CNM365 Chào ngày mới 29 tháng 6 Wikipedia Ngày này năm xưa. Ngày Độc lập tại Seychelles Cộng hòa Xây-sen là một quốc đảo với 155 hòn đảo lớn nhỏ cách 1.500 km về hướng đông của đại lục Châu Phi. Đảo quốc này giành độc lập năm 1976 và là thành viên Khối Liên hiệp Anh. So với Ghana Cộng hòa Ghana là một thuộc địa của Liên Hiệp Anh với tên gọi Bờ Biển Vàng (Gold Coast). Ngày 6 tháng 3 năm 1957, Ghana trở thành thuộc địa đầu tiên ở vùng Châu Phi hạ Sahara giành được độc lập. Năm 1776 – Cha cố Francisco Palou thành lập Tòa nhà hội truyền giáo San Francisco de Asis tại khu vực nay là thành phố San Francisco, Hoa Kỳ. Năm 1880 – Quốc vương Pomare V (hình) bị buộc phải nhượng chủ quyền Tahiti và các đảo phụ thuộc cho Pháp. Năm 1914 – Một phụ nữ mại dâm tên là Jina Guseva nỗ lực ám sát nhân vật tôn giáo và thần bí người Nga Grigori Rasputin. Năm 1956 – Đạo luật Xa lộ Liên bang viện trợ được ký thành luật, chính thức thiết lập Hệ thống Xa lộ Liên tiểu bang tại Hoa Kỳ.
Seychelles
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Repiblik Sesel République des Seychelles |
|||||
---|---|---|---|---|---|
|
|||||
Khẩu hiệu | |||||
"Finis Coronat Opus" (Latin) "The End Crowns the Work" |
|||||
Quốc ca | |||||
'Koste Seselwa' | |||||
Hành chính | |||||
Chính phủ | Cộng hòa tổng thống | ||||
Tổng thống | James Michel | ||||
Ngôn ngữ chính thức | Anh, Pháp, Seychellois Creole | ||||
Thủ đô | Victoria |
||||
Thành phố lớn nhất | Victoria | ||||
Địa lý | |||||
Diện tích | 451 km² (hạng 197) | ||||
Diện tích nước | không đáng kể % | ||||
Múi giờ | SCT (UTC+4); mùa hè: không dùng (UTC+4) | ||||
Lịch sử | |||||
Ngày thành lập | 29-6-1976 | ||||
Dân cư | |||||
Dân số ước lượng (2005) | 82.247 (ước 7-2008)[1] người (hạng 205) | ||||
Mật độ | 178 người/km² (hạng 60) | ||||
Kinh tế | |||||
GDP (PPP) (2005) | Tổng số: $1,382 tỷ đôla Mỹ[2] | ||||
HDI (2004) | 0,843 cao (hạng 47) | ||||
Đơn vị tiền tệ | Seychellois rupee (SCR ) |
||||
Thông tin khác | |||||
Tên miền Internet | .sc |
Mục lục
Lịch sử
Mặc dầu được các thương gia Bồ Đào Nha và Ả Rập biết đến, nhưng quần đảo này không có dân cư sinh sống.Đầu thế kỷ 16, người Bồ Đào Nha đã đến Seychelles. Năm 1760, Pháp chiếm quần đảo này. Năm 1794, Anh cũng chiếm một số đảo trong quần đảo Seychelles. Sau nhiều tranh chấp và thương lượng, cuối cùng Seychelles trở thành "lãnh thổ thuộc Anh" ở Ấn Độ Dương.
Năm 1903, Seychelles được hưởng quyền tự trị, nhưng một số đảo bị tách ra nằm dưới sự cai trị của Anh.
Đến giữa thế kỉ 18, người Pháp đến chiếm làm thuộc địa đưa dân cư và nô lệ sang, rồi nhượng lại cho thực dân Anh sau cuộc Chiến tranh Napoléon (1814).
Đảo quốc này giành độc lập năm 1976 và là thành viên Khối Liên hiệp Anh. Năm 1977, Thủ tướng France A. René lật đổ Tổng thống James Mancham và lập chế độ độc đảng. Năm 1991, Albert René lập lại thể chế đa đảng và đảng của ông giành đa số phiếu trong cuộc tuyển cử năm 1992. Năm 1998, Tổng thông France Albert René tái đắc cử với 66,6% số phiếu.[3]
Chính trị
Chính trị của Seychelles diễn ra trong khuôn khổ của một nước cộng hòa tổng thống, theo đó Tổng thống Seychelles là nguyên thủ quốc gia và đứng đầu chính phủ, và một hệ thống đa đảng. Quyền hành pháp thuộc chính phủ. Quyền lập pháp trong cả chính phủ và Quốc hội.Địa lý
Quốc gia ở Đông Phi, nằm trong vùng Ấn Độ Dương, cách Madagascar 11.000 km về hướng Tây Bắc. Seychelles là quần đảo san hô và núi lửa tập hợp trên 100 đảo lớn nhỏ, các đảo chính gồm: Mahé (142 km2), Praslin (38 km2), La Digue (10 km2). 90% dân số tập trung ở đảo Mahé. Các nhóm đảo Aldadbra, Farquhar và Desroches cũng thuộc lãnh thổ Seychelles.[4]Hành chính
Seychelles được chia thành 25 huyện hành chính bao gồm tất cả các hòn đảo. Tám trong số các huyện thuộc khu vực Greater Victoria. Thêm 14 huyện được coi là vùng nông thôn nằm ở hòn đảo chính Mahé với 2 huyện ở đảo Praslin và một ở La Digue. Các đảo nhỏ nằm bên ngoài ngoài không được coi là một phần của huyện nào.STT[a] | Huyện | Thủ phủ | Diện tích (km²) | Dân số | Khu vực |
