính số lượng các chương trình ám sát hoặc nỗ lực ám sát của Cơ quan tình báo Trung ương Mỹ nhắm vào Fidel là 638 (tính tới 2006)[49]. Các nỗ lực ám sát rất đa dạng, bao gồm xì gà tẩm độc tố hoặc tẩm thuốc nổ, bút bi chứa một ống tiêm tẩm chất độc chết người, và thuê mafia ám sát... Một số âm mưu đã được miêu tả trong một bộ phim tài liệu với tựa đề 638 cách để giết Castro phát sóng vào năm 2006 bởi Channel 4 - kênh truyền hình dịch vụ công cộng của Anh.Castro từng nói: "Nếu sống sót sau các vụ ám sát cũng được trao huy chương Olympic, tôi nhất định sẽ giành được huy chương vàng."[50]
Huân chương và danh hiệu
Tính tới 2010, Fidel đã được trao tặng 50 huân chương và danh hiệu các loại từ hơn 40 quốc gia trên thế giới:- Anh hùng Liên Xô[51]
- Huân chương Lenin, 3 lần[52] 1972;[53] 1986 "for his contribution to the promotion of fraternal relations between the USSR and Cuba".[54]
- Giải thưởng hòa bình Lenin (Liên Xô, 1961)
- Huân chương kỷ niệm 30 năm chiến thắng Chiến tranh Vệ quốc vĩ đại 1941-1945 (Liên Xô, 1975)[55]
- Huân chương Cách mạng Tháng Mười (Liên Xô, 1976)[56]
- Ngôi sao Cộng hòa Indonesia, Cấp 4
- Ngôi sao du kích (Indonesia, 1960)
- Huân chương ngôi sao Romania, Cấp 1 (1972)[57]
- Huân chương Sư tử trắng, Cấp 1 (Czechoslovakia, 1972)[58]
- Huân chương Georgi Dimitrov (Bulgaria, 1972)[59]
- Chữ Thập lớn của Huân chương Polonia Restituta (1973)[60]
- Huân chương Dũng cảm (Libya) (1977)
- Huân chương Somali, Cấp 1 (1977)[61]
- Huân chương Jamaica (1977)[62]
- Huân chương công đức Jamaica[63]
- Cấp cao nhất Huân chương danh dự Ethiopia (1978)[64]
- Giải thưởng hòa bình Jorge Dimitrov (Bulgaria, 1980)[65]
- Huân chương Sao vàng (Việt Nam, 1982)
- Anh hùng Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên[66]
- Huân chương Quốc kỳ, cấp 1 (Triều Tiên, 1986)[66]
- Huân chương Karl Marx (Đông Đức)[67]
- Huân chương Đại bàng Aztec (Mexico, 1987)
- Huân chương vàng của Thượng viện Tây Ban Nha (1988)
- Huân chương Klement Gottwald (Czechoslovakia, 1989).[68]
- Huân chương Agostinho Neto (Angola, 1992)[69]
- Huân chương công đức Duarte, Sanchez và Mella, chữ thập vàng (Cộng hòa Dominican, 1998)[70]
- Huân chương Hảo Vọng, hạng nhất (Nam Phi, 1998)[71]
- Chữ thập Huân chương quốc gia Mali (1998)[72]
- Huân chương Hoàng tử Yaroslav xứ Wise (Ukraine, 2000), for medical assistance to victims of the Chernobyl disaster[73]
- Huân chương Độc lập của Qatar (15/9/2000)[74]
- Huân chương Cộng hòa Yemen (2000)[75]
- Huân chương giải phóng hạng nhất (Venezuela, October 2000)[76]
- Huân chương Agostura Congress (Venezuela, 2001)[77]
- Huân chương danh dự Quân Giải phóng Algeri (6/5/2001)[78]
- Huân chương Vương miện (Malaysia, 11/05/2001)[79]
- Huân chương Thành phố Buenos Aires (2003)[80]
- Huân chương lao động (Triều Tiên, 2006)[81]
- Huân chương Quốc kỳ cấp 1 (Triều Tiên, 2006) to "promote the reunification of the Korean peninsula and build socialism"[81]
- Huân chương Amilcar Cabral (Guinea xích đạo, 2007)[82]
- Kỷ niệm chương thể thao (Bộ thể thao Ecuador, 2007)[83]
- Huân chương Welwitschia Mirabilis cổ đại (Namibia, 2008) "vì những đóng góp cho sự nghiệp giải phóng nhân dân Châu Phi"[84]
- Giải thưởng Ubuntu (Hội đồng di sản quốc gia Nam Phi, 2008) vì đã "dành trọn cuộc đời cho đoàn kết và đạo đức, nêu bật tầm quan trọng của các giá trị nhân bản và sự cống hiến cho nhân loại"[85]
- Huân chương danh dự Dominica (2008) vì những "đóng góp cho nền độc lập của Dominica"[86]
- Huân chương Omar Torrijos Herrera hạng nhất (Panama, 2009)[87]
- Huân chương Quetzal hạng nhất (2009) "nhằm tôn vinh hơn 17 triệu lượt khám và hơn 40.000 ca phẫu thuật được thực hiện bởi các bác sĩ Cuba vì lợi ích của người dân Guatemala"[88]
- Huân chương O. R. Tambo hạng Vàng của Nam Phi "vì những đóng góp vào công cuộc xóa bỏ chủ nghĩa thực dân, phân biệt chủng tộc và bất bình đẳng trong xã hội loài người"[89]
- Huân chương Danh dự và Vinh quang (Giáo hội Chính thống giáo Nga, October 19, 2008) - vì những đóng góp cho việc tăng cường hợp tác giữa các tôn giáo.
- Huân chương Đại bàng Zambia, Cấp 1 (Zambia, 2009) "vì đã truyền cảm hứng cho những người đấu tranh vì phẩm giá và bình đẳng"[90]
- Huân chương Merit (Ukraine), cấp 1 (Ukraine, 2010) "vì những đóng góp quan trọng để khôi phục sức khỏe cho trẻ em vùng Chernobyl, sau tai nạn vào năm 1986"[91]
- Giải thưởng tướng Eloy Alfaro (Ecuador, May 2010) "cho những giá trị và phẩm chất đặc biệt"[92]
- Huân chương Đông Timor hạng nhất (2010) "vì những đóng góp của Cuba về y tế và giáo dục"[93]
Những câu nói nổi tiếng
- Vì Việt Nam, Cuba sẵn sàng hiến dâng cả máu của mình ! [94][95][96]
- Nhân dân Cuba sẵn sàng đổ đến giọt máu cuối cùng để kề vai chiến đấu cạnh người anh em Việt Nam (nói về cuộc Chiến tranh biên giới Việt-Trung, 1979)
Chú thích
- ^ a ă â http://www.canf.org/es/ENSAYOS/2003-dic-09-vida_secreta_del_tirano_castro.htm
- ^ a ă â Fidel Castro - Cuộc đời tôi. Một trăm giờ với Fidel Castro
- ^ a ă â Thomas M. Leonard. Fidel Castro: A Biography. ISBN 0-313-32301-1.
- ^ DePalma, Anthony (2006). The Man Who Invented Fidel. Public Affairs.
- ^ Bockman, Larry James (April 1 năm 1984). “The Spirit Of Moncada: Fidel Castro's Rise To Power, 1953 - 1959”. Truy cập ngày 13 tháng 6 năm 2006.
- ^ Sweig, Julia E. (2002). Inside the Cuban Revolution. Harvard University Press. ISBN 0-674-00848-0.
- ^ Audio: Cuba Marks 50 Years Since 'Triumphant Revolution' by Jason Beaubien, NPR All Things Considered, January 1 2009
- ^ Encyclopedia Britannica entry for Fulgencio Batista
- ^ “1959: Castro sworn in as Cuban PM”. BBC News. Truy cập ngày 6 tháng 6 năm 2006.
- ^ “Spanish newspaper gives more details on Castro condition”. CNN. Truy cập ngày 17 tháng 1 năm 2007.
- ^ Castro, Fidel (19 tháng 2 năm 2008). “Mensaje del Comandante en Jefe” (PDF). Granma (bằng tiếng Tây Ban Nha). Truy cập ngày 19 tháng 2 năm 2008.
- ^ Castro, Fidel (19 tháng 2 năm 2008). “Message from the Commander in Chief”. Granma. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2008.
- ^ “Raul Castro named Cuban president”. BBC. 24 tháng 2 năm 2008. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2008. “Raul, 76, has in effect been president since and the National Assembly vote was seen as formalising his position.”
- ^ Jay Mallin. Covering Castro: rise and decline of Cuba's communist dictator. Transaction Publishers. ISBN 9781560001560.
- ^ a ă D. H. Figueredo. The complete idiot's guide to Latino history and culture.
- ^ a ă “Farewell Fidel: The man who nearly started World War III”. Daily Mail.
- ^ a ă Catan, Thomas. “Fidel Castro bows to illness and age as he quits centre stage after 50 years - Times Online”. www.timesonline.co.uk. Truy cập ngày 22 tháng 4 năm 2009.
- ^ a ă “Fidel's fade-out”.
- ^ “Cuba: Fidel Castro’s Abusive Machinery Remains Intact”. Human Rights Watch.
