Monday, July 7, 2014

Chào ngày mới 6 tháng 7

Louis Pasteur.jpg
CNM365. Chào ngày mới 6 tháng 7. Wikipedia Ngày này năm xưa. Ngày Lập quốc tại Litva (1253). Năm 371 TCN – Trận Leuctra diễn ra giữa hai thành bang Hy Lạp cổ đại là Thebes và Sparta. Năm 1415 – Nhà cải cách tôn giáo người Séc Jan Hus bị thiêu sống vì tội dị giáo tại Konstanz nay thuộc Đức. Năm 1885Louis Pasteur (hình) thử nghiệm thành công vắc-xin phòng bệnh dại trên bệnh nhân là một cậu bé bị chó dại cắn. Năm 2006 – Ấn Độ và Trung Quốc mở lại hoạt động thông thương mậu dịch qua đèo Nathu La thuộc đoạn Tây Tạng-Sikkim sau 44 năm kể từ Chiến tranh Trung-Ấn.

Louis Pasteur

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Louis Pasteur
Nhà vi sinh họchóa học người Pháp
Sinh 27 tháng 12, 1822
Dole, Jura, Franche-Comté, Pháp
Mất 28 tháng 9, 1895 (72 tuổi)
Marnes-la-Coquette, Hauts-de-Seine, Pháp
Quốc tịch Pháp
Tôn giáo Thiên chúa giáo
Ngành Hóa học
Vi sinh học
Alma mater École Normale Supérieure
Sinh viên đáng chú ý Charles Friedel[1]
Chữ ký
Louis Pasteur (27 tháng 12, 1822 - 28 tháng 9, 1895), nhà khoa học nổi tiếng người Pháp, là người đi tiên phong trong lĩnh vực vi sinh vật học.
Ông sinh ra ở vùng Dole nhưng bắt đầu đi học tại Arbois. Là một học sinh đầy tài năng Louis Pasteur muốn vào học Trường Sư phạm Paris (École normale supérieure). Để thực hiện mong muốn này, vào tháng 10 năm 1838 ông chuyển đến Paris. Tuy nhiên vì thất vọng với cuộc sống mới ở đây, ông bỏ luôn ý định vào học Trường Sư phạm và rời Paris để đến học tại Trường Trung học Hoàng gia tại Besançon. Vào năm 1840 rồi năm 1842, ông thi lấy bằng Tú tài Văn chương và Tú tài Toán. Với những kết quả học tập đáng kích lệ này, một lần nữa Louis Pasteur lại chuyển đến Paris và cuối cùng vào năm 1843 ông được xếp hạng tư trong kỳ thi vào Trường Sư phạm Paris và được nhận vào học ở ngôi trường danh tiếng này. Tại đây Louis Pasteur theo học hóa họcvật lý và cả tinh thể học (cristallographie). Vào các buổi chiều chủ nhật, Louis Pasteur thường làm việc tại phòng thí nghiệm của nhà hóa học nổi tiếng Jean-Baptiste Dumas nhờ đó mà ông đã tích lũy được những kiến thức và kỹ năng quý báu cho công việc nghiên cứu độc lập trong tương lai.

Tinh thể học

Louis Pasteur bảo vệ hai luận án về hóa họcvật lý vào năm 1847. Trong ngành tinh thể học, ông đã có những phát minh đầu tiên liên quan đến sự phân cực của ánh sáng. Năm 1848, Pasteur trình bày trước Viện Hàn lâm Khoa học Pháp về những công trình nghiên cứu của ông trong lĩnh vực tinh thể học. Pasteur phát hiện rằng cấu trúc phân tử của tinh thể có ảnh hưởng đến sự khúc xạ ánh sáng khi nghiên cứu các dạng tinh thể của tartrateparatartrate. Sau đó Pasteur nhanh chóng đi đến kết luận rằng các sản phẩm của vật chất sống là không đối xứng và có hoạt tính trên ánh sáng phân cực. Pasteur phát biểu rằng "Sự sống là một hàm của tính mất đối xứng của vũ trụ".

Quá trình lên men

Sau khi đi dạy ở Dijon và rồi Strasbourg (tại đây năm 1849, ông đã cưới Marie Laurent, con gái của hiệu trưởng, và hai người có với nhau 5 người con), vào năm 1854 Louis Pasteur được phong giáo sư tại Khoa Khoa học của Lille và cũng là trưởng khoa của khoa này. Ông đã thiết lập mối quan hệ rất chặt chẽ giữa công việc nghiên cứu khoa học của mình với nền công nghiệp lúc bấy giờ và đã có nhưng phát hiện vô cùng quan trọng. Ông đã phát hiện rằng chính nấm men là tác nhân gây nên quá trình lên men.
Năm 1857 (có tài liệu cho là 1856), Louis Pasteur trở thành giám đốc nghiên cứu khoa học của Trường Sư phạm. Ông yêu cầu có được một nhà kho của trường để thành lập một phòng thí nghiệm của riêng mình. Tại đây ông tiếp tục công cuộc nghiên cứu về quá trình lên men trong ba năm nữa và viết một khảo luận khoa học về nguyên nhân của quá trình lên men rượu butyric. Nhưng cũng ngay từ năm 1858 ông đã là người chống đối thuyết tự sinh đặc biệt của Félix Archimède Pouchet. Pouchet đã báo cáo với Viện Hàn lâm Khoa học vào tháng 12 năm 1858 rằng các tiền sinh vật được sinh ra tự nhiên trong không khí. Ngay lúc đó Louis Pasteur đã cho rằng nhà khoa học này đã sai lầm. Trong sáu năm trời ròng rã, hai nhà khoa học liên tiếp cho ra những bài báo cũng như các bài báo cáo tại các hội nghị nhằm chứng minh đối phương là sai lầm. Đến ngày 7 tháng 4 năm 1864, Pasteur đã tổ chức một hội nghị tại Sorbonne. Tại đây các kết quả thí nghiệm của Pasteur đã chinh phục được cử tọa, hội đồng chuyên gia cũng như giới truyền thông. Pouchet phải chấp nhận rằng mình đã lầm và từ đó thuyết tự sinh cũng không còn tồn tại trong đời sống khoa học nữa.
Từ những quan sát dưới kính hiển vi, Pasteur phân chia thế giới vi sinh thành hai nhóm lớn: các vi sinh vật ái khí (không thể sống thiếu ôxy) và nhóm vi sinh vật kị khí (có thể sống trong môi trường không có ôxy).
Louis Pasteur trong phòng thí nghiệm của mình, tranh A. Edelfeldt năm 1885

Các công trình nghiên cứu về bia và rượu vang

Theo yêu cầu của Hoàng đế Napoléon III, Louis Pasteur tiến hành các nghiên cứu về sự biến đổi của rượu vang trong quá trình lên men nước ép của nho. Ông phát hiện rằng tất cả các biến đổi này đều do các sinh vật "kí sinh" vì chúng phát triển nhiều hơn các vi sinh cần thiết cho quá trình lên men rượu bình thường. Ông đã hướng dẫn những người làm rượu chỉ nên sử dụng nguồn vi sinh vật sạch, không lẫn các sinh vật ký sinh để tránh các trường hợp sản phẩm bị hư hỏng.
Trong khi cố gắng "tìm ra một phương thuốc hữu hiệu để điều trị chứng bệnh mà ông đã tìm ra nguyên nhân", Pasteur lại phát minh ra một kỹ thuật nhằm giảm thiểu sự tạp nhiễm môi trường nuôi cấy bằng cách đun nóng môi trường này lên đến khoảng 55-60 °C trong điều kiện không có không khí. Kỹ thuật này sau đó được đặt tên là phương pháp khử khuẩn Pasteur (pasteurisation), một phương pháp được sủ dụng rộng rãi trong công nghiệp chế tạo và bảo quản rượu vang.
Đối với công nghiệp sản xuất bia, ông khuyên nên tiệt khuẩn dung dịch nước ép ằng cách đun nóng với điều kiện không để bị tạp nhiễm và sau đó làm lạnh trước khi cho lên men bằng nguồn nấm men tinh khiết. Tính acid hợp lý của bia cũng có tác dụng hạn chế sự phát triển của các mầm ký sinh sau này cũng như giúp bảo quản tốt bia sau khi đã vào chai.

Bệnh ở nhộng tằm

Mặc dù đạt được thành công rực rỡ về mặt khoa học nhưng vai trò quản lý của ông tại Trường Sư phạm thì không như vậy. Tại đây do tính cách của mình, ông đã vấp phải rất nhiều sự chống đối đến độ cuối cùng ông mất chức. Nhờ đó ông có thời gian hơn để chuyên tâm vào công việc nghiên cứu khoa học. Từ tháng 6 năm 1865, Pasteur chuyển đến Alès và trải qua bốn năm ở đây nhằm nghiên cứu một loại bệnh ảnh hưởng nặng nề đến ngành chăn nuôi tằm. Tại đây ông đã cùng các học trò của mình miệt mài nghiên cứu. Do áp lực công việc và, quan trọng hơn cả, chuyện buồn gia đình (nhiều người trong gia đình chết do bệnh tật), Pasteur đã bị tai biến mạch máu não vào đêm 19 tháng 10 năm 1868. Nhiều người tưởng ông không thể qua khỏi, thế nhưng chỉ ba tháng sau ông đã trở lại với công việc nghiên cứu mặc dù cơ thể vẫn còn những di chứng nặng của bệnh. Nhờ sự quan sát tỉ mỉ của mình, ông đã nhận diện được các con tằm bị bệnh và tiêu diệt trứng của chúng trước khi bệnh lây lan cho các cá thể khác. Tại đây ông cũng lần đầu tiên nêu lên khái niệm "cơ địa" dễ mắc bệnh: các cá thể có "cơ địa" suy yếu thường là những cơ địa thuận lợi cho sự phát triển của vi sinh vật và như vậy có khuynh hướng dễ mắc bệnh hơn các cá thể khác.

Những nghiên cứu bệnh lý nhiễm trùng ở người và động vật

Louis Pasteur

Pasteur khẳng định rằng các bệnh truyền nhiễm ở người và động vật là do các vi sinh vật gây nên.
Từ năm 1878 đến 1880, ông đã khám phá ra ba chủng vi khuẩn: liên cầu khuẩn (streptococcus), tụ cầu khuẩn (staphylococcus) và phế cầu khuẩn (pneumococcus). Xuất phát từ quan niệm rằng một loại bệnh được gây nên do một loại vi sinh vật nhất định do nhiễm từ môi trường bên ngoài, Pasteur đã thiết lập nên những nguyên tắc quan trọng trong vô khuẩn. Tỉ lệ tử vong hậu phẫu cũng như hậu sản giảm xuống một cách ngoạn mục nhờ áp dụng những nguyên tắc này.
Pasteur cũng tìm hiểu liệu người và động vật có thể được miễn dịch chống lại các bệnh truyền nhiễm nặng thường gặp như Jenner đã từng thực hiện với bệnh đậu mùa hay không. Năm 1880, Pasteur thành công trong việc tạo miễn dịch cho chống lại bệnh tả bằng cách cho chúng tiếp xúc với môi trường nuôi cấy vi khuẩn tả "già" (vi khuẩn này giảm độc lực). Những con gà này sau đó có khả năng chống lại bệnh tả khi được tiêm vi khuẩn độc lực mạnh. Pasteur nhanh chóng áp dụng nguyên lý chủng ngừa này cho các bệnh truyền nhiễm khác như bệnh thanlợn.

