Lãnh thổ Hawaii
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Lãnh thổ Hawaiʻi | |||||
Lãnh thổ hợp nhất có tổ chức của Hoa Kỳ | |||||
|
|||||
Cờ |
|||||
Lãnh thổ Hawaiʻi | |||||
Thủ phủ | Honolulu | ||||
Chính quyền | lãnh thổ hợp nhất có tổ chức | ||||
Thống đốc | |||||
- | 1900-1903 | Sanford B. Dole | |||
- | 1957-1959 | William F. Quinn | |||
Thống đốc quân sự | |||||
- | 1941-1944 | Trung tướng T. H. Greene | |||
Lịch sử | |||||
- | Vương triều bị lật đổ | 17 tháng 1 năm 1893 | |||
- | bị Hoa Kỳ sáp nhập | 4 tháng 7 1898 | |||
- | Đạo luật tổ chức | 1900 | |||
- | Thiết quân luật | 1941-1944 | |||
- | Trở thành tiểu bang | 21 tháng 8 1959 |
Mục lục
Chính phủ lâm thời
Sau khi Nữ hoàng Liliʻuokalani bị lật đổ năm 1893, Ủy ban an ninh do Lorrin A. Thurston lãnh đạo đã thiết lập Chính phủ Lâm thời Hawaiʻi để cai trị quần đảo trong thời gian chuyển tiếp được trông đợi sáp nhập vào Hoa Kỳ. Thurston năng nổ vận động Quốc hội Hoa Kỳ trong lúc đại diện của hoàng gia là Công chúa Victoria Kaʻiulani đang ở Washington, D.C. cho rằng việc lật đổ chính phủ của cô bà là bất hợp pháp.Trước tiên, các bước tiến hành sáp nhập bắt đầu khi Tổng thống Hoa Kỳ Benjamin Harrison xuống chức và Tổng thống Grover Cleveland lên nhận chức. Cleveland là một người chống chủ nghĩa đế quốc và mạnh mẽ chống đối việc sáp nhập. Ông rút lại hiệp ước sáp nhập không cho đem ra bàn luận, tiến hành một cuộc điều tra và đề nghị tái lập nền quân chủ của Nữ hoàng Liliʻuokalani. Cuộc điều tra sâu rộng hơn của Quốc hội Hoa Kỳ đã cho ra đời bản Báo cáo Morgan. Báo cáo này đã xác định rằng những hành động của quân đội Hoa Kỳ là hoàn toàn trung lập và bác bỏ những lời tố cáo rằng Hoa Kỳ đã nhúng tay vào việc lật đổ vương triều Hawaii.
Chính phủ lâm thời họp lại và thảo ra một bản hiến pháp tại Honolulu để thiết lập Cộng hòa Hawaiʻi. Thurston được yêu cầu làm tổng thống đầu tiên của quốc gia nhưng ông lo lắng rằng tính tình của ông có thể làm phương hại đến mục tiêu sáp nhập vào Hoa Kỳ. Cựu phẩm phán tối cao pháp viện thuộc thành phần bảo thủ hơn và là bạn của Nữ hoàng Liliʻuokalani tên là Sanford B. Dole được bầu làm tổng thống đầu tiên và duy nhất của chế độ mới.
Vận mệnh hiển nhiên
Dưới các chính sách của McKinley, người Mỹ được đưa đi chiến đấu chống Tây Ban Nha ở Cuba, Philippines và Puerto Rico năm 1898. Vị trí chiến lược của Hawaiʻi đối với cuộc chiến tại Philippines đã khiến nó đặc biệt quan trọng đối với những lợi ích của Hoa Kỳ.
Tháng tư năm 1917, Nữ hoàng Liliʻuokalani tự hào cho bay lá cờ của Hoa Kỳ trên tư dinh của bà tại Washington Place. Bà nói rằng thật vinh dự cho người Hawaii đã mất mạng trong lúc phục vụ như binh sĩ Hoa Kỳ trong Đệ nhất Thế chiến, và bà cuối cùng chấp nhận việc bị lật đổ và việc Hawaii bị sáp nhập vào Hoa Kỳ[1]. Lòng yêu nước mới tìm thấy của bà đối với Hoa Kỳ được cảm hóa vì cái chết của 5 thủy thủ người Hawaii[2].
Giải pháp Newlands năm 1898
Ngày 7 tháng 7 năm 1898, McKinley ký Giải pháp Newlands (được đặt tên theo tên của Dân biểu Frances Newlands) chính thức sáp nhập Hawaiʻi vào Hoa Kỳ. Một buổi lễ chính thức được tổ chức tại bậc thềm của Dinh ʻIolani nơi cờ Hawaii bị hạ xuống và cờ Hoa Kỳ được kéo lên. Dole được bổ nhiệm làm thống đốc lãnh thổ đầu tiên của Hawaiʻi.Giải pháp Newlands thiết lập một ủy ban gồm năm thành viên để nghiên cứu luật nào cần thiết cho Hawaiʻi. Ủy ban gồm có: Thống đốc Lãnh thổ Dole (R-HI), các Thượng nghị sĩ Hoa Kỳ Shelby M. Cullom (R-IL) và John T. Morgan (R-AL), Dân biểu Hoa Kỳ Robert R. Hitt (R-IL) và Cựu chánh thẩm phán Hawaiʻi và sau đó là Thống đốc Lãnh thổ Walter F. Frear (R-TH). Bản báo cáo của ủy ban được trình lên Quốc hội Hoa Kỳ để bàn bạc mà kéo dài hơn một năm. Quốc hội Hoa Kỳ đã đưa ra nhiều vấn đề phản đối với lý do rằng thiết lập một chính quyền dân cử lãnh thổ tại Hawaiʻi có thể dẫn đến việc cho phép lãnh thổ này thành một tiểu bang với một đa số người không phải là người da trắng.
Đạo luật tổ chức
Quốc hội Hoa Kỳ sau cùng đồng ý cho phép Hawaiʻi có một chính quyền dân cử của chính nó và McKinley ký thành luật. Đó là đạo luật cho phép một chính quyền cho Lãnh thổ Hawaiʻi, cũng còn được biết với cái tên Đạo luật Tổ chức Hawaii 1900.Đạo luật Tổ chức thiết lập Văn phòng của Thống đốc Lãnh thổ, một văn phòng được đương kim tổng thống Hoa Kỳ bổ nhiệm và thường thường là từ đảng chính trị của tổng thống. Thống đốc lãnh thổ phải phục vụ sao cho tổng thống hài lòng và có thể bị thay thế bất cứ lúc nào.
Các thống đốc lãnh thổ
- Sanford B. Dole, Đảng Cộng hòa, (1900-1903)
- George R. Carter, Đảng Cộng hòa, (1903-1907)
- Walter F. Frear, Đảng Cộng hòa, (1907-1913)
- Lucius E. Pinkham, Đảng Dân chủ, (1913-1918)
- Charles J. McCarthy, Đảng Dân chủ, (1918-1921)
- Wallace R. Farrington, Đảng Cộng hòa, (1921-1929)
- Lawrence M. Judd, Đảng Cộng hòa, (1929-1934)
- Joseph B. Poindexter, Đảng Dân chủ, (1934-1942)
- Ingram M. Stainback, Đảng Dân chủ, (1942-1951)
- Oren E. Long, Đảng Dân chủ, (1951-1953)
- Samuel Wilder King, Đảng Cộng hòa, (1953-1957)
- William F. Quinn, Đảng Cộng hòa (1957-1959)
Du lịch khởi sự
Công nghiệp du lịch của Hawaiʻi khởi sự vào năm 1882 khi Công ty hàng hải Matson, do Thuyền trưởng William Matson thành lập, bắt đầu chạy các chuyến tàu chở hàng hóa giữa San Francisco và Hawaiʻi. Các chuyến đi lại của ông đã khuyến khích ông mua các tàu khách chạy hơi nước để mang du khách từ đất liền Hoa Kỳ đến nghỉ ngơi vui chơi tại Hawaiʻi.Đội tàu của Matson gồm có S.S. Wilhelmina là đối thủ của các tàu chở khách tốt nhất phục vụ các tuyến đường biển Đại Tây Dương. Với việc bùng nổ sự thích thú được nghỉ ngơi vui chơi tại Hawaii của các gia đình người Mỹ giàu có vào cuối thập niên 1920, Matson thêm các tàu S.S. Mariposa, S.S. Monterey và S.S. Lurline vào đội tàu của mình.
