Rùa đảo Pinta
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Rùa đảo Pinta | |
---|---|
George cô độc, cá thể cuối cùng của phân loài rùa đảo Pinta, đã chết ngày 24-6-2012. |
|
Tình trạng bảo tồn | |
Phân loại khoa học | |
Giới (regnum) | Animalia |
Ngành (phylum) |
Chordata |
(không phân hạng) | Craniata |
Phân ngành (subphylum) | Vertebrata |
Cận ngành (infraphylum) | Gnathostomata |
Liên lớp (superclass) | Tetrapoda |
Lớp (class) | Sauropsida Reptilia |
Phân lớp (subclass) | Anapsida |
Bộ (ordo) | Testudines |
Phân bộ (subordo) | Cryptodira |
Liên họ (superfamilia) | Testudinoidea |
Họ (familia) | Testudinidae |
Chi (genus) | Chelonoidis |
Loài (species) | abingdonii |
Danh pháp hai phần | |
Chelonoidis abingdonii Günther, 1877 |
|
Danh pháp đồng nghĩa | |
Testudo abingdonii Günther, 1877
Testudo ephippium Günther, 1875 Chelonoidis nigra abingdoni Geochelone nigra abingdoni Geochelone abingdonii |
Mục lục
Lịch sử
George cô độc được nhà nghiên cứu động vật thân mềm người Hungary Joseph Vagvolgyi nhìn thấy lần đầu trên đảo Pinta (đảo Abingdon) vào ngày 1 tháng 12 năm 1971. Do sự xuất hiện của loài dê hoang dã trên đảo, thảm thực vật của Pinta đã bị mai một đáng kể dẫn tới sự suy giảm số lượng của C. nigra abingdonii, phân loài rùa sống trên đảo mà khi đó George được coi là cá thể còn sống sót cuối cùng. Sau khi được phát hiện, George cô độc được chuyển về Trung tâm Nghiên cứu Charles Darwin. Ngày 24-6-2012, George cô độc đã chết vì nguyên nhân chưa rõ[7][8]. Người ta tin rằng nó đã trên 100 tuổi, và cân nặng tới 91 kg (200 lbs). Sự kiện này đánh dấu sự tuyệt chủng hoàn toàn của phân loài rùa này[9].Khả năng còn tồn tại trong tự nhiên của phân loài
Tháng 5 năm 2007, một phân tích chuỗi gen (genomic microsatellites) đưa ra kết luận rằng có thể một số cá thể khác của phân loài Chelonoidis nigra abingdoni vẫn còn tồn tại.[10] Các nhà nghiên cứu đã xác định một con rùa đực trên Isabela có một nửa gen giống với phân loài của George. Có thể đây là một cá thể lai đời thứ nhất giữa phân loài đảo Pinta và phân loài đảo Isabela.[10] Và như vậy rất có thể một cá thể rùa Pinta thuần chủng vẫn còn sống giữa 2.000 con rùa trên đảo Isabela.[11]Nỗ lực nhân giống
George được cho cặp đôi với hai con rùa cái khác của phân loài Chelonoidis nigra becki có nguồn gốc từ đảo Wolf với hy vọng rằng kiểu di truyền của George sẽ được bảo tồn qua quá trình sinh sản. Phân loài này được coi là gần gũi nhất về mặt gen so với phân loài mà George đại diện, tuy nhiên bất cứ con cháu nào của George và các con rùa cái cũng chỉ là dạng quá độ chứ không phải là một cá thể thuần chủng của loài rùa trên đảo Pinta.[8]Trong vài thập niên, những nỗ lực nhân giống phân loài của George đều thất bại, lý do rất có thể là vì sự thiếu vắng một con cái thuộc phân loài này, vì vậy các nhà nghiên cứu của Trung tâm Darwin đã đưa ra giải thưởng trị giá 10.000 đô la Mỹ cho ai tìm được một con rùa cái phù hợp với George.[2] Ngày 21 tháng 7 năm 2008, có tin rằng George đã bất ngờ giao phối với một trong các con rùa cái, tổng cộng người ta đã thu được 13 quả trứng và chúng lập tức được đưa vào lò ấp.[12] Tuy nhiên tới ngày 11 tháng 11 thì Trung tâm Darwin xác nhận rằng 80% số trứng có vấn đề[12][13] và tới tháng 12 thì số trứng còn lại cũng không thể ấp nở, việc kiểm tra bằng tia X cho thấy rằng chúng đã bị hỏng.[14]
Ngày 21 tháng 7 năm 2009, đúng một năm sau sự kiện năm 2008, Vườn quốc gia Galápagos rằng một con rùa cái khác sống cùng George đã đẻ ra thêm 5 quả trứng mới.[15] Lượt trứng này cũng lập tức đưa vào phòng ấp với hy vọng rằng đây là những quả trứng đã được thụ tinh thực sự.[16]
Tham khảo
- ^ Geochelone nigra, Sách đỏ IUCN
- ^ a ă â Gardner, Simon (6 tháng 2 năm 2001). “Lonesome George faces own Galapagos tortoise curse”. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 6 năm 2011. Truy cập ngày 11 tháng 1 năm 2012.
- ^ a ă Proceso de Relaciones Públicas de la Dirección del Parque Nacional Galápagos (24 tháng 6 năm 2012). “El mundo pierde al solitario George”. Truy cập ngày 25 tháng 6 năm 2012.
