Monday, July 7, 2014

Chào ngày mới 7 tháng 7

CheHigh.jpg
CNM365 Chào ngày mới 7 tháng 7 Wikipedia Ngày này năm xưa. Bắt đầu Tiểu thử (04:14 UTC, 2014), chính thức bắt đầu lễ hội Tanabata (Thất Tịch) tại Nhật Bản, ngày Độc lập tại Quần đảo Solomon (1978). Năm 424 – Sau một cuộc chính biến, Lưu Tống Thiếu Đế bị phế truất và giáng làm thân vương. Năm 1807 – Pháp, PhổNga ký kết Hòa ước Tilsit, kết thúc Chiến tranh Liên minh thứ tư. Năm 1937 – Quân đội Nhật Bản bắn pháo vào cầu Lư Câu, tiến công quân Trung Quốc tại Bắc Kinh, Chiến tranh Trung-Nhật bùng phát. Năm 1953Ernesto "Che" Guevara (hình) bắt đầu cuộc hành trình qua các nước Bolivia, Peru, Ecuador, Panama, Costa Rica, Nicaragua, Honduras, và El Salvador.

Tiểu thử

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Hai mươi tư tiết khí
Kinh độ Tiết khí Dương lịch
Xuân
315° Lập xuân 4 - 5/2
330° Vũ thủy 18 - 19/2
345° Kinh trập 5 - 6/3
Xuân phân 20 - 21/3
15° Thanh minh 4 - 5/4
30° Cốc vũ 20 - 21/4
Hạ
45° Lập hạ 5 - 6/5
60° Tiểu mãn 21 - 22/5
75° Mang chủng 5 - 6/6
90° Hạ chí 21 - 22/6
105° Tiểu thử 7 - 8/7
120° Đại thử 22 - 23/7
Thu
135° Lập thu 7 - 8/8
150° Xử thử 23 - 24/8
165° Bạch lộ 7 - 8/9
180° Thu phân 23 - 24/9
195° Hàn lộ 8 - 9/10
210° Sương giáng 23 - 24/10
Đông
225° Lập đông 7 - 8/11
240° Tiểu tuyết 22 - 23/11
255° Đại tuyết 7 - 8/12
270° Đông chí 21 - 22/12
285° Tiểu hàn 5 - 6/1
300° Đại hàn 20 - 21/1
Tiểu thử (tiếng Hán: 小暑) là một trong 24 tiết khí của của các lịch Trung Quốc, Việt Nam, Nhật Bản, Triều Tiên. Nó thường bắt đầu vào khoảng ngày 7 hay 8 tháng 7 dương lịch, khi Mặt Trờixích kinh 105° (kinh độ Mặt Trời bằng 105°). Đây là một khái niệm trong công tác lập lịch của các nước Đông Á chịu ảnh hưởng của nền văn hóa Trung Quốc cổ đại. Ý nghĩa của tiết khí này, đối với vùng Trung Hoa cổ đại, là Nóng nhẹ.
Theo quy ước, tiết tiểu thử là khoảng thời gian bắt đầu từ khoảng ngày 7 hay 8 tháng 7 khi kết thúc tiết hạ chí và kết thúc vào khoảng ngày 22 hay 23 tháng 7 trong lịch Gregory theo các múi giờ Đông Á khi tiết đại thử bắt đầu.
Lịch Trung Quốc, cũng như lịch ở các nước Đông Á cổ đại bao gồm Việt Nam, bị nhiều người lầm là âm lịch thuần túy, dẫn đến ngộ nhận về việc tiết khí nói chung và tiểu thử nói riêng được tính theo chu kỳ của Mặt Trăng quay xung quanh Trái Đất. Trên thực tế lịch Trung Quốc cổ đại là một loại âm dương lịch, trong đó tiết khí, từ thời Hán Vũ Đế, đã được tính theo vị trí của Trái Đất trong chu kỳ chuyển động trên quỹ đạo xung quanh Mặt Trời. Theo cách tính hiện đại, với điểm xuân phân là gốc có kinh độ Mặt Trời bằng 0°, thì điểm diễn ra hay bắt đầu tiết tiểu thử ứng với kinh độ Mặt Trời bằng 105°. Ngày bắt đầu tiết tiểu thử do vậy được tính theo cách tính của dương lịch hiện đại và nó thông thường rơi vào ngày 7 hay 8 tháng 7 dương lịch tùy theo từng năm. Tiết khí đứng ngay trước tiểu thử là hạ chí và tiết khí kế tiếp sau là đại thử.

Xem thêm


Thất Tịch

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Tranh khắc gỗ xưa của Nhật về ngày Thất Tịch, của Hiroshige (1797–1858)
Ngày Thất Tịch (Hán-Nôm: 𣈗七夕), theo văn hóa phương Đông, (Châu Á), nhất là các nước Đông Á và Đông Nam Á, là ngày lễ tình yêu được tổ chức vào ngày 7 tháng 7 Âm lịch, đôi khi được người phương Tây gọi là Ngày Valentine châu Á. Lịch sử về ngày này gắn bó với câu chuyện về Ngưu Lang Chức Nữ hoặc vợ chồng Ngâu với nhiều dị bản. Đây là ngày hội truyền thống ở Trung Quốc để các cô gái trẻ trưng bày các vật dụng nghệ thuật tự tạo trong ngày này và để cầu mong lấy được ông chồng tốt. Ngày này còn có các tên gọi khác như:
  • Khất xảo tiết (乞巧節; qǐ qiǎo jié - Lễ hội thể hiện tài năng)
  • Thất thư đản (七姐誕; qī jiě dàn - Sinh nhật cô em thứ bảy)
  • Xảo tịch (巧夕; qiǎo xì - Đêm kỹ năng).
Nhật Bản cũng kỷ niệm lễ hội này để kỷ niệm ngày gặp gỡ của Orihime (織姫 Chức Cơ) (tức sao Chức Nữ và Hikoboshi (彦星 Ngạn Tinh) (tức sao Ngưu Lang), gọi là lễ Tanabata (七夕) và Chilseok (칠석) tại Hàn Quốc.

Lễ hội ở Nhật Bản

Lễ hội được cho là du nhập vào Nhật trong thế kỷ thứ 8 và phổ biến rộng từ thời kỳ Edo.
Nhật Bản, đặc biệt tại thành phố SendaiHiratsuka và vùng Tōhoku, lễ hội này còn được gọi là "Tanabata" và được tổ chức lần đầu tiên vào ngày 7 tháng 7 dương lịch hàng năm với nhiều hình ảnh trang hoàng được làm từ giấy, vào đêm trước, thường có bắn pháo bông tại công viên Nishi-kōen. Sau đó lễ hội tiếp tục được mở rộng ra tại nhiều vùng cho đến giữa tháng 8.
Theo phong tục, người dân xếp hình giấy theo 7 hình thông dụng, như cánh hạc (折り鶴; Orizuru), Kimono bằng giấy (紙衣; Kamigoromo), túi xách (巾着; Kinchaku), lưới (投網; Toami), bao (くずかご; Kuzukago),... để trang trí hoặc để tặng nhau để chúc may mắn, tốt lành.

Ngày lễ Thất Tịch theo dương lịch

Trong những năm gần đây:
  • 6 tháng 8 năm 2011
  • 23 tháng 8 năm 2012
  • 13 tháng 8 năm 2013
  • 2 tháng 8 năm 2014
  • 20 tháng 8 năm 2015
  • 9 tháng 8 năm 2016
  • 28 tháng 8 năm 2017
  • 17 tháng 8 năm 2018
  • 7 tháng 8 năm 2019
  • 25 tháng 8 năm 2020