- ^ www.cpv.org.vn Fidel Castro
- ^ a ă Quirk 1993. p. 424.
- ^ a ă http://news.bbc.co.uk/2/hi/africa/165566.stm.
- ^ Lãnh tụ Cuba, Fidel Castro: Tư tưởng sẽ làm chuyển hoá thế giới
- ^ http://bee.net.vn/channel/1987/201201/Twitter-don-chet-Fidel-Castro-pha-len-cuoi-1821539/
- ^ a ă Chủ tịch Fidel Castro từ chức
- ^ “Victorious Castro bans elections”. BBC News. May 1 năm 1961. Truy cập ngày 19 tháng 5 năm 2006. Nguyên văn: The revolution has no time for elections. There is no more democratic government in Latin America than the revolutionary government.... If Mr. Kennedy does not like Socialism, we do not like imperialism. We do not like capitalism.
- ^ http://antg.cand.com.vn/vi-vn/tulieu/2009/4/69168.cand truy cập ngày 13 tháng 2 năm 2010.
- ^ Cuộc đời Chủ tịch Fidel Castro qua ảnh
- ^ Chủ tịch Cuba Fidel Castro nghỉ hưu
- ^ Smith, Wayne S. (2 tháng 2 năm 2007). “Castro’s Legacy”. TomPaine.com. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 10 năm 2007. Truy cập ngày 7 tháng 11 năm 2012.
- ^ Coltman 2003. p. 14.
- ^ Bourne 1986. p. 273.
- ^ Von Tunzelmann 2011. p. 94.
- ^ Coltman 2003. p. 219
- ^ Quirk 1993, tr. 352.
- ^ Quirk 1993. pp. 10, 255.
- ^ Quirk 1993. p. 5.
- ^ Coltman 2003. p. 247.
- ^ Bourne 1986. p. 295.
- ^ Admservice (8 tháng 10 năm 2000). “Fidel Castro’s Family”. Latinamericanstudies.org. Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2010.
- ^ Quirk 1993. p. 15.
- ^ Ann Louise Bardach: Cuba Confidential. p. 67. "One knowledgeable source claims that Mirta returned to Cuba in early 2002 and is now living with Fidelito and his family."
- ^ a ă â Jon Lee Anderson, "Castro’s Last Battle: Can the revolution outlive its leader?" The New Yorker, July 31, 2006. 51.
- ^ Boadle, Anthony (8 tháng 8 năm 2006). “Cuba’s first family not immune to political rift”. Reuters. Truy cập ngày 10 tháng 8 năm 2006.
- ^ Fernandez, Alina (1997). Castro’s Daughter, An Exile’s Memoir of Cuba. St. Martin’s Press. ISBN 031224293X.
- ^ Cuba confidential: Love and Vengeance in Miami and Havana By Ann Louise Bardach; Random House, Inc., 2002; ISBN 978-0-375-50489-1
- ^ Quirk 1993. p. 231.
- ^ “The Bitter Family (page 1 of 2)”. TIME. 10 tháng 7 năm 1964. Truy cập ngày 19 tháng 2 năm 2008.
- ^ Escalante Font, Fabián. Executive Action: 634 Ways to Kill Fidel Castro. Melbourne: Ocean Press, 2006.
- ^ “The Castropedia: Fidel's Cuba in facts and figures”. The Independent. 17 tháng 1 năm 2007. Truy cập ngày 1 tháng 9 năm 2013.
- ^ Кастро Рус Фидель Алехандро, Герой Советского Союза
- ^ Concediendo a Fidel Castro Ruz el título de Héroe de la Unión Soviética, La Prensa.
- ^ Fidel Castro
- ^ Un día como hoy: 11 de noviembre
- ^ CASTRO, PCC OFFICIALS RECEIVE SOVIET DECORATION
- ^ Биография Фиделя Кастро
- ^ Castro Speech Data Base
- ^ Castro to keep his state and university distinctions
- ^ Dimitrov Order Presentation to Fidel Castro
- ^ Visita de la delegación del gobierno polaco a Cuba el 25 de abril de 1973.
- ^ The International Who's Who, 2004, Europa Publications
- ^ Discurso pronunciado por Fidel Castro Ruz en el acto en que le fue impuesta la "Orden de Jamaica", la más alta distinción nacional que se confiere a gobernantes de otros países, en Kingston, Jamaica, October 16, 1977.
- ^ Order of Merit (OM)
- ^ «Fidel's visit to Ethiopia», September 24 edition, 1978, p. 2, Granma.
- ^ Breve biografía de Fidel Castro
- ^ a ă Confiere la República Popular Democrática de Corea a Fidel, Orden Héroe del Trabajo
- ^ Kuba: Das Ende der Ära Castro. Fidels Finale: Jetzt gibt Castro, schwer krank, die Macht ab
- ^ 1989 Speech Czechoslovak - Jakes Presents Award To Castro
- ^ Discurso pronunciado por el Comandante en Jefe Fidel Castro Ruz en el acto de imposición de la Orden "Agostinho Neto", efectuado en el Palacio de la Revolución, el 9 de julio de 1992.
- ^ Discurso pronunciado por Fidel Castro Ruz al recibir la Orden del Mérito de Duarte, Sánchez y Mella en el grado Gran Cruz Placa de Oro e imponer al Presidente de la República Dominicana, Dr. Leonel Fernández, la Orden José Martí. Santo Domingo, August 22, 1998.
- ^ Discurso pronunciado por el Comandante en Jefe Fidel Castro Ruz, Primer Secretario del Comité Central del Partido Comunista de Cuba y Presidente de los Consejos de Estado y de Ministros, en el acto de imposición de la Orden de Buena Esperanza, efectuado en Ciudad del Cabo, Sudáfrica, el día 4 de septiembre de 1998.
- ^ Breves de Cuba
- ^ Asistencia a los niños en Cuba
- ^ The Amir visit Cuba
- ^ CUBA IN THE MIDDLE EAST: 2000-2002
- ^ La Guerra Sucia Sobra
- ^ Discurso pronunciado al recibir la Orden Congreso de Angostura, en la Plaza Bolívar, Ciudad Bolívar, Venezuela, el 11 de agosto del 2001.
- ^ Reciben condecoraciones Presidentes de Cuba y Argelia
- ^ Rey malasio condecoró a Fidel
- ^ Fidel Castro percibe clima de "optimismo" en Argentina
- ^ a ă Fidel Castro recibe condecoraciones de Corea del Norte
- ^ Otorgan medalla "Amílcar Cabral" a Fidel Castro
- ^ Ecuador otorga a Fidel Castro la Medalla al Mérito Deportivo
- ^ Conceden en Namibia condecoración a Fidel Castro
- ^ Otorgado a líder cubano Fidel Castro Premio Ubuntu, de Sudáfrica
- ^ Fidel Castro to receive Dominica's highest award
- ^ Torrijos condecora a Fidel Castro y recibe medalla cubana
- ^ Conceden a Fidel Castro la Orden del Quetzal de Guatemala
- ^ Sudáfrica impondrá a Fidel Castro su condecoración de mayor grado
- ^ Distinguen a Fidel Castro con Orden Águila de Zambia
- ^ Yanukóvich condecora a Fidel y Raúl Castro por ayuda consecuencias Chernóbil
- ^ Legislativo ecuatoriano reconoce méritos e impronta de Fidel
- ^ Fidel Castro recibe la mayor distinción de Timor Oriental
- ^ Tình nghĩa sắt son Việt Nam - Cuba mãi mãi tỏa sáng
- ^ Cuba coi thắng lợi của VN là thắng lợi của mình
- ^ Tiếp tục phát triển quan hệ hữu nghị Việt Nam-Cuba
Liên kết ngoài
Wikimedia Commons có thêm thể loại hình ảnh và phương tiện truyền tải về Fidel Castro |
Lá cờ Hawaii
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Lá cờ Hawaiʻi (tiếng Hawaii: Ka Hae Hawaiʻi) là lá cờ chính thức tượng trưng Hawaiʻi là một vương quốc (dưới thời Anh thuộc ngắn), chế độ bảo hộ, cộng hòa, lãnh thổ, và tiểu bang. Đây là lá cờ tiểu bang duy nhất ở Hoa Kỳ mà được bay dưới nhiều chế độ chính phủ như thế, và là cờ duy nhất bao gồm Quốc kỳ Liên hiệp Anh (tiếng Anh: Union Flag). Ka Hae Hawaiʻi cũ hơn phần nhiều lá cờ tiểu bang Mỹ. Hai quốc gia đầu tiên công nhận Ka Hae Hawaiʻi chính thức là Vương quốc Anh và Pháp. Hoa Kỳ và Nhật Bản theo sau. Năm 1990, Thống đốc Hawaiʻi John D. Waihee III tuyên bố ngày 31 tháng 7 là Ngày Ka Hae Hawaiʻi, tức là Ngày Lá cờ Hawaiʻi.
