Libya
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Cộng hòa Lybya | |||||
---|---|---|---|---|---|
دولة ليبيا (tiếng Ả Rập) Dawlat Libya (tiếng Ả Rập) ⵍⵉⴱⵢⴰ (tiếng Berber) |
|||||
|
|||||
Khẩu hiệu | |||||
الحرية والعدالة والديمقراطية Tự do, Công bằng, Dân chủ! |
|||||
Quốc ca | |||||
Libya, Libya, Libya[1] | |||||
Hành chính | |||||
Chính phủ | Cộng hòa | ||||
Chủ tịch Hội đồng quốc gia Libya | Mustafa Mohamed Abud Al Jeleil | ||||
Thủ tướng | Abdurrahim al-Keib | ||||
Ngôn ngữ chính thức | Tiếng Ả Rập[2] | ||||
Thủ đô | Tripoli[3] |
||||
Thành phố lớn nhất | Tripoli | ||||
Địa lý | |||||
Diện tích | 1.759.540 (UN - 2007) km² (hạng 17) | ||||
Diện tích nước | không đáng kể % | ||||
Múi giờ | EET (UTC+2); mùa hè: UTC+2 | ||||
Lịch sử | |||||
Độc lập
|
|||||
10 tháng 2 năm 1947 | Từ Ý | ||||
24 tháng 12 năm 1951 | Từ Anh và Pháp do LHQ ủy trị | ||||
Dân cư | |||||
Dân số ước lượng (2009) | 6,333,509 (IMF) người (hạng 105) | ||||
Mật độ | 3.6 người/km² (hạng 218) | ||||
Kinh tế | |||||
GDP (PPP) (2010) | Tổng số: 96,138 tỷ đô la Mỹ[4] | ||||
GDP (danh nghĩa) (2009) | Tổng số: 60,238 triệu dollar Mỹ | ||||
HDI (2009) | 0.799 (2009) cao (hạng 53) | ||||
Đơn vị tiền tệ | Dinar Libya (LYD ) |
||||
Thông tin khác | |||||
Tên miền Internet | .ly | ||||
Lái xe bên | phải |
Cái tên "Libya" bắt nguồn từ chữ "Lebu" trong tiếng Ai Cập, để chỉ những người dân Berber sống ở phía tây sông Nil, và được đưa vào tiếng Hy Lạp để trở thành "Libya". Ở thời Hy Lạp cổ đại, thuật ngữ "Lybya" có nghĩa rộng hơn, gồm toàn bộ Bắc Phi ở phía tây Ai Cập, và đôi lúc còn bao gồm toàn bộ lục địa châu Phi.
Với một trữ lượng dầu mỏ đã được kiểm chứng thuộc hàng lớn nhất trên thế giới[6], Libya có mức thu nhập kinh tế quốc dân trên đầu người cao nhất Bắc Phi, cũng như là một trong những nước có mức GDP trên đầu người cao ở châu Phi[7]. Với tổng diện tích 1,8 triệu kilômét vuông, 90% trong đó là sa mạc. Với dân số chỉ có 6 triệu người và các khoản thu nhập từ dầu lửa hàng năm tới 32 tỷ đô la Mỹ trong năm 2010, tiềm năng của Libya là rất lớn, cung cấp cho người dân một hệ thống an sinh xã hội cao và rộng rãi, đặc biệt trong lĩnh vực nhà ở và giáo dục[8]. So sánh với các nước láng giềng theo định hướng thị trường, Libya có mức nghèo tuyệt đối và tương đối khá thấp. Tuy nhiên trong 42 năm cầm quyền, Gadhafi được cho là đã biển thủ các nguồn tài trợ nhằm thu lợi cho gia đình và bộ tộc của ông.[9] và tỉ lệ thất nghiệp tại Libya được ước tính là 30% hoặc nhiều hơn.[10]
Mục lục
Lịch sử
Vùng đất trở thành nước Libya hiện đại ngày nay đã từng bị chinh phục ở nhiều mức độ khác nhau từ bên ngoài bởi người Phoenicia, Carthage, Hy Lạp, La Mã, Vandal, ngoài ra Đế chế Byzantine từng cai trị toàn bộ hay từng phần của Libya. Ngoài một số phế tích tại Cyrene, Leptis Magna và Sabratha của người Hy Lạp và người La Mã, hiện nay có rất ít di vật của hai nền văn hóa cổ đó trên đất Libya.
Người Phoenicia là những người đầu tiên thành lập các cảng thương mại ở Libya khi những thương nhân tại Týros (thuộc Liban ngày nay) phát triển các mối quan hệ thương mại với các bộ lạc người Berber và thiết lập các hiệp ước với họ nhằm đảm bảo sự hợp tác trong việc khai thác các nguyên liệu thô[12][13]. Tới thế kỷ thứ 5 TCN, Carthage, thuộc địa lớn nhất của người Phoenicia đã mở rộng quyền bá chủ của mình ra hầu hết toàn bộ vùng Bắc Phi ngày nay, nơi một nền văn minh riêng biệt, được gọi là Punic, đang hình thành. Những khu định cư của người Punic ở dọc bờ biển Libya gồm Oea (Tripoli), Labdah (sau này là Leptis Magna) và Sabratha, tại một vùng sẽ được gọi chung là Tripolis, hay "Ba thành phố", và thủ đô Tripoli ngày nay của Libya cũng có tên xuất phát từ đó.
Người Hy Lạp cổ đại đã chinh phục Đông Libya, khi theo thông lệ, những người dân từ hòn đảo Thera đông đúc theo lời sấm tại Delphi đi tìm kiếm một vùng đất mới ở Bắc Phi. Năm 631 trước Công Nguyên họ bắt đầu biết đến thành phố Cyrene[14]. Trong vòng 200 năm, người Hy Lạp lập bốn thành phố quan trọng khác trong vùng đất Libya là: Barce (Al Marj); Euhesperides (sau này là Berenice, Benghazi) hiện nay; Teuchira (sau này là Arsinoe, Tukrah hiện nay); và Apollonia (Susah), cảng Cyrene. Cùng với Cyrene, chúng được gọi là Pentapolis (Năm thành phố).
Người La Mã đã thâu tóm các vùng thuộc Libya, và trong hơn 400 năm, Tripolitania và Cyrenaica trở thành các tỉnh thịnh vượng của La Mã[15]. Những tàn tích thời La Mã, như những tàn tích ở Leptis Magna, minh chứng cho sinh khí từng có ở vùng này, khi các thành phố thịnh vượng và thậm chí là các thị trấn nhỏ hơn đều có chung tình trạng phát triển với mức sống cao ở đô thị. Các nhà buôn và thợ thủ công từ nhiều vùng của đế chế Roma đã tới Bắc Phi, nhưng đặc điểm của các thành phố Tripolitania vẫn mang nhiều nét Punic của người Punic và nét Cyrenaica của người Hy Lạp.
Người Ả Rập đã chinh phục Libya vào thế kỷ thứ 7. Trong những thế kỷ tiếp theo, nhiều người bản địa đã theo đạo Hồi, tiếng Ả Rập và văn hoá. Đế chế Ottoman Thổ Nhĩ Kỳ đã chinh phục nước này vào giữa thế kỷ 16, Libya tiếp tục là một phần của đế chế đó, dù tại nhiều thời điểm hầu như nó đã trở thành một vùng tự trị, cho tới khi bị Ý xâm chiếm năm 1911. Sau các cuộc kháng chiến bất thành, Libya bị biến thành một nước thuộc địa[16].
Năm 1934, Ý chấp nhận cái tên "Libya" (đã được người Hy Lạp sử dụng để chỉ cả vùng Bắc Phi, ngoại trừ Ai Cập), làm tên chính thức của thuộc địa này, khi ấy nó gồm các tỉnh Cyrenaica, Tripolitania và Fezzan. Vua Idris I, Emir xứ Cyrenaica, lãnh đạo cuộc kháng chiến của người Libya chống lại sự chiếm đóng của Ý giữa hai cuộc thế chiến. Từ năm 1943 tới 1951, Tripolitania và Cyrenaica nằm dưới quyền chiếm đóng của Anh trong khi Pháp chiếm đóng Fezzan. Năm 1944, Idris trở về nước từ nơi bị trục xuất là Cairo nhưng không thể cư trú thường xuyên tại Cyrenaica cho tới khi một số quyền chiếm đóng của nước ngoài bị bãi bỏ năm 1947. Theo các điều khoản của hiệp ước hòa bình năm 1947 với các nước Đồng Minh, Ý từ bỏ mọi yêu sách đối với Libya[17].

