Thiên Tân
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Tọa độ: 39°10′0″B 117°10′0″Đ
Thiên Tân (tiếng Trung: 天津; bính âm: Tiānjīn; Phát âm tiếng Trung: [tʰjɛ́ntɕín]), giản xưng Tân (津); là một trực hạt thị, đồng thời là thành thị trung tâm quốc gia và thành thị mở cửa ven biển lớn nhất phía bắc của Trung Quốc. Thiên Tân nằm trên bình nguyên Hoa Bắc, là nơi các chi lưu của Hải Hà hợp lưu với nhau, giáp với Bột Hải ở phía đông và dựa vào Yên Sơn
ở phía bắc. Hải Hà chảy uốn lượn qua trung tâm đô thị của thành phố,
các cây cầu bắc qua Hoài Hà hình thành nên cảnh tượng "nhất kiều nhất
cảnh" cho Thiên Tân.
Từ thời cổ, Thiên Tân đã trở nên hưng thịnh nhờ vào vận tải đường thủy. Ngày 23 tháng 12 năm 1402, thành Thiên Tân chính thức được xây dựng, là thành thị duy nhất có thời gian xây thành chính xác vào thời cổ tại Trung Quốc.[1] Kể từ năm 1860, sau khi Thiên Tân trở thành một cảng thông thương với ngoại quốc, nhiều nước phương Tây đã lập tô giới tại Thiên Tân. Bên cạnh đó, Dương Vụ phái (洋务派) cũng lập ra các thể chế kinh tế tại Thiên Tân, khiến Thiên Tân trở thành tiền tuyến mở cửa ở phương Bắc Trung Quốc và là căn cứ của Dương Vụ vận động (洋务运动) vào thời cận đại ở Trung Quốc. Với vị thế là nơi tiên phong, Thiên Tân vào thời cận đại có nền công nghiệp, thương nghiệp, tài chính phát triển nhanh chóng. Khi đó, Thiên Tân là nơi tiến hành "hiện đại hóa" quân sự, và là một trong những nơi đầu tiên tại Trung Quốc có đường sắt, điện báo, điện thoại, bưu chính, khai mỏ, giáo dục và tư pháp cận đại. Đương thời, Thiên Tân trở thành thành thị công thương nghiệp lớn thứ hai và trung tâm tài chính lớn nhất tại phía bắc Trung Quốc[2]
Ngày 22 tháng 3 năm 2006, Quốc vụ viện Trung Quốc đã phê duyệt "Quy hoạch tổng thể thành phố Thiên Tân", theo đó Thiên Tân sẽ trở thành một thành phố cảng quốc tế, một trung tâm kinh tế phương Bắc và một thành phố sinh thái.[3] Ngoài ra, còn đưa sự phát triển và mở cửa của tân khu Tân Hải vào trong chiến lược phát triển quốc gia của Trung Quốc, biến Thiên Tân thành cực tăng trưởng thứ ba của kinh tế Trung Quốc.[4][5]
Từ trước khi mở cửa thông thương với ngoại quốc, đặc biệt là trong thời gian xảy ra Chiến tranh Nha phiến lần thứ hai,
các cường quốc phương Tây đã từng nhiều lần phát động chiến tranh nhằm
chiếm đóng Đại Cô Khẩu- cửa sông của Hải Hà. Ngày 20 tháng 5 năm 1858,
liên quân Anh-Pháp đổ bộ vào mặt bên của pháo đài, quân Thanh bắn pháo
phản kích, sát thương gần một trăm binh sĩ liên quân. Tuy nhiên, do Trực
Lệ tổng đốc Đàm Đình Tương (谭廷襄) từ bỏ chạy trốn, khiến cho pháo đài nam bắc liên tiếp bị công chiếm. Triều đình nhà Thanh bí bách, đã phân biệt ký vào Điều ước Thiên Tân với bốn nước Nga, Anh, Pháp, Mỹ.
Ngày 20 tháng 6 năm 1859, công sứ ba nước Anh-Pháp-Mỹ đến ngoài Đại Cô
Khẩu, được triều đình Thanh yêu cầu vào bờ tại Bắc Đường, rồi được quân
Thanh bảo vệ đến Bắc Kinh hoán ước. Liên quân Anh-Pháp cự tuyệt, tấn
công Đại Cô Khẩu, mở đầu cho chiến tranh Đại Cô Khẩu lần thứ hai,
quân Thanh bắn pháo phản kích, đánh chìm 4 chiếc quân hạm của liên quân
Anh-Pháp, quân Anh-Pháp bị tổn thất nặng nề và phải triệt thoái. Đây là
một chiến thẳng hiếm hoi trước ngoại bang của quân Thanh vào mạt kỳ của
triều đại này. Ngày 1 tháng 8 năm 1860, liên quân Anh-Pháp huy động hơn
30 quân hạm với đội quân lục chiến gồm 5.000 người đổ bộ thuận lợi vào
vùng phụ cận Bắc Đường, mở đầu chiến tranh Đại Cô Khẩu lần thứ ba, liên tục công hạ các pháo đài Tân Hà, Đường Cô và Đại Cô Khẩu Bắc. Hàm Phong hoàng đế hạ lệnh bỏ pháo đài Nam, đám quân Thanh còn lại triệt thoái về thành Thiên Tân, Đại Cô Khẩu thất thủ.[7]
Ngày 24 tháng 10 năm 1860, triều đình nhà Thanh cùng Anh-Pháp đã ký kết điều ước Bắc Kinh. Chín cường quốc gồm Anh, Mỹ, Pháp, Đức, Nhật, Nga, Ý, Áo, Bỉ trước sau đã thiết lập tô giới tại Thiên Tân, tiến hành cải tạo đất trong các tô giới, nạo vét Hải Hà, cải thiện hoàn cảnh đầu tư của Thiên Tân. Thiên Tân dần dần trở thành tiền tuyến mở cửa ở phương Bắc Trung Quốc và là căn cứ của Dương Vụ vận động (洋务运动) vào thời cận đại ở Trung Quốc. Khi đó, Thiên Tân là nơi tiến hành "hiện đại hóa" quân sự, và là một trong những nơi đầu tiên tại Trung Quốc có đường sắt, điện báo, điện thoại, bưu chính, khai mỏ, giáo dục và tư pháp cận đại.[8] Ngày 5 tháng 7 năm 1900, liên quân tám nước công chiếm Thiên Tân, sau đó tiến hành hai năm thống trị thực dân tại Thiên Tân, và đến năm 1901 thì họ đã ra lệnh phá bỏ tường thành Thiên Tân. Năm Quang Tự thứ 29 (1903), Trực Lệ tổng đốc kiêm Bắc Dương thông thương đại thần Viên Thế Khải đã bắt đầu cho phát triển các khu đô thị mới tại bờ bắc Hải Hà ở Thiên Tân, tức Hà Bắc tân khu, áp dụng cách quy hoạch thành thị hiện đại phương Tây, còn được gọi là "Bắc Dương tân thành".[9]
Tháng 6 năm 1928, Quốc dân Cách mạng quân chiếm lĩnh Thiên Tân, chính phủ Quốc dân Nam Kinh thiết lập thành phố đặc biệt Thiên Tân và thành lập chính phủ thành phố đặc biệt Thiên Tân. Tháng 6 năm 1930, thành phố đặc biệt Thiên Tân chuyển sang thuộc quyền quản lý trực tiếp của Hành chính viện thuộc Chính phủ Quốc dân Nam Kinh. Tháng 11 cùng năm, do thủ phủ của tỉnh Hà Bắc được chuyển từ Bắc Bình đến Thiên Tân, Thiên Tân lại trở thành một thành phố thuộc tỉnh; tháng 6 năm 1935, thủ phủ Hà Bắc được chuyển đến Bảo Định, Thiên Tân được khôi phục là một thành phố trực thuộc chính phủ Trung ương.
Sau sự kiện Lư Câu Kiều vào ngày 7 tháng 7 năm 1937, Thiên Tân ngay lập tức chìm trong ngọn lửa chiến tranh. Ngày 29 tháng 7, quân Nhật Bản đã phái phi cơ đến oanh tạc Thiên Tân. Ngày 30 tháng 7, quân Nhật Bản chiếm lĩnh Thiên Tân, thành lập "Hội duy trì trị an thành phố Thiên Tân", bổ nhiệm Cao Lăng Úy làm ủy viên trưởng. Ngày 17 tháng 12 cùng năm, đổi thành "công thự đặc biệt thành phố Thiên Tân". Ngày 9 tháng 4 năm 1939, giám đốc hải quan Thiên Tân mới nhậm chức là Trình Tích Canh (程锡庚) thuộc phái thân Nhật đã bị những người kháng Nhật ám sát tại tô giới Anh ở Thiên Tân, dẫn đến tranh chấp ngoại giao giữa Anh Quốc và Nhật Bản. Từ ngày 14 tháng 6 cùng năm, quân Nhật Bản tiến hành phong tỏa vũ trang tô giới Anh và tô giới Pháp tại Thiên Tân trong suốt một năm. Sau khi bùng phát chiến tranh Thái Bình Dương, quân Nhật Bản tiến chiếm tô giới Anh tại Thiên Tân. Tháng 8 đến tháng 10 cùng năm, Thiên Tân xảy ra lụt lội, khiến cho 80% diện tích khu vực đô thị của thành phố bị ngập. Ngày 14 tháng 8 năm 1945, Nhật Bản đầu hàng vô điều kiện, chính phủ Trung Hoa Dân Quốc thu phục Thiên Tân cùng tô giới các nước tại Thiên Tân. Ngày 30 tháng 9, đội hải quân lục chiến Hoa Kỳ gồm hơn 20.000 lính đã đổ bộ tại khu vực Đường Cô, đến ngày 8 tháng 10, tại quảng trường trước cửa bộ Tư lệnh quân Mỹ trú tại Thiên Tân, đã cử hành nghi thức quân Nhật ký vào bản đầu hàng. Sau khi nội chiến Quốc-Cộng bùng phát, vào ngày 29 tháng 11 năm 1948, chiến dịch Bình Tân bắt đầu. Từ ngày 2 tháng 1 năm 1949, 340.000 quân Cộng sản tham dự chiến dịch Bình Tân đã tập kết quanh Thiên Tân, sang ngày 14 tháng 1 thì tiến hành tổng công kích, trải qua 29 giờ chiến đấu đã đánh bại Quốc quân Trung Hoa Dân Quốc, nắm giữ toàn bộ Thiên Tân.
Ngày 28 tháng 7 năm 1976, đã xảy ra trận động đất Đường Sơn có cường độ 7,8 độ richter, Thiên Tân phải hứng chịu các sóng địa chấn gây ra thiệt hại. Trận động đất đã khiến 24.345 cư dân thành phố tử vong, 21.497 cư dân thành phố trọng thương. Trên 60% công trình kiến trúc toàn thành phố chịu sự phá hoại của động đất, gần 700.000 người mất nhà cửa. Trận động đất khiến nền công nghiệp Thiên Tân chịu tổn thất nghiêm trọng, trên 30% xí nghiệp bị phá hoại ở mức độ nghiêm trọng. Đồng thời, hồ chứa Bắc Đại Cảng và hồ chứa Vu Kiều cũng bị động đất phá hoại nghiêm trọng.[6] Năm 1981, hồ chứa Mật Vân đã được xây dựng trên thượng du Hải Hà thuộc Bắc Kinh nhằm cung cấp nước cho thủ đô, con sông không còn là nguồn cung cấp nước cho Hà Bắc và Thiên Tân nữa, khiên hai địa phương này gặp phải khó khăn.[11] Cùng năm, Quốc vụ viện Trung Quốc quyết định cho xây dựng công trình "dẫn Loan nhập Tân", vấn đề cung cấp nước cho Thiên Tân cuối cùng đã được giải quyết.
Năm 1984, vào đầu cải cách mở cửa, Thiên Tân được Quốc vụ viện xác định là một trong 14 thành phố mở cửa ven biển của Trung Quốc, kinh tế bắt đầu phát triển nhanh chóng. Năm 1994, Thiên Tân bắt đầu chiến lược di chuyển về phía đông đối với ngành công nghiệp, xây dựng tân khu Tân Hải.[12] Tháng 10 năm 2005, một hội nghị của Đảng Cộng sản Trung Quốc đã quyết định đưa sự phát triển mở cửa của tân khu Tân Hải vào trong quy hoạch 5 năm lần thứ 11 và chiến lược phát triển quốc gia. Ngày 22 tháng 3 năm 2006, hội nghị Thường vụ Quốc vụ viện đã xác định vị thế của Thiên Tân là thành phố cảng quốc tế, trung tâm kinh tế phương Bắc, thành phố sinh thái.[3] Do đó việc cạnh tranh vị thế trung tâm kinh tế phương bắc giữa Bắc Kinh và Thiên Tân cuối cùng đã kết thúc.[13][14]
Thiên Tân nằm ở phía tây vùng biển Bột Hải, bờ biển dài 153 km. Tài nguyên hải dương của Thiên Tân bao phủ một khu vực có diện tích hơn 370 km², có tài nguyên đất bùn ven biển, có nhiều tài nguyên sinh vật phù du, sinh vật trôi, sinh vật đáy, sinh vật bãi triều. Ngoài ra, lợi dụng tài nguyên nước biển, Thiên Tân đã trở thành vùng sản xuất muối nổi tiếng từ xưa đến nay, có diêm trường lớn nhất Trung Quốc là diêm trường Trường Lô (长芦盐场), chiếm một phần tư tổng sản lượng muối biển của Trung Quốc.[19] Trong những năm gần đây, công trình ngọt hóa nước biển đã giúp giải quyết vấn đề thiếu nước ngọt của đô thị Thiên Tân. Tài nguyên dầu khí hải dương của Thiên Tân phong phú, hiện đã phát hiện 45 cấu tạo có chứa dầu, trữ lượng rất khả quan.[20]
Nguồn: Cục khí tượng Trung Quốc 17 tháng 3 năm 2009.

Thiên Tân 天津 |
|
— Trực hạt thị — | |
Thành phố
天津市
|
|
Theo chiều kim đồng hồ từ phía trên: quảng trường Tân Loan cùng Trung tâm tài chính Hoàn cầu Thiên Tân và Hải Hà, nhà thờ Tây Khai, toàn cảnh khu trung tâm Thiên Tân, ga Thiên Tân, Mắt Thiên Tân | |
Vị trí Thiên Tân (đỏ) tại Trung Quốc | |
Tọa độ: 39°08′B 117°11′Đ | |
---|---|
Quốc gia | ![]() |
Định cư | khoảng 340 TCN |
Chính quyền | |
- Kiểu | Trực hạt thị |
- Bí thư thị ủy | Tôn Xuân Lan (孙春兰) |
- Thị trưởng | Hoàng Hưng Quốc (黄兴国) |
Diện tích | |
- Trực hạt thị | 11.760 km² (4.540,6 mi²) |
- Đô thị | 174,9 km² (67,5 mi²) |
- Vùng đô thị | 5.606,9 km² (2.164,8 mi²) |
Dân số (2010) | |
- Trực hạt thị | 12.938.224 |
- Mật độ | 1.100,2/km² (2.849,5/mi²) |
- Đô thị | 4.342.770 |
- Mật độ đô thị | 24.830/km² (64.309,4/mi²) |
- Vùng đô thị | 10.290.987 |
- Mật độ vùng đô thị | 1.835,4/km² (4.753,7/mi²) |
Múi giờ | Giờ tiêu chuẩn Trung Quốc (UTC+8) |
Mã bưu chính | 300000 – 301900 |
Mã điện thoại | 22 |
Thành phố kết nghĩa | Bình Nhưỡng, Łódź, Abidjan, Mykolaiv, Mar del Plata, Chiba (thành phố), Fitchburg, Massachusetts, Bangkok, Sarajevo, Dallas, Thessaloniki, Hakodate, Kharkiv, Q171882[?], Kutaisi, Rishon LeZion, Philadelphia |
Tổng GDP (2011) | 1.119 tỉ NDT 177,6 tỷ USD |
GDP bình quân (2011) | 84.337 NDT 13.058 USD |
HDI (2008) | 0,875 |
Biển số xe | 津A, B, C, D, F, G, H, J, K, L, M 津E (taxi) |
Hoa biểu tượng | Nguyệt quý (Rosa chinensis) |
Website: www.tj.gov.cn |
Từ thời cổ, Thiên Tân đã trở nên hưng thịnh nhờ vào vận tải đường thủy. Ngày 23 tháng 12 năm 1402, thành Thiên Tân chính thức được xây dựng, là thành thị duy nhất có thời gian xây thành chính xác vào thời cổ tại Trung Quốc.[1] Kể từ năm 1860, sau khi Thiên Tân trở thành một cảng thông thương với ngoại quốc, nhiều nước phương Tây đã lập tô giới tại Thiên Tân. Bên cạnh đó, Dương Vụ phái (洋务派) cũng lập ra các thể chế kinh tế tại Thiên Tân, khiến Thiên Tân trở thành tiền tuyến mở cửa ở phương Bắc Trung Quốc và là căn cứ của Dương Vụ vận động (洋务运动) vào thời cận đại ở Trung Quốc. Với vị thế là nơi tiên phong, Thiên Tân vào thời cận đại có nền công nghiệp, thương nghiệp, tài chính phát triển nhanh chóng. Khi đó, Thiên Tân là nơi tiến hành "hiện đại hóa" quân sự, và là một trong những nơi đầu tiên tại Trung Quốc có đường sắt, điện báo, điện thoại, bưu chính, khai mỏ, giáo dục và tư pháp cận đại. Đương thời, Thiên Tân trở thành thành thị công thương nghiệp lớn thứ hai và trung tâm tài chính lớn nhất tại phía bắc Trung Quốc[2]
Ngày 22 tháng 3 năm 2006, Quốc vụ viện Trung Quốc đã phê duyệt "Quy hoạch tổng thể thành phố Thiên Tân", theo đó Thiên Tân sẽ trở thành một thành phố cảng quốc tế, một trung tâm kinh tế phương Bắc và một thành phố sinh thái.[3] Ngoài ra, còn đưa sự phát triển và mở cửa của tân khu Tân Hải vào trong chiến lược phát triển quốc gia của Trung Quốc, biến Thiên Tân thành cực tăng trưởng thứ ba của kinh tế Trung Quốc.[4][5]
Mục lục
Lịch sử
Cổ đại
Thiên Tân nằm trên vùng đồng bằng phù sa do Hoàng Hà bồi đắp vào thời Cổ đại, trước khi sông chuyển dòng về phía nam như ngày nay. Vào thời cổ, Hoàng Hà từng ba lần đổi dòng để đổ ra biển tại phụ cận Thiên Tân: đổ ra biển ở phụ cận huyện Ninh Hà vào 3000 năm trước, đổ ra biển tại phụ cận Hoàng Hoa vào thời Tây Hán, đổ ra biển tại nam thành Thiên Tân vào thời Bắc Tống. Đến thời nhà Kim, Hoàng Hà đổi dòng về phía nam, bờ biển Thiên Tân ổn định. Muộn nhất là trong thời Chiến Quốc, ở khu vực Thiên Tân đã có các cư dân lao động và sinh sống đầu tiên.[6] Thời Tây Hán, Hán Vũ Đế đã thiết lập diêm quan tại Vũ Thanh. Thời nhà Tùy, Đại Vận Hà khai thông, khiến cho nơi giao nhau giữa Bắc Vận Hà và Nam Vận Hà, Tam Xóa Hà Khẩu (三岔河口), trở thành nơi phát sinh sớm nhất của Thiên Tân.[6] Thời nhà Đường, đã mở ruộng muối tại Lô Đài, lập kho muối tại Bảo Trì. Từ sau thời Trung Đường, Thiên Tân trở thành bến tiếp nhận các vật tư như lương thực và tơ lụa từ phương Nam vận chuyển lên phương Bắc. Thời Tống-Liêu, Hải Hà từng là sông ranh giới, phía bắc sông là đất Liêu, phía nam sông là đất Tống. Thời Tống, ở phía nam Hải Hà, triều Tống cho thiết lập rất nhiều cứ điểm quân sự, như: Nam Hà, Sa Qua, Độc Lưu để đề phòng quân Liêu tiến xuống phía nam.[6] Thời nhà Kim, triều đình đã cho thiết lập trọng trấn "Trực Cô trại" tại Tam Xóa Khẩu, đương thời khu vực phụ cận Thiên hậu cung đã hình thành đường phố.[6] Thời nhà Nguyên, vận chuyển đường biển được khai thông, Trực Cô trở thành trung tâm vận chuyển đường thủy, có tiếp vận thính và kho lương, Thiên Hậu cung cũng được xây dựng. Năm Diên Hựu thứ 3 (1316), tại Trực Cô đã thiết lập "Hải Tân trấn", là trọng trấn quân sự và trung tâm vận chuyển đường thủy đương thời.[6] Thời nhà Minh, khi Yên vương Chu Lệ tranh đoạt ngôi vị với người cháu là Minh Huệ Đế, đã vượt sông tại khu vực Thiên Tân để tiến về phía nam. Năm Vĩnh Lạc thứ hai (1404), Minh Thành Tổ Chu Lệ đã ban tên gọi "Thiên Tân", có ý là Thiên tử vượt bến sông, xây thành thiết lập Thiên Tân vệ.[6] Cùng với việc nhân khẩu gia tăng và thương nghiệp phát triển, triều đình nhà Minh liên tiếp thiết lập quan nha, xây trường học, đưa các vùng đất bên ngoài vào phạm vi thuộc thẩm quyền của Thiên Tân. Thời nhà Thanh, Thiên Tân được đổi từ vệ thành châu, rồi được thăng từ châu thành phủ. Cuối thời Thanh, Thiên Tân là trú địa của Trực Lệ tổng đốc, trở thành căn cứ của Lý Hồng Chương và Viên Thế Khải trong việc thiết lập Dương Vụ vận động và phát triển thế lực Bắc Dương.Mở cửa thông thương cuối thời Thanh
Ngày 24 tháng 10 năm 1860, triều đình nhà Thanh cùng Anh-Pháp đã ký kết điều ước Bắc Kinh. Chín cường quốc gồm Anh, Mỹ, Pháp, Đức, Nhật, Nga, Ý, Áo, Bỉ trước sau đã thiết lập tô giới tại Thiên Tân, tiến hành cải tạo đất trong các tô giới, nạo vét Hải Hà, cải thiện hoàn cảnh đầu tư của Thiên Tân. Thiên Tân dần dần trở thành tiền tuyến mở cửa ở phương Bắc Trung Quốc và là căn cứ của Dương Vụ vận động (洋务运动) vào thời cận đại ở Trung Quốc. Khi đó, Thiên Tân là nơi tiến hành "hiện đại hóa" quân sự, và là một trong những nơi đầu tiên tại Trung Quốc có đường sắt, điện báo, điện thoại, bưu chính, khai mỏ, giáo dục và tư pháp cận đại.[8] Ngày 5 tháng 7 năm 1900, liên quân tám nước công chiếm Thiên Tân, sau đó tiến hành hai năm thống trị thực dân tại Thiên Tân, và đến năm 1901 thì họ đã ra lệnh phá bỏ tường thành Thiên Tân. Năm Quang Tự thứ 29 (1903), Trực Lệ tổng đốc kiêm Bắc Dương thông thương đại thần Viên Thế Khải đã bắt đầu cho phát triển các khu đô thị mới tại bờ bắc Hải Hà ở Thiên Tân, tức Hà Bắc tân khu, áp dụng cách quy hoạch thành thị hiện đại phương Tây, còn được gọi là "Bắc Dương tân thành".[9]
Thời kỳ Dân Quốc
Tháng 3 năm 1912, Viên Thế Khải nhậm chức đại tổng thống của Trung Hoa Dân Quốc, chính phủ Bắc Dương được thành lập. Ngày 1 tháng 7 cùng năm, Thiên Tân huyện thự bị bãi bỏ, các cơ cấu trực thuộc được đưa sang cho Thiên Tân phủ tiếp quản. Tháng 4 năm 1913, khôi phục Thiên Tân huyện, bãi bỏ Thiên Tân phủ. Huyện thự được thiết lập tại phủ thự trước đó, sau đổi tên thành Thiên Tân huyện hành chính công thự. Ngày 20 tháng 10 năm 1916, Pháp công khai bắt bớ cảnh sát Trung Quốc, mưu tính chiếm Lão Tây Khai. Người dân Thiên Tân hợp thành "Duy trì quốc quyền quốc thổ hội", vài nghìn người tiến hành thị uy. Sau này, do thỏa hiệp của chính phủ Bắc Dương, Lão Tây Khai trở thành nơi Trung-Pháp cùng quản lý, lịch sử gọi là "sự kiện Lão Tây Khai". Ngày 14 tháng 3 năm 1914, chính phủ Trung Quốc tuyên chiến với Đế quốc Đức và Đế quốc Áo-Hung trong chiến tranh Thế giới lần thứ nhất, quân đội và cảnh sát Trung Quốc tiến vào thu phục tô giới Đức và tô giới Áo tại Thiên Tân. Tháng 6 năm 1923, Lê Nguyên Hồng từng tuyên bố di dời chính phủ Quốc dân đến Thiên Tân, thực tế là tại tô giới Anh tại Thiên Tân, thiết lập nơi chiêu đãi nghị viên, khiến cho tô giới Anh tại Thiên Tân trong một thời gian đã trở thành nơi trú chân của đại tổng thống Dân Quốc.[10]Tháng 6 năm 1928, Quốc dân Cách mạng quân chiếm lĩnh Thiên Tân, chính phủ Quốc dân Nam Kinh thiết lập thành phố đặc biệt Thiên Tân và thành lập chính phủ thành phố đặc biệt Thiên Tân. Tháng 6 năm 1930, thành phố đặc biệt Thiên Tân chuyển sang thuộc quyền quản lý trực tiếp của Hành chính viện thuộc Chính phủ Quốc dân Nam Kinh. Tháng 11 cùng năm, do thủ phủ của tỉnh Hà Bắc được chuyển từ Bắc Bình đến Thiên Tân, Thiên Tân lại trở thành một thành phố thuộc tỉnh; tháng 6 năm 1935, thủ phủ Hà Bắc được chuyển đến Bảo Định, Thiên Tân được khôi phục là một thành phố trực thuộc chính phủ Trung ương.