---|---|---|---|---|---|
** | Mahe Islands | Mahe Islands | 163.2 | 78333 | |
01 | Anse aux Pins | Anse Aux Pins | 2.2 | 3673 | East Mahé |
02 | Anse Boileau | Anse Boileau | 12.0 | 4183 | West Mahé |
03 | Anse Etoile | Anse Etoile | 5.8 | 5018 | North Mahé |
04 | Au Cap | La Plaine St. André? | 8.7 | 3743 | East Mahé |
05 | Anse Royale | Anse Royale | 6.6 | 3818 | South Mahé |
06 | Baie Lazare | Baie Lazare | 12.1 | 3227 | South Mahé |
08 | Beau Vallon | Beau Vallon | 4.3 | 4142 | North Mahé |
09 | Bel Air | Bel Air | 4.7 | 3015 | Greater Victoria |
10 | Bel Ombre | Bel Ombre | 9.2 | 4163 | West Mahé |
11 | Cascade | capital | 10.4 | 4088 | East Mahé |
12 | Glacis | capital | 7.0 | 4157 | North Mahé |
13 | Grand'Anse | Grand'Anse | 15.4 | 2842 | West Mahé |
16 | English River | English River | 1.7 | 4252 | Greater Victoria |
17 | Mont Buxton | Mont Buxton | 1.2 | 3173 | Greater Victoria |
18 | Mont Fleuri | Mont Fleuri | 6.1 | 3966 | Greater Victoria |
19 | Plaisance | Plaisance | 3.4 | 3690 | Greater Victoria |
20 | Pointe La Rue | Pointe La Rue | 3.9 | 3245 | East Mahé |
21 | Port Glaud | Port Glaud | 28.7 | 2378 | West Mahé |
22 | Saint Louis | Saint Louis | 1.1 | 3436 | Greater Victoria |
23 | Takamaka | Takamaka | 14.4 | 2580 | South Mahé |
24 | Les Mamelles | Les Mamelles | 1.8 | 2537 | Greater Victoria |
25 | Roche Caïman | Roche Caïman | 1.2 | 2893 | Greater Victoria |
** | Praslin Islands | Praslin Islands | 42.2 | 7682 | |
07 | Baie Sainte Anne | Anse Volbert | 25.1 | 3626 | Inner Islands |
14 | Grand'Anse Praslin | Grand Anse | 14.4 | 4056 | Inner Islands |
** | La Digue Islands | La Digue Islands | 41.8 | 3506 | |
15 | La Digue and Inner Islands | La Passe | 41.8 | 3506 | Inner Islands |
** | Outer Islands | Victoria, Seychelles | 211.8 | 503 | |
26 | Outer Islands | (Coëtivy) | 211.8 | 503 | Outer Islands |
Seychelles | Victoria | 459.0 | 90024 |
Kinh tế
Từ khi độc lập (1976), thu nhập bình quân đầu người ở Seychelles tăng gần 7 lần so với trước. Sự phát triển nhờ vào du lịch (sử dụng 30% lực lượng lao động và cung cấp trên 70% số thu ngoại tệ mạnh) và đánh bắt cá ngừ. Trong những năm gần đây, chính phủ khuyến khích đầu tư nước ngoài để nâng cấp khách sạn và các dịch vụ khác, đồng thời tài trợ cho việc phát triển trang trại, nghề cá, công nghiệp nhỏ.Mặc dù công nghiệp có dấu hiệu khởi sắc nhưng chính phủ cần tiếp tục đầu tư khu vực kinh tế này. Từ năm 1999-2001, các vấn đề tài chính đã lên đến cực điểm, nợ nước ngoài không ngừng gia tăng. Hiện nay, chính phủ đang phải đối đầu với sự thâm hụt ngân sách, tình hình cạnh tranh quốc tế gay gắt và ra sức thúc đẩy tiến trình tư nhân hóa.[4]
GDP khoảng 408 triệu USD năm 2008. GDP bình quân đầu người: 6.700 USD. Tỷ lệ lạm phát: 49,8% năm 2009. Tỷ lệ thất nghiệp: 4%.
Thâm hụt cán cân thương mại: 343 triệu USD
Các khách hàng chính: Anh, Pháp, Italia
Các nước cung cấp chính: Ả Rập Xê Út, Đức, Pháp
Tỷ trọng của các lĩnh vực hoạt động chính trong GDP: Nông nghiệp: 2,3%, công nghiệp 25,7% và dịch vụ 71,9%.
Với quy mô nhỏ (40.000 người lao động) và có vị trí địa lý xa xôi, nền kinh tế Seychelles chủ yếu dựa vào hai lĩnh vực du lịch (với trên 120.000 khách tham quan mỗi năm và chiếm 25,4% GDP) và đánh bắt cá chiếm 7,65 GDP năm 2008. Hoạt động vận tải dầu lửa cũng chiếm phần quan trọng là lĩnh vực đứng thứ ba đem lại nguồn thu ngoại tệ (35 triệu USD thu nhập ròng mỗi năm).
Việc tái đầu tư các khoản thu nhập này và viện trợ quốc tế cũng đã cho phép Seychelles có bước phát triển mạnh mẽ trong những năm 70-80. Sau khi độc lập (1976), GDP đầu người đã tăng 8 lần trong vòng 20 năm, lên tới 8.600 USD năm 2007 biến Seychelles thành một nước có thu nhập trung bình thuộc nhóm trên. Tuy nhiên, những hậu quả của cuộc khủng hoảng quốc tế và việc thực hiện các cuộc cải cách kinh tế đã làm giảm thu nhập người dân xuống còn 6.700 USD năm 2009. Mức phát triển xã hội (chỗ ở, trường học, dịch vụ xã hội) cũng vẫn còn cao.