Điều trị dự phòng bệnh dại

Các phác đồ chủng ngừa một số bệnh truyền nhiễm đến thời điểm đó đã được chuẩn hóa. Nguyên tắc chung thì luôn luôn giống nhau: đầu tiên phải phân lập cho được tác nhân gây bệnh, nuôi cấy chúng để làm giảm độc lực trước khi tiêm cho người.
Trong trường hợp bệnh dại, tác nhân gây bệnh là virus, những vi sinh vật này quá nhỏ nên không thể thấy được dưới kính hiển vi quang học thời bấy giờ. Pasteur đã dành năm năm, từ 1880 đến 1885, để nghiên cứu bệnh này. Xuất phát từ thực tế là bệnh dại tác động đến hệ thần kinh, Pasteur dự đoán rằng tác nhân gây bệnh phải nằm trong nãotủy sống của những người mắc bệnh. Khi lấy bệnh phẩm thần kinh của những động vật mắc bệnh dại (chó, thỏ...) tiêm vào những cá thể khỏe mạnh, ông đã gây được biểu hiện bệnh dại ở các động vật này. Pasteur dùng tủy sống của thỏ mắc bệnh dại để lấy virus dại và nuôi virus này qua nhiều thể hệ khác nhau. Virus thu được đã giảm độc lực rất nhiều so với chủng virus dại ban đầu. Virus này có thể không gây bệnh do đã giảm độc lực nhưng vẫn có thể còn giữ được tính kháng nguyên có thể kích thích hệ miễn dịch sản xuất kháng thể chống lại bệnh.
Vaccine ngừa bệnh dại đầu tiên trên cơ sở virus giảm độc lực này đã được Pasteur, sau nhiều đắn đo suy tính, sử dụng vào ngày 6 tháng 7 năm 1885 ở một bé trai tên là Joseph Meister, người bị chó dại cắn trước đó. Đây là một thành công vang dội của Pasteur cũng như của nền y khoa thế giới.
Kết quả công trình nghiên cứu về bệnh dại được Pasteur trình bày trước Viện Hàn lâm Khoa học Pháp vào ngày 1 tháng 3 năm 1886. Nhân dịp này ông cũng đề nghị thành lập một cơ sở nhằm sản xuất vaccine chống bệnh dại. Năm 1887 lời kêu gọi này được công bố rộng rãi và nhận được 2 triệu Franc Pháp quyên góp. Nhờ đó vào năm 1888, Tổng thống Sadi Carnot cho tiến hành xây dựng Viện Pasteur đầu tiên tại Pháp. Các Viện Pasteur khác sau đó cũng được thành lập ở những nới khác trên thế giới nhờ ảnh hưởng của các nhà vi sinh vật học như Albert CalmetteAlexandre Yersin. Tôn chỉ của Viện Pasteur từ đó đến nay không thay đổi: tiến hành các nghiên cứu chế tạo vaccine và các chiến dịch tiêm phòng chống lại các bệnh truyền nhiễm.

Vinh quang

Viện mang tên Pasteur tại Nha Trang
Pasteur được tôn vinh là "cha đẻ của ngành vi sinh vật học". Ông chưa bao giờ chính thức học y khoa nhưng vẫn được coi là một thầy thuốc vĩ đại và là Ân nhân của Nhân loại (Benefactor of Humanity).
Ông cũng là thành viên của rất nhiều Viện Hàn lâm tại Pháp cũng như ở nước ngoài. Nhiều ngôi làng và đường phố trên thế giới mang tên ông. Có thể nói tài năng và cống hiến của ông đã vượt qua biên giới địa lý và chính trị. Tại Việt Nam, những con đường mang tên ông từ thời kỳ thuộc địa đã không hề thay đổi cho đến hôm nay mặc dù các con đường khác mang tên danh nhân Việt Nam lại bị thay đổi qua nhiều biến thiên thời cuộc.[2]
Louis Pasteur mất ngày 28 tháng 9 năm 1895 tại Marnes la Coquette, Paris. Thi hài của ông được lưu giữ trong giáo đường trong lòng Viện Pasteur chứ không phải ở Điện Panthéon như dự định trước đó. Rất nhiều tượng đài được xây dựng để tưởng nhớ đến ông. Những vật dụng thường ngày cũng mang hình Pasteur (tem, giấy bạc...). Có thể nói Pasteur là một trong những nhà khoa học người Pháp nổi tiếng nhất trên thế giới.

Các giai thoại

Lần nọ, có một sinh viên đại học ở Paris ngồi cạnh một người đàn ông lớn tuổi trên một đoàn tàu. Khi thấy ông già đang lần chuỗi Kinh Mân Côi, cậu này nói: "Bây giờ mà cụ còn tin vào điều lỗi thời này sao?". Ông già đáp: "Vâng, thế còn cậu?". Anh sinh viên cười một cách tụ đắc mà nói: "Tôi không tin vào những điều ngớ ngẩn như vậy. Xin cụ nghe tôi, ném bỏ cái chuỗi hạt kia ra cửa sổ và tìm hiểu về khoa học đi thôi". Người đàn ông nói: "Khoa học không hiểu được thứ này. Cậu giải thích cho tôi đi". Chàng sinh viên hí hửng nói: "Xin cụ vui lòng cho tôi địa chỉ, tôi sẽ gửi cho cụ một số tài liệu khoa học để giải thích vấn đề này cho cụ". Người đàn ông mò mẫm bên trong túi áo khoác và lấy ra một danh thiếp. Vừa đọc tấm danh thiếp, cậu sinh cúi đầu xuống trong sự xấu hổ và không nói thêm được một lời. Tấm danh thiếp viết: "Louis Pasteur, Giám đốc Viện nghiên cứu khoa học Paris"[3].
Joseph Meister, bệnh nhân đầu tiên bị chó dại cắn được dự phòng khỏi bệnh nhờ vaccine phòng bệnh dại sau này trở thành người gác cổng của Viện Pasteur ở Paris. Năm 1940 khi Đức xâm chiếm thành phố này, quân đội Đức đã buộc Joseph Meister phải mở hầm mộ của Pasteur. Thay vì tuân lệnh, Joseph Meister đã tự vẫn để không bao giờ xúc phạm đến thi thể ân nhân cứu mạng của mình.[4]

Xem thêm

Tham khảo

Litva

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Cộng hoà Litva
Lietuvos Respublika (tiếng Litva)
Flag of Lithuania.svg Coat of arms of Lithuania.svg
Quốc kỳ Huy hiệu
Vị trí của Litva
Khẩu hiệu
Vienybė težydi
(Tiếng Litva: "Hãy để sự đoàn kết nở hoa")
Quốc ca
Tautiška giesmė
Trình đơn
0:00
Hành chính
Chính phủ Cộng hòa đại nghị
Ngôn ngữ chính thức Tiếng Litva
Thủ đô Vilnius
54°41′B, 25°19′T
Thành phố lớn nhất Vilnius
Địa lý
Diện tích 65.303 km² (hạng 122)
Diện tích nước 1,35 %
Múi giờ EET (UTC+2); mùa hè: EEST (UTC+3)
Lịch sử
Độc lập từ Nga / Đức (1918)
9/3/1009 Lần đầu được ghi nhận
2/2/1386 Liên minh với Ba Lan
1/7/1569 Liên bang Ba Lan - Litva thành lập
16/2/1918 Tuyên bố độc lập
15/6/1940 Liên Xô chiếm đóng lần 1
tháng 7/1944 Liên Xô chiếm đóng lần 2
11/3/1990 Độc lập trở lại
Dân cư
Dân số ước lượng (2013) 2.955.986 người (hạng 133)
Dân số (2011) 3.043.429 người
Mật độ 141,2 người/mi²
Kinh tế
GDP (PPP) (ước tính 2013) Tổng số: 67,432 tỷ USD
Bình quân đầu người: 22.566 USD
GDP (danh nghĩa) (ước tính 2013) Tổng số: 46,714 tỷ USD
Bình quân đầu người: 15.632 USD
HDI (2013) Green Arrow Up Darker.svg 0,818 rất cao (hạng 41)
Hệ số Gini (2012) Red Arrow Down.svg 32,0 (trung bình)
Đơn vị tiền tệ Litas (LTL)
Thông tin khác
Tên miền Internet .lt
Litva (phiên âm tiếng Việt: Lít-va; tiếng Litva: Lietuva), tên chính thức là Cộng hòa Litva (tiếng Litva: Lietuvos Respublika) là một quốc gia thuộc khu vực châu Âu theo thể chế cộng hòa. Theo sự phân chia của Liên Hiệp Quốc, Litva được xếp vào nhóm Bắc Âu.[1] Litva giáp với Latvia về phía bắc, giáp với Belarus về phía đông nam, giáp với Ba Lan và tỉnh Kaliningrad thuộc Liên bang Nga về phía tây nam và giáp với biển Baltic về phía tây. Địa hình của Litva khá bằng phẳng và thấp, không có điểm nào có độ cao vượt quá 300 m. Khí hậu của nước này tương đối ôn hòa. Đất nước Litva có rất nhiều rừng cây, sông suối và một nguồn tài nguyên đất đai màu mỡ. Theo số liệu vào tháng 7 năm 2007, dân số Litva là 3.575.439 người, mật độ dân số khoảng 55 người/km².[2]
Litva là một quốc gia có lịch sử lâu đời tại châu Âu. Quốc gia này chính thức xuất hiện trong lịch sử từ năm 1009 và sau đó đã phát triển thành Đại Lãnh địa Litva hùng mạnh. Trong khoảng thời gian 1569–1795, Litva cùng với Ba Lan thành lập một quốc gia với tên gọi Liên bang Ba Lan – Litva. Khi liên bang tan rã, Litva trở thành một phần của Đế chế Nga cho đến năm 1918, khi nước này tuyên bố thành lập nền cộng hòa. Trong Thế chiến thứ hai, đất nước này đã bị phát xít Đức xâm chiếm rồi sau đó trở thành một phần của Liên Xô. Sau khi Liên Xô sụp đổ vào năm 1991, Litva lại trở thành một quốc gia độc lập.
Ngày nay Litva là một nước cộng hòa theo thể chế dân chủ nghị viện, đứng đầu là tổng thống. Nước này là thành viên của nhiều tổ chức quốc tế như Liên Hiệp Quốc, NATO, Tổ chức Thương mại Thế giới. Vào ngày 1 tháng 5 năm 2004, Litva đã chính thức trở thành một thành viên của Liên minh Châu Âu. Kinh tế Litva đang phát triển rất nhanh với tốc độ tăng trưởng 7,5% vào năm 2006. Thủ đô và cũng là thành phố lớn nhất ở Litva là Vilnius.

Lịch sử

Thời kỳ tiền sử

Bản đồ các bộ lạc Baltic vào năm 1200
Sau khi băng tan, con người đã xuất hiện tại vùng đất mà ngày nay là Litva vào khoảng thiên niên kỷ thứ 10 trước Công nguyên. Họ đến từ hai hướng khác nhau, một từ bán đảo Jutland và một từ đất nước Ba Lan ngày nay, mang theo hai nền văn hóa khác nhau thể hiện trên những công cụ mà họ sử dụng. Những người này chủ yếu sống bằng nghề săn bắn và không thành lập những khu dân cư cố định. Sang thiên niên kỷ thứ 8 trước Công nguyên, khí hậu trở nên ấm áp hơn khiến rừng cây phát triển, các nguồn thức ăn ngày càng trở nên dồi dào. Vào thiên niên kỉ thứ 6 và thứ 5 trước công nguyên, con người tại đây bắt đầu thuần hóa các loài vật nuôi. Nền nông nghiệp xuất hiện tương đối muộn tại Litva, vào khoảng thiên niên kỉ thứ 3 trước công nguyên do thiếu các công cụ canh tác hiệu quả. Các nghề thủ công và thương mại bắt đầu xuất hiện. Các dân tộc thuộc nhóm Ấn – Âu đã đến đây vào khoảng năm 2500 trước Công nguyên và đồng nhất thành các dân tộc Baltic khoảng 500 năm sau đó.
Người Litva là một nhánh của các dân tộc Baltic, bao gồm cả người Phổ, người Latvia và nhiều dân tộc khác nữa. Theo cuốn biên niên sử của tu viện thành phố Quedlinburg, đất nước Litva đã chính thức xuất hiện trong lịch sử vào ngày 14 tháng 2 năm 1009. Trong thế kỉ 11, Litva gồm nhiều vùng đất nhỏ phải triều cống cho Kievan Rus. Nhưng sang thế kỉ 12, người Litva đã gây ra nhiều cuộc chiến tranh chinh phục và cướp bóc sang những vùng đất xung quanh, tiền đề để hình thành Đại Lãnh địa Litva sau này.