Công ty hàng hải Matson mở hai khách sạn có dịch vụ vui chơi tại Honolulu gần khu hoàng gia. Khách sạn đầu tiên trên Waikīkī là Khách sạn Moana mở vào năm 1901. Vì là khách sạn đầu tiên trên Waikīkī nên Khách sạn Moana có biệt danh là "Đệ nhất Phu nhân Waikīkī". Khách sạn này được sự chú ý của quốc tế vào năm 1920 khi Edward, Thái tử Xứ Wales và là Vua tương lai Edward VIII của Vương quốc Anh nghĩ tại đây.
Năm 1927, Khách sạn Hoàng gia Hawaii, được gọi không chính thức là "Pink Palace of the Pacific", mở cửa. Nó là chỗ nghỉ ngơi ở Hawaiʻi mà Tổng thống Hoa Kỳ Franklin D. Roosevelt thích nhất trong suốt Đệ nhị Thế chiến.
Căn cứ quân sự
Với việc sáp nhập, Hoa Kỳ thấy Hawaiʻi như là tài sản quân sự chiến lược tốt nhất. McKinley và người kế nhiệm là Tổng thống Theodore Roosevelt mở rộng sự hiện diện quân sự của Hoa Kỳ tại Hawaiʻi và thiết lập một số căn cứ chính, một số còn được sử dụng ngày nay. Vào khoảng 1906, toàn bộ đảo Oʻahu được phòng thủ kiên cố quanh duyên hải bằng một "vòng đai thép" gồm rất nhiều ụ súng đặt trên các vách thép duyên hải. Một trong số ít các ụ súng còn lại được xây xong vào năm 1911 là Ụ súng Randolph. Ngày nay nó là Viện bảo tàng Quân đội Hawaiʻi.Danh sách các căn cứ trên lãnh thổ:
- Trại McKinley (Khoảng năm 1898)
- Đồn Kamehameha (Khoảng năm 1907)
- Căn cứ Hải quân Trân Châu Cảng (Khoảng năm 1908)
- Đồn Shafter (Khoảng năm 1907)
- Đồn Ruger (Khoảng năm 1909)
- Doanh trại Schofield (Khoảng năm 1909)
- Ụ súng Closson (Khoảng năm 1911)
- Ụ súng Dudley (Khoảng năm 1911)
- Ụ súng Randolph (Khoảng năm 1911)
- Đồn DeRussy (Khoảng năm 1915)
- Sân bay Quân đội Wheeler (Khoảng năm 1922)
Công nghiệp phát triển và Big Five
Là một lãnh thổ của Hoa Kỳ, các đồn điền trồng mía được rót thêm tiền đầu tư. Nhờ Hoa Kỳ miễn thuế nhập khẩu đối với các nhà trồng mía nên họ có nhiều tiền hơn dùng để mua nông cụ máy móc, đất và mướn thêm nhân công. Tiền vốn tăng làm cho sản xuất gia tăng. Năm tập đoàn thời-vương quốc thu lợi nhờ vào việc Hawaii sáp nhập vào Hoa Kỳ đã ngay lập tức trở thành các đại công ty nhiều triệu đô la: Castle & Cooke, Alexander & Baldwin, C. Brewer & Co., Amfac, Theo H. Davies & Co. Tổng cộng có năm công ty kiểm soát nền kinh tế Hawaii được biết như là "Big Five."Các công ty nhóm Big Five cùng nhau trở thành một lực lượng chi phối duy nhất tại Hawaiʻi. Các công ty không cạnh tranh với nhau nhưng hợp tác để giữ giá hàng hóa và dịch vụ của họ cao. Lợi nhuận của họ tăng cao hơn và những người điều hành hành chánh của Big Five đều có mặt trong các ban hội đồng công ty của nhau. Quyền lực kinh tế tạo ra quyền lực chính trị trên Lãnh thổ Hawaiʻi. Họ thực hiện những phương pháp bất hợp pháp để duy trì thế lực chính trị của họ. Họ thường đe dọa nhân công phải bỏ phiếu theo ý muốn của họ. Việc trả thù vì bỏ phiếu "không đúng đường lối" là chuyện thường xảy ra.
Trong thời lãnh thổ, Hawaiʻi từ từ biến thành một oligarchy bị khống chế bởi Big Five. Họ muốn chỉ có người da trắng và Đảng Cộng hòa điều hành chính quyền tại Hawaiʻi. Trong thời Big Five ngự trị, gần như không có đảng viên Dân chủ nào thắng bất cứ cuộc bầu cử nào tại Hawaiʻi.
Dứa (khóm)
James Dole cũng còn được biết là Vua Dứa đến sống tại Hawaiʻi năm 1899. Ông mua đất ở Wahiawā và thiết lập đồn điền trồng dứa tại Hawaiʻi. Vì tin rằng dứa có thể trở thành một loại thực phẩm ưa chuộng bên ngoài Hawaiʻi, Dole dựng nhà máy đóng hộp gần đồn điền đầu tiên của ông năm 1901. Công ty Dứa Hawaii sau này đổi tên là Công ty Thực phẩm Dole được khai sinh.Với lợi nhuận thương mại của ông tăng cao, Dole mở rộng và xây một nhà máy đóng hộp lớn hơn tại ʻIwilei gần Bến cảng Honolulu năm 1907. Vị trí của ʻIwilei đã giúp các hoạt động của ông gần nguồn lao động hơn. Nhà máy đóng hộp tại ʻIwilei hoạt động cho đến năm 1991. Nữ minh tinh và ca sĩ Bette Midler là một trong các nhân công nổi tiếng nhất của công ty.
Dole tự thấy mình đang đứng giữa một ngành công nghiệp phát triển mạnh. Nhu cầu về dứa của ông gia tăng và Dole cần phải trồng nhiều thêm nữa. Năm 1922, Dole mua cả hòn đảo Lānaʻi và cải biến phong cảnh hoang mạc thành đồn điền dứa lớn nhất thế giới. Trong một thời kỳ dài, Lānaʻi đã sản xuất ra 75% dứa của thế giới và trở thành bất hủ với cái tên "Đảo Dứa."
Khoảng thập niên 1930, Hawaiʻi trở thành thủ đô dứa của thế giới và ngành sản xuất dứa trở thành ngành công nghiệp lớn hạng nhì của nó. Sau Đệ nhị Thế chiến, tổng cộng có 8 công ty dứa tại Hawaiʻi.
Quan hệ chủng tộc
Một trong các thử thách nổi bật nhất mà Lãnh thổ Hawaiʻi phải đối diện là quan hệ chủng tộc. Vào thời gian Hawaiʻi trở thành một lãnh thổ, phần đông dân số của Hawaiʻi là các công nhân đồn điền từ Trung Quốc, Nhật Bản, Philippines và Bồ Đào Nha. Có một dân số lớn đáng kể người Hawaii bản xứ cũng cùng chia sẻ trong lực lượng lao động. Những kinh nghiệm làm việc trên các đồn điền đã nặn đúc Hawaiʻi trở thành một nền văn hóa đồn điền. Ngôn ngữ Hawaiian Pidgin được phát triển tại các đồn điền để mọi người đều có thể hiểu nhau. Họ cùng chia sẻ thực phẩm và truyền thống. Đạo Phật và Thần Đạo phát triển và trở thành một trong các tôn giáo lớn nhất của Hawaiʻi. Công Giáo trở thành giáo phái Tín hữu Cơ Đốc lớn nhất của Hawaiʻi. Hawaiʻi có đa chủng tộc và nhiều chủng tộc sống ít nhiều hài hòa với nhau.Tư cách thành tiểu bang bị ngăn cản
Năm 1935 và 1937, Quốc hội Hoa Kỳ bắt đầu bàn bạc về chuyện có nên hay không nên cho phép Hawaiʻi trở thành một tiểu bang của Hoa Kỳ. Các tiểu bang miền nam tỏ vẻ khó chịu với lý do Quốc hội sẽ cho phép một lãnh thổ có ít người da trắng được những quyền lợi giống như người Mỹ ở trong đất liền. Việc cho phép Hawaiʻi thành tiểu bang bị hủy bỏ vô hạn định vì vấn đề chủng tộc.Thiết quân luật
Từ năm 1941 đến 1944, Các thống đốc lãnh thổ Joseph B. Pointdexter và Ingram M. Stainback đã tự bỏ quyền lực hành chánh của mình bằng việc tuyên bố thiết quân luật. Vì hiến pháp lãnh thổ bị đình chỉ nên ngành lập pháp và tối cao pháp viện cũng bị giải tán vô hạn định. Thiết quân lực được thi hành đối với tất cả cư dân Hawaiʻi. Một thống đốc quân sự nhận quyền kiểm soát Hawaiʻi và điều hành lãnh thổ từ Dinh ʻIolani. Dinh này sau đó được rào lại vào xây dựng các chiến hào.Dưới thiết quân luật, mọi mặt đời sống của Hawaii đều nằm dưới sự kiểm soát của thống đốc quân sự. Chính quyền lăn tay tất cả mọi cư dân trên 6 tuổi, áp đặt lệnh giới nghiệm, che giấu thông tin, hạn chế nhu cầu lương thực và xăng dầu, kiểm duyệt tin tức và truyền thông, cấm rượu, ấn định giờ hoạt động thương mại, kiểm soát lưu thông và dịch vụ thu rác đặc biệt. Luật của thống đốc quân sự được gọi là Sắt lệnh tổng quát. Những vi phạm đều bị tòa án binh phạt mà không được chống án.