- ^ “Lonesome George, last-of-his-kind Galapagos tortoise, dies”. 25 tháng 6 năm 2012.
- ^ Raferty, Isolde. “Lonesome George, last-of-its-kind Galapagos tortoise, dies”. MSNBC.com. Truy cập ngày 24 tháng 6 năm 2012.
- ^ Nicholls, H (2006), Lonesome George: The Life and Loves of a Conservation Icon, London: Macmillan Science, ISBN 1-4039-4576-4
- ^ “Lonesome George, last-of-his-kind Galapagos tortoise, dies”. Chicago Tribune. Reuters. 24 tháng 6 năm 2012.
- ^ a ă “Joy at giant tortoise eggs”. BBC. 23 tháng 7 năm 2008.
- ^ Alvear, Cecilia (24 tháng 6 năm 2012). “Lonesome George RIP!”. Galápagos Digital.
- ^ a ă Russello, Michael A.; Beheregaray, Luciano B.; Gibbs, James P.; Fritts, Thomas; Havill, Nathan; Powell, Jeffrey R.; Caccone., Adalgisa (1 tháng 5 năm 2007), “Lonesome George is not alone among Galápagos tortoises”, Current Biology 17 (9): R317–R318, doi:10.1016/j.cub.2007.03.002
- ^ “Iconic tortoise George may not be last of his kind”. 2007-05-01. Truy cập ngày 20 tháng 10 năm 2007.
- ^ a ă “Dwindling Hopes of Offspring from Lonesome”. Charles Darwin Foundation. Truy cập 11 tháng 11 năm 2008.
- ^ “Galapagos bachelor tortoise struggles to be a dad”. CBC. 11 tháng 11 năm 2008.
- ^ “Lonesome George's first sex in decades ends in disappointment”. The Telegraph. Truy cập 27 tháng 1 2009.
- ^ “New eggs spark Galapagos tortoise hopes”. WA Today. 22 tháng 7 năm 2009. Truy cập ngày 22 tháng 7 năm 2009.
- ^ “Lonesome George, the last Galápagos giant tortoise, may become a dad”. The Guardian. 22 tháng 7 năm 2009. Truy cập ngày 22 tháng 7 năm 2009.
Liên kết ngoài
Wikimedia Commons có thêm thể loại hình ảnh và tài liệu về Rùa đảo Pinta |
- Thông tin trên trang của Charles Darwin Research Station
- Lonesome George Dies.
Thể loại:
http://www.youtube.com/user/hoangkimvietnam
Trở về trang chính
Hoàng Kim, hoangkim, hoangkimvietnam, Ngọc Phương Nam, Chào ngày mới Thung dung, Dạy và học, Cây Lương thực, Tin Nông nghiệp Việt Nam, Food Crops, Cassava in Vietnam, Khát khao xanh, Dayvahoc, Học mỗi ngày, Danh nhân Việt , Food Crops News, Điểm chính, CNM365, Kim LinkedIn, KimTwitter, KimFaceBook Đọc lại và suy ngẫm, Việt Nam tổ quốc tôi, Tình yêu cuộc sống, Thơ cho con
- Loài tuyệt chủng
- Chelonoidis
- Rùa nổi tiếng
- Động vật đặc hữu của Quần đảo Galápagos
- Tuyệt chủng trong tự nhiên
- Testudo
- Geochelone
Manila
Bách khoa toàn thư mở WikipediaManila
Maynilà— Thành phố thủ đô — Thành phố Manila
City of Manila
Lungsod ng MaynilàTừ trái sang phải: Quang cảnh vịnh Manila, Bưu cục Trung tâm Manila, Tòa Thị chính Manila, Đài Kỷ niệm Rizal, Binondo, Cung điện Malacañang, vịnh Manila, Nhà thờ Tondo
Lá cờ
Con dấu
Huy hiệuBiệt danh: Pearl of the Orient[1]
The City of Our Affections
Distinguished and Ever Loyal CityBản đồ Vùng đô thị Manila thể hiện vị trí của thành phố Manila Bản đồ Philippines thể hiện vị trí của Manila Tọa độ: 14°35′B 120°58′ĐTọa độ: 14°35′B 120°58′Đ Quốc gia Philippines Vùng Vùng thủ đô quốc gia Vương quốc Maynila k.1500 Thành phố Tây Ban Nha Manila 24 tháng 6 năm 1571 Barangay 897 Chính quyền - Viên chức Joseph Estrada Diện tích [2] - Thành phố 38,55 km² (14,9 mi²) - Đô thị 1.474,82 km² (569,4 mi²) - Vùng đô thị 638,55 km² (246,5 mi²) Độ cao 16,0 m (52 ft) Dân số (2010)[4] - Thành phố 1.652.171 - Mật độ 42.857/km² (110.999,1/mi²) - Đô thị 21.241.000 ('13)[3] - Mật độ đô thị 15,400/km² (39,9/mi²) - Vùng đô thị 11.855.975 - Mật độ vùng đô thị 18.567/km² (48.088,3/mi²) Múi giờ PST (UTC+8) Mã bưu chính 0900 dến 1096 Mã điện thoại 2 Thành phố kết nghĩa Astana, Bangkok, Bắc Kinh, Bucharest, Cartagena, Colombia, Quảng Châu, Haifa, La Habana, Thành phố Hồ Chí Minh, Honolulu, Incheon, Jakarta, Thành phố Jersey, Lima, Lyon, Madrid, Málaga, Quận Maui, Hawaii, Thành phố México, Montréal, Moskva, New Delhi, Nice, Ōsaka (thành phố), Sacramento, California, San Francisco, Santiago de Chile, Q1861984[?], Sydney, Đài Trung, Đài Bắc, Takatsuki, Tehran, Winnipeg, Yokohama, Santiago de Cali, Acapulco de Juárez Website: www.manila.gov.ph