Vì những lý do bên trong và bên ngoài, tình hình tài chính đã xấu đi từ những năm 90. Seychelles đã bị nợ chồng chất đối với các nhà cho vay vốn công và nợ nhiều với những điều kiện không nhượng bộ của các ngân hàng tư nhân (40% nợ nước ngoài hiện nay liên quan đến thương mại). Tổng số nợ công chiếm gần 807 triệu USD.
Do Seychelles đã ở trong tình trạng không thể thanh toán vào giữa năm 2008 nên nước này đã phải bình thường hóa quan hệ tài chính với bên ngoài và một hiệp định xác nhận đã được Hội đồng quản trị IMF đưa ra vào ngày 14 tháng 11 năm 2008. Trước đó, Seychelles đã quyết định tự do chuyển đổi đồng tiền roupie của mình đã tiến hành từ ngày 1 tháng 11 năm 2008.
Tổng thống James Michel đã giữ lịch mà ông đã ấn định về các hoạt động kinh tế vào giữa nhiệm kỳ. Chương trình tham vọng này thực hiện một cách ngay lập tức phần lớn những yêu cầu của IMF (trong đó có việc từ chức của Thống đốc Ngân hàng Trung ương Seychelles vào tháng 10 năm 2008). Chương trình này đặc biệt dựa vào việc giá đồng roupie sẽ ổn định nhanh chóng xung quanh việc 20-21 roupie cho 1 euro rồi 18/19 roupie/1 euro và chi phí cho người dân sẽ được kiểm soát và có thể chịu đựng được về mặt xã hội (không hề có biến động xã hội nào cho đến nay).
Tính đến những tiến bộ đã đạt được, IMF đã chấp nhận vào tháng 11 năm 2008 việc cấp 25,9 triệu USD cho Seychelles để giúp nước này đáp ứng những nhu cầu về tài chính cho năm 2008. Mặt khác, ngày 16 tháng 4 năm 2009, Câu lạc bộ Paris đã nhất trí loại bỏ 45% nợ công của Seychelles đối với những nước thành viên của mình.
Chính sách cải cách kinh tế đã được tiếp tục với một loạt các
Nhân khẩu
Khi người Anh giành quyền kiểm soát các đảo trong chiến tranh Napoleon, họ cho phép các tầng lớp thượng lưu người Pháp giữ lại đất đai của mình. Cả những người định cư Pháp và Anh đều sử dụng nô lệ châu Phi và mặc dù chế độ nô lệ bị cấm ở Anh vào năm 1835, nhưng những công nhân người châu Phi vẫn tiếp tục bị đưa đến đây. Do đó, Người Gran'bla ("người da trắng") có nguồn gốc Pháp thống trị đời sống kinh tế và chính trị. Chính quyền Anh cũng đưa người Ấn Độ đến quần đảo này. Người Ấn Độ như một thiểu số tương tự người Trung Quốc, hiện nay được giới hạn trong một tầng lớp thương nhân.[5] Ngày nay, con cháu của người Ấn Độ, Trung Quốc, và Gran'bla là ba cộng đồng dân tộc chính, mặc dù hầu hết mọi người có nguồn gốc châu Phi, thường trộn với người châu Âu hoặc châu Á.Quần đảo Seychelles không có dân cư bản địa, người Seychellois hiện nay được tạo thành từ những cuộc di cư. Các nhóm dân tộc lớn nhất là người gốc châu Phi, người Pháp, Ấn Độ, và người gốc Trung Quốc. Tiếng Pháp và tiếng Anh là ngôn ngữ chính thức cùng với ngôn ngữ Creole mà chủ yếu dựa trên tiếng Pháp.
Theo điều tra dân số năm 2002, hầu hết người Seychellois là Kitô hữu: 82,3% là người Công giáo La Mã, 6,4% là Anh giáo, và 4,5% là của các giáo phái Kitô giáo khác. Có dân tộc thiểu số nhỏ là những người thực hành Ấn Độ giáo (2,1%) và Hồi giáo (1,1%). Các tín ngưỡng khác chiếm 1,5% dân số trong khi hơn 2,1% là người không tôn giáo hoặc không xác định một tôn giáo. Độ tuổi trung bình của người Seychellois là 32.[6]
Ghi chú
- ^ Field Listing - Population. The World Factbook. Tra cứu 3-2-2009.
- ^ “Seychelles”. IMF. Truy cập ngày 9 tháng 10 năm 2008.