Sau sự kiện Lư Câu Kiều vào ngày 7 tháng 7 năm 1937, Thiên Tân ngay lập tức chìm trong ngọn lửa chiến tranh. Ngày 29 tháng 7, quân Nhật Bản đã phái phi cơ đến oanh tạc Thiên Tân. Ngày 30 tháng 7, quân Nhật Bản chiếm lĩnh Thiên Tân, thành lập "Hội duy trì trị an thành phố Thiên Tân", bổ nhiệm Cao Lăng Úy làm ủy viên trưởng. Ngày 17 tháng 12 cùng năm, đổi thành "công thự đặc biệt thành phố Thiên Tân". Ngày 9 tháng 4 năm 1939, giám đốc hải quan Thiên Tân mới nhậm chức là Trình Tích Canh (程锡庚) thuộc phái thân Nhật đã bị những người kháng Nhật ám sát tại tô giới Anh ở Thiên Tân, dẫn đến tranh chấp ngoại giao giữa Anh Quốc và Nhật Bản. Từ ngày 14 tháng 6 cùng năm, quân Nhật Bản tiến hành phong tỏa vũ trang tô giới Anh và tô giới Pháp tại Thiên Tân trong suốt một năm. Sau khi bùng phát chiến tranh Thái Bình Dương, quân Nhật Bản tiến chiếm tô giới Anh tại Thiên Tân. Tháng 8 đến tháng 10 cùng năm, Thiên Tân xảy ra lụt lội, khiến cho 80% diện tích khu vực đô thị của thành phố bị ngập. Ngày 14 tháng 8 năm 1945, Nhật Bản đầu hàng vô điều kiện, chính phủ Trung Hoa Dân Quốc thu phục Thiên Tân cùng tô giới các nước tại Thiên Tân. Ngày 30 tháng 9, đội hải quân lục chiến Hoa Kỳ gồm hơn 20.000 lính đã đổ bộ tại khu vực Đường Cô, đến ngày 8 tháng 10, tại quảng trường trước cửa bộ Tư lệnh quân Mỹ trú tại Thiên Tân, đã cử hành nghi thức quân Nhật ký vào bản đầu hàng. Sau khi nội chiến Quốc-Cộng bùng phát, vào ngày 29 tháng 11 năm 1948, chiến dịch Bình Tân bắt đầu. Từ ngày 2 tháng 1 năm 1949, 340.000 quân Cộng sản tham dự chiến dịch Bình Tân đã tập kết quanh Thiên Tân, sang ngày 14 tháng 1 thì tiến hành tổng công kích, trải qua 29 giờ chiến đấu đã đánh bại Quốc quân Trung Hoa Dân Quốc, nắm giữ toàn bộ Thiên Tân.
Đương đại
Trong khoảng thời gian từ năm 1949 đến tháng 2 năm 1958, Thiên Tân là một thành phố trực thuộc Trung ương. Ngày 11 tháng 2 năm 1958, do "Đại nhảy vọt" và các cơ sở công nghiệp hùng hậu tại Thiên Tân, thành phố được sáp nhập vào tỉnh Hà Bắc, Tỉnh lị Hà Bắc được đặt tại Thiên Tân trong vòng 8 năm, trong thời gian này một lượng lớn công xưởng và học hiệu được di chuyển ra các nơi khác tại Hà Bắc, điều này có ảnh hưởng bất lợi đến sự phát triển kinh tế của thành phố. Ngày 2 tháng 1 năm 1967, do "bị chiến, bị hoang" và lo ngại rằng Thiên Tân sẽ trở thành chiến trường, tỉnh Hà Bắc đã dời tỉnh lị về Bảo Định, Thiên Tân khôi phục vị thế là một thành phố trực thuộc Trung ương, duy trì cho đến nay.Ngày 28 tháng 7 năm 1976, đã xảy ra trận động đất Đường Sơn có cường độ 7,8 độ richter, Thiên Tân phải hứng chịu các sóng địa chấn gây ra thiệt hại. Trận động đất đã khiến 24.345 cư dân thành phố tử vong, 21.497 cư dân thành phố trọng thương. Trên 60% công trình kiến trúc toàn thành phố chịu sự phá hoại của động đất, gần 700.000 người mất nhà cửa. Trận động đất khiến nền công nghiệp Thiên Tân chịu tổn thất nghiêm trọng, trên 30% xí nghiệp bị phá hoại ở mức độ nghiêm trọng. Đồng thời, hồ chứa Bắc Đại Cảng và hồ chứa Vu Kiều cũng bị động đất phá hoại nghiêm trọng.[6] Năm 1981, hồ chứa Mật Vân đã được xây dựng trên thượng du Hải Hà thuộc Bắc Kinh nhằm cung cấp nước cho thủ đô, con sông không còn là nguồn cung cấp nước cho Hà Bắc và Thiên Tân nữa, khiên hai địa phương này gặp phải khó khăn.[11] Cùng năm, Quốc vụ viện Trung Quốc quyết định cho xây dựng công trình "dẫn Loan nhập Tân", vấn đề cung cấp nước cho Thiên Tân cuối cùng đã được giải quyết.
Năm 1984, vào đầu cải cách mở cửa, Thiên Tân được Quốc vụ viện xác định là một trong 14 thành phố mở cửa ven biển của Trung Quốc, kinh tế bắt đầu phát triển nhanh chóng. Năm 1994, Thiên Tân bắt đầu chiến lược di chuyển về phía đông đối với ngành công nghiệp, xây dựng tân khu Tân Hải.[12] Tháng 10 năm 2005, một hội nghị của Đảng Cộng sản Trung Quốc đã quyết định đưa sự phát triển mở cửa của tân khu Tân Hải vào trong quy hoạch 5 năm lần thứ 11 và chiến lược phát triển quốc gia. Ngày 22 tháng 3 năm 2006, hội nghị Thường vụ Quốc vụ viện đã xác định vị thế của Thiên Tân là thành phố cảng quốc tế, trung tâm kinh tế phương Bắc, thành phố sinh thái.[3] Do đó việc cạnh tranh vị thế trung tâm kinh tế phương bắc giữa Bắc Kinh và Thiên Tân cuối cùng đã kết thúc.[13][14]
Địa lý
Vị trí
Thiên Tân có tọa độ giới hạn trong 116°43′-118°04' độ kinh Đông, 38°34′-40°15′ độ vĩ Bắc, cách Bắc Kinh 120 km về phía bắc-tây bắc, giáp với các địa cấp thị Đường Sơn, Thừa Đức, Lang Phường, Thương Châu của tỉnh Hà Bắc. Tổng diện tích của thành phố là 11.860,63 km².[15], với 153 km đường bờ biển, 1137,48 km đường ranh giới trên đất liền[16]Địa mạo, địa chất
Thiên Tân có địa thế chủ yếu là đồng bằng và đất trũng, vùng đồng bằng bồi tích có diện tích 11.192,7 km², ước tính chiếm 93% tổng diện tích của thành phố[17] Bắc bộ Thiên Tân là có các núi thấp và gò đồi, thấp dần từ bắc xuống nam, thuộc khu vực quá độ từ dãy núi Yên Sơn xuống bình nguyên Tân Hải. Đông nam Thiên Tân là vịnh Bột Hải, độ cao trung bình là 3,5 mét so với mực nước biển, là vùng thấp nhất tại bình nguyên Hoa Bắc, cũng là thành thị ven biển có cao độ so với mực nước biển thấp nhất tại Trung Quốc. Điểm cao nhất của Thiên Tân là Cửu Đính Sơn thuộc huyện Kế với cao độ 1078,5 mét so với mực nước biển. Thảm thực vật của Thiên Tân bao gồm: rừng lá kim, rừng hỗn giao lá rộng và lá kim, rừng lá rộng rụng lá, đám cây bụi, đồng cỏ, thực vật diêm sinh, thực vật đầm lầy, thực vật thủy sinh, thực vật sa sinh, rừng trồng và các loại cây trồng. Ở khu vực đô thị của Thiên Tân, bạch mao dương từng là cây xanh chủ đạo, vì thế vào cuối xuân đầu hè xảy ra hiện tượng bông từ của hoa loài cây này bay lơ lửng. Lịch sử địa chất Thiên Tân đã có trên 3 tỷ năm, phát triển từ liên đại Thái cổ đến kỷ Đệ tứ thì hình thành địa mạo ngày nay, với ba giai đoạn.[18] Đặc biệt, môi trường cổ địa lý ở huyện Kế có các đặc điểm dộc đáo, có nhiều loại hình di tích địa chất trên vùng núi bắc bộ, phân bố rộng, có giá trị lớn. Công viên địa chất quốc gia đầu tiên của Trung Quốc là công viện địa chất quốc gia huyện Kế Thiên Tân.Thủy văn
Thiên Tân nằm ở hạ du lưu vực Hải Hà, là nơi năm chi lưu lớn: Nam Vận Hà (南运河), Bắc Vận Hà (北运河), Tử Nha Hà (子牙河), Đại Thanh Hà (大清河), Vĩnh Định Hà (永定河) hợp lưu rồi đổ ra biển. Dòng chính của Hải Hà chảy qua trung bộ Thiên Tân, chiều dài từ Tam Xóa Hà đến cửa sông là 73 km, Hài Hà được xem là "sông mẹ" của Thiên Tân.Thiên Tân nằm ở phía tây vùng biển Bột Hải, bờ biển dài 153 km. Tài nguyên hải dương của Thiên Tân bao phủ một khu vực có diện tích hơn 370 km², có tài nguyên đất bùn ven biển, có nhiều tài nguyên sinh vật phù du, sinh vật trôi, sinh vật đáy, sinh vật bãi triều. Ngoài ra, lợi dụng tài nguyên nước biển, Thiên Tân đã trở thành vùng sản xuất muối nổi tiếng từ xưa đến nay, có diêm trường lớn nhất Trung Quốc là diêm trường Trường Lô (长芦盐场), chiếm một phần tư tổng sản lượng muối biển của Trung Quốc.[19] Trong những năm gần đây, công trình ngọt hóa nước biển đã giúp giải quyết vấn đề thiếu nước ngọt của đô thị Thiên Tân. Tài nguyên dầu khí hải dương của Thiên Tân phong phú, hiện đã phát hiện 45 cấu tạo có chứa dầu, trữ lượng rất khả quan.[20]
Khí hậu
Thiên Tân có vĩ độ trung trên đường bờ biển phía đông của đại lục Á-Âu, thuộc đới khí hậu ôn đới gió mùa, chủ yếu chịu ảnh hưởng của hoàn lưu gió mùa, bốn mùa phân biệt rõ rệt. Vào mùa hạ, Thiên Tân chịu ảnh hưởng của khối khí áp cao phó nhiệt đới Tây Thái Bình Dương, gió chủ yếu là gió nam; vào mùa đông thì thành phố này chịu sự khống chế của khối khí áp cao lạnh Mông Cổ, thường là gió bắc, vào đầu mùa xuân chịu ảnh hưởng của hiện tượng cát bay. Nhiệt độ trung bình tháng 1 là từ -5,4°C đến -3.0°C; nhiệt độ trung bình tháng 7 là từ 25,9°C đến 26,7°C, nhiệt độ trung bình năm là 12,3°C, lượng mưa trung bình hàng năm là 544,3 mm, bình quân mỗi năm có 196~246 ngày không có sương giá.[21] Vấn đề ô nhiễm không khí của Thiên Tân khá nghiêm trọng, song căn cứ các nghiên cứu thì trong gần 10 năm nay, về mặt tổng thể thì mức độ ô nhiễm không khí đã ổn định.[22]Hành chính

Trung tâm
thành phố
thành phố
Các trường đại học
- Đại học Nam Khai (南开大学)
- Đại học Thiên Tân (天津大学)
- Đại học Y khoa Thiên Tân (天津医科大学)
- Đại học Sư phạm Thiên Tân (天津师范大学)
- Đại học Công nghiệp Thiên Tân (天津工业大学)
- Đại học Tài chính - Kinh tế Thiên Tân (天津财经大学)
- Đại học Khoa học - Kỹ thuật Thiên Tân (天津科技大学)
- Đại học Khoa học - Công nghệ Thiên Tân (天津理工大学)
- Đại học Thương nghiệp Thiên Tân (天津商业大学)
- Đại học Xây dựng Đô thị Thiên Tân (天津城建大学)
- Đại học Ngoại ngữ Thiên Tân (天津外国语大学)
- Đại Học Trung Y-Dược Thiên Tân (天津中医药大学)
- Đại học Sư phạm - Kỹ thuật Thiên Tân (天津职业技术师范大学)
- Học viện Âm nhạc Thiên Tân (天津音乐学院)
- Học viện Thể dục Thiên Tân (天津体育学院)
- Học viện Nông nghiệp Thiên Tân (天津农学院)
- Học viện Mỹ thuật Thiên Tân (天津美术学院)
- Đại học Hàng không Dân dụng Trung Quốc (中国民航大学)
Thành phố kết nghĩa và đối tác
Thành phố hữu nghị của Thiên Tân | ||
Tính đến năm 2009
|
Tham khảo
- ^ “天津:沉淀着厚重的历史”. 《工人日报》. 18 tháng 11 năm 2007.
- ^ “历史沿革” (bằng tiếng Trung). 天津政务网. 4 tháng 12 năm 2009. Truy cập 2010-8-24日.
- ^ a ă 天津总体规划获国务院批复 定位为北方经济中心, 人民网, 2010-8-7
- ^ 同项参考
- ^ 津京沪穗渝入围国家中心城市 区域发展战略调整, 北方网, 2010-8-7查阅
- ^ a ă â b c d đ 《天津地方志》《天津通志:大事记》. 天津: 天津市地方志编修委员会办公室. 2007年.
- ^ “第二次鸦片战争之北塘之战”. 中国青年网. 23 tháng 12 năm 2009. Truy cập ngày 25 tháng 1 năm 2013.
- ^ “天津政务网:历史沿革”. 天津政务网. 18 tháng 12 năm 2007. Truy cập ngày 25 tháng 1 năm 2013.
- ^ 王健 (2009). “繁荣、失落与回归——从海河的变迁剖析天津城市空间形态的变迁”. 城市规划 增刊.
- ^ 费成康 (1992年). 中国租界史. 上海: 上海社会科学院出版社. ISBN 7-80515649-2.