Omar Mukhtar (1858 – 1931), nhà lãnh đạo cuộc khởi nghĩa của người Lybia chống lại sự chiếm đóng của Ý
Sự phát hiện ra những giếng dầu với trữ lượng lớn năm 1959 và nguồn thu có được sau đó từ bán dầu khiến cho nước này từ vị thế một trong những quốc gia nghèo nhất thế giới trở thành một nước rất giàu có, khi tính theo GDP trên đầu người. Dù dầu mỏ đã cải thiện một cách đáng kể tình hình tài chính của chính phủ Libya, sự bất mãn của dân chúng vẫn tồn tại khi tài sản quốc gia ngày càng bị tập trung vào tay Vua Idris và tầng lớp quý tộc trong nước. Sự bất bình ngày càng tăng với sự phát triển của chủ nghĩa Nasser và chủ nghĩa quốc gia Ả Rập trên toàn vùng Bắc Phi và Trung Đông.
Ngày 1 tháng 9 năm 1969, một nhóm nhỏ các sĩ quan quân đội dưới sự chỉ huy của Muammar Abu Minyar al-Gaddafi khi ấy mới 28 tuổi tiến hành một cuộc đảo chính lật đổ Vua Idris. Ở thời điểm đó, Idris đang phải nằm viện ở Thổ Nhĩ Kỳ. Cháu trai ông, Thái tử Sayyid Hasan ar-Rida al-Mahdi as-Sanussi, lên làm vua. Rõ ràng là các sĩ quan cách mạng, những người đã thông báo sự phế truất Vua Idris không muốn nhượng bộ ông ta về những quyền lợi đối với một vị vua. Sayyid nhanh chóng nhận ra thực tế rằng khi làm vua ông lại có ít quyền lực hơn khi làm thái tử. Trước cuối tháng 9, Vua Sayyid Hasan ar-Rida al-Mahdi as-Sanussi chính thức bị các sĩ quan cách mạng phế truất và bị quản thúc tại gia. Trong lúc ấy, các sĩ quan cách mạng xóa bỏ chế độ quân chủ, và tuyên bố một nước Cộng hòa Libya Ả Rập mới. Gaddafi đã là "Lãnh tụ Anh cả và là Người hướng dẫn Cách mạng" theo cách gọi chính thức của chính phủ và trên báo chí[19].
Năm 2011, một cuộc nổi dậy nổ ra và biến thành nội chiến, chấm dứt 42 năm cầm quyền của Gaddafi.
Chính trị
Là nhánh lập pháp của chính phủ, ban này gồm các Đại hội Nhân dân Địa phương tại mỗi 1.500 khu vực đô thị, 32 Sha’biyat Đại hội Nhân dân cho các vùng, và Đại hội Nhân dân Quốc gia. Các cơ chế lập pháp này được đại diện bởi các cơ chế hành pháp tương đương (Ủy ban Nhân dân Địa phương, Ủy ban Nhân dân Sha'biyat và Ủy ban Đại hội Nhân dân Quốc gia).
Bốn năm một lần các thành viên của Đại hội Nhân dân Địa phương bầu ra lãnh đạo của mình và các thư ký cho các Ủy ban Nhân dân, bằng cách giơ tay biểu quyết, thỉnh thoảng có thể là sau nhiều cuộc tranh luận và một cuộc bỏ phiếu khá gắt gao. Lãnh đạo các Ủy ban Nhân dân Địa phương đại diện cho khu vực của mình tại Đại hội Nhân dân cấp trên và là sự ủy thác bắt buộc. Các thành viên của Đại hội Nhân dân Quốc gia bầu ra các thành viên của Ủy ban Nhân dân Quốc gia(Chính phủ libya1977 – 2011) bằng cách giơ tay biểu quyết tại kỳ họp hàng năm của mình. Cuộc họp gần đây nhất diễn ra tại Sirte 8 tháng 1–12 tháng 1, 2005, là kỳ họp hàng năm lần thứ 29.[21]
Trong khi vẫn có những cuộc tranh luận về người sẽ cạnh tranh vào các chức vụ hành pháp, trên thực tế chỉ những người được ban lãnh đạo cách mạng đồng ý mới trúng cử. Chính phủ hành chính chỉ hoạt động hiệu quả khi nó thực hiện đúng các mệnh lệnh lãnh đạo do ban lãnh đạo cách mạng đưa ra. Ban lãnh đạo cách mạng có quyền phủ quyết tối cao bất kể tới quyền lực hiến pháp của chế độ dân chủ nhân dân và cái gọi là quyền lực của nhân dân. Chính phủ kiểm soát cả truyền thông nhà nước và tư nhân, và bất kỳ một bài viết nào chỉ trích các chính sách hiện thời đều đã được chỉ đạo có mục đích từ trước của chính ban lãnh đạo cách mạng, để làm ví dụ về các biện pháp cải cách. Trong những trường hợp khác, sự chỉ trích như vậy của các tờ báo tư nhân, như tờ The Tripoli Post, đã bị kiểm duyệt.[22]
Các Đảng chính trị đã bị cấm hoạt động theo Đạo luật về việc cấm các Đảng Chính trị số 71 năm 1972.[23] Theo Đạo luật bổ sung năm 1971 cho phép thành lập các tổ chức phi chính phủ (NGOs). Bởi vì chúng phải thích hợp với những mục tiêu của cách mạng, tuy nhiên, có quá ít các tổ chức như vậy khi so sánh với các nước xung quanh. Các Liên đoàn Thương mại cũng không hề tồn tại,[24] nhưng nhiều hiệp hội nghề nghiệp được đưa vào trong các cơ cấu của chính phủ trở thành một trụ cột thứ ba, cùng với các Đại hội Nhân dân và các Ủy ban. Các hiệp hội đó không có quyền bãi công. Các hiệp hội nghề nghiệp cử các đại biểu tới các Đại hội nhân dân Quốc gia, và họ có tư cách đại diện.
Các vùng hành chính
Quan hệ ngoại giao
Dù chính phủ ủng hộ những cuộc đấu tranh chính nghĩa Ả Rập, gồm các phong trào đòi độc lập ở Maroc và Algérie, họ không tham gia tích cực vào cuộc tranh chấp Ả Rập-Israel, các đề tài chính trị ồn ào bên trong cộng đồng Ả Rập trong thập kỷ 1950 và đầu thập kỷ 1960. Vương quốc này được biết đến với sự hợp tác chặt chẽ với phương Tây, trong khi lại tỏ ra bảo thủ với các vấn đề trong nước[29].
Sau vụ đảo chính năm 1969, Gaddafi đóng cửa các căn cứ của Anh, Mỹ và quốc hữu hoá một phần các công ty dầu mỏ và thương mại nước ngoài tại Libya. Ông cũng đóng vai trò quan trọng trong việc vận động sử dụng cấm vận dầu lửa như một vũ khí để thách thức phương Tây, hy vọng rằng khi giá dầu tăng cao cùng với cuộc cấm vận năm 1973, phương Tây, đặc biệt là Hoa Kỳ, sẽ phải cân nhắc trong việc ủng hộ Israel. Gaddafi không chấp nhận cả chủ nghĩa cộng sản của Sô viết và chủ nghĩa tư bản của phương Tây, tuyên bố rằng mình đang lập ra một con đường trung dung riêng cho đất nước[30]. Tháng 10 năm 1978, Gaddafi đã bị chỉ trích nặng nề khi ủng hộ Idi Amin trong cuộc Chiến tranh Uganda-Tanzania. Quân đội Libya được Gaddafi gửi đến giúp đỡ Idi Amin trong tham vọng sát nhập tỉnh Kagera phía bắc Tanzania của ông ta. Amin thua trận và sau này phải chạy trốn sang Libya và sống ở đó gần một năm[31].
Trong thập kỷ 1980, Libya ngày càng xa lánh phương Tây, và bị buộc tội thực hiện nhiều hành động của một quốc gia ủng hộ chủ nghĩa khủng bố. Khi bằng chứng về sự dính líu của Libya vào vụ đánh bom khủng bố vào vũ trường tại Berlin năm 1986 làm thiệt mạng hai người Mỹ bị khám phá, Hoa Kỳ trả đũa bằng cách tung ra một chiến dịch ném bom vào các mục tiêu gần Tripoli và Benghazi vào tháng 4 năm 1986[32].