Manila cùng với Vùng đô thị Manila là trung tâm kinh tế và chính trị của Philippines, thương nghiệp phát triển và có một số cảnh quan có tầm quan trọng đáng kể về lịch sử và văn hóa tại Philippines. Manila là nơi đặt trụ sở của các nhánh hành pháp và tư pháp của chính phủ trung ương. Manila được xác định là một thành phố toàn cầu, có nhiều cơ cấu khoa học và giáo dục, cơ sở thể thao, và những địa điểm văn hóa lịch sử quan trọng khác.[7]
Ghi chép sớm nhất về thành phố là trong thế kỷ 10. Sau đó, khu vực thành phố trở thành bộ phận của Đế quốc Majapahit, rồi bị Brunei xâm chiếm. Đến thế kỷ 15, khu vực bị Hồi giáo hóa trên danh nghĩa cho đến khi những nhà chinh phục người Tây Ban Nha đến. Manila cuối cùng trở thành trung tâm cho các hoạt động của Tây Ban Nha tại Viễn Đông, là một đầu của tuyến mậu dịch thuyền buồm Manila-Acapulco kết nôi châu Âu, Mỹ Latinh và châu Á. Sau đó, tại Manila xảy ra một số cuộc khởi nghĩa của người Hoa và của người bản địa, Anh Quốc chiếm đóng, và binh biến Sepoy.[8] Cuối thế kỷ 19, người Mỹ thay thế người Tây Ban Nha cai trị Philippines, họ có những đóng góp về quy hoạch đô thị của thành phố[9] song hầu hết các tiến bộ này biến mất do sự tàn phá trong Chiến tranh thế giới thứ hai.[10] Kể từ đó, thành phố được tái thiết và phát triển nhanh chóng.
Mục lục
Lịch sử
Các bằng chứng sớm nhất về sinh hoạt của loài người trong và quanh khu vực Manila được phát hiện thông qua các tranh khắc đá Angono thuộc tỉnh Rizal lân cận, có niên đại từ khoảng năm 3000 TCN. Người Negrito thuộc chủng tộc Australoid là các cư dân nguyên thủy của Philippines. Họ hiện diện trên khắp Luzon trước khi những người Mã Lai-Đa Đảo nhập cư đến và đồng hóa họ.[11]
Vương quốc Maynila trở nên hưng thịnh và hậu kỳ triều Minh nhờ các quan hệ mậu dịch trực tiếp với Trung Quốc. Tondo Cổ duy trì địa vị là kinh đô theo truyền thống của quốc gia, các quân chủ của nó là quốc vương và không chỉ là những tù trưởng, và được gọi với các tên khác nhau như panginuan trong tiếng Meranau hay panginoón trong tiếng Tagalog. Hoàng đế Trung Hoa nhìn nhận các quân chủ Manila cổ là "vương". Trong thế kỷ 13, thành phố gồm có một điểm định cư kiên cố và phố mậu dịch bên bờ sông Pasig. Đế quốc Ấn Độ hóa Majapahit trên đảo Java sau đó xâm chiếm Manila theo như ghi chép trong Nagarakretagama, theo đó người tiến hành chinh phạt là quân chủ Hayam Wuruk.[12]
Trong thời gian trị vì của Quốc vương Bolkiah từ 1485 đến 1521, Vương quốc Brunei xâm chiếm khu vực với mục đích tận dụng quan hệ mậu dịch với Trung Quốc của Tondo, lập nên "Kota Saludong" (nay là Manila). Họ cai trị và gửi cống phẩm hàng năm cho Quốc vương Brunei với tình trạng là quốc gia vệ tinh.[13] Họ lập nên một triều đại mới dưới quyền thủ lĩnh địa phương, người này chấp nhận Hồi giáo và trở thành Rajah Salalila hay Tariq Sulayman I. Hồi giáo được củng cố hơn nữa khi có các thương nhân Hồi giáo đến từ khu vực Ả Rập-Ấn Độ và Đông Nam Á.[14]
Nhà chinh phục người Tây Ban Nha Miguel López de Legazpi đến từ Tân Tây Ban Nha (nay là Mexico), và sau đó cai trị thành phố Manila như một lãnh thổ của Tân Tây Ban Nha với việc thành lập một hội đồng thành phố tại nơi mà nay là quận Intramuros vào ngày 24 tháng 6 năm 1571.[15] Người Tây Ban Nha lập Manila làm thủ đô của Đông Ấn thuộc Tây Ban Nha. Kế hoạch Tondo có sự tham gia của các thương gia Nhật bản, các vương của Luzon và một số Datu và Rajah cùng với Vương quốc Brunei với mục đích tiêu diệt người Tây Ban Nha và các lính đánh thuê người da đỏ, nô lệ châu Phi và các đồng minh Visaya. Tuy nhiên, kế hoạch thất bại và López de Legazpi cho hành quyết quân chủ bản địa.
