CNM365. Chào ngày mới 16 tháng 12. Wikipedia Ngày này năm xưa. Ngày Độc lập tại Kazakhstan (hình), ngày Quốc gia tại Bahrain, ngày Chiến thắng tại Ấn Độ và Bangladesh. Năm 755 – Tiết độ sứ An Lộc Sơn khởi binh chống triều đình, song trên danh nghĩa tuyên bố nhận được mật chiếu của Đường Huyền Tông, khởi đầu loạn An Sử. Năm 1044 – Min Saw đăng cơ với vương hiệu Anawrahta tại Pagan, khởi đầu lịch sử nghiệm chứng được của Myanmar. Năm 1899 – Câu lạc bộ bóng đá A.C. Milan được thành lập bởi hai người Anh, với tên ban đầu là Milan Cricket and Foot-Ball Club. Năm 1997 – Tập phim Dennō Senshi Porigon của loạt anime Pokémon được phát sóng, song khiến cho 685 khán giả bị động kinh.
Kazakhstan
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Cộng hoà Kazakhstan | |||||
---|---|---|---|---|---|
Қазақстан Республикасы (tiếng Kazakh) Qazaqstan Respublïkası (tiếng Kazakh) Республика Казахстан (tiếng Nga) Respublika Kazakhstan |
|||||
|
|||||
Khẩu hiệu | |||||
không có | |||||
Quốc ca | |||||
Kazakhstan của tôi | |||||
Hành chính | |||||
Chính phủ | Cộng hòa bán tổng thống | ||||
Tổng thống Thủ tướng |
Nursultan Nazarbayev Daniyal Akhmetov |
||||
Ngôn ngữ chính thức | tiếng Kazakh, tiếng Nga | ||||
Thủ đô | Astana |
||||
Thành phố lớn nhất | Almaty | ||||
Địa lý | |||||
Diện tích | 2.725.047 km² (hạng 9) | ||||
Diện tích nước | 1,7% % | ||||
Múi giờ | UTC từ +5 đến +6; mùa hè: UTC từ +5 đến +6 | ||||
Lịch sử | |||||
Ngày thành lập | Từ Nga 16 tháng 12 năm 1991 |
||||
Dân cư | |||||
Dân số ước lượng (2005) | 15.185.844 người (hạng 61) | ||||
Mật độ | 5,6 người/km² (hạng 215) | ||||
Kinh tế | |||||
GDP (PPP) (2005) | Tổng số: $132,7 tỷ đô la Mỹ | ||||
HDI (2003) | 0,761 trung bình (hạng 80) | ||||
Đơn vị tiền tệ | Tenge (KZT ) |
||||
Thông tin khác | |||||
Tên miền Internet | .kz |
Kazakhstan giáp Nga về phía bắc, Trung Quốc về phía đông nam, hai nước Trung Á là Uzbekistan và Kyrgyzstan về phía nam. Kazakhstan cũng có đường bờ biển với 2 biển là biển Aral và biển Caspia.
Kazakhstan là quốc gia rộng thứ chín trên thế giới, nhưng về dân số chỉ xếp thứ 62 cho nên Kazakhstan là một trong những quốc gia có mật độ dân cư thưa thớt nhất trên thế giới: trung bình 6 người/km². Dân số theo thống kê năm 2006 của Kazakhstan là 15.300.000 người, giảm xuống từ 16.464.000 người vào năm 1989 do sự di cư của cộng đồng người Nga và người Đức Volga. Đại bộ phần địa hình của Kazakhstan là bán hoang mạc.
Trong hầu hết lịch sử lãnh thổ của Kazakhstan hiện đại từng là nơi sinh sống của các bộ tộc du mục. Tới thế kỷ 16 người Kazakh xuất hiện như một nhóm riêng biệt, được phân chia thành ba hãn quốc. Người Nga bắt đầu tiến vào thảo nguyên Kazakh ở thế kỷ 18, và tới giữa thế kỷ 19 toàn bộ Kazakhstan là một phần của Đế chế Nga. Sau cuộc cách mạng tháng 10 Nga năm 1917, và cuộc nội chiến sau đó, lãnh thổ Kazakhstan được tổ chức lại nhiều lần trở thành Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Xô viết Kazakh năm 1936, một phần của Liên bang Xô viết. Trong thế kỷ 20, Kazakhstan là nơi diễn ra nhiều dự án lớn của Liên xô, gồm cả chiến dịch Đất chưa Khai phá của Khrushchev, Sân bay vũ trụ Baikonur, và Semipalatinsk "Polygon", địa điểm thử nghiệm vũ khí hạt nhân chính của Liên xô.