Danh sách các thống đốc quân sự:
- Trung tướng Thomas H. Greene (1941-1944)
Trở thành tiểu bang
Sau khi thất bại năm 1935 và năm 1937 trong việc thuyết phục Quốc hội Hoa Kỳ rằng Hawaiʻi đã sẵn sàng để trở thành một tiểu bang, Hawaiʻi tái mở chiến dịch vận động vào năm 1950 bằng cách đặt vấn đề tư cách tiểu bang trong lá phiếu. Hai phần ba cử tri toàn lãnh thổ đã bỏ phiếu tán thành việc gia nhập vào liên bang. Sau Đệ nhị Thế chiến, lời kêu gọi ủng hộ lãnh thổ trở thành tiểu bang được lập lại càng mạnh mẽ hơn, thậm chí từ một số tiểu bang trong đất liền. Các lý do ủng hộ lãnh thổ thành tiểu bang thì rất rõ ràng:- Hawaiʻi muốn có thể bầu thống đốc của mình
- Hawaiʻi muốn có thể bầu tổng thống
- Hawaiʻi muốn chấm dứt đóng thuế nhưng không có đại diện có quyền biểu quyết tại Quốc hội Hoa Kỳ
- Hawaiʻi đã chịu đựng một cuộc chiến nặng nề đầu tiên
- Dân số sắc tộc không phải người da trắng của Hawaiʻi, đặc biệt là người Nhật, đã chứng tỏ lòng trung thành của họ qua việc phục vụ trên các chiến trường châu Âu
- Hawaiʻi có đến 90% dân số là công dân Hoa Kỳ, đa số được sinh tại Hoa Kỳ.
Tháng 3 năm 1959, cả hai viện Quốc hội Hoa Kỳ thông qua Đạo luật Gia nhập và Tổng thống Hoa Kỳ Dwight D. Eisenhower ký thành luật. Đạo luật không kể Đảo Palmyra, một phần của Vương quốc và Lãnh thổ Hawaiʻi thuộc tiểu bang mới này. Ngày 27 tháng 6 năm đó, một cuộc bầu cử toàn lãnh thổ được tiến hành để hỏi xem người dân Hawaii có chấp nhận đạo luật gia nhập liên bang với tư cách tiểu bang hay không. Hawaiʻi chấp thuận đạo luật với tỉ lệ 17-1. Ngày 21 tháng 8, chuông nhà thờ khắp Honolulu reo vang báo hiệu rằng Hawaiʻi cuối cùng trở thành tiểu bang thứ 50 của Hoa Kỳ.
Xem thêm
- Các vùng lịch sử của Hoa Kỳ
- Lịch sử Hawaii
- Sự tiến hóa lãnh thổ của Hoa Kỳ
- Các quốc gia có chủ quyền từng thống trị trên Quần đảo Hawaii:
- Vương quốc Hawaii, 1795–1893
- Cộng hòa Hawaii, 1894–1898
- Tiểu bang của Hoa Kỳ được thành lập từ Lãnh thổ Hawaii:
- Tiểu bang Hawaii, 1959
- Các quốc gia có chủ quyền từng thống trị trên Quần đảo Hawaii:
Chú thích
Đọc thêm
- Thomas H. Green, The Papers of Major General Thomas H. Green, Judge Advocate General’s Corps, U.S. Army, University Publications of America, 2001
Liên kết ngoài
- Hawaiʻi Army Museum Society
- Morgan Report
- Congressional Debates On Hawaiian Organic Act... Matters Concerning the Hawaiian Islands in the 56th Congress,
Cách mạng văn hóa
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Cách mạng văn hóa | |||
---|---|---|---|
Phồn thể: | 無產階級文化大革命 | ||
Giản thể: | 无产阶级文化大革命 | ||
|
|||
Alternative Chinese name | |||
Tiếng Trung: | 文化大革命 hoặc 文革 | ||
Nghĩa: | Cách mạng văn hóa | ||
|
Cuộc cách mạng này được Mao Trạch Đông khởi xướng và lãnh đạo từ ngày 16 tháng 5 năm 1966, với mục tiêu chính thức là loại bỏ những phần tử "tư sản tự do" để tiếp tục sự nghiệp đấu tranh của tầng lớp cách mạng. Tuy nhiên, mục đích chính của cách mạng này được mọi người công nhận là một cách để Mao Trạch Đông lấy lại quyền kiểm soát Đảng Cộng sản Trung Quốc sau cuộc Đại nhảy vọt bị thất bại dẫn đến sự tổn thất quyền lực đáng kể của Mao Trạch Đông so với đối thủ chính trị là Lưu Thiếu Kỳ và cũng để loại bỏ những người bất đồng ý kiến như Đặng Tiểu Bình, Bành Đức Hoài,...
Dù Mao Trạch Đông tự tuyên bố chính thức là Văn cách kết thúc năm 1969, ngày nay người ta vẫn cho rằng cuộc cách mạng này còn bao gồm cả giai đoạn từ 1969 đến 1976 khi Tứ nhân bang (Giang Thanh, Trương Xuân Kiều, Vương Hồng Văn và Diêu Văn Nguyên) bị bắt giữ.
Mục lục
Đại nhảy vọt
Cuộc Đại nhảy vọt là một thất bại về kinh tế. Các ngành công nghiệp rơi vào tình trạng bất ổn vì nông dân sản xuất quá nhiều thép chất lượng thấp trong khi các ngành khác bị bỏ rơi. Hơn nữa, những người nông dân không qua đào tạo và được trang bị nghèo nàn để sản xuất thép, phần lớn dựa vào khu vực sân sau nhà để đạt chỉ tiêu sản xuất thép do các quan chức địa phương đặt ra. Trong khi đó, các công cụ nhà nông chính bị nấu chảy để làm thép khiến quy mô sản xuất nông nghiệp bị thu nhỏ. Điều này dẫn đến sự sụt giảm sản lượng của phần lớn các mặt hàng ngoại trừ gang và thép không đạt tiêu chuẩn chất lượng. Tồi tệ hơn nữa, để tránh bị phạt, chính quyền địa phương thường xuyên phóng đại các con số và che giấu khiến cho vấn đề thêm trầm trọng trong nhiều năm[1].
Hầu như chưa phục hồi từ nhiều thập kỷ chiến tranh, nền kinh tế Trung Quốc thêm một lần nữa rơi vào khủng hoảng. Năm 1958, Đảng Cộng sản Trung Quốc bắt buộc phải thừa nhận rằng những số liệu thống kê sản xuất đã bị phóng đại. Ngoài ra, phần nhiều lượng thép sản xuất ra không tinh khiết và vô ích. Trong khi đó, sự hỗn loạn trong các khu sản xuất tập thể, thời tiết xấu và việc xuất khẩu lương thực nhằm đảm bảo an ninh lương thực đã dẫn đến một trận đói kém cực lớn. Thực phẩm trong tình trạng hết sức khan hiếm và sản xuất giảm đáng kể. Theo nhiều nguồn khác nhau, số người chết do nạn đói này gây ra ước tính 20 đến 30 triệu người[2].