- ^ 密云水库今天五十岁,北青网,2010-9-23
- ^ 1994年滨海新区大事记,滨海新区网,2010-8-5
- ^ 《新京报》:《天津定位为北方经济中心 北京谋求宜居城市》,郭少峰,2006-8-8发表
- ^ 《北京晚报》:《环渤海区:津定位为经济中心 京着力建宜居城市》
- ^ 《天津市统计年鉴2010年》
- ^ 天津地理位置、行政区划、人口民族概况,中国发展门户网]
- ^ 天津市地形地貌,天津市国土房管局北辰区国土资源分局网站
- ^ 天津地质发展简史,天津市市区国土资源分局网站
- ^ 天津长芦汉沽盐场有限责任公司,天津长芦汉沽盐场公司网站
- ^ 天津地理位置,天津政务网
- ^ “天津地理气候”. 中国网. Truy cập ngày 13 tháng 7 năm 2012.
- ^ 王莉莉、王跃思等 (tháng 7 năm 2011). “天津滨海新区秋冬季大气污染特征分析”. 环境污染及其防治 7.
![]() |
Wikimedia Commons có thêm thể loại hình ảnh và phương tiện truyền tải về Thiên Tân |
|
|
|
Cục Dự trữ Liên bang (Hoa Kỳ)
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
"FRB" và "FED" đổi hướng đến đây. Để xem các cách sử dụng khác, xem FRB (định hướng) và FED (định hướng).

Trụ sở Cục Dự trữ Liên bang Hoa Kỳ tại Washington, D.C.
Cục dự trữ liên bang (viết tắt là Fed) bề ngoài là ngân hàng của chính phủ, bao gồm Hội đồng thống đốc đóng tại thủ đô Washington được chỉ định bởi Tổng thống Hoa Kỳ, Ủy ban thị trường, 12 Ngân hàng dự trữ liên bang khu vực và các ngân hàng thành viên có sở hữu một phần ở các ngân hàng dự trữ liên bang khu vực. Chủ tịch Hội đồng thống đốc của Fed hiện nay là Janet Yellen
Mục lục
Lịch sử ra đời và hình thành
Trong khoảng thời gian từ 1862 đến 1913, hệ thống ngân hàng trung ương của Hoa Kỳ được hình thành theo Đạo luật Ngân hàng quốc gia 1863. Một loạt các biến động trong lĩnh vực ngân hàng ở Hoa Kỳ vào các năm 1873, 1893 và 1907 cho thấy một hệ thống ngân hàng trung ương là cần thiết để điều phối thị trường.Sau cuộc khủng hoảng trong hệ thống ngân hàng năm 1907, Quốc hội Hoa Kỳ thành lập "Ủy ban tiền tệ quốc gia" với nhiệm vụ xây dựng kế hoạch cải cách hệ thống ngân hàng. Nelson Aldrich – người đứng đầu đảng Cộng hòa ở quốc hội đồng thời là chuyên gia tài chính, được chỉ định là Chủ tịch Ủy ban. Ông chỉ đạo một cuộc khảo sát tường tận các ngân hàng trung ương Châu Âu và nhận thấy rằng Anh và Đức là hai nước có các ngân hàng trung ương ưu việt hơn hẳn. Năm 1910, Nelson Aldrich tìm kiếm sự giúp đỡ từ các ngân hàng hàng đầu của Hoa Kỳ với mong muốn dự thảo một kế hoạch hoàn chỉnh, xây dựng cho Hoa Kỳ một hệ thống tài chính tiên tiến như của Anh và Đức. Ông cùng các chuyên viên đại diện của các định chế tài chính lớn khi đó là J.P. Morgan, Rockefeller, và Kuhn, Loeb và Công ty, dành riêng một tuần thảo luận tại đảo Jekyll (ngoài khơi bang Georgia). Đại diện của Kuhn, Loeb và Công ty là Paul Warburg (chuyên gia tài chính gốc Đức) chủ trì việc xác lập những ý cơ bản của Đạo luật Dự trữ liên bang. Aldrich sau đó giới thiệu kế hoạch của ông về ngân hàng trung ương với tên "dự luật Aldrich", đề xuất thành lập "Tổ chức Dự trữ liên bang" (Federal Reserve Association). Dự luật này trở thành một phần trong chính sách của đảng Cộng hòa ở Quốc hội nhưng không được phê chuẩn năm 1911 khi đa số quốc hội thuộc về đảng Dân chủ.
Năm 1913, Tổng thống đảng Dân chủ Woodrow Wilson phải tác động để kế hoạch của Aldrich được thông qua dưới sự đỡ đầu của thế lực đảng Dân chủ với tên mới là "Đạo luật Dự trữ liên bang". Frank Vanderlip, người đã tham gia hội nghị ở đảo Jekyll và là chủ tịch National City Bank viết trong tự truyện của mình rằng "mặc dù kế hoạch về Quỹ dự trữ liên bang của Aldrich đã không được thông qua với cái tên của chính ông, nhưng những điểm cơ bản của nó đều nằm trong dự luật sau này được thông qua". Tổng thống Wilson đã giành ưu thế trước William Jennings Bryan, người đứng đầu phe ủng hộ nông nghiệp trong đảng. Những người thuộc phe này muốn có ngân hàng trung ương của chính phủ mang đặc quyền in ấn và phát hành giấy bạc mỗi khi Quốc hội cần. Woodrow Wilson thuyết phục rằng giấy bạc của Cục dự trữ liên bang chính là nghĩa vụ của chính phủ, do đó chương trình này phù hợp mong muốn của họ. Những nghị sỹ đại diện miền nam và miền tây được tổng thống thuyết phục rằng hệ thống mới ra đời sẽ phân tán ở 12 vùng và sẽ giảm quyền lực của New York, tăng quyền lực cho các vùng nội địa. (Trên thực tế, Ngân hàng dự trữ liên bang chi nhánh New York trở thành "số một" trong các Ngân hàng dự trữ liên bang. Ví dụ, nó có đặc quyền tiến hành các hoạt động trên thị trường (phát hành trái phiếu, v.v..) dưới sự chỉ đạo của Ủy ban thị trường của Fed). Carter Glass, nghị sĩ đảng Dân chủ ủng hộ nhiệt liệt dự luật và mang về cho Richmond, Virginia quê ông một Ngân hàng dự trữ liên bang khu vực. Bang Missouri có tới hai Ngân hàng dự trữ liên bang khu vực nhờ James A. Reed (đảng Dân chủ).
Quốc hội thông qua "Đạo luật Dự trữ liên bang" cuối năm 1913. Paul Warburg và các chuyên gia xuất sắc khác được chỉ định điều hành hệ thống non trẻ. Fed đi vào hoạt động năm 1915 và đóng vai trò chủ chốt tài trợ các nỗ lực chiến tranh của Mỹ và phe liên minh trong Thế chiến thứ nhất.
Tháng 07 năm 1979, Paul Volcker được tổng thống Jimmy Carter chỉ định là Chủ tịch Hội đồng thống đốc của Cục dự trữ liên bang khi lạm phát đang gia tăng trầm trọng. Dưới sự lãnh đạo của Paul Volcker, các biện pháp kiểm soát lạm phát đã có hiệu quả và tỷ lệ lạm phát đã giảm nhanh chóng trước năm 1986.
Tháng 01 năm 1987, khi chỉ số lạm phát hàng tiêu dùng chỉ là 1%, Fed tuyên bố không còn sử dụng tổng cung tiền tệ M2 làm định hướng kiểm soát lạm phát nữa mặc dù phương pháp này đã rất thành công từ 1979. Trước 1980, lãi suất được sử dụng làm định hướng và lạm phát khi đó rất cao. Việc sử dụng chỉ số tổng cung tiền tệ M2 thay thế lãi suất làm định hướng rất thành công, nhưng Paul Volcker cho rằng nó dễ gây nhầm lẫn.
Tháng 08 năm 1987, 07 tháng sau khi thay đổi chính sách tổng cung tiền tệ, Alan Greenspan thay thế Volcker trên cương vị Chủ tịch Hội đồng thống đốc. Và rồi sau 19 năm lãnh đạo Fed rất thành công, huyền thoại của ngành tài chính thế giới, Alan Greenspan nghỉ hưu và chỉ định người kế tục mình, Ben Bernanke.
Tính pháp lý và vị trí trong chính quyền
Các bộ phận của Cục dự trữ liên bang (Fed) có tư cách pháp lý khác nhau.Hội đồng Thống đốc của Fed là cơ quan độc lập của chính phủ liên bang. Hội đồng không nhận tài trợ của Quốc hội và bảy thành viên của Hội đồng theo cơ chế dân chủ. Thành viên của Hội đồng là độc lập và không phải chấp hành yêu cầu của hệ thống lập pháp cũng như hành pháp. Tuy nhiên, Hội đồng phải gửi báo cáo tới Quốc hội theo định kỳ. Theo luật, thành viên của Hội đồng này chỉ rời chức vụ khi mãn hạn. Hội đồng Thống đốc chịu trách nhiệm việc hình thành và cụ thể hóa chính sách tiền tệ. Nó cũng giám sát và quy định hoạt động của 12 Ngân hàng dự trữ liên bang khu vực và hệ thống ngân hàng Hoa Kỳ nói chung.
Các Ngân hàng dự trữ liên bang (Federal Reserve Banks) về danh nghĩa sở hữu bởi các ngân hàng thành viên (mỗi ngân hàng thành viên giữ cổ phần không có khả năng chuyển nhượng). Theo Tòa án tối cao Mỹ, các Ngân hàng dự trữ liên bang khu vực không phải là công cụ của Chính phủ liên bang, chúng là các ngân hàng độc lập, sở hữu tư nhân và hoạt động theo luật pháp ở địa phương. Phán quyết trên cũng cho rằng, các Ngân hàng dự trữ liên bang khu vực có thể được coi là công cụ của Chính phủ liên bang theo một số mục đích nhất định. Trong một phán quyết khác ở tòa án cấp bang, sự khác biệt giữa Hội đồng thống đốc và các Ngân hàng được quy định rõ ràng.
Các ngân hàng sở hữu Ngân hàng dự trữ liên bang khu vực là của tư nhân và rất nhiều trong số đó có cổ phiếu phát hành trên thị trường.
Giấy bạc do Fed phát hành là nguồn cung tiền tệ và chúng được đưa vào lưu thông qua các Ngân hàng dự trữ liên bang khu vực.
Vai trò và nhiệm vụ
Theo Hội đồng thống đốc, Fed có các nhiệm vụ sau:- Thực thi chính sách tiền tệ quốc gia bằng cách tác động các điều kiện tiền tệ và tín dụng với mục đích tối đa việc làm, ổn định giá cả và điều hòa lãi suất dài hạn
- Giám sát và quy định các tổ chức ngân hàng đảm bảo hệ thống tài chính và ngân hàng quốc gia an toàn, vững vàng và bảo đảm quyền tín dụng của người tiêu dùng
- Duy trì sự ổn định của nền kinh tế và kiềm chế các rủi ro hệ thống có thể phát sinh trên thị trường tài chính
- Cung cấp các dịch vụ tài chính cho các tổ chức quản lý tài sản có giá trị, các tổ chức chính thức nước ngoài, và chính phủ Hoa Kỳ, đóng vai trò chủ chốt trong vận hành hệ thống chi trả quốc gia.
Tổ chức
Cấu trúc cơ bản gồm- Hội đồng thống đốc
- Ủy ban thị trường
- Các Ngân hàng của Fed
- Các ngân hàng thành viên (có cổ phần tại các chi nhánh)
Những thành viên hiện thời của Hội đồng thống đốc là:
- Ben Bernanke, Chủ tịch
- Janet Yellen, Phó Chủ tịch
- Elizabeth A. Duke
- Daniel Tarullo
- Sarah Bloom Raskin
- Jerome H. Powell
- Jeremy C. Stein
Ủy ban thị trường gồm 7 thành viên của Hội đồng thống đốc và 5 đại diện từ các Ngân hàng dự trữ liên bang khu vực. Luôn có một đại diện của ngân hàng Fed tại Quận 2, thành phố New York (hiện tại là Timonthy Geithner) là thành viên trong Ủy ban này. Thành viên từ các ngân hàng khác được luân phiên theo thời gian 2 hoặc 3 năm.
Kiểm soát cung ứng tiền tệ
Cục dự trữ liên bang kiểm soát quy mô nguồn cung ứng tiền tệ bằng các hoạt động thị trường mà qua đó Fed mua hoặc cho mượn các loại trái phiếu, giấy tờ có giá. Những tổ chức tham gia mua bán với Fed gọi là người giao dịch ưu tiên (primary dealers). Tất cả hoạt động thị trường của Fed ở Hoa Kỳ đều tiến hành tại bàn giao dịch thị trường của Ngân hàng dự trữ liên bang khu vực New York với mục đích là đạt được tỷ lệ lãi suất trái phiếu liên bang gần mới tỷ lệ mục tiêu.Thỏa thuận mua lại
Thực chất của hoạt động này là cho vay hoặc đi vay có thế chấp. Để đảm bảo những thay đổi nguồn cung tiền tệ theo chu kỳ hoặc tạm thời, bàn giao dịch thị trường của Ngân hàng dự trữ liên bang New York tham gia các thỏa thuận mua lại với những nhà giao dịch ưu tiền. Các mua bán chủ yếu là các khoản cho vay ngắn hạn, có đảm bảo của Fed. Trong ngày giao dịch, Fed sẽ đặt tiền vào tài khoản của người giao dịch và nhận thế chấp (là các giấy tờ chứng nhận sở hữu như cổ phiếu, trái phiếu, v.v..). Khi hết hạn giao dịch, quá trình diễn ra ngược lại Fed hoàn lại chứng khoán và nhận lại tiền cùng lãi. Thời hạn giao dịch có thể thay đổi từ 1 ngày (cho vay qua đêm) tới 65 ngày, phần lớn giao dịch là cho vay qua đêm và 14 ngày.Bởi các giao dịch làm tăng quỹ dự trữ của ngân hàng trong thời gian ngắn, chúng tăng nguồn cung tiền tệ. Hiệu quả của hoạt động này là tạm thời bởi các giao dịch sẽ đáo hạn, tác động dài hạn là dự trữ ngân hàng giảm đi bởi lãi suất của giao dịch (lãi suất một ngày của tỷ lệ 4,5%/năm là 0,0121%). Fed tiến hành giao dịch này hàng ngày trong 2004-2005, ngoài ra giao dịch thu hút vốn cũng tiến hành nhằm tạm thời giảm nguồn cung tiền tệ.
Trong giao dịch thỏa thuận bán lại (reverse repo), Fed sẽ vay tiền từ các người giao dịch ưu tiên bằng cách đặt cọc các chứng khoán chính phủ. Khi giao dịch đáo hạn, Fed sẽ hoàn trả tiền và các khoản lãi.
Giao dịch mua đứt
Một công cụ khác của bàn giao dịch thị trường là mua đứt. Trong giao dịch này, Cục dự trữ liên bang mua lại trái phiếu chính phủ và cung cấp giấy bạc mới vào tài khoản của người giao dịch đặt tại Fed. Bởi hoạt động này là mua đứt nên tăng cung tiền tệ lâu dài nhưng khi trái phiếu hết hạn khoản lãi vẫn được thu, thông thường là 12-18 tháng.Từ những năm 1980, Cục dự trữ liên bang cũng bán quyền mua trái phiếu chính phủ ở mức lãi suất cao. Việc bán quyền mua này giảm nguồn cung tiền tệ bởi các nhà giao dịch ưu tiên sẽ bị khấu trừ tài khoản dự trữ của họ đặt tại Fed, do đó mà quá trình tạo ra tiền lưu thông bị hạn chế.
Thực hiện chính sách tiền tệ
- Mua và bán trái phiếu chính phủ: Khi Cục dự trữ liên bang (Fed) mua trái phiếu chính phủ, tiền được đưa thêm vào lưu thông. Bởi có thêm tiền trong lưu thông, lãi suất sẽ giảm xuống và chi tiêu, vay ngân hàng sẽ gia tăng. Khi Fed bán ra trái phiếu chính phủ, tác động sẽ diễn ra ngược lại, tiền rút bớt khỏi lưu thông, khan hiếm tiền sẽ làm tăng lãi suất dẫn đến vay nợ từ ngân hàng khó khăn hơn. (Xem thêm Nghiệp vụ thị trường mở)
- Quy định lượng tiền mặt dự trữ: Ngân hàng thành viên cho vay phần lớn lượng tiền mà nó quản lý. Nếu Fed yâu cầu các ngân hàng này phải dự trữ một phần lượng tiền này, khi đó phần cho vay sẽ giảm đi, vay mượn khó hơn và lãi suất tăng lên. (Xem thêm Tỷ lệ dự trữ bắt buộc)
- Thay đổi lãi suất của khoản vay từ Fed: Các ngân hàng thành viên của Fed vay tiền từ Fed để trang trải các nhu cầu ngắn hạn. Lãi suất mà Fed ấn định cho các khoản vay này gọi là lãi suất chiết khấu. Hoạt động này có ảnh hưởng, tuy nhỏ hơn, về số lượng tiền các thành viên sẽ được vay. (Xem thêm Lãi suất chiết khấu)
Tỷ lệ chiết khấu
Cục dự trữ liên bang thực hiện chính sách tiền tệ chủ yếu bằng cách định hướng "lãi suất quỹ vốn tại Fed". Đây là tỷ lệ các ngân hàng ấn định với nhau cho khoản vay qua đêm các quỹ đặt cọc tại Cục dự trữ liên bang. Tỷ lệ này do thị trường quyết định chứ Fed không ép buộc. Tuy vậy, Fed sẽ cố gắng tác động tỷ lệ này ở con số phù hợp với tỷ lệ mong muốn bằng cách bổ sung hoặc hạn chế nguồn cung tiền tệ thông qua hoạt động của nó trên thị trường.Cục dự trữ liên bang còn ấn định tỷ lệ chiết khấu – lãi suất mà các ngân hàng thương mại phải trả khi vay tiền từ Fed. Tuy nhiên, các ngân hàng thường lựa chọn cách vay quỹ đặt cọc tại Fed từ một ngân hàng khác mặc dù lãi suất này cao hơn tỷ lệ chiết khấu của Fed. Lý do của cách lựa chọn này là việc vay tiền từ Fed mang tính công khai rộng rãi, nó sẽ đưa đến chú ý của công chúng về khả năng thanh khoản và mức độ tin cậy của ngân hàng đang đi vay.
Cả hai tỷ lệ trên chi phối lãi suất ưu đãi, là tỷ lệ thường cao hơn 3% so với "lãi suất quỹ vốn tại Fed". Lãi suất ưu đãi là tỷ lệ mà các ngân hàng tính lãi đối với khoản vay của những khách hàng tin cậy nhất.
Ở mức lãi suất thấp, các hoạt động kinh tế được thúc đẩy vì chi phí đi vay thấp, do đó mà người tiêu dùng và các doanh nghiệp tăng cường mua bán. Ngược lại, lãi suất cao đưa đến kìm hãm kinh tế vì chi phí đi vay cao hơn. (Xem thêm bài chính sách tiền tệ).
Cục dự trữ liên bang thường điều chỉnh "lãi suất quỹ vốn tại Fed" mỗi lần ở mức 0,25% hoặc 0,5%. Từ năm 2001 đến giữa năm 2003, Fed hạ lãi suất 13 lần, từ 6,25% xuống 1% nhằm chống lại xu hướng suy thoái kinh tế. Tháng 11 năm 2002, lãi suất do Fed điều chỉnh chỉ còn 1,75% và nhiều mức thấp hơn cả tỷ lệ lạm phát. Ngày 25/03/2003, "lãi suất quỹ vốn tại FED" tụt xuống mức 1%, con số thấp nhất kể từ tháng 07 năm 1958 – 0,68%. Bắt đầu từ giữa tháng 06/2004, Cục dự trữ liên bang bắt đầu nâng lãi suất định hướng 17 lần liên tục lên 5,25% ngày 08/08/2006.
Có thể, Fed cũng đã nỗ lực các hoạt động mua bán trên thị trường nhằm thay đổi tỷ lệ cho vay dài hạn, tuy nhiên năng lực của nó yếu hơn rất nhiều các định chế tài chính tư nhân.