Năm 1816, Kamehameha đặt làm cờ này để tránh xung đột. Nhà lịch sử cho Ka Hae Hawaiʻi là do một sĩ quan trong Hải quân Hoàng gia Anh, dựa trên lá cờ hải quân Anh. Tên sĩ quan này bị tranh cãi: có người cho là Alexander Adams; có người cho là George Beckley. Khác với cờ Anh được treo bởi Kamehameha lần đầu tiên, phía tên bên trái có bốn đường chéo thêm vì Vương quốc Anh đã trở thành Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland. Cờ đầu tiên có sọc màu đỏ-trắng-xanh, có thể do một số cờ trong lịch sử Anh. Tuy nhiên, có người cho rằng các màu này do quốc kỳ Mỹ. Vì lầm lẫn, cờ được sử dụng trong buổi treo cờ chính thức đầu tiên xếp màu theo thứ tự trắng-đỏ-xanh. Số sọc cũng thay đổi: ban đầu, lá cờ chỉ có bảy sọc, nhưng vào năm 1845 một sọc được thêm vào.
Thiết kế
Phía trên bên trái của cờ Hawaiʻi là Quốc kỳ Liên hiệp Anh. Nền lá cờ có tám sọc tượng trưng tám đảo chính của Hawaiʻi. Từ trên xuống, các sọc có màu theo thứ tự: trắng, đỏ, xanh, trắn, đỏ, xanh, trắng, đỏ. Các đảo được tượng trưng là Hawaiʻi, Oʻahu, Kauaʻi, Kahoʻolawe, Lānaʻi, Maui, Molokaʻi, và Niʻihau.Lịch sử
Có nhiều cách kể chuyện lịch sử của Ka Hae Hawaiʻi. Một cách giải thích rằng Vua Kamehameha I treo cờ Vương quốc Anh của hạm trưởng người Anh George Vancouver để biểu hiện tình hữu nghị với Quốc vương George III. Một cố vấn của Kamehameha bảo là quốc kỳ đó có thể kéo Hawaiʻi vào xung đột quốc tế, tại vì nước khác có thể tưởng Hawaiʻi đồng minh với Vương quốc Anh. Kamehameha kéo cờ xuống tại nhà vua. Tuy sự chính xác bị tranh cãi, có truyện kể rằng về sau, để nhân nhượng người Mỹ tại Hawaiʻi trong thời Chiến tranh 1812, quốc kỳ Hoa Kỳ được bay trên nhà Kamehameha và bị dời ngay khi sĩ quan Anh trong triều đình Kamehameha phản đối sôi nổi. Chuyện này giải thích tại sao lá cờ Hawaiʻi về sau cố tình hỗn hợp quốc kỳ của hai nước này. Một lý do nữa là, trong thời Định mệnh Hiển nhiên (Manifest Destiny) tại Hoa Kỳ, và khi Hawaiʻi bị Vương quốc Anh tiếp quản một ngày, lá cờ này được sử dụng để cho rằng Hawaiʻi là quốc gia độc lập. Phần của hai quốc kỳ được nối thành một để cho rằng Hawaiʻi không sẽ bị tiếp quản.Năm 1816, Kamehameha đặt làm cờ này để tránh xung đột. Nhà lịch sử cho Ka Hae Hawaiʻi là do một sĩ quan trong Hải quân Hoàng gia Anh, dựa trên lá cờ hải quân Anh. Tên sĩ quan này bị tranh cãi: có người cho là Alexander Adams; có người cho là George Beckley. Khác với cờ Anh được treo bởi Kamehameha lần đầu tiên, phía tên bên trái có bốn đường chéo thêm vì Vương quốc Anh đã trở thành Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland. Cờ đầu tiên có sọc màu đỏ-trắng-xanh, có thể do một số cờ trong lịch sử Anh. Tuy nhiên, có người cho rằng các màu này do quốc kỳ Mỹ. Vì lầm lẫn, cờ được sử dụng trong buổi treo cờ chính thức đầu tiên xếp màu theo thứ tự trắng-đỏ-xanh. Số sọc cũng thay đổi: ban đầu, lá cờ chỉ có bảy sọc, nhưng vào năm 1845 một sọc được thêm vào.
Xem thêm
Tham khảo
Liên kết ngoài
- Quy tắc trưng bày Ka Hae Hawaiʻi theo luật tiểu bang (tiếng Anh)
- Trang về lá cờ Hawaiʻi ở Flags of the World (Anh)
Lá cờ các tiểu bang Hoa Kỳ | |
---|---|
Liên bang | Quốc kỳ Hoa Kỳ |
Các tiểu bang | Alabama | Alaska | Arizona | Arkansas | California | Colorado | Connecticut | Delaware | Florida | Georgia | Hawaii | Idaho | Illinois | Indiana | Iowa | Kansas | Kentucky | Louisiana | Maine | Maryland | Massachusetts | Michigan | Minnesota | Mississippi | Missouri | Montana | Nebraska | Nevada | New Hampshire | New Jersey | New Mexico | New York | North Carolina | North Dakota | Ohio | Oklahoma | Oregon | Pennsylvania | Rhode Island | South Carolina | South Dakota | Tennessee | Texas | Utah | Vermont | Virginia | Washington | West Virginia | Wisconsin | Wyoming |
Đặc khu liên bang | Đặc khu Columbia |
Các hòn đảo | Samoa thuộc Mỹ | Guam | Quần đảo Bắc Mariana | Puerto Rico | Quần đảo Virgin thuộc Mỹ |
Thể loại:
Hawaii (phiên âm tiếng Việt: Ha-oai, Hán Việt: Hạ Uy Di; tiếng Hawaii: Hawaiʻi; đọc theo các tiếng Anh và Hawaii như "Hà-oai-y") là tiểu bang Hoa Kỳ nằm hoàn toàn trên quần đảo Hawaiʻi (ngày xưa được gọi quần đảo Sandwich bởi những người Châu Âu), nằm trong Thái Bình Dương cách lục địa khoảng 3.700 kilômét (2.300 dặm). Khi bang được gia nhập Liên bang ngày 21 tháng 8 năm 1959, Hawaiʻi được trở thành tiểu bang thứ 50 của Hoa Kỳ. Tên của tiểu bang trong tiếng Hawaiʻi có dấu ʻokina (ʻ), cho nên tiếng Anh chuẩn của Hawaiʻi (thổ ngữ Hawaiʻi) cũng phải được viết với dấu này. Đây là tiểu bang có tỷ lệ cư dân gốc Á cao nhất tại Hoa Kỳ.
Quần đảo Hawaiʻi bao gồm 19 đảo và đảo san hô kéo dài 2.400 km (1.500 dặm). Các đảo chính là tám đảo cao nhất về phía đông nam của dãy đảo. Các đảo này, theo vị trí từ phía tây bắc tới phía đông nam, có những tên: Niʻihau, Kauaʻi, Oʻahu, Molokaʻi, Lānaʻi, Kahoʻolawe, Maui, và đảo Hawaiʻi.
Các đảo Hawaiʻi được tạo ra do núi lửa nổi lên từ đáy biển qua một lỗ thông được gọi là nhiệt điểm (hotspot) trong thuyết địa chất. Lý thuyết này xác nhận rằng trong khi mảng kiến tạo dưới phần lớn của Thái Bình Dương tiến về hướng tây bắc, the nhiệt điểm này đứng yên, từ từ tạo ra các núi lửa mới. Đây là lý do chỉ những núi lửa vào phần nam của Đảo Hawaiʻi đang hoạt động.
Núi lửa phun ở ngoài Đảo Hawaiʻi lần cuối tại Haleakalā trên đảo Maui vào cuối thế kỷ 18. Núi lửa mọc lên gần đây nhất là Lōʻihi, dưới mặt biển cách bờ phía nam của đảo Hawaiʻi.
Bởi vì quần đảo Hawaiʻi bị cô lập ở giữa Thái Bình Dương, và nhiều loại môi trường tồn tại ở các đảo cao nằm trong hay gần vùng nhiệt đới, cho nên tiểu bang này có đủ loại thứ loài thực vật và động vật đặc hữu. Những hoạt động của núi lửa và xói mòn sau đó tạo ra nhiều địa mạo đẹp hay. Thời tiết ở đây làm cho núi Waiʻaleʻale thành nơi ẩm ướt thứ ba trên thế giới; mỗi năm mưa trung bình 11,7 m (460 inch).
Các khu vực dưới quyền của Dịch vụ Vườn Quốc gia (NPS) bao gồm:
Honolulu nằm ven bờ biển phía đông nam của đảo Oʻahu. Các thành phố đông người kia có: Hilo, Kāneʻohe, Kailua, Thành phố Pearl, Kahului, Kailua-Kona, và Līhuʻe.
Họ tự nhiên ngừng đi lại giữa Hawaiʻi và vùng Nam Thái Bình Dương, không biết lý do vài thế kỷ trước khi người Âu Châu đến. Các thủ lĩnh địa phương, được gọi aliʻi, cai trị làng của họ và chiến đấu để mở rộng thế lực và chống lại các làng khác. Chiến tranh xảy ra rất nhiều. Xã hội này hướng về cương vị lớn hơn và bắt đầu bao gồm cả hòn đảo.