- ^ The World Factbook
- ^ a ă Thế giới
- ^ Culture of Seychelles - history, people, clothing, women, beliefs, food, customs, family, social
- ^ CIA - The World Factbook -- Seychelles cập nhật 8/7/2013 bản lưu 12/6/2007
Liên kết ngoài
Wikimedia Commons có thêm thể loại hình ảnh và tài liệu về Seychelles |
|
|
|
||
---|---|---|
Thành viên | Ai Cập · Albania · Andorra · Bỉ (Cộng đồng Pháp ngữ của Bỉ) · Bénin · Bulgaria · Burkina Faso · Burundi · Campuchia · Cameroon · Canada (New Brunswick · Québec) · Cabo Verde · Cộng hòa Trung Phi · Comoros · Congo · Cộng hòa Dân chủ Congo · Côte d'Ivoire · Djibouti · Dominica · Guinea Xích đạo · Cộng hòa Macedonia Guadeloupe · Gabon · Ghana* · Guinée · Guiné-Bissau · Haiti · Hy Lạp · Cộng hòa Síp* · Lào · Luxembourg · Liban · Madagascar · Mali · Mauritania · Mauritius · Moldova · Monaco · Maroc · Niger · Pháp (bao gồm Guyane thuộc Pháp · Martinique · Saint Pierre và Miquelon) · Tchad · Romania · Rwanda · Saint Lucia · São Tomé và Príncipe · Sénégal · Seychelles · Thụy Sĩ · Togo · Tunisia · Vanuatu · Việt Nam | |
Quan sát viên | ||
* Thành viên liên minh. |
|
|
|
|
Thể loại:
- Seychelles
- Sơ khai địa lý châu Phi
- Cộng hòa
- Quần đảo châu Phi
- Quốc gia và vùng lãnh thổ nói tiếng Anh
Ghana
Bách khoa toàn thư mở WikipediaCộng hoà Ghana Republic of Ghana (tiếng Anh) Quốc kỳ Huy hiệu Khẩu hiệu Freedom and Justice
(Tiếng Anh: "Tự do và công lý")Quốc ca God Bless Our Homeland, Ghana Hành chính • Tổng thống John Dramani Mahama Ngôn ngữ chính thức Tiếng Anh Thủ đô Accra
Thành phố lớn nhất Accra Địa lý Diện tích 238.540 km² (hạng 78) Diện tích nước 3,5% % Múi giờ UTC (UTC0) Ngày thành lập Từ Anh
Ngày 6 tháng 3, 1957Dân cư Dân số ước lượng (2005) 21.029.853 người (hạng 50) Dân số (2005) 21.029.853 người Mật độ 87 người/km² (hạng 83) Kinh tế GDP (PPP) Tổng số: 54,33 triệu USD HDI (2003) 0,520 trung bình (hạng 138) Đơn vị tiền tệ Cedi ( GHC
)Thông tin khác Tên miền Internet .gh Đạo Cơ Đốc 64,1%, tín ngưỡng địa phương 17,6%, đạo hồi 14,4%, Tôn giáo khác 3,9%
Người dân Ghana cho rằng lịch sử của họ bắt nguồn từ Vương quốc Ghana cổ xưa tồn tại từ thế kỉ 8 đến thế kỉ 13 tại phía tây châu Phi, nhưng đến khi vương quốc này sụp đổ thì cư dân của nó đã di cư xuống phía nam và lập nên những tiểu quốc Fante và đặc biệt là Vương quốc Ashante hùng mạnh. Những mối liên hệ về thương mại với người Bồ Đào Nha được thiết lập từ thế kỉ 15 và đến năm 1874, Ghana trở thành một thuộc địa của Liên Hiệp Anh với tên gọi Bờ Biển Vàng (Gold Coast). Năm 1957, Ghana trở thành thuộc địa đầu tiên ở vùng Châu Phi hạ Sahara giành được độc lập.
Bờ Biển Vàng giành độc lập từ tay Vương quốc Anh vào năm 1957 và trở thành quốc gia độc lập đầu tiên ở khu vực hạ Sahara.[2][3][4] Ghana được chọn làm tên mới cho quốc gia này để ghi nhớ Đế chế Ghana, đã từng trải dài khắp cả khu vực Tây Phi. Ghana là thành viên của Khu vực hòa bình và hợp tác Nam Đại Tây Dương, Khối thịnh vượng chung, Cộng đồng Kinh tế Tây Phi, Liên minh châu Phi và là thành viên liên kết của Cộng đồng Pháp ngữ. Ghana là nước có sản lượng cacao đứng thứ 2 thế giới. Hồ nhân tạo lớn nhất thế giới về diện tích bề mặt Volta nằm ở quốc gia này.[5]
Mục lục
Từ nguyên học
Ghana có nghĩa là "chiến binh của nhà vua" (ngự lâm quân) gắn liền với những vị vua thời trung đại của đế chế Ghana Tây Phi. Trước khi quốc gia Bờ Biển Vàng (Gold Coast) sáp nhập với Togoland thuộc Anh (British Togoland) vào ngày 6 tháng 3 năm 1957, Ghana trở thành tên pháp lý của quốc gia này. Tuy nhiên, sau khi tuyên bố hoàn toàn độc lập với vương quốc Anh, Ghana đã đổi tên thành Cộng hòa Ghana (Republic of Ghana).
Lịch sử
Ghana là một nước có lịch sử lâu đời. Từ thế kỷ 4, đã ra đời Vương quốc Sarakolle rộng lớn, chạy dài từ bờ biển Đại Tây Dương đến sông Niger. Thế kỷ 11, Vương quốc Ghana trở nên cực thịnh với nền nông nghiệp, thủ công, buôn bán phát triển.
Từ năm 1471, người Bồ Đào Nha thám hiểm và khám phá ra vùng bờ biển mà sau này có tên gọi là Gold Coast (Côte de l'Or, Bờ biển Vàng). Họ xây dựng pháo đài Elmina và giữ độc quyền buôn bán vàng trong khoảng một thế kỉ rưỡi. Sau khi loại trừ người Bồ Đào Nha, người Hà Lan, người Anh và một số thương gia châu Âu phân chia quyền kiểm soát và biến vùng này thành trung tâm mua bán nô lệ.
Từ năm 1826, người Anh thực hiện một loạt các chiến dịch chống lại người bản xứ Ashanti ở sâu bên trong nội địa. Vùng duyên hải trở thành thuộc địa Anh (1874). Năm 1901, người Ashanti đầu hàng người Anh và lãnh thổ phía bắc trở thành xứ bảo hộ. Vùng Togoland lân cận, thuộc địa cũ của Đức, thuộc quyền ủy trị của Anh từ năm 1922.
Năm 1957, Gold Coast là thuộc địa đầu tiên ở châu Phi giành được độc lập và đổi tên thành Ghana. Nền cộng hòa ra đời sau khi hiến pháp được thông qua (năm 1960). Chủ nghĩa chuyên quyền của Tổng thống Kwame Nkrumah và sự suy thoái kinh tế trong nước dẫn đến cuộc đảo chính quân sự năm 1966.