Các ngân hàng dự trữ liên bang khu vực và ngân hàng thành viên
12 ngân hàng khu vực dự trữ liên bang khu vực được thành lập bởi Quốc hội là các chi nhánh của hệ thống ngân hàng trung ương, có tổ chức giống một tổ chức tư nhân. Ví dụ, cổ phần của ngân hàng dự trữ liên bang khu vực do các ngân hàng thành viên sở hữu. Việc sở hữu cổ phần này khác với sở hữu cổ phần công ty thông thường. Các ngân hàng dự trữ liên bang khu vực hoạt động không vì lợi nhuận và việc sở hữu cổ phần của nó là điều kiện để trở thành ngân hàng thành viên. Cổ phần không thể mua bán hay thế chấp. Cổ tức ấn định là 6% một năm. Đứng về mặt tài sản, ngân hàng Fed New York là ngân hàng lớn nhất với phạm vi hoạt động là quận 2 tiểu bang New York, thành phố New York, Puerto Rico và quần đảo Virgin thuộc Hoa Kỳ.Cổ tức được trả dưới dạng khoản bù vào lãi suất cho phần dự trữ thiếu hụt được giữ tại Fed. Theo quy định của luật pháp, mỗi ngân hàng phải duy trì tỷ lệ dự trữ bắt buộc mà phần lớn đặt tại Fed. Cục dự trữ liên bang không trả lãi suất cho các khoản dự trữ này.
Các ngân hàng dự trữ liên bang khu vực khu vực
Mỗi ngân hàng Fed khu vực được ký hiệu bằng chữ cái. Những chữ cái này in trên giấy bạc mà chúng phát hànhSTT | Tên ngân hàng khu vực | Ký hiệu | Website |
---|---|---|---|
1 | Boston | A | [1] |
2 | New York | B | [2] |
3 | Philadelphia | C | [3] |
4 | Cleveland | D | [4] |
5 | Richmond | E | [5] |
6 | Atlanta | F | [6] |
7 | Chicago | G | [7] |
8 | St Louis | H | [8] |
9 | Minneapolis | I | [9] |
10 | Kansas City | J | [10] |
11 | Dallas | K | [11] |
12 | San Francisco | L | [12] |
Quy định về tỷ lệ dự trữ
Cục dự trữ liên bang ấn định tỷ lệ dự trữ bắt buộc - phần trăm số tiền ký gửi tại ngân hàng mà ngân hàng phải giữ lại hoặc gửi tại Fed để sẵn sàng chi trả các nhu cầu rút tiền. Quy định này trực tiếp giới hạn khả năng cho vay của các ngân hàng vì khoản dự trữ này phải luôn được duy trì. Trong trường hợp khoản dự trữ này tụt xuống, ngân hàng phải tiến hành vay lẫn nhau hoặc vay của Fed để đảm bảo tỷ lệ dự trữ.Các chỉ trích
![]() |
Wikimedia Commons có thêm thể loại hình ảnh và phương tiện truyền tải về Cục Dự trữ Liên bang (Hoa Kỳ) |
Trận sông Dniepr
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
|
|||||||||||||||||||||||||||||||||||||
|
Trong thời gian gần 4 tháng (từ ngày 26 tháng 8 đến ngày 23 tháng 12 năm 1943), trên toàn bộ vùng phía đông Ukraina và Nam Nga đã diễn ra 11 chiến dịch tấn công và phòng ngự của quân đội Liên Xô với giai đoạn:
- Giai đoạn đầu khởi sự ở giữa mặt trận ngày 23 tháng 8 bằng Chiến dịch Chernigov-Poltava và kết thúc ngày 30 tháng 9 với các chiến dịch Sumsky-Prilukskaya và Poltava-Kremenchuk. Đây là giai đoạn quân đội Liên Xô tạo các bàn đạp tấn công.[7] Vì không còn có khả năng tổ chức những chiến dịch tấn công quy mô lớn trên mặt trận phía đông nên sau các đoàn phản công đợt đầu của quân đội Liên Xô, Bộ chỉ huy tối cao quân đội Đức Quốc xã quyết định chỉ tiến hành những đòn phản kích nhằm kìm hãm tốc độ tấn cong của quân đội Liên Xô để rút các lực lượng còn lại sang bờ Tây sông Dniepr, áp dụng chiến thuật bức tường thép đã thực hiện tại Rostov đầu năm 1943 để tổ chức Tuyến phòng thủ Wotan (còn gọi là "Bức tường phía đông"). Adolf Hitler ra lệnh cho Cụm tập đoàn quân Nam (Đức) phải giữ được phòng tuyến này, bao gồm cả thành phố Kiev bằng mọi giá. Trong quá trình rút lui sang bờ Tây của sông Dnepr của quân Đức diễn ra trong trận mưa bom và pháo kích của quân đội Liên Xô. Các trận không chiến cũng diễn ra quyết liệt trên dải không phận dọc sông Dniepr.[8]
- Giai đoạn sau bắt đầu ở hạ lưu sông Dniepr ngày 26 tháng 9 bởi Chiến dịch Nizhni Dnieprovsk và kết thúc đúng một tuần trước khi bước sang năm mới 1944 bằng chiến dịch Dniepropetrovsk. Kết quả của giai đoạn này là quân đội Liên Xô thu hồi toàn bộ phần Đông lãnh thổ Ukraina và một phần lãnh thổ Nga, tiến về phía tây từ 300 đến 450 km, đánh chiếm toàn bộ bờ tả ngạn sông Dniepr và thành phố Kiev. Ngoài ra, quân đội Liên Xô còn chiếm được nhiều căn cứ đầu cầu quan trọng tại Novo Shepelichi, Chernobshy, Kanev, Cherkassy, Kremenchug, Verkhne Dnieprovsk, Maganets, Berislav, toàn bộ khu vực Kiev ở phía bắc và Znamenka - Pyatikhatka ở phía nam làm bàn đạp cho Chiến dịch tấn công hữu ngạn Dniepr kế tiếp ngay sau đó, thu hồi lại toàn bộ lãnh thổ Ukraina và tiến ra tuyến biên giới quốc gia của Liên Xô.[2]
Một kết quả khác của chiến dịch này là toàn bộ Tập đoàn quân 17 (Đức) phải rút về Krym và hoàn toàn bị cô lập với chủ lực quân đội Đức Quốc xã tại mặt trận phía đông, tạo điều kiện thuận lợi cho Tập đoàn quân ven biển (nguyên là Phương diện quân Bắc Kavkaz tiến hành thành công chiến dịch Kerch (1943), đổ bộ Tập đoàn quân 56 và Sư đoàn bộ binh 318 lên bán đảo Kerch đánh chiếm hai căn đầu cầu quan trọng tại khu vực tam giác Ossoviny, Mayak, Enikalye và bãi biển Eltigen, làm căn cứ đầu để tấn công Krym từ phía đông, phối hợp với Phương diện quân Nam (Liên Xô) tấn công từ phía bắc qua eo đất Perekop, thu hồi toàn bộ bán đảo Krym vào mùa xuân năm 1944.[9]
Mục lục
Bối cảnh
Trận Kursk đã gây cho cả hai bên tham chiến những thiệt hại nặng nề về người và phương tiện chiến tranh và vị thế trên chiến trường đã tiếp tục có những thay đổi cơ bản. Nếu như với tiềm lực dồi dào của minh, Quân đội Liên Xô đã được bù đắp lại bằng những nguồn nhân lực và vật lực to lớn từ hậu phương bao la của họ thì quân đội Đức Quốc xã đang cạn dần nguồn dự trữ.[10] Sự kiện quân đồng minh Hoa Kỳ và Anh đổ bộ lên đảo Sicilia tuy chưa đe dọa trực tiếp đến trung tâm nước Đức nhưng cũng đủ để Bộ Tổng tham mưu quân đội Đức Quốc xã phải giữ lại một phần khỏng nhỏ lực lượng ở bán đảo Apelnin và không thể thoải mái điều động binh lực dự trữ sang tăng cường cho mặt trận phía đông.[11] Trong quá trình diễn ra các chiến dịch ở Belgorod-Kharkov và Oryol, quân đội Liên Xô cũng đồng thời mở các chiến dịch ở Smolensk, Rzhev-Viazma, Mginsk, Taman, đẩy quân đội Đức Quốc xã tại mặt trận phía đông vào thế bị động đối phó, không thể tự do điều động lực lượng đến những đoạn mặt trận bị uy hiếp. Ngay cả phòng tuyến Hagen được tướng Walter Model thiết lập công phu phía trước Briansk cũng không thể giúp các tập đoàn quân 2, 4, 9 và tập đoàn quân xe tăng 2 (Đức) trụ lại tại đây được quá một tháng.[12]Donbas và cả vùng công nông nghiệp ở trung lưu và hạ lưu sông Đông là mục tiêu tối cao mà quân đội Liên Xô cần phải thu hồi do đây là một trong những nguồn cung cấp quặng sắt, than đá cho nền kinh tế và các nhà máy công nghiệp nặng phục vụ nền quốc phòng. Năm 1941, người Đức cũng đặt ra những mục tiêu tương tự đối với các chiến dịch quân sự tại vùng này. Tuy nhiên, địa hình ở Donbas và cả khu vực tả ngạn sông Dniepr rất thuận lợi cho các cuộc tấn công và rất khó cho phòng thủ. Ngoài dãy núi già Donets ở phía nam chạy vắt ngang giữa đồng bằng hạ lưu sông Donets và hạ lưu sông Dniepr có độ cao không quá 400 m, toàn bộ địa hình tả ngạn sông Dniepr và vùng Donbas tương đối bằng phẳng và thoai thoải dần theo hướng đông bắc-tây nam đến sông Dniepr; độ cao trung bình không quá 250 m và không có những điểm cao đột xuất.[13]
Sông Dniepr với chiều rộng trung bình 400 đến 500 m và độ sâu giữa lòng sông từ 8 đến 12 m thực sự là một chướng ngại thiên nhiên rất lớn trên các con đường tiến quân sang phía tây của quân đội Liên Xô ở Ukraina. Do tiếp giáp với rìa phía đông của dãy núi Karpat, địa hình bên hữu ngạn sông Dniepr có đặc điểm ngược lại với bên tả ngạn. Bờ sông hữu ngạn có rất nhiều đoạn dốc cao khá gắt (trừ khu vực tiểu bồn địa Cherkassy). Tại khu vực Bukrin-Kanev, bờ sông phía tây có chỗ gần như dựng đứng, rất thuận tiện cho phòng thủ. Tuy nhiên, bờ đông con sông này lại có nhiều khu vực lau sậy và cây thấp rất rậm rạp, thuận tiện cho việc giấu quân và phương tiện chuẩn bị vượt sông. Để phòng thủ tuyến sông chiến lược này, quân đội Đức Quốc xã trên bờ Tây đã kết hợp phòng thủ thụ động bằng các cứ điểm hỏa lực, bãi mìn, chướng ngại chống tăng với các đơn vị xe tăng phòng thủ cơ động dưới sự yểm hộ tối đa của pháo binh và không quân.[8]
Binh lực và kế hoạch của các bên
Quân đội Liên Xô
Binh lực
Quân đội Liên Xô đã huy động 6 phương diện quân tham gia trận đánh này với 2.650.000 sĩ quan và binh sĩ, một khối lượng binh lực lớn nhất kể từ khi khởi đầu cuộc Chiến tranh Xô-Đức. Nhưng với trận tuyến dài đến trên 1600 km, mật độ binh lực chỉ được phân bố đậm đặc trên các hướng tấn công chính. Hình thế binh lực của quân đội Liên Xô bố trí từ Bắc xuống Nam cũng không đồng đều giữa các phương diện quân:[14]- Phương diện quân Trung Tâm (từ ngày 20 tháng 10 đổi tên thành Phương diện quân Belorussia) do đại tướng K. K. Rokossovsky
làm tư lệnh; thượng tướng M. S. Malinin làm tham mưu trưởng; trung
tướng K. F. Teleghin là ủy viên hội đồng quân sự với 7 tập đoàn quân
trong đội hình ở thời điểm khai trận:
- Tập đoàn quân xe tăng 2 do các trung tướng A. G. Rodin và I. S. Bogdanov lần lượt chỉ huy, trong biên chế có:
- Thiết giáp: 7 lữ đoàn xe tăng; 3 lữ đoàn và 2 tiểu đoàn cơ giới; 3 trung đoàn pháo tự hành
- Pháo binh: 1 sư đoàn và 3 trung đoàn pháo; 1 lữ đoàn và 1 trung đoàn pháo chống tăng; 3 trung đoàn súng cối.
- Phòng không: 2 lữ đoàn.
- Tập đoàn quân xe tăng cận vệ 3 do trung tướng P. S. Rybalko chỉ huy, trong biên chế có:
- Thiết giáp: 9 lữ đoàn xe tăng; 5 lữ đoàn và 3 tiểu đoàn cơ giới; 8 trung đoàn pháo tự hành;
- Pháo binh: 1 sư đoàn và 4 trung đoàn pháo; 2 trung đoàn súng cối
- Phòng không: 3 trung đoàn.
- Tập đoàn quân 13 do trung tướng N. P. Pukhov chỉ huy, trong biên chế có:
- Bộ binh: 13 sư đoàn
- Thiết giáp: 5 lữ đoàn xe tăng; 1 lữ đoàn và 3 trung đoàn cơ giới; 2 trung đoàn pháo tự hành;
- Pháo binh: 1 sư đoàn và 1 trung đoàn pháo; 1 lữ đoàn và 6 trung đoàn pháo chống tăng; 6 trung đoàn súng cối
- Phòng không: 1 sư đoàn và 4 trung đoàn
- 'Tập đoàn quân 48 do trung tướng P. L. Romanenko chỉ huy, trong biên chế có:
- Bộ binh: 8 sư đoàn;
- Thiết giáp: 1 lữ đoàn xe tăng;
- Pháo binh: 1 lữ đoàn và 2 trung đoàn pháo chống tăng; 2 trung đoàn súng cối
- Phòng không: 1 sư đoàn và 1 trung đoàn;
- Tập đoàn quân 60 do trung tướng I. D. Chernyakhovsky chỉ huy, trong biên chế có:
- Bộ binh: 9 sư đoàn;
- Thiết giáp: 3 trung đoàn cơ giới; 1 trung đoàn pháo tự hành;
- Pháo binh: 1 sư đoàn và 6 trung đoàn pháo chống tăng; 3 trung đoàn súng cối;
- Phòng không: 1 sư đoàn và 1 trung đoàn.
- Tập đoàn quân 65 do tướng P. I. Batov chỉ huy, trong biên chế có:
- Bộ binh: 12 sư đoàn và 1 lữ đoàn;
- Thiết giáp: 3 lữ đoàn xe tăng và 1 lữ đoàn cơ giới; 2 trung đoàn pháo tự hành;
- Kỵ binh: 1 lữ đoàn;
- Pháo binh: 3 sư đoàn và 2 trung đoàn pháo; 4 trung đoàn pháo chống tăng; 6 trung đoàn súng cối;
- Phòng không: 2 sư đoàn và 2 trung đoàn.
- Tập đoàn quân không quân 16 do thượng tướng S. I. Rudelko chỉ huy.
- Tập đoàn quân xe tăng 2 do các trung tướng A. G. Rodin và I. S. Bogdanov lần lượt chỉ huy, trong biên chế có:
- Phương diện quân Voronezh (từ ngày 20 tháng 10 năm 1943 là Phương diện quân Ukraina 1) do đại tướng N. F. Vatutin
làm tư lệnh, trung tướng S. P. Ivanov làm tham mưu trưởng, thiếu tướng
K. S. Krainyukov làm ủy viên hội đồng quân sự với 9 tập đoàn quân ở thời
điểm khai trận:
- Tập đoàn quân 38 do trung tướng N. E. Chibisov và thượng tướng K. S. Moskalenko (từ tháng 10 năm 1943) lần lượt chỉ huy, trong biên chế có:
- Bộ binh: 9 sư đoàn;
- Thiết giáp: 3 trung đoàn cơ giới;
- Pháo binh: 1 sư đoàn pháo binh hỗn hợp, 1 lữ đoàn và 4 trung đoàn pháo; 5 trung đoàn pháo chống tăng; 3 trung đoàn súng cối;
- Phòng không: 1 sư đoàn và 1 trung đoàn.
- Tập đoàn quân 40 do trung tướng K. S. Moskalenko và trung tướng F. F. Zhmachenko (từ tháng 10 năm 1943) lần lượt chỉ huy, trong biên chế có:
- Bộ binh: 6 sư đoàn và 1 lữ đoàn (Lữ đoàn bộ binh Tiệp Khắc 1);
- Thiết giáp: 1 lữ đoàn pháo tự hành;
- Pháo binh: 1 sư đoàn, 1 lữ đoàn và 2 trung đoàn pháo; 1 lữ đoàn và 3 trung đoàn pháo chống tăng;
- Phòng không: 1 sư đoàn.
- Tập đoàn quân 27 do trung tướng S. G. Trofimenko chỉ huy, trong biên chế có:
- Bộ binh: 9 sư đoàn;
- Pháo binh: 1 trung đoàn pháo; 2 trung đoàn súng cối;
- Phòng không: 1 sư đoàn.
- Tập đoàn quân 47 do các trung tướng P. P. Korzun, F. F. Zhmachenko và V. S. Polenov lần lượt chỉ huy, trong biên chế có:
- Bộ binh: 6 sư đoàn;
- Pháo binh: 4 trung đoàn pháo; 2 trung đoàn súng cối
- Phòng không: 2 trung đoàn;
- Tập đoàn quân cận vệ 4 do các trung tướng A. I. Zyghin và I. V. Galanin lần lượt chỉ huy, trong biên chế có:
- Bộ binh: 5 sư đoàn;
- Thiết giáp: 2 trung đoàn xe tăng
- Pháo binh: 1 lữ đoàn và 1 trung đoàn pháo chống tăng; 1 trung đoàn súng cối;
- Phòng không: 1 sư đoàn.
- Tập đoàn quân cận vệ 6 do trung tướng I. M. Chistyakov chỉ huy, trung biên chế có:
- Bộ binh: 10 sư đoàn;
- Thiết giáp: 1 lữ đoàn xe tăng và 8 trung đoàn cơ giới;
- Pháo binh: 2 sư đoàn, 1 lữ đoàn và 2 trung đoàn pháo; 1 lữ đoàn và 2 trung đoàn pháo chống tăng;
- Phòng không: 1 sư đoàn và 5 trung đoàn;
- Tập đoàn quân xe tăng 1 do trung tướng M.E. Katukov chỉ huy, trong biên chế có:
- Thiết giáp: 7 lữ đoàn xe tăng và 2 trung đoàn xe tăng; 2 lữ đoàn cơ giới; 4 trung đoàn pháo tự hành; 1 trung đoàn và 2 tiểu đoàn trinh sát cơ giới;
- Pháo binh: 2 trung đoàn pháo;
- Phòng không: 1 sư đoàn và 4 trung đoàn phòng không
- Tập đoàn quân cận vệ 5 do trung tướng A S. Zhadov chỉ huy, trong biên chế có:
- Bộ binh: 8 sư đoàn;
- Thiết giáp: 2 lữ đoàn và 2 trung đoàn cơ giới;
- Pháo binh: 1 trung đoàn pháo; 2 lữ đoàn và 2 trung đoàn pháo chống tăng; 2 trung đoàn pháo phản lực; 1 trung đoàn súng cối;
- Phòng không: 1 sư đoàn và 1 trung đoàn.
- Tập đoàn quân không quân 2 do thượng tướng S. S. Krasovsky chỉ huy A. S. Zhadov chỉ huy, trong biên chế có:
- Tập đoàn quân 38 do trung tướng N. E. Chibisov và thượng tướng K. S. Moskalenko (từ tháng 10 năm 1943) lần lượt chỉ huy, trong biên chế có:
- Phương diện quân Thảo nguyên (từ ngày 20 tháng 10 năm 1943 là Phương diện quân Ukraina 2) do thượng tướng I. S. Koniev
làm tư lệnh, trung tướng M. V. Zakharov làm tham mưu trưởng, trung
tướng I. Z. Susaykov làm ủy viên hội đồng quân sự với 5 tập đoàn quân ở
thời điểm khai trận:
- Tập đoàn quân xe tăng cận vệ 5 do trung tướng P. A. Rotmistrov chỉ huy, trong biên chế có:
- Thiết giáp: 8 lữ đoàn xe tăng; 5 lữ đoàn và 2 trung đoàn cơ giới; 6 trung đoàn pháo tự hành;
- Pháo binh: 4 trung đoàn pháo; 3 trung đoàn pháo chống tăng; 5 trung đoàn súng cối;
- Phòng không: 1 sư đoàn và 3 trung đoàn;
- Không quân: 1 phi đội trinh sát đường không.