Đại Lãnh địa Litva

Nhà thờ Mikalojus, nhà thờ cổ nhất Litva được xây dựng khoảng trước năm 1387
Trước sự đe dọa của ngoại bang, Mindaugas đã thống nhất các dân tộc Baltic lại và đánh thắng người Livonia trong trận Saule vào năm 1236. Ngày 6 tháng 6 năm 1253, ông đã lên ngôi vua của Litva và đất nước được tuyên bố với tên gọi Vương quốc Litva.[3] Tuy nhiên, Mindaugas đã bị người cháu trai của ông là Treniota sát hại. Vương quốc Litva rơi vào khủng hoảng và đất nước này đã bị tàn phá nặng nề trong các cuộc xâm lăng của người Mông Cổ vào các năm 1241, 1259 và 1275.
Năm 1316, Gediminas đã tiến hành khai phá và xây dựng lại đất nước Litva. Dưới sự trị vì của Gediminas, đất nước Litva đã trở nên hùng mạnh và dám thách thức với cả người Mông Cổ, lúc đó đang kiểm soát nước Nga. Bằng những cuộc chiến tranh chinh phục, lãnh thổ Litva đã mở rộng hơn bao giờ hết, trải dài từ biển Baltic đến biển Đen và bao gồm nhiều phần của nước BelarusUkraina ngày nay. Vào cuối thế kỉ 14, Litva trở thành quốc gia rộng lớn nhất châu Âu.[4]
Cuộc hôn nhân giữa nữ hoàng Jadwiga của Ba Lan và đại công tước Jogaila của Litva vào năm 1377 đã thành lập một liên minh quyền lực giữa Ba Lan và Litva nhằm chống lại mối đe dọa đến từ nước PhổĐại Lãnh địa Moskva. Trước đó, đại công tước Jogaila đã cải đạo và biến Litva trở thành một quốc gia theo Cơ đốc giáo. Ngày 2 tháng 2 năm 1386, Jogaila chính thức trở thành vua của Ba Lan. Điều đó có nghĩa là Ba Lan và Litva đã trở thành một quốc gia duy nhất, thế nhưng Đại Lãnh địa Litva vẫn giữ nguyên vị thế riêng của mình. Thời kỳ này, nhiều thành phố của Litva chịu ảnh hưởng của hệ thống luật pháp của người Đức, trong đó có Vilnius, thủ đô của Đại Lãnh địa Litva.
Vào thế kỉ 16, những du học sinh Litva khi trở về đất nước đã mang theo một cuộc cách mạng văn hóa, được biết đến như Thời kỳ Phục hưng của Litva. Kiến trúc Ý được giới thiệu tại nhiều thành phố của nước này, đồng thời với việc nền văn học Litva viết bằng tiếng Latin nở rộ. Ngôn ngữ viết của tiếng Litva cũng được sáng tạo trong thời gian đó.

Liên bang Ba Lan – Litva (1569–1795)

Bản đồ Liên bang Ba Lan – Litva thời kỳ mở rộng nhất năm 1630
Với sự đồng thuận của Hiệp ước Lublin năm 1569, một quốc gia thống nhất giữa Ba Lan và Litva được thành lập với tên gọi Liên bang Ba Lan – Litva, hay còn được biết đến như nền Cộng hòa thứ nhất của Ba Lan hoặc Cộng hòa Liên bang của Hai Quốc gia. Sự hợp nhất giữa Vương quốc Ba Lan với Đại Lãnh địa Litva đã hình thành nên một quốc gia có diện tích rộng lớn ở châu Âu và có vị thế chính trị đặc biệt quan trọng. Ngôn ngữ chính thức thời kỳ này là tiếng Ba Lantiếng Latin ở Vương quốc Ba Lan cùng với tiếng Rutheniatiếng Litva ở Đại Lãnh địa Litva. Tuy nhiên, Litva đã phải trải qua một quá trình Ba Lan hóa trên mọi mặt đời sống. Tầng lớp quý tộc và thượng lưu ở những thành phố lớn như VilniusGrodna lại thường hay sử dụng tiếng Ba Lan. Và đến năm 1696, tiếng Ba Lan đã trở thành ngôn ngữ chính thức tại Litva.
Sang thế kỉ 18, liên bang bắt đầu suy sụp bởi những cuộc khủng hoảng chính trị và xung đột. Bản Hiến pháp Ngày 3 tháng 5 năm 1791 đã đặt dấu chấm hết cho sự tồn tại của Liên bang Ba Lan – Litva. Những sự phân chia Ba Lan vào các năm 1772, 1793 và 1795 đã chứng kiến việc Litva bị xâu xé giữa NgaPhổ.

Thời kỳ thuộc Đế quốc Nga (1795–1914)

Sau sự phân chia lần thứ ba Ba Lan năm 1795, Đế quốc Nga đã kiểm soát phần lớn lãnh thổ của Litva, trong đó có thành phố Vilnius. Khoảng đầu thế kỉ 19, nước Nga đã tỏ ra có thể chấp nhận sự tự trị của Litva nhưng điều này đã không thành hiện thực. Vào năm 1812, khi quân đội Pháp của Napoléon I tiến vào Litva, người Litva đã coi đó như những người mang hy vọng độc lập về cho Litva. Thế nhưng khi quân Pháp bị đánh bại bởi Nga, Sa hoàng Nikolai I đã ban hành hàng loạt đạo luật đồng hóa đối với Litva. Năm 1864, theo lệnh của Sa hoàng Aleksandr II, tiếng Litva và bảng chữ cái La Tinh chính thức bị cấm tại tất cả mọi trường học.
Tuy nhiên đến cuối thời kỳ này, tiếng Litva đã dần dần khôi phục sau một thời gian dài bị lãng quên. Thời điểm đó, tiếng Ba Lantiếng Nga là ngôn ngữ được sử dụng phổ biến trong tầng lớp thượng lưu. Phong trào phục hưng ngôn ngữ dân tộc xuất hiện trước trong tầng lớp nghèo khổ, rồi sau đó là những người giàu có. Những tờ báo bằng tiếng Litva đã ra đời tại AušraVarpas. Tiếng Litva được khôi phục và phát triển là một điều kiện để dẫn tới phong trào độc lập dân tộc sau này.

Thế chiến thứ nhất

Phong trào vận động dân tộc của Litva ngày càng phát triển mạnh mẽ trong Đế chế Nga đang suy tàn. Năm 1914, Thế chiến thứ nhất bùng nổ. Vào năm 1915, Litva bị quân đội Đức chiếm đóng. Sự sụp đổ của Đế chế Nga trong cuộc Cách mạng tháng Mười Nga đã dẫn tới việc Litva tuyên bố thành lập một nền cộng hòa độc lập ngày 16 tháng 2 năm 1918 khi vẫn còn bị Đức chiếm đóng. Tháng 11 năm 1918, quân Đức thất bại và Litva trở thành một quốc gia độc lập. Ban đầu, vua Mindaugas II được tuyên bố là vua của Vương quốc Litva nhưng sau đó chính quyền Litva đã tuyên bố thành lập một nước cộng hòa.

Litva giữa hai cuộc thế chiến (1918–1939)

Sau khi trở thành một nước cộng hòa độc lập vào năm 1918, nhân dân Litva đã phải chiến đấu chống lại nhiều thế lực lớn để bảo vệ cho nền độc lập của dân tộc. Những người Bolshevik đã tấn công Litva từ phía đông tuy nhiên ngay sau đó chính phủ Litva ở thủ đô lâm thời Kaunas đã đẩy lùi quân đội Xô viết ra khỏi lãnh thổ. Tiếp đó, Litva lại có những xung đột về lãnh thổ với Ba Lan và Đức. Theo hiến pháp Litva, thành phố Vilniusthủ đô của nước này mặc dù nó nằm trong lãnh thổ Ba Lan và cộng đồng người Litva tại thành phố này quá nhỏ bé, chỉ chiếm khoảng 3% dân số so với cộng đồng người Ba Lan và Do Thái đông đảo tại đây. Những xung đột về lãnh thổ giữa Litva với Ba Lan và Đức khiến tình hình nước này luôn bất ổn.

Thế chiến thứ hai

Theo Hiệp ước Xô-Đức được ký kết tháng 8 năm 1939, Litva nằm trong khu vực ảnh hưởng của Liên Xô. Năm 1940, Liên Xô gửi tối hậu thư cho Litva yêu cầu trục xuất và bắt giam các chính trị gia quan trọng của Litva đồng thời đòi triển khai các đơn vị quân đội Xô viết ngay trên lãnh thổ nước này. Chính quyền Litva đã quyết định chấp nhận tối hậu thư, mặc dù tổng thống Antanas Smetona phản đối và rời khỏi Litva sau đó. Ngày 15 tháng 6 năm 1940, 150.000 Hồng quân Liên Xô đã tràn vào lãnh thổ Litva khi quân đội Litva được yêu cầu không phản ứng lại. Ngay sau đó, một cuộc bầu cử giả mạo đã diễn ra để thành lập chính quyền dân chủ nhân dân ở Litva và kết nạp nước này vào Liên bang Xô viết. Tiêp đó, khoảng 35.000 người Litva đã bị đi đày tới Siberia và các vùng khác của nước Nga, hàng ngàn người bị giết trong khoảng 40 vụ thảm sát đẫm máu tại nước này.
Ngày 22 tháng 6 năm 1941, phát xít Đức xâm lược Liên Xô, tạo cơ hội cho Litva có một thời gian độc lập ngắn ngủi. Mặt trận Chính trị Litva (Lietuvos aktyvistų frontas) đã cố gắng thương lượng với phát xít Đức cho phép Litva được độc lập nhưng yêu cầu đó không được chấp nhận. Khi Đức tấn công Litva, chính phủ nước này đã nhanh chóng bị hạ bệ. Đến thời điểm ấy, người Litva mới nhận ra rằng, người Đức không hề muốn Litva được độc lập. Những khu trại tập trung để tàn sát người Do Thái được dựng lên ở rất nhiều nơi, lại có thêm sự tiếp tay của một số người Litva. Trước đó, Litva là một trong những cộng đồng người Do Thái hưng thịnh nhất tại châu Âu. Sau khi chiến tranh kết thúc, chỉ 10% người Do Thái tại Litva còn sống sót.
Năm 1945, Hồng quân Liên Xô giải phóng Litva thoát khỏi ách cai trị của phát xít Đức. Litva lại trở thành một nước cộng hòa xô viết với sự đồng thuận của MỹAnh.

Thời kỳ thuộc Liên bang Xô viết (1945–1990)

Lá cờ của Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Xô viết Litva
Trong thời kỳ này, lại có thêm rất nhiều người Litva bị đi đầy sang Siberia và các vùng hẻo lánh khác của Liên Xô. Để đáp lại, hàng chục nghìn người Litva đã tham gia một tổ chức vũ trang du kích với tên gọi miško broliai để chống lại. Nhưng cuối cùng họ đã thất bại vào năm 1965.
Cho đến giữa năm 1988, mọi mặt chính trị, kinh tế và văn hóa của Litva đều nằm trong sự kiểm soát của Đảng Cộng sản Litva. Dưới sự lãnh đạo của những người trí thức, Phong trào Vận động Cải cách đã thành lập nhằm đòi các quyền tự do dân chủ cho Litva, tiến hành hợp pháp hóa chế độ đa đảng và tái sử dụng quốc kỳquốc ca riêng của dân tộc. Một bộ phận lớn thành viên của Đảng Cộng sản Litva cùng đồng tình với những cải cách này. Ngày 23 tháng 8 năm 1989, nhân kỉ niệm 50 năm Hiệp ước Xô-Đức, hai triệu người Estonia, Latvia và Litva đã tay trong tay nối thành một dải người từ Tallinn đến Vilnius, thể hiện tình đoàn kết của ba nước Baltic cùng chung nguyện vọng tách khỏi Liên Xô.