Từ đó, đất nước rơi vào tình trạng bất ổn chính trị cho đến khi Jerry J. Rawlings lên nắm quyền năm 1981. Rawlings tiến hành khôi phục kinh tế và dân chủ. Được bầu làm Tổng thống năm 1992, Rawlings công bố hiến pháp mới và chấm dứt chế độ quân sự. Ứng cử viên đối lập John Kufuor lên cầm quyền sau khi giành thắng lợi trong cuộc tuyển cử Tổng thống năm 2000.
Chính trị
Chính phủ
Nền dân chủ nghị viện của Ghana được xác lập vào năm 1957, xen kẽ bởi các chính phủ quân sự và dân sự. Tháng 1 năm 1993, chính quyền quân đội đã dọn đường cho sự ra đời của nền cộng hòa thứ 4 sau cuộc bầu cử nghị viện và tổng thống vào cuối năm 1992. Hiến pháp năm 1992 thiết lập cơ cấu quyền lực bao gồm tổng thống, nghị viện, nội các, hội đồng nhà nước và một hệ thống toàn án độc lập. Chính phủ được bầu thông qua phổ thông đầu phiếu, tuy nhiện cơ quan lập pháp của Ghana được cơ cấu không theo tỉ lệ, một số tỉnh có dân số ít lại có số đại biểu nhiều hơn các tỉnh có dân số đồng hơn.[8]
Hệ thống tòa án
Hệ thống pháp luật dựa trên thông luật của Anh, tiền lệ án, và hiến pháp năm 1992. Hệ thống cấp bậc toà án bao gồm Toà án tối cao Ghana, Toà án cấp phúc thẩm, và Tòa án tư pháp. Các thiết chế tư pháp ngoài toà án là các Toà án công cộng. Từ khi giành độc lập cho đến nền cộng hòa thứ 4, các Toà án đã và đang duy trì được tính độc lập tương đối.[8]
Chính trị
Các đảng phái chính trị được hoạt động hợp pháp từ giữa năm 1992 sau 10 năm bị gián đoạn. Nền cộng hòa thứ 4 xuất hiện rất nhiều đảng phái khác nhau, bao gồm Đảng Đại hội quốc gia dân chủ (đã giành chiến thắng trong cuộc bầu cử tổng thống và nghị viện vào các năm 1992, 1996 và 2008) và Đảng Những người ái quốc mới, đảng đối lập đã giành chiến thắng trong các năm 2000 và 2004; Đảng Hội nghị quốc gia nhân dân và Đảng Hội nghị nhân dân, do Kwame Nkrumah sáng lập.[8]
Ngoại giao
Từ khi giành độc lập, Ghana luôn ủng hộ xu hướng không liên kết và chủ nghĩa Pan-Africanism gắn liền với tên tuổi của vị tổng thống đầu tiên, TS. Kwame Nkrumah. Ghana ưu tiên các quan hệ hợp tác quốc tế và khu vực về chính trị cũng như kinh tế, đồng thời cũng là một thành viên tích cực của Liên hợp quốc và Liên minh Châu Phi.[cần dẫn nguồn]
Ghana thực hiện đường lối đối ngoại đa dạng hoá, đa phương hoá, coi trọng quan hệ với Mỹ, Tây Âu, Nhật Bản để tranh thủ vốn, kỹ thuật. Ghana nhận được sự trợ giúp của Mỹ trong khuôn khổ chương trình "đào tạo các chuyên gia quân sự nước ngoài" (IMET), chương trình "trợ giúp trong việc huấn luyện tiến hành các hoạt động chống khủng bố tại châu Phi" (ACOTA).
Nhiều chính trị gia và nhà ngoại giao Ghana đang làm việc tại các tổ chức quốc tế, trong số đó phải kể đến cựu Tổng thư ký Liên hợp quốc Kofi Annan, thẩm phán Tòa án hình sự quốc tế Akua Kuenyehia và cựu tổng thống Jerry Rawlings, đang là chủ tịch của Cộng đồng kinh tế Tây Phi.[8]
Ghana hiện là thành viên tích cực của nhiều tổ chức khu vực và quốc tế như: WTO, Phong trào không liên kết (NAM), Liên minh châu Phi (AU), Cộng đồng Kinh tế Tây Phi (ECOWAS).
Kinh tế
Đập thủy điện Akosombo được xây dựng vào năm 1965 trên sông Volta cung cấp điện năng cho cả Ghana và các nước láng giềng.
Năm 2008, lực lượng lao động của Ghana có khoảng 11,5 triệu người.[15] Kinh tế của Ghana chủ yếu vẫn dựa vào nông nghiệp, chiếm tới 37,3% GDP và cung cấp việc làm cho 56% số người lao động,[15] phần lớn trong số đó là những người sản xuất nhỏ. Tỉ trọng công nghiệp của Ghana vào năm 2007 chiếm 7,9% GDP.[16]
Những chính sách không mấy hiệu quả của chính quyền quân sự cũ và các cam kết giữ gìn hòa bình khu vực đã dẫn đến tình trạng lạm phát thâm hụt tài chính, sự sụt giá của đồng Cedi cũng như sự không hài lòng của công chúng với những biện pháp kém cỏi của chính phủ Ghana. Mặc dầu vậy, Ghana vẫn là một trong những quốc gia ổn định về kinh tế nhất châu lục Đen.