- Tập đoàn quân cận vệ 7 do trung tướng M. S. Sumilov chỉ huy, trong biên chế có:
- Bộ binh: 7 sư đoàn
- Thiết giáp: 1 lữ đoàn xe tăng; 3 trung đoàn cơ giới; 1 trung đoàn pháo tự hành; 2 trung đoàn trinh sát cơ giới
- Pháo binh: 1 lữ đoàn và 4 trung đoàn pháo chống tăng; 2 trung đoàn súng cối
- Phòng không: 1 sư đoàn và 1 trung đoàn.
- Tập đoàn quân 53 do trung tướng I. M. Mangarov chỉ huy, trong biên chế có:
- Bộ binh: 6 sư đoàn;
- Pháo binh: 1 sư đoàn, 1 lữ đoàn và 1 trung đoàn pháo; 1 lữ đoàn và 2 trung đoàn pháo chống tăng; 3 trung đoàn súng cối.
- Tập đoàn quân 57 do trung tướng N. A. Gaghen chỉ huy, trong biên chế có:
- Bộ binh: 8 sư đoàn
- Thiết giáp: 1 lữ đoàn xe tăng, 2 trung đoàn cơ giới
- Pháo binh: 1 trung đoàn pháo chống tăng, 1 trung đoàn súng cối
- Phòng không: 2 trung đoàn.
- Không quân: 1 trung đoàn đổ bộ đường không
- Tập đoàn quân 69 do trung tướng V. D. Kryuchenkin chỉ huy, trong biên chế có:
- Bộ binh: 7 sư đoàn
- Pháo binh: 1 trung đoàn pháo, 1 trung đoàn chống tăng, 1 trung đoàn cối
- Phòng không: 1 trung đoàn.
- Tập đoàn quân không quân 5 do tướng S. K. Gryunov chỉ huy.
- Tập đoàn quân xe tăng cận vệ 5 do trung tướng P. A. Rotmistrov chỉ huy, trong biên chế có:
- Phương diện quân tây nam: (từ ngày 20 tháng 10 năm 1943 đổi thành Phương diện quân Ukraina 3) do đại tướng R. Ya. Malinovsky
làm tư lệnh, trung tướng F. I. Kozhenevich làm tham mưu trưởng, trung
tướng A. S. Zhentov là ủy viên hội đồng quân sự, đội hình tại thời điểm
khai trận gồm có:
- Tập đoàn quân 46 do trung tướng V. V. Glagolev chỉ huy, trong biên chế có:
- Bộ binh: 6 sư đoàn
- Thiết giáp: 3 trung đoàn cơ giới, 2 tiểu đoàn trinh sát;
- Pháo binh: 1 lữ đoàn và 1 trung đoàn pháo; 2 trung đoàn pháo chống tăng; 2 trung đoàn súng cối; 1 trung đoàn pháo phản lực
- Phòng không: 1 sư đoàn và 2 trung đoàn
- Tập đoàn quân cận vệ 1 do thượng tướng V. I. Kuznetsov chỉ huy, trong biên chế có:
- Bộ binh: 9 sư đoàn
- Thiết giáp: 1 lữ đoàn xe tăng, 2 trung đoàn pháo tự hành, 1 trung đoàn cơ giới
- Pháo binh: 1 sư đoàn pháo binh hỗn hợp; 1 trung đoàn pháo, 2 trung đoàn chống tăng; 1 lữ đoàn và 2 trung đoàn súng cối.
- Phòng không: 1 sư đoàn và 1 trung đoàn
- Tập đoàn quân 6 (gồm cả Tập đoàn quân 12 sáp nhập vào) do trung tướng I. T. Slemin chỉ huy, trong biên chế có:
- Bộ binh: 8 sư đoàn
- Thiết giáp: 1 sư đoàn và 1 trung đoàn cơ giới
- Pháo binh: 2 trung đoàn pháo, 1 trung đoàn chóng tăng, 1 trung đoàn súng cối
- Phòng không: 2 trung đoàn
- Tập đoàn quân cận vệ 8 do thượng tướng V. I. Chuikov chỉ huy, trong biên chế có:
- Bộ binh: 9 sư đoàn
- Thiết giáp: 1 lữ đoàn và 1 trung đoàn xe tăng, 4 trung đoàn cơ giới, 1 trung đoàn pháo tự hành
- Pháo binh: 1 sư đoàn, 2 lữ đoàn và 1 trung đoàn pháo; 1 lữ đoàn và 2 trung đoàn chống tăng; 3 trung đoàn súng cối; 1 trung đoàn pháo phản lực.
- Phòng không: 1 sư đoàn và 2 trung đoàn.
- Tập đoàn quân 12 do thiếu tướng A. I. Danilov chỉ huy, từ ngày 30 tháng 10 sáp nhập vào Tập đoàn quân 6.
- Tập đoàn quân cận vệ 3 do trung tướng D. D. Lelyutsenko chỉ huy, trong biên chế có:
- Bộ binh: 10 sư đoàn
- Thiết giáp: 5 lữ đoàn xe tăng; 5 lữ đoàn cơ giới; 3 trung đoàn pháo tự hành
- Pháo binh: 2 sư đoàn và 2 trung đoàn pháo; 1 lữ đoàn và 3 trung đoàn chống tăng; 4 trung đoàn súng cối.
- Phòng không: 1 sư đoàn và 3 trung đoàn
- Tập đoàn quân không quân 17 do thượng tướng V. S. Sudets chỉ huy.
- Tập đoàn quân 46 do trung tướng V. V. Glagolev chỉ huy, trong biên chế có:
- Phương diện quân Nam (từ ngày 20 tháng 10 năm 1943 đổi thành Phương diện quân Ukraina 4) do thượng tướng F. I. Tonbukhin
chỉ huy, trung tướng S. S. Biryuzov làm tham mưu trưởng, thượng tướng
E. A. Shadenko làm ủy viên hội đồng quân sự. Đội hình ở thời điểm khai
trận gồm có:
- Tập đoàn quân 51 do trung tướng Ya. G. Kreyzer chỉ huy, trong biên chế có:
- Bộ binh: 10 sư đoàn
- Thiết giáp: 1 lữ đoàn xe tăng, 3 lữ đoàn cơ giới
- Pháo binh: 1 sư đoàn và 4 trung đoàn pháo, 4 trung đoàn chống tăng, 1 trung đoàn súng cối.
- Phòng không: 2 sư đoàn
- Tập đoàn quân cận vệ 2 do trung tướng G. F. Zakharov chỉ huy, trong biên chế có:
- Bộ binh: 7 sư đoàn
- Thiết giáp: 1 trung đoàn cơ giới
- Pháo binh 2 trung đoàn pháo, 1 trung đoàn chống tăng, 1 trung đoàn súng cối
- Phòng không: 1 trung đoàn
- Tập đoàn quân xung kích 5 do thượng tướng V. D. Tsvetayev chỉ huy, trong biên chế có:
- Bộ binh: 5 sư đoàn
- Thiết giáp: 1 lữ đoàn và 1 trung đoàn xe tăng, 1 trung đoàn cơ giới;
- Pháo binh: 1 trung đoàn pháo, 1 lữ đoàn và 2 trung đoàn pháo chống tăng, 1 trung đoàn súng cối
- Phòng không: 2 trung đoàn.
- Tập đoàn quân 28 do thiếu tướng A. N. Melnikov chỉ huy, trong biên chế có:
- Bộ binh: 7 sư đoàn
- Thiết giáp: 1 trung đoàn cơ giới
- Pháo binh: 1 lữ đoàn và 2 trung đoàn pháo, 1 lữ đoàn và 1 trung đoàn pháo phản lực, 1 trung đoàn súng cối
- Phòng không: 1 trung đoàn.
- Tập đoàn quân 44 do thiếu tướng V. A. Khomenko chỉ huy; đến tháng 10 năm 1943, sáp nhập vào Tập đoàn quân xung kích 5; trong biên chế có:
- Bộ binh: 3 sư đoàn
- Kỵ binh: 3 sư đoàn
- Thiết giáp: 1 lữ đoàn và 2 trung đoàn cơ giới, 1 trung đoàn pháo tự hành
- Pháo binh: 1 trung đoàn pháo, 1 lữ đoàn và 1 trung đoàn pháo chống tăng, 1 lữ đoàn và 1 trung đoàn súng cối.
- Phòng không: 3 trung đoàn.
- Tập đoàn quân không quân 8 do trung tướng T. T. Khryukin chỉ huy
- Tập đoàn quân 51 do trung tướng Ya. G. Kreyzer chỉ huy, trong biên chế có:
Kế hoạch
Ngay trong khi các chiến dịch Chiến dịch Kutuzov và Belgorod-Kharkov còn đang tiếp diễn, Bộ Tổng tư lệnh quân đội Liên Xô đã bắt đầu vạch kế hoạch cho chiến cục thu đông 1943. I. V. Stalin yêu cầu tập trung lực lượng để thu hồi vùng Donbas và toàn bộ tả ngạn Ukraina trong thời gian sớm nhất do ý nghĩa kinh tế - quốc phòng quan trọng của khu vực này. Ông đồng ý với đánh giá của Bộ Tổng tham mưu Liên Xô cho rằng quân đội Đức Quốc xã không có khả năng để tổ chức một cuộc tấn công lớn trên mặt trận Xô-Đức nhưng vẫn còn đủ binh lực để tổ chức phòng ngự tích cực và tiến hành một số đòn phản kích. Các trận đánh ở Bogodukhov, Akhtyrka và Poltava hồi tháng 8 năm 1943 đã chứng minh điều đó.[14]Kế hoạch của Bộ Tổng tham mưu quân đội Liên Xô đề xuất việc triển khai tấn công về phía tây và tây nam trên tất cả các mặt trận cánh nam chiến trường Xô-Đức, tiến đến ranh giới phía đông Belorussia và sông Dniepr, đánh chiếm một số đầu cầu xung yếu trên bờ Tây sống Dniepr làm bàn đạp cho chiến dịch tiếp theo. Tuy nhất trí với các mục tiêu cơ bản của chiến dịch nhưng nguyên soái G. K. Zhukov cho rằng các phương thức tấn công vỗ mặt sẽ không bảo đảm chia cắt, bao vây chủ lực quân đội Đức Quốc xã và làm cho chiến dịch kế tiếp sẽ khó khăn hơn. Ông đề xuất tổ chức một đòn đột kích mạnh và tập trung từ chính diện Izyum - Kharkov tới chính diện Dniepropetrovsk - Zaporozhe để cắt Cụm tập đoàn quan Nam Đức làm đôi, sau đó bao vây và thanh toán từng cụm. Tổng tư lệnh tối cao I. V. Stalin bất chấp ý kiến ủng hộ G. K. Zhukov của tổng tham mưu trưởng A. I. Antonov vẫn ra lệnh nhanh chóng quét hết quân Đức khỏi tả ngạn Ukraina bằng các đòn đánh chính diện.[2]
Sự cẩn trọng của G. K. Zhukov dựa trên những căn cứ về binh lực và phương tiện cũng như hình thái. Trong khi cánh trái của Phương diện quân tây nam có Tập đoàn quân cận vệ 3 có sức mạnh bằng 1 tập đoàn quân xe tăng và 1 tập đoàn quân bộ binh cộng lại thì cánh phải của phương diện quân này cũng với Phương diện quân Voronezh vừa trải qua Chiến dịch Kursk rất ác liệt với nhiều tổn thất nặng nề, cần được bổ sung quân số và phương tiện. Tuy nhiên, sự nóng vội của I. V. Stalin lại có một lý do tổng quát hơn, đó là việc thu hồi vùng Donbas và tả ngạn Ukraina cần làm nhanh để giảm thiểu sự phá hoại của đối phương đang muốn biến khu vực này thành một "vùng trắng". Do đó, thay cho vai trò vu hồi của các mũi đột kích sâu, Bộ Tổng tham mưu Liên Xô đưa ra phương án sử dụng tối đa các đội du kích mạnh vốn đã hoạt động ở vùng này từ nửa cuối năm 1941 với nhiệm vụ tiến hành cuộc chiến tranh đường sắt, phá hoại tối đa các chuyến giao thông, không cho quân đội Đức Quốc xã tăng viện lên phía trước hay chuyên chở các thiết bị công nghiệp quan trọng ra khỏi Donbas về phía tây; đồng thời phối hợp với quân báo và các đơn vị trinh sát bí mật ngăn chặn các hoạt động phá hoại của quân Đức khi rút lui. Phương án này được Đại bản doanh thông qua.[15]
Đại bản doanh Bộ Tổng tư lệnh Liên Xô cử nguyên soái G. K. Zhukov làm đại diện Đại bản doanh, chỉ đạo phối hợp tác chiến giữa các phương diện quân Trung Tâm và Voronezh; nguyên soái A. M. Vasilevsky làm đại diện Đại bản doanh, chỉ đạo phối hợp tác chiến giữa các phương diện quân tây nam và Nam. Các đại diện Đại bản doanh có quyền thay mặt Tổng tư lệnh tối cao quyết định các vấn đề chiến lược của các phương diện quân được giao phụ trách ngay tại mặt trận.[16]
Quân đội Đức Quốc xã
Binh lực
Vào thời điểm 4 tháng cuối năm 1943, quân đội Đức Quốc xã tại cánh Nam mặt trận Xô Đức có Cụm tập đoàn quân Nam do thống chế Erich von Manstein làm tư lệnh, trung tướng Theodor Busse làm tham bưu trưởng, gồm 3 tập đoàn quân bộ binh, 2 tập đoàn quân xe tăng, 1 tập đoàn quân không quân. Đây là Cụm tập đoàn quân mạnh nhất của quân đội Đức Quốc xã trên mặt trận phía đông như lại phải phụ trách tuyến mặt trận dài, chiếm khoảng gần 50% tổng chiều dài mặt trận Xô-Đức. Tham gia chiến dịch còn có Tập đoàn quân 2 ở cánh trái của Cụm tập đoàn quân Trung Tâm do các thống chế Günther von Kluge và Ernst Busch (từ tháng 10 năm 1943) làm tư lệnh. Đội hình bố trí từ Bắc xuống Nam ở thời điểm khai trận gồm có:- Tập đoàn quân 2 do thượng tướng Dietrich von Saucken làm tư lệnh, trung tướng Gustav von Harteneck làm tham mưu trưởng. Trong biên chế có:
- Quân đoàn bộ binh 35 của tướng Friedrich Wiese, binh lực gồm có:
- Bộ binh: 5 sư đoàn (6, 31, 216, 258 (thiếu), và 383)
- Thiết giáp: 3 tiểu đoàn xe tăng hạng nặng (505, 654, 656)
- Pháo binh: 1 sư đoàn (637) và 2 trung đoàn (47 và 63) pháo binh nặng, 2 sư đoàn (69 và 109) và 2 trung đoàn (616 và 851) pháo binh nhẹ.
- Phòng không: 2 sư đoàn 244 và 909
- Quân đoàn bộ binh 20 của tướng Rudolf Freiherr von Roman, binh lực gồm có:
- Bộ binh: 5 sư đoàn (45, 102, 137, 251, 292)
- Pháo binh: 1 sư đoàn pháo binh nặng (604); 3 sư đoàn pháo binh nhẹ (425, 430, 850); 1 trung đoàn pháo binh hỗn hợp (904),
- Phòng không: 1 trung đoàn (41)
- Quân đoàn bộ binh 7 của tướng Anton Dostler, binh lực gồm có:
- Bộ binh: 5 sư đoàn (68, 75, 88, 213 và 323)
- Thiết giáp: Trung đoàn pháo tự hành 202
- Pháo binh: Sư đoàn 616
- Quân đoàn bộ binh 13 của tướng Arthur Hauffe, binh lực gồm có:
- Bộ binh: 4 sư đoàn (183, 208, 340, 377)
- Thiết giáp: Sư đoàn xe tăng 7
- Kỵ binh: Sư đoàn kỵ binh 5
- Pháo binh: Sư đoàn pháo binh nặng 559
- Quân đoàn xe tăng 46 của tướng Hans Gollnick, binh lực gồm có:
- Thiết giáp: 2 sư đoàn xe tăng (5 và 16), 1 trung đoàn pháo tự hành (743)
- Kỵ binh: Sư đoàn kỵ binh 2 và lữ đoàn kỵ binh 1 SS
- Bộ binh: 5 sư đoàn (Cụm quân Manteuffel gồm các sư đoàn 7, 36, 134, 253 và 342)
- Pháo binh: Sư đoàn pháo binh hỗn hợp 906, trung đoàn pháo chống tăng 100, trung đoàn pháo phản lực 103
- Quân đoàn xe tăng 56 của tướng Anton Graßer, binh lực gồm có:
- Thiết giáp: 2 sư đoàn xe tăng (4 và 12)
- Bộ binh: 4 sư đoàn (14, 131, 203, 321)
- Pháo binh: (không có số liệu)
- Quân đoàn bộ binh 7 Hungary
- Quân đoàn bộ binh 35 của tướng Friedrich Wiese, binh lực gồm có:
- Tập đoàn quân xe tăng 4 do thượng tướng Hermann Hoth làm tư lệnh, trung tướng Friedrich Fangohr làm tham mưu trưởng. Trong biên chế có:
- Quân đoàn xe tăng 48 do các tướng Otto von Knobelsdorff, Dietrich von Choltitz, Heinrich Eberbach và Hermann Balck lần lượt chỉ huy, binh lực gồm có:
- Thiết giáp: 3 sư đoàn xe tăng (8, 11, 19) và sư đoàn cơ giới "Großdeutschland"; 1 sư đoàn pháo tự hành (911), lữ đoàn cơ giới 10 và trung đoàn cơ giới 39.
- Bộ binh: 3 sư đoàn (179, "Adolf Hitler" và "Das Reich")
- Pháo binh: 2 sư đoàn pháo binh nặng (101 và 842); 2 trung đoàn pháo binh nhẹ (70 và 109)
- Phòng không: 1 trung đoàn (911.)
- Quân đoàn xe tăng 24 của tướng Walther Nehring, binh lực gồm có:
- Thiết giáp: 3 sư đoàn xe tăng (1, 17 và 27), 1 sư đoàn cơ giới (239)
- Bộ binh: 5 sư đoàn (10, 34, 82, 112 và 444)
- Quân đoàn bộ binh 52 của tướng Hans-Karl von Scheele, binh lực gồm có:
- Bộ binh: 4 sư đoàn (76, 255, 332, 384)
- Thiết giáp: 1 trung đoàn xe tăng (thuộc sư đoàn xe tăng 13).
- Không quân: Sư đoàn đổ bộ đường không 2
- Quân đoàn bộ binh 59 của tướng Kurt von der Chevallerie, binh lực gồm có:
- Bộ binh: 3 sư đoàn (217, 263 và 391)
- Thiết giáp: sư đoàn xe tăng 2, sư đoàn cơ giới 516, sư đoàn pháo tự hành 276
- Pháo binh: sư đoàn pháo binh nặng 85, các trung đoàn pháo binh nhẹ 787 và 65, trung đoàn pháo chống tăng 276
- Quân đoàn xe tăng 48 do các tướng Otto von Knobelsdorff, Dietrich von Choltitz, Heinrich Eberbach và Hermann Balck lần lượt chỉ huy, binh lực gồm có:
- Tập đoàn quân 8 (nguyên là Cụm tác chiến Kempf) do tướng Werner Kempf chỉ huy, trong biên chế có:
- Quân đoàn xe tăng 3 của tướng Friedrich Schulz, binh lực gồm có:
- Thiết giáp: 3 sư đoàn xe tăng (3, 6, 14)
- Bộ binh: 2 sư đoàn (30 và 367)
- Quân đoàn bộ binh 11 của tướng Erhard Raus, binh lực gồm có:
- Bộ binh: 3 sư đoàn (57, 72, 167)
- Thiết giáp: 1 sư đoàn xe tăng ("Wiking")
- Pháo binh: Lữ đoàn quân tình nguyện SS
- Quân đoàn bộ binh 42 của tướng Franz Mattenklott, binh lực gồm có:
- Bộ binh: 3 sư đoàn (153, 355, 381) và sư đoàn khinh binh Romania
- Thiết giáp: 2 trung đoàn xe tăng (thuộc sư đoàn xe tăng 13)
- Quân đoàn xe tăng 3 của tướng Friedrich Schulz, binh lực gồm có:
- Tập đoàn quân xe tăng 1 do các trung tướng Eberhard
von Mackensen và Hans-Valentin Hube (từ 29 tháng 10) làm tư lệnh, thiếu
tướng Walther Wenck làm tham mưu trưởng, trong biên chế có:
- Quân đoàn xe tăng 57 của tướng Hans-Karl Freiherr von Esebeck, binh lực gồm có:
- Thiết giáp: 3 sư đoàn xe tăng (9, 23 và "Totenkopf")
- Bộ binh: 4 sư đoàn (15, 62, 198 và 294)
- Quân đoàn xe tăng 40 do các tướng Gotthard Heinrici và Ferdinand Schörner (từ ngày 15 tháng 11) chỉ huy, binh lực gồm có:
- Thiết giáp: 2 sư đoàn xe tăng (10, 17), 1 sư đoàn cơ giới (16)
- Bộ binh: 4 sư đoàn(111, 123, 258, 336)
- Quân đoàn bộ binh 30 của tướng Maximilian Fretter-Pico, binh lực gồm có:
- Bộ binh: 5 sư đoàn (257, 304, 306, 387 và sư đoàn bộ binh 12 Romania)
- Quân đoàn xe tăng 57 của tướng Hans-Karl Freiherr von Esebeck, binh lực gồm có:
- Tập đoàn quân 6 (tái lập) do các tướng Karl-Adolf Hollidt và Maximilian de Angelis (từ 22 tháng 11) chỉ huy, trong biên chế có:
- Quân đoàn bộ binh 4'(tái lập) của tướng Friedrich Mieth, binh lực gồm có:
- Bộ binh: 4 sư đoàn (3, 79, 101 và 302)
- Thiết giáp: 1 sư đoàn xe tăng (24)
- Pháo binh: 1 sư đoàn (65) và 1 trung đoàn pháo binh hạng nặng (507); 3 trung đoàn pháo binh nhẹ (72, 154 và 731)
- Phòng không: 2 trung đoàn (259 và 277).