Sự thất bại của cuộc Đại nhảy vọt có tác động lớn lên uy tín của Mao Trạch Đông bên trong Đảng. Năm 1959, ông ta từ chức Chủ tịch nhà nước, và sau đó Lưu Thiếu Kỳ lên thay. Tháng 7 năm 1959, những người lãnh đạo cấp cao của Đảng triệu tập tại núi Lu để thảo luận về các quyết sách của Đảng, nhất là các tác động của cuộc Đại nhảy vọt. Tại hội nghị, nguyên soái Bành Đức Hoài, khi đó là Bộ trưởng Quốc phòng, đã chỉ trích chính sách của Mao Trạch Đông trong cuộc Đại nhảy vọt là đã quản lý kém và đi ngược lại các quy luật kinh tế.[1].
Trong lúc Hội nghị Lộc Sơn đóng vai trò như một hồi chuông báo tử cho nguyên soái Bành, cũng là nhà phê bình lớn tiếng nhất của Mao, điều này đã dẫn đến một sự chuyển giao quyền lực vào tay những người thuộc phái ôn hòa cầm đầu là Lưu Thiếu Kỳ và Đặng Tiểu Bình, những người nắm quyền kiểm soát chính phủ[1]. Sau Hội nghị, Mao Trạch Đông đã tìm cách tước bỏ các chức vụ chính thức của Bành Đức Hoài và buộc tội ông ta là kẻ "cơ hội cánh hữu". Bành Đức Hoài bị thay bởi Lâm Bưu, một vị tướng khác trong lực lượng quân cách mạng và sau này là người đóng vai trò chủ đạo trong việc thực hiện các chính sách của Chủ nghĩa Mao Trạch Đông.
Xung đột giữa Lưu Thiếu Kỳ và Mao Trạch Đông
Vào đầu những năm 1960, mặc dù Mao Trạch Đông vẫn còn giữ chức Chủ tịch Đảng, trách nhiệm chính trong sự thất bại của cuộc Đại nhảy vọt đã buộc ông ta phải giam mình khỏi những vấn đề thường nhật của nhà nước và chính phủ. Nhiều chính sách Đại nhảy vọt của ông ta bị đảo ngược, các tác động tiêu cực của chúng giảm nhẹ và dần dần biến mất. Trong số những cải cách của Lưu Thiếu Kỳ và Đặng Tiểu Bình thì việc xóa bỏ phần nào tình trạng sản xuất tập thể được xem là thực dụng và hiệu quả hơn. Trong suốt quá trình này, Lưu Thiếu Kỳ đặt ra cụm từ nổi tiếng, "Mua tốt hơn tự sản xuất, và cho thuê tốt hơn so với đi mua". Điều này đã mở ra một biên giới mới trong kinh tế Trung Quốc và đối lập với lý thuyết "tự cung tự cấp" của Mao Trạch Đông.Những chính sách kinh tế thành công của Lưu Thiếu Kỳ đã thu hút sự ủng hộ từ bên trong Đảng. Cùng với Đặng Tiểu Bình, Kỳ dường như muốn trục xuất Mao Trạch Đông ra khỏi bộ máy quyền lực nhưng vẫn giữ ông ta trong vai trò biểu tượng quốc gia. Đáp lại, Mao Trạch Đông đã khởi xướng Phong trào Giáo dục Xã hội Chủ nghĩa vào năm 1962 để lấy lại nền tảng chính trị của mình. Mục tiêu chính của phong trào là khôi phục lòng nhiệt thành cách mạng của các đảng viên và quần chúng. Đáng chú ý hơn, phong trào này còn tập trung vào cải cách hệ thống giáo dục tiểu học và trung học. Một trong những khía cạnh nổi bật nhất của nó là sự kết hợp của đơn vị hành chính xã và lao động nhà máy vào giáo dục. Phong trào đã đạt được kết quả là đưa chủ nghĩa Mao vào giới trẻ Trung Quốc.
Năm 1963, Mao Trạch Đông bắt đầu công kích Lưu Thiếu Kỳ công khai hơn. Ông ta tuyên bố rằng đấu tranh giai cấp vẫn đang được tiến hành và phải được học hỏi và áp dụng "ngày một, tháng một, và năm một", và bóng gió rằng các thành phần cố hữu của giai cấp tư sản (ám chỉ Lưu Thiếu Kỳ) vẫn còn tồn tại mặc dù cách mạng đã thành công. Năm 1964, Phong trào Giáo dục Xã hội Chủ nghĩa tiến triển trở thành Phong trào Bốn-dọn-dẹp, một phong trào chính trị - xã hội rộng lớn hơn nhằm mục đích "làm sạch chính trị, kinh tế, tư tưởng, và tổ chức của bọn phản động". Mao Trạch Đông xem chiến dịch này là nhắm vào các thành phần trung lưu vừa được thiết lập nhưng đã trở nên xa rời quần chúng, trong khi Lưu Thiếu Kỳ lại muốn một cách tiếp cận từ dưới lên để loại bỏ những tội phạm nhỏ, tầng lớp địa chủ và thành phần phản động. Sự bất đồng trong quan điểm về bản chất của phong trào đã tạo ra xung đột giữa Mao Trạch Đông và Lưu Thiếu Kỳ.
Khẩu chiến chính trị
Cuối năm 1959, nhà sử học và cũng là Phó Thị trưởng Bắc Kinh Ngô Hàm xuất bản phiên bản đầu tiên của bộ kịch lịch sử tựa đề Hải Thụy bãi quan (海瑞罢官). Trong vở kịch, một người đầy tớ trung thành tên Hải Thụy bị sa thải bởi một tên hoàng đế biến chất. Trong khi vở kịch nhận được sự ca ngợi từ phía Mao thì năm 1965 vợ Mao Trạch Đông là Giang Thanh và đồng minh của bà ta là Diêu Văn Nguyên, biên tập viên cho một tờ báo ở Thượng Hải, đã viết bài báo công kích vở kịch. Diêu gọi vở kịch là "một thứ cỏ độc" hãm hại Mao với ngụ ý Mao như một tên hoàng đế suy đồi và Bành Đức Hoài như một công chức trung thực.Bài báo Thượng Hải đó lan truyền khắp nước và nhiều tờ nhật báo hàng đầu khác đã xin đăng lại. Thị trưởng Bắc Kinh là Bành Chân, một người ủng hộ Ngô Hàm, đã thành lập một ủy ban nhiên cứu bài báo và công bố rằng những lời chỉ trích của Diêu Văn Nguyên là không chính đáng. Ngày 12 tháng 2 năm 1966, Ủy ban (gọi là "Nhóm Năm tên chịu trách nhiệm về cuộc Đại Cách mạng văn hóa") đã công bố một báo cáo mà về sau được biết đến với tên "Đại cương tháng Hai" (二月提纲) nhằm tìm cách giới hạn tranh luận về nhân vật Hải Thụy trong khuôn khổ văn chương và lôi kéo sự chú ý của dư luận ra khỏi các hàm ý chính trị.
Tuy nhiên, Giang Thanh và Diêu Văn Nguyên tiếp tục tố cáo cả Ngô Hàm và Bành Chân trên báo chí. Ngày 16 tháng 5, dưới sự chỉ đạo của Mao, Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Trung Quốc đã ban hành một thông báo chính thức về cuộc Đại Cách mạng văn hóa. Trong tài liệu này, Bành Chân bị chỉ trích gay gắt và nhóm "Năm tên" bị giải tán và được thay thế bởi Nhóm Cách mạng văn hóa. Ngày 18 tháng 5, Lâm Bưu tuyên bố trong một bài phát biểu rằng "Chủ tịch Mao là một thiên tài, và mọi thứ Chủ tịch nói đều thực sự tuyệt vời; những lời nói của Chủ tịch sẽ tạo ra ý nghĩa cuộc sống của hàng trăm ngàn người trong chúng ta". Vì vậy, bắt đầu giai đoạn đầu của sự sùng bái nhân cách Mao Trạch Đông do Giang Thanh, Lâm Bưu và những kẻ cùng phe điều hành.
Ngày 25 tháng 5, một giảng viên triết học tại Đại học Bắc Kinh tên là Nhiếp Nguyên Tử (聂元梓) đã viết một tấm áp phích lớn và dán ở bảng tin công cộng. Nhiếp công kích giới lãnh đạo Đảng trong trường và các quan chức của Đảng ở Bắc Kinh là "bọn côn đồ đen tối chống lại Đảng", ngụ ý rằng có các thế lực đen tối trong Chính phủ và các trường đại học đang cố gắng ngăn chặn tiến trình cách mạng. Vài ngày sau đó, Mao ra lệnh phổ biến những lời của Nhiếp ra khắp nước và gọi đó là "tấm áp phích lớn tuyên truyền cho Chủ nghĩa Mác đầu tiên ở Trung Quốc". Ngày 29 tháng 5, tại trường trung học thuộc Đại học Thanh Hoa, đơn vị Hồng vệ binh đầu tiên được thành lập. Mục đích của đơn vị này là trừng phạt và cô lập cả giới trí thức lẫn những kẻ thù chính trị của Mao.