Kazakhstan tuyên bố độc lập ngày 16 tháng 12 năm 1991, nước cộng hoà cuối cùng của Liên xô thực hiện điều này. Lãnh đạo thời cộng sản của họ, Nursultan Nazarbayev, trở thành tổng thống mới. Từ khi độc lập, Kazakhstan đã theo đuổi một chính sách đối ngoại cân bằng và nỗ lực phát triển nền kinh tế, đặc biệt là công nghiệp hydrocarbon. Tuy triển vọng kinh tế đang được cải thiện, Tổng thống Nazarbayev vẫn duy trì sự kiểm soát chặt chẽ với nền chính trị trong nước. Tuy vậy, danh tiếng quốc gia của Kazakhstan vẫn đang được tạo lập.[1] Hiện Kazakhstan được coi là quốc gia có ưu thế tại vùng Trung Á.[2] Nước này là thành viên của nhiều tổ chức quốc tế, gồm cả Liên hiệp quốc, Đối tác vì hoà bình của NATO, Cộng đồng các quốc gia độc lập, và Tổ chức Hợp tác Thượng Hải. Năm 2010, Kazakhstan làm chủ tịch Tổ chức An ninh và Hợp tác châu Âu.
Kazakhstan đa dạng về sắc tộc và văn hoá, một phần bởi những cuộc trục xuất hàng loạt nhiều nhóm sắc tộc tới nước này trong thời kỳ cầm quyền của Stalin. Người Kazakh là nhóm lớn nhất. Kazakhstan cho phép tự do tôn giáo, và nhiều đức tin khác nhau có hiện diện tại nước này. Hồi giáo là tôn giáo chính. Tiếng Kazakh là ngôn ngữ quốc gia, trong khi tiếng Nga cũng được chính thức sử dụng như một ngôn ngữ "tương đương" (với tiếng Kazakh) trong các định chế của Kazakhstan.[3][4]
Mục lục
Lịch sử
Thời kỳ cổ-trung đại

Taraz cổ xưa.
Những tộc người khác cũng nói tiếng Đông Iran như người Scythia, và cũng giống y chang như người Scythia là người Sarmatian và người Massagetae, dù nhiều nhà sử học xem đây là những dân tộc khác. Người Massagetae trở nên nổi tiếng tại xứ Kazakhstan và một số nơi khác ở vùng Trung Á vì những chiến công của Nữ vương Tomyris. Theo sử cũ, sau khi vua Cyrus Đại Đế xua đại quân tinh nhuệ Ba Tư đánh tan tác người Massagetae và giết chết con trai của Nữ vương Tomyris là Spargapises, bà đã trả thù qua việc xua quân đập tan quân Ba Tư (530 TCN),[6] và chặt đầu vua Cyrus Đại Đế. Không những thế bà còn bỏ cái đầu ông vào một chiếc túi da chứa đầy máu người, để ông được tha hồ uống máu - một việc mà ông luôn thèm khát. Chiến thắng của Nữ vương Tomyris trước quân Ba Tư trở thành một khoảnh khắc huy hoàng trong lịch sử xứ Kazakhstan.[7] Do đó, nhiều nhà hàng ở xứ Kazakhstan có tên là "Tomyris".[8]
Vị vua kế tục nổi tiếng nhất của Cyrus Đại Đế là Darius I cầm binh đi đánh người Scythia ở phía đông Kazakhstan vào năm 519 TCN.[9] Một vị vua tàn bạo của xứ Macedonia - Hy Lạp là Alexandros Đại Đế lên nối ngôi vào năm 336 TCN, diệt được Đế quốc Ba Tư, và mở rộng Vương quốc Macedonia đến tận Kazakhstan và Pakistan ở phía đông. Vào năm 329 TCN, ông kéo quân đến sông Jaxartes ở biên giới phía bắc của Ba Tư (nay là sông Syr Darya tại các xứ Kazakhstan, Uzbekistan và Tadzhikistan). Trong một trận đánh tại đây, ông đại phá tộc người hùng mạnh Scythia và đánh đuổi họ về phía bắc.[10][11] Cùng với sự xâm chiếm của đế chế Mông Cổ vào đầu thế kỉ 13, cấc quận hành chính đầu tiên đã được thành lập dưới đế chế Mông Cổ, thậm chí về sau trở thành các lãnh thổ độc lập của Khả hãn quốc Kazakh (hay còn gọi là Ak Horde). Những thành thị trung cổ đầu tiên là Alie-Ata và Turkestan đã được phát hiện phía bắc con đường tơ lụa nổi tiếng, nơi ngày nay chính là Kazakhstan.
Cuộc sống du mục truyền thống trên các thảo nguyên rộng lớn và bán hoang mạc đã tạo nên những cuộc tìm kiếm không ngớt các đồng cỏ có giá trị vô cùng to lớn đối vời nền kinh tế dựa trên chăn nuôi. Dân tộc Kazakh hình thành trên cơ sở nhiều bộ lạc sống trong khu vực vào khoảng thế kỉ 15. Khoảng giữa thế kỉ 16, người Kazakh bắt đầ phát triển ngôn ngữ, văn hóa và nền kinh tế riêng của đất nước mình. Đầu thế kỉ 17, Khả hãn quốc Kazakh phân rã thành ba cộng đồng Lớn, Vừa và Nhỏ, liên kết trên cơ sở mối quan hệ huyết thống. Tuy nhiên những bất hòa về chính trị, sự liên kết lỏng lẻo về kinh tế và những cuộc chiến giữa các cộng đồng với nhau đã nhanh chóng làm suy sụp Khả hãn quốc Kazakh. Những cuộc chiến tranh giành lãnh thổ giữa các tiểu vương Kazakh và vua Ba Tư đã nổ ra trong nhiều thế kỉ.