Các bản báo cáo mập mờ của những nhà thám hiểm Âu Châu cho biết rằng Hawaiʻi đã được người Âu Châu thăm viêng từ lâu trước hạm trưởng người Anh James Cook năm 1778. Các sử gia ghi công ông Cook về sự khám phá này, tại vì ông là người đầu tiên vẽ bản đồ và xuất bản tọa độ của quần đảo Hawaiʻi. Cook đặt tên là quần đảo Sandwich để thể hiện lòng tôn trọng của ông đối với một trong những nhà tài trợ cho chuyến đi là John Montagu, bá tước đời thứ tư Sandwich.
Sự kiện đó dẫn đến Chỉ dụ Khoan dung (Edict of Toleration), lập nên tình trạng tự do tôn giáo ở quần đảo Hawaiʻi. Cái chết của Vua Kamehameha V – ông chưa vợ, nhưng không chọn người nối ngôi – dẫn đến Vua Lunalilo được bầu. Sau ông qua đời, Nhà Kalākaua được quyền cai trị.
Năm 1887, với lý do sự cai trị yếu kém, những thương gia Mỹ và Âu Châu mà đã tham gia vào chính phủ Hawaiʻi gí súng vào đầu Vua Kalākaua và bắt ông phải ký tên vào Hiến pháp Lưỡi lê, nó không chỉ tước đoạt quyền lực của quốc vương mà cũng bãi bỏ quyền đi bầu của người châu Á và đặt điều kiện thu nhập và tài sản tối thiểu của các cử tri người Mỹ, Âu Châu, và thổ dân Hawaiʻi, nói chung là nó khiến cho chỉ có những người Mỹ, Âu Châu, và thổ dân giàu có thể bỏ phiếu. Vua Kalākaua thống trị đến khi qua đời năm 1891.
Chị của Kalākaua, Liliʻuokalani, nối ngôi và cai trị đến khi bị truất ngôi năm 1893. Các thương gia Mỹ và Âu Châu đảo chính do bà loan tin là sẽ bãi bỏ hiến pháp. Tuy bà chùn lại đến phút cuối cùng, nhưng các thành viên của cộng đồng ngoại quốc thành lập Ủy ban An toàn mà thực hiện đảo chính gần không đổ máu và thành lập chính phủ lâm thời. Ngày 30 tháng 5 năm 1894, hội nghị hiến pháp dự thảo hiến pháp mới cho Cộng hòa Hawaii. Cộng hòa tuyên bố chủ quyền ngày 4 tháng 7 năm 1894, cùng ngày với quốc khánh Hoa Kỳ.
Sự lật đổ chế độ quân chủ là sự kiện quan trọng trong lịch sử Hawaiʻi và vẫn còn gây ra tranh luận. Trong thời Vương quốc và chế độ cộng hòa sau đó, Lâu đài ʻIolani – nhà hoàng gia chính thức duy nhất tại Hoa Kỳ ngày nay – được sử dụng như trụ sở thủ phủ.
Vụ sáp nhập Hawaii vào Hoa Kỳ bị nhiều người phản đối. Hui Aloha ʻAina và Hui Kalaiʻaina tổ chức hai vận động kiến nghị, một vận động lấy gần 22.000 tên ký phản đối sáp nhập, trong khi vận động kia lấy vào khoảng 17.000 tên xin phục hồi chế độ quân chủ. Chỉ có kiến nghị 22.000 tên phản đối sáp nhập được gửi cho chính phủ Hoa Kỳ, trong khi 17.000 tên kia chưa được tìm lại. Hồi đó Lorrin Thurston chỉ trích kiến nghị được gửi do điều tra của ông chỉ ra nhiều gian lận.[1]
Dù những người đó phản đối ở quần đảo, Nghị quyết Newlands ("nghị quyết các đất mới") được thông qua Hạ Nghị viện ngày 15 tháng 6 năm 1898 với kết quả 209 người thuận và 91 người chống, và được thông qua Thượng Nghị viện ngày 6 tháng 7 năm 1898 với kết quả 42–21, sáp nhập Hawaii thành một lãnh thổ chính thức của Hoa Kỳ, mặc dù những đại biểu phản đối trong Quốc hội.[2][3][4] Tuy một số người nghi ngờ sự hợp pháp của vụ sáp nhập này vì nghị quyết được thông qua thay vì hiệp ước, hai viện Quốc hội ủng hộ đạo luật này với đa số hai phần ba, trong khi một hiệp ước chỉ cần hai phần ba của Thượng Nghị viện thuận (Điều II, Đoạn 2, Hiến pháp Hoa Kỳ).
Năm 1900, Hawaii được tự trị và giữ Lâu đài ʻIolani là trụ sở của thủ phủ lãnh thổ. Tuy có người thử dành cấp tiểu bang vài lần, Hawaii vẫn còn là lãnh thổ kéo dài 60 năm. Các người chủ đồn điền, như là nhóm được gọi Big Five, thấy cấp lãnh thổ rất tiện, để họ tiếp tục nhập khẩu nhân công rẻ từ ngoại quốc; chính phủ liên bang cấm nhập cư như vậy ở các tiểu bang kia.
Quyền của các người chủ đồn điền cuối cùng bị vỡ do những người hoạt động chính trị mà cháu của nhân công nhập cư đầu tiên. Do họ được sinh tại lãnh thổ nước Mỹ, họ tự động là công dân Hoa Kỳ. Mong được quyền bầu cử đầy đủ, họ vận động cho cấp tiểu bang tại quần đảo Hawaiʻi.
Sau khi giành được cấp tiểu bang, Hawaiʻi vội trở thành tiểu bang hiện đại, ngành xây dựng và kinh tế mở mang rất nhanh. Đảng Cộng hòa Hawaiʻi bị đuổi ra khỏi chính phủ trong cuộc bầu cử, đảng được ủng hộ rất mạnh bởi các người chủ đồn điền. Thay cho đảng này, Đảng Dân chủ Hawaiʻi thống trị chính trị tiểu bang kéo dài 40 năm. Tiểu bang này cũng cố gắng xây lại văn hóa của thổ dân Hawaiʻi. Hội nghị Hiến pháp Tiểu bang Hawaiʻi năm 1978 dẫn đến thời kì mà có người gọi là "phục hưng Hawaiʻi". Các đại biểu của tiểu bang tạo ra những chương trình mang lại ngôn ngữ và văn hóa của thổ dân Hawaiʻi. Ngoài ra, họ cố gắng ủng hộ quyền lực thổ dân về vấn đề tiểu bang bằng cách thành lập Văn phòng Hawaiʻi vụ (Office of Hawaiian Affairs).
Năm 2005, dân số Hawaii ước tính là 1.275.194 người, tăng 13.070
người hay 1,0% so với năm trước và tăng 63.657 người hay 5,3% so với năm
2000. Số dân tăng tự nhiên là 48.111 người (96.028 sinh trừ 47.917
chết) và con số tăng do nhập cư là 16.956 người. Nhập cư từ bên ngoài Hoa Kỳ
tới tiểu bang là 30.068 người trong khi có 13.112 người di cư tới các
bang khác trong nước. Trung tâm dân cư của Hawaii nằm ở giữa hai đảo O’ahu và Moloka’i
Hawaii trên thực tế có dân số trên 1,3 triệu người do có một số lượng lớn quân nhân cũng như khách du lịch. O’ahu là hòn đảo đông dân nhất và cũng có mật độ dân số cao nhất, tổng dân cư của đảo là khoảng gần 1 triệu người trên một diện tích 1546 km² (597 mi²). Tuổi thọ trung bình ở Hawaii năm 2000 là 79,8 năm (77,1 với nam và 82,5 với nữ), cao hơn bất kỳ tiểu bang nào tại Hoa Kỳ[6]
Hawaii có tỷ lệ người Mỹ gốc Á cao nhất cả nước, trong đó có 175.000 người Mỹ gốc Philippines và 161.000 người Mỹ gốc Nhật. Ngoài ra còn có 53.000 người Mỹ gốc Hoa và 40.000 người Mỹ gốc Hàn. Người Hawaii bản địa có 77.000 người (chiếm 5,5%). Trên 110.000 nói tiếng Tây Ban Nha hay Bồ Đào Nha (Hispanic) coi Hawaii là quê hương của mình, trong đó người Mexico là 37.000, người Puerto Rico là 35.000. Ngoài ra, Hawaii cũng có tỷ lệ người đa chủng tộc cao nhất tại Hoa Kỳ, trong đó chủ yếu là người lai Âu-Á với gần 61.000 người [7].
Năm sắc dân gốc Âu lớn nhất tại Hawaii là người gốc Đức, gốc Ireland, gốc Anh, gốc Bồ Đào Nha và gốc Ý. Xấp xỉ 82,2% dân cư Hawaii sinh ra tại Hoa Kỳ và 15% người sinh ra ở nước ngoài là từ châu Á[7]. Hawaii là một trong hai tiểu bang mà người da trắng phi Hispanic không chiếm đa số, tiểu bang còn lại là New Mexico.
Ba nhóm người ngoại quốc đầu tiên đến Hawaii là người Polynesia,
người Âu và người Hoa, người Hoa đến trên những thuyền buôn từ năm 1789.
Năm 1820, những nhà truyền giáo Hoa Kỳ đầu tiên đã tới truyền đạo Thiên
Chúa và truyền bá văn minh phương Tây đến Hawaii. Họ đã thuyết phục các
tù trưởng người Hawaii bản địa từ bỏ phong tục lấy người làm vật hiến
tế.