Năm 1991, hai nhân viên tình báo Libya bị các công tố viên liên bang truy tố tại Hoa Kỳ và Scotland vì sự liên quan của họ tới vụ đánh bom chuyến bay 103 của Pan Am vào tháng 12 năm 1988. Sáu người Libya khác cũng bị xét xử vắng mặt về vụ đánh bom chuyến bay 772 của UTA năm 1989. Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc đã yêu cầu Libya dẫn độ các nghi can, hợp tác với những nhà điều tra vụ Pan Am 103 và UTA 772, chi trả bồi thường cho gia đình các nạn nhân và ngừng mọi hành động ủng hộ chủ nghĩa khủng bố. Libya từ chối hợp tác dẫn tới việc Hội đồng Bảo an thông qua Nghị quyết 748 vào ngày 31 tháng 3, 1992, áp đặt các biện pháp trừng phạt nước này cho tới khi các nghị quyết trước đó được tuân thủ. Libya tiếp tục bất hợp tác và Liên Hiệp Quốc lại đưa ra các biện pháp trừng phạt năng nề hơn chống lại Libya vào tháng 11 năm 1993[33].
Năm 2003, hơn một thập kỷ sau khi các biện pháp trừng phạt được áp dụng, Libya bắt đầu có những thay đổi đầy bất ngờ trong chính sách của họ với thế giới phương Tây thể hiện rõ ràng mong muốn theo đuổi chính sách giảm căng thẳng giữa Libya và phương Tây. Chính phủ Libya đã thông báo quyết định từ bỏ các chương trình vũ khí hạt nhân của mình và chi gần 3 tỷ đôla Mỹ cho các gia đình nạn nhân chuyến bay 103 của Pan Am và chuyến bay 772 của UTA[34]. Nhiều nước phương Tây đã hoan nghênh quyết định này của Libya và coi đó là một bước tiến quan trọng của Libya trong việc tái gia nhập cộng đồng quốc tế[35]. Từ năm 2003 nước này đã bình thường hóa quan hệ với Liên minh châu Âu và hoa Kỳ và thậm chí đã trở thành một trường hợp điển hình với câu nói thông dụng "kiểu Libya", một ví dụ cho cộng đồng quốc tế thấy rằng mọi việc đều có thể được giải quyết thông qua đàm phán chứ không phải bằng vũ lực khi có thiện chí từ cả hai phía[36].
Việt nam là một trong ít nước có quan hệ ngoại giao khá bền chặt và lâu dài với Lybia. Hai nước ký kết quan hệ ngoại giao từ 1975. Chi tiết xem thêm Quan hệ ngoại giao Việt Nam - Libya
Địa lý

Jabal Al Akdhar gần Benghazi là vùng ẩm ướt nhất tại Libya. Lượng mưa trung bình hàng năm từ 400 đến 600 millimét.[37]
Các vùng địa lý theo lịch sử là Cyrenaica, Tripolitania và Fezzan. Hai thành phố quan trọng nhất là thủ đô Tripoli ở phía tây bắc Libya và Benghazi, nằm ở phía đông. Các thành phố lớn khác gồm Misratah, Sirte và Sabha[40].
Các thiên tai gồm gió nóng, khô mang theo nhiều bụi (tại Libya thường được gọi là gibli). Đây là gió ở phía nam xuất hiện trong thời gian từ một đến bốn ngày vào mùa xuân và mùa thu. Ngoài ra còn có các trận bão bụi và bão cát. Các ốc đảo có rải rác trên khắp lãnh thổ, các ốc đảo lớn nhất là Ghadames và Kufra.
Sa mạc
Sa mạc Libya bao phủ hầu như toàn bộ vùng đông Libya, là một trong những địa điểm khô cằn nhất trên thế giới. Tại nhiều vị trí, trong thời gian hàng thập kỷ không có mưa, và thậm chí tại những vùng cao nguyên mưa rất hiếm khi xảy ra, chỉ một lần trong khoảng 5-10 năm. Tại Uweinat, trận mưa cuối cùng xảy ra vào tháng 9 năm 1998[41]. Có một vùng đất trũng rất rộng được đặt tên là vùng Đất trũng Qattara, ở ngay phía nam dãy núi cực bắc, cùng với ốc đảo Siwa ở cực tây. Vùng này dốc nghiêng về phía tây, chạy tới hai ốc đảo Jaghbub và Jalo.Tương tự như vậy, khí hậu ở sa mạc Libya có thể rất khắc nghiệt; năm 1922, thị trấn Al 'Aziziyah, nằm ở phía tây Tripoli, có nhiệt độ lên tới 57.8°C (136.0°F), thường được coi là mức nhiệt độ không khí cao nhất từng ghi nhận được trên thế giới[42].
Có một số ốc đảo không người ở nằm rải rác, thường liên kết với các vùng trũng lớn, nơi có thể tìm thấy nước khi đào sâu xuống đất vài feet. Ở phía tây, có một số nhóm ốc đảo nằm phân tán và không liên kết với các vùng đất trũng, nhóm Kufra, gồm Tazerbo, Rebiana và Kufra[41].
Ngoài các vách núi, địa hình bằng phẳng ở đây chỉ bị ngắt quãng bởi một loạt các cao nguyên và các khối núi ở gần trung tâm Sa mạc Libya, xung quanh điểm giao cắt biên giới Ai Cập - Sudan - Libya.
Hơi xa hơn về phía nam là các khối núi Arkenu, Uweinat và Kissu. Những ngọn núi đá granite này rất cổ, đã được hình thành từ lâu trước những viên đá sa thạch xung quanh chúng. Arkenu và Tây Uweinat là những vòng phức hợp rất giống với các vòng tại dãy núi Air. Đông Uweinat (điểm cao nhất ở Sa mạc Libya) là một cao nguyên đá sa thạch kề sát phần đá granite ở phía tây[41]. Đồng bằng ở phía bắc Uweinat mang một số đặc điểm núi lửa đã bị ăn mòn.
Năm 1996 bộ phim Bệnh nhân người Anh khiến mọi người quan tâm hơn tới sa mạc Libya giống như tác phẩm văn học nguyên mẫu của bộ phim này đã gây ra năm 1992[43].
Kinh tế
Nền kinh tế Libya được coi là đã chín muồi để thực hiện hiện đại hóa và cho đầu tư nước ngoài[48]. Dưới thời thủ tướng trước, Shukri Ghanem và thủ tướng hiện nay Baghdadi Mahmudi, nước này trải qua một giai đoạn bùng nổ thương mại. Nhiều ngành công nghiệp do chính phủ quản lý thời trước đang được tư nhân hoá. Đa số các biện pháp trừng phạt của Hoa Kỳ đã được dỡ bỏ; tới tháng 5 năm 2006, những biện pháp cuối cùng còn lại cũng đã được xếp đặt kế hoạch đưa ra trước lưỡng viện Hoa Kỳ để được thông qua. Continental Airlines hiện đang chào các tour du lịch tới Libya. Nhiều công ty dầu lửa quốc tế đã quay lại nước này, như Shell và ExxonMobil[49]. Du lịch cũng đang phát triển, khiến lượng nhu cầu về phòng khách sạn và khả năng vận chuyển của các sân bay như Sân bay quốc tế Tripoli tăng lên. Chương trình hiện đại hóa các sân bay ở Libya trị giá nhiều triệu đôla gần đây đã được chính phủ thông qua nhằm đáp ứng các yêu cầu đó[50].
Và cũng dưới chế dộ của Ghadafi, tỷ lệ biết chữ đã tăng từ 10% lên 90% tuổi thọ trung bình tăng từ 57 lên 77 tuổi quyền bình đẳng được bảo vệ cho phụ nữ và người da đen, cơ hội việc làm được nâng cao cho các công nhân nhập cư và hệ thống phúc lợi đã được đầu tư cho phép người dân tiếp cận với giáo dục và chăm sóc y tế miễn phí cũng như hỗ trợ về nhà ở[51]. Dòng sông Nhân Tạo là dự án tưới tiêu lớn nhất thế giới[52][53] cũng được đào để cung cấp nước ngọt cho Libya[51]. Ngoài ra, việc hỗ trợ tài chính cũng được cấp cho các đại học để trao học bổng và chương trình phát triển việc làm[54]. Do vậy, Chỉ số phát triển con người (HDI) của Libya được xếp vào mức cao trên thế giới, thứ hạng 58/177 nước năm 2005[55]. Và Libya không hề có nợ nước ngoài dưới chế độ của Gaddafi[56].
Tuy vậy, tỷ lệ thất nghiệp tại Libya được ước tính là 30% hoặc nhiều hơn[57]. Hình thức chủ nghĩa xã hội đặc biệt của Libya cung cấp miễn phí giáo dục, y tế và trợ cấp nhà ở và giao thông vận tải được bao cấp.