Chú thích

Xem thêm

Quần đảo Solomon

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Quần đảo Solomon
Flag of the Solomon Islands.svg Coat of arms of Solomon Islands.jpg
Quốc kỳ Huy hiệu
Vị trí của Quần đảo Solomon
Khẩu hiệu
"Lãnh đạo là Phục vụ"
Quốc ca
God Save Our Solomon Islands
Hành chính
Chính phủ Quân chủ lập hiến
Nữ hoàng Nữ hoàng Elizabeth II
Toàn quyền Nathaniel Waena
Thủ tướng Manasseh Sogavare
Ngôn ngữ chính thức tiếng Anh
Thủ đô Honiara
Thành phố lớn nhất Honiara
Địa lý
Diện tích 28.896 km²
11.157 mi² (hạng 142)
Diện tích nước 3.2% %
Múi giờ UTC+11
Lịch sử
7 tháng 7 năm 1978 từ Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland
Dân cư
Dân số ước lượng (Tháng 7 năm 2005) 478.000 người (hạng 170)
Mật độ (hạng 189)43 người/mi²
Kinh tế
GDP (PPP) (2005) Tổng số: $911 triệu (hạng 171)
Bình quân đầu người: $1.894 (hạng 146)
HDI (2004) Red Arrow Down.svg 0.592 medium (hạng 128)
Đơn vị tiền tệ Quần đảo Solomon dollar (SBD)
Thông tin khác
Tên miền Internet .sb
Mã điện thoại 677
Quần đảo Solomon là một đảo quốc của người Melanesia, nằm ở phía Đông Papua New Guinea, bao gồm gần một ngàn đảo nhỏ trải dài trên một diện tích khoảng 28.400 km² (10.965 dặm vuông). Thủ đô của nơi đây là Honiara, tọa lạc trên đảo Guadalcanal.
Theo một số ý kiến khách quan, nhiều người cho rằng người dân đảo quốc này chính là hậu duệ của người Melanesia cổ, sinh sống từ mấy ngàn năm trước. Vào thập niên 1890, thực dân Anh đã thiết lập nền bảo hộ vùng đất này. Trong thời gian 1942-1945, đảo quốc này chịu tổn thất rất lớn trong Đệ nhị thế chiến. Nhiều trận đánh ác liệt đã diễn ra (Chiến dịch quần đảo Solomon), trong đó có Trận Guadalcanal gây thiệt hại nặng nề cho Solomon. Năm 1976, chính quyền tự trị ra đời. Hai năm sau đó, Solomon chính thức trở thành quốc gia độc lập và là một thành viên thuộc Khối Thịnh vượng chung Anh.
Từ năm 1998, cuộc xung đột sắc tộc đã diễn ra trong sự bất lực của chính quyền. Đến tháng 6 năm 2003, lực lượng gìn giữ hòa bình đa quốc gia của Úc được gửi đến với "Sứ mạng giúp đỡ Quần đảo Solomon" (Regional Assistance Mission to the Solomon Islands - RAMSI) nhằm thiết lập lại nền hòa bình và giải giáp các phiến quân sắc tộc vũ trang.
Ngày nay, Bắc Solomon chia thành hai vùng: Quần đảo Solomon độc lập và tỉnh Bougainville thuộc Papua New Guinea.

Lịch sử

Các chiến binh Quần đảo Solomon cầm giáo trên chiếc canoe chiến đấu có trang trí năm 1895.
Mọi người tin rằng những người định cư nói tiếng Papua đã bắt đầu tới đây khoảng năm 30,000 trước Công Nguyên. Những người nói tiếng Austronesia đã tới đây khoảng năm 4,000 trước Công Nguyên và cũng mang theo các yếu tố văn hoá như canoe có mái chèo. Trong khoảng giữa năm 1,200 và 800 trước Công Nguyên những tổ tiên của người Polynesia, người Lapita tới đây từ Quần đảo Bismarck với các đồ gốm mang đặc trưng của họ.[1] Người Châu Âu đầu tiên khám phá quần đảo này là nhà hàng hải người Tây Ban Nha Álvaro de Mendaña de Neira, tới từ Peru năm 1568.
Các nhà truyền giáo bắt đầu tới Solomons hồi giữa thế kỷ 19. Ban đầu họ không đạt được nhiều thành công, bởi sự "buôn bán nô lệ da đen" (sự tuyển mộ nhân công thường mang tính bạo lực cho những nông trang mía ở QueenslandFiji) đã dẫn tới một loạt các cuộc trả thù và thảm sát. Những hậu quả của việc buôn bán nô lệ đã buộc Anh Quốc phải tuyên bố bảo hộ với phần nam Quần đảo Solomons năm 1893. Đây là cơ bản của sự Bảo hộ Anh với Quần đảo Solomon. Năm 1898 và 1899, thêm nhiều hòn đảo khác ở xa hơn được gộp vào khu vực bảo hộ. Năm 1900 phần còn lại của quần đảo, một vùng trước kia thuộc quyền tài phán của Đức, được chuyển giao cho chính quyền Anh ngoài các đảo BukaBougainville vẫn thuộc quyền quản lý của Đức như một phần của New Guinea thuộc Đức (cho tới khi chúng bị Australia chiếm năm 1914, sau khi Thế chiến I bùng phát). Tuy nhiên, thương mại truyền thống và sự giao lưu xã hội giữa vùng phía tây Quần đảo Solomon Islands là Mono và Alu (the Shortlands) và các xã hội truyền thống ở phía nam vẫn tiếp tục diễn ra bình thường. Dưới chế độ bảo hộ, các nhà truyền giáo đã định cư ở Solomons, cải đạo cho hầu hết dân cư sang Thiên chúa giáo. Đầu thế kỷ 20, nhiều công ty Anh và Australia bắt đầu trồng dừa trên phạm vi rộng lớn. Tuy nhiên, tăng trưởng kinh tế vẫn ở mức thấp bởi người dân trên đảo ít được hưởng lợi từ đó.

Thế chiến II

Với sự bùng phát của Thế chiến II, đa số người nông dân và thương nhân đã bỏ đi tới Australia, và hầu hết công việc trồng cấy phải ngừng lại. Một số trong những trận đánh căng thẳng nhất Thế chiến II đã xảy ra trên Quần đảo Solomon. Chiến dịch đáng chú ý nhất trong những chiến dịch của Đồng Minh[cần dẫn nguồn] chống lại các lực lượng Đế quốc Nhật được phát động ngày 7 tháng 8 năm 1942 với những cuộc ném bom và đổ bộ đồng thời vào đảo Florida tại Tulagi và Red Beach trên Guadalcanal. Trận Guadalcanal trở thành một chiến dịch quan trọng và đẫm máu tại Mặt trận Thái Bình Dương khi Đồng Minh bắt đầu đẩy lùi sự mở rộng của Nhật Bản. Hành động mang tính quan trọng trong chiến lược của cuộc chiến là những chiến dịch trinh sát tại các vị trí xa xôi, thường là tại các đảo thuộc quyền kiểm soát của Nhật, cung cấp các thông tin tình báo sớm về hoạt động của hải quân, quân đội và không quân Nhật trong chiến dịch. Thượng sĩ Jacob Vouza là người nổi tiếng vì đã từ chối tiết lộ thông tin của Đồng Minh khi bị quân đội Nhật bắt và tra tấn. Biuku Gasa và Eroni Kumana, những người dân sống trên đảo cũng đã được kênh National Geographic giới thiệu vì là những người đầu tiên tìm thấy John F. Kennedy khi ông bị đắm tàu cùng đội thuỷ thủ của PT-109. Họ có sáng kiến sử dụng một quả dừa để viết thông tin cầu cứu và mang đi bằng một chiếc canoe chèo tay, sau này khi đã trở thành Tổng thống Hoa Kỳ Kennedy đã giữ quả dừa đó trên bàn làm việc của ông.
Việc triển khai xe tăng trên đảo Guadalcanal của quân đội Mỹ đã gặp trở ngại vì địa hình ở đây.
Quần đảo Solomon là một trong những vùng quan trọng chiến lược ở Nam Thái Bình Dương và nơi đóng quân của Sư đoàn VMF-214 "Black Sheep" huyền thoại dưới sự chỉ huy của Thiếu tướng "Pappy" Boyington. The Slot là một cái tên của eo biển New Georgia, khi nó được Tokyo Express sử dụng để cung cấp hậu cầu cho quân đội Nhật đồn trú trên Guadalcanal.

Phong trào độc lập

Sau khi Thế chiến II kết thúc, chính phủ thuộc địa Anh được trao trả. Thủ đô được chuyển từ Tulagi tới Honiara để tận dụng cơ sở hạ tầng do quân đội Mỹ bỏ lại. Một phong trào cách mạng được gọi là Maasina Ruru đã tổ chức và phát động một chiến dịch bất tuân dân sự và đình công lớn trên toàn bộ quần đảo. Rất nhiều người tham gia phong trào và các lãnh đạo bị bỏ tù cuối năm 1948. Trong suốt thập niên 1950, các nhóm thổ dân chống đối khác xuất hiện và biến mất mà không giành được sức mạnh. Năm 1960, một hội đồng cố vấn của người dân Quần đảo Solomon đã bị một hội đồng lập pháp đàn áp, và một hội đồng hành pháp được tạo lập như một cơ quan bảo trợ việc thiết lập chính sách. Hội đồng này dần được trao nhiều quyền lực. Năm 1974, một hiến pháp mới được thông qua lập ra một hệ thống chính phủ nghị viện dân chủ và các bộ trưởng. Giữa năm 1975, cái tên Quần đảo Solomon chính thức được đổi thành Nhà nước Bảo hộ Quần đảo Solomon thuộc Anh.
Ngày 2 tháng 1 năm 1976, Solomon trở thành nhà nước tự quản, và giành được độc lập ngày 7 tháng 7 năm 1978, chính phủ đầu tiên sau khi độc lập được bầu ra tháng 8 năm 1980. Một loạt các chính phủ đã được hình thành từ đó và vẫn chưa thành công trong việc xây dựng và phát triển đất nước. Sau cuộc bầu cử Bartholomew Ulufa'alu năm 1997 tình hình chính trị của Solomon bắt đầu xấu đi. Việc quản lý đất nước giảm sút với sự bất lực của các cơ quan cảnh sát và chính phủ tới mức tình hình đã bị gọi là "căng thẳng".