Manila trở nên nổi tiếng với tuyến mậu dịch thuyền buồm Manila-Acapulco kéo dài trong ba thế kỷ, đem hàng hóa từ châu Âu, châu Phi và Mỹ Latinh qua các đảo Thái Bình Dương đến Đông Nam Á, rồi từ đó có thể tiếp cận với Trung Quốc và Ấn Độ, cũng như theo hành trình ngược lại. Bạc khai thác tại Mexico và Peru được dùng để đổi lấy tơ lụa Trung Quốc, ngọc Ấn Độ, cùng các gia vị của Đông Nam Á, một số còn được đưa đến châu Âu. Tương tự, rượu vang và ôliu từ châu Âu và Bắc Phi cũng được đưa đến Manila thông qua Mexico.[16]
Trong thời gian diễn ra Chiến tranh Bảy Năm, Anh Quốc chiếm đóng Manila từ năm 1762 đến 1764.[17] Cuối cùng, người Anh triệt thoái theo các điều khoản của Hiệp định Paris (1763).[18] Việc Mexico độc lập vào năm 1821 đòi hỏi người Tây Ban Nha phải trực tiếp cai trị Philippines.[19] Dưới sự quản lý trực tiếp của Tây Ban Nha, ngân hàng, công nghiệp và giáo dục trở nên hưng thịnh hơn so với hai thế kỷ trước.[20] Sự thịnh vượng và giáo dục ngày càng phát triển thu hút người nhập cư Ấn Độ, Trung Quốc, Latinh, châu Âu và từ các tỉnh khác của Philippines đến Manila, tất cả họ đều lựa chọn thuộc dân tộc Filipino mới hình thành.[21]
Sau Chiến tranh Tây Ban Nha-Mỹ năm 1898, Tây Ban Nha chính thức nhượng Philippines cho Hoa Kỳ. Đệ nhất Cộng hòa Philippines đặt nền tảng tại Bulacan gần đó chiến đấu chống lại người Mỹ nhằm kiểm soát thành phố Manila,[22] song thất bại.
Dưới quyền cai quản của Hoa Kỳ, Chính phủ của Quần đảo Philippines mà đứng đầu là Toàn quyền William Howard Taft mời nhà quy hoạch đô thị Daniel Burnham giúp chuyển đổi Manila cổ thích nghi với thời đại.[23] Kế hoạch Burnham Plan gồm có phát triển hệ thống đường bộ, sử dụng đường thủy để vận chuyển, và chỉnh trang Manila bằng việc cải thiện bờ sông, xây các công viên, đại lộ và các tòa nhà phục vụ các mục đích khác nhau.[24][25]
Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, thành phố bị quân đội Nhật Bản chiếm đóng vào ngày 2 tháng 1 năm 1942. Liên quân Hoa Kỳ và Philippines tái chiếm thành phố trong trận chiến đẫm máu nhất trên chiến trường Thái Bình Dương trong đại chiến, kéo dài từ 3 tháng 2 đến 3 tháng 3 năm 1945. Có khoảng 100.000 thường dân thiệt mạng tại Manila trong tháng 2 năm 1945.[26] Kết thúc đại chiến, hầu như toàn bộ các công trình kiến trúc trong thành phố đều bị phá hủy do giao tranh, việc tái thiết được tiến hành.
Năm 1948, Tổng thống Elpidio Quirino chuyển trụ sở chính phủ Philippines đến thành phố Quezon, nguyên là ngoại ô tại đông bắc Manila.[27] Arsenio Lacson được bầu làm thị trưởng dân cử đầu tiên của thành phố vào năm 1952, Manila trải qua "thời kỳ hoàng kim" dưới nhiệm kỳ của ông,[28] và được tái sinh. Các thị trưởng kế tiếp là Antonio Villegas và Ramon Bagatsing (một người Ấn Độ-Philippines). Các thị trưởng Lacson, Villegas, và Bagatsing thường được gọi chung là "tam đại nhân của Manila", họ quản lý thành phố trong giai đoạn 1952–1986, có đóng góp cho phát triển và tiến bộ của thành phố.
Dưới chế độ độc tài của Tổng thống Ferdinand Marcos, khu vực Đại Manila được thành lập vào ngày 1 tháng 11 năm 1975 với tình trạng là một đơn vị hợp nhất. Khu vực bao gồm các thành phố và thị trấn có chính quyền riêng biệt.[29] Trong dịp kỷ niệm 405 ngày thành lập thành phố, vào 24 tháng 6 năm 1976, Ferdinand Marcos phục hồi tình trạng thủ đô của Manila do tầm quan trọng lịch sử. Sắc lệnh tổng thống số 940 ghi rằng Manila luôn là thành phố hàng đầu Philippines trong vai trò là trung tâm mậu dịch, thương nghiệp, giáo dục và văn hóa.[30]
Năm 1992, Alfredo Lim trở thành thị trưởng gốc Hoa đầu tiên của Manila, ông nổi tiếng với các chiến dịch chống tham nhũng. Thị trưởng kế tiếp là Lito Atienza, người này nổi tiếng với chiến dịch "Buhayin ang Maynila" (Phục hưng Manila), trong đó thành lập một vài công viên và cải tạo các cơ sở hạ tầng xuống cấp trong thành phố. Alfredo Lim đắc cử thị trưởng năm 2007 khi đánh bại con trai của Lito Atienza là Ali Atienza, và ngay lập tức đảo ngược toàn bộ các dự án của Lito Atienza[31] Trong cuộc tuyển cử địa phương năm 2010, Alfredo Lim lại giành chiến thắng trước Lito Atienza. Đến năm 2013, cựu Thổng thống Joseph Estrada đánh bại Alfredo Lim trong cuộc đua tranh chức thị trưởng.