Tuy nhiên theo báo BBC Anh quốc, mức lương tại Libya rất thấp và sự giàu có của nhà nước và lợi nhuận từ đầu tư nước ngoài chỉ đem lại lợi lộc cho một tầng lớp thượng lưu nhỏ.[57] Theo tờ báo Hoa Kỳ Los Angeles Times, các quan chức cao cấp của chính quyền mới ở Libya cáo buộc Đại tá Moammar Gadhafi đã bí mật tẩu tán hơn 200 tỷ USD trong các tài khoản ngân hàng, địa ốc và các khoản đầu tư khắp thế giới trước khi ông ta chết. Các quan chức này cho rằng, trong 42 năm cầm quyền, Gadhafi đã biển thủ các nguồn tài trợ nhằm thu lợi cho gia đình và bộ tộc của ông.[9] Theo tờ báo Anh quốc Daily Mail, Ông Gaddafi được cho là có khoảng 170 tỷ USD tài sản ở nước ngoài, phần lớn trong số đó đã bị phong tỏa kể từ đầu năm 2011.[58]
Tuy nhiên các con số trên chưa được chứng minh là sự thật.[9] Thực tế, con số 200 tỷ USD được gán cho Gaddafi thực chất là số tiền thuộc sở hữu hợp pháp của các tổ chức nhà nước như Ngân hàng Trung ương Libya và Cơ quan Đầu tư Libya, quỹ tài sản có chủ quyền của Libya. Do đó, các quỹ của Libya dưới thời Gaddafi cũng tương tư như các quỹ tài sản có chủ quyền của các nước khác. Liên minh châu Âu cũng thông báo ít nhất 30 tỷ USD các khoản đầu tư của Libya đã bị phong tỏa trên khắp lục địa và cùng đồng thuận rằng hàng tỷ tiền đầu tư của chính phủ Libya ở nước ngoài không phải là tài sản cá nhân của Gaddafi.[59]
Nhân khẩu
Có một số lương nhỏ người Tuareg và Tebu sống tập trung ở phía nam, sống theo kiểu du mục hay bán du mục. Trong số người nước ngoài sống tại Lybia, nhóm đông nhất là các công dân từ các quốc gia châu Phi gồm Bắc Phi (chủ yếu là người Ai Cập và Tunisia), Tây Phi và người Phi vùng Hạ Sahara[62]. Người Berber ở Lybia và người Ả Rập chiếm 97% dân số, 3% còn lại là người Phi da đen, người Hy Lạp, Maltese, Ý, Ai Cập, Pakistan, Thổ, Ấn Độ và Tunisia[63].
Ngôn ngữ được sử dụng nhiều nhất ở Libya là tiếng Ả Rập, và đây cũng là ngôn ngữ chính thức. Tiếng Tamazight, tuy không phải là ngôn ngữ chính thức nhưng được người Berber ở Libya sử dụng[64]. Ngoài ra, người Tuareg nói tiếng Tamahaq, thứ ngôn ngữ thuộc nhóm ngôn ngữ Tamasheq duy nhất được biết đến ở vùng phía bắc. Tiếng Ý và tiếng Anh thỉnh thoảng được sử dụng tại các thành phố lớn, dù những người nói tiếng Ý chủ yếu đều đã có tuổi.
Giáo dục
Tôn giáo

Nhà thờ Hồi giáo tại Ghadames, gần biên giới Tunisia và Algérie; 97% dân số Libya là các tín đồ Hồi giáo
Trước thập kỷ 1930, Phong trào Sanusi là phong trào Hồi giáo lớn nhất ở Libya. Đây là một phong trào hướng tới sự phục hưng tôn giáo đã được thay đổi nhằm tương thích với cuộc sống sa mạc. Các zawaayaa (chi nhánh) của nó đã được tìm thấy tại Tripolitania và Fezzan, nhưng ảnh hưởng lớn nhất của Sanusi nằm tại Cyrenaica. Nhằm cứu nguy tôn giáo khỏi sự bất ổn và tình trạng hỗn loạn, phong trào Sanusi đã mang lại cho những người dân bộ lạc Cyrenaican một sự gắn bó tôn giáo và những tình cảm thống nhất[70]. Phong trào Hồi giáo này, cuối cùng bị tiêu diệt bởi cả cuộc xâm lược của Ý và sau đó là bởi chính phủ Gaddafi[70], phong trào này mang nhiều tính bảo thủ và dù sao cũng có khác biệt so với Hồi giáo hiện nay ở Libya. Gaddafi quả quyết rằng ông là một tín đồ Hồi giáo cuồng nhiệt và chính phủ của ông đang giữ vai trò ủng hộ các viện Hồi giáo trên khắp thế giới thu hút thêm các tín đồ theo đạo Hồi[71]. Tuy nhiên, Hồi giáo Libya luôn được coi là theo truyền thống, nhưng không thô bạo so với Hồi giáo tại các nước khác. Hình thức Hồi giáo Sufism của Libya rất phổ biến trên toàn quốc[72].
Ngoài đa số tuyệt đối tín đồ Hồi giáo Sunni, có một cộng đồng thiểu số rất nhỏ Cơ đốc giáo, gồm hầu hết là người nước ngoài. Cũng có một cộng đồng Anh giáo nhỏ, gồm phần lớn là công nhân nhập cư châu Phi tại Tripoli; nó là một phần của Giáo khu Ai Cập[73]. Cũng có khoảng 40.000 tín đồ Công giáo La Mã tại Libya với hai giám mục, một tại Tripoli (phục vụ cộng đồng Ý) và một tại Benghazi (dành cho cộng đồng Malta).
Tới thời gian gần đây Libya vẫn là nơi có một trong những cộng đồng người Do Thái lớn nhất thế giới và đã từng tồn tại ít nhất từ năm 300 TCN[74]. Một loạt các cuộc tàn sát người Do Thái bắt đầu từ tháng 11 năm 1945 và kéo dài gần ba năm đã làm suy giảm đáng kể số lượng người Do Thái ở Libya.[75] Năm 1948, khoảng 38.000 người Do Thái còn sống tại nước này.
Từ khi Libya tuyên bố độc lập năm 1951, đa số cộng đồng Do Thái đã di cư khỏi đất nước. Một loạt các cuộc tàn sát người Do Thái khác diễn ra sau cuộc Khủng hoảng Suez năm 1956, buộc khoảng 100 người Do Thái phải bỏ chạy. Khi Gaddafi lên nắm quyền lực, số người Do Thái còn lại bị tịch thu gia sản và những khoản nợ của người khác đối với họ bị xóa bỏ. Tuy nhiên, gần đây Gaddafi đã thông báo rằng những khoản bồi thường thích hợp sẽ được chi trả cho những người Do Thái Libya đã bỏ đất nước ra đi.[76] Dù Giáo đường Do Thái chính ở Tripoli đã được tu bổ lại năm 1999, nó vẫn chưa được mở cửa cho công chúng.
-
Xem thêm tại [[Người Do Thái rời bỏ Libya]]
Văn hóa
Cuộc sống gia đình là điều quan trọng đối với các gia đình Libya, đa số họ sống tại các tòa nhà chung cư và các ngôi nhà riêng, kiểu ngôi nhà phụ thuộc vào thu nhập và sự giàu có của từng hộ. Dù người Libya Ả rập theo truyền thống sống du mục trong các lều trại, hiện họ đã định cư tại nhiều thị trấn và thành phố.[78] Vì thế, phong cách sống cũ của họ dần phai nhạt. Một số lượng nhỏ người Libya vẫn sống trong sa mạc như cha ông họ đã từng sống trong hàng thế kỷ trước kia. Đa phần dân cư làm việc trong các ngành công nghiệp và dịch vụ, chỉ một số nhỏ làm nông nghiệp.