Căng thẳng

Thường được gọi là căng thẳng hay căng thẳng sắc tộc, ban đầu cuộc bạo động dân sự chủ yếu là cuộc chiến giữa Phong trào Tự do Isatabu (cũng được gọi là Quân đội Cách mạng Guadalcanal) và Lực lượng Đại bàng Malaita (cũng như Lực lượng Đại bàng Marau). (Dù đa phần cuộc xung đột là giữa người Guales và người Malaitans, Kabutaulaka (2001) và Dinnen (2002) tranh cãi rằng cái mác 'xung đột sắc tộc' là sự đơn giản hoá). Về các chi tiết thảo luận về sự Căng thẳng, sem thêm Fraenkel (2004) và Moore (2004).
Cuối năm 1998, các chiến binh trên đảo Guadalcanal bắt đầu một chiến dịch đe doạ và bạo lực chống lại những người định cư Malaitan. Năm sau đó, hàng nghìn người Malaita đã phải bỏ chạy về Malaita hay thủ đô, Honiara (nơi, dù nằm trên đảo Guadalcanal, có dân cư chủ yếu là người Malaita và những người dân đảo Solomon từ các tỉnh khác). Năm 1999, Lực lượng Đại bàng Malaita (MEF) đã được thành lập để đối chọi.
Chính phủ cải cách của Bartholomew Ulufa'alu đã tìm cách đối phó với những rắc rối nảy sinh từ cuộc xung đột này. Cuối năm 1999, chính phủ đã tuyên bố tình trạng khẩn cấp kéo dài trong bốn tháng. Cũng có một số nỗ lực tổ chức các buổi hoà giải nhưng không thành công. Bartholomew cũng đã yêu cầu sự trợ giúp từ phía AustraliaNew Zealand năm 1999 nhưng đề nghị này đã bị từ chối.
Tháng 6 năm 2000, Ulufa'alu bị các thành viên du kích của MEF bắt cóc vì họ cho rằng dù đang ở Malaitan, ông không hành động đủ để bảo vệ các lợi ích của họ. Sau đó Ulufa'alu đã từ chức để đổi lấy tự do. Manasseh Sogavare, người từng là Bộ trưởng Tài chính trong chính phủ của Ulufa'alu's nhưng sau này đã gia nhập phe đối lập, được bầu làm Thủ tướng với tỷ lệ 23-21 trước Rev. Leslie Boseto. Tuy nhiên sự thắng cử của Sogavare đã ngay lập tức bị đặt nghi vấn khi sáu đại biểu (là người ủng hộ Boseto) không thể tới nghị viện tham dự cuộc bỏ phiếu (Moore 2004, n.5 trang 174).
Tháng 10 năm 2000, Thoả thuận Hoà bình Townsville,[2] được ký kết giữa Lực lượng Đại bàng Malaita, các nhóm của IFM và Chính phủ Quần đảo Solomon. Ngay sau đó là thoả thuận Hoà bình Marau tháng 2 năm 2001, được ký kết giữa Lực lượng Đại bàng Marau, Phong trào Isatabu Tự do, Chính phủ Tỉnh Guadalcanal và Chính phủ Quần đảo Solomon. Tuy nhiên, một nhà lãnh đạo du kích quan trọng của Guale, Harold Keke, đã từ chối ký Thoả thuận, gây ra một sự chia rẽ với các nhóm Guale. Sau đó, các bên của Guale đồng ý với thoả thuận do Andrew Te'e lãnh đạo đã gia nhập với nhóm cảnh sát đa số người Malaitan để hình thành nên 'Lực lượng Phối hợp Hành động'. Trong hai năm tiếp theo cuộc xung đột chuyển sang Weathercoast của Guadalcanal khi những nỗ lực của Lực lượng Phối hợp Hành động nhằm bắt giữ Keke và nhóm của ông thất bại.
Cuộc bầu cử mới được tổ chức vào tháng 12 năm 2001 đưa Sir Allan Kemakeza lên nắm chức Thủ tướng với sự hỗ trợ của Đảng Liên minh Nhân dân của ông và của Hiệp hội các Thành viên Độc lập. Luật pháp và trật tự ngày càng mất hiệu lực khi bản chất của cuộc xung đột thay đổi bạo lực tiếp tục diễn ra tại Weathercoast trong khi các du kích ở Honiara ngày càng theo đuổi các hành động tội ác và tra tán. Bộ Tài chính thường phải được quân đội vũ trang bảo vệ khi thu tiền về. Tháng 12 năm 2002, Bộ trưởng Tài chính Laurie Chan từ chức sau khi bị buộc phải ký giấy này tại một trạm kiểm soát do một số chiến binh lập ra. Xung đột bùng phát ở Tỉnh Tây giữa những người địa phương và những người định cư Malaitan. Các thành viên phản bội của Quân đội Cách mạng Bougainville (BRA) đã được mời tới làm lực lượng bảo vệ nhưng cuối cùng lại gây thêm nhiều rắc rối hơn những gì họ ngăn chặn được.
Tình trạng vô chính phủ, cướp bóc và sự bất lực của cánh sát khiến Chính phủ Quần đảo Solomon phải ra thông báo tìm kiếm sự trợ giúp của nước ngoài. Với tình trạng phá sản của quốc gia và sự hỗn loạn ở thủ đô, đề nghị này nhanh chóng được Nghị viện thông qua.
Tháng 6 năm 2003, cảnh sát Úc và Đảo Thái Bình Dương cùng quân đội tới Quần đảo Solomon dưới sự đỡ đầu của Phái bộ Hỗ trợ Vùng cho Quần đảo Solomon (RAMSI) do Australia lãnh đạo. Một lực lượng an ninh quốc tế khá lớn với 2,200 cảnh sát và quân lính, dưới sự lãnh đạo của AustraliaNew Zealand, và với đại diện từ khoảng 20 quốc gia Thái Bình Dương khác bắt đấu tới trong tháng tiếp sau trong khuôn khổ Chiến dịch Helpem Fren. Từ thời điểm đó một số nhà bình luận đã gọi đất nước này như một quốc gia không thể thành hình.[3]
Tháng 4 năm 2006 có những lời đồn rằng Thủ tướng mới được bầu Snyder Rini đã sử dụng các khoản hối lộ từ các doanh nhân Trung Quốc để mua phiếu bầu của các thành viên Nghị viện dẫn tới tình trạng cướp bóc trên diện rộng ở thủ đô Honiara. Một sự oán giận sâu sắc chống lại cộng đồng thiểu số các doanh nhân Trung Quốc đã dẫn tới việc phá uỷ khu Chinatown ở thành phố này. Căng thẳng cũng gia tăng khi mọi người tin rằng các khoản tiền lớn đã được chuyển tới Trung Quốc. Trung Quốc đã gửi máy bay tới sơ tán hàng trăm công dân nước mình tránh khỏi cuộc cướp bóc. Việc sơ tán các công dân ÚcAnh Quốc cũng diễn ra nhưng ở mức độ thấp hơn nhiều. Thêm nhiều cảnh sátquân đội Úc, New ZealandFiji đã được điều động để dẹp yên tình trạng bạo loạn. Cuối cùng Rini đã từ chức khi phải đối mặt với cuộc bỏ phiếu bất tín nhiệm ở Nghị viện, và Nghị viện đã bầu Manasseh Sogavare làm Thủ tướng.

Trận động đất và sóng thần năm 2007

Ngày 2 tháng 4 năm 2007, Quần đảo Solomon bị chấn động bởi một trận động đất lớn và tiếp sau đó là một vụ sóng thần. Những báo cáo đầu tiên cho thấy sóng thấn, vốn chủ yếu ảnh hưởng tới hòn đảo nhỏ Gizo, cao nhiều mét (có lẽ cao tới 10 mét (33 ft) theo một số thông tin, 5 mét (16 1/3 ft) theo Văn phòng Đối ngoại). Trận sóng thần phát sinh từ một trận động đất mạnh 8.1 độ, với tâm chấn nằm cách 217 dặm (349 km) phía tây bắc thủ đô hòn đảo, Honiara, tại Vĩ độ -8.453 Kinh độ 156.957 và ở độ sâu 10 km (6.2 miles).[4]
Theo Phòng Nghiên cứu Địa chất Hoa Kỳ trận động đất xảy ra lúc 20:39:56 UTC ngày Chủ nhật, 1 tháng 4 năm 2007. Từ sự kiện đầu tiên và cho tới tận lúc 22:00:00 UTC ngày thứ 4, 4 tháng 4 năm 2007, hơn 44 dư chấn mạnh bằng hoặc hơn 5.0 độ đã được ghi lại trong vùng.
Con số người chết do cơn sóng thần ít nhất là 52 người, và sóng thần đã phá huỷ hơn 900 ngôi nhà và khiến hàng nghìn người mất nhà cửa.[5]
Theo những người dân địa phương đất bị xô đẩy do trận động đất đã mở rộng ngoài khơi của một hòn đảo, Ranongga, tới 70 mét (230 ft).[6] Điều này khiến nhiều rặng san hô nguyên thuỷ hiện ra trên những bờ biển mới hình thành.