- Quân đoàn bộ binh 29 của tướng Erich Brandenberger, binh lực gồm có:
- Bộ binh: 4 sư đoàn (9, 17, 97, 335)
- Pháo binh: 1 sư đoàn pháo binh nặng (777), 1 sư đoàn (140) và 3 trung đoàn pháo binh nhẹ (40, 844, 737); 1 trung đoàn chống tăng (721)
- Phòng không: 1 trung đoàn (243)
- Không quân: Sư đoàn đổ bộ đường không 15
- Quân đoàn bộ binh 4'(tái lập) của tướng Friedrich Mieth, binh lực gồm có:
- Tập đoàn quân 17 Do tướng Erwin Jaenecke chỉ huy, trong biên chế có:
- Quân đoàn bộ binh 44 của tướng Friedrich Köchling, binh lực gồm có:
- Bộ binh: 2 sư đoàn Đức (98 và 125); 3 sư đoàn Romania (3, 10, 24)
- Kỵ binh: 1 sư đoàn Đức (4), 1 sư đoàn Romania (4)
- Pháo binh: sư đoàn pháo binh nặng 732 (thiếu), 1 trung đoàn pháo binh nhẹ (792), 2 sư đoàn pháo bờ biển 148 và 707
- Phòng không: 1 trung đoàn (249)
- Quân đoàn bộ binh 49 của tướng Rudolf Konrad, binh lực gồm có:
- Bộ binh: 3 sư đoàn (46, 50, 99)
- Kỵ binh: 2 sư đoàn (1, 4)
- Pháo binh: trung đoàn 4 pháo binh nhẹ
- Pháo binh: 2 sư đoàn pháo binh nặng 154 và 607; trung đoàn pháo binh nhẹ 60.
- Phòng không: Trung đoàn phòng không 144.
- Quân đoàn bộ binh 5 của tướng Karl Allmendinger, binh lực gồm có:
- Bộ binh: 1 sư đoàn (73)
- Bộ binh sơn chiến: 2 sư đoàn Đức (1, 4), 1 sư đoàn Romania (3)
- Kỵ binh: 1 sư đoàn Romania (6)
- Pháo binh: 1 trung đoàn pháo binh nặng (II/732); 2 trung đoàn pháo binh nhẹ (42, 634); 2 trung đoàn pháo bờ biển (338, 789)
- Quân đoàn bộ binh 44 của tướng Friedrich Köchling, binh lực gồm có:
- Tập đoàn quân không quân 4 của thượng tướng Wolfram von Richthofen.
Kế hoạch
Cuộc họp giữa Hitler và các tướng lĩnh cao cấp Đức Quốc xã tại Kenigsberg ngày 15 tháng 8 năm 1943 diễn ra căng thẳng. Ý đồ rút về tuyến sông Dniepr để phòng thủ ban đầu không được Hitler chấp nhận, đơn giản là vì người Đức không quen với việc phải rút lui. Đến khi khi thống chế Erich von Manstein chứng minh rằng với binh lực hiện có thì ngay cả việc phòng thủ tại chỗ cũng đã là không thể, chưa nói đến phòng ngự cơ động và phản kích thì Hitler mới chịu nhượng bộ. Hitler cũng không đồng ý với kế hoạch phòng thủ thụ động của Bộ Tổng tham mưu Đức đưa ra mà yêu cầu phải liên tục phản đột kích và các cánh quân chủ lực của quân đội Liên Xô.[18] Ngày 27 tháng 8, Hitler rời Tổng hành dinh ở Đông Phổ bay đến Vinitsa để gặp thống chế Manstein. Tại đây, Manstein đã đặt ra cho Hitler một sự lựa chọn rất rõ ràng: hoặc là tăng viện cho Cụm tập đoàn quân Nam ít nhất là 12 sư đoàn, đồng thời thay thế những trung đoàn bị suy yếu bằng các trung đoàn mới điều đến từ các khu vực khác còn đang yên tĩnh trên mặt trận phía đông, hoặc là bỏ Donbas để giải thoát cho các lực lượng chủ yếu của Cụm tập đoàn quân. Hitler hứa sẽ tăng viện nhưng đã không thể thực hiện được lời hứa đó. Các cuộc tấn công của Phương diện quân Briansk vào Tập đoàn quân xe tăng 2 (Đức) và cuộc tấn công của quân đội Liên Xô vào Smolensk đã làm cho thống chế Günther von Kluge ngay trong ngày 28 tháng 8 buộc phải báo cáo với Hitler rằng không thể điều đi bất kỳ một sư đoàn nào tại cụm tập đoàn quân này. Cụm tập đoàn quân Bắc cũng không thể cho bớt di dù chỉ một sư đoàn.[10] Erich von Manstein viết:
"Từ tình hình này, tôi kết luận rằng chúng ta không thể giữ được Donbass nếu không có sẵn trong tay những lực lượng dự bị. Hơn thế nữa, một hiểm họa đang treo trên đầu cánh Nam của Cụm tập đoàn quân nếu như ở sườn phía bắc, Tập đoàn quân xe tăng 4 và Tập đoàn quân 8 không chịu nổi các đòn tấn công của đối phương trên hướng chung đến sông Dniepr"[10]
Diễn biến chiến dịch
Giai đoạn đầu
Mặc dù chiếm ưu thế về quân số và phương tiện nhưng cuộc tổng tấn công của quân đội Liên Xô trên 1.400 km tổng độ dài mặt trận từ Nam Smolensk đến Taganrog lại khởi đầu chậm chạp và khó khăn, quân đội Đức Quốc xã đã biến các thành phố, thị xã, thị trấn và làng mạc ở Đông Ukraina thành các cụm cứ điểm phòng ngự mạnh. Ngay cả khi rút những lực lượng cơ bản của mình về phía sau, Bộ tư lệnh Cụm tập đoàn quân Nam (Đức) vẫn yêu cầu mỗi sư đoàn, quân đoàn đều phải để lại những đội quân cản hậu, phục kích để ngăn chặn đà tiến công của đối phương. Tuy nhiên, chỉ sau ba tuần đầu tiên, trên không gian tương đối bằng phẳng của vùng tả ngạn sông Dniepr, các binh đoàn xung kích của quân đội Liên Xô đã tiến về phía tây từ 100 đến hơn 200 cây số. Trên hai hướng Kiev và hạ lưu sông Dniepr, các cuộc tấn công của các phương diện quân Belorussia, Ukraina 3 và 4 đã đạt đến chiều sâu chiến thuật trên 300 km. Một loạt các chiến dịch nhánh được mở trên các hướng tấn công chính.[18] Các trận đánh lớn mở đầu chiến dịch đã được quân đội Liên Xô triển khai trên các hướng Chernigov-Poltava và Chernigov-Pripyat, nơi cách đó hai tháng còn là các căn cứ hậu cần của quân Đức cho trận Kursk.Chernigov-Poltava
Ngày 6 tháng 9, Bộ Tổng tư lệnh quân đội Liên Xô ra Chỉ thị 12 xác định lại hướng tấn công chính của các phương diện quân. Theo đó, Phương diện quân Voronezh chuyển mục tiêu từ hướng Poltava sang hướng Kiev, Phương diện quân Thảo nguyên sau khi giải quyết xong mục tiêu Poltava tiếp tục tấn công hướng đến Kremenchuk. Các tập đoàn quân cánh phải của Phương diện quân tây nam nhằm hướng Dniepropetrovsk. Các tập đoàn quân cánh trái của Phương diện quân Trung Tâm phối hợp với cánh phải của Phương diện quân Voronezh tấn công Kiev. Tuy nhiên, ngay tại thời điểm ngày 6 tháng 9, các tập đoàn quân 60 và 40 đã tiến xa lên phía trước vẫn còn cách Kiev từ 150 đến 180 km. Trong khi đó, cánh quân xe tăng mạnh nhất của Cụm tập đoàn quân Nam (Đức) vẫn đang phòng thủ quyết liệt phía trước Poltava và đe dọa đánh vào sườn phía nam Phương diện quân Voronezh. Chỉ đến ngày 16 tháng 9, khi Quân đoàn xe tăng 24 (Đức) bị đánh bật khỏi bàn đạp ở thượng nguồn sông Vorsla và Quân đoàn xe tăng 3 bị đẩy khỏi các tuyến có lợi ở Valky, các phương diện quân Voronezh và Thảo nguyên mới có thể tổ chức các đòn đánh vu hồi vào Poltava.[20]
Ngày 17 tháng 9, các tập đoàn quân cận vệ 4, 6 và tập đoàn quân 27 tổ chức đột phá phòng tuyến của Quân đoàn xe tăng 24 (Đức), đánh chiếm Shishaky, Mirgorod, Romodal và Kharol, cắt đứt con đường sắt Kiev - Poltava. Tướng Hermann Hoth kéo Quân đoàn bộ binh 52 từ khu vực Gadiach về tổ chức phòng ngự dọc theo đường bộ Poltava - Romodal. Quân đoàn xe tăng 24 của tướng Walther Nehring cũng rút về tuyến này, phối hợp với Sư đoàn xe tăng 19 và Sư đoàn cơ giới "Großdeutschland" của Quân đoàn xe tăng 48 tổ chức phòng thủ ở ngoại vi tây bắc Poltava. Ngày 18 tháng 9, các tập đoàn quân cận vệ 5, 7 và tập đoàn quân 57 đột phá tuyến phòng thủ của Quân đoàn xe tăng 3 và các quân đoàn bộ binh 11, 42 (Đức), lần lượt đánh chiếm Valky, Krasnograd, tạo thành gọng kìm uy hiếp phía nam Poltava. Trong các ngày 20 và 21 tháng 9, các trận đánh đẫm máu diễn ra trên đường phố Poltava. Ngày 22 tháng 9, tướng Hermann Hoth ra lệnh bỏ Poltava, rút về Kremenchuk. Ngày 23 tháng 9, Tập đoàn quân cận vệ 5 (Liên Xô) đã hoàn toàn làm chủ Poltava.[21]
Chernigov-Pripyat
Ngày 3 tháng 9, Phương diện quân của Rokossovsky tiếp tục tấn công trên toàn tuyến mặt trận. Tập đoàn quân 48 tiến ra bờ sông Desna ngày 10 tháng 9 nhưng không đủ lực lượng và phương tiện để vượt sông, phải dừng lại. Tập đoàn quân 56 đánh chiếm Shostka và phát triển đến Novgorot Seversky trên bờ sông Desna, cắt đứt con đường sắt từ Unecha ở phía bắc xuống Borozhba và Sumy ở phía nam và đi Konotop ở tây nam. Tập đoàn quân 13 được đưa từ tuyến dự bị vào khu vực Krolevets và mở cuộc tấn công vượt sông Seym tiến ra phía đông Chernigov. Tập đoàn quân 60 thu được kết quả lớn nhất, tấn công liền một mạch hơn 200 km trong 10 ngày, lần lượt đánh chiếm Putivl ngày 4 tháng 9, chiếm Konotop ngày 6 tháng 9, chiếm Bakhmach ngày 9 tháng 9 và Nezhin ngày 15 tháng 9.[22] Tại Phương diện quân Voronez, các tập đoàn quân 27 và 47 đã chọc thủng tuyến phòng thủ của Quân đoàn xe tăng 24 (Đức) nhưng vẫn chỉ tiến lên được 25 km sau một tuần. Các tập đoàn quân 38 và 40 đã mở được đột phá khẩu rộng hơn 50 km phía trước Sumy và Lebedinsk. Tập đoàn quân 38 đánh chiếm Shtepovka, áp sát Romny; Tập đoàn quân 40 tiến xa hơn, lần lượt đánh chiếm Gadyach và Lokhvitsa, cắt đứt đường sắt Romny - Romadan, tạo thành gọng kìm thứ hai ở phía nam các quân đoàn 7 và 13 (Đức) đang phòng thủ trong khu vực Borozhba. Trước nguy cơ bị hợp vây, tướng Dietrich von Saucken buộc phải cho các quân đoàn bộ binh 7 và 13 rút về phía sau.[23]
Trên cánh Bắc, Tập đoàn quân 61 (Liên Xô) được đưa vào chỗ tiếp giáp giữa Tập đoàn quân 13 và Tập đoàn quân 65 đã mở cuộc đột kích vào Chernigov. Phối hợp với Phương diện quân Trung Tâm, Phương diện quân Briansk sử dụng Tập đoàn quân 63 tấn công song song với sườn phải Tập đoàn quân 48 (Phương diện quân Trung Tâm). Ngày 10 tháng 9, Quân đoàn kỵ binh cận vệ 2 "mượn" dải tấn công của Tập đoàn quân 50 (Phương diện quân Tây) mở mũi đột kích táo bạo từ Dubrovka theo dọc sông Desna đánh thốc vào sườn trái Tập đoàn quân xe tăng 2 (Đức) ở khu vực Bryansk. Ngày 13 tháng 9, Quân đoàn kỵ binh cận vệ 2 chiếm Zhukovka, phía tây Bryansk 50 km, ngày 14 tháng 9, các tập đoàn quân 3 và 11 đồng loạt tấn công phá vỡ phòng tuyến Hagen, buộc Tập đoàn quân xe tăng 2 (Đức) phải rút lui. Ngày 17 tháng 7, Tập đoàn quân 11 (Liên Xô) đánh chiếm Bryansn.[24] Trong tuần thứ tư của chiến dịch, các tập đoàn quân 65 và 48 cũng vượt sông Desna tấn công về phía tây, tiến thêm từ 80 đến 120 km, đánh chiếm vùng tả ngạn sông Snots, bao vây Chernigov từ phía bắc. Tập đoàn quân 13 đã tiến đến bờ Đông sông Desna, bao vây Chernigov từ phía nam. Ngày 21 tháng 9, Tập đoàn quân 13 đánh chiếm Chernigov. Tuy nhiên, giai đoạn khốc liệt nhất của chiến dịch vẫn còn ở phía trước.[25]
Taganrog
Gần như cùng lúc với các hoạt động của các phương diện quân Trung Tâm và Voronezh, các phương diện quân tây nam và Nam cũng bắt đầu "cuộc chạy đua đến sông Dniepr". Ngày 28 tháng 8, Phương diện quân Nam (Liên Xô) sử dụng các tập đoàn quân cận vệ 2, 28 và 44 phối hợp với phân hạm đội Azov mở chiến dịch Taganrog, phá vỡ phòng tuyến sông Mius của Quân đoàn bộ binh 29 (Đức) thuộc Tập đoàn quân 6 (tái lập). Ở sườn trái, Tập đoàn quân 44 được tăng cường quân đoàn kỵ binh cận vệ 4 tiến đánh vây bọc thành phố từ phía bắc và tây bắc. Các lữ đoàn hải quân đánh bộ của Phân hạm đội Azov đổ bộ lên phía nam thành phố. Ngày 30 tháng 8, Quân đoàn kỵ binh cận vệ 4 đánh chiếm Taganrog. Trước đó một ngày, Tập đoàn quân cận vệ 2 từ bàn đạp Kuteynikovo - Amvrosyevka mở cuộc tấn công hướng về bờ biển Azov, phía tây Taganrog khoảng 50 km, hình thành thế vây bọc toàn bộ Quân đoàn bộ binh 29 (Đức). Ở cánh giữa Tập đoàn quân 28 đánh chiếm thị trấn Latonovo, chia cắt chính diện Quân đoàn bộ binh 29. Chỉ có sư đoàn bộ binh 97 và sư đoàn đổ bộ đường không 5 (Đức) nhanh chân chạy thoát về Melitopol khi vòng vây của Tập đoàn quân cận vệ 2 chưa khép chặt. Khu vực Taganrog trở thành bàn đạp quân sự quan trọng để Phương diện quân Nam (Liên Xô) mở chiến dịch Melitopol trong một hoạt động phối hợp với các phương diện quân Thảo Nguyên và tây nam thực hiện các chiến dịch Nizhni Dnieprovsk và Donbas.[26]Donbass
Giai đoạn sau
Poltava - Kremenchuk
Sau gần một tháng tấn công liên tục và đặc biệt là sau các trận đánh đẫm máu ở Merefa, Valky và nội đô Poltava, Phương diện quân Thảo nguyên phải dừng lại 3 ngày để củng cố bổ sung binh lực và phương tiện. Ba ngày quý báu đó đã được tướng Werner Kempf triệt để tận dụng để rút các lực lượng cơ bản về bờ Tây sông Dniepr qua ngả Kremenchuk và chiếm giữ đầu cầu bên tả ngạn. Phải mất hai ngày đột phá quyết liệt, Tập đoàn quân cận vệ 5 và Tập đoàn quân 53 mới thủ tiêu được căn cứ bàn đạp của quân Đức tại Kremenchuk, đánh chiếm thành phố ngày 30 tháng 9. Tuy nhiên, hai cây cầu đường sắt và đường bộ qua sông đã bị quân Đức đánh sập.[13]Ngày 20 tháng 9, các tập đoàn quân cận vệ 4 và 52 xuất phát từ tuyến sông Vorskla, vượt sông Psyol ở phía nam Kharol, đánh chiếm các vị trí dọc bờ Đông sông Dniepr từ Gradizhsk đến Cherkassy. Các tập đoàn quân xe tăng cận vệ 5, 53 và 69 xuất phát từ Poltava tấn công dọc theo con đường sắt Poltava đi Kremenchuk. Tại Phương diện quân tây nam, Tập đoàn quân 37 được điều động từ lực lượng dự bị đã đánh chiếm Petrovolochnaya ngày 30 tháng 9, đã hai lần tấn công sang bờ Tây sông Dniepr nhằm đánh chiếm một đầu cầu song không thành công. Tập đoàn quân cận vệ 7 chiếm vị trí đối diện với thị trấn Verkhne Dnieprovskoye. Tập đoàn quân 57 cũng tiến ra bờ sông đối diện với thị trấn Dnieprodzgherzinsk. Tập đoàn quân 46 sau khi đánh chiếm thành phố Novomoskovsk đã áp sát thành phố Dniepropetrovsk. Đến ngày 26 tháng 9, trừ tập đoàn quân 6 còn giữ được tuyến sông Molochnaya, toàn bộ Cụm tập đoàn quân Nam (Đức) đã rút sang hữu ngạn sông Dniepr và phá hủy tất cả các cầu qua sông; hàng chục tàu kéo và phà vượt sông cũng bị quân Đức đánh đắm giữa dòng. Ba phương diện quân Trung Tâm, Voronezh và tây nam (Liên Xô) đã đồng loạt áp sát bờ đông sông Dniepr, trên chiều dài 750 km từ Gomel đến Zhaporozhe. Phương diện quân Nam vẫn đang dừng lại trước tuyến sông Molochnaya. Quân đội Liên Xô đã đánh chiếm 23 điểm đầu cầu trên bờ tả ngạn và chuẩn bị vượt sông Dniepr bằng tất cả các phương tiện sẵn có: cầu phao, phà dã chiến, bè, mảng, thuyền đánh cá, phao cá nhân tự tạo... Ngày 22 tháng 9, Các phương diện quân Thảo nguyên, tây nam và Nam (Liên Xô) đồng loạt phát động chiến dịch Nizhni Dnieprovsk.[28]
Znamenskaya
Khúc cong lớn nhô về phía đông của sông Dniepr từ Kremenchuk đến cửa sông là hình thế mặt trận thuận lợi để quân đội Liên Xô có thể thực hiện những đòn đánh vu hồi vào hai bên sườn Tập đoàn quân xe tăng 1 và phần còn lại của Tập đoàn quân 6 (Đức) đang phòng ngự tại bờ Tây. Tuy nhiên, vấn đề là ở chỗ phải vượt được sông Dniepr, con sông lớn thứ ba ở Châu Âu cả về chiều rộng và độ sâu (sau các sông Danube và Volga). Trong số 19 tập đoàn quân Liên Xô đã có mặt ở tả ngạn sông Dniepr, có đến 12 tập đoàn quân đã chuẩn bị vượt sông. Từ ngày 22 đến ngày 30 tháng 9, hàng trăm trận đánh vượt sông lớn nhỏ đã được tổ chức trên suốt chiều dài từ Cherkassy đến Voyskovoye song đều không thành công. Thương vong của các tập đoàn quân đều tăng lên. Nhận thấy các trận đánh vượt sông tiến hành phân tán, phần lớn không có pháo binh và không quân hỗ trợ để chế áp hỏa lực của đối phương, các tướng I. S. Koniev và R. Ya. Malinovsky quyết định tạm dừng tất cả các cuộc vượt sông để tổ chức lại chiến dịch.[20]Một hướng tấn công mới đã mở ra cho Phương diện quân Thảo nguyên khi hai tập đoàn quân 37 và 57 đã vượt sông thành công và đánh chiếm một dải bờ sông rộng 30 km, sâu từ 5 đến 10 km trên hữu ngạn Dniepr tại khu vực Kushevoklovka - Annovka ngày 30 tháng 9. Nhận thấy các khu vực đầu cầu từ Cherkassy đến Kremenchuk có bờ Tây cao, dốc đứng, không thuận lợi cho việc đánh chiếm các đầu cầu và đã bị các quân đoàn xe tăng 3, 47 và Quân đoàn bộ binh 11 (Đức) phòng giữ chặt chẽ, ngày 5 tháng 11, tướng I. S. Koniev quyết định điều động Tập đoàn quân cận vệ 5 đến khu vực Kushevoklovka để cùng với các tập đoàn quân cận vệ 7, 37 và 57 tổ chức vượt sông. Tập đoàn quân xe tăng cận vệ 5 cũng được đưa đến khu vực này để chuẩn bị đột kích sau khi đánh chiếm được các đầu cầu.[29] Đoạn sông Dniepr được chọn để vượt qua có chiều rộng lên đến 400 m nhưng độ sâu trung bình chỉ khoảng 3 đến 5 m do nhà máy thủy điện Dniepropetrovsk đã bị phá hỏng, nước sông không còn được tích lại trong hồ chứa. Trên tuyến sông chỉ dài 35 km từ Deryevka đến Verkhner Dnieprovsk có đến 5 tập đoàn quân tấn công vượt sông, mật độ pháo binh và xe tăng đủ chiếm ưu thế để phá vỡ tuyến phòng ngự của Quân đoàn xe tăng 57 và Quân đoàn bộ binh 52 (Đức) trên bờ Tây. Các đơn vị có 10 ngày để chuẩn bị chiến dịch.[30]