Như một số nước Ả rập khác trong thế giới Ả rập, Libya có ít nhà hát và các gallery. Giải trí công cộng hầu như không tồn tại, thậm chí trong các thành phố lớn.[79] Gần đây nghệ thuật tại Libya đã bắt đầu phục hưng, đặc biệt là hội hoạ; các gallery tư nhân bắt đầu phát triển tạo cơ hội thể hiện cho các tài năng trẻ.[80] Trái lại, trong nhiều năm nước này không hề có những nhà hát công cộng, và chỉ vài rạp chiếu phim có trình chiếu các bộ phim nước ngoài. Văn hóa dân gian vẫn tồn tại và phát triển, với một số nhóm nhạc và nhảy múa tại các dịp lễ hội, cả tại Libya và nước ngoài. Các chương trình phát thanh chính ở Libya đều phát các loại nhạc truyền thống. Âm nhạc Tuareg và nhảy múa rất phổ biến tại Ghadames ở phía nam. Các chương trình truyền hình đa số phát bằng tiếng Ả rập với chỉ 30 phút mỗi ngày cho các bản tin tiếng Anh và tiếng Pháp mỗi buổi chiều. Chính phủ vẫn quản lý chặt chẽ các cơ sở phát thanh, truyền hình; Một phân tích mới do Ủy ban bảo vệ các nhà báo đưa ra cho rằng truyền thông ở Libya là một trong những nơi bị quản lý chặt chẽ nhất trong thế giới Ả rập.[22] Để khắc phục điều này, chính phủ đã có nhiều kế hoạch nhằm phát triển truyền hình tư nhân, một sáng kiến được đưa ra nhằm phục hưng ngành truyền thông của đất nước.[81]
Người Libya thường đi nghỉ tại các bãi biển trong nước. Họ cũng có cơ hội tham quan tại các địa điểm khảo cổ học được gìn giữ trong tình trạng tốt, đặc biệt ở Leptis Magna, nơi đây được nhiều người coi là một trong những di sản khảo cổ học Rôma được gìn giữ tốt nhất trên thế giới.[82]
Thủ đô đất nước, Tripoli, có rất nhiều bảo tàng đẹp và văn khố phong phú; gồm Thư viện chính phủ, Bảo tàng Dân tộc học, Bảo tàng Khảo cổ học, Lưu trữ Quốc gia, Bảo tàng Văn khắc và Bảo tàng Hồi giáo. Bảo tàng Jamahiriya được xây dựng sau các cuộc thảo luận với UNESCO, có lẽ là bảo tàng nổi tiếng nhất nước này; nó trưng bày những bộ sưu tập đẹp nhất về nghệ thuật cổ điển Địa Trung Hải.[83]
- Xem thêm thông tin: Âm nhạc Libya
Nhân quyền tại Libya
Xem chi tiết Nhân quyền tại Libya.Xem thêm
Các chủ đề về Libya | |
---|---|
Lịch sử | Chiến tranh Ý-Thổ |
Địa lý | Các vùng đô thị | Thành phố | Địa Trung Hải |
Chính trị | Thủ tướng | Quốc hội nhân dân | Lãnh đạo chính phủ |
Kinh tế | Vận tải | Truyền thông | Nhân khẩu |
Các công ty | Sông nhân tạo |
Văn hóa | Tôn giáo bản địa | Ngôn ngữ: Tiếng Ả Rập, Tiếng Tamahaq, Tiếng Ý | Thể thao | Âm nhạc | Hướng đạo sinh |
Liñh vực khác | Người Do Thái ở Libya | Đội tuyển bóng đá Libya |
Xếp hạng quốc tế
Tổ chức | Nghiên cứu | Xếp hạng |
---|---|---|
Quỹ Di sản (HF)/Nhật báo Phố U-ôn (WSJ) | Chỉ số Tự do Kinh tế | 173 trong số 179 |
Tạp chí Nhà kinh tế | Thế giới năm 2005 - Chỉ số chất lượng cuộc sống, 2005 | 70 trong số 111 |
Trung tâm Thông tin Năng lượng Hoa Kỳ (EIA) | Các quốc gia xuất khẩu dầu mỏ lớn nhất | 12 trong số 15 |
Nhà báo không biên giới (RWB) | Chỉ số tự do báo chí (2010) | 162 trong số 167 |
Minh bạch quốc tế (TI) | Chỉ số nhận thức tham nhũng 2010 | 117 trong số 158 |
Chương trình Phát triển của Liên hiệp quốc (UNDP) | Chỉ số phát triển con người 2005 | 58 trong số 177 |
Tham khảo
- ^ About Libya: Libyan National Anthem, Trang thông tin Hội đồng Chuyển tiếp Quốc gia của Libya, truy cập 23 tháng 8, 2011
- ^ Tiếng Ả Rập Libya và các phương ngữ khác là các ngôn ngữ nói, trong khi tiếng Ả Rập chuẩn là ngôn ngữ viết chính thức.
- ^ Tuy cả hai chính phủ đang tranh chấp Libya đồng ý rằng Tripoli là thủ đô, nhưng chính phủ Cộng hòa Libya hiện đóng tại Benghazi.
- ^ “Libya”. Quỹ tiền tệ quốc tế. Truy cập ngày 21 tháng 4 năm 2010.
- ^ U.N. Demographic Yearbook, (2003), "Demographic Yearbook (3) Pop., Rate of Pop. Increase, Surface Area & Density", United Nations Statistics Division, Truy cập July 15 2006
- ^ Annual Statistical Bulletin, (2004), "World proven crude oil reserves by country, 1980-2004", O.P.E.C., Truy cập July 20 2006
- ^ World Economic Outlook Database, (April, 2006), "Report for Selected Countries and Subjects", International Monetary Fund, Truy cập July 15 2006
- ^ United Nations Economic & Social Council, (16 tháng 2, 1996), "Libyan Arab Jamahiriya Report", Office of the United Nations High Commissioner for Human Rights, Truy cập July 14 2006
- ^ a ă â [1]
- ^ Những năm tháng cai trị của Gaddafi
- ^ Federal Research Division of the Library of Congress, (1987), "Early History of Libya", U.S. Library of Congress, Truy cập July 11 2006
- ^ Herodotus, (kh. 430 TCN), "'The Histories', Book IV.42-43" Fordham University, New York, Truy cập July 18 2006
- ^ Federal Research Division of the Library of Congress, (1987), "Tripolitania and the Phoenicians", U.S. Library of Congress, Truy cập July 11 2006
- ^ Federal Research Division of the Library of Congress, (1987), "Cyrenaica and the Greeks", U.S. Library of Congress, Truy cập July 11 2006
- ^ Heuser, Stephen, (24 tháng 7, 2005), "When Romans lived in Libya", The Boston Globe Truy cập July 18 2006
- ^ Country Profiles, (16 tháng 5, 2006), "Timeline: Libya, a chronology of key events" BBC News, Truy cập July 18 2006
- ^ Hagos, Tecola W., (20 tháng 11, 2004), "Treaty Of Peace With Italy (1947), Evaluation And Conclusion", Ethiopia Tecola Hagos, Truy cập July 18 2006
- ^ "24 tháng 12, 1951: Libya declares its independence under King Idris", Global Connections - The Middle East, Truy cập July 15 2006
- ^ US Department of State's Background Notes, (Nov, 2005) "Libya - History", U.S. Dept. of State, Truy cập July 14 2006
- ^ Federal Research Division of the Library of Congress, (1987), "Government and Politics of Libya", U.S. Library of Congress, Truy cập July 14 2006
- ^ Middle East and N. Africa, Amnesty International, Public Statement, (13 tháng 1, 2005), "Libya: Abolition of People's Court is an important step", Amnesty International USA, Truy cập July 17 2006
- ^ a ă Special Report 2006, (2 tháng 5, 2006), "North Korea Tops CPJ list of '10 Most Censored Countries'", Committee to Protect Journalists, Truy cập July 19 2006
- ^ Case Study: Libya, (2001), "Political Culture", Educational Module on Chemical & Biological Weapons Nonproliferation, Truy cập July 14 2006
- ^ Hodder, Kathryn, (2000), "Violations of Trade Union Rights", Social Watch Africa, Truy cập July 14 2006
- ^ Lahmeyer, Jan, (26 tháng 11, 2004), "Historical demographical data of the administrative division", Universiteit Utrecht, Truy cập July 19 2006
- ^ Jamahiriya News Agency, (19 tháng 7, 2004), "Masses of the Basic People's Congresses select their Secretariats and People's Committees" Mathaba News, Truy cập July 19 2006
- ^ "Municipalities of Libya", Website of the General People's Committee of Libya Truy cập 19 tháng 7, 2006
- ^ Federal Research Division of the Library of Congress, (1987), "Independant Libya", U.S. Library of Congress, Truy cập July 14 2006
- ^ Abadi, Jacob (2000), "Pragmatism and Rhetoric in Libya's Policy Toward Israel", The Journal of Conflict Studies: Volume XX Number 1 Fall 2000, University of New Brunswick, Truy cập July 19 2006