Litva độc lập (từ năm 1991 đến nay)

Tháp truyền hình Vilnius, nơi diễn ra cuộc tấn công của Liên Xô
Ngày 11 tháng 3 năm 1990, nước Cộng hòa Litva tuyên bố độc lập, tách khỏi Liên bang Xô viết. Ngày 15 tháng 3 năm 1990, Liên Xô bắt đầu ban hành cấm vận và tiến hành những hoạt động quân sự chống lại Litva. Quân đội Xô viết đánh chiếm các tòa nhà công cộng và đưa xe tăng vào thủ đô Vilnius, sau đó lập nên Ủy ban Bảo vệ Quốc gia nhằm đàn áp chính phủ dân chủ của nước này. Vào ngày 13 tháng 1 năm 1991, quân đội Xô viết tấn công tháp truyền hình Vilnius, giết chết 14 dân thường và làm bị thương 700 người.[5] Những hoạt động quân sự của Liên Xô đã bị dư luận quốc tế chỉ trích mạnh mẽ. Trong khi đó, chính phủ dân chủ của Litva vẫn hoạt động. Trong cuộc trưng cầu dân ý ngày 9 tháng 2 năm 1991, đại đa số người dân Litva đã bỏ phiếu tách khỏi Liên Xô, thành lập một nước Litva độc lập và dân chủ. Litva đã nhanh chóng được các nước phương Tây công nhận và thiết lập quan hệ ngoại giao, đầu tiên là Iceland. Cuối cùng, Litva chính thức được công nhận là một quốc gia độc lập vào ngày 6 tháng 9 năm 1991. Ngày này trở thành ngày quốc khánh của Litva. Đến năm 1993, quân đội Nga đã chính thức rút hết khỏi Litva.
Ngày 17 tháng 9 năm 1991, Litva trở thành một thành viên của Liên Hiệp Quốc. Tiếp đến ngày 31 tháng 5 năm 2001, Litva chính thức trở thành thành viên thứ 151 của Tổ chức Thương mại Thế giới – WTO. Và đến ngày 1 tháng 5 năm 2004, cùng với 9 quốc gia Đông và Nam Âu khác, Litva trở thành một thành viên của Liên minh Châu Âu (EU). Litva còn là một thành viên của NATO và có quan hệ chính trị gần gũi với các nước phương Tây.

Chính trị

Thể chế chính trị

Dân chủ nghị viện. Tổng thống do dân bầu trực tiếp, nhiệm kỳ 5 năm. Quốc hội có 141 ghế, nhiệm kỳ 4 năm. Thủ tướng do Tổng thống đề cử, Quốc hội thông qua.

Tổng thống

Được bầu theo phổ thông đầu phiếu nhiệm kỳ 5 năm (không tại chức quá hai nhiệm kỳ liên tục). Tổng thống quyết định những vấn đề cơ bản của chính sách đối ngoại và cùng với Chính phủ, thực hiện chính sách đối ngoại. Về đối nội, Tổng thống thực hiện chức năng Tổng tư lệnh trưởng lực lượng vũ trang, đứng đầu Hội đồng Quốc phòng Nhà nước; có quyền đưa ra sáng kiến lập pháp tại Quốc hội và cũng có quyền phủ quyết các luật được thông qua bởi Quốc hội. Tổng thống đề cử Thủ tướng thành lập Chính phủ với sự đồng ý của Quốc hội và phê chuẩn thành phần Chính phủ. Tổng thống có thể giải tán Quốc hội quy định của Hiến pháp.

Quốc hội (Seimas)

Cơ quan lập pháp của Litva là Quốc hội đơn viện với 141 đại biểu, trong đó trong đó 70 đại biểu được bầu theo danh sách tranh cử của các đảng, 71 đại biểu được bầu theo cơ chế mỗi khu vực bầu một đại biểu với nhiệm kỳ bốn năm. Quốc hội nhiệm kỳ 2008-2012 được bầu ngày 12 tháng 10 năm 2008. Kết quả bầu cử: có 7 đảng và Liên minh vượt qua được ngưỡng 5% để có ghế trong Quốc Hội và không đảng nào giành được số ghế đa số tuyệt đối.
Chủ tịch Quốc hội do Quốc hội bầu với nhiệm kỳ 4 năm.

Chính phủ

Là cơ quan quyền lực hành pháp cao nhất. Chính phủ bao gồm Thủ tướng Chính phủ và các Bộ trưởng và do Tổng thống đề cử, bổ nhiệm, miễn nhiệm với sự chấp thuận của Quốc hội. Chính phủ điều hành các công việc của đất nước, bảo vệ sự bất khả xâm phạm lãnh thổ và đảm bảo an ninh quốc gia và trật tự công cộng; thực hiện luật, nghị quyết của Quốc hội, cũng như các nghị định của Tổng thống; điều hành hoạt động của các Bộ, cơ quan chính phủ khác; chuẩn bị dự thảo ngân sách của Nhà nước và trình Quốc hội; thực hiện ngân sách nhà nước và báo cáo về việc thực hiện ngân sách cho Quốc hội; dự thảo dự án luật và trình Quốc hội xem xét; thiết lập ngoại giao quan hệ và duy trì quan hệ với nước ngoài và các tổ chức quốc tế; và thực hiện các nhiệm vụ khác theo quy định của Hiến pháp và pháp luật. Chính phủ bao gồm 13 Bộ do Thủ tướng đứng đầu.

Thủ tướng

Do Tổng thống đề cử, thành lập Chính phủ (với sự đồng ý của Quốc hội) và phê chuẩn thành phần Chính phủ. Do không đảng nào đạt được đa số phiếu tuyệt đối trong bầu cử Quốc hội nhiệm kỳ 2008-2012, ông Andrius Kubilius, Chủ tịch đảng Bảo thủ được cử làm Thủ tướng (ngày 27 tháng 11 năm 2008) và thành lập Chính phủ liên minh.

Địa lý

Lãnh thổ

Bản đồ địa hình Litva
Litva được xếp vào nhóm Bắc Âu theo sự phân chia của Liên Hiệp Quốc. Tuy nhiên đôi khi Litva cũng được coi là một quốc gia ở Đông Âu. Litva là một quốc gia có diện tích tương đối nhỏ, khoảng 65.200 km². Litva chia sẻ chung đường biên giới các quốc gia là Belarus (502 km), Latvia (453 km), Ba Lan (91 km), tỉnh Kaliningrad thuộc Nga (227 km). Đường bờ biển giáp với biển Baltic của Litva dài 99 km. Điểm thấp nhất ở Litva là mép nước tiếp giáp với biển Baltic (0 m), còn điểm cao nhất là đồi Aukštojas, cao 294 m.
Phân chia sử dụng đất ở Litva như sau:
  • Đất trồng trọt: 35%
  • Đồng ruộng: 12%
  • Đồng cỏ: 9%
  • Rừng: 31%
  • Khác: 15 %[6]

Địa hình

Litva nằm trong khu vực đồng bằng Đông Âu rộng lớn. Địa hình của nước này được hình thành khi kỉ Băng Hà kết thúc vào khoảng 22.000 đến 25.000 năm trước. Đất nước này có dạng địa hình hỗn hợp giữa những vùng đất thấp và cao nguyên. Phía tây nước này là khu vực cao nguyên Samogitia còn phía đông nam là cao nguyên Baltic. Giữa hai vùng cao nguyên này lại có một vùng đất thấp nằm ở trung tâm đất nước. Litva có một mạng lưới sông hồ rất dày đặc với 2883 hồ rộng trên 10.000 m² và 758 con sông dài trên 10 km. Những con sông dài nhất ở Litva là sông Nemunas bắt nguồn từ Belarus (dài 917 km), sông Neris (510 km), sông Venta (346 km), sông Šešupė (298 km). Tuy nhiên chỉ có khoảng 600 km đường sông phù hợp cho thuyền bè đi lại.
Mũi đất Kursh được hình thành ngoài khơi biển Baltic là một dải cát dài nối giữa Litva với tỉnh Kalinigrad thuộc Nga, chia cắt phá Kursh ra khỏi biển Baltic. Đây là nơi có thiên nhiên vô cùng đặc sắc và có nhiều cảnh quan hấp dẫn, thuộc về đồng thời cả hai nước Litva và Nga.

Khí hậu

Sông Neman ở Litva
Khí hậu của Litva là sự trung gian chuyển tiếp giữa khí hậu ôn đới hải dương và ôn đới lục địa. Thời tiết ở Litva tương đối dễ chịu và ôn hòa. Nhiệt độ trung bình tại bờ biển của Litva là khoảng 1,6 °C vào tháng 1 và 17,8 °C vào tháng 7. Còn tại thủ đô Vilnius tại phía đông Litva, nhiệt độ tháng 1 là 2,1 °C và tháng 7 là 18,1 °C. Lượng mưa trung bình hàng năm là 717 mm tại bờ biển và 490 mm tại vùng phía đông trong nội địa. Đất đai của Litva rất màu mỡ. Rừng cây chiếm khoảng 1/3 diện tích tại Litva với các loại cây chủ yếu là thông, vân sam, bu lô. Tuy nhiên cây sồi và tần bì thì ít gặp hơn. Rừng của Litva rất giàu nấm và các loại cây trái.

Kinh tế

Trong Liên bang Xô Viết trước đây Litva có trình độ phát triển khá cao về nông nghiệp, công nghiệp nhẹ, hàng tiêu dùng và điện tử. Năm 1991, Litva đứng hàng thứ tư trong Liên Xô cũ về sản xuất máy công cụ (sau Nga, Ukraina, Belarus).
Sau khi tách ra khỏi Liên bang Xô Viết, kinh tế Litva lâm vào khủng hoảng trầm trọng. Chính phủ của Đảng Dân chủ Lao động lên cầm quyền (tháng 11 năm 1992), thực hiện một loạt biện pháp kinh tế tài chính cứng rắn nên đã từng bước đi vào ổn định. Từ 1998 do bất đồng giữa Thủ tướngTổng thống về đường lối phát triển kinh tế nên kinh tế tiếp tục suy thoái, nhiều vấn đề như nghèo khổ, thất nghiệp gia tăng; tình hình xã hội ngày càng gay gắt. Năm 2000, Chính phủ đưa ra chương trình kinh tế khắc khổ theo đó giảm 5-10% quỹ lương của cơ quan ăn lương ngân sách, tăng 10-18% giá dịch vụ công cộng; giảm 40% ngân sách trợ cấp cho những người có thu nhập thấp; cắt giảm các chương trình phúc lợi - xã hội, nhờ đó nền kinh tế dần được phục hồi. Từ 2003 nền kinh tế tăng trưởng trên 8% mỗi năm. Năm 2008: GDP tăng 5,1% đạt 48,75 tỷ USD, lạm phát - 11%, tỷ lệ thất nghiệp - 4,8%, đầu tư chiếm 27,8% GDP.
Từ 2009, kinh tế lâm vào khủng hoảng trầm trọng, GDP sụt giảm 15%. Năm 2010: GDP đạt 35.73 tỷ USD, trong đó: nông nghiệp: 4,3%, công nghiệp: 27,6%, dịch vụ: 68,2%. Thất nghiệp tăng 17,9%. Tỷ lệ lạm phát 0,9%. Nợ công - 36,7%.
Litva bắt đầu quá trình tư nhân hoá sớm hơn các nước Baltic khác và đã hoàn thành việc tư nhân hoá nông nghiệp, xí nghiệp nhỏ, ngân hàng và hiện đang ở giai đoạn cuối của quá trình tư nhân hoá với việc tư hữu hoá các tổ hợp quốc doanh lớn trong lĩnh vực giao thông vận tải và năng lượng.

Thương mại

Năm 2009, nhằm khắc phục khủng hoảng, Chính phủ của Thủ tướng Andrius Kubilius đã phát động một chiến dịch nhằm thu hút đầu tư nước ngoài và phát triển thị trường xuất khẩu.
Năm 2010: Xuất khẩu đạt 19,29 tỷ USD (16,48 - 2009). Mặt hàng chính: các sản phẩm khoáng sản - 22%, máy móc, thiết bị - 10%, hoá chất - 9%, hàng dệt may - 7%, thực phẩm - 7%, chất dẻo - 7% Đối tác: Nga - 13,2%, Latvia - 10%, Đức - 9,6%, Ba Lan - 7,1%, Estonia - 7,1%, Belarus - 4,7%, Anh - 4,3%. Nhập khẩu đạt 20,34 tỷ USD (17,56 tỷ - 2009). Mặt hàng chính: các sản phẩm khoáng sản, máy móc thiết bị và thiết bị vận tải, hóa chất, dệt may và quần áo, kim loại. Đối tác: Nga - 30,1%, Đức - 11,1%, Ba Lan - 9,9%, Latvia - 6,3%.