Ngày 1 tháng 6 năm 1966, tờ Nhân dân Nhật báo đã phát động một cuộc công kích vào các lực lượng phản động trong giới trí thức. Sau đó, giới chủ tịch các trường đại học và những người trí thức nổi tiếng khác bị truy tố. Ngày 28 tháng 7 năm 1966, đại diện Hồng vệ binh đã viết thư cho Mao nói rằng các cuộc thanh trừng trên diện rộng và tất cả những sự kiện chính trị-xã hội có liên quan đều được thực hiện chính xác và công minh. Mao đáp lại với sự ủng hộ toàn diện của mình bằng tấm áp phích lớn tựa đề "Oanh tạc các trụ sở" (tiếng Trung: 炮打司令部——我的一张大字报). Mao viết rằng, bất chấp cuộc Cách mạng vô sản đã được tiến hành, giai cấp thống trị vẫn bị thâu tóm bởi các thành phần tư sản, các nhà tư bản và những người theo chủ nghĩa xét lại, và rằng các thành phần phản cách mạng này vẫn còn tồn tại, thậm chí ngay trong hàng ngũ lãnh đạo cấp cao của Đảng. Điều này thực ra là một cuộc khẩu chiến chống lại Lưu Thiếu Kỳ, Đặng Tiểu Bình và những người cùng phe với họ.
Diễn biến
1966
Ngày 8 tháng 8 năm 1966, Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) thông qua "quyết định liên quan đến Cuộc Cách mạng Văn hóa Vô sản" (còn gọi là "Thông cáo 16 điểm"). Quyết định này quy định rằng Cuộc Cách mạng văn hóa Vô sản là "một cuộc cách mạng lớn đụng chạm đến tất cả mọi người và thiết lập một giai đoạn mới trong sự phát triển của cách mạng xã hội chủ nghĩa trong nước, một giai đoạn sâu rộng hơn".“ | Mặc dù giai cấp tư sản đã bị lật đổ, chúng vẫn cố gắng sử dụng những tư tưởng và lề thói cũ của giai cấp bóc lột để đầu độc quần chúng nhân dân, nắm bắt tâm chí họ và cố gắng khôi phục giai đoạn tư sản. Giai cấp vô sản phải làm điều ngược lại: Đó là tranh đấu với giai cấp tư sản trong lĩnh vực tư tưởng và sử dụng những tư tưởng và lề thói mới của giai cấp vô sản để thay đổi diện mạo tinh thần của toàn bộ xã hội. Hiện tại, mục tiêu của chúng ta là đấu tranh và đè bẹp những kẻ hữu khuynh muốn phá bỏ cấu trúc thượng tầng của chủ nghĩa xã hội... | ” |
—"Thông cáo 16 điểm"
|
Những người mà không có mối liên quan với Đảng Cộng sản sẽ được thử thách và thông thường bị buộc tội tham nhũng và bị bỏ tù. Những quyền tự do này được bổ sung bởi quyền được bãi công, mặc dù quyền này đã bị suy yếu bởi sự dính dáng của quân đội vào nền chính trị dân sự vào tháng 2 năm 1967. Tất cả những quyền này đã bị xóa bỏ khỏi Hiến pháp sau khi Chính phủ của Đặng Tiểu Bình dập tắt Phong trào Bức tường Dân chủ năm 1979.
Ngày 16 tháng 8 năm 1966, hàng triệu Hồng vệ binh từ khắp các nơi trên đất nước tập trung tại Bắc Kinh để có cơ hội thấy mặt Chủ tịch Mao. Ngay trên đầu cổng Thiên An Môn, Chủ tịch Mao Trạch Đông và Lâm Bưu đã xuất hiện và diễn thuyết trước 11 triệu Hồng vệ binh, và nhận được rất nhiều tràng reo hò từ đám đông. Mao ca ngợi hành động của Hồng vệ binh trong các chiến dịch gần đây là "phát triển Chủ nghĩa xã hội và dân chủ".
Trong Chiến dịch tiêu hủy Bốn cái cũ, tất cả những gì liên quan đến các loại tôn giáo đều bị Hồng vệ binh ngược đãi thẳng tay. Nhiều công trình tôn giáo như chùa chiền, nhà thờ, tu viện Hồi giáo, và các nghĩa trang đều bị đóng cửa, đôi khi còn bị cướp phá hoặc bị đập bỏ. Điều khủng khiếp nhất của chiến dịch là việc sử dụng bừa bãi hình thức tra tấn, giết chóc dẫn đến các vụ tự tử do nạn nhân không chịu được tra tấn và nhục nhã. Trong tháng 8 và tháng 9, chỉ riêng ở Bắc Kinh đã có 1772 người bị sát hại. Tại Thượng Hải, trong tháng 12 có 704 vụ tự tử và 534 ca tử vong liên quan đến Cách mạng Văn hóa. Trong thời gian này ở Vũ Hán cũng chứng kiến 62 vụ tự sát và 32 vụ giết người.[3]
Chính quyền cũng không dám ngăn chặn hành động của Hồng vệ binh. Xie Fuzhi, cảnh sát trưởng quốc gia, cho biết: "Đừng nói rằng họ sai khi đánh đập những kẻ xấu; nếu trong cơn thịnh nộ mà họ có đánh ai đó đến chết thì cũng có thể hiểu được."[4]
Trong hai năm, đến tận tháng 7 năm 1968 (ở vài nơi, thời gian có thể lâu hơn), các nhóm hoạt động của Hội sinh viên như lực lượng Hồng vệ binh đã mở rộng lĩnh vực quyền lực của mình, và gia tăng các nỗ lực tái thiết Xã hội chủ nghĩa. Họ bắt đầu bằng cách phát tờ rơi giải thích cho hành động phát triển và củng cố Chủ nghĩa xã hội của họ và đưa tên các nhân vật bị khép tội "phản cách mạng" lên trên bảng tin của trường. Họ tập hợp lại thành từng nhóm lớn, tổ chức các buổi tranh luận lớn, và viết các vở kịch mang tính "giáo dục". Họ tổ chức các cuộc họp công cộng để chỉ trích những lời bào chữa của các bị cáo "phản cách mạng".
Thế giới này là của các bạn, cũng như của chung chúng ta, nhưng xét cho cùng thì nó vẫn là của các bạn. Các bạn, những người trẻ tuổi tràn đầy nhiệt huyết, đang ở độ thăng hoa của cuộc đời giống như mặt trời lúc tám hoặc chín giờ sáng. Chúng tôi hy vọng vào các bạn. Thế giới thuộc về các bạn. Tương lai Trung Quốc thuộc về các bạn.Đây là một trong nhiều trích đoạn từ cuốn Hồng bảo thư mà sau này Hồng vệ binh luôn mang theo như một sự chỉ dẫn hành động từ phía Mao Trạch Đông. Đó là kim chỉ nam cho hành động vì mục tiêu tương lai của Hồng vệ binh. Những trích dẫn trực tiếp từ lời của Mao đã dẫn đến các hành động khác của Hồng vệ binh dưới quan điểm của các nhà sáng lập Chủ nghĩa Mao khác. Mặc dù Thông cáo 16 điểm và các tuyên bố khác từ các nhà lãnh đạo cấp cao khác của Chủ nghĩa Mao đều ngăn cấm hình thức "bạo động vũ trang" (武斗) và ủng hộ "đấu tranh tâm lý" (文斗), nhưng những cuộc đấu tranh này thường dẫn đến việc sử dụng vũ lực. Ban đầu, những cuộc khẩu chiến giữa các nhóm hoạt động thậm chí trở thành bạo lực, nhất là khi họ bắt đầu tước vũ khí của quân đội năm 1967. Những người khởi xướng Chủ nghĩa Mao đã giới hạn hoạt động của Hồng vệ binh trong khuôn khổ hình thức "bất bạo động", nhưng đôi khi chính điều đó lại dường như khuyến khích bạo lực; và chỉ sau các vụ cướp vũ khí quân đội của Hồng vệ binh, họ mới bắt đầu đàn áp các phong trào quần chúng. Lưu Thiếu Kỳ bị đưa vào một trại tạm giam và qua đời tại đó năm 1969. Đặng Tiểu Bình cũng bị đưa đi "cải tạo" ba lần và cuối cùng phải làm việc trong một nhà máy cơ khí cho đến khi Chu Ân Lai đưa ông trở lại vài năm sau đó. Tuy nhiên, phần lớn những người bị bắt giữ không được may mắn như vậy và nhiều người trong số họ không bao giờ được quay trở lại.