- ^ The Columbia Encyclopedia, Sixth Edition, (2001 - 2005), "Qaddafi, Muammar al-", Bartleby Books, Truy cập July 19 2006
- ^ Biography, "Idi Amin", Cape Breton-Victoria Regional School Board, Truy cập July 19 2006
- ^ Boyne, Walter J., (March, 1999), "El Dorado Canyon", Air Force Association Journal, Vol. 82, No. 3, Truy cập July 19 2006
- ^ (2003), "Libya", Global Policy Forum, Truy cập July 19 2006
- ^ Marcus, Jonathan, (15 tháng 5, 2006), "Washington's Libyan fairy tale", BBC News, Truy cập July 15 2006
- ^ U.K. Politics, (25 tháng 3, 2004), "Blair hails new Libyan relations", BBC news, Truy cập July 15 2006
- ^ Hirsh, Michael, (11 tháng 5, 2006), "The Real Libya Model", Newsweek, Truy cập July 15 2006
- ^ Federal Research Division of the Library of Congress, (1987), "Climate & Hydrology of Libya", U.S. Library of Congress, Truy cập July 15 2006
- ^ (2005), "Demographics of Libya", Education Libya, Truy cập June 29 2006
- ^ (20 tháng 7, 2006), "Field Listings - Coastlines", CIA World Factbook, Truy cập July 23 2006
- ^ The national authority for information and authentication, Libya, (2004), "Census of Libya, 2004", Libyan Jamahiriya Broadcasting Corporation, Truy cập July 17 2006
- ^ a ă â Zboray, András, "Flora and Fauna of the Libyan Desert", Fliegel Jezerniczky Expeditions, Truy cập July 14 2006
- ^ Hottest Place, "El Azizia Libya, 'How Hot is Hot?'", Extreme Science, Truy cập July 14 2006
- ^ Fledderus, Bill, (1997), "The English Patient Reposed in His Bed Like a (Fisher?) King", Elements of Grail Romance in Ondaatje's The English Patient, University of New Brunswick Libraries, Truy cập July 19 2006
- ^ United Nations Economic & Social Council, (16 tháng 2, 1996), "Libyan Arab Jamahiriya Report", Office of the United Nations High Commissioner for Human Rights, Truy cập July 14 2006
- ^ a ă The World Factbook, (2006), "Economy - Libya", CIA World Factbook, Truy cập July 14 2006
- ^ W.M.D., (2003), "Libya Special Weapons News", Global Security Report, Truy cập July 14 2006
- ^ Reuters, (28 tháng 7, 2004), "Libya to start WTO membership talks", Trade Law Centre for Southern Africa, Truy cập July 16 2006
- ^ (2003), "Libyan Trade Links with the UK", U.K. Trade and Investment, Truy cập July 14 2006
- ^ Volume: 23, No. 27, (2006), "Shell returns to Libya with gas exploration pact", Oil & Gas Worldwide News, Truy cập July 14 2006
- ^ Jawad, Rana, (31 tháng 5, 2006), "Libyan aviation ready for take-off" BBC News, Truy cập July 22 2006
- ^ a ă Azad, Sher (22 tháng 10 năm 2011). “Gaddafi and the media”. Daily News. Truy cập ngày 22 tháng 10 năm 2011.
- ^ Craig Glenday (2009). Guinness Book of World Records, 2009. Random House. tr. 255.
- ^ Sarah A. Topol, (23 tháng 8 năm 2010). “Libya's Qaddafi taps 'fossil water' to irrigate desert farms”. Christian Science Monitor. Truy cập ngày 18 tháng 9 năm 2011.
- ^ Shimatsu, Yoichi (21 tháng 10 năm 2011). “Villain or Hero? Desert Lion Perishes, Leaving West Explosive Legacy”. New America Media. Truy cập ngày 23 tháng 10 năm 2011.
- ^ http://hdr.undp.org/en/reports/global/hdr2005/
- ^ “Zimbabwe: Reason Wafavarova - Reverence for Hatred of Democracy”. AllAfrica.com. 21 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 23 tháng 10 năm 2011.
- ^ a ă [2]
- ^ [3]
- ^ http://laodong.com.vn/Tin-Tuc/Co-200-ty-USD-vi-sao-Gaddafi-khong-giau-nhat-the-gioi/64011
- ^ Earth Trends, Environmental Information, (2004), "Population: Population density", World Resources Institute, Truy cập July 19 2006
- ^ Al-Amari, Mailud, (Nov, 2004), "Population Dynamics and Fertility Trends in Libya", American Public Health Association, Truy cập July 17 2006
- ^ Libya Demographics and Geograhy, (2005), "Libya - Population" The Columbia Gazetteer of the World, Truy cập July 17 2006
- ^ The World Factbook, (2006), "People - Libya", CIA World Factbook, Truy cập July 19 2006
- ^ Anderson, Lisa, (2006), "'Libya', III. People, B. Religion & Language", MSN Encarta, Truy cập July 17 2006
- ^ a ă â Clark, Nick, (July, 2004), "Education in Libya", World Education News and Reviews, Volume 17, Issue 4, Truy cập July 22 2006
- ^ Federal Research Division of the Library of Congress, (1987), "Education of Libya", U.S. Library of Congress, Truy cập July 22 2006
- ^ (July, 2006) "Field Listing - Literacy", CIA World Factobook, Truy cập July 22 2006
- ^ a ă El-Hawat, Ali, (2000), "Country Higher Education Profiles - Libya", International Network for Higher Education in Africa", Truy cập July 22 2006
- ^ Religious adherents by location, "'42.000 religious geography and religion statistics', Libya" Adherents.com, Truy cập 15 tháng 7, 2006
- ^ a ă Federal Research Division of the Library of Congress, (1989), "The Sanusis", U.S. Library of Congress, Truy cập 22 tháng 7, 2006
- ^ Federal Research Division of the Library of Congress, (1989), "Islam in Revolutionary Libya", US Library of Congress, Truy cập July 19 2006
- ^ Libya - Religion, (8 tháng 7, 2006), "Sufi Movement to be involved in Libya" Arabic News, Truy cập July 19 2006
- ^ (2004), "International Religious Freedom Report: Libya" Jewish Virtual Library, Truy cập July 19 2006
- ^ The World Jewish Congress, "History of the Jewish Community in Libya", University of California at Berkeley, Truy cập July 16 2006
- ^ Harris, David A. (2001), "In the Trenches: Selected Speeches and Writings of an American Jewish Activist", 1979-1999, pp. 149-150
- ^ World News, (1 tháng 9, 2004), "Gaddafi to compensate Libyan Jews for lost homes", New Zealand Herald, Truy cập July 20 2006
- ^ Gordon, Raymond G., Jr. (ed.), (2005), "Arabic Libyan", Ethnologue: Languages of the World, Fifteenth edition, Truy cập 17 tháng 7, 2006
- ^ Al-Hawaat, Dr. Ali, (1994), "The Family and the work of women, A study in the Libyan Society" National Center for Research and Scientific Studiesof Libya, Truy cập 19 tháng 7, 2006
- ^ News and Trends: Africa, (17 tháng 9, 1999), "Libya looking at economic diversification" Alexander's Gas & Oil Connections, Truy cập July 19 2006.
- ^ About Libya, "Libya Today", Discover Libya Travel, Truy cập July 14 2006.
- ^ (30 tháng 1, 2006), "Libya to allow independent media", Middle East Times, Truy cập July 21 2006
- ^ Donkin, Mike, (23 tháng 7, 2005), "Libya's tourist treasures", BBC News, Truy cập July 19 2006
- ^ Bouchenaki, Mounir, (1989), "The Libyan Arab Jamahiriya Museum: a first in the Arab world", UNESCO, Museum Architecture: beyond the <<temple>> and... beyond, Truy cập 19 tháng 7, 2006
- Libya, Anthony Ham, Lonely Planet Publications, 2002, ISBN 0-86442-699-2
- Libya Handbook, Jamez Azema, Footprint Handbooks, 2001, ISBN 1-900949-77-6
- Harris, David A. (2001). In the Trenches: Selected Speeches and Writings of an American Jewish Activist, 1979-1999. KTAV Publishing House, Inc. ISBN 0-88125-693-5
- Wright, John L. Nations of the Modern World: Libya, Ernest Benn Ltd, 1969
- Bản mẫu:CIAfb
Bài viết này kết hợp các tài liệu thuộc phạm vi công cộng từ website hay thư mục thuộc Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ (Nền tảng lưu ý).