Địa lý
Manila nằm ở bờ đông của vịnh Manila, thuộc ven bờ phía tây của đảo Luzon. Thành phố nằm cách đại lục châu Á 800 dặm (1.300 kilômét).[32] Sông Pasig chia đôi thành phố. Hầu hết thành phố nằm trên lớp đất phù sa được bồi đắp nhờ nước sông Pasig, và trên một số đất cải tạo từ vịnh Manila.
Đất liền của thành phố bị thay đổi về căn bản do sự can thiệp của con người, với hoạt động cải tạo đất quy mô đáng kể từ thời thuộc địa của Mỹ. Một số biến đổi tự nhiên về địa hình cũng xảy ra do đô thị hóa. Thành phố có diện tích 38,55 kilômetre vuông (14,88 sq mi).
Manila được chia thành 897 barangay, đơn vị chính quyền địa phương nhỏ nhất tại Philippines. Mỗi barangay có chủ tịch và các tham tán riêng. Để thuận tiện cho hành chính, toàn bộ các barangay tại Manila được nhóm thành 100 khu. Manila gồm có 16 thị trấn và khu tự quản cũ, vốn bị thành phố bãi bỏ vào thế kỷ 19. Các khu định cư này nay là các địa điểm trong thành phố.
Do rác thải công nghiệp và phụ thuộc cao vào ô tô, Manila bị ô nhiễm không khí[33][34] dưới dạng khói mù[35] vốn ảnh hưởng đến 98% cư dân trong thành phố[36] và khiến hơn 4.000 người tử vong mỗi năm.[37] Một số sông tại Manila được xác định là chết về mặt sinh học. Sông Pasig mỗi ngày tiếp nhận 150 tấn rác thải sinh hoạt và 75 tấn rác thải công nghiệp theo một báo cáo vào năm 2003, nay là một trong những sông ô nhiễm nhất trên thế giới.[38]
Khí hậu
Theo hệ thống phân loại khí hậu Köppen, Manila có khí hậu nhiệt đới xa van tiếp giáp với một khí hậu nhiệt đới gió mùa. Cùng với phần còn lại của Philippines, Manila nằm hoàn toàn trong nhiệt đới. Với vị trí gần xích đạo, nhiệt độ tại Manila dao động rất nhỏ, hiếm khi xuống dưới 20 °C (68 °F) hay trên 38 °C (100 °F) .
Độ ẩm thưởng rất cao suốt năm. Manila có một mùa khô riêng biệt từ cuối tháng 12 đến tháng 5, và một mùa mưa tương đối dài hơn và mát hơn trong giai đoạn còn lại với nhiệt độ từ ôn hòa đến ấm. Trong mùa mưa, hiếm khi có mưa cả ngày song rất lớn trong một thời gian ngắn. Bão có thể xuất hiện từ tháng 6 đén tháng 9 và có thể gây nhập nhiều nơi trong thành phố.[39]
[ẩn]Dữ liệu khí hậu của Manila, Philippines Tháng 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 Năm Trung bình cao °C (°F) 30.2 31.1 32.8 34.3 34.2 32.4 31.3 31.8 31.1 31.2 31.0 30.3 31.81 Trung bình ngày, °C (°F) 25.6 26.1 27.6 29.1 29.5 28.4 27.7 27.4 27.6 27.3 26.9 26.0 27.43 Trung bình thấp, °C (°F) 20.9 21.1 22.5 24.0 24.8 24.4 24.1 24.0 24.0 23.5 22.8 21.6 23.14 Giáng thủy mm (inches) 19
(0.75)7.9
(0.311)11.1
(0.437)21.4
(0.843)165.2
(6.504)265
(10.43)419.6
(16.52)486.1
(19.138)330.3
(13.004)270.9
(10.665)129.3
(5.091)75.4
(2.969)2.201,2
(86,661)Số ngày mưa TB 1 1 1 1 7 14 16 19 17 13 9 5 104 Số giờ nắng trung bình hàng tháng 186 197.8 217 270 217 150 124 124 120 155 150 155 2.065,8 Nguồn #1: Tổ chức Khí tượng Thế giới[40] Nguồn #2: Đài Thiên văn Hồng Kông,[41] BBC Weather (sunshine data)[42] Nhân khẩu
Điều tra dân số Census Pop. Rate 1903 219.928 — 1960 1.138.611 — 1970 1.330.788 1.6% 1975 1.479.116 2.1% 1980 1.630.485 2.0% 1990 1.601.234 -0.2% 1995 1.654.761 0.7% 2000 1.581.082 -0.97% 2007 1.660.714 0.68%
Ngôn ngữ địa phương là tiếng Philippines, dựa hầu hết vào tiếng Tagalog tại khu vực xung quanh, và hình thái ngôn ngữ Tagalog tại Manila trở thành ngôn ngữ chung của Philippines, được truyền bá ra khắp quần đảo thông qua truyền thông đại chúng và giải trí. Trong khi đó, tiếng Anh là ngôn ngữ được dùng rộng rãi nhất trong giáo dục, thương nghiệp, và được sử dụng nhiều trong sinh hoạt hàng ngày trên khắp vùng đô thị Manila và Philippines. Một số cư dân lớn tuổi vẫn có thể nói tiếng Tây Ban Nha cơ bản, đây từng là môn bắt buộc trong các đại học và học viên tại Philippines, và nhiều trẻ em gốc Nhật, gốc Ấn, và những người nhập cư khác có thể nói ngôn ngữ của cha mẹ tại nhà, cùng với tiếng Anh và/hoặc tiếng Philippines. Cộng đồng người gốc Hoa trong thành phố nói tiếng Mân Nam.