Thể thao

Đội tuyển bóng đá Quốc gia Quần đảo Solomon đã làm nên lịch sử khi trở thành đội đầu tiên đánh bại New Zealand để tham dự trận đối đầu trực tiếp tranh suất vào World Cup 2006 với Australia. Họ bị đánh bại 7-0 tại Australia và 2-1 trên sân nhà.
Ngày 14 tháng 6 năm 2008, đội Futsal quốc gia Quần đảo Solomon giành chiến thắng giải Oceania Futsal Championship tại Fiji giành suất tham dự 2008 FIFA Futsal World Cup được tổ chức tại Brazil từ ngày 30 tháng 9 đến 19 tháng 10 năm 2008.
Đội bóng đá bãi biển quốc gia Solomon được coi là đội mạnh nhất tại Oceania, và đã tham dự ba FIFA Beach Soccer World Cup gần đây nhất.
Đội rugby quốc gia Quần đảo Solomon đã tham dự các trận đấu quốc tế từ năm 1969.
Tương tự, giải rugby quốc gia quần đảo Solomon đã bắt đầu tái xuất sau mười năm gián đoạn.

Chính trị

Toà nhà Nghị viện
Quần đảo Solomon là một quốc gia quân chủ lập hiến và có một chính phủ theo hệ thống nghị viện. Nữ hoàng Elizabeth IIQuốc vương Quần đảo Solomon và là nguyên thủ quốc gia; bà được đại diện bởi Tổng Toàn quyền người được Nghị viện chọn lựa với nhiệm kỳ năm năm. Có một nghị viện đơn viện gồm 50 thành viên, được bầu với nhiệm kỳ 4 năm. Tuy nhiên, Nghị viện có thể bị giải tán theo đa số phiếu thành viên của nó trước khi kết thúc nhiệm kỳ. Đại diện Nghị viện dựa trên cơ sở một đại diện. Quyền bỏ phiếu dành cho mọi công dân trên 21 tuổi.[7] Lãnh đạo Chính phủThủ tướng, người được Nghị viện bầu ra và có quyền lựa chọn các thành viên của Chính phủ. Mỗi bộ do một thành viên chính phủ đứng đầu và được giúp đỡ bởi một thư ký, một viên chức dân sự, lãnh đạo các viên chức trong bộ.
Chính phủ Quần đảo Solomon có đặc điểm bởi các đảng chính trị yếu (xem Danh sách Đảng Chính trị của Quần đảo Solomon) và các liên minh rất không ổn định. Chính phủ thường phải đối mặt với các cuộc bỏ phiếu bất tín nhiệm và quyền lãnh đạo chính phủ vì thế cũng thay đổi thường xuyên. Việc thay đổi chính phủ là điều thường thấy.
Quền sở hữu đất đai được dành riêng cho công dân Quần đảo Solomon. Pháp luật cho phép các công dân nước ngoài định cư như người Trung Quốc và người Kiribati, có được quyền công dân thông qua việc nhập quốc tịch. Đất đai nói chung vẫn nằm trong tay các gia đình hay làng xã và có thể được trao thừa kế từ cha mẹ cho con cái theo phong tục địa phương. Người dân đảo không muốn sử dụng đất đai vào các lĩnh vực kinh tế phi truyền thống, và điều này khiến việc tranh cãi về quyền sở hữu đất đai tiếp tục diễn ra.
Các lực lượng phi quân sự được Quần đảo Solomon duy trì, mặc dù họ có lực lượng cảnh sát gần 500 người gồm cả một đơn vị biên phòng. Cảnh sát cũng chịu trách nhiệm cứu hoả, cứu hộ thiên tai và tuần tra biển. Lực lượng cảnh sát nằm dưới quyền chỉ huy của một uỷ viên hội đồng, được chỉ định bởi Tổng Toàn quyền và chịu trách nhiệm trước thủ tướng. Ngày 27 tháng 12 năm 2006, Chính phủ Quần đảo Solomon nói họ đã thực hiện các bước nhằm ngăn vị lãnh đạo cảnh sát người Australia quay về quốc gia Thái Bình Dương. Ngày 12 tháng 1 năm 2007, Australia đã thay thế nhà ngoại giao hàng đầu của họ bị trục xuất khỏi Quần đảo Solomon vì có hành động hoà giải nhằm giảm căng thẳng cuộc tranh cãi kéo dài bốn tháng giữa hai chính phủ.
Ngày 11 tháng 7 năm 2007, Quần đảo Solomon đưa Julian Moti lên làm Tổng chưởng lý. Moti hiện bị Australia truy nã vì liên quan tới hành động lạm dụng tình dục trẻ em. Thủ tướng Australia John Howard đã gọi hành động này là "khá kỳ lạ". Bộ trưởng ngoại giao Australia Alexander Downer đã miêu tả quốc gia này là một "kho truyện cười" của thế giới văn minh.[8] Tuy nhiên những lời cáo buộc của Australia chống lại Moti liên quan tới những sự kiện diễn ra ở Vanuatu, và những cáo buộc tương tự mà các toà án tại Vanuatu đã xoá bỏ trong thập niên 1990. Julian Moti đã thu hút sự chú ý của Australia bởi ông cố vấn cho Chính phủ Quần đảo Solomon điều tra trách nhiệm của cảnh sát Australia trong việc gây ra những vụ bạo loạn năm 2006 tại Honiara.
Ngày 13 tháng 12 năm 2007, Thủ tướng Manasseh Sogavare bị cách chức sau một cuộc bỏ phiếu bất tín nhiệm tại Nghị viện,[9] sau sự ly khai của năm Bộ trưởng thuộc phe đối lập. Đây là lần đầu tiên Thủ tướng mất chức theo cách này ở Quần đảo Solomon. Ngày 20 tháng 12, Nghị viện bầu ứng cử viên phe đối lập (và là cựu Bộ trưởng Giáo dục) Derek Sikua làm Thủ tướng, với số phiếu 32 trên 15.[10][11]

Tỉnh

Bản đồ Quần đảo Solomon
Với chính phủ địa phương, đất nước được chia làm 10 vùng hành chính, trong số đó 9 tỉnh do các cơ quan được bầu từ địa phương quản lý và tỉnh thứ 10 là thị trấn Honiara, cho Hội đồng Thị trấn Honiara cai quản.

Quan hệ nước ngoài

Quần đảo Solomon là một thành viên của Liên hiệp quốc, Khối thịnh vượng chung, Hội đồng Nam Thái Bình Dương, Diễn đàn Nam Thái Bình Dương, Quỹ Tiền tệ Quốc tế, vàLiên minh Châu Âu/Châu Phi, Caribe, và Thái Bình Dương (ACP) (EEC/ACP) (Hiệp ước Lomé).
Đời sống chính trị của Quần đảo Solomon còn bị ảnh hưởng bởi tầm quan trọng của nó với Trung Hoa dân quốc ở Đài LoanCộng hoà Nhân dân Trung Hoa. Quần đảo Solomon công nhận ngoại giao với Trung Hoa dân quốc, thừa nhận nó là Chính phủ hợp pháp duy nhất của toàn bộ Trung Quốc, là nước bỏ phiếu ủng hộ quan trọng với Trung Hoa dân quốc tại Liên hiệp quốc. Các khoản đầu tư nhiều lợi nhân, các khoản hỗ trợ chính trị và các khoản cho vay ưu đãi cả từ Trung Hoa dân quốc và Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa đang dần thao túng đời sống chính trị của Quần đảo này.
Quan hệ với Papua New Guinea, đã bị chững lại bởi làn sóng người tị nạn từ Bougainville những cuộc nổi dậy và tấn công trên những hòn đảo phía bắc Solomon bởi những nhánh nổi dậy người Bougainvill, đã được khôi phục. Một hiệp định hoà bình trên Bougainville đã được xác nhận năm 1998 loại bỏ mối đe doạ quân sự và hai nước tiến hành các quốc tuần tra biên giới thường xuyên theo một thoả thuận năm 2004.

Quân đội

Mặc dù Lực lượng Phòng vệ Quần đảo Solomon Bảo hộ Anh với các quân nhân tuyển mộ tại địa phương từng là một phần của các lực lượng Đồng Minh tham gia chiến đấu trên Quần đảo Solomon trong Thế chiến II, nước này không có một lực lượng quân sự thường xuyên độc lập. Nhiều nhánh bán quân sự của Cảnh sát Hoàng gia Quần đảo Solomon (RSIP) đã bị giải tán năm 2003 sau sự can thiệp của Phái bộ Hộ trợ Vùng cho Quần đảo Solomon (RAMSI), và RSIP bị giải giáp. RAMSI có một phái quân sự trực thuộc được chỉ huy bởi một vị tướng người Australia với trách nhiệm hỗ trợ lực lượng cảnh sát của RAMSI về an ninh bên trong và bên ngoài. RSIP vẫn điều hành hai tàu tuần tra (RSIPV Auki và RSIPV Lata) tạo thành lực lượng hải quân của Quần đảo Solomon.
Về lâu dài mọi người cho rằng RSIP sẽ đảm nhiệm cả vai trò phòng vệ. Lực lượng cảnh sát nằm dưới quyền lãnh đạo của một cao uỷ, được chỉ định bởi Toàn quyền và chịu trách nhiệm trước thủ tướng.
Ngân sách cho cảnh sát của Quần đảo Solomon đã bị đình trệ vì một cuộc nội chiến kéo dài bốn năm. Sau cuộc đình công Cyclone Zoe trên hòn đảo TikopiaAnuta tháng 12 năm 2002, Australia phải cung cấp cho chính phủ Quần đảo Solomon 200,000 Solomons ($50,000 Australia) để mua nhiên liệu, hậu cần cho chiếc tàu tuần tra Lata hoạt động. (Một phần công việc của RAMSI là hỗ trợ Chính phủ Quần đảo Solomon ổn định ngân sách.)
Trang bị:

Địa lý

Quần đảo Solomon nhìn từ trên không
Quần đảo Solomon là một quốc đảo rộng lớn nằm ở phía đông Papua New Guinea và gồm nhiều hòn đảo: Choiseul, Đảo Shortland; Đảo New Georgia; Santa Isabel; Đảo Russell; Nggela (Đảo Florida); Malaita; Guadalcanal; Sikaiana; Maramasike; Ulawa; Uki; Makira (San Cristobal); Santa Ana; Rennell và Bellona; Quần đảo Santa Cruz và ba hòn đảo nhỏ nằm ở xa, Tikopia, Anuta, và Fatutaka. Khoảng cách giữa các đảo nằm xa nhất ở phía tây và phía đông là khoảng 1,500 kilômét (930 mi). Quần đảo Santa Cruz (Tikopia là một phần của nó), nằm ở phía bắc Vanuatu và rất cô lập với khoảng cách 200 kilômét (120 mi) từ các hòn đảo khác. Bougainville về địa lý là một phần của Quần đảo Solomon, nhưng về chính trị thuộc Papua New Guinea.
Khí hậu đại dương-xích đạo của hòn đảo này rất ẩm trong cả năm, với nhiệt độ trung bình 27 °C (80 °F). Từ tháng 6 tới tháng 8 là thời gian lạnh nhất. Dù các mùa không được phân biệt, các cơn gioá tây bắc vào tháng 11 tới tháng 4 mang lại những cơn mưa thường xuyên và thỉnh thoảng là những trận gió giật hay bão. Lượng mưa hàng năm khoảng 3050 mm (120 in).
Quần đảo Solomon là một phần của hai vùng sinh thái mặt đất riêng biệt. Đa phần các đảo là một phanà của vùng sinh thái rừng mưa nhiệt đới Quần đảo Solomon, vốn gồm các đảo Bougainville và Buka, là một phần của Papua New Guinea, những khu rừng này hiện đang gặp nguy cơ lớn từ các hoạt động khai thác. Quần đảo Santa Cruz là một phần của vùng sinh thái rừng mưa nhiệt đới Vanuatu, cùng với quần đảo Vanuatu bên cạnh. Chất lượng đất thay đổi từ rất giàu đất núi lửa (có các núi lửa ở nhiều mức độ hoạt động khác nhau trên một số hòn đảo lớn) tới đá vôi cằn cỗi. Có hơn 230 loài lan và các loại hoa nhiệt đới khác trên quần đảo.
Quần đảo có nhiều núi lửa đã ngừng hoặc vẫn đang hoạt động. Núi lửa Tinakula và Kavachi là những núi lửa hoạt động mạnh nhất.

Kinh tế

Với GDP trên đầu người $600 Quần đảo Solomon là một quốc gia kém phát triển, và hơn 75% lực lượng lao động của họ hoạt động kinh tế tự cung tự cấp và đánh cá. Đa số các sản phẩm chế biến và sản phẩm dầu mỏ phải nhập khẩu. Năm 1998, giá gỗ nhiệt đới trên thế giới giảm mạnh, gỗ là sản phẩm xuất khẩu chủ yếu của Quần đảo Solomon, và vào những năm gần đây, các cánh rừng ở Solomons đã bị khai thác quá mức. Các sản phẩm mùa màng và xuất khẩu quan trọng khác gồm cùi dừa khôdầu cọ. Năm 1998 Ross Mining của Australia bắt đầu khai thác vàng tại Gold Ridge ở Guadalcanal. Việc khai thác khoáng sản tại các nơi khác vẫn tiếp tục. Tuy nhiên, với tình trạng bạo lực sắc tộc tháng 6 năm 2000, các hoạt động xuất khẩu dầu cọ và vàng đã dừng lại trong khi xuất khẩu gỗ cũng suy giảm. Hòn đảo này có nhiều nguồn tài nguyên khoáng sản chưa được khai thác như chì, kẽm, nickel, và vàng.
Ngành đánh cá trên Quần đảo Solomon cũng là lĩnh vực quan trọng đóng góp vào xuất khẩu và phát triển kinh tế. Tuy nhiên, một liên doanh với Nhật Bản, Solomon Taiyo Ltd., điều hành nhà máy đóng hộp duy nhất trên quần đảo, đã đóng cửa hồi giữa năm 2000 vì tình trạng bạo lực sắc tộc. Dù nhà máy đã được mở cửa trở lại dưới sự điều hành của người địa phương đã được đặt ra, việc xuất khẩu cá ngừ đại dương vẫn chưa được nối lại. Các cuộc đàm phán đang được tiến hành và có thể dẫn tới việc tái mở cửa khai thác mỏ vàng Gold Ridge và các nông trường cọ dừa lớn.
Du lịch, đặc biệt là lặn biển, là một ngành công nghiệp dịch vụ quan trọng của Quần đảo Solomon. Tuy nhiên, sự phát triển của ngành này đã bị ảnh hưởng bởi sự thiếu hụt cơ sở hạ tầng và các giới hạn về vận tải.
Chính phủ Quần đảo Solomon đã vỡ nợ vào năm 2002. Từ sự can thiệp của RAMSI năm 2003, chính phủ đã tái cơ cấu ngân sách. Nước này đã củng cố và tái đàm phán các khoản nợ nội địa, và với sự hỗ trợ của Australia, hiện đang tìm cách tái đàm phán với các chủ nợ nước ngoài. Các nhà tài trợ chính cho Solomons gồm Australia, New Zealand, Liên minh Châu Âu, Nhật Bản, và Trung Hoa dân quốc.
Gần đây, toà án Solomons đã tái phê chuẩn việc xuất khẩu cá heo sống để lấy tiền, chủ yếu tới Dubai, Các tiểu Vương quốc Ả Rập thống nhất. Việc này trước đó đã bị chính phủ đình chỉ năm 2004 sau sự phản đối quốc tế với một chuyến hàng 28 chú cá heo sống tới Mexico. Hành động này đã dẫn tới sự chỉ trích từ cả Australia và New Zealand cũng như nhiều tổ chức quan sát khác.

Năng lượng

Một đội các nhà phát triển năng lượng tái tạo làm việc cho Pacific Islands Applied Geoscience Commission (SOPAC) và được Renewable Energy and Energy Efficiency Partnership (REEEP) tài trợ, đã đưa ra một chương trình cho phép các cộng đồng này tiếp cận với nguồn năng lượng tái tạo, như mặt trời, với giá thành không quá lớn. Những người này cho rằng, nếu những cư dân trên đảo không thể trả tiền mặt cho nguồn năng lượng mặt trời, họ có thể trả bằng hoa lợi.[12]

Nhân khẩu

Ở thời điểm năm 2006 đa số trong 552,438 người dân Quần đảo Solomon thuộc sắc tộc Melanesian (94.5%). Người Polynesian (3%) và Micronesian (1.2%) là hai nhóm sắc tộc đáng chú ý khác.[13] Có vài nghìn người là người Trung Quốc.[14] 74 ngôn ngữ được sử dụng trên Quần đảo Solomon, dù bốn ngôn ngữ trong số đó đã tuyệt chủng.[15] Trên hòn đảo trung tâm, các ngôn ngữ Melanesian (chủ yếu thuộc nhóm Đông Nam Solomon) được sử dụng. Ở những hòn đảo phía ngoài, RennellBellona ở phía nam, Tikopia, AnutaFatutaka ở cực đông, Sikaiana ở đông bắc, và Luaniua ở phía bắc (Ontong Java Atoll, cũng được gọi là Lord Howe Atoll), các ngôn ngữ Polynesian được sử dụng. Những người dân nhập cư Gilbertese (Kiribati) và Tuvalu nói các ngôn ngữ Micronesian. Tuy tiếng Anh là ngôn ngữ chính thức, chỉ 1-2% dân số nói tiếng Anh; ngôn ngữ chung là Solomons Pijin.