Hành động của Hồng vệ binh được chủ tịch Mao Trạch Đông ca ngợi. Ngày 22 tháng 8 năm 1966, ông ban hành một thông cáo chung, trong đó quy đinh cấm mọi sự can thiệp từ phía cảnh sát vào hoạt động của Hồng vệ binh. Người nào làm trái với Thông cáo đó sẽ bị gán cho tội danh "phản cách mạng".
Ngày 5 tháng 9 năm 1966, một thông cáo khác được ban hành khuyến khích tất cả Hồng vệ binh đến Bắc Kinh trong một quãng thời gian xác định. Tất cả chi phí, bao gồm ăn ở và đi lại sẽ được chính quyền chi trả. Ngày 10 tháng 10 năm 1966, một đồng minh của Mao là Lâm Bưu đã công khai chỉ trích Lưu Thiếu Kỳ và Đặng Tiểu Bình là "những kẻ dẫn đường cho Chủ nghĩa Tư bản" và là "mối đe dọa" đến Chủ nghĩa Xã hội. Sau đó, Bành Đức Hoài cũng bị đưa đến Bắc Kinh và bị truy tố trước quần chúng.
1967
Ngày 3 tháng Giêng năm 1967, Lâm Bưu và Giang Thanh đã sử dụng truyền thông và cán bộ địa phương để tạo ra cái gọi là "Bão táp tháng Giêng", trong đó nhiều quan chức cấp cao Thượng Hải cũng bị chỉ trích nặng nề và bị đem ra truy tố[5]. Điều này đã mở đường cho Vương Hồng Văn nắm quyền quản lý thành phố với chức danh người đứng đầu Ủy ban Cách mạng thành phố. Do đó, chính quyền thành phố bị bãi bỏ. Ở Bắc Kinh, Lưu Thiếu Kỳ và Đặng Tiểu Bình một lần nữa trở thành mục tiêu của sự chỉ trích, nhưng những chỉ trích khác cũng nhắm vào các việc làm sai trái của Phó thủ tướng Trần Vân. Các quan chức chính phủ hay đảng viên địa phương cũng nhân cơ hội này để cáo buộc địch thủ tội "phản cách mạng".Ngày 8 tháng Giêng, Mao đã ca ngợi những hành động này thông qua tờ báo của Đảng là tờ Nhân dân Nhật báo, khuyến khích các quan chức địa phương phê bình và tự phê bình nếu có dính líu tới hoạt động "phản cách mạng". Điều này dẫn đến các cuộc thanh trừng trên diện rộng và liên tiếp giữa các quan chức địa phương khiến cho chính quyền nhân dân ở nhiều địa phương bị tê liệt hoàn toàn. Tham gia vào các cuộc thanh trừng "phản cách mạng" này là cách duy nhất để tránh bị thanh trừng, nhưng cũng không có gì đảm bảo.
Vào tháng hai, Giang Thanh và Lâm Bưu, dưới sự ủng hộ của Mao, đã nhấn mạnh rằng "đấu tranh giai cấp" cần mở rộng sang ngành quân đội. Nhiều tướng lĩnh chủ chốt trong Quân Giải phóng Nhân dân Trung Hoa đã tỏ thái độ lo ngại và phản đối Cách mạng văn hóa; họ gọi đó là "một sự sai lầm". Cựu Bộ trưởng Ngoại giao là Trần Nghị đã tỏ ra tức giận ngay trong cuộc họp Bộ Chính trị, và nói rằng sự chia bè kết phái sẽ hủy hoại quân đội hoàn toàn và sau đó là đến Đảng.
Các tướng lĩnh khác, bao gồm Nhiếp Vinh Trăn, Hạ Long và Từ Hướng Tiền cũng bày tỏ sự bất mãn. Họ lần lượt bị tố cáo bởi các phương tiện truyền thông quốc gia dưới sự kiểm soát của Trương Xuân Kiều và Diêu Văn Nguyên. Cuối cùng thì tất cả bọn họ đều bị thanh trừng bởi Hồng vệ binh. Cùng lúc đó, nhiều đơn vị Hồng vệ binh lớn quay sang đối đầu với nhau do mâu thuẫn về lập trường cách mạng khiến cho tình hình thêm phức tạp và làm đất nước thêm hỗn loạn.
Do vậy, Giang Thanh đã ra thông báo dừng tất các hành động không lành mạnh bên trong lực lượng Hồng vệ binh. Ngày 6 tháng 4, Lưu Thiếu Kỳ đã bị lên án công khai và rộng rãi bởi nhóm thành viên gồm Giang Thanh, Khang Sinh, thậm chí có cả Mao. Tiếp theo đó là một kháng nghị và các cuộc tuần hành của quần chúng, đáng chú ý nhất là cuộc tuần hành ở Vũ Hán ngày 20 tháng 7. Trong nơi này, Giang Thanh đã công khai tố cáo bất kỳ "hành động phản cách mạng nào"; sau đó đích thân bà ta bay tới Vũ Hán để chỉ trích Zaidao Chen, tướng phụ trách khu vực Vũ Hán.
Ngày 22 tháng 7, Giang Thanh chỉ đạo Hồng vệ binh thay thế Quân Giải phóng Nhân dân Trung Hoa nếu cần thiết, do đó làm cho lực lượng vũ trang hiện tại bị vô hiệu. Sau lần ca ngợi ban đầu của Giang Thanh, Hồng vệ binh bắt đầu cướp phá các doanh trại và các tòa nhà quân đội. Hành động này đã không thể bị ngăn chặn bởi các tướng lĩnh quân đội và kéo dài tới tận mùa thu năm 1968.
1968
Mùa xuân 1968, một chiến dịch lớn nổ ra nhằm mục đích đẩy mạnh tôn sùng Mao Trạch Đông lên mức ngang thần thánh. Ngày 27 tháng 7 năm 1968, sự lấn quyền quân đội của Hồng vệ binh chính thức kết thúc và chính quyền trung ương gửi các đơn vị quân đội tới để bảo vệ nhiều khu vực là mục tiêu của Hồng vệ binh. Mao ủng hộ và thúc đẩy ý tưởng cho phép quần chúng lắng nghe một trong những chỉ dẫn tối cao của mình. Một năm sau đó, các nhóm Hồng vệ binh hoàn toàn tan rã vì Mao sợ rằng sự hỗn loạn do họ gây ra có thể làm hại nền tảng căn bản của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Trong bất kỳ trường hợp nào thì mục tiêu của Hồng vệ binh đã đạt được và Mao đã củng cố được quyền lực chính trị của mình.Đầu tháng 10, Mao tiến hành chiến dịch thanh trừng những quan chức không trung thành với ông ta. Họ bị đưa tới vùng nông thôn và làm việc trong các trại lao động. Cũng trong tháng này, tại Đại hội Đảng lần thứ 12-khóa 8, Lưu Thiếu Kỳ bị trục xuất vĩnh viễn ra khỏi Đảng và Lâm Bưu được đưa lên giữ chức Phó Chủ tịch Đảng và được Mao chọn làm người kế tục. Địa vị và danh tiếng của Bưu chỉ xếp sau Mao.[6]
Lâm Bưu, người được Mao chọn kế vị, trở thành nhân vật nổi bật nhất trong cuộc Đại Cách mạng văn hóa sau năm 1968. Tháng 12 năm 1971, Trung Quốc (và thế giới) bị sốc sau khi một chiếc máy bay bị rơi ở Mông Cổ và Lâm Bưu được cho là một trong những hành khách xấu số. Sự kiện này xảy ra sau một loạt những nỗ lực ám sát Mao bất thành. Từ đó đến nay, chưa thể xác minh được các sự kiện liên quan đến Lâm Bưu trong gian đoạn 1968-1971 với độ thuyết phục và chính xác được vì lý do nhạy cảm chính trị xung quanh sự kiện máy bay rơi đó.[7] Những năm tháng quyền lực của Lâm Bưu và cái chết đầy bí ẩn của ông ta là chủ đề quan tâm của nhiều sử gia khắp thế giới nhưng chưa một ai có thể đưa ra kết luận xác đáng về vấn đề đó.