Tháng 7 năm 2007, Ngân hàng nhà nước Ghana quyết định thay đổi đồng tiền đang sử dụng Cedi (¢) sang đồng Ghana Cedi (GH¢) để tái kiểm soát tiền tệ trong nước. Tỉ giá của thu đổi là 1 Ghana Cedi cho 10,000 Cedi (cũ). Ngân hàng nhà nước Ghana đã tiến hành các chiến dịch truyền thông mạnh mẽ nhằm thông báo cho người dân Ghana về chính sách này.
Đồng tiền mới, Ghana Cedi, đã dần đi vào ổn định và đến năm 2009 trung bình $1 USD =Gh¢ 1.4 [15]. Thuế giá trị gia tăng (VAT) cũng được áp dụng ở Ghana bắt đầu từ năm 1989 với một mức tỉ lệ áp dụng chung cho tất cả (các loại hàng hóa hoặc cá nhân). Bắt đầu từ tháng 9 năm 2007, chế độ thuế được chia thành nhiều mức tỉ lệ khác nhau.
Năm 1998, mức thuế VAT ở Ghana là 10% và được điều chỉnh thành 12.5% vào năm 2000. Tuy nhiên với việc thông qua luật 734 năm 2007, mô hình VAT 3% đối với khu vực bán lẻ bắt đầu được triển khai. Mô hình này chỉ cho phép người bán lẻ các mặt hàng chịu thuế (được quy định theo luật 546) tính thêm tối đa 3% giá trị của mặt hàng được bán so với kê khai. Mục đích của luật này nhằm đơn giản hóa hệ thống thuế và gia tăng sự ủng hộ của người dân. [cần dẫn nguồn]
Từ giữa tháng 12 năm 2010, ngành sản xuất dầu khí tại Ghana đã bắt đầu hoạt động và được kỳ vọng sẽ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế (mỏ dầu ngoài khơi Jubilee có trữ lượng lên tới 3 tỷ thùng).[17]
Vùng và khu hành chính
- Ashanti, thủ phủ Kumasi
- Brong Ahafo, thủ phủ Sunyani
- Central, thủ phủ Cape Coast
- Eastern, thủ phủ Koforidua
- Greater Accra, thủ phủ Accra
- Northern, thủ phủ Tamale
- Upper East, thủ phủ Bolgatanga
- Upper West, thủ phủ Wa
- Volta, thủ phủ Ho
- Western, thủ phủ Sekondi-Takoradi
Dân số của các thành phố lớn
Thành phố Dân số Accra 3.963.264 Kumasi 2.604.909 Tamale 390,730 Takoradi 260,651 Tema 229,106 Teshie 154,513 Sekondi 153,900 Cape Coast 200,204 Obuasi 147,613 Dunkwa-On-Offin 108,482 Địa lý
Ghana được bao phủ bởi những đồng bằng, đồi núi thấp và một số sông ngòi. Ghana có thể được chia thành 5 khu vực địa hình khác nhau. Đường bờ biển thấp với các bãi cát xoay lưng về phía đồng bằng và những rừng cây nhỏ, đồng thời bị chia cắt bởi các sông và suối. Trong khi đó, phía bắc của Ghana nổi bật bởi các cao nguyên. Tây Nam và Nam Ghana có được núi rừng che phủ, trong đó có vùng núi Ashanti, cao nguyên Kwahu và Akuapim-Togo chạy dọc sườn đông của đất nước.
Lưu vực sông Volta chiếm một diện tích lớn khu vực trung tâm của Ghana. Điểm cao nhất của Ghana là đỉnh núi Afadjato.
Ghana có khí hậu nhiệt đới. Dải bờ biển phía đông ấm và khô; khu vực tây nam nóng và ẩm ướt, trong khi phía bắc lại nóng và khô. Hồ Volta, hồ nhân tạo lớn nhất thế giới, bao phủ một tỉ lệ không nhỏ phần đất phía đông của Ghana, là nguồn nước chính cho nhiều con sông khác như Oti hoặc Afram.
Khí hậu ở Ghana chia thành 2 mùa chính: mùa mưa và mùa khô. phía bắc Ghana mùa mưa bắt đầu từ tháng 3 cho đến tháng 11, trong khi ở phía nam, bao gồm cả thủ đô Accra, mùa mưa thường bắt đầu từ tháng 4 cho đến trung tuần tháng 11. phía nam của Ghana bao gồm những rừng cây nhiệt đới và rụng lá lớn. Ngoài ra khu vực này còn có những rừng cọ dầu và ngập mặn khác.
Dân cư
Dân số Ghana vào khoảng 24 triệu người bao gồm hơn 100 nhóm dân tộc khác nhau. Tuy vậy, ở Ghana không có những xung đột dân tộc gay gắt có thể dẫn đến nội chiến như ở nhiều nước châu Phi khác.[19] Ngôn ngữ chính thức ở Ghana là tiếng Anh tuy nhiên hầu hết người dân Ghana đều biết ít nhất một thổ ngữ.
Nhóm dân tộc chính ở Ghana là người Akan, trong đó có người Fante, Akyem, Ashanti, Kwahu, Akuapem, Nzema, Bono, Akwamu, Ahanta and others) 49.3%, Mole-Dagbon 15.2%, Ewe 11.7%, Ga-Dangme (comprising of the Ga, Adangbe, Ada, Krobo and others) 7.3%, Guan 4%, Gurma 3.6%, Gurunsi 2.6%, Mande-Busanga 1%, other tribes 1.4%, other (Hausa, Zabarema, Fulani) 1.8% (2000 census).
Theo CIA World Factbook, các nhóm tôn giáo ở Ghana bao gồm: Thiên chúa giáo 68.8%, Hồi giáo 15.9%, tín ngưỡng truyền thống của người Phi 8.5%[20][21].