Tôn giáo

Tôn giáo trên Quần đảo Solomon gồm 97% tín đồ Thiên chúa giáo với các phái sau: Nhà thờ Melanesia giáo phái Anh 32.8%, Cơ đốc giáo La Mã 19%, Nhà thờ Phúc Âm Biển Nam 17%, Bảy ngày Adventist 11.2%, Nhà thờ Thống nhất 10.3%, Nhà thờ Christian Fellowship 2.4%, các phái Thiên chúa giáo khác 4.4%. 2.9% còn lại theo các đức tin tôn giáo bản địa.[16] Theo những báo cáo gần đây nhất, Hồi giáo trên Quần đảo Solomon có khoảng 350 tín đồ.[17]

Văn hoá

Trong văn hoá truyền thống của Quần đảo Solomon, các phong tục cũ được truyền lại từ thế hệ này đến thế hệ khác, những tinh thần được truyền lại từ nhiều đời này đã hình thành nên các giá trị văn hoá của Quần đảo.
Môn thể thao được ưa chuộng nhất trên Quần đảo Solomon là bóng đá, bóng rổ cũng là môn thể thao được ưa chuộng.
Radio là phương tiện truyền thống có ảnh hưởng nhất trên Quần đảo Solomons vì những khác biệt ngôn ngữ, nạn thất học[18], và sự khó tiếp nhận sóng vô tuyến ở một số vùng trong nước. Quần đảo Solomon Broadcasting Corporation (SIBC) điều hành các dịch vụ radio công, gồm các đài phát sóng quốc gia Radio Happy IslesWantok FM, và các đài phát sóng địa phương Radio Happy Lagoon và, trước kia là, Radio Temotu. Có một đài phát sóng thương mại, PAOA FM, phủ sóng trên Quần đảo Solomons. Chỉ có một tờ báo hàng ngày Solomon Star (www.solomonstarnews.com) và một website tin tức hàng ngày Solomon Times Online (www.solomontimes.com), 2 tuần báo Solomons VoiceSolomon Times, và hai nguyệt báo Agrikalsa NiusCitizen's Press. Không có các trạm dịch vụ TV trên Quần đảo Solomon, dù có thể thu được tín hiệu từ các trạm phát sóng TV vệ tinh. Quần đảo Solomon có thể tiếp cận tự do vào ABC Asia Pacific (thuộc kênh ABC của Australia) và BBC World News.
Các tác gia của Quần đảo Solomon gồm nhà tiểu thuyết Rexford OrotaloaJohn Saunana và nhà thơ Jully Makini.

Xem thêm

Chú thích

  1. ^ Kirch, Patrick Vinton (2002). On the Road of the Winds: An Archaeological History of the Pacific Islands. Berkley, California: University of California Press. ISBN 0-520-23461-8
  2. ^ Untitled Document at www.commerce.gov.sb
  3. ^ Solomon Is: Failed State or Not Failed State? October 29, 2003. Pacific Magazine URL Accessed 2006-05-04
  4. ^ "Solomon Islands earthquake and tsunami", Breaking Legal News - International, 04-03-2007
  5. ^ "Aid reaches tsunami-hit Solomons", BBC News, 2007-04-03
  6. ^ Quake lifts Solomons island metres from the sea
  7. ^ CIA - The World Factbook - Solomon Islands
  8. ^ "Solomons a 'laughing stock'", - SBS World News, - 2007-07-11
  9. ^ Sireheti, Joanna., & Joy Basi, - "Solomon Islands PM Defeated in No-Confidence Motion", - Solomon Times, - 13 December 2007
  10. ^ Tuhaika, Nina., - "New Prime Minister for Solomon Islands", - Solomon Times, - 20 December 2007
  11. ^ "Solomon Islands parliament elects new PM", - ABC Radio Australia, - 20 December 2007
  12. ^ http://www.renewableenergyworld.com/rea/news/article/2009/04/solomon-islands-solar-a-new-microfinance-concept-takes-root?cmpid=WNL-Wednesday-April8-2009
  13. ^ CIA World Factbook. Country profile: Solomon Islands URL Accessed 2006-10-21
  14. ^ Spiller, Penny: "Riots highlight Chinese tensions", BBC News, Friday, 21 April 2006, 18:57 GMT
  15. ^ Gordon, Raymond G., Jr. (ed.), 2005. Solomon Islands in Ethnologue: Languages of the World, Fifteenth edition. Dallas, Tex.: SIL International
  16. ^ Centre for Intercultural Learning, Foreign Affairs Canada. “Country Insights: Solomon Islands”. Truy cập ngày 18 tháng 4 năm 2007.
  17. ^ International Religious Freedom Report 2007
  18. ^ BBC News. Country profile: Solomon Islands URL Accessed 2006-05-04

Tham khảo

Bài viết này có thông tin thuộc lĩnh vực công cộng từ các websites của Bộ Ngoại giao và CIA World Factbook Hoa Kỳ.

LIên kết ngoài

Chính phủ
Thông tin chung
Truyền thông
Du lịch
Khác
Bản mẫu:Chủ đề Quần đảo Solomon Bản mẫu:Quốc gia và vùng lãnh thổ thuộc Châu Đại Dương Bản mẫu:Cựu thuộc địa Đức Bản mẫu:Nói tiếng Austronesian Bản mẫu:Quân chủ

Che Guevara

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Anh hùng du kích - Bức ảnh nổi tiếng của Che do Alberto Korda chụp, khi Che phát biểu tại buổi lễ tưởng niệm các nạn nhân vụ nổ tàu La Coubre, ngày 5 tháng 3 1960
Ernesto Guevara de la Serna(1928-1967), thường được biết đến với tên Che Guevara (phiên âm là Chê Ghê-va-ra), El Che hay đơn giản là Che, là một nhà cách mạng Mác-xít nổi tiếng người Argentina, là thầy thuốc, người tạo ra học thuyết quân đội, nhà lãnh đạo quân du kích và phong trào cách mạng Cuba. Kiểu ảnh của ông chụp sau này đã trở thành biểu tượng phản văn hóa tượng trưng cho sự nổi loạn ở khắp mọi nơi trên thế giới[1].

Tuổi thơ và truyền thống gia đình

Che thời thiếu niên (ngoài cùng bên trái) cùng gia đình, ảnh chụp năm 1944. Ngồi bên cạnh anh, từ trái sang phải lần lượt là: Celia (mẹ), Celia (chị), Roberto, Juan Martín, Ernesto (bố) và Ana María.
Che Guevara sinh ngày 14 tháng 6 năm 1928 tại Rosario, Argentina. Cha là Ernesto Guevara Lynch, mẹ là Celia dela Serna một phụ nữ cấp tiến. Gia đình rất giàu truyền thống. Ông nội là Roberto người sáng lập nên Hội Nông thôn Argentina, một tổ chức nhiều thế lực của những đại địa chủ. Còn ông ngoại Juan Martin là nhà hoạt động chính trị rất tích cực trong những ngày đầu của Liên đoàn Công dân Cấp tiến (UCR). Đây chính là đảng phái chính trị đầu tiên ở Argentina đã giành được sự ủng hộ rộng rãi của dân chúng khi ra đời vào thời điểm xảy ra cuộc Cách mạng năm 1890. Che còn có một cụ tổ là người đã từng đi tìm vàng ở California miền tây nước Mỹ.
Gia đình sống tại thị trấn Caraguatay, tỉnh Misiones, vùng đông bắc Argentina, sau chuyển tới San Isidro, một quận lị ngoại ô thủ đô Buenos Aires rồi tới ngụ cư tại Altor Gracia một thị trấn vùng đồi là thuộc tỉnh Cordoba.
Năm 2 tuổi Che bị viêm phổi nặng, điều này đã làm khởi phát căn bệnh, mà như mẹ Che nói, nó là một yếu tố rất quan trọng cấu thành nên ý chí sắt đá của Che, là bệnh suyễn.
Khi còn nhỏ Che rất thích xem phim và đọc truyện về những câu chuyện phiêu lưu của Jack London, Jules Verne.

Tuổi trẻ phiêu lưu

Khi học xong trung học tại trường Dean Funes, Che theo học ngành y tại Đại học Buenos Aires và chọn bệnh suyễn làm chuyên ngành nghiên cứu.

Chuyến đi khởi đầu

Ngày 1 tháng 1 năm 1950, Che Guevara bắt đầu cuộc hành trình đầu tiên của mình với dự định kết hợp vui chơi và công việc, bằng chiếc xe đạp Micron có gắn động cơ. Bắt đầu chuyến đi hướng về phía tây, băng qua khu đồng bằng Pampas ở phía bắc. Cuộc hành trình có chiều dài lên tới 4.500 km. Anh đã sống, giúp việc trong khu người mắc bệnh phong Chanar một thời gian và làm việc trong đội xây dựng xa lộ quốc gia, rồi đội thuyền buôn của Argentina.
Tháng 10 năm 1951 anh đã hội ngộ với một người bạn thân là Alberto Granado tại Córdoba. Anh đã đề nghị hai người cùng thực hiện chuyến đi Bắc Mỹ.

Hành trình xuyên châu Mỹ Latinh

Guevara lúc 22 tuổi (năm 1951)
Alberto đã đồng ý, và không lâu sau đó, ngày 29 tháng 12 năm 1951 hai người đã lên đường, bắt đầu chuyến hành trình đến các nước châu Mỹ Latinh khác bằng chiếc xe mô-tô La Poderosa II 500 phân khối của Alberto. Họ đã đi qua hầu hết các nước trong vùng. Hai tháng sau ngày khởi hành, họ tới Chile, tại đó chiếc xe máy bị hỏng và phải bỏ lại giữa chừng. Hai người vẫn tiếp tục đi qua Chile, BoliviaPeru.
Tại Peru, hai người đã tới thăm khu người mắc bệnh phong Sanpablo. Sau đó họ lại xuôi theo dòng sông Amazon đến ColombiaVenezuela trên chiếc bè có tên là Mambo Tanga. Tại Venuzuela hai người chia tay nhau, Alberto ở lại, nhận việc chăm sóc bệnh nhân phong còn Che quay trở lại Argentina để hoàn tất chương trình học đại học.
Trong Nhật ký du hành của mình, Che đã cho thấy sự thay đổi trong con người anh là rất lớn. Cuộc hành trình đã hình thành trong anh lòng thương cảm những con người nghèo hèn và tinh thần chống đế quốc mãnh liệt.