Một phần lớn dân số Hawaii hiện nay có tổ tiên châu Á (đặc biệt là người Philippines, người Nhật, người Hoa). Nhiều người là hậu duệ của những người nhập cư được đưa đến để làm việc trong các đồn điền trồng mía đường vào những năm 1850 và sau này. 153 người Nhật đầu tiên nhập cư vào Hawaii vào ngày 19 tháng 6 năm 1868. Họ là những người nhập cư không "hợp pháp" theo chính quyền Nhật Bản bởi thỏa thuận được ký giữa những người lái buôn và Mạc Phủ Tokugawa, sau đó bị thay thế bởi chế độ của Minh Trị Thiên Hoàng. Người nhập cư Nhật Bản được phê chuẩn đầu tiên đến vào ngày 9 tháng 2 năm 1885 sau khi có đơn thỉnh cầu của Vua Kalākaua với Nhật Hoàng Minh Trị khi ông đến thăm Nhật Bản năm 1881.
Sau tiếng Anh, ngôn ngữ phổ biến thứ hai là tiếng Tagalog (là ngôn ngữ chính thức tại Philippines) (5,37%), tiếng Nhật (4,96%) và tiếng Ilokano (ngôn ngữ mẹ đẻ của phần lớn người Mỹ gốc Philippines) (4,05%), tiếng Hoa (1,92%), tiếng Hawaii (1,68%), tiếng Hàn (1,61%), tiếng Samoa (1,01%)[9]
Tiêu đề hiến pháp tiểu bang là "Hiến pháp của Tiểu bang Hawaii". Trong điều XV, mục 1 dùng "Bang Hawaii" và mục 5 chỉ rõ khẩu hiệu của tiểu bang là "Ua mau ke ea o ka aina i ka pono". Các dấu ‘okina và kahakō trong chính tả tiếng Hawaii không được sử dụng. Cuộc tranh luận tỏ ra ít được những người nói tiếng Anh bên ngoài Hawaii quan tâm.
"Không tham gia tổ chức tôn giáo" đề cập tới những người không thuộc về một giáo phái nào, nhóm này gồm những người theo thuyết bất khả tri, vô thần, chủ nghĩa nhân văn hay không tín ngưỡng.
Các mặt hàng xuất khẩu chính của Hawaii là thực phẩm và quần áo. Các ngành công nghiệp này có vai trò không đáng kể trong kinh tế Hawaii, tuy nhiên, khoảng cách xa xôi đã ảnh hưởng đáng kể đến lợi thế cạnh tranh của tiểu bang. Các mặt hàng thực phẩm chính của tiểu bang gồm cà phê, quả hạch, dứa, thú nuôi và đường. Giá trị ngành nông nghiệp năm 2002 theo Sở Thống kê Nông nghiệp Hawaii là 370,9 triệu đô la Mỹ, sản xuất dứa là 100,6 triệu đô la và sản xuất đường là 64,3 triệu đô la.
Hawaii có mức thuế khá cao. Năm 2003, cư dân Hawaii có mức thuế đầu người là 2.838 đô la Mỹ. Điều này một phần vì giáo dục, chăm sóc y tế và các dịch vụ xã hội đều được tiểu bang cung ứng, một điều không có ở các bang khác. Năm 2010, tỷ lệ triệu phú của tiểu bang cao thứ 1 trong cả nước.
Hàng triệu du khách mang đến thu nhập cho tiểu bang khi trả thuế thông thường khi mua sắm cũng như thuế phòng khách sạn. Tuy nhiên các nhà lãnh đạo doanh nghiệp cho rằng thuế của tiểu bang quá cao, góp phần làm cho giá cả cao hơn và môi trường kinh doanh không thuận lợi[16]. Hawaii là một trong số ít các tiểu bang kiểm soát giá xăng dầu. Kể từ khi lợi nhuận của công ty dầu tại Hawaii được so sánh với Hoa Kỳ lục địa được khảo sát, luật trói buộc giá xăng dầu địa phương ngang bằng với lục địa. Vào tháng 1 năm 2010, tỷ lệ thất nghiệp toàn bang là 6,9%[17].
Hawaii có nhiều sự kiện mang tính văn hóa. Lễ hội Quốc vương Merrie là một cuộc cạnh tranh ngôi vị quán quân điệu nhảy Hula quốc tế [18]. Bang cũng là nơi tổ chức Liên hoan Phim Quốc tế Hawaii, liên hoan phim hàng đầu của khu vực vành đai Thái Bình Dương[19].
Lớn nhất là hệ thống của Đại học Hawaii, bao gồm các cơ sở tại Manoa và 2 khu trường sở tại Hilo và Tây Oahu; ngoài ra còn có 7 trường cao đẳng tại tiểu bang. Các trường đại họch tư nhân bao gồm Brigham Young University–Hawaii, Chaminade University of Honolulu, Hawaii Pacific University, hay University of the Nations.
Các chuyến bay thương mại phục vụ việc đi lại tới lục địa cũng như giữa các đảo với nhau. Hawaiian Airlines, Mokulele Airlines và go! Sử dụng các máy bay phản lực ở các sân bay lớn tại Honolulu, Lihue, Kahului, Kona và Hilo, trong khi Island Air và Pacific Wings dùng các máy bay nhỏ hơn. Các hãng hàng không này cũng cung cấp dịch vụ vận chuyển giữa các đảo.
Norwegian Cruise Lines cung cấp dịch vụ du lịch bằng thuyền giữa các đảo. Hawaii Superferry có kế hoạch kết nối giữa Oahu và các đảo khác.
Hawaii
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Đối với các định nghĩa khác, xem Hawaii (định hướng).
State of Hawaii Mokuʻāina o Hawaiʻi |
|||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|
|
|||||||
Biệt danh: The Aloha State (Tiểu bang Aloha)
|
|||||||
Ngôn ngữ chính thức | Tiếng Hawaii và tiếng Anh (thổ ngữ Hawaii) | ||||||
Địa lý | |||||||
Thủ phủ | Honolulu | ||||||
Thành phố lớn nhất | Honolulu | ||||||
Diện tích | 28.337 km² (hạng 43) | ||||||
• Phần đất | 16.649 km² | ||||||
• Phần nước | 11.672 km² (41,2 %) | ||||||
Chiều dài | 2.450 km² | ||||||
Kinh độ | 154°40′W – 162°W | ||||||
Vĩ độ | 18°55′N – 29°N | ||||||
Dân số (2000) | 1.211.537 (hạng 42) | ||||||
• Mật độ | 42,75 (hạng 13) | ||||||
• Trung bình | 925 m | ||||||
• Cao nhất | 4.207 m | ||||||
• Thấp nhất | 0 m | ||||||
Hành chính | |||||||
Ngày gia nhập | 21 tháng 8, 1959 (thứ 50) | ||||||
Thống đốc | Linda Lingle (Cộng hòa) | ||||||
Thượng nghị sĩ Hoa Kỳ |
Daniel Inouye (Dân chủ) Daniel Akaka (DC) |
||||||
Múi giờ | HST (UTC−10) | ||||||
• Giờ mùa hè | Không áp dụng | ||||||
Viết tắt | HI Hi. US-HI | ||||||
Trang web | www.hawaii.gov |
Mục lục
Địa lý
Quần đảo Hawaiʻi bao gồm 19 đảo và đảo san hô kéo dài 2.400 km (1.500 dặm). Các đảo chính là tám đảo cao nhất về phía đông nam của dãy đảo. Các đảo này, theo vị trí từ phía tây bắc tới phía đông nam, có những tên: Niʻihau, Kauaʻi, Oʻahu, Molokaʻi, Lānaʻi, Kahoʻolawe, Maui, và đảo Hawaiʻi.
Các đảo Hawaiʻi được tạo ra do núi lửa nổi lên từ đáy biển qua một lỗ thông được gọi là nhiệt điểm (hotspot) trong thuyết địa chất. Lý thuyết này xác nhận rằng trong khi mảng kiến tạo dưới phần lớn của Thái Bình Dương tiến về hướng tây bắc, the nhiệt điểm này đứng yên, từ từ tạo ra các núi lửa mới. Đây là lý do chỉ những núi lửa vào phần nam của Đảo Hawaiʻi đang hoạt động.
Núi lửa phun ở ngoài Đảo Hawaiʻi lần cuối tại Haleakalā trên đảo Maui vào cuối thế kỷ 18. Núi lửa mọc lên gần đây nhất là Lōʻihi, dưới mặt biển cách bờ phía nam của đảo Hawaiʻi.
Bởi vì quần đảo Hawaiʻi bị cô lập ở giữa Thái Bình Dương, và nhiều loại môi trường tồn tại ở các đảo cao nằm trong hay gần vùng nhiệt đới, cho nên tiểu bang này có đủ loại thứ loài thực vật và động vật đặc hữu. Những hoạt động của núi lửa và xói mòn sau đó tạo ra nhiều địa mạo đẹp hay. Thời tiết ở đây làm cho núi Waiʻaleʻale thành nơi ẩm ướt thứ ba trên thế giới; mỗi năm mưa trung bình 11,7 m (460 inch).