Liên kết ngoài
Tìm thêm về Libya tại những đồng dự án của Wikipedia: | |
![]() |
Từ điển ở Wiktionary |
![]() |
Sách ở Wikibooks |
![]() |
Cẩm nang du lịch ở Wikivoyage |
![]() |
Hồ sơ ở Wikiquote |
![]() |
Văn kiện ở Wikisource |
![]() |
Hình ảnh và phương tiện ở Commons |
![]() |
Tin tức ở Wikinews |
![]() |
Tài liệu giáo dục ở Wikiversity |
Chính phủ
- General People's Committee (The Cabinet)
- The People's Committee of Foreign Affairs
- Libyan Liaison Office, Washington D.C.
- Libyan People's Bureau (Libyan Embassy), Ottawa
- Libyan Cultural Affairs, London.
Tổng quan
- BBC News Country Profile — Libya
- Encyclopaedia Britannica, Libya - Country Page
- Open Directory Project - Libya directory category
- US Congressional Research Service (CRS) Reports - Libya
- US State Department — Libya includes Background Notes, Country Study and major reports
Du lịch
![]() |
Wikivoyage có chỉ dẫn du lịch về Libya |
Thương mại
|
|
Đêm thánh vô cùng
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
"Đêm Thánh vô cùng" hoặc "Đêm yên lặng" (tiếng Đức: "Stille Nacht"; tiếng Anh: "Silent Night") là một trong những ca khúc Giáng sinh nổi tiếng, với phần lời gốc do linh mục Josef Mohr viết bằng tiếng Đức và phần giai điệu do nghệ sĩ organ Franz Xaver Gruber sáng tác năm 1818, cả hai đều là người Áo. Phiên bản đang được sử dụng rộng rãi ngày nay có đôi chút khác biệt với nguyên bản của Gruber. Ca khúc này đã được UNESCO công nhận là kiệt tác truyền khẩu và phi vật thể nhân loại vào tháng 3 năm 2011.[1]
Từ đầu thập niên 1900, Nhà thờ Thánh Nicôla bị lũ lụt tàn phá, thị trấn được dời lên một nơi an toàn hơn ở thượng nguồn dòng sông, một ngôi nhà thờ mới được xây dựng bên cạnh một chiếc cầu. Một nhà nguyện nhỏ gọi là Stille-Nacht-Gedächtniskapelle (Nhà nguyện Tưởng nhớ Ca khúc Đêm Yên Lặng) được dựng lên ngay tại địa điểm của ngôi nhà thờ cũ bị phá hủy, và ngôi nhà kế cận được biến thành nhà bảo tàng, quanh năm thu hút du khách đến từ khắp nơi trên thế giới, nhưng đông nhất vẫn là trong tháng 12.
Mặc dù bản gốc của ca khúc đã bị thất lạc, một bản viết tay của Mohr đã được tìm thấy vào năm 1995, các nhà nghiên cứu xác định nó thuộc vào khoảng năm 1820. Điều này cho thấy linh mục Mohr đã viết lời bài hát vào năm 1816 khi ông được phân công đến một nhà thờ hành hương ở Mariapfarr (Áo), và phần nhạc được sáng tác bởi Gruber vào năm 1818. Đây là bản cổ nhất, cũng là bản viết tay duy nhất của Mohr. Giai điệu được sáng tác bởi Gruber chịu ảnh hưởng của âm nhạc truyền thống tại các vùng nông thôn, phảng phất những nét đặc trưng của dân ca Áo.
Ca khúc vẫn thường được trình diễn không cần nhạc đệm theo lối a cappella. Mặc dù được sáng tác bởi hai tín hữu Công giáo, bài hát này cũng có một vị trí đặc biệt trong các nhà thờ thuộc Giáo hội Luther. Người ta tin rằng ca khúc Giáng Sinh này đã được dịch ra hơn 140 ngôn ngữ trên khắp thế giới, và là một trong những bài hát được yêu thích nhất mọi thời đại.[3][4] Phần chuyển ngữ và đặt tựa tiếng Việt của nhạc sĩ Hùng Lân.
Ca khúc này cũng từng được hát cùng một lúc bằng tiếng Pháp, tiếng Anh và tiếng Đức trong ngày hưu chiến đêm Giáng sinh [5] năm 1914 trong Chiến tranh thế giới thứ I, vì đây là một thánh ca mà các binh sĩ của cả hai bên của cuộc chiến đều biết.
Lịch sử
Ca khúc được sáng tác hoàn tất vào ngày 25 tháng 12 năm 1818 và được trình diễn lần đầu tại Nhà thờ Thánh Nicôla (Nicola-Kirche) ở Obendorf thuộc nước Áo. Linh mục Mohr viết lời cho bài hát từ năm 1816, nhưng mãi đến đêm vọng Lễ Giáng Sinh năm 1818 mới tìm gặp nghệ sĩ Gruber để nhờ soạn phần giai điệu cũng như phần phối âm cho đàn ghita. Có lẽ linh mục Mohr muốn có một ca khúc Giáng Sinh mới dành cho Thánh lễ nửa đêm Giáng Sinh, nhưng đàn phong cầm của nhà thờ đã bị hỏng. Lúc đầu, Gruber không đồng ý với đề nghị của Mohr vì e rằng giáo dân đến dự lễ sẽ không thích loại âm nhạc được trình bày với đàn ghita, bởi lẽ lúc đó quy chế về nhạc cụ trình diễn thánh ca phải là phong cầm. Nhưng vì không còn sự lựa chọn nào khác, Gruber phải chấp nhận và bắt tay vào việc. Chỉ trong vài giờ đồng hồ, phần nhạc của ca khúc được hoàn tất. Lúc đầu, người dự lễ tỏ ra kinh ngạc khi nghe ca khúc được trình bày với đàn ghita, nhưng chẳng bao lâu mọi người bị mê hoặc bởi giai điệu ngọt ngào của bài hát.Từ đầu thập niên 1900, Nhà thờ Thánh Nicôla bị lũ lụt tàn phá, thị trấn được dời lên một nơi an toàn hơn ở thượng nguồn dòng sông, một ngôi nhà thờ mới được xây dựng bên cạnh một chiếc cầu. Một nhà nguyện nhỏ gọi là Stille-Nacht-Gedächtniskapelle (Nhà nguyện Tưởng nhớ Ca khúc Đêm Yên Lặng) được dựng lên ngay tại địa điểm của ngôi nhà thờ cũ bị phá hủy, và ngôi nhà kế cận được biến thành nhà bảo tàng, quanh năm thu hút du khách đến từ khắp nơi trên thế giới, nhưng đông nhất vẫn là trong tháng 12.
Mặc dù bản gốc của ca khúc đã bị thất lạc, một bản viết tay của Mohr đã được tìm thấy vào năm 1995, các nhà nghiên cứu xác định nó thuộc vào khoảng năm 1820. Điều này cho thấy linh mục Mohr đã viết lời bài hát vào năm 1816 khi ông được phân công đến một nhà thờ hành hương ở Mariapfarr (Áo), và phần nhạc được sáng tác bởi Gruber vào năm 1818. Đây là bản cổ nhất, cũng là bản viết tay duy nhất của Mohr. Giai điệu được sáng tác bởi Gruber chịu ảnh hưởng của âm nhạc truyền thống tại các vùng nông thôn, phảng phất những nét đặc trưng của dân ca Áo.
Chuyển ngữ
Năm 1859, John Freeman Young (Giám mục Giáo phận Florida, Hoa Kỳ) cho ra đời bản dịch tiếng Anh của ca khúc, và nó trở thành bản được nhiều người biết đến nhất hiện nay.[2] Nói chung, các phiên bản hiện nay có giai điệu được sử dụng thường là chậm, theo lối hát ru, có một chút khác biệt so với bản nguyên gốc của Gruber (đặc biệt là ở các dòng cuối cùng) có tiết tấu linh hoạt, gần như nhạc khiêu vũ. Ngày nay, lời và giai điệu ca khúc đã được đưa vào phạm vi công cộng của điều luật tác quyền.Ca khúc vẫn thường được trình diễn không cần nhạc đệm theo lối a cappella. Mặc dù được sáng tác bởi hai tín hữu Công giáo, bài hát này cũng có một vị trí đặc biệt trong các nhà thờ thuộc Giáo hội Luther. Người ta tin rằng ca khúc Giáng Sinh này đã được dịch ra hơn 140 ngôn ngữ trên khắp thế giới, và là một trong những bài hát được yêu thích nhất mọi thời đại.[3][4] Phần chuyển ngữ và đặt tựa tiếng Việt của nhạc sĩ Hùng Lân.