7 giờ sáng ngày 15 tháng 10, Các tập đoàn quân cận vệ 5, 37 và 57 đồng loạt phát động tấn công trên toàn chính diện của căn cứ bàn đạp Kushevoklovka. Quân đội Đức Quốc xã lập tức phản ứng. Tập đoàn quân không quân 4 (Đức) tung ra 250 phi vụ cường kích và ném bom, Tập đoàn quân không quân 5 (Liên Xô) xuất kích 570 phi vụ, trong đó có hơn 300 phi vụ cường kích và ném bom. Tuy nhiên, hai quân đoàn Đức đã hoàn toàn bất ngờ trước mật độ tấn công dày đặc của Phương diện quân Thảo nguyên. Ngày 16 tháng 10, các tập đoàn quân bộ binh đã đột phá sâu đến 25 km, đánh chiếm Katerinovka và Lykhovka. Cuộc phản kích yếu ớt của Quân đoàn bộ binh 52 (Đức) vào tập đoàn quân 57 nhanh chóng bị đẩy lùi. Ngày 17 tháng 10, Tập đoàn quân xe tăng cận vệ 5 và Tập đoàn quân cận vệ 7 được đưa vào chiến đấu. Chỉ trong một tuần tiếp theo, 5 tập đoàn quân Liên Xô đã tỏa ra hai bên sườn, lần lượt đánh chiếm Verkhovyev, Shorsk, Piatikhatka, Aleksnadrya và Novy Annovka, uy hiếp Krivoy Rog từ phía bắc.[28]
Dniepropetrovsk
Ngày 14 tháng 11, Tập đoàn quân 12 và Tập đoàn quân cận vệ 3 mở cuộc tấn công căn cứ đầu cầu Zaporozhe do Quân đoàn bộ binh 17 (Đức) đóng giữ. Tập đoàn quân 12 tấn công dọc đường sắt Pavlovgrad - Zaporozhe từ ga Mozhraya đánh xuống, Tập đoàn quân cận vệ 3 vượt sông Orekhov từ phía nam tấn công lên. Ngày 16 tháng 11, Quân đoàn bộ binh 17 (Đức) bị đánh tan, tàn quân rút qua sông Dniepr nhập vào Quân đoàn xe tăng 40. Ngày 20 tháng 11, các tập đoàn quân 6, 48 và cận vệ 8 của Liên Xô mở cuộc tổng công kích, đẩy quân đoàn bộ binh 30 và Quân đoàn xe tăng 40 của Tập đoàn quân xe tăng 1 Đức lùi sâu thêm từ 20 đến 50 km về phía nam đến tuyến Novo Nikolayevka - Chumaky - Marganyets - Vasilitsa.[30]
Melitopol
Ngày 16 tháng 10, tướng F. I. Tolbukhin tập trung 2 lữ đoàn xe tăng, 4 lữ đoàn và 5 trung đoàn cơ giới đang nằm rải rác ở bốn tập đoàn quân thành một cụm xe tăng cơ giới và sử dụng cụm quân này mở cuộc đột kích dọc tả ngạn sông Dniepr. Cánh quân cơ giới phía bắc gồm 1 lữ đoàn xe tăng, 1 lữ đoàn và 3 trung đoàn cơ giới đánh chiếm Kakohvka ngày 18 tháng 10; cánh quân cơ giới phía nam gồm 1 lữ đoàn xe tăng, 3 lữ đoàn và 2 trung đoàn cơ giới đánh chiếm Novaya Askanya ngày 19 tháng 10. Tập đoàn quân 6 (Đức) bị thiệt hại nặng nề, trong đó sư đoàn xe tăng 24 chỉ còn lại một trung đoàn cơ giới; chỉ có Quân đoàn bộ binh 29 kịp rút sang hữu ngạn sông Dniepr, đóng giữ Kherson; Quân đoàn bộ binh 44 rút quân trở lại qua eo Perekop sang Krym cố thủ. Ngày 23 tháng 10, Tập đoàn quân 28 đánh bại hoàn toàn Quân đoàn bộ binh 4 (Đức), chiếm Melitopol. Ngày 24 tháng 10, toàn bộ tả ngạn vùng hạ lưu sông Dniepr từ Zhaporozhe đến cửa sông Dniepr đã nằm trong tay Phương diện quân Nam (Liên Xô).
Giữa Znamenka và Krivoi Rog
Bị xé lẻ đội hình trên hai hướng chiến dịch, Phương diện quân Thảo nguyên (từ ngày 20 tháng 10 là Phương diện quân Ukraina 2) chỉ thu được những kết quả rất hạn chế. Mặc dù sau cuộc vượt sông Dniepr ngày 21 tháng 11, các tập đoàn quân cận vệ 4 và 52 đã phải đánh chiếm Cherkassy rất chật vật và không còn đủ lực lượng để vượt qua Quân đoàn xe tăng 3 (Đức) tại đầu mối đường sắt Smela, đến ngày 14 tháng 12 phải dừng lại phòng ngự. Cuộc tấn công của Tập đoàn quân cận vệ 7 và Tập đoàn quân 57 chỉ đủ sức đánh chiếm các thị xã Aleksnadrya và Znamenka. Tập đoàn quân 8 (Đức) sử dụng các quân đoàn xe tăng 3 và 47 phản đột kích vào hai bên sườn các lữ đoàn xe tăng và cơ giới của Tập đoàn quân cận vệ 7 đang phát triển tấn công hướng đến Kirovograd. Quân đoàn xe tăng 47 và Quân đoàn bộ binh 11 (Đức) đã chặn đứng cuộc tấn công trên cánh phải của Phương diện quân Ukraina 2 trên tuyến Elizabetgradka, Mitrofanovka, Vershyno Kamenka và Novo Annovka cách Kirovograd 25 km về phía tây.[13] Thiệt hại nặng nhất là Tập đoàn quân xe tăng cận vệ 5. Vì Tập đoàn quân 37 đã quá suy yếu sau các trận vượt sông nên không còn đủ sức yểm hộ hai bên sườn cho hai quân đoàn xe tăng 18 và 29 nên các quân đoàn này đã tiến thẳng đến Krivoy Rog mà không có bộ binh đi kèm. Để ngăn chặn cuộc tấn công, thống chế Erich von Manstein huy động toàn bộ các sư đoàn xe tăng và bộ binh cơ giới của các quân đoàn xe tăng 40 và 57 phản kích vào Tập đoàn quân xe tăng cận vệ 5 (Liên Xô) đang tiến về Krivoi Rog. Tập đoàn quân xe tăng 1 phải vừa chống trả, vừa lùi lại 10 km nhưng vẫn không đứng vững được và phải rút tiếp 25 km nữa về tuyến sông Ingulech. Hai quân đoàn xe tăng 40 và 57 Đức tiếp tục dùng sức mạnh đột phá nhưng vẫn không vượt được sông Ingulech. Ở cánh Nam, Phương diện quân tây nam không đủ sức tiếp tục tấn công cũng phải chuyển sang phòng ngự.[31]
Kiev
Tại các đầu cầu và bến vượt
Ban đầu, Bổ Tổng tư lệnh quân đội Liên Xô chọn căn cứ đầu cầu tại khu vực Bolsoy Bukrin làm bàn đạp tấn công về phía Kiev. Thực ra đây là ba khu vực đầu cầu riêng biệt các đơn vị thuộc các phương diện quân Trung tâm và Voronezh đổ bộ và đánh chiếm từ ngày 22 tháng 9. Lữ đoàn mô tô trinh sát của Quân đoàn cơ giới cận vệ 9 (Tập đoàn quân xe tăng 3) chiếm giữ khu vực làng Bolsoy Bukrin, Quân đoàn bộ binh 51 (Tập đoàn quân 40) chiếm giữ các làng Shuchinka và Rzhishev, Quân đoàn bộ binh 46 (Tập đoàn quân 27) chiếm giữ làng Studenets. Đến ngày 30 tháng 9, ba điểm đầu cầu này đã được nối liền, dài 11 km, sâu 6 km. Để mở rộng khu vực đầu cầu Bukrin, tạo điều kiện thiết lập các bến vượt lớn, Bộ tư lệnh Phương diện quân Voronezh dự định sử dụng hai lữ đoàn đổ bộ đường không phối hợp với các đơn vị mặt đất mở rộng đầu cầu lên 100 km chiều rộng và 25 km chiều sâu.[32] Đêm 23 rạng ngày 24 tháng 9, sáu tiểu đoàn đổ bộ đường không được Sư đoàn vận tải 481 (Tập đoàn quân không quân 2) chở đến và ném xuống. Chỉ có ba tiểu đoàn nhảy dù trúng đích, một tiểu đoàn nhảy xuống sông Dniepr, hai tiểu đoàn còn lại nhảy trúng trận địa của Quân đoàn xe tăng 48 (Đức). Hai tiểu đoàn nhảy dù lạc địa điểm phải chiến đấu trong vòng vây của quân Đức để mở đường rút ra với nhiều thương vong. Yếu tố bất ngờ của quân đội Liên Xô bị mất. Tảng sáng ngày 24 tháng 9, tướng Hermann Hoth lập tức huy động các Quân đoàn xe tăng 8, 24 và Sư đoàn xe tăng 7 tấn công khu vực đầu cầu Bukrin và đẩy các lực lượng Liên Xô về sát bờ sông Dniepr. Bộ Tổng tư lệnh quân đội Liên Xô buộc phải từ bỏ kế hoạch tấn công Kiev từ đầu cầu Bukrin.[25]
Chuyển hướng tấn công Kiev
Ngoài Chiến dịch Nizhni Dnieprovsk mà kết quả của nó là quân đội Liên Xô đánh chiếm một dải bàn đạp lớn Dniepropetrovsk, Piatykhatky, Aleksnadrya, Cherkasy ở trung lưu Dniepr và một số điểm cầu đã chiếm được ở phía bắc và Nam Kiev, Phương diện quân Ukraina 1 (Liên Xô) đã dừng lại trên bờ trái sông Dniepr trong gần suốt tháng 10 để chuẩn bị cuộc vượt sông lần thứ hai. Các Phương diện quân đều được bổ sung phương tiện, quân số và củng cố lại đội hình nhưng với tiến độ rất chậm chạp do phải di chuyển các căn cứ hậu cần, sân bay, quân y viện dã chiến, kho tàng... trên cự ly từ 300 đến 400 km và sâu hơn nữa ra khu vực tả ngạn Dniepr. Riêng tại khu vực phía trước Kiev, 8 tập đoàn quân của phương diện quân Ukraina 1 cần tiếp tế mỗi ngày 200 toa xe và khoảng hơn 1.700 chuyến ô tô chuyên chở đạn dược, nhiên liệu, lương thực, thực phẩm và các nhu yếu phẩm khác.[25]Thất bại trong việc sử dụng đầu cầu Bukrin của quân đội Liên Xô vô hình chung lại tạo cho họ một lối thoát bất ngờ khác. Quá chú ý đến hướng Bukrin, Tập đoàn quân xe tăng 4 (Đức) đã để "sổng" Tập đoàn quân 38 tại khu vực Lyutezh. Trong các ngày 29 và 30 tháng 9, toàn bộ tập đoàn quân 38 đã đổ bộ sang hữu ngạn sông Dniepr, chiếm giữ thêm hai đầu cầu nhỏ nữa ở Svaromye, Novo Petrovshy và nối liền với đầu cầu Lyutezh thành một dải bàn đạp rộng 15 km, sâu 10 km và giữ vững trong suốt tháng 10. Ngày 25 tháng 10, Bộ Tổng tư lệnh quân đội Liên Xô ra lệnh bí mật rút Tập đoàn quân xe tăng cận vệ 3 từ Bukrin lên Lyutezh để chuẩn bị vượt sông tấn công Kiev từ phía bắc. Phần lớn các tập đoàn quân 27 và 40 cũng được lệnh rút khỏi các bàn đạp tại Rzhishev và Shuchinka bí mật chuyển quân đến bến vượt Tripolye cách khu vực Bukrin gần 40 km về phía bắc. Các cuộc chuyển quân đều bắt đầu thực hiện vào lúc sẩm tối và phải kết thúc trước khi trời sáng.[33]
Để đảm bảo chắc thắng trong cuộc vượt sông Dniepr lần thứ hai của Phương diện quân Ukraina 1, ngoài Tập đoàn quân xe tăng 3, Quân đoàn xe tăng cận vệ 5 của tướng A. G. Kravchenko, Quân đoàn kỵ binh cận vệ 1 và Quân đoàn pháo binh hỗn hợp 7 cũng được điều từ lực lượng dự bị của Đại bản doanh Liên Xô đến khu vực đầu cầu Lyutezh ngày 1 tháng 11. Cùng ngày, sư đoàn bộ binh 107 và 340 của Tập đoàn quân 40 và sư đoàn bộ binh 38 của Tập đoàn quân 27 được để lại khu vực Bukrin đã phát động một cuộc tấn công vào đội hình Quân đoàn xe tăng 24 (Đức) buộc tướng Hermann Hoth phải giữ lại Quân đoàn xe tăng 48 tại khu vực này. Trên cánh Bắc, Tập đoàn quân 13 mở cuộc đột kích vào Denisovichi, hút Quân đoàn bộ binh 59 (Đức) từ tuyến sông Teterev kéo lên phản kích. Ngày 2 tháng 11, Tập đoàn quân 60 (Liên Xô) tiếp tục vượt sông Dniepr, tấn công Gornostaypol, nơi Quân đoàn 59 (Đức) vừa rời khỏi, tướng Hoth lại phải điều Quân đoàn xe tăng 13 từ Ivankov kéo lên chặn kích. Các hoạt động quân sự nhằm phân tán binh lực của Tập đoàn quân xe tăng 4 (Đức) tại khu vực phía bắc Kiev còn được phối hợp với các cuộc tấn công của các tập đoàn quân cận vệ 5 và 7 tiếp tục đánh vào Kirovograd theo kế hoạch của Phương diện quân Ukraina 2 bị tạm dừng vào cuối tháng 9.[34]
Trong các đêm từ 26 tháng 10 đến 30 tháng 10, Tập đoàn quân xe tăng 3 bắt đầu vượt sông Dniepr sang đầu cầu Lyutezh từng chiếc một trên các con phà dã chiến. Đến rạng sáng ngày 30 tháng 10, hơn 300 xe tăng đã vào vị trí cất giấu kín đáo trong khu vực bàn đạp. Từ đêm 28 tháng 10 đến hết đêm mùng 1 tháng 11, Quân đoàn xe tăng cận vệ 5 và Quân đoàn kỵ binh cận vệ 1 cũng vượt sông và tập kết xong lực lượng ở các căn cứ bàn đạp Zmyev và Novo Petrovtsy. Tổng cộng quân số của cánh quân xung kích của quân dội Liên Xô phía bắc Kiev gồm 150.000 quân, 1.500 pháo và súng cối, gần 500 xe tăng và pháo tự hành đã sẵn sàng. Theo đề nghị của tướng N. F. Vatutin, Bộ Tổng tư lệnh quân đội Liên Xô đồng ý cho Tập đoàn quân 27 đổ bộ sang khu vực Tripolye, tấn công lên Kiev để bảo đảm cho mặt Nam của chiến dịch.[35]
Các trận đánh ở Kiev
Ngày 6 tháng 11, Quân đoàn xe tăng cận vệ 6 và Lữ đoàn xe tăng 91 tiếp tục tấn công xuống phía nam, đến ngày 7 tháng 11 đã đánh chiếm Fastov. Các tập đoàn quân 27, 40 và Quân đoàn xe tăng cận vệ 5 đã chiếm trận tuyến từ phía nam Fasstov đến Staysky. Ở phía tây Kiev, Quân đoàn kỵ binh cận vệ 1 và các tập đoàn quân 38, 60 tiếp tục phát triển sang phía tây, đánh chiếm Radomysl, Kogotyshev và Brusilovsk ngày 11 tháng 11. Ngày 12 tháng 11, Tập đoàn quân 38 chiếm Cherniakhov. Ngày 13 tháng 11, Quân đoàn kỵ binh cận vệ 1 chiếm Zhitomir. Ngày 15 tháng 11, Tập đoàn quân 60 chiếm Korosten. Ngày 18 tháng 11, Tập đoàn quân 13 sau khi đánh lui các cuộc phản kích của Quân đoàn xe tăng 56 (Đức) đã chiếm Novo Radcha, Ovruch, Yelsk, cắt đứt đường sắt và đường bộ từ Korosten đi Mozyr.[34] Che chắn sườn phải cho Phương diện quân Ukraina 1, Phương diện quân Belorussia cũng huy động các Tập đoàn quân 61 và 65 vượt sông Dniepr và sông Sozh tấn công lên hướng tây bắc, đánh chiếm Khoniky, Narovlya, Rechina, Vasilevichi, uy hiếp Mozyr.[25]
Thống chế Erich von Manstein đã áp dụng các biện pháp đặc biệt để ổn định lại tình hình khu vực mặt trận Kiev. Ngày 12 tháng 11, Quân đoàn xe tăng cận vệ 5 (Liên Xô) từ Fastovots mở cuộc tấn công xuống Belaya Cherkov đã bị Quân đoàn xe tăng 24 (Đức) được rút khỏi khu vực Bukrin đã phản kích vào sườn trái trên khu vực Grebenky, bị thiệt hại nặng và phải rút về phòng ngự Fastovots. Ngày 13 tháng 11, Quân đoàn xe tăng 48 (Đức) được điều từ Mironovka lên phía bắc đã chặn đứng mũi đột kích của Quân đoàn xe tăng cận vệ 6 (Tập đoàn quân xe tăng 3) tại thị trấn Popelnya, buộc quân đoàn này phải rút về tuyến sông Irpel. Ngày 15 tháng 8, Quân đoàn bộ binh 42 (Đức) được rút khỏi biên chế Tập đoàn quân 8 và điều động cho Tập đoàn quân xe tăng 4. Ngày 20 tháng 11, tướng Hermann Hoth sử dụng Quân đoàn xe tăng 48 và Quân đoàn bộ binh 42 tổ chức đột kích từ ba phía vào Zhitomir, đánh thiệt hại nặng Quân đoàn kỵ binh cận vệ 1 Liên Xô, chiếm lại thành phố, đẩy Quân đoàn kỵ binh cận vệ 1 (Liên Xô) lùi sâu gần 50 km về tuyến Vepril, Radomysl, Rayevka, Borovka, Stavichye, phía tây Byshev, phía nam Fastov.[8] Các quân đoàn xe tăng cận vệ 5, 7 và Lữ đoàn xe tăng 91 (Liên Xô) phải chuyển quân lên tăng cường cho Quân đoàn kỵ binh cận vệ 1 giữ tuyến phòng thủ này.[23]
Trên cánh Bắc, từ ngày 6 đến 14 tháng 12, Quân đoàn xe tăng 13 (Đức) mới được tổ chức lại và tăng viện thêm xe tăng đã mở đòn phản công vào sườn phải Tập đoàn quân 38, đẩy tập đoàn quân này lùi về tuyến sông Teterev. Từ ngày 19 đến ngày 22 tháng 12, Quân đoàn xe tăng 56 (Tập đoàn quân xe tăng 2) được điều xuống phía nam, phối hợp với Quân đoàn bộ binh 59 phản đột kích vào hai bên sườn Tập đoàn quân 60 (Liên Xô), chiếm lại Korosten, buộc Tập đoàn quân 60 phải lùi về giữa tuyến phòng thủ dọc sông Yrsh và con đường sắt Kiev - Korosten. Trên hướng Zhitomir - Kiev, các quân đoàn xe tăng 13 và 48 cùng Quân đoàn bộ binh 42 Đức liên tục đột kích mở đường nhằm chiếm lại Kiev.[10] Nhận thấy trận tuyến đã xuất hiện nhiều chỗ lõm nguy hiểm, các tập đoàn quân đang phòng thủ quanh Kiev đã kiệt sức sau gần 2 tháng chiến đấu liên tục, ngày 20 tháng 12, Bộ Tổng tư lệnh quân đội Liên Xô đã điều động từ lực lượng dự bị Tập đoàn quan xe tăng 1, Tập đoàn quân cận vệ 1, Tập đoàn quân 18 đến mặt trận Kiev và bố trí các tập đoàn quân này tại Vepril, Rayevka, Borovka, Makarov và Stavishye hai bên con đường bộ Zhitomir - Kiev. Tập đoàn quân xe tăng cận vệ 3 để lại Quân đoàn cơ giới cận vệ 9 và Lữ đoàn xe tăng 91 giữ tuyến phòng thủ phía nam Fasstov, kéo các quân đoàn xe tăng cận vệ 6 và 7 lên phối hợp với Tập đoàn quân 18 án ngữ con đường sắt Korosten - Kiev tại khu vực Malin và các cây cầu qua sông Teterev. Ngày 24 tháng 12, các cuộc phản công của Tập đoàn quân xe tăng 4 (Đức) tại khu vực Kiev đã bị chặn đứng.[36] Quân đội Liên Xô đã tổ chức cả khu vực Kiev thành một căn cứ bàn đạp lớn giống như khu vực Znamenka - Pyatikhatka để phát triển tấn công sang toàn bộ hữu ngạn Ukraina.[37]
Các hoạt động quân sự có liên quan tại Krym
Tháng 11 năm 1943, Quân đoàn xe tăng 19 (Liên Xô) đã đột nhập qua eo đất Perekop, phá vỡ các công sự trên tuyến phòng thủ thứ nhất của Quân đoàn bộ binh 44 (Đức) trên Lũy Thổ Nhĩ Kỳ và tiến đến Armyansk. Tập đoàn quân 51 (Liên Xô) đột nhập qua vịnh Sivat dọc theo con đường sắt Dzhnkoy - Melitopol, đánh chiếm thị trấn ven biển Genichesk và tiến đến sát cửa ngõ Chongarsk. Lợi dụng sự tách rời, không yểm hộ được nhau của hai cánh quân xe tăng và bộ binh Liên Xô cũng như địa bàn tác chiến rất hẹp tại các eo đất và đầm lầy, Quân đoàn 44 (Đức) đã giữ vững trận tuyến phòng ngự, bịt được cả hai cửa mở từ phía Armyansk và Chongarsk. Cuối tháng 12 năm 1943, Bộ Tổng tư lệnh quân đội Liên Xô hạ lệnh cho Phương diện quân Ukraina 4 ngừng công kích vào Krym, tập trung binh lực để thanh toán bàn đạp Bolshaya Lepatikha kéo dài từ phía đông Nikopol đến Gornostayevka của Tập đoàn quân 6 (Đức) trên tả ngạn sông Dniepr đang đe dọa sau lưng chủ lực Phương diện quân. Sau đó mới có thể mở lại Chiến dịch giải phóng Krym.[39].