Đầu tư

Đầu tư năm 2010 đạt 15,2% GDP. Đầu tư trực tiếp nước ngoài: 14,11 tỷ USD. Đầu tư gián tiếp ra nước ngoài: 2,507 tỷ USD.

Các công ty lớn

  • Công ty Cổ phần đóng tàu Klaipėda "Baltija": Được Bộ Công nghiệp tàu thủy của Liên Xô thành lập vào năm 1952, để xây dựng các tàu thuyền đánh cá. Từ 1992 được cổ phần hóa 96%. "Baltija" đóng tàu không chỉ cho các nước vùng Baltíc (Latvia, mà còn là nguồn cung cấp đội tàu và các công ty hàng hải trên toàn thế giới. "Baltija" xây dựng phao, sà lan, tàu thuyền đánh cá, bến tàu nổi, bến phà sông, tàu hàng khô và vận chuyển container. "Baltija" cũng cung cấp dịch vụ sửa chữa tàu.
  • Công ty Đường sắt quốc gia. Là công ty nhà nước được thành lập năm từ 1860. Litva có mạng lưới đường sắt chính Litva bao gồm 1.749 km khổ rộng 1.520 mm, trong đó có 122 km được điện khí; 68 km khổ hẹp. Trong năm 2006, đường sắt Litva vận chuyển 6.200.000 hành khách và 50 triệu tấn hàng hóa. Dầu mỏ là mặt hàng vận chuyển hàng hóa chính.

Tôn giáo

Nhà thờ Saint Ann và Tu viện Bernardine ở Vilnius
Theo điều tra dân số năm 2001, 79% dân số nước này thuộc về Giáo hội Công giáo La Mã.[7] Trong nửa đầu của thế kỷ 20, Giáo hội Luther có khoảng 200.000 thành viên chiếm 9% tổng dân số, nhưng nó đã giảm kể từ năm 1945. Cộng đồng Tin Lành nhỏ được phân tán khắp vùng phía bắc và phía tây của đất nước. Tín hữu và giáo sĩ bị giết, hoặc bị tra tấn hoặc bị trục xuất tới Siberia dười thời Liên Xô. Có 4,9% dân số là Chính Thống giáo (chủ yếu là sắc tộc thiểu số Nga), 1,9% là Tin Lành và 9,5% dân số không theo bất kỳ tôn giáo nào.
Trong lịch sử Litva còn là quê hương của một cộng đồng Do Thái giáo có từ thế kỷ 18, với số lượng khoảng 160.000 người trước chiến tranh thế giới hai, hầu như hoàn toàn bị tiêu diệt trong vụ thảm sát Holocaust. Giờ cộng đồng Do Thái giáo chỉ còn khoảng 3.400 vào cuối năm 2010.[8]

Tham khảo

  1. ^ Phân chia các khu vực địa lý của Liên Hiệp Quốc
  2. ^ CIA - The World Factbook - Nhân khẩu Litva
  3. ^ Voruta: Lietuvos karalystei – 750
  4. ^ Robert Bideleux. A History of Eastern Europe: Crisis and Change. Routledge, 1998. p. 122
  5. ^ BBC ON THIS DAY | 13 | 1991: Bloodshed at Lithuanian TV station
  6. ^ en:Geography of Lithuania
  7. ^ ^ Department of Statistics to the Government of the Republic of Lithuania. "Population by Religious Confession, census". Archived from the original on 1 October 2006.. Updated in 2005.
  8. ^ http://www.stat.gov.lt/en/pages/view/?id=1731&PHPSESSID=311ec85274c89154e6f4befbc159a0e8

Liên kết ngoài


Chiến tranh Trung-Ấn

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Chiến tranh Trung-Ấn
India China Locator.png
Chiến tranh Trung-Ấn xảy ra giữa hai cường quốc Châu Á, Trung QuốcẤn Độ.
.
Thời gian 10 tháng 1021 tháng 11, 1962[1]
Địa điểm vùng biên giới Đông BắcAksai Chin
Nguyên nhân bùng nổ Trung Quốc: Quân Ấn Đội xâm nhập vào phía bắc của tuyến McMahon[2]
Ấn Độ: Quân giải phóng Nhân dân xâm phạm lãnh thổ Ấn Độ ở vùng biên giới Đông Bắc[3], do Trung Quốc muốn trả đũa Ấn Độ hỗ trợ cho Tây Tạng, đặc biệt là cấp qui chế tị nạn chính trị cho Đạt Lai Lạt Ma
Kết quả Trung Quốc chiến thắng, sau đó rút lui trở lại một phần.
Thay đổi lãnh thổ Aksai Chin đi thuộc quyền kiểm soát của Trung Quốc
Tham chiến
Cờ của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa
Trung Quốc
Cờ của Ấn Độ
Ấn Độ
Chỉ huy
Cờ của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa Trương Quốc Hoa Cờ của Ấn Độ Brij Mohan Kaul


Lực lượng
80.000 quân[4][5] 10-12.000 quân
Tổn thất
1.460 chết (nguồn của Trung Quốc)[6][7]
Bị thương 569[6]
3.128 chết (nguồn của Ấn Độ)[8]
3.123 bị bắt[3]
1,047[9]-1.697[10] bị thương
1.696 mất tích[9]
.
Chiến tranh Trung-Ấn (giản thể: , phồn thể: ; bính âm: Zhōng-Yìn Biānjìng Zhànzhēng; Hindi: भारत-चीन युद्ध      Bhārat-Chīn Yuddh), cũng gọi là Xung đột biên giới Trung-Ấn, là một cuộc chiến tranh giữa Cộng hòa Nhân dân Trung HoaẤn Độ. Nguyên nhân chính của cuộc chiến là việc tranh chấp khu vực biên giới Aksai Chin và bang Arunachal Pradesh, mà Trung Quốc gọi là Nam Tây Tạng. Ngoài ra, còn những nguyên nhân khác như hàng loạt các cuộc xung đột biên giới diễn ra sau cuộc nổi dậy Tây Tạng năm 1959, và Ấn Độ trao qui chế tị nạn chính trị cho Đạt Lai Lạt Ma. Ấn Độ cũng thực hiện chính sách thiết lập một số tiền đồn dọc biên giới, gồm cả một số vị trí nằm ở phía bắc tuyến McMahon, là phần phía đông của đường kiểm soát trên thực tế do Trung Quốc tuyên bố năm 1959.
Giao tranh bắt đầu ngày 20 tháng 10 năm 1962 giữa Quân Giải phóng Nhân dânQuân đội Ấn Độ. Quân Trung Quốc đồng loạt mở các cuộc tấn công tại Ladakh và dọc theo tuyến McMahon ngày 20 tháng 10 năm 1962, trùng hợp với cuộc khủng hoảng tên lửa Cuba. Quân Trung Quốc tràn qua các vị trí của quân Ấn Độ tại cả hai mặt trận, đánh chiếm được Rezang la tại Chushul ở mặt trận phía tây, cũng như Tawang ở mặt trận phía đông. Cuộc chiến kết thúc khi Trung Quốc đơn phương tuyên bố ngưng bắn vào ngày 20 tháng 11 năm 1962, và rút khỏi phần lớn các khu vực chiếm được.
Cuộc chiến tranh Trung Ấn đáng chú ý vì đây là cuộc chiến sơn cước quy mô lớn ở độ cao trên 4250 mét.[3] đặt ra nhiều vấn đề hậu cần cho cả hai bên tham chiến. Cuộc chiến cũng đáng ghi nhớ bởi việc cả hai bên không sử dụng không quân hay hải quân tham chiến.
Hệ quả của cuộc chiến là Ấn Độ thay đổi toàn diện quân đội để chuẩn bị cho các xung đột tương tự trong tương lai và đã đặt áp lực lên Thủ tướng Ấn Độ Jawaharlal Nehru, người bị cho là chịu trách nhiệm vì đã không tiên liệu cuộc xâm lấn của Trung Quốc.

Địa điểm

Bối cảnh

Phần màu đỏ là đường McMahon
Aksai Chin Sino-Indian border map.png
Mọi quan hệ giữa Ấn ĐộTrung Quốc đều bị chi phối bởi vấn đề biên giới vẫn chưa giải quyết từ hơn 50 năm nay. Trung QuốcẤn Độ giáp nhau trên 3 550 cây số, được phân cách bởi dãy núi Himalaya hiểm trở và vùng cao nguyên Tây Tạng. Trong nhiều thế kỷ, Tây Tạng là vùng đệm giữa hai nước. Sau khi Trung Quốc chiếm Tây Tạng năm 1950, hai vùng đệm hiện nay là hai nước NepalBhutan, nằm ở phía nam dãy Himalaya. Ba khu vực ngày nay vẫn là điểm nóng của sự xung đột giữa Ấn ĐộTrung Quốc: Aksai Chin ở tụ điểm của biên giới ba nước Pakistan, Ấn ĐộTrung Quốc, Arunachal Pradesh, ở sát biên giới Đông Bắc của Ấn Độ và Kashmir, ở Tây Bắc Ấn Độ.
Aksai Chin hiện thuộc quyền quản lý của Trung Quốc nhưng Ấn Độ coi như thuộc về mình và đòi lại. Ngược lại, Arunachal Pradesh là một tiểu bang của Ấn Độ nhưng Trung Quốc lại coi là thuộc về Tây Tạng và đòi Ấn Độ trả lại. Kashmir là vùng tranh chấp giữa Ấn Độ và Pakistan, mỗi bên chiếm một nửa và đòi bên kia phải trả phần còn lại. Mâu thuẫn giữa Ấn Độ và Trung Quốc ở Kashmir là vì Trung Quốc ủng hộ Pakistan.
Trong những thế kỷ trước Trung Quốc và Ấn Độ rất ít quan hệ vì địa lý cản trở. Khi hai nước giành độc lập và thoát khỏi ách ngoại bang vào cùng thời điểm, những đường biên giới do các nước thực dân ấn định trở thành đầu mối cho những xung đột có khi dẫn đến chiến tranh. Bản tuyên ngôn độc lập năm 1947 cũng chia cắt lãnh thổ Ấn Độ thành hai nước Pakistan và Liên bang Ấn Độ. Một sự phân chia đẫm máu: từ 300,000 đến 500,000 người bị thảm sát trong các cuộc chém giết lẫn nhau của hai cộng đồng hồi giáo và ấn độ giáo, và từ 10 đến 15 triệu người di cư từ vùng này sang vùng kia. Sự chia cắt đất nước và ba cuộc Chiến tranh Ấn Độ - Pakistan tiếp nối nhau (1947-1948, 1965, 1971) để giành giựt vùng Kashmir vẫn là vết thương nhức nhối truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác tại Ấn Độ. Việc Trung Quốc ngay từ đầu và cho đến ngày nay luôn là đồng minh đắc lực của Pakistan chỉ có thể thêm một ung nhọt cho quan hệ đã căng thẳng giữa hai nước. Trung Quốc cũng không ngần ngại dùng Pakistan để cảnh báo Ấn Độ ngay cả những lúc hai bên vui vẻ với nhau nhất: ngay sau khi viếng thăm Ấn Độ tháng 11 năm 2006, chủ tịch Hồ Cẩm Đào bay sang Pakistan, như để nhắc lại một trong những điểm bất di bất dịch của đường lối ngoại giao mình. Chính sách "tay đấm tay xoa" này cũng thể hiện qua việc đại sứ Trung Quốc tại Ấn Độ Sun Yuxi, chỉ một tuần trước khi ông Hồ Cẩm Đào sang, tuyên bố: "Quan điểm của chúng tôi là toàn bộ tiểu bang Arunachal Pradesh thuộc lãnh thổ Trung Quốc. Chúng tôi đòi lại tất cả." Khiến cho bộ trưởng ngoại giao Ấn ĐộPranab Mukherjee phải đối đáp lại: " Arunachal là một bộ phận của Ấn Độ".
Mâu thuẫn giữa Trung Quốc và Ấn Độ trong vùng Kashmir cũng không chỉ vì Pakistan mà còn vì một khu vực hai bên trực tiếp tranh giành nhau. Aksai Chin là một vùng đất rộng 38,000 km², ở độ cao 5 000 thước, hoang vu và khô cằn, rất ít dân cư nhưng ở vị trí chiến lược giữa ba nước Pakistan, Ấn Độ và Trung Quốc. Aksai Chin ngày xưa thuộc về vương quốc Ladakh nhưng được sát nhập vào Ấn Độ thuộc Đế quốc Anh khi AnhTây Tạng (lúc ấy còn độc lập) ký hiệp ước năm 1904, ấn định biên giới giữa Tây Tạng và Ấn Độ theo đường ranh giới McMahon. Trung Quốc lúc ấy không công nhận Tây Tạng là nước độc lập nên cũng không công nhận đường McMahon. Vì vị trí chiến lược của Aksai Chin, nằm trên quốc lộ 219 của Ấn Độ nối Tây Tạng và tỉnh Tân Cương, Trung Quốc nhất định giữ quyền kiểm soát khu vực này.
Trung Quốc cũng đòi lại một khu vực rộng khoảng 82,000km² ở Đông Bắc Ấn Độ hiện là tiểu bang Arunachal Pradesh nhưng Trung Quốc thường gọi là Zangnan (Tạng Nam). Arunachal Pradesh có hơn 1 triệu dân, đại đa số gốc Tây Tạng, Miến Điệnngười Thái, chỉ khoảng 15% là di dân từ các vùng khác của Ấn Độ, đặc biệt là hai tiểu bang lân cận AssamNagaland. Tại hội nghị Simla năm 1913-1914, thống đốc Anh Sir Henry McMahon ấn định biên giới giữa Ấn Độ và Tây Tạng theo một đường ranh giới mệnh danh là "đường McMahon" (McMahon Line) nhằm nới rộng vùng kiểm soát của Anh và tạo ra một số vùng đệm. Các đại diện Anh và Tây Tạng tại hội nghị thông qua đường ranh giới này nhưng Trung Quốc chối từ ký hiệp định vì khẳng định Tây Tạng thuộc chủ quyền của mình và đường McMahon vô giá trị. Năm 1950, thấy Trung Quốc sửa soạn chiếm Tây Tạng, Ấn Độ đơn phương ấn định biên giới theo đường McMahon tuy Trung Quốc phản đối. Trong hơn 10 năm sau đó, vấn đề lắng dịu nhờ không khí hoà hoãn giữa hai nước, nhưng bùng lên trở lại với cuộc chiến tranh biên giới Ấn-Trung năm 1962. Trung Quốc kéo quân sang chiếm đa số khu vực này nhưng sau khi tuyên bố chiến thắng, rút trở lại sau đường McMahon.