Các cư dân trong thành phố chủ yếu là tín đồ Cơ Đốc giáo. Công giáo La Mã là giáo phái chiếm ưu thế, gồm khoảng 93,5% dân số, tiếp đến Giáo hội Độc lập Philippines (2,4%), rồi Iglesia ni Cristo (1,9%), Tin Lành (1,8%) và Phật giáo (1,1%). Tín đồ các tôn giáo khác chiếm 1,4% tổng dân số của thành phố.[44] Manila là nơi đặt trụ sở của Tổng Giáo phận Công giáo Manila, là tổng giáo phận lâu năm nhất toàn quốc. Tổng giám mục của Philippines có văn phòng tại Nhà thờ Lớn Manila.[45]
Kinh tế
Kinh tế Manila đa dạng và đa phương diện. Manila được phân loại là một "thành phố thế giới Beta+" theo tổ chức GaWC. Do là thủ đô của Philippines, nhiều cư dân trong thành phố làm việc cho chính phủ quốc gia. Một số làm việc trong các thể chế giáo dọc theo theo Vành đai Đại học. Manila có bến cảng được che chắn, đóng vai trò là hải cảng chính của quốc gia.
Thành phố có sự đa dạng về các nhà máy, sản xuất các sản phẩm liên quan đến công nghiệp như hóa chất, dệt, trang phục, và hàng điện tử. Ngoài ra, còn có cơ sở sản xuất thực phẩm, đồ uống và thuốc lá. Các doanh nghiệp địa phương tiếp tục gia công các hàng hóa chính để phục vụ xuất khẩu, trong đó có dây thừng, gỗ dán, đường tinh luyện, cùi dừa, và dầu dừa. Công nghiệp chế biến thực phẩm là một trong các lĩnh vực sản xuất chính có tính ổn định cao nhất tại thành phố.
Manila thu hút trên 1 triệu du khách mỗi năm.[46] Các điểm đến chính bao gồm Intramuros, các bảo tàng như Bảo tàng Quốc gia Philippines, hay Ermita, Malate, Santa Cruz, the phố Tàu. Công viên Rizal là một nơi thu hút du khách và là một trong các biểu tượng của Philippines. Ermita và Malate nổi tiếng với sinh hoạt buổi tối, là nơi mua sắm nổi tiếng của giới thượng lưu, còn Divisoria là nơi mua sắm lớn của cư dân địa phương.
Ngân hàng Trung ương Philippines chủ yếu đặt trụ sở tại Đại lộ Roxas Boulevard.[47] Một số ngân hàng toàn năng, bảo hiểm tại Philippines đặt trụ sở trong thành phố. Thành phố Manila là trung tâm tài chính quan trọng thứ ba tại Philippines sau Downtown Makati và Ortigas Center.
Hành chính
Manila được chia thành 16 quận hành chính được xác định chính thức, và được chia tiếp thành 897 barangay với tên là số thứ tự.[4] Các quận chỉ tồn tại để thuận tiện cho hành chính và không có các quan chức được bầu.
Quận Barangay Dân số
(2010)Diện tích
(ha.)Mật độ
(trên km2)Binondo 10 12.985 66,11 19.641,5 Ermita 13 7.143 158,91 4.495,0 Intramuros 5 4.925 67,26 7.322,3 Malate 57 77.513 259,58 29.860,9 Paco 43 70.978 278,69 25.468,4 Pandacan 38 73.895 166,00 44.515,1 Port Area 5 57.405 315,28 18.207,6 Quiapo 16 24.886 84,69 29.384,8 Sampaloc 192 241.528 513,71 47.016,4 San Andrés 65 115.942 168,02 69.004,9 San Miguel 12 15.992 91,37 17.502,5 San Nicolas 15 44.241 163,85 27.000,9 Santa Ana 34 60.952 169,42 35.976,9 Santa Cruz 82 115.747 309,01 37.457,4 Santa Mesa 51 99.933 261,01 38.287,0 Tondo 259 628.106 865,13 72.602,5 Thành thị hữu nghị
Manila có nhiều thành thị hữu nghị trên thế giới, các thành thị này được phân thành ba dạng là quốc tế, địa điểm hữu nghị và thành phố địa phương.[48]
- Maui, Hoa Kỳ
- Thành phố Mexico, Mexico
- Montréal, Canada[48][53]
- Moskva, Nga
- New Delhi, Ấn Độ
- Nice, Pháp[54]
- Osaka, Nhật Bản
- Sacramento, Hoa Kỳ
- San Francisco, Hoa Kỳ
Địa điểm hữu nghị Thành phố địa phương - Thành phố Cebu, Philippines[48]
- Thành phố Davao, Philippines[48]
Tham khảo
- ^ “'PEARL OF ORIENT' STRIPPED OF FOOD; Manila, Before Pearl Harbor, Had Been Prosperous—Its Harbor One of Best Focus for Two Attacks Osmeña Succeeded Quezon”. New York Times. 5 tháng 2 năm 1945. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2014. “Manila, modernized and elevated to the status of a metropolis by American engineering skill, was before Pearl Harbor a city of 623,000 population, contained in an area of fourteen square miles.”