Tháng 12 năm 1968, Mao triển khai Phong trào Tiến về nông thôn. Phong trào kéo dài từ cuối thập kỷ 1960 đến đầu thập kỷ 1970 đã huy động hàng trăm ngàn trí thức trẻ sống ở các thành phố đi về các vùng nông thôn để sống, lao động và học hỏi kinh nghiệm của những người công nhân và nông dân. Từ "trí thức" lúc đó được dùng với nghĩa rộng nhất là những học sinh mới tốt nghiệp trung học. Cuối những năm 1970, những "trí thức trẻ" này cuối cùng cũng được phép trở về thành phố quê nhà. Xét khía cạnh nào đó thì phong trào này là một cách thức điều chuyển các thành viên Hồng vệ binh từ thành phố về nông thôn, nơi mà họ ít có khả năng gây loạn nhất.
Hậu quả
Nhận định
Đặng Tiểu Bình đã nhận định như sau: "Cách Mạng Văn Hóa là một sai lầm. Chúng ta phải mạnh dạn chối bỏ sai lầm này của Mao trong những năm tháng cuối đời của ông. Nhưng cũng cần nhìn vào sự thật. Sự thật là không phải mọi sai lầm và quá đáng trong cuộc Cách Mạng Văn Hóa đều do Mao" [8].Chú thích
- ^ a ă â Lịch sử Trung Quốc
- ^ Niên biểu các sự kiện lịch sử của thế kỷ 20
- ^ MacFarquhar Roderick and Schoenhals, Michael. Mao's Last Revolution. Harvard University Press, 2006. p.124
- ^ MacFarquhar, Roderick and Schoenhals, Michael. Mao's Last Revolution. Harvard University Press, 2006. p. 125
- ^ Yan, Jiaqi. Gao, Gao. [1996] (1996). Turbulent Decade: A History of the Cultural Revolution.
- ^ http://www.shulu.net/
- ^ Distorting history, lesson from the Lin's incident
- ^ Global Times ngày 25/5/2011
Đọc thêm
Tổng quan
- Michael Schoenhals, ed., China's Cultural Revolution, 1966-1969: Not a Dinner Party (Armonk, N.Y.: M.E. Sharpe, 1996. An East Gate Reader). xix, 400p. ISBN 1563247364.
- MacFarquhar, Roderick and Schoenhals, Michael. Mao's Last Revolution. Harvard University Press, 2006. ISBN 0674023323
- Morning Sun, "Bibliography," Morningsun.org Books and articles of General Readings and Selected Personal Narratives on the Cultural Revolution.
Chủ đề chuyên sâu
- Chan, Anita. 1985. Children of Mao: Personality Development and Political Activism in the Red Guard Generation. Seattle: University of Washington Press.
- Chan, Che Po. 1991. From Idealism to Pragmatism: The Change of Political Thinking among the Red Guard Generation in China. Ph.D. diss., University of California, Santa Barbara.
- Zheng Yi. Scarlet Memorial: Tales of Cannibalism in Modern China. Westview Press, 1998. ISBN 0813326168
- Yang, Guobin. 2000. China's Red Guard Generation: The Ritual Process of Identity Transformation, 1966-1999. Ph.D. diss., New York University.
- Fox Butterfield, China: Alive in the Bitter Sea, (1982, revised 2000), ISBN 0-553-34219-3, an oral history of some Chinese people's experience during the Cultural Revolution.
- Chang, Jung and Halliday, Jon. Mao: The Unknown Story. Jonathan Cape, London, 2005. ISBN 0224071262
Khác
- Simon Leys (penname of Pierre Ryckmans) Broken Images: Essays on Chinese Culture and Politics (1979). ISBN 0-8052-8069-3
- - Chinese Shadows (1978). ISBN 0-670-21918-5; ISBN 0-14-004787-5.
- - The Burning Forest: Essays on Chinese Culture and Politics (1986). ISBN 0-03-005063-4; ISBN 0-586-08630-7; ISBN 0-8050-0350-9; ISBN 0-8050-0242-1.
- - The Chairman's New Clothes: Mao and the Cultural Revolution (1977; revised 1981). ISBN 0-85031-208-6; ISBN 0-8052-8080-4; ISBN 0-312-12791-X; ISBN 0-85031-209-4; ISBN 0-85031-435-6 (revised ed.).
- Liu, Guokai. 1987. A Brief Analysis of the Cultural Revolution. edited by Anita Chan. Armonk, N.Y.: M. E. Sharpe.
- Sijie Dai, translated by Ina Rilke, Balzac and the Little Chinese Seamstress (New York: Knopf: Distributed by Random House, 2001). 197p. ISBN 2001029865
- Xingjian Gao, translated by Mabel Lee, One Man's Bible: A Novel (New York: HarperCollins, 2002). 450p.
- Hua Gu, A Small Town Called Hibiscus (Beijing, China: Chinese Literature: distributed by China Publications Centre, 1st, 1983. Panda Books). Translated by Gladys Yang. 260p. Reprinted: San Francisco: China Books.
- Hua Yu, To Live: A Novel (New York: Anchor Books, 2003). Translated by Michael Berry. 250p.
- Nien Cheng, Life and Death in Shanghai (Grove, May 1987). 547 pages ISBN 0394555481
- Jung Chang, Wild Swans: Three Daughters of China (New York: Simon & Schuster, 1991). 524 p. ISBN 91020696
- Heng Liang Judith Shapiro, Son of the Revolution (New York: Knopf: Distributed by Random House, 1983).
- Yuan Gao, with Judith Polumbaum, Born Red: A Chronicle of the Cultural Revolution (Stanford, CA: Stanford University Press, 1987).
- Jiang Yang Chu translated and annotated by Djang Chu, Six Chapters of Life in a Cadre School: Memoirs from China's Cultural Revolution [Translation of Ganxiao Liu Ji] (Boulder: Westview Press, 1986).
- Bo Ma, Blood Red Sunset: A Memoir of the Chinese Cultural Revolution (New York: Viking, 1995). Translated by Howard Goldblatt.
- Guanlong Cao, The Attic: Memoir of a Chinese Landlord's Son (Berkeley: University of California Press, 1996).
- Ji-li Jiang, Red Scarf Girl: A Memoir of the Cultural Revolution (New York: HarperCollins, 1997).
- Anchee Min, Red Azalea (New York: Pantheon Books, 1994). ISBN 1-4000-9698-7.
- Rae Yang, Spider Eaters: A Memoir (Berkeley: University of California Press, 1997).
- Weili Ye, Xiaodong Ma, Growing up in the People's Republic: Conversations between Two Daughters of China's Revolution (New York: Palgrave Macmillan, 2005).
- Lijia Zhang, "Socialism Is Great": A Worker's Memoir of the New China (New York: Atlas & Co, Distributed by Norton, 2007).
- Emily Wu, Feather in the Storm (Pantheon, 2006). ISBN 978-0-375-42428-1.
- Xinran Xue, The Good Women of China: Hidden Voices (Chatto & Windus, 2002). Translated by Esther Tyldesley. ISBN 0701173459
- Ting-Xing Ye, Leaf In A Bitter Wind (England, Bantam Books, 2000)
Video
- China Great Leap Forward Mao Zedong
- Video of Peng Dehuai, Peng Zhen, Wu Han (PRC), Zhang Wentian and others being paraded in public.
- Chinese documentary:with English subtitle《Though I am Gone 2》[liên kết hỏng]
Liên kết ngoài
Tìm thêm về Cách mạng văn hóa tại những đồng dự án của Wikipedia: | |
Từ điển ở Wiktionary | |
Sách ở Wikibooks | |
Cẩm nang du lịch ở Wikivoyage | |
Hồ sơ ở Wikiquote | |
Văn kiện ở Wikisource | |
Hình ảnh và phương tiện ở Commons | |
Tin tức ở Wikinews | |
Tài liệu giáo dục ở Wikiversity |
- Encyclopedia Britannica. The Cultural Revolution
- History of The Cultural Revolution
- Chinese propaganda posters gallery (Cultural Revolution, Mao, and others)
- Hua Guofeng's speech to the 11th Party Congress, 1977
- Morning Sun - A Film and Website about Cultural Revolution and the photographs of the subject available from the film's site.