Thời kỳ cận đại

Abay Qunanbayuli, nhà thơ, nhà soạn nhạc và nhà triết học người Kazakh
Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Xô viết Kazakh
Nền nông nghiệp tập thể hóa cuối những năm 1920-1930 đã gây ra nạn đói trầm trọng ở Kazakhstan. Nhưng chính quyền Xô viết đã xây dựng một hệ thống chính quyền cộng sản vững mạnh để hội nhập Kazakhstan vào Liên bang Xô viết. Thập kỉ 1930, rất nhiều người dân đến từ các vùng khác của Liên Xô đã đến Kazakhstan.
Giai đoạn Chiến tranh thế giới thứ hai đã đánh dấu giai đoạn công nghiệp hóa ở Kazkahstan, nhưng chủ yếu tập trung khai thác khoáng sản để phục vụ cho chiến tranh. Đến khi Stalin qua đời, Kazakhstan vẫn là một nước nông nghiệp lạc hậu. Năm 1953, lãnh đạo Xô viết Nikita Khrushchev đã đề xướng kế hoạch Virgin Lands với mục tiêu biến những đồng cỏ ở Kazakhstan thành những vùng trồng cây lương thực cho Liên bang Xô viết. Chính sách Virgin Lands sau này được hiện đại hóa và phát triển dưới thời Leonid Brezhnev.
Tình trạng căng thẳng trong xã hội Xô viết đã dẫn tới những yêu cầu phải cải cách chính trị và kinh tế, lên tới đỉnh điểm vào những năm 1980. Tháng 12 năm 1986, những cuộc tuần hành lớn của các thanh niên sắc tộc Kazakh, sau này được gọi là cuộc nổi dậy Jeltoqsan, diễn ra ở Almaty để phản đối sự thay thế Thư ký thứ nhất của Đảng Cộng sản Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Xô viết Kazakh Dinmukhamed Konayev bằng Gennady Kolbin từ Liên bang Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Xô viết Nga. Quân đội chính phủ đàn áp cuộc biểu tình, nhiều người đã bị giết hại và bỏ tù. Trong những ngày cai trị cuối cùng của Liên xô, sự bất mãn tiếp tục gia tăng và được thể hiện nhờ chính sách glasnost của lãnh tụ Liên xô Mikhail Gorbachev.
Độc lập
Cùng với làn sóng các nước cộng hoà thuộc Liên xô tìm kiếm sự tự trị lớn hơn nữa, Kazakhstan tuyên bố chủ quyền như một nước cộng hoà bên trong Liên xô tháng 10 năm 1990. Sau cuộc đảo chính bất thành tại Moskva tháng 8 năm 1991 và sự giải tán Liên xô, Kazakhstan tuyên bố độc lập ngày 16 tháng 12 năm 1991. Đây là nước cộng hoà cuối cùng thuộc Liên xô tuyên bố độc lập.Những năm sau độc lập được đánh dấu bởi những cải cách to lớn với nền kinh tế kiểu Xô viết và sự độc quyền quyền lực chính trị. Dưới sự cai trị của Nursultan Nazarbayev, người đã lên nắm quyền lực năm 1989 với tư cách lãnh đạo Đảng Cộng sản Kazakhstan và sau đó được bầu làm Tổng thống năm 1991, Kazakhstan đã có những bước tiến to lớn trong việc phát triển một nền kinh tế thị trường. Nước này đã có tăng trưởng kinh tế mạnh từ năm 2000, một phần nhờ các trữ lượng dầu mỏ, khí đốt, và khoáng sản to lớn.
Tuy nhiên dân chủ vẫn chưa được cải thiện nhiều từ năm 1991. "Tháng 6 năm 2007, nghị viện Kazakhstan đã thông qua một điều luật trao cho Tổng thống Nursultan Nazarbayev quyền lực và quyền ưu tiên trọn đời, gồm cả quyền tham vấn các tổng thống tương lai, miễn trừ bị truy tố, và ảnh hưởng với chính sách đối nội và đối ngoại. Những lời chỉ trích nói rằng trên thực tế ông đã trở thành "tổng thống trọn đời."[12][13]
Trong mười năm nắm quyền, Nazarbayev đã liên tục kiểm duyệt báo chí thông qua việc sử dụng độc đoán các điều luật về "phỉ báng",[14] ngăn cản truy cập vào các web site đối lập (9 tháng 11 năm 1999), cấm giáo phái tôn giáo Wahhabi (5 tháng 9 năm 1998), và từ chối yêu cầu đòi thống đốc của 14 tỉnh thuộc Kazakhstan phải được bầu lên chứ không phải do tổng thống chỉ định (7 tháng 4 năm 2000)."
Chính phủ và chính trị

Tổng thống Kazakhstan, Nursultan Nazarbayev
Hệ thống chính trị