Các khu vực dưới quyền của Dịch vụ Vườn Quốc gia (NPS) bao gồm:
- Đường lịch sử Quốc gia Ala Kahakai trên đảo Hawaii
- Công viên Quốc gia Haleakala tại Kula
- Công viên Quốc gia các Núi lửa Hawaii tại Hilo
- Công viên lịch sử Quốc gia Kalaupapa tại Kalaupapa
- Công viên lịch sử Quốc gia Kaloko-Honokohau tại Kailua-Kona
- Công viên lịch sử Quốc gia Puʻuhonua O Honaunau tại Honaunau
- Khu tưởng niệm Quốc gia Puukohola Heiau tại Kawaihae
- Đài kỷ niệm USS Arizona tại Honolulu
Các đảo chính
Các thành phố quan trọng
Những nơi đông người ở vị trí ngày nay do hoàng gia Hawaiʻi mới đầu di chuyển từ đảo Hawaiʻi tới Maui rồi tới Hawaiʻi. Thành phố lớn nhất và thủ phủ của tiểu bang, Honolulu, là thành phố mà Quốc vương Kamehameha III lựa chọn thành kinh của quốc vương ngày xưa, do có cảng tự nhiên ở đấy, đó là cảng Honolulu ngày nay.Honolulu nằm ven bờ biển phía đông nam của đảo Oʻahu. Các thành phố đông người kia có: Hilo, Kāneʻohe, Kailua, Thành phố Pearl, Kahului, Kailua-Kona, và Līhuʻe.
Lịch sử
Thời cổ
Họ tự nhiên ngừng đi lại giữa Hawaiʻi và vùng Nam Thái Bình Dương, không biết lý do vài thế kỷ trước khi người Âu Châu đến. Các thủ lĩnh địa phương, được gọi aliʻi, cai trị làng của họ và chiến đấu để mở rộng thế lực và chống lại các làng khác. Chiến tranh xảy ra rất nhiều. Xã hội này hướng về cương vị lớn hơn và bắt đầu bao gồm cả hòn đảo.
Các bản báo cáo mập mờ của những nhà thám hiểm Âu Châu cho biết rằng Hawaiʻi đã được người Âu Châu thăm viêng từ lâu trước hạm trưởng người Anh James Cook năm 1778. Các sử gia ghi công ông Cook về sự khám phá này, tại vì ông là người đầu tiên vẽ bản đồ và xuất bản tọa độ của quần đảo Hawaiʻi. Cook đặt tên là quần đảo Sandwich để thể hiện lòng tôn trọng của ông đối với một trong những nhà tài trợ cho chuyến đi là John Montagu, bá tước đời thứ tư Sandwich.
Vương quốc
Sự kiện đó dẫn đến Chỉ dụ Khoan dung (Edict of Toleration), lập nên tình trạng tự do tôn giáo ở quần đảo Hawaiʻi. Cái chết của Vua Kamehameha V – ông chưa vợ, nhưng không chọn người nối ngôi – dẫn đến Vua Lunalilo được bầu. Sau ông qua đời, Nhà Kalākaua được quyền cai trị.
Năm 1887, với lý do sự cai trị yếu kém, những thương gia Mỹ và Âu Châu mà đã tham gia vào chính phủ Hawaiʻi gí súng vào đầu Vua Kalākaua và bắt ông phải ký tên vào Hiến pháp Lưỡi lê, nó không chỉ tước đoạt quyền lực của quốc vương mà cũng bãi bỏ quyền đi bầu của người châu Á và đặt điều kiện thu nhập và tài sản tối thiểu của các cử tri người Mỹ, Âu Châu, và thổ dân Hawaiʻi, nói chung là nó khiến cho chỉ có những người Mỹ, Âu Châu, và thổ dân giàu có thể bỏ phiếu. Vua Kalākaua thống trị đến khi qua đời năm 1891.
Chị của Kalākaua, Liliʻuokalani, nối ngôi và cai trị đến khi bị truất ngôi năm 1893. Các thương gia Mỹ và Âu Châu đảo chính do bà loan tin là sẽ bãi bỏ hiến pháp. Tuy bà chùn lại đến phút cuối cùng, nhưng các thành viên của cộng đồng ngoại quốc thành lập Ủy ban An toàn mà thực hiện đảo chính gần không đổ máu và thành lập chính phủ lâm thời. Ngày 30 tháng 5 năm 1894, hội nghị hiến pháp dự thảo hiến pháp mới cho Cộng hòa Hawaii. Cộng hòa tuyên bố chủ quyền ngày 4 tháng 7 năm 1894, cùng ngày với quốc khánh Hoa Kỳ.
Sự lật đổ chế độ quân chủ là sự kiện quan trọng trong lịch sử Hawaiʻi và vẫn còn gây ra tranh luận. Trong thời Vương quốc và chế độ cộng hòa sau đó, Lâu đài ʻIolani – nhà hoàng gia chính thức duy nhất tại Hoa Kỳ ngày nay – được sử dụng như trụ sở thủ phủ.
Lãnh thổ
Vụ sáp nhập Hawaii vào Hoa Kỳ bị nhiều người phản đối. Hui Aloha ʻAina và Hui Kalaiʻaina tổ chức hai vận động kiến nghị, một vận động lấy gần 22.000 tên ký phản đối sáp nhập, trong khi vận động kia lấy vào khoảng 17.000 tên xin phục hồi chế độ quân chủ. Chỉ có kiến nghị 22.000 tên phản đối sáp nhập được gửi cho chính phủ Hoa Kỳ, trong khi 17.000 tên kia chưa được tìm lại. Hồi đó Lorrin Thurston chỉ trích kiến nghị được gửi do điều tra của ông chỉ ra nhiều gian lận.[1]
Dù những người đó phản đối ở quần đảo, Nghị quyết Newlands ("nghị quyết các đất mới") được thông qua Hạ Nghị viện ngày 15 tháng 6 năm 1898 với kết quả 209 người thuận và 91 người chống, và được thông qua Thượng Nghị viện ngày 6 tháng 7 năm 1898 với kết quả 42–21, sáp nhập Hawaii thành một lãnh thổ chính thức của Hoa Kỳ, mặc dù những đại biểu phản đối trong Quốc hội.[2][3][4] Tuy một số người nghi ngờ sự hợp pháp của vụ sáp nhập này vì nghị quyết được thông qua thay vì hiệp ước, hai viện Quốc hội ủng hộ đạo luật này với đa số hai phần ba, trong khi một hiệp ước chỉ cần hai phần ba của Thượng Nghị viện thuận (Điều II, Đoạn 2, Hiến pháp Hoa Kỳ).
Năm 1900, Hawaii được tự trị và giữ Lâu đài ʻIolani là trụ sở của thủ phủ lãnh thổ. Tuy có người thử dành cấp tiểu bang vài lần, Hawaii vẫn còn là lãnh thổ kéo dài 60 năm. Các người chủ đồn điền, như là nhóm được gọi Big Five, thấy cấp lãnh thổ rất tiện, để họ tiếp tục nhập khẩu nhân công rẻ từ ngoại quốc; chính phủ liên bang cấm nhập cư như vậy ở các tiểu bang kia.
Quyền của các người chủ đồn điền cuối cùng bị vỡ do những người hoạt động chính trị mà cháu của nhân công nhập cư đầu tiên. Do họ được sinh tại lãnh thổ nước Mỹ, họ tự động là công dân Hoa Kỳ. Mong được quyền bầu cử đầy đủ, họ vận động cho cấp tiểu bang tại quần đảo Hawaiʻi.
Tiểu bang
Tháng 3 năm 1959, hai viện Quốc hội thông qua Đạo luật Nhận, và Tổng thống Dwight D. Eisenhower tán thành nó. (Đạo luật này không kể đảo san hô Palmyra, ngày xưa là phần của Vương quốc và Lãnh thổ Hawaiʻi, khi định nghĩa tiểu bang.) Ngày 27 tháng 6 năm đó, lãnh thổ này tổ chức cuộc trưng cầu dân ý để dân Hawaii biểu quyết về đạo luật đưa cấp tiểu bang. Hawaii chấp nhận nó với kết quả mỗi người chống có 17 người thuận. Ngày 21 tháng 8, các nhà thờ khắp thành phố Honolulu kêu chuông khi Hawaiʻi được tuyên bố là tiểu bang thứ 50 của Liên bang.Sau khi giành được cấp tiểu bang, Hawaiʻi vội trở thành tiểu bang hiện đại, ngành xây dựng và kinh tế mở mang rất nhanh. Đảng Cộng hòa Hawaiʻi bị đuổi ra khỏi chính phủ trong cuộc bầu cử, đảng được ủng hộ rất mạnh bởi các người chủ đồn điền. Thay cho đảng này, Đảng Dân chủ Hawaiʻi thống trị chính trị tiểu bang kéo dài 40 năm. Tiểu bang này cũng cố gắng xây lại văn hóa của thổ dân Hawaiʻi. Hội nghị Hiến pháp Tiểu bang Hawaiʻi năm 1978 dẫn đến thời kì mà có người gọi là "phục hưng Hawaiʻi". Các đại biểu của tiểu bang tạo ra những chương trình mang lại ngôn ngữ và văn hóa của thổ dân Hawaiʻi. Ngoài ra, họ cố gắng ủng hộ quyền lực thổ dân về vấn đề tiểu bang bằng cách thành lập Văn phòng Hawaiʻi vụ (Office of Hawaiian Affairs).