- Memorial for Victims of the Chinese Cultural Revolution
- Exhibition causes stir with candid views of 'great' Mao The Times, July 14, 2005
- Chinese Museum Looks Back in Candor: Groundbreaking New Exhibit on Cultural Revolution Sparks Official Displeasure but Visitors' Praise from the Washington Post, June 3, 2005
- "William Hinton on the Cultural Revolution" by Dave Pugh
- "Student Attacks Against Teachers: The Revolution of 1966" by Youqin Wang
- A Tale of Red Guards and Cannibals by Nicholas D. Kristof. The New York Times, January 6, 1993.
- The new face of the cultural revolution in China, by Rainer Hurtado Navarro, November 26th., 2010.
|
Thể loại:
Video yêu thích - Lịch sử Trung Quốc
- Mao Trạch Đông
- Lịch sử Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa\
Hà Thành đầu độc
Bách khoa toàn thư mở WikipediaVụ Hà Thành đầu độc là vụ mưu sát và binh biến trong hàng ngũ bồi bếp và binh lính người Việt Nam phục vụ cho quân Pháp đóng ở thành Hà Nội diễn ra ngày 27 tháng 6 năm 1908. Mục đích của họ nhằm đầu độc quân Pháp để chiếm Hà Nội, thêm sự tiếp ứng và chỉ đạo từ bên ngoài của nghĩa quân Hoàng Hoa Thám, cùng với sự tham gia của Phan Bội Châu trong việc vạch kế hoạch để tạo cuộc khởi nghĩa đánh đuổi người Pháp.
Mục lục
Diễn biến trong thành Hà Nội
Lực lượng làm binh biến là các bồi bếp và binh lính người Việt (lính khố đỏ) thuộc trung đội công nhân pháo thủ Hà Nội nằm trong trung đoàn pháo binh bảo vệ thành Hà Nội của Pháp. Đứng đầu nhóm này là bếp Hiên, còn gọi là Hai Hiên, cùng với bếp Xuân, bếp Nhiếp, Đặng Đình Nhân tức "đội Nhân" (chức cai đội), Nguyễn Trí Bình, Dương Bé,... tất cả có trên 10 người. Nhóm có nhiệm vụ nội ứng bên trong: đầu độc 2000 binh lính Pháp thuộc hai trung đoàn pháo binh và bộ binh Pháp đóng trong thành Hà Nội, rồi bắn pháo hiệu làm hiệu lệnh tiến công cho các cánh quân của nghĩa quân chống Pháp đánh vào thành Hà Nội. Tuy vậy mật vụ Pháp đã biết trước một phần kế hoạch do nghi ngờ các hoạt động của bếp Hiên. Trong bữa tối ngày 27 tháng 6 năm 1908, toàn bộ 200 lính Pháp được cho ăn cà độc dược và trúng độc, nhưng ngay sau đó quân Pháp báo động toàn thành và toàn bộ lính người Việt trong thành tham gia khởi nghĩa, chưa kịp bắn ba phát đại bác như đã định, thì đã bị tước vũ khí và bị bắt giam. Ngày hôm sau Pháp đem ra xử và khép tội tử hình đối với 13 binh lính và bồi bếp người Việt. Số lính Pháp thì không có ai thiệt mạng vì độc dược.[1]
Các cánh quân tiếp ứng bên ngoài
Lực lượng tiếp ứng bên ngoài gồm 3 cánh quân:
- Một đội nghĩa quân chống Pháp được lệnh đánh thẳng vào Đồn thủy phía bờ sông (nằm ở vị trí bệnh viện Quân đội 108 ngày nay);
- Một mũi chờ sẵn trên các thuyền đậu gần một xưởng thuốc lá (có lẽ là trên bờ hồ Trúc Bạch hay hồ Tây) tiến đánh thẳng vào cửa Bắc.
- Cánh quân thứ ba, trong đó 20 người là người của Hoàng Hoa Thám, được trang bị súng lục, chờ sẵn trước vọng lâu của phủ Toàn quyền, chuẩn bị đánh trại lính khố đỏ ở phía Tây (của nơi tập kết).
Phản ứng của nhà cầm quyền Đông Pháp
Xử tử
Hội đồng đề hình (tiếng Pháp: Commission criminelle) thành lập ngày 28 tháng 6 năm 1908 có De Mirabel làm chánh thẩm, Duvillier (sau bị thay thế bởi Bosc) và Villain làm bồi thẩm. Công tố viên là Grillaud des Fontaines kết tội lính Việt "xâm phạm nền an ninh của chính phủ Bảo hộ".[2]
Ngày 8 tháng 7 năm 1908, quân Pháp đưa 3 người đầu tiên: Đặng Đình Nhân, Nguyễn Trị Bình (Tư Bình), và Nguyễn Văn Cốc (Dương Bé) ra xử chém ở phía trước cột cờ Hà Nội (tại vườn hoa Chi Lăng ngày nay). Sau đó quân Pháp bêu đầu của các nghĩa quân bị chém, nhằm ra oai và khủng bố tinh thần dân Việt, để làm thui chột sự phản kháng của người Việt yêu nước.
Ngày 3 tháng 8 năm 1908 xử tử thêm ba người: Nguyễn Văn Hiên (Bếp Hiên), Cai Ngà, và Bếp Xuân. Ngày 29 thì hành quyết ba người nữa: Lang Sẹo, Cai Xe và Cai Tôn. Cuối cùng ngày 27 tháng 11 năm 1908 thì bốn người cuối cùng bị chém: Đỗ Văn Đàm (Đồ Đàm), Đội Hổ, Lý Chánh, và Vinh.
Ngoài 13 người phải tội chém, Hội đồng đề hình tuyên án sáu người khác tử hình khiếm diện, tổng cộng là 19 bị tội phải chết[2]. Địa điểm chém là Vườn Bàng ở gần chợ Bưởi. Mộ tập thể không đầu của 9 người này lúc đầu chôn ngay tại pháp trường. Về sau khi người Pháp lấy Vườn Bàng làm xưởng nhuộm thảm thì mộ bị chuyển tới một khu đất thuộc Nghĩa Đô, Từ Liêm. Năm 1988, ngôi mộ này đã được xác định chính xác là nằm tại vườn nhà ông Nguyễn Đức Hỷ, xóm 2 phường Nghĩa Đô, quận Cầu Giấy Hà Nội.
Án tù
Ngoài những án tử hình, Hội đồng đề hình xét bốn người bị tù khổ sai chung thân, 26 bị khổ sai hữu hạn (5-20 năm tù), và 10 bị án 1-5 năm tù. Tổng cộng hình án là 59 người.[2]
Tầm ảnh hưởng của vụ án
Tham khảo
- Hoàng Cơ Thụy. Việt sử khảo luận. Paris: Nam Á, 2002.
Chú thích
Liên kết ngoài
- [1][2][3][4][5][6] 100 năm vụ "Hà Thành đầu độc" - Phóng sự trên báo Tuổi Trẻ
- Ngày này năm xưa-những sự kiện lịch sử ngày 27/6
- Lật lại hồ sơ vụ Hà thành đầu độc, báo Hà Nội mới điện tử, ngày 20/9/2004
Phong trào độc lập Việt NamSự kiện Đánh Đà Nẵng • Chiếm Gia Định • Thực dân hoá Nam Kỳ • Trận Trà Kiệu • Khởi nghĩa Ba Đình • Bình định Bắc Kỳ • Trận Tà Lùng • Hà Thành đầu độc • Thế chiến I • Phong trào hội kín Nam Kỳ • Khởi nghĩa Thái Nguyên • Ám sát Bazin • Xô Viết Nghệ Tĩnh • Khởi nghĩa Yên Bái • Thế chiến II • Cách mạng tháng Tám • Tuyên ngôn độc lập • Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất • Hiệp định GenevaTổ chức Các lãnh đạo khởi nghĩa Các nhà văn yêu nước Các nhà cách mạng Việt Nam Vua nhà Nguyễn Bộ máy cai trị Pháp Người cộng tác
http://www.youtube.com/user/hoangkimvietnam
Trở về trang chính
Hoàng Kim, hoangkim, hoangkimvietnam, Ngọc Phương Nam, Chào ngày mới Thung dung, Dạy và học, Cây Lương thực, Tin Nông nghiệp Việt Nam, Food Crops, Cassava in Vietnam, Khát khao xanh, Dayvahoc, Học mỗi ngày, Danh nhân Việt , Food Crops News, Điểm chính, CNM365, Kim LinkedIn, KimTwitter, KimFaceBook Đọc lại và suy ngẫm, Việt Nam tổ quốc tôi, Tình yêu cuộc sống, Thơ cho con
No comments:
Post a Comment