Tiếp tục lên đường

Hoàn thành chương trình học không mấy khó khăn, ngày 16 tháng 6 năm 1953 tốt nghiệp bác sĩ, anh lại tiếp tục cuộc hành trình trở lại châu Mỹ Latinh cùng với Carlos Calica Ferre, một người bạn thân từ nhỏ ở Córdoba.
Chuyến đi bắt đầu ngày 7 tháng 7 năm 1953, hai người đi xe lửa tới Bolivia, họ tới thủ đô Lapaz vào ngày 24 cùng tháng. Lúc này tình hình chính trị ở quốc gia này rất căng thẳng. Vài tháng sau, hai người lại đi chu du khắp Peru, Ecuador, rồi Costa Rica, sau đó ở lại Guatemala trong khoảng 9 tháng. Tại đây, Che đã gặp Hilda Gadea, một phụ nữ Peru lưu vong, người sau này đã trở thành vợ. Cô đã giới thiệu hai người với những người Cuba trong phong trào 26 tháng 7, đang sống lưu vong tại đây, trong số đó có Nico Lopez, người mà về sau đã đặt cho anh biệt danh Che.
Sau một thời gian làm việc tại bệnh viện, anh lại lên đường dến Mexico, tại đây, anh đã được giới thiệu với Fidel Castro Ruz (tháng 7 năm 1955) và không lâu sau lần gặp gỡ đó, anh đã tự nguyện tham gia vào nhóm viễn chinh của những người Cuba.

Chiến đấu

Tháng 4 năm 1956, anh bắt đầu được huấn luyện quân sự cùng với những người Cuba khác và là một trong những học viên xuất sắc nhất.
Hai tháng sau, ngày 24 tháng 6, Che và Fidel cùng những người Cuba lưu vong khác đã bị chính quyền Mexico bắt giữ và giam tại nhà tù Miguel Schultz. Ngày 31 tháng 7 họ ra tù và lại tiếp tục khóa huấn luyện.
Ngày 25 tháng 11 năm 1956 cùng với 82 người khác vượt biển trở về Cuba trên con tàu Granma (là từ viết tắt của Grand Mother—bà) với tư cách là một thành viên trong Tổng tham mưu của quân du kích. Ngày 2 tháng 12 họ đã bí mật đổ bộ lên hòn đảo Cuba.

Chiến tranh du kích

Sau khi đổ bộ vào đảo quốc Cuba, quân du kích đã sử dụng nghệ thuật chiến tranh du kích, phát động nhiều cuộc chiến như: trận Algeria del Pio (21 thành viên bị tử trận) chiếm giữ được trại La Plata, trận Arroyo del Infierno, El Uvero... Nhờ sử dụng chiến tranh du kích nên chỉ với lực lượng ít nhưng họ vẫn giành nhiều chiến thắng quan trọng như vào tháng 6 năm 1958, 320 quân cách mạng đã phải chống lại 1 vạn quân chính quy của chế độ Batista. Cuộc chiến kết thúc, chính quyền vẫn không tiêu diệt được quân cách mạng mà còn bị tổn thất 1.000 quân và 400 quân khác thì bị quân cách mạng bắt làm tù binh.[cần dẫn nguồn]
Ngày 21 tháng 7 năm 1957, Che được Fidel Castro thăng hàm Thiếu tá trước cả Raul CastroJuan Almeida và giao trách nhiệm thành lập Đội quân số 4 của quân nổi dậy. Chỉ một tháng sau đó, Che đã lãnh đạo quân của mình chiến thắng tại trận El Hombrito (ngày 30 tháng 8).

Trận đánh quyết định

Tháng 8 năm 1958 Che Guevara và Camilo Cienfuesgos lãnh đạo các đội quân của mình bắt đầu phát động "cuộc xâm chiếm" từ phía tây đảo quốc. Họ đã hành quân chặng đường 554 km trong 47 ngày với quân dụng nghèo nàn, chủ yếu là đi bộ. Theo một hiệp ước sau đó, giữa các lực lượng, Che thống nhất chỉ huy các nhóm quân chống chế độ Batista. Quân nổi dậy bắt đầu tấn công vào Santa Clara, trung tâm kinh tế, đầu mối giao thông quan trọng. Ngày 31 tháng 8 năm 1958 quân nổi dậy chiếm được Santa Clara làm cho chế độ Batista nhanh chóng đi vào chỗ diệt vong. Batista phải chạy trốn ra nước ngoài, bắt đầu cuộc sống lưu vong.
Ngày 4 tháng 1 năm 1959 Che cùng với những chỉ huy quân nổi dậy khác tiến vào La La Habana trên vị thế của những người chiến thắng.

Tham gia chính quyền

Che Guevara và Fidel Castro
Sau những đóng góp vĩ đại của mình cho đảo quốc này, Che được trao quyền công dân Cuba và quyết định này được nhân dân Cuba hết sức ủng hộ[cần dẫn nguồn].
Chính quyền mới của quân cách mạng được thành lập, Che là một trong bộ ba lãnh đạo gồm (Che, Fidel CastroRaul Castro) của đất nước này. Ngày 8 tháng 10 năm 1959 Che được bổ nhiệm giữ chức Trưởng ban Nông nghiệp của Viện Cải cách ruộng đất quốc gia. Với cương vị này, Che đã ra quyết định tịch thu toàn bộ ruộng đất tư hữu. Ngày 26 tháng 11 được bổ nhiệm giữ chức Chủ tịch Ngân hàng quốc gia.
Chức vụ đầu tiên, trước khi lên làm Chủ tịch Ngân hàng quốc gia Cuba của Che, sau khi quân Fidel giải phóng đất nước năm 1959, chính là chức vụ chỉ huy đội hành quyết tại nhà tù La Habana. Trong sáu tháng giữ chức, Che đã theo lệnh từ Castro và cho tử hình khoảng 180 tù nhân thân Batista. Bản thân ông cũng xử tử vài người, trong một trang nhật ký, ông kể lại cảnh đã bắn chết một người tên là Eutimio Guerra.[2]
Tháng 4 năm 1960 Che kiêm nhiệm thêm chức chỉ huy Ban huấn luyện lực lượng vũ trang cách mạng. Tháng 2 năm 1961 được bầu làm Bộ trưởng Bộ Công nghiệp, Che đã ra quyết định đặt hàng trăm công ty quốc doanh dưới quyền kiểm soát của Trung ương.
Thời gian này xảy ra nhiều sự kiện ảnh hưởng tới Cuba như sự kiện Vịnh con Heo, Hoa Kỳ cấm vận, khủng hoảng tên lửa, khủng hoảng ngoại giao... mà Che đã đối phải. Qua cuộc khủng hoảng tên lửa Guevara càng tin tưởng là hai siêu cường thế giới (Hoa Kỳ và Liên Xô) đã dùng Cuba như là con cờ trong chiến lược toàn cầu của họ. Sau đó ông lên án Liên Xô hầu như thường trực như ông đã làm đối với Hoa Kỳ.[3]