Nhân khẩu
Dân số
Lịch sử dân số | |||
---|---|---|---|
Thống kê | Số dân | %± | |
1900 | 154.001 |
|
|
1910 | 191.874 | 24.6% | |
1920 | 255.881 | 33.4% | |
1930 | 368.300 | 43.9% | |
1940 | 422.770 | 14.8% | |
1950 | 499.794 | 18.2% | |
1960 | 632.772 | 26.6% | |
1970 | 769.913 | 21.7% | |
1980 | 964.691 | 25.3% | |
1990 | 1.108.229 | 14.9% | |
2000 | 1.211.537 | 9.3% | |
2010 | 1.360.301 | 12.3% | |
Nguồn: 1910-2010[5] |
Hawaii trên thực tế có dân số trên 1,3 triệu người do có một số lượng lớn quân nhân cũng như khách du lịch. O’ahu là hòn đảo đông dân nhất và cũng có mật độ dân số cao nhất, tổng dân cư của đảo là khoảng gần 1 triệu người trên một diện tích 1546 km² (597 mi²). Tuổi thọ trung bình ở Hawaii năm 2000 là 79,8 năm (77,1 với nam và 82,5 với nữ), cao hơn bất kỳ tiểu bang nào tại Hoa Kỳ[6]
Thành phần dân tộc
Theo điều tra của Cục thông kê Hoa Kỳ năm 2008, người Mỹ da trắng chiếm 27,1% dân số Hawaii, trong đó 24,8% là người da trắng không nói tiếng Tây Ban Nha hay Bồ Đào Nha (Hispanic). Người da đen hay người Mỹ gốc Phi chiếm 2,4% dân số (trong đó 2,3% không phải là Hispanic). Người đa đỏ chiếm 0,2% (trong đó 0,1% không phải là Hispanic). Người Mỹ gốc Á chiếm 38,5% (trong đó 37,6% không phải là Hispanic). Người Mỹ gốc các đảo Thái Bình Dương chiếm 9% (trong đó 8,6% không phải là Hispanic). Các chủng tộc là 1,4% (trong đó 1,0% không phải là Hispanic). Người Mỹ đa chủng tộc chiếm 21,4% (trong đó 17,8% không phải là Hispanic). Người nói tiếng Tây Ban Nha hay Bồ Đào Nha (Hispanic) chiếm 8,7%[7]Hawaii có tỷ lệ người Mỹ gốc Á cao nhất cả nước, trong đó có 175.000 người Mỹ gốc Philippines và 161.000 người Mỹ gốc Nhật. Ngoài ra còn có 53.000 người Mỹ gốc Hoa và 40.000 người Mỹ gốc Hàn. Người Hawaii bản địa có 77.000 người (chiếm 5,5%). Trên 110.000 nói tiếng Tây Ban Nha hay Bồ Đào Nha (Hispanic) coi Hawaii là quê hương của mình, trong đó người Mexico là 37.000, người Puerto Rico là 35.000. Ngoài ra, Hawaii cũng có tỷ lệ người đa chủng tộc cao nhất tại Hoa Kỳ, trong đó chủ yếu là người lai Âu-Á với gần 61.000 người [7].
Năm sắc dân gốc Âu lớn nhất tại Hawaii là người gốc Đức, gốc Ireland, gốc Anh, gốc Bồ Đào Nha và gốc Ý. Xấp xỉ 82,2% dân cư Hawaii sinh ra tại Hoa Kỳ và 15% người sinh ra ở nước ngoài là từ châu Á[7]. Hawaii là một trong hai tiểu bang mà người da trắng phi Hispanic không chiếm đa số, tiểu bang còn lại là New Mexico.
Tổ tiên
Tổ tiên | Tỷ lệ | Bài chính: |
---|---|---|
Người Philippines | 13,6% | Xem thêm Người Mỹ gốc Philippines |
Người Nhật | 12,6% | Xem thêm Người Mỹ gốc Nhật |
Người Polynesia | 9,0% | Xem thêm Người Hawaii bản địa |
Người Đức | 7,4% | Xem thêm Người Mỹ gốc Đức |
Người Ireland | 5,2% | Xem thêm Người Mỹ gốc Ireland |
Người Anh | 4,6% | Xem thêm Người Mỹ gốc Anh |
Người Bồ Đào Nha | 4,3% | Xem thêm Người Mỹ gốc Bồ Đào Nha |
Người Hoa | 4,1% | Xem thêm Người Mỹ gốc Hoa |
Người Hàn | 3,1% | Xem thêm Người Mỹ gốc Hàn |
Người Mexico | 2,9% | Xem thêm Người Mỹ gốc Mexico |
Người Puerto Rico | 2,8% | Xem thêm Người Mỹ gốc Puerto Rico |
Người Ý | 2,7% | Xem thêm Người Mỹ gốc Ý |
Người Phi | 2,4% | Xem thêm Người Mỹ gốc Phi |
Người Pháp | 1,7% | Xem thêm Người Mỹ gốc Pháp |
Người Scotland | 1,2% | Xem thêm Người Mỹ gốc Scotland |
Một phần lớn dân số Hawaii hiện nay có tổ tiên châu Á (đặc biệt là người Philippines, người Nhật, người Hoa). Nhiều người là hậu duệ của những người nhập cư được đưa đến để làm việc trong các đồn điền trồng mía đường vào những năm 1850 và sau này. 153 người Nhật đầu tiên nhập cư vào Hawaii vào ngày 19 tháng 6 năm 1868. Họ là những người nhập cư không "hợp pháp" theo chính quyền Nhật Bản bởi thỏa thuận được ký giữa những người lái buôn và Mạc Phủ Tokugawa, sau đó bị thay thế bởi chế độ của Minh Trị Thiên Hoàng. Người nhập cư Nhật Bản được phê chuẩn đầu tiên đến vào ngày 9 tháng 2 năm 1885 sau khi có đơn thỉnh cầu của Vua Kalākaua với Nhật Hoàng Minh Trị khi ông đến thăm Nhật Bản năm 1881.
Ngôn ngữ
Tiếng Anh
Theo thống kê năm 2000, 73,44% cư dân Hawaii 5 tuổi hoặc lớn hơn chỉ nói tiếng Anh tại nhà [9]. Còn theo thống kê năm 2008 của cuộc Điều tra Cộng đồng Hoa Kỳ, 74,6% cư dân Hawaii bằng hoặc trên 5 tuổi chỉ nói tiếng Anh ở nhà[7].Các ngôn ngữ thiểu số
Tiếng Tây Ban Nha đươc 2,6% cư dân Hawaii sử dụng, 1,6% thuộc về những ngôn ngữ khác thuộc Ngữ hệ Ấn-Âu; 21% nói các ngôn ngữ châu Á và 0,2% nói các ngôn ngữ khác tại nhàSau tiếng Anh, ngôn ngữ phổ biến thứ hai là tiếng Tagalog (là ngôn ngữ chính thức tại Philippines) (5,37%), tiếng Nhật (4,96%) và tiếng Ilokano (ngôn ngữ mẹ đẻ của phần lớn người Mỹ gốc Philippines) (4,05%), tiếng Hoa (1,92%), tiếng Hawaii (1,68%), tiếng Hàn (1,61%), tiếng Samoa (1,01%)[9]
Cách viết tên tiểu bang
Có một bất đồng gây chia rẽ về mặt chính trị đã nảy sinh khi Hiến pháp của Tiểu Bang Hawaii đưa tiếng Hawaii là ngôn ngữ chính thức thứ hai của tiểu bang là: cách viết chính xác tên của tiểu bang. Trong Đạo luật Công cộng Hawaii, Chính phủ liên bang công nhận Hawaii là tên chính thức của tiểu bang. Các văn bản, tiêu đề chính thức của chính quyền đều sử dụng cách viết này và không có ký hiệu của âm tắc hầu hay nguyên âm dài. Tương phản, vài thực thể tư nhân như báo chí địa phương, sử dụng ký hiệu nàyTiêu đề hiến pháp tiểu bang là "Hiến pháp của Tiểu bang Hawaii". Trong điều XV, mục 1 dùng "Bang Hawaii" và mục 5 chỉ rõ khẩu hiệu của tiểu bang là "Ua mau ke ea o ka aina i ka pono". Các dấu ‘okina và kahakō trong chính tả tiếng Hawaii không được sử dụng. Cuộc tranh luận tỏ ra ít được những người nói tiếng Anh bên ngoài Hawaii quan tâm.
Tôn giáo
Tông giáo tại Hawaii, só liệu dựa theo năm 200 như sau [10][11][12]- Ki-tô giáo: 351.000 (28,9%)
- Phật giáo: 110.000 (9%)
- Do Thái giáo: 10.000 (0,8%)
- Tôn giáo khác: 100.000 (10%)
- Không tham gia tổ chức tôn giáo": 650.000 (51,1%)
"Không tham gia tổ chức tôn giáo" đề cập tới những người không thuộc về một giáo phái nào, nhóm này gồm những người theo thuyết bất khả tri, vô thần, chủ nghĩa nhân văn hay không tín ngưỡng.