- ^ a ă “List of Cities”. PSGC Interactive. Makati City, Philippines: National Statistical Coordination Board. Truy cập ngày 24 tháng 4 năm 2014.
- ^ “Demographia World Urban Areas PDF (March 2013)”. Demographia. Truy cập ngày 24 tháng 11 năm 2013.
- ^ a ă â b “Total Population by Province, City, Municipality and Barangay: as of May 1, 2010”. 2010 Census of Population and Housing. National Statistics Office of the Republic of the Philippines. Truy cập ngày 6 tháng 4 năm 2012.
- ^ Carbone, Nick (26 tháng 10 năm 2011). “The 10 Fastest-Growing Cities of Tomorrow”. TIME. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2013.
- ^ a ă “World's Densest Cities”. Forbes Magazine. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 1 năm 2012. Truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2014.
- ^ “The World According to GaWC 2010”. Globalization and World Cities Study Group and Network (GaWC). Loughborough University. Truy cập ngày 7 tháng 12 năm 2009.
- ^ Leebrick, Karl Clayton (2007). The English expedition to Manila and the Philippine Islands in the year 1762. University of California, Berkeley. tr. 52.
- ^ Gates, John M. (tháng 11 năm 2002). “The Pacification of the Philippines”. The U.S. Army and Irregular Warfare. Truy cập ngày 20 tháng 2 năm 2010.
- ^ White, Matthew. "Death Tolls for the Man-made Megadeaths of the 20th Century". Truy cập ngày 1 tháng 8 năm 2007.
- ^ Mijares, Armand Salvador B. (2006). .The Early Austronesian Migration To Luzon: Perspectives From The Peñablanca Cave Sites. Bulletin of the Indo-Pacific Prehistory Association 26: 72–78.
- ^ Gerini, G. E. (1905). “The Nagarakretagama List of Countries on the Indo-Chinese Mainland (Circâ 1380 A.D.)”. The Journal of the Royal Asiatic Society of Great Britain and Ireland (Royal Asiatic Society of Great Britain and Ireland) (July 1905): 485–511. JSTOR 25210168.
- ^ “Pusat Sejarah Brunei” (bằng Malay). Government of Brunei Darussalam. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2014.
- ^ Agoncillo 1990, tr. 22
- ^ Wright, Hamilton M. (1907). "A Handbook of the Philippines", p. 143. A.C. McClurcg & Co., Chicago.
- ^ Kane, Herb Kawainui (1996). “The Manila Galleons”. Trong Bob Dye. Hawaiʻ Chronicles: Island History from the Pages of Honolulu Magazine I. Honolulu: University of Hawaii Press. tr. 25–32. ISBN 0-8248-1829-6.
- ^ “Manila (Philippines)”. Britannica. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2014.
- ^ “Wars and Battles: Treaty of Paris (1763)”. www.u-s-history.com. “In a nutshell, Britain emerged as the world’s leading colonial empire.”
- ^ Fundación Santa María (Madrid) 1994, tr. 508
- ^ John Bowring, "Travels in the Philippines", p. 18, London, 1875
- ^ Olsen, Rosalinda N. “Semantics of Colonization and Revolution”. http://www.bulatlat.com/. Truy cập ngày 8 tháng 1 năm 2011.
- ^ José Roca de Togores y Saravia; Remigio Garcia; National Historical Institute (Philippines) (2003), Blockade and siege of Manila, National Historical Institute, tr. 148–150, ISBN 978-971-538-167-3
- ^ Moore 1921, p. 162.
- ^ Moore 1921, p. 162B.
- ^ Moore 1921, p. 180.
- ^ White, Matthew. “Death Tolls for the Man-made Megadeaths of the 20th Century”. Truy cập ngày 1 tháng 8 năm 2007.
- ^ "Milestone in History". Quezon City Official Website. Truy cập ngày 22 tháng 4 năm 2013.
- ^ Hancock 2000, tr. 16
- ^ "Presidential Decree No. 824 November 7, 1975". The LawPhil Project. Truy cập ngày 22 tháng 4 năm 2013.
- ^ "Presidential Decree No. 940 June 24, 1976". Chan C. Robles Virtual Law Library. Truy cập ngày 22 tháng 4 năm 2013.