Trên hướng Kerch, trong các ngày 2 và 3 tháng 11, Phưong diện quân Bắc Kavkaz phối hợp với Hạm đội Biển Đen tổ chức đổ bộ Tập đoàn quân 56 lên khu vực mũi đất Enikale - Mayak - Ossoviny. Tổng quân số lên đến 75.000 người, mang theo 769 pháo và súng cối, 128 xe tăng và 7.180 tấn đạn dược.[40] Sau một tháng chiến sự ác liệt, Tập đoàn quân 56, Liên Xô đã chiếm được toàn bộ mũi đất nhô phía đông bắc Kerch nhưng không thể tiến xa hơn. Quân đoàn bộ binh 5 (Đức) bố trí phòng ngự chặt chẽ trên tuyến phòng thủ Kerch - Bulganak, buộc Tập đoàn quân 56 (Liên Xô) phải giữ thế phòng ngự. Tại phía nam, Sư đoàn bộ binh 318 thuộc Tập đoàn quân 18 (Liên Xô) cũng được đổ quân lên thị trấn Eltigen, đánh chiếm được một đầu cầu nhỏ rộng 5 km và sâu 2 km. Nhưng tất cả chỉ có vậy. Ngày 9 tháng 11, Sư đoàn sơn chiến (Đức) và sư đoàn kỵ binh 6 (Romania) đã bao vây, cô lập căn cứ đầu cầu Eltigen. Sau 40 ngày chiến đấu Sư đoàn bộ binh 318 (Liên Xô) phải mở đường rút qua thị trấn Kammysh-Burun ở phía bắc và nhập vào chủ lực Tập đoàn quân 56 ở mũi Enikale - Mayak.[41].
Mất căn cứ đầu cầu Eltigen, Quân đội Liên Xô mất mũi tấn công thứ hai vào Kerch. Các quân đoàn bộ binh cận vệ 11 và 16 phải đánh vỗ mặt Quân đoàn bộ binh 5 (Đức) và hầu như không tiến lên được. Ngày 20 tháng 12 năm 1943, Phương diện quân Bắc Kavkaz phải tạm dừng chiến dịch để nghiên cứu tổ chức một điểm đầu cầu mới từ phía biển Azov nhằm đánh bọc hậu Quân đoàn bộ binh 5 (Đức) đang phòng thủ trên tuyến Kerch - Bulganak vào đầu tháng 1 năm 1944. Phưong diện quân Bắc Kavkaz bị giải thể và chuyển thành Tập đoàn quân độc lập Duyên hải[41].
Kết quả, đánh giá và ảnh hưởng
Kết quả
Trận sông Dniepr trở thành một trong các trận đánh có tổng số thương vong cao nhất trong chiến tranh thế giới thứ hai. Tổng thương vong của cả hai bên được các chuyên gia lịch sử quân sự ước tính từ 1.700.000 người đến trên 2.200.000 người. Nếu như con số tổn thất về người của phía Liên Xô được đánh giá không khác biệt nhiều với 1.182.000 người theo David M. Glantz,[2], 1.276.435 (theo Krivosheev)[1] đến tối đa 1.500.000 người (theo phỏng đoán Nikolai Shefov)[42] thì số thương vong của quân đội Đức Quốc xã được ước tính với sai số rất lớn, từ trên 400.000 người đến khoảng hơn 1.000.000 người. Tuy nhiên, những tài liệu thống kê chưa đầy đủ về thương vong theo từng 10 ngày của từng tập đoàn quân và cụm tập đoàn quân của quân đội Đức Quốc xã tại mặt trận phía đông năm 1943 đã phản ánh phần nào tổn thất đó của quân đội Đức Quốc xã. Tổng số thương vong gồm 283.082 người chết và mất tích, 257.150 người bị thương (bao gồm cả thương vong của Tập đoàn quân 2 (Đức) tham gia ở cánh Bắc của chiến dịch;[3] 209.226 người bị bắt làm tù binh.[4] Tổng tổn thất về quân số của lục quân Đức Quốc xã là 749.458 người, chưa tính đến số thiệt hại của các đơn vị SS, không quân và các đơn vị Romania tham gia tại cánh cực Nam của Cụm tập đoàn quân Trung tâm. Chiếm 59,96% tổng quân số tham gia chiến dịch.Tính chất khốc liệt của toàn bộ các chiến dịch chỉ tập trung chủ yếu tại bốn khu vực: Poltava, Chernigov, Dniepropetrovsk và Kiev. Quân đội Liên Xô tổn thất khoảng 40% đến 48% tổng quân số tham gia chiến dịch. Trong đó, quân đội Liên Xô thiệt hại nặng nề nhất trong các cuộc vượt sông sang Kiev và các trận đánh trước cửa ngõ phía bắc Krivoy Rog; còn quân đội Đức Quốc xã thiệt hại nặng nhất trong cuộc phòng thủ Poltava và các cuộc phản kích không thành vào Kiev ở giai đoạn cuối chiến dịch.[2]
Ảnh hưởng
Sau hơn 3 tháng liên tục tấn công trên toàn cánh Nam mặt trận Xô-Đức dài hơn 1.400 km, quân đội Liên Xô đã tiến rất xa về phía tây thêm từ 300 đến 500 km, thu hồi một vùng đất đai rộng lớn gồm toàn bộ phần tả ngạn Ukraina và hai vùng quan trọng ở phía tây sông Dniepr tại xung quanh Kiev, khu vực Cherkassy, Znamenka, Pyatikhatka và Dniepropetrovsk rộng hơn nửa triệu km 2, tiếp tục đẩy quân đội Đức Quốc xã vào thế phòng ngự bị động. Hai đầu cầu chiến lược mà Quân đội Liên Xô chiếm được ở khu vực Kiev và Znamenka - Krivoy Rog sau này trở thành hai bàn đạp quan trong để các phương diện Ukraina 1 và 2 (Liên Xô) mở Chiến dịch Korsun-Shevchenko Hợp vây và đánh bại đại bộ phận Tập đoàn quân xe tăng 1 và Tập đoàn quân 8 (Đức), mở đường tiến ra chân núi Karpat, chia cắt Cụm tập đoàn quan Nam (Đức), tiếp cận biên giới vùng Balkan và tiến ra phía đông nam Ba Lan.Đánh giá
Không chỉ tổn thất về binh lực, tổn thất quân sự - kinh tế nghiêm trọng nhất của quân đội Đức Quốc xã là đã để mất toàn bộ vùng công - nông nghiệp Donbas trù phú. Trong suốt hơn 2 năm chiếm đóng vùng này, đây là nơi cung cấp cho quân đội Đức Quốc xã than đá, quặng sắt, quặng kim loại màu, nhiều nguyên liệu quan trọng và một khối lượng lớn lượng thực, thực phẩm. Việc quân đội Liên Xô chiếm lại toàn bộ Donbas đồng nghĩa với sự phá sản của chiến lược "lấy chiến tranh nuôi chiến tranh" của quân đội Đức Quốc xã tại mặt trận phía đông.Chú thích
- ^ a ă â b Г. Ф. Кривошеева. Россия и СССР в войнах XX века. Потери вооруженных сил: Статистическое исследование. М.: Олма-Пресс, 2001.
- ^ a ă â b c d David M. Glantz, Jonathan Mallory House, When Titans clashed: how the Red Army stopped Hitler, University Press of Kansas, 1995
- ^ a ă â Thống kê thiệt hại về người của Quân đội Đức Quốc xã năm 1943 tính theo tập đoàn quân
- ^ a ă Thống kê tù binh Đức bị quân đội Liên Xô bắt giữ tính theo tập đoàn quân
- ^ David M. Glantz, Soviet military deception in the Second World War, Routledge, 1989. ISBN 978-0-7146-3347-3
- ^ Свобода Людвик, От Бузулука до Праги. — М.: Воениздат, 1963. (Ludvik Svoboda. Từ Buzuluk đến Praha. NXB Quân sự. Moskva. 1963)
- ^ Самсонов Александр Михайлович, Крах фашистской агрессии 1939-1945. — М.: Наука, 1980. - Красная армия наращивает мощь ударов
- ^ a ă â b c Friedrich Wilhelm von Mellenthin, Panzer battles 1939-1945: A study of the employment of armour in the second world war. — 2nd edition, enlarged. — London, 1956.
- ^ A. M. Vasilevsky. Sự nghiệp cả cuộc đời. Trang 314.
- ^ a ă â b c Erich von Manstein, Verlorene Siege. — Bonn, 1955
- ^ Karl Heinz Frieser, Deutsche Das Reich Und Der Zweite Weltkrieg, Deutsche Verlags-Anstalt GmbH, 2007. ISBN 3-421-06235-8, ISBN 978-3-421-06235-2
- ^ Heinz Guderian, Erinnerungen eines Soldaten. — Heidelberg, 1951
- ^ a ă â b c Конев Иван Степанович, Записки командующего фронтом. — М.: Наука, 1972. - Глава II: Битва за Днепр
- ^ a ă G. K. Zhukov. Nhớ lại và suy nghĩ. Tập 3. trang 134.
- ^ G. K. Zhukov. Nhớ lại và suy nghĩ. Tập 3. trang 138-139.
- ^ A. M. Vasilevsky. Sự nghiệp cả cuộc đời. trang 290.
- ^ R. T. Paget, Manstein: Các chiến dịch và phiên tòa xét xử tội ác chiến tranh, Collins, 1951, p. 63.
- ^ a ă Alexander Bevin, How Hitler Could Have Won World War II: The Fatal Errors That Lead to Nazi Defeat. — London, Times Books, 2000
- ^ G. K. Zhukov. Nhớ lại và suy nghĩ. Tập 3. trang 139.
- ^ a ă Катуков Михаил Ефимович, На острие главного удара. — М.: Воениздат, 1974. - Глава 13: Открылась дорога на Днепр
- ^ Якубовский Иван Игнатьевич, Земля в огне. — М., Воениздат, 1975. - Глава 2: От Курска к Днепру
- ^ Батов Павел Иванович, В походах и боях. — М.: Воениздат, 1974
- ^ a ă Москаленко Кирилл Семёнович, На Юго-Западном направлении. 1943-1945. Воспоминания командарма. Книга II. — М.: Наука, 1973. - Глава IV. Днепровская эпопея
- ^ Казаков Михаил Ильич, Над картой былых сражений. — М.: Воениздат, 1971. - Прекрасное слово — «Вперед!»
- ^ a ă â b c Рокоссовский Константин Константинович, Солдатский долг. — М.: Воениздат, 1988. - Бросок за Днепр
- ^ A. M. Vasilevsky. Sự nghiệp cả cuộc đời. trang 293.
- ^ A. M. Vasilevsky. Sự nghiệp cả cuộc đời. trang 295-296.
- ^ a ă â Ротмистров Павел Алексеевич, Стальная гвардия. — М.: Воениздат, 1984. - Глава 5. Через Днепр — на Кировоград
- ^ G. K. Zhukov. Nhớ lại và suy nghĩ. Tập 3. trang 148.
- ^ a ă Жадов Алексей Семенович, Четыре года войны. — М.: Воениздат, 1978. - Глава 5: На Правобережной Украине
- ^ G. K. Zhukov. Nhớ lại và suy nghĩ. Tập 3. trang 148-149
- ^ S. M. Stemenko. Bộ Tổng tham mưu Xô Viết trong chiến tranh. Tập 1. trang 300.
- ^ A. M. Vasilevsky. Sự nghiệp cả cuộc đời. trang 312.
- ^ a ă Якубовский Иван Игнатьевич, Земля в огне. — М., Воениздат, 1975. - Глава 3: Освобождение Киева
- ^ a ă Крайнюков Константин Васильевич, Оружие особого рода. — М.: Мысль, 1984. - Часть 1:Битва на Днепре
- ^ G. K. Zhukov. Nhớ lại và suy nghĩ. Tập 3. trang 161
- ^ Гетман Андрей Лаврентьевич, Танки идут на Берлин. — М.: «Наука», 1973. - Глава пятая. На Правобережной Украине
- ^ Tập đoàn quân 17 (Đức) (theo tài liệu lưu trữ Đức: "Akten des Bundesarchivs Signatur RH 20-17 - Tessin, Georg. Verbände und Truppen der deutschen Wehrmacht und der Waffen-SS im Zweiten Weltkrieg 1939-1945")
- ^ A. M. Vasilevsky. Sự nghiệp cả cuộc đời. NXB Tiến bộ. Moskva (Bản tiếng Việt). 1984. trang 354-355
- ^ Горшков Сергей Георгиевич, На южном приморском фланге. — М.: Воениздат, 1989. - Глава седьмая: Вновь на Азовском море
- ^ a ă S. M. Stemenko. Bộ Tổng tham mưu Xô Viết trong chiến tranh. Tập 1, NXB Tiến Bộ. Moskva (bản tiếng Việt). 1985. trang 321-322
- ^ Н. А. Шефов, Битвы России, ACT, 2004.
Tham khảo
![]() |
Wikimedia Commons có thêm thể loại hình ảnh và phương tiện truyền tải về Trận sông Dniepr |
- David M. Glantz, Jonathan M. House, When Titans Clashed:how the Red Army stopped Hitler, University Press of Kansas, 1995
- Nikolai Shefov, Russian fights, Lib. Military History, Moscow, 2002
- History of Great Patriotic War, 1941 — 1945. Мoscow, 1963
- John Erickson, Barbarossa: The Axis and the Allies, Edinburgh University Press, 1994
- Marshal Konev, Notes of a front commander', Science, Moscow, 1972.
- Erich von Manstein, Lost Victories, Мoscow, 1957.
Liên kết ngoài
Tư liệu
Bản đồ
- Bản đồ trận sông Dniepr
- Bản đồ chiến dịch Chernigov-Pripiat
- Bản đồ chiến dịch Donbas (1943)
- Bản đồ các chiến dịch Kiev (1943) và Dniepropetrovsk
- Bản đồ các cuộc tấn công và phòng thủ Kiev (1943)
Khác
|
Video yêu thích
http://www.youtube.com/user/hoangkimvietnam
Trở về trang chính
hoangkim vietnam, hoangkim, hoangkimvietnam, Hoàng Kim, Ngọc Phương Nam, Chào ngày mới Thung dung, Dạy và học, Cây Lương thực, Tin Nông nghiệp Việt Nam, Food Crops, foodcrops.vn, Cassava in Vietnam, VietnamAfricaCassavaRice, Khát khao xanh, Dayvahoc, Học mỗi ngày, Danh nhân Việt , Food Crops News, Điểm chính, CNM365, Câu chuyện ảnh, 5 phút thư giản, Kim LinkedIn, KimTwitter, KimFaceBook Đọc lại và suy ngẫm, Việt Nam tổ quốc tôi, Tình yêu cuộc sống, Thơ cho con
No comments:
Post a Comment