Tiếp tục chiến đấu

Tháng 3 năm 1963, đang giữ cương vị một nhà lãnh đạo quan trọng trong bộ máy nhà nước Cuba, Che quyết định từ nhiệm mọi cương vị kể cả quyền công dân Cuba để lên đường thực hiện mong muốn tiếp tục được cống hiến cho sự nghiệp tranh đấu giành tự do của các dân tộc bị áp bức.
Quyết định ra đi được đưa ra vào đúng lúc con đường công danh đang rộng mở đối với Che khiến dư luận không khỏi hồ nghi có những khuất tất. Đã không ít ý kiến cho rằng: đằng sau sự ra đi đó có sự ép buộc khiên cưỡng của 2 anh em nhà Castro... Tuy nhiên, trong bức thư gửi Chủ tịch Fidel mà sau được chính Fidel đọc trong buổi lễ thành lập Đảng Cộng sản Cuba, Che đã nói rõ việc ông thôi giữ cương vị lãnh đạo là hoàn toàn tự nguyện, thể theo tiếng gọi của trái tim yêu tự do, khao khát hòa bình và cống hiến cho sự nghiệp cách mạng, sự nghiệp giải phóng loài người khỏi áp bức và bất công[cần dẫn nguồn].
Đầu tháng 4 năm 1963, Che cùng một số người khác rời Cuba đi Congo. Tại đây, sau những dự định không thành, họ đã rút đi (tháng 11 năm 1965). Tháng 3 năm 1966 Che đến Praha (Tiệp Khắc), rồi bí mật trở về Cuba (tháng 7 năm 1966) lên kế hoạch cho chiến dịch Bolivia.
Đầu tháng 11 năm 1967 Che và một số chiến hữu dùng thông hành giả mạo đến La Paz (thủ đô của Bolivia). Từ La Paz họ bí mật vào rừng thành lập một nhóm du kích quân, với mục đích tạo nên một hạt nhân đấu tranh thí điểm nhằm giải phóng cả châu Mỹ Latinh. Sau 11 tháng chiến dịch - từng chi tiết hoạt động được Che ghi lại trong nhật ký mà sau này được phổ biến rộng rãi với tên "Nhật ký của Che Guevara tại Bolivia" - dần dần tổ chức của ông bị bại lộ và cuối cùng thất bại.
Với chiến thuật phục kích tổ chức của Che đã giành thắng lợi một số trận nhỏ. Nhưng do có phần tử nội phản, căn cứ và hoạt động của tổ chức bị phát hiện. Tránh sự truy quét của kẻ địch, tổ chức quyết định chuyển căn cứ. Tổ chức của ông bị cô lập. Mọi người bị thiếu lương thực trầm trọng và bệnh tật. Chính ông bị cơn suyển là căn bệnh cố hữu hành hạ mỗi lúc một nguy ngập vì thiếu thuốc men. Cả nhóm phải giết ngựa, lừa là phương tiện tải quân trong rừng, để ăn. Các đồng chí thân cận bên ông dần dần bị tử trận. Cuối cùng, ông bị bắt ngày 7 tháng 10 năm 1967 trong tình trạng bị thương ở chân, sau một cuộc giao tranh trong lúc ông và các chiến hữu đang tìm đường thoát ra khỏi rừng ở vùng Quebrada del Yuro. Ông thậm chí không thể tự sát: khẩu carbine của ông đã bị một loạt đạn pháo bắn nát. Ông bị giam giữ suốt đêm tại ngôi trường trong làng. Trong tình trạng tuyệt vọng, Che vẫn giữ vững niềm tin về tính đúng đắn của sự nghiệp mà ông theo đuổi.[4] Ông bị hành quyết sau đó theo chỉ thị của CIA.
Câu nói nổi tiếng của ông trước khi bị bắn là: "Hỡi tên hèn nhát, cứ bắn tao đi! Cùng lắm mày chỉ giết chết một mạng người thôi!" Ông thản nhiên đứng đậy nhìn kẻ địch bằng ánh mắt sắc lạnh kiên dũng[cần dẫn nguồn]. Nhưng theo Felix Rodriguez, một trong các điệp viên CIA ở Bolivia đã phát hiện căn cứ của quân du kích và ra mệnh lệnh tử hình các chiến sĩ cách mạng, thì Che Guevara, lúc đó đã bị thương và áo quần rách nát, đã nói: "Đừng bắn, tôi là Che Guevara và có giá trị với các ông khi còn sống hơn là đã chết"[5]. Để làm cho các vết thương do đạn có vẻ khớp với câu chuyện chính thức công bố, Felix Rodriguez đã lệnh cho người xạ thủ ngắm bắn cẩn thận để các vết thương này trông giống như thể Che đã bị giết trong một cuộc chạm súng với quân đội Bolivia, và như vậy sẽ giúp che giấu vụ ám sát bí mật. Sau đó họ còn chặt đi một bàn tay của Che[6].
Chính quyền Barrientos chôn giấu xác ông, và mãi đến ba mươi năm sau, vào ngày 17 tháng 10 năm 1997, hài cốt ông cùng bảy người khác tại một ngôi mộ tập thể không được đánh dấu mới được khai quật và tìm thấy, mang về Cuba và mai táng tại Santa Clara, nơi ông đã lập chiến công lớn ở đó, quyết định sự thành công của Cách mạng Cuba.
Nguyên nhân dẫn đến sự thất bại của chiến dịch Bolivia chính bởi:
  • Tổ chức của Che chưa được nhân dân Bolivia lúc đó tin tưởng ủng hộ; chính quyền Cuba hậu thuẫn triệt để; chưa thực sự liên kết được các cuộc đấu tranh
  • Lực lượng yếu, trang bị thô sơ, chưa có chiến lược và sách lược đúng đắn phù hợp, trong khi kẻ thù mạnh - lớn
  • Thời cơ chưa chín muồi để cách mạng diễn ra rộng khắp và thành công.
Mặc dù thất bại, tên tuổi và ảnh hưởng của Che mỗi ngày một lan rộng khắp châu Mỹ Latinh và cả thế giới. Ông đã trở thành một biểu tượng của sự đấu tranh, của tình nhân ái xả kỷ chống lại áp bức và nghèo đói để đem lại sự công bằng cho mọi người[7][8].

Những cuộc hôn nhân

Cuộc hôn nhân đầu tiên của Che là với Hilda Gadea. Hôn lễ được tổ chức ngày 18 tháng 8 năm 1955, lúc đó Hilda đang mang thai. Ngày 15 tháng 2 năm 1956 đứa con đầu lòng chào đời, được đặt tên là Hilda Beatriz. Cuộc hôn nhân tồn tại chưa đến 4 năm, tháng 1 năm 1959 hai người ly hôn.
Tháng 6 năm 1959, Che kết hôn cùng Aleida March, một chiến sĩ cách mạng cùng hoạt động ở Cuba.

Huyền thoại

Những câu nói về Che

  • "Ông là thành viên hấp dẫn nhất trong bộ ba lãnh đạo. Ông có nụ cười ngọt ngào, buồn buồn làm những người phụ nữ phải nghẹt thở. Che đang lèo lái con tàu Cuba bằng một đầu óc tính toán lạ lùng, bằng tài năng hiếm có, bằng trí thông minh xuất chúng và bằng óc khôi hài thú vị." - Tạp chí Time, ngày 8 tháng 8 năm 1960
  • "Đó là một con người chân chính, một người bạn tuyệt vời và là người mà ngay cả kẻ thù cũng phải kính nể." - Fidel Castro
  • "Nếu phải diễn tả hình ảnh tương lai của thế hệ con cháu mà chúng ta muốn chúng trở thành, chúng ta sẽ nói rằng: Hãy giống như Che. Nếu phải bày tỏ lòng mong ước con cháu mình sẽ được giáo dục như thế nào, chúng ta sẽ nói không chút ngần ngại rằng: Chúng ta muốn chúng được giáo dục theo tinh thần của Che." - Fidel Castro, trong buổi lễ tưởng niệm Che, ngày 18 tháng 10 năm 1967.
  • "Hình ảnh của Che có thể bị lãng quên, bị đem ra mua bán hay được mọi người sùng bái nhưng nó sẽ tạo nên một bộ phận trong hệ thống đấu tranh cách mạng trên toàn thế giới và bất cứ lúc nào nó cũng có thể khôi phục lại ý nghĩa nguyên thủy của mình." - Edmundo Desnoes.
  • "Là con người hoàn thiện nhất trong thời đại chúng ta." - Jean Paul Sartre.
  • "Che gợi nhắc chúng ta nhớ đến những điều đã được biết từ thời Spartacus nhưng đã có lúc bị bỏ quên: trong cuộc chiến chống lại sự bất công, nhân loại có thể tìm thấy một bậc thang để nâng cuộc chiến đấu này lên một tầm mức cao hơn, làm cho chúng tốt đẹp hơn, và thay đổi nó thành điều gì đó nhân bản hơn." - Marcos.
  • "Sống chiến đấu là định mệnh của cuộc sống dành cho El Che." - Shangzie
  • "Đối với những con người không bao giờ theo bước Che, bị chìm đắm trong thế giới đầy hoài nghi yếm thế, sự tự tư tự lợi và nền công nghiệp tiêu thụ điên cuồng này, còn có gì hấp dẫn hơn thái độ khinh bạc của Che đối với những tiện nghi vật chất và những ham muôn tấm thường. Có thể nói rằng, đó là phẩm chất riêng biệt độc đáo của Che và không thể có bản sao thứ hai của anh trong thế giới này, đây là điều khiến anh trở nên cực kỳ quyến rũ." - Ariel Dorfman[9]

Sản phẩm của tinh thần Quốc tế

Chính trí thức thiên tả ở Pháp, kể cả Jean-Paul SartreSimone de Beauvoir, đã ngưỡng mộ Che và góp phần đưa Che thành một huyền thoại, một biểu tượng toàn cầu[2] với phong cách lãng mạn cách mạng tuyệt vời. Che được ngợi ca như một người đã thoát ra khỏi mọi tư tưởng đố kỵ, mọi ràng buộc giai cấp, dân tộc nhỏ nhen, và là người tiên phong cho lý tưởng đấu tranh cho sự tiến bộ của toàn nhân loại[7].

Danh sách tác phẩm

Nguyên gốc do Ernesto "Che" Guevara viết bằng tiếng Tây Ban Nha, sau đó dịch sang tiếng Anh

Chú thích

Tham khảo

Liên kết ngoài



Video yêu thích   
http://www.youtube.com/user/hoangkimvietnam

Trở về trang chính

Hoàng Kim, hoangkim, hoangkimvietnam, Ngọc Phương NamChào ngày mới Thung dung, Dạy và học, Cây Lương thực, Tin Nông nghiệp Việt Nam, Food Crops, Cassava in Vietnam, Khát khao xanh, Dayvahoc,Học mỗi ngày,  Danh nhân Việt , Food Crops News, Điểm chính, CNM365, Kim LinkedIn, KimTwitter, KimFaceBook  Đọc lại và suy ngẫm, Việt Nam tổ quốc tôi, Tình yêu cuộc sống Thơ cho con
 

No comments:

Post a Comment