- ^ Mundo, Sheryl (tháng 12 năm 2009). “It’s Atienza vs. Lim Part 2 in Manila”. Manila: ABS-CBN News and Current Affairs. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 12 năm 2009. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2014. “Environment Secretary Jose 'Lito' Atienza will get to tangle again with incumbent Manila Alfredo Lim in the coming 2010 elections.”
- ^ “Geography of Manila”. HowStuffWorks. Truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2014.
- ^ “City Profiles:Manila, Philippines”. United Nations. Truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2010.
- ^ Alave, Kristine L. (18 tháng 8 năm 2004). “METRO MANILA AIR POLLUTED BEYOND ACCEPTABLE LEVELS”. Clean Air Initiative – Asia. Manila: Cleanairnet.org. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 12 năm 2005. Truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2014. “Metro Manila air is unsafe and harmful, with its pollutants at levels higher than what is acceptable worldwide, the Department of Health said yesterday”
- ^ Wallerstein, Claire (1999). “Philippines tackles air pollution”. BMJ (Clinical research ed.) (NCBI) 318 (7185): 689. doi:10.1136/bmj.318.7185.689. PMC 1115138. PMID 10074001. “After six years of governmental wrangling and a massive nationwide campaign to gather signatures, the Philippines—home to one of the world’s most polluted cities—is on the verge of passing clean air legislation.”
- ^ “POLLUTION ADVERSELY AFFECTS 98% OF METRO MANILA RESIDENTS”. Hong Kong: Cleanairnet.org. 31 tháng 1 năm 2005. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 4 năm 2006. Truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2014.
- ^ “Air pollution is killing Manila”. GetRealPhilippines. Truy cập ngày 18 tháng 6 năm 2010.
- ^ de Guzman, Lawrence (11 tháng 11 năm 2006). “Pasig now one of world’s most polluted rivers”. Philippine Daily Inquirer. Truy cập ngày 18 tháng 6 năm 2010. “ONCE the country’s most celebrated waterways, the Pasig is now one of the world’s most polluted rivers, according to a report launched Thursday by the United Nations Human Development Program (UNDP) in Cape Town, South Africa.”
- ^ “Manila”. Jeepneyguide. Truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2014.
- ^ “World Weather Information Service — Manila”. World Meteorological Organization. Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2013.
- ^ “Climatological Information for Manila, Philippines”. Hong Kong Observatory. Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2013.
- ^ “Average Conditions — Manila”. BBC. Truy cập ngày 15 tháng 5 năm 2012.
- ^ “Manila – The city, History, Sister cities”. Cambridge Encyclopedia. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 3 năm 2009. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2010.
- ^ “Manila ("Maynila")”. Truy cập ngày 22 tháng 10 năm 2010.
- ^ “Wow Philippines: Manila-Cosmopolitan City of the Philippines”. Department of Tourism. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 7 năm 2008. Truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2014.
- ^ “MSN Encarta: Manila”. MSN Encarta. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 11 năm 2009. Truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2014.
- ^ “BSP Website”. Central Bank of the Phils.
- ^ a ă â b c d đ e ê g h i k l m “Sister Cities of Manila”. City Government of Manila. Truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2014.
- ^ “Sister Cities”. Beijing Municipal Government. Truy cập ngày 23 tháng 6 năm 2009.
- ^ Allison Lopez (7 tháng 8 năm 2008). Manila mayor flies to 'sister city' for Beijing Olympics. Philippine Daily Inquirer. Truy cập ngày 9 tháng 9 năm 2008.
- ^ “Guangzhou Sister Cities[via WaybackMachine.com]”. Guangzhou Foreign Affairs Office. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2013.
- ^ “Mapa Mundi de las ciudades hermanadas” (bằng Spanish). Madrid City Government. Truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2014.
- ^ “Manila-Montreal Sister City Agreement Holds Potential for Better Cooperation”. 24 tháng 6 năm 2005. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 1 năm 2008. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2014.
- ^ “Villes jumelées avec la Ville de Nice” (bằng French). Ville de Nice. Truy cập ngày 24 tháng 6 năm 2013.
- ^ “The 45 Sister Cities of taipei”. taipei.gov. Truy cập ngày 9 tháng 9 năm 2008.
- ^ Sister Cities. New Winnipeg. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 12 năm 2005. Truy cập ngày 9 tháng 9 năm 2008.
- ^ “Eight Cities/Six Ports: Yokohama's Sister Cities/Sister Ports”. Yokohama Convention & Visitiors Bureau. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 5 năm 2009. Truy cập ngày 18 tháng 7 năm 2009.
Liên kết ngoài
Wikimedia Commons có thêm thể loại hình ảnh và tài liệu về Manila
http://www.youtube.com/user/hoangkimvietnam
Trở về trang chính
Hoàng Kim, hoangkim, hoangkimvietnam, Ngọc Phương Nam, Chào ngày mới Thung dung, Dạy và học, Cây Lương thực, Tin Nông nghiệp Việt Nam, Food Crops, Cassava in Vietnam, Khát khao xanh, Dayvahoc, Học mỗi ngày, Danh nhân Việt , Food Crops News, Điểm chính, CNM365, Kim LinkedIn, KimTwitter, KimFaceBook Đọc lại và suy ngẫm, Việt Nam tổ quốc tôi, Tình yêu cuộc sống, Thơ cho con
No comments:
Post a Comment