Diễn biến trước khi Trung Quốc tấn công

Tháng 6 năm 1962, các lực lượng Ấn Độ thành lập một tiền đồn ở Dohla trên sườn phía nam của Thagla. Thagla nằm ở phía bắc của đường McMahon nhưng lại nằm ở phía nam rặng núi mà Ấn Độ giải thích rằng đường McMahon đã thể hiện. Vào tháng tám Trung Quốc đã ban hành các phản đối ngoại giao và bắt đầu chiếm các vị trí ở Thagla, vào ngày 8 tháng 9 (PLA) đã cử 60 đơn vị mạnh xuống khống chế một vị trí quan trọng ở phía nam sườn núi.
Những bài viết của báo chí Ấn Độ nói rằng họ không được thông báo gì về điều đó nhưng Thủ tướng Nehru đã trấn an giới truyền thông rằng quân đội đã được lệnh "có thể hành động tự do trên lãnh thổ của mình"và quân đội đã đưa ra quyết định sử dụng vũ lực. Ngày 11 tháng 9, giới truyền thông đã được phía quân đội cho biết rằng " tất cả các cuộc tuần tra của quân đội đã được lệnh nổ súng lên bất kỳ trang bị nào của người Trung Quốc xâm nhập vào lãnh thổ Ấn Độ".
Tuy nhiên các hoạt động để chiếm Thagla theo chỉ thị của Nehru rõ ràng là đẫ được thực hiện rất chậm vì mỗi người lính Ấn phải mang 35 kg hành lý trên một chặng đường rất dài làm cho kế hoạch này bị chậm lại.thời điểm tiểu đoàn Ấn Độ đến địa điểm của cuộc xung đột thì các đơn vị TQ đã kiểm soát cả hai bờ sông Chunamka. Ngày 20 tháng 9, quân đội Trung Quốc ném lựu đạn vào binh lính Ấn Độ và một vụ đọ súng đã lan rộng gây ra một loạt các vụ xung đột kéo dài đến hết tháng 9.
Ngày 3 tháng 10, Chu Ân Lai viếng thăm Nehru ở Newdelhi hứa hẹn sẽ không có chiến tranh, ngày 4 tháng 10, Kaul (chỉ huy quân đội Ấn tại Thagla) được giao một số lực lượng với việc đảm bảo an ninh ở phía nam Thagla, Kaul quyết định việc đầu tiên là phải đảm bảo an toàn cho Yumtso La, một vị trí chiến lược quan trọng trước khi lấy lại các vùng thuộc Dhola đã bị mất. Một thời gian sau đó Kaul đã nhận ra rằng các cuộc tiến công sẽ là tuyệt vọng và chính phủ Ấn Độ phải cố gắng để ngăn chặn chiến sự có thể leo thang thành một cuộc chiến toàn diện. Ông hài hước nói rằng quân đội Ấn Độ đã đị du lịch đến Thagla trong điều kiện thời tiết khắc nghiệt mà trước đó họ chưa từng trải qua, hai quân nhân trong đơn vị của ông đã chết vì bệnh phù phổi.
Ngày 10 tháng 10, một đội tuần tra 50 quân Punjab của Ấn Độ đến Yumtso La đã gặp một đơn vị quân đội Trung Quốc khoảng 1000 binh sỹ, quân đội Ấn Độ dã không có được vị trí chiến đấu tốt, ở Yumtso La với độ cao khoảng 16.000 feet (4.900 m) trên mực nước biển, không có hỗ trợ của pháo binh. Quân Trung Quốc đã nổ súng vào đơn vị tuần tra của Ấn Độ với niềm tin rằng họ đang ở phía bắc của đường McMahon, quân Ấn Độ bị bao vây bởi các đơn vị Trung Quốc, họ tổ chức cuộc tấn công đầu tiên gây thương vong nặng nề cho binh lính Ấn Độ. Đến thời điểm quân Ấn đã ở một vị trí có thể đẩy lui quân Trung Quốc với súng cối và súng máy,tuy nhiên chuẩn úy Dalvi chọn phương án không đánh tiếp vì có nhiều binh sỹ Ấn hy sinh,họ chăm chú theo dõi quân Trung Quốc chuẩn bị cho một cuộc tiến công thứ hai. Quân Ấn Độ bắt đầu rút lui khi nhận thấy tình hình trở nên vô vọng. Đội tuần tra Ấn 25 binh sỹ bị thương vong con số này phía Trung Quốc là 33, quân Trung Quốc đã tổ chức cứu chữa các binh sỹ của họ khi người Ấn rút lui sau dó chôn cất người chết. Đây là lần đầu tiên có sự xuất hiện của vũ khí chiến đấu hạng nặng.
Cuộc tấn công này đã có tác động nghiêm trọng đối với Ấn Độ và Nehru cố gắng để giải quyết vấn đề. Ngày 18 tháng 10, đã được mô tả rõ ràng rằng người Trung Quốc đang chuẩn bị cho một cuộc tấn công vào Ấn Độ. Một đường dài các con la và phu khuân vác đã được quan sát thấy đang tham gia vận chuyển và gia cố các vị trí quân sự phía nam núi Thagla.

Trung Quốc chuẩn bị

Hai yếu tố chính dẫn đến xung đột của Trung Quốc với Ấn Độ là:
  • Lập trường của Ấn Độ về tranh chấp biên giới.
  • Trung Quốc muốn làm suy yếu, trừng phạt và kết thúc những nỗ lực của Ấn Độ kiểm soát Tây Tạng, những nỗ lực đó có mục tiêu là khôi phục lại Tây Tạng như trước năm 1949.
Một nhận thức khác là "Trung Quốc muốn trừng phạt Ấn Độ vì đã xâm lược lãnh thổ Trung Quốc dọc theo biên giới". John W. Garver lập luận rằng những nguyên nhân đầu tiên có thể là không chính xác, tuy nhiên nguyên nhân thứ hai theo cách nói của ông là "đáng kể và chính xác".
Một yếu tố khác ảnh hưởng tới quyết định của Trung Quốc trong cuộc chiến tranh với Ấn Độ là để ngăn chặn một sự bao vây của Liên Xô-Mỹ-Ấn Độ cô lập Trung Quốc. Quan hệ của Ấn Độ - Liên XôHoa Kỳ đã được cải thiện mạnh mẽ vào thời gian này, Trung Quốc đã tính toán thời điểm Liên Xô bị sa vào cuộc khủng hoảng tên lửa tại Cuba sẽ không thể can thiệp vào chiến tranh Trung - Ấn. Thực tế cho thấy rằng Trung Quốc đã tính toán chính xác. Trong thời gian chiến tranh, song song với những hành động quân sự, Trung Quốc vẫn quan sát hành động của người Mỹ để tránh bất kỳ sự tham gia nào của MỹLiên Xô vào cuộc chiến khi Mỹ và Liên Xô đã tập trung các lực lượng của họ xung quanh Cuba.
Trong ngày diễn ra đụng độ lớn đầu tiên tại Dohla diễn ra vào ngày 20 tháng 10 trùng khớp chính xác với việc Hoa Kỳ huy động một cuộc phong tỏa chống Cuba cũng vào ngày 20 tháng 10. Garver lập luận rằng người Trung Quốc đánh giá một cách chính xác các chính sách biên giới của Ấn Độ đặc biệt là chính sách chuyển tiếp, ông lập luận rằng một trong những yếu tố chính dẫn đến quyết định của Trung Quốc chiến tranh với Ấn Độ là vấn đề Tây Tạng. Nghiên cứu từ Trung Quốc xuất bản vào những năm 1990 xác nhận rằng nguyên nhân sâu xa là sự cảm nhận về một cuộc xâm lược của Ấn Độ ở Tây Tạng, với chính sách chuyển tiếp đơn giản là tạo chất xúc tác cho các phản ứng của Trung Quốc. Các lãnh đạo Trung Quốc tin rằng họ đã bảo vệ lãnh thổ mà họ cho rằng hợp pháp mà theo thực tế Trung Quốc đã chiếm đóng trước và coi chính sách chuyển tiếp tại Ấn Độ nhằm mục đích dần dần sát nhập Tây Tạng về mình. Mao Trach Đông tự so sánh chính sách chuyển tiếp của Ấn Độ như là một nước đi chiến lược trong bàn cờ Trung Quốc.
Ông nói "nước đi của họ (ý nói Ấn Độ) tiếp tục đẩy về phía trước như những quân cờ qua sông thì chúng tôi phải làm gì? chúng tôi cũng có thể đặt ra một vài con cờ về phía sông của chúng tôi.Nếu họ không vượt qua thì đó là tuyệt vời,nếu họ vượt sông chúng tôi sẽ ăn chúng.Tất nhiên chúng tôi sẽ không ăn chúng một cách mù quáng,thiếu sự kiên nhẫn trong những vấn đề nhỏ sẽ làm rối loạn một kế hoạch lớn".
Các động cơ của chính sách chuyển tiếp là để cắt đứt các tuyến đường cung cấp cho quân đội Trung Quốc trong vùng Aksai Chin. Theo lịch sử Ấn Độ chính sách tiến về phía trước được tiếp tục là do những thành công ban đầu của nó,nó cho rằng quân đội TQ rút lui khi họ gặp phải các khu vực đã bị chiếm đóng bởi quân đội Ấn Độ. Nó cũng cho rằng chính sách chuyển tiếp đã thành công trong việc cắt giảm các đường cung cấp của quân đội Trung Quốc tiến đến phía nam của đường McMahon.
Tuy nhiên chính sách chuyển tiếp ngủ quên trên giả định là Trung Quốc "không có khả năng sử dụng vũ lực chống lại bất kỳ lực lượng nào của chúng tôi ngay cả khi họ đã ở một vị trí có thể làm như vậy".Đã không có đánh giá lại nghiêm túc chính sách này. Nehru tự tin là sự khó khăn của Trung Quốc để cung cấp cho khu vực tranh chấp trên địa hình núi cao với khoảng cách dài hơn 5000 km từ đó tới khu vực đông dân cư của Trung Quốc.
Đến đầu năm 1962, lãnh đạo Trung Quốc bắt đầu lo sợ rằng Ấn Độ dự định khởi động một cuộc tấn công lớn chống lại quân đội Trung Quốc và rằng giới lãnh đạo Ấn Độ muốn có một cuộc chiến tranh.
Năm 1961, quân đội Ấn Độ được gửi tới thành Goa một khu vực nhỏ thuộc địa của Bồ Đào nha không có biên giới quốc tế với nước nào khác ngoài Ấn Độ, sau khi Bồ Đào Nha từ chối trả thuộc địa này lại cho Ấn Độ. Mặc dù hành động này đã gặp ít hoặc không có kháng nghị quốc tế và của phe đối lập, Trung Quốc đã nhìn thấy nó như là một ví dụ về tính chất bành trướng của Ấn Độ. Bộ trưởng Ấn Độ tuyên bố "nếu Trung Quốc không rút khỏi các khu vực chiếm đóng Ấn Độ sẽ phải lặp lại những gì đã làm ở Goa, Ấn độ chắc chắn sẽ đánh đuổi các lực lượng Trung Quốc". Trong khi một thành viên khác trong một kỳ đại hội tại Ấn Độ đã phát biểu "Ấn Độ sẽ thực hiện các bước để kết thúc sự xâm lược của Trung Quốc trên đất Ấn Độ cũng giống như đã kết thúc sự xâm lược của Bồ Đào Nha ở Goa".
Đến giữa năm 1962, các lãnh đạo Trung Quốc nhận thấy rõ ràng rằng các cuộc đàm phán đã không đạt được bất kỳ tiến bộ nào và chính sách chuyển tiếp ngày càng được nhận thức như là một mối đe dọa nghiêm trọng. Dehli ngày càng gửi quân thăm dò sâu hơn vào các đường biên giới và cắt đứt các đường cung cấp của Trung Quốc. Nguyên soái Trần Nghị nhận xét tại cuộc họp cấp cao nhất giữa hai chính phủ "chính sách chuyển tiếp của Nehru là một con dao mà ngài muốn đặt nó trong tim của chúng tôi.Chúng tôi không thể nhắm mắt của chúng tôi lại và chờ đợi cái chết", các lãnh đạo Trung Quốc tin rằng những hạn chế của họ về mặt địa lý đã được phía Ấn Độ coi là điểm yếu dẫn đến hành động khiêu khích tiếp tục và rằng một chính sách quân sự là cần thiết để ngăn chặn sự xâm lược của Ấn Độ.
Xu Yan, giáo sư lịch sử quân sự Trung Quốc và là giáo sư đại học quân sự quốc phòng quốc gia tham vấn cho quyết định của lãnh đạo Trung Quốc để đi đến chiến tranh. Đến cuối tháng 9 năm 1962, lãnh đạo Trung Quốc đã bắt đầu xem xét lại chính sách chuyển tiếp, vấn đề Tây Tạng và quyết định về một cuộc tấn công lớn.
Các lãnh đạo Trung Quốc lúc đầu tiên có được một cái nhìn thiện cảm đối với Ấn Độ đã từng là thuộc địa của Anh. Tuy nhiên chính sách chuyển tiếp của Nehru thuyết phục các lãnh đạo Trung Quốc rằng các lãnh đạo giành độc lập của Ấn Độ là hóa thân của chủ nghĩa đế quốc Anh. Vì vậy chính phủ Ấn Độ phải được dạy một bài học khó quên, Mao Trạch Đông đã nói "thay vì liên tục bị cáo buộc xâm lược tốt hơn hết hãy để cho thế giới biết những gì xảy ra khi Trung Quốc thực sự chuyển động các cơ bắp của nó".