Ngôn ngữ
Ở Ghana có 47 thổ ngữ. Tiếng Anh là ngôn ngữ chính thức của Ghana trong thương mại cũng như hành chính. Tiếng Anh cũng là ngôn ngữ tiêu chuẩn để giảng dạy ở các cấp giáo dục. Ngôn ngữ bản địa của Ghana được chia thành hai nhóm nhỏ thuộc nhóm ngôn ngữ Niger-Congo.
Văn hóa và con người
Ghana là một quốc gia đa dạng về thành phần dân tộc. Do đó, văn hóa của Ghana là sự pha trộn của tất cả các nền văn hóa của mọi nhóm dân tộc của quốc gia này: người Ashanti, người Fante, người Kwahu, người Ga, người Ewe, người Mamprusi, người Dagomba và các nhóm dân tộc thiểu số khác. Sự đa dạng văn hóa này thể hiện rất rõ trong cách ăn, cách mặc và nghệ thuật của người dân Ghana. Một số nghi lễ đặc trưng của văn hóa Ghana cho đến hiện tại vẫn còn rất phổ biến ở quốc gia này như lễ sinh con, lễ trưởng thành, kết hôn và ma chay.
Thể thao
Ở Ghana, bóng đá là môn thể thao phổ biến và được yêu thích nhất. Đội tuyển bóng đá quốc gia Ghana thường được gọi là "Những ngôi sao đen". Ngày 16 tháng 10 năm 2009, đội tuyển bóng đá U-20 Ghana đã trở thành đội tuyển quốc gia đầu tiên của châu Phi đoạt ngôi vô địch U-20 thế giới sau chiến thắng ở loạt sút luân lưu 11m với Brasil.
Ghana cũng là quốc gia đầu tiên của châu Phi giành chiến thắng ở vòng chung kết bóng đá thế giới World Cup 2010 diễn ra tại chính châu lục này sau khi đánh bại Serbia với tỉ số 1-0. Ghana cũng chính là đội tuyển quốc gia châu Phi duy nhất lọt vòng vòng knock-out của giải đấu này và đội bóng thứ 3 châu Phi góp mặt tại vòng tứ kết World Cup.
Tôn giáo
Kitô giáo là tôn giáo lớn nhất của đất nước, và chiếm ưu thế ở phía nam Ghana và các bộ phận của miền Bắc Ghana, trong khi Hồi giáo phổ biến rộng rãi hơn trong các bộ phận của khu vực phía Bắc. Kitô giáo được theo bởi 71,2% dân số, theo điều tra dân số năm 2010.[22] Kitô giáo đã được giới thiệu bởi người châu Âu trên bờ biển của Ghana trong thế kỷ 14, và dần dần người dân nước này đã tin theo tôn giáo mới.[23]
Hồi giáo là đức tin của 17,6% dân số.[22] Nó được truyền bá đến phía Bắc Ghana trong thế kỷ 15.[24] Kitô giáo và Hồi giáo ở Ghana chung sống hòa bình với nhau.
Điều tra dân số năm 2010 cho biết 5,3% dân số Ghana tuyên bố không có tôn giáo, tôn giáo truyền thống được thực hiện bởi 5,2% dân số, theo điều tra dân số năm 2010. Ấn Độ giáo cũng có mặt ở quốc gia này với một Tu viện do giáo sĩ Swami Ghananand Saraswati điều hành.[25] Đạo giáo và Phật giáo cũng đã xuất hiện ở Ghana do người Trung Quốc mang đến.[26]
Giáo dục
Xếp hạng quốc tế
Tổ chức Khảo sát về Xếp hạng Institute for Economics and Peace [3] Chỉ số chung về hòa bình (Global Peace Index)[27] 52 trên 144 Heritage Foundation/The Wall Street Journal Chỉ số tự do kinh tế (Index of Economic Freedom) 91 trên 157[28] Ký giả không biên giới Chỉ số tự do báo chí 31 trên 173[29] Transparency International Chỉ số nhận thức tham nhũng (Corruption Perception Index) 69 trên 179[30] Chương trình phát triển của Liên hợp quốc Chỉ số phát triển con người (Human Development Index) 135 trên 177[31] Vision of Humanity Chỉ số chung về hòa bình (Global Peace Index) 40 trên 121[32] Diễn đàn kinh tế thế giới Báo cáo cạnh tranh toàn cầu (Global Competitiveness Report) không được xếp hạng[33] Ghi chú
- ^ Trần, Văn Bình; Phan Doãn Nam (2001). Giáo trình Lịch sử quan hệ quốc tế. Hà Nội: Học viện quan hệ quốc tế. tr. 265.
Tham khảo
- ^ Thông tin cơ bản về các nước, khu vực và quan hệ với Việt Nam, Bộ Ngoại Giao Việt Nam.
- ^ Peter N. Stearns and William Leonard Langer. The Encyclopedia of World History: Ancient, Medieval, and Modern, Chronologically Arranged, 2001. Pages 813, 1050.
- ^ “Ghana - MSN Encarta”. Bản gốc lưu trữ ngày 31 tháng 10 năm 2009., encarta.msn.com
- ^ “NEWS.BBC.co.uk”. NEWS.BBC.co.uk. 9 tháng 2 năm 2010. Truy cập ngày 26 tháng 6 năm 2010.
- ^ “Geography.about.com”. Geography.about.com. Truy cập ngày 26 tháng 6 năm 2010.
- ^ “Foreignpolicy.com” (PDF). Truy cập ngày 26 tháng 6 năm 2010.
- ^ “Welcome to the Mo Ibrahim Foundation”. Moibrahimfoundation.org. Truy cập ngày 26 tháng 6 năm 2010.