Ca khúc này cũng từng được hát cùng một lúc bằng tiếng Pháp, tiếng Anh và tiếng Đức trong ngày hưu chiến đêm Giáng sinh [5] năm 1914 trong Chiến tranh thế giới thứ I, vì đây là một thánh ca mà các binh sĩ của cả hai bên của cuộc chiến đều biết.
Xem thêm
- Trường ca Messiah
- Phước cho Nhân loại (Joy to the World)
- Ân điển diệu kỳ (Amazing Grace)
- Hang Bê Lem
- Thánh ca Cơ Đốc
- Âm nhạc Cơ Đốc
Phương tiện
|
Tham khảo
- ^ “Österreichische UNESCO-Kommission - Nationalagentur für das Immaterielle Kulturerbe - Austrian Inventory”. Truy cập ngày 25 tháng 12 năm 2014.
- ^ Underwood, Byron Edward, "Bishop John Freeman Young, Translator of 'Stille Nacht'", The Hymn, v. 8, no. 4, October 1957, pp. 123–132.
- ^ Ronald M. Clancy, William E Studwell. Best-Loved Christmas Carols. Christmas Classics Ltd, 2000.
- ^ “Silent Night”. Silent Night Web.
- ^ Stanley Weintraub, Silent Night: The Remarkable Christmas Truce of 1914. New York: Free Press, 2001.
Liên kết ngoài
![]() |
Wikimedia Commons có thêm thể loại hình ảnh và phương tiện truyền tải về Đêm thánh vô cùng |
![]() |
Wikisource tiếng Việt có toàn văn tác phẩm về: |
- Stille-Nacht-Association, Salzburg
- Silent Night Web: translations (227 versions in 142 languages - 227 phiên bản trong 142 ngôn ngữ), notation, and history.
- Joseph Mohr Memorial Organ, Wagrain, Austria
Vụ đánh bom cư xá Brinks
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Vụ đánh bom cư xá Brinks (hay khách sạn Brinks) là một vụ tấn công diễn ra vào ngày 24 tháng 12 năm 1964 do lực lượng biệt động Sài Gòn của Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam tiến hành. Hai biệt động của Mặt trận đã đưa một xe ô tô có chứa thuốc nổ vào tầng hầm (tầng để xe) của cư xá Brinks - nơi có nhiều nhân viên quân lực của Hoa Kỳ cư trú - và gây nổ làm chết 2 người và bị thương hàng chục người khác.
Cư xá Brinks cao 6 tầng có 168 phòng nằm ở số 103 đường Hai Bà Trưng, thành phố Hồ Chí Minh hiện nay.[1] Bộ Chỉ huy Viện trợ quân sự Mỹ tại Việt Nam thuê cư xá Brinks làm nơi trọ cho nhiều sĩ quan cao cấp của mình.
Đêm vọng Lễ Giáng Sinh năm 1964, Bảy Bê (tên thật là Nguyễn Thanh Xuân) và Tư Mập (tên thật là Nguyễn Văn Hòa) là hai binh sĩ thuộc đội 5, F100, biệt động Sài Gòn đã giả trang làm các sĩ quan Việt Nam Cộng hòa đến gặp một sĩ quan Hoa Kỳ ở cư xá.[2] Trên chiếc xe do hai thành viên Mặt trận này lái vào tầng hầm cư xá có chứa khoảng 90–100 kg thuốc nổ. Khối thuốc nổ được hẹn giờ kích hoạt vào khoảng 18 giờ là giờ có nhiều sĩ quan Hoa Kỳ nghỉ ngơi và vui chơi.
Vụ đánh bom đã làm 2 sĩ quan Hoa Kỳ thiệt mạng. Trung tá James Robert Hagen chết tại chỗ; đây là sĩ quan cao cấp nhất bị giết tại Việt Nam Cộng hòa cho tới thời điểm đó. Trung sĩ Benjamin Beltra Castaneda bị thương nặng và chết sau đó.[2][3][4][5] Số người bị thương không được công bố không thống nhất; dao động từ khoảng 58 đến trên 100 người gồm người Mỹ, Việt Nam, và Úc.[2][3][4][5] 4 tầng dưới của cư xá Brinks bị vụ nổ làm hư hại nghiêm trọng. Cư xá Brinks sau đó được sửa lại và các sĩ quan Hoa Kỳ vẫn tiếp tục ở đó cho đến khi Chiến tranh Việt Nam kết thúc.
Vụ đánh bom làm làm chính phủ và công chúng Hoa Kỳ bất ngờ và bàng hoàng. Trước đó, họ được chính quyền Việt Nam Cộng hòa khẳng định rằng "Việt Cộng chỉ hoạt động được ở các vùng nông thôn", còn Sài Gòn do chính quyền Việt Nam Cộng hòa kiểm soát hoàn toàn. Đại sứ Hoa Kỳ Maxwell Taylor, dưới sức ép từ Hoa Kỳ, đã cố gắng thuyết phục Nguyễn Khánh từ chức, nhưng thất bại. Tổng thống Hoa Kỳ Lyndon Baines Johnson sau khi tham khảo ý kiến của các quan chức quốc phòng Hoa Kỳ đã không cho rằng một cuộc ném bom quy mô lớn xuống miền Bắc Việt Nam để trả đũa có thể đem lại hiệu quả như ý.[3][4][5]
Cư xá Brinks cao 6 tầng có 168 phòng nằm ở số 103 đường Hai Bà Trưng, thành phố Hồ Chí Minh hiện nay.[1] Bộ Chỉ huy Viện trợ quân sự Mỹ tại Việt Nam thuê cư xá Brinks làm nơi trọ cho nhiều sĩ quan cao cấp của mình.
Đêm vọng Lễ Giáng Sinh năm 1964, Bảy Bê (tên thật là Nguyễn Thanh Xuân) và Tư Mập (tên thật là Nguyễn Văn Hòa) là hai binh sĩ thuộc đội 5, F100, biệt động Sài Gòn đã giả trang làm các sĩ quan Việt Nam Cộng hòa đến gặp một sĩ quan Hoa Kỳ ở cư xá.[2] Trên chiếc xe do hai thành viên Mặt trận này lái vào tầng hầm cư xá có chứa khoảng 90–100 kg thuốc nổ. Khối thuốc nổ được hẹn giờ kích hoạt vào khoảng 18 giờ là giờ có nhiều sĩ quan Hoa Kỳ nghỉ ngơi và vui chơi.
Vụ đánh bom đã làm 2 sĩ quan Hoa Kỳ thiệt mạng. Trung tá James Robert Hagen chết tại chỗ; đây là sĩ quan cao cấp nhất bị giết tại Việt Nam Cộng hòa cho tới thời điểm đó. Trung sĩ Benjamin Beltra Castaneda bị thương nặng và chết sau đó.[2][3][4][5] Số người bị thương không được công bố không thống nhất; dao động từ khoảng 58 đến trên 100 người gồm người Mỹ, Việt Nam, và Úc.[2][3][4][5] 4 tầng dưới của cư xá Brinks bị vụ nổ làm hư hại nghiêm trọng. Cư xá Brinks sau đó được sửa lại và các sĩ quan Hoa Kỳ vẫn tiếp tục ở đó cho đến khi Chiến tranh Việt Nam kết thúc.
Tham khảo
- ^ [1]
- ^ a ă â Chuyện đời ông Bảy Bê "Biệt động Sài Gòn"
- ^ a ă â Karnow, Stanley (1997). Vietnam: A history. New York City, New York: Penguin Books. ISBN 0-670-84218-4.
- ^ a ă â Langguth, A. J. (2000). Our Vietnam. New York City, New York: Simon and Schuster. ISBN 0-684-81202-9.
- ^ a ă â Moyar, Mark (2006). Triumph Forsaken: The Vietnam War, 1954–1965. New York City, New York: Cambridge University Press. ISBN 0-521-86911-0.
Video yêu thích
http://www.youtube.com/user/hoangkimvietnam
Trở về trang chính
hoangkim vietnam, hoangkim, hoangkimvietnam, Hoàng Kim, Ngọc Phương Nam, Chào ngày mới Thung dung, Dạy và học, Cây Lương thực, Tin Nông nghiệp Việt Nam, Food Crops, foodcrops.vn, Cassava in Vietnam, VietnamAfricaCassavaRice, Khát khao xanh, Dayvahoc, Học mỗi ngày, Danh nhân Việt , Food Crops News, Điểm chính, CNM365, Câu chuyện ảnh, 5 phút thư giản, Kim LinkedIn, KimTwitter, KimFaceBook Đọc lại và suy ngẫm, Việt Nam tổ quốc tôi, Tình yêu cuộc sống, Thơ cho con
No comments:
Post a Comment