Kinh tế
Lịch sử Hawaii có các ngành kinh tế chủ yếu: gỗ đàn hương (sandalwood)[14], săn cá voi[15], sản xuất đường, dứa, quân đội, du lịch và giáo dục. Từ khi có quy chế tiểu bang năm 1959, du lịch đã trở thành ngành kinh tế lớn nhất, đống góp 24,3% Tổng sản phẩm Bang (GSP). Vào năm 1997, mặc dù vậy bang đang cố gắng đa dạng hóa nền kinh tế. Tổng thu nhập toàn tiểu bang năm 2003 là 47 tỷ đôla Mỹ, thu nhập bình quân đầu người là 30.441 đôla.Các mặt hàng xuất khẩu chính của Hawaii là thực phẩm và quần áo. Các ngành công nghiệp này có vai trò không đáng kể trong kinh tế Hawaii, tuy nhiên, khoảng cách xa xôi đã ảnh hưởng đáng kể đến lợi thế cạnh tranh của tiểu bang. Các mặt hàng thực phẩm chính của tiểu bang gồm cà phê, quả hạch, dứa, thú nuôi và đường. Giá trị ngành nông nghiệp năm 2002 theo Sở Thống kê Nông nghiệp Hawaii là 370,9 triệu đô la Mỹ, sản xuất dứa là 100,6 triệu đô la và sản xuất đường là 64,3 triệu đô la.
Hawaii có mức thuế khá cao. Năm 2003, cư dân Hawaii có mức thuế đầu người là 2.838 đô la Mỹ. Điều này một phần vì giáo dục, chăm sóc y tế và các dịch vụ xã hội đều được tiểu bang cung ứng, một điều không có ở các bang khác. Năm 2010, tỷ lệ triệu phú của tiểu bang cao thứ 1 trong cả nước.
Hàng triệu du khách mang đến thu nhập cho tiểu bang khi trả thuế thông thường khi mua sắm cũng như thuế phòng khách sạn. Tuy nhiên các nhà lãnh đạo doanh nghiệp cho rằng thuế của tiểu bang quá cao, góp phần làm cho giá cả cao hơn và môi trường kinh doanh không thuận lợi[16]. Hawaii là một trong số ít các tiểu bang kiểm soát giá xăng dầu. Kể từ khi lợi nhuận của công ty dầu tại Hawaii được so sánh với Hoa Kỳ lục địa được khảo sát, luật trói buộc giá xăng dầu địa phương ngang bằng với lục địa. Vào tháng 1 năm 2010, tỷ lệ thất nghiệp toàn bang là 6,9%[17].
Văn hóa
Văn hóa bản địa Hawaii là của người Polynesia. Hawaii được coi là cực bắc của tam giác Polynesia ở phía nam và trung tâm Thái Bình Dương. Trong khi văn hóa bản địa Hawaii chỉ còn là vết tích trong xã hội Hawaii hiện đại, nhiều nghi lễ và phong tục truyền thống diễn ra khắp trên quần đảo. Một số thậm chí tác động trên toàn Hoa Kỳ như sự phổ biến của luau (bữa tiệc kiểu Hawaii) và vũ điệu hula.Hawaii có nhiều sự kiện mang tính văn hóa. Lễ hội Quốc vương Merrie là một cuộc cạnh tranh ngôi vị quán quân điệu nhảy Hula quốc tế [18]. Bang cũng là nơi tổ chức Liên hoan Phim Quốc tế Hawaii, liên hoan phim hàng đầu của khu vực vành đai Thái Bình Dương[19].
Y tế
Năm 2009, 92% cư dân Hawaii có bảo hiểm y tế. Dưới tác dụng của các kế hoạch tiểu bang, các doanh nghiệp phải cung cấp bảo hiểm cho người lao động làm việc trên 20 tiếng mỗi tuần. Quy định này khiến cho lương của người lao động bị giảm xuống. Do được tiêm phòng bệnh nhiều, người Hawaii ít khi phải tới bệnh viện hơn các bang khác của Hoa Kỳ trong khi viện phí về căn bản là thấp hơn. Với thành tích này, những đề xuất về một hệ thống bảo hiểm y tế phổ quát tại nhiều nơi của Hoa Kỳ nhiều khi sử dụng Hawaii như một hình mẫu để đề nghị các kế hoạch chăm sóc sức khỏe liên bang cũng như tiểu bang. Tuy nhiên những người chỉ trích cho rằng sự thành công của Hawaii có phần đóng góp của khí hậu yên bình và tình trạng biệt lập nên có ít dịch bệnh, nền kinh tế Hawaii phụ thuộc vào du lịch và các doanh nghiệp cũng không hài lòng với việc chi trả bảo hiểm hiện nay tại tiểu bang[20]Giáo dục
Những người tốt nghiệp phổ thông ở Hawaii thường lập tức tham gia vào thị trường lao động, một số chuyển đến các trường đại học và cao đẳng tại Hoa Kỳ lục địa, phần còn lại theo học tại các cơ sở giáo dục bậc cao hơn tại Hawaii.Lớn nhất là hệ thống của Đại học Hawaii, bao gồm các cơ sở tại Manoa và 2 khu trường sở tại Hilo và Tây Oahu; ngoài ra còn có 7 trường cao đẳng tại tiểu bang. Các trường đại họch tư nhân bao gồm Brigham Young University–Hawaii, Chaminade University of Honolulu, Hawaii Pacific University, hay University of the Nations.
Giao thông
Một hệ thống xa lộ tiểu bang được xây dựng quanh các đảo chính. Chỉ có Oahu là có quốc lộ liên bang, và là khu vực duy nhất bên ngoài 48 tiểu bang liền kề nhau có ký hiệu của đường quốc lộ giữa các tiểu bang. Việc đi lại có thể chậm chạp vì các con đường thường quanh co và hẹp, còn đường ở các thành phố khá đông đúc. Mỗi đảo có một hệ thống xe bus công cộng riêng.Các chuyến bay thương mại phục vụ việc đi lại tới lục địa cũng như giữa các đảo với nhau. Hawaiian Airlines, Mokulele Airlines và go! Sử dụng các máy bay phản lực ở các sân bay lớn tại Honolulu, Lihue, Kahului, Kona và Hilo, trong khi Island Air và Pacific Wings dùng các máy bay nhỏ hơn. Các hãng hàng không này cũng cung cấp dịch vụ vận chuyển giữa các đảo.
Norwegian Cruise Lines cung cấp dịch vụ du lịch bằng thuyền giữa các đảo. Hawaii Superferry có kế hoạch kết nối giữa Oahu và các đảo khác.
Chú thích
- ^ http://libweb.hawaii.edu/digicoll/annexation/petition/pet820.html
- ^ Schamel, Wynell, và Charles E. Schamel, 1999
- ^ http://www.alohaquest.com/archive/treaty_annexation_1897.htm
- ^ http://www.archives.gov/education/lessons/hawaii-petition
- ^ “Resident Population Data - 2010 Census”. 2010.census.gov. Truy cập ngày 16 tháng 4 năm 2011.
- ^ Average life expectancy at birth by state
- ^ a ă â b American FactFinder, United States Census Bureau. "Hawaii – ACS Demographic and Housing Estimates: 2008"
- ^ [1]
- ^ a ă Language Map Data Center
- ^ State of Hawaii Data Book 2000, Section 1 Population, Table 1.47
- ^ Glenmary Research Center
- ^ Honolulu Advertiser
- ^ "Glenmary Research Center"
- ^ Hawaii sandalwood trade
- ^ Whaling in Hawaii
- ^ Honolulu Star-Bulletin Hawaii News
- ^ Area Unemployment Statistics
- ^ "Merrie Monarch Festival 2005 | The Honolulu Advertiser | Hawaii's Newspaper"
- ^ [2]
- ^ ""Hawaii Health Care Is Called a Model for U.S.""
Liên kết ngoài
Wikimedia Commons có thêm thể loại hình ảnh và phương tiện truyền tải về Hawaiʻi |
Wikisource có văn bản gốc Anh ngữ liên quan với bài: |
- Trang chủ của chính phủ tiểu bang (tiếng Anh)
- Phòng Du lịch và Hội chợ Hawaiʻi (tiếng Anh, Hoa, Nhật, Hàn, Tây Ban Nha, Đức)
|
|
http://www.youtube.com/user/hoangkimvietnam
Trở về trang chính
Hoàng Kim, hoangkim, hoangkimvietnam, Ngọc Phương Nam, Chào ngày mới Thung dung, Dạy và học, Cây Lương thực, Tin Nông nghiệp Việt Nam, Food Crops, Cassava in Vietnam, Khát khao xanh, Dayvahoc,Học mỗi ngày, Danh nhân Việt , Food Crops News, Điểm chính, CNM365, Kim LinkedIn, KimTwitter, KimFaceBook Đọc lại và suy ngẫm, Việt Nam tổ quốc tôi, Tình yêu cuộc sống, Thơ cho con
No comments:
Post a Comment