- ^ a ă â b "Government and Politics". A Country Study: Ghana (La Verle Berry, editor). Library of Congress Federal Research Division (tháng 11 năm 1994). This article incorporates text from this source, which is in the public domain. Lcweb2.loc.gov
- ^ [1] Human Development Indices, Table 3: Human and income poverty, p. 35. Truy cập 1 tháng 6 năm 2009
- ^ “Obama's Ghana trip sends message across Africa”. CNN. 10 tháng 7 năm 2009.
- ^ “Aluworks.com”. Aluworks.com. Truy cập ngày 26 tháng 6 năm 2010.
- ^ The World Factbook
- ^ Ghana leader: Oil reserves at 3B barrels - Yahoo! News
- ^ “Kosmos Makes Second Oil Discovery Offshore Ghana”. Rigzone.com. 25 tháng 2 năm 2008. Truy cập ngày 26 tháng 6 năm 2010.
- ^ a ă â [2][liên kết hỏng]
- ^ “Ghana - MSN Encarta”. Bản gốc lưu trữ ngày 31 tháng 10 năm 2009., encarta.msn.com
- ^ Tài Liệu Cơ Bản Về Ghana Và Quan Hệ Với Việt Nam
- ^ Extreme points of Earth
- ^ “Ghana - MSN Encarta”. Bản gốc lưu trữ ngày 31 tháng 10 năm 2009.
- ^ “International Religious Freedom Report 2007”. U.S. Department of State. Truy cập 5 tháng 12 năm 2009.
- ^ “CIA - The World Factbook - Ghana”. U.S. CIA. Truy cập 5 tháng 12 năm 2009.
- ^ a ă 2010 Population and Housing Census
- ^ Ghana Religion – OverLandingAfrica. overlandingafrica.com. Retrieved 24 February 2010.
- ^ "International Religious Freedom Report 2007". U.S. Department of State. Retrieved 5 December 2009.
- ^ Trisha Gupta (15 August 2009). "Culture & Society – The Swami of Accra". tehelka.com. Tehelka. Retrieved 13 June 2012.
- ^ ^ Rajesh Joshi (29 June 2010). "Ghana's unique African-Hindu temple". bbc.co.uk. BBC News. Retrieved 13 June 2012.
- ^ “Vision of Humanity”. Vision of Humanity. Truy cập ngày 4 tháng 2 năm 2010.
- ^ “Heritage Foundation - 2007 Index of Economic Freedom”. Official Website for the Index. The Wall Street Journal and The Heritage Foundation. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 2 năm 2008. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2007. “The highest form of economic freedom provides an absolute right of property ownership, fully realised freedoms of movement for labour, capital, and goods, and an absolute absence of coercion or constraint of economic liberty beyond the extent necessary for citizens to protect and maintain liberty itself. In other words, individuals are free to work, produce, consume, and invest in any way they please, and that freedom is both protected by the state and unconstrained by the state.”
- ^ “Reporters Without Borders - Worldwide Press Freedom Index 2008”. Annual Worldwide Press Freedom Index. Reporters sans frontières. Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2009.
- ^ “Corruption Perception Index 2007”. Official Website. Transparency International e.V. Truy cập ngày 11 tháng 12 năm 2007.
- ^ “Human Development Report 2006” (PDF). Annual Report. United Nations Development Programme. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 10 năm 2007. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2007.
- ^ “Global Peace Index Rankings”. Global Peace and Sustainability. Economist Intelligence Unit, Centre for Peace and Conflict Studies, University of Sydney, Australia and some Peace Institutes and Think Tanks. Truy cập ngày 30 tháng 5 năm 2007.
- ^ “Table 1: Global Competitiveness Index rankings and 2005 comparisons” (PDF). World Economic Forum - Global Competitiveness Report 2006 - 2007. World Economic Forum. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2007.
Liên kết ngoài
Wikimedia Commons có thêm thể loại hình ảnh và tài liệu về Ghana Tìm hiểu thêm về Ghana ở các dự án khác của Wikipedia: Định nghĩa ở Wiktionary Nội dung đa phương tiện ở Commons Tư liệu học tập ở Wikiversity Tin tức ở Wikinews Câu nói nổi tiếng ở Wikiquote Văn bản ở Wikisource Sách ở Wikibooks - Business Anti-Corruption Portal Ghana country profile
- Chính phủ
- Ghana official website
- The Parliament of Ghana official site
- National Commission on Culture official site
- Chief of State and Cabinet Members
- Thông tin chung
- Country Profile from BBC News
- Ghana from Encyclopaedia Britannica
- Ghana from UCB Libraries GovPubs
- Ghana tại Dự án thư viện mở (trang đề nghị)
- Wikimedia Atlas của Ghana, có một số bản đồ liên quan đến Ghana.
- The African Activist Archive Project website has photographs of the All Africa People's Conference held in Accra, Ghana, 5–13 December 1958 including Kwame Nkrumah, Prime Minister of Ghana, addressing the conference, the American Committee on Africa delegation meeting with Nkrumah, and of Patrick Duncan and Alfred Hutchinson of South Africa at the conference.
- Key Development Forecasts for Ghana from International Futures
- Thể thao
http://www.youtube.com/user/hoangkimvietnam
Trở về trang chính
Hoàng Kim, hoangkim, hoangkimvietnam, Ngọc Phương Nam, Chào ngày mới Thung dung, Dạy và học, Cây Lương thực, Tin Nông nghiệp Việt Nam, Food Crops, Cassava in Vietnam, Khát khao xanh, Dayvahoc, Học mỗi ngày, Danh nhân Việt , Food Crops News, Điểm chính, CNM365, Kim LinkedIn, KimTwitter, KimFaceBook Đọc lại và suy ngẫm, Việt Nam tổ quốc tôi, Tình yêu cuộc sống, Thơ cho con
No comments:
Post a Comment