Ấn Độ lập kế hoạch quân sự

Phía Ấn Độ tin tưởng chiến tranh sẽ không được kích hoạt và chuẩn bị ít, Ấn Độ chỉ có hai sư đoàn trong khu vực xung đột. Trong tháng 8 năm 1962, du kích Palit tuyên bố rằng một cuộc chiến tranh với Trung Quốc trong một tương lai gần có thể được loại trừ. ngay cả trong tháng 9 năm 1962 khi quân đội Ấn được lệnh "trục xuất người Trung Quốc" khỏi Thagla, thiếu tá JS Dhillon bày tỏ ý kiến cho rằng "kinh nghiệm ở Ladakh đã chỉ ra rằng một vài viên đạn bắn vào người Trung Quốc sẽ gây ra sự sợ hãi cho họ để họ chạy đi" bởi vì điều này quân đội Ấn Độ đã hoàn toàn không được chuẩn bị khi cuộc tấn công tại Yumtso La xảy ra.
Gần đây, giải mật tài liệu của CIA được biên soạn vào thời điểm đó cho thấy Ấn Độ ước tính các khả năng của Trung Quốc làm cho họ bỏ bê quân sự để tập trung tăng trưởng kinh tế. Nếu Nehru có nhiều hơn những tướng quân sự cùng chí hướng thì Ấn Độ sẽ có nhiều khả năng sẵn sàng đối phó với một cuộc tấn công xuất phát từ Trung Quốc.
Ngày 6 tháng 10 năm 1962, lãnh đạo Trung Quốc triệu tập cuộc họp,Lâm Bưu báo cáo rằng các đơn vị tình báo PLA đã xác định rằng quân đội Ấn Độ có thể tấn công các vị trí của Trung Quốc tại Thagla vào ngày 10 tháng 10 (chiến dịch nón rơm).Các lãnh đạo Trung Quốc và hội đồng quân sự trung ương quyết định khởi động một cuộc tấn công quân sự quy mô lớn để trừng phạt sự xâm lược từ Ấn Độ. Tại Bắc Kinh, một cuộc hop lớn hơn của quân đội Trung Quốc đã được triệu tập để lập kế hoạch cho cuộc xung đột sắp tới.
Mao Trạch Đông và các lãnh đạo Trung Quốc đã ban hành một chỉ thị đặt ra mục tiêu cho cuộc chiến tranh. Một cuộc tấn công chính sẽ diễn ra tại khu vực phía đông phối hợp với một cuộc tấn công nhỏ hơn ở khu vực phía tây. Tất cả quân đội Ấn Độ trong lãnh thổ mà Trung Quốc tuyên bố chủ quyền ở phía đông sẽ bị trục xuất, chiến tranh sẽ kết thúc với một thỏa thuận ngừng bắn đơn phương, Trung Quốc sẽ thu hồi các vị trí trước chiến tranh, tiếp theo là quay trở lại bàn thương lượng.
Ấn Độ là lãnh đạo Phong trào không liên kết, Nehru với uy tín quốc tế lớn và Trung Quốc với một quân đội lớn hơn có thể sẽ được miêu tả như là một kẻ xâm lược. Tuy nhiên Mao Trạch Đông nói rằng một cuộc chiến tranh "sẽ đảm bảo ít nhất là 30 năm hòa bình với Ấn Độ" và xác định các lợi ích để bù đắp chi phí.
Ngày 8 tháng 10, các đơn vị đã bổ sung các cựu binh ưu tú từ Thành đô (Tứ xuyên) và quân khu Lan Châu để chuẩn bị di chuyển vào Tây Tạng.
Ngày 12 tháng 10, Nehru tuyên bố rằng ông đã ra lệnh cho quân đội " bảo vệ lãnh thổ Ấn Độ trước sự tấn công của quân xâm lược Trung Quốc".
Ngày 14 tháng 10, một bài xã luận trên Nhân dân nhật báo ban hành cảnh báo cuối cùng của Trung Quốc với Ấn Độ "có vẻ như ông Nehru đã hạ quyết tâm của mình để tấn công lính gác biên giới Trung Quốc trên một quy mô lớn hơn" rằng quân đội Trung Quốc anh hùng với truyền thống vẻ vang chống ngoại xâm không bao giờ có thể để bất cứ ai xóa được truyền thống đó trong việc bảo vệ lãnh thổ của riêng mình, nếu vẫn còn một số người liều lĩnh bỏ qua các lời khuyên của chúng tôi thì đây là một dịp thử tốt, lịch sử sẽ phán quyết tại thời điểm lịch sử quan trọng này chúng tôi vẫn muốn cảnh báo một lần nữa tới ông Nehru: Hãy kiềm chế tốt hơn khi hai bên đã ở bên bờ vực của chiến tranh và không nên sử dụng cuộc sống của binh lính quân đội Ấn Độ như là các con bài trong canh bạc của ông".
Nguyên soái Lưu Bá Thừa đứng đầu một nhóm để xác định chiến lược cho cuộc chiến,ông kết luận rằng việc chống lại quân đội Ấn độ một cách tốt nhất và để đạt được chiến thắng sẽ yêu cầu quân đội triển khai tập trung lực lượng để đạt được chiến thắng quyết định.
Ngày 16 tháng 10, kế hoạch chiến tranh này đã được thông qua và ngày 18 đã được Quốc vụ viện phê duyệt cho một phản công tự vệ vào ngày 20 tháng 10 năm 1962.

Trung Quốc mở chiến dịch tấn công

Ngày 20 tháng 10 năm 1962 quân giải phóng nhân dân Trung Quốc (PLA) phát động hai cuộc tấn công trên một chiều dài hơn 1000 km từ đông sang tây, ở phía đông PLA đã tìm cách chiếm hai bờ sông Chu Namka. Một số xung đột cũng diễn ra tại đèo Nathula bang Sikkim (một vùng thuộc sự bảo hộ của Ấn Độ vào thời điểm đó). Pháo binh Trung Quốc đã dội bão lửa vào quân Ấn Độ, sau bốn ngày chiến đấu ác liệt ba trung đoàn của quân đội Trung Quốc đã thành công đáng kể trong việc chiếm một phần lãnh thổ tranh chấp.
Tại các khu vực tranh chấp ở phía đông quân Trung Quốc phát động cuộc tấn công lên bờ nam của sông Chu Namka, ngày 20 tháng 10 các lực lượng Ấn Độ chỉ điều tới một tiểu đoàn để bảo vệ trong khi quân Trung Quốc có ba trung đoàn. Về phía bắc của sông lực lượng Trung Quốc dự kiến sẽ vượt qua năm cầu bắc qua sông để bảo vệ những giao cắt, tuy nhiên các lực lượng PLA đã bí mật lợi dụng lúc sông đang cạn, nước nông vào tháng 10 để bơi qua. Họ thành lập ra từng tiểu đoàn bí mật dọc theo bờ sông mỗi tiểu đoàn được giao chống lại một nhóm riêng biệt của quân đội Ấn Độ.
Lúc 05h14' bão lửa pháo binh Trung Quốc bắt đầu tấn công các vị trí của Ấn Độ, đồng thời cắt đường dây điện thoại của Ấn Độ, ngăn ngừa các lực lượng phòng thủ liên hệ với sở chỉ huy của họ, vào khoảng 6h30' bộ binh Trung Quốc đã phát động một cuộc tấn công bất ngờ từ phía sau và buộc các lực lượng địa phương Ấn Độ phải rời khỏi chiến hào của họ.
Quân đội Trung Quốc tràn ngập (như trong các cuộc diễn tập) toàn bộ phía nam của đường McMahon từ Chu Namka. Sợ tổn thất tiếp tục nhiều binh lính quân đội Ấn Độ đã trốn thoát vào Bhutan,lực lượng Trung Quốc dừng lại ở biên giới Butan không đuổi theo, bây giờ Trung Quốc đã chiếm lại được tất cả các lãnh thổ tranh chấp tại Thagla, nhưng họ vẫn tiếp tục tiến vào phần còn lại của NEFA.
Ngày 22 tháng 10 lúc 0h15' PLA bắn súng cối vào Walong trên đường McMahon,lúc 4h PLA bắt đầu bắn vào những trận địa pháo của Ấn Độ. Pháo binh của quân đội Ấn Độ bị thiệt hại nhiều xung quanh thung lũng, ngày hôm sau người Ấn đã cố gắng dùng súng cối của họ chống lại Trung Quốc, các cuộc đụng độ của quân Trung Quốc với các lực lượng địa phương Ấn Độ kết quả hơn 200 binh sỹ Trung Quốc chết và bị thương, các lực lượng Ấn Độ cũng chịu thương vong nặng nề.
Ngày 23 tháng 10 quân đội Trung Quốc đã phát động cuộc tấn công chia làm 3 mũi trên Tawang,quân Ấn Độ đã rút lui mà không có kháng cự nào.

Khu vực phía tây

Các khu vực lãnh thổ tranh chấp ở phía tây, PLA đã tìm cách trục xuất các lực lượng Ấn Độ từ thung lũng Chip Chap ở Aksai Chin, vùng này đã bị Trung Quốc kiểm soát hầu hết. Lực lượng Trung Quốc nhanh chóng truy quét các khu vực còn lại của quân đội Ấn Độ. Cuối ngày 19 tháng 10 quân đội Trung Quốc đưa ra một loạt trận tiến công trên khắp miền tây, đến ngày 22 tháng 10 tất cả các khu vực của bắc Chushul đã bị chiếm.
Ngày 20 tháng 10, người Trung Quốc dễ dàng lấy Chip Chap Valley, Galwan ValleyPangong, nhiều tiền đồn và đơn vị đồn trú đã không thể chống lại quân Trung Quốc bao vây xung quanh. Hầu hết các đơn vị quân đội Ấn Độ đã kháng cự nhưng đều bị thiệt mạng hoặc bắt làm tù binh. Ấn Độ hỗ trợ cho các vị trí tiền tiêu này không hiệu quả một ví dụ chứng minh là khu vực Galwan vốn đã bị bao vây bởi các lực lượng đối phương từ tháng 8 mọi nỗ lực để phá thế bị bao vây đều không có kết quả nên sau cuộc tấn công ngày 20 tháng 10 Galwan đã thất thủ.
Ngày 24 tháng 10, các lực lượng Ấn Độ đã chiến đấu để giữ Rezang La Ridge, họ cố gắng ngăn chặn một đường băng sân bay ở gần đó rơi vào tay quân Trung Quốc.
kết quả quân Trung Quốc chết và bị thương 1000 binh sỹ, con số này phía Ấn Độ là chết 109 người. Sau các cuộc tấn công này phía Ấn Độ đã cho rút nhiều tiền đồn bị cô lập về phía đông nam đường ranh giới nơi mà quân Trung Quốc chưa tiếp cận được để củng cố lực lượng đề phòng quân Trung Quốc tấn công tiếp.

Tiếp tục chiến tranh

Sau khi nhận được thư từ chối của Nehru các trận chiến lại tiếp tục nổ ra, Ngày 14 tháng 11 (ngày sinh nhật của Nehru) quân đội Ấn Độ dưa quân vào Walong tấn công vị trí phòng thủ của Trung Quốc tại Sela gây nhiều thiệt hại về người cho phía Trung Quốc, đáp lại phía Trung Quốc tấn công tại Aksai Chin, ngày 17 tháng 11 PLA tấn công sư đoàn 4 của Ấn Độ bảo vệ SeLa và Bomdi La thay vì tấn công trực diện quân Trung Quốc đi vòng theo đường núi cắt đứt một tuyến đường chính dẫn tới Sela cô lập 10.000 quân Ấn Độ tại đây.
Trên mặt trận phía tây ngày 18 tháng 11 PLA phát động cuộc tấn công lớn của bộ binh, lúc 4h35' lợi dụng lúc sương mù dày đặc quân Trung Quốc tiếp cận mục tiêu,tới 5h45' lúc sương mù tan họ tràn lên tấn công 2 trung đội quân Ấn Độ phòng thủ tại Gurung Hill, quân Ấn Độ bị bất ngờ, thông tin bị cắt khiến họ không thể gọi pháo binh hỗ trợ nên đến 9h họ buộc phải rút lui. Tại Rezang quân Trung Quốc bị tấn công bởi 118 quân Ấn Độ, lúc 5h05' quân Trung Quốc phản công súng máy của họ bắn vào các trận địa phòng thủ của Ấn Độ. Lúc 6h55 mặt trời mọc trên 8 trung đội quân Trung Quốc tiếp tục tấn công, 10 phút sau trận chiến kết thúc, do không được tiếp tế hậu cần đầy đủ nên quân Ấn Độ chịu thất thủ,phía Trung Quốc cho phép phía Ấn Độ chôn cất người chết theo một tang lễ theo kiểu nhà binh, quân Ấn Độ buộc phải rút về các vị trí trên núi cao, quân Trung Quốc tuyên bố ngưng bắn chấm dứt đổ máu.
Phía Ấn Độ chịu thương vong nặng nề, rất nhiều quân nhân bị chết cóng, cơ thể vùi trong băng giá đông cứng lại với vũ khí trong tay, phía Trung Quốc cũng bị thương vong nặng nề đặc biệt là tai Rezang La, chiến tranh kết thúc ở Aksai Chin nhưng Trung Quốc đã đạt được yêu cầu của họ, binh lính Ấn Độ đã rút khỏi khu vực. Phía Trung Quốc nói rằng quân Ấn Độ còn muốn tiếp tục chiến đấu nữa tuy nhiên họ nên rút lui để tránh thêm thương vong.
PLA thâm nhập ngoại ô Tezpur Asam một thị trấn nằm cách biên giới 50 km về phía đông bắc, chính quyền địa phương đã ra lệnh di tản thường dân, các nhà tù được mở,các cơ sở vật chất bị phá hủy, ngoại tệ được mang đi để khỏi rơi vào tay người Trung Quốc.

Ngưng bắn

Sau chiến tranh Trung-Ấn bản đồ vùng tranh chấp Kasmir đã bị sửa đổi, Trung Quốc thông báo Aksai Chin đã thuộc Trung Quốc quản lý phía Trung Quốc đã đạt được yêu cầu vì vậy PLA đã không tiến xa hơn, ngày 19 tháng 11 Chu Ân Lai tuyên bố đơn phương ngừng bắn, lệnh ngừng bắn bắt đầu vào nửa đêm 20 rạng sáng ngày 21 tháng 11 năm 1962. Người phát ngôn của Chu Ân Lai nói rằng bắt đầu từ 21/11 binh lính Trung Quốc sẽ ngừng bắn trên dọc tuyến biên giới Trung Quốc-Ấn Độ, quân đội Trung Quốc sẽ lùi về phía sau 20 km tính từ đường kiểm soát thực tế đã tồn tại từ ngày 7 tháng 11 năm 1959. Ở phía đông TQ đã lấy lại 20 km kể từ đường ranh giới McMahon mà họ cho rằng bất hợp pháp,ở phía tây TQ sẽ thu hồi 20 km kể từ đường kiểm soát ranh giới như thực tại.
Chu Ân Lai tuyên bố ngừng bắn còn một nguyên nhân khác, đó là:
Ngày 19 tháng 11 phía Ấn Độ yêu cầu Hoa Kỳ hỗ trợ bằng không quân, các tàu sân bay Mỹ được lệnh áp sát bờ biển Ấn Độ nhưng do 24h sau đó Trung Quốc đã tuyên bố đơn phương ngừng bắn để tránh sự can thiệp của Mỹ,các tàu sân bay được lệnh quay trở lại,một cuộc đối đầu Trung-Mỹ đã được tránh. Mặc dù còn một số đụng độ lẻ tẻ diễn ra do một số nơi ở Aksai Chin chưa nhận được lệnh ngừng bắn nhung nhìn chung không bên nào muốn tiếp tục chiến sự, thực tế cuộc chiến đã kết thúc.
Vào cuối cuộc chiến tranh, Ấn Độ tăng cường hỗ trợ cho những người tị nạn Tây Tạng, một số họ đã định cư tại Ấn Độ, Ấn Độ huấn luyện cho (các lực lượng vũ trang Tây Tạng) nhằm chống lại một kẻ thù chung là Trung Quốc, cũng kể từ đây CIA bắt đầu hoạt động nhằm mang lại sự thay đôi chính quyền tại Tây Tạng.

Tham khảo

  1. ^ Calvin. Cuộc chiến đã không được tuyên bố do đó thời điểm bắt đầu cuộc chiến là một điều tranh cãi. Theo James Barnard Calvin's Timeline, cuộc giao tranh nặng đầu tiên diễn ra ngày 10 tháng 10. Chương của Calvin ghi chi tiết cuộc chiến tranh biên giới này cũng cho là ngày bắt đầu là ngày 10 tháng 10.
  2. ^ Chu Ân Lai: "Đương nhiên chúng tôi không phái quân ra khỏi biên giới để đánh dân nước khác. Chúng tôi thậm chí không đánh đuổi quân Ấn ra khỏi khu vực phía nam của tuyến McMahon, mà Trung Quốc không công nhận, bằng vũ lực. Nhưng nếu quân (Ấn Độ) tiến đến phía bắc của tuyến McMahon, và vượt sâu hơn vào lãnh thổ Trung Quốc, làm sao chúng tôi lại kiềm chế không trả đũa? Chúng tôi đã gửi 3 bức điện cho Nehru đề nghị ông ấy trả lời công khai nhưng ông đã từ chối. Ông cũng quá bất nhã, không thèm trả lời lại chúng tôi theo phép lịch sự do đó chúng tôi không còn lựa chọn nào khác là phải đánh bật quân của ông ta ra." "China", USA Department of State.
  3. ^ a ă â Calvin, James Barnard (April năm 1984). “The China-India Border War”. Marine Corps Command and Staff College. Truy cập ngày 14 tháng 6 năm 2006.
  4. ^ H.A.S.C. bởi Quốc hội Hoa Kỳ. House Committee on Armed Services — 1999, p. 62
  5. ^ War at the Top of the World: The Struggle for Afghanistan, Kashmir, and Tibet by Eric S. Margolis, p. 234.
  6. ^ a ă Dù Calvin nói rằng Trung Quốc không đưa ra con số chính thức, hai nguồn của Trung Quốc viz "The Red Walls Witness" 摘自《红墙见证录》当代中国出版社尹家民 pub 2004 and 中印边疆自卫反击作战史 History of the Sino-India Border Self Defensive War PDF pub 1993, give estimates. Sách Red Walls cho rằng số tử vong của Trung Quốc là 1.460, còn nguồn khác lại cho rằng con số thương vong là 2.400.
  7. ^ ít nhất 2 người bị bắt theo các cuộc hồi trả năm 2001. Tuy nhiên, có những báo cáo trên truyền thông trong thời gian 2001-03 rằng 2 tù binh chiến tranh Trung Quốc đang bị giam giữ tại một Bệnh viện Thần kinh ở Ranchi, Ấn Độ. Sau này họ đã được trao trả về nước dù Chính phủ Ấn Độ bác bỏ rằng họ là tù binh chiến tranh. Tuy nhiên, truyền thông Trung Quốc nói rằng hai người này đã được xếp hạng coi như Mất tích-coi như đã Chết và được tuyên bố là liệt sỹ tại quê nhà ở tỉnh Tứ Xuyên. Washington Times, World, 2003-07-27.
  8. ^ This tallies closely with the 1383+1696 which Calvin said were killed and missing. This datamined the original Indian Army site for these details. Of these, 2420 were killed in NEFA.
  9. ^ a ă The US Army [1] says Indian wounded were 1,047 and attributes it to Indian Defence Ministry's 1965 report, but this report also included a lower estimate of killed.
  10. ^ Official GoI answer to a question raised in the Indian Parliament. However, the US Army says Indian wounded were 1047 and attributes it to Indian Defence Ministry's 1965 report, but this report also included a lower estimate of killed.
Video yêu thích   
http://www.youtube.com/user/hoangkimvietnam

Trở về trang chính

Hoàng Kim, hoangkim, hoangkimvietnam, Ngọc Phương NamChào ngày mới Thung dung, Dạy và học, Cây Lương thực, Tin Nông nghiệp Việt Nam, Food Crops, Cassava in Vietnam, Khát khao xanh, Dayvahoc,Học mỗi ngày,  Danh nhân Việt , Food Crops News, Điểm chính, CNM365, Kim LinkedIn, KimTwitter, KimFaceBook  Đọc lại và suy ngẫm, Việt Nam tổ quốc tôi, Tình yêu cuộc sống Thơ cho con
  

No comments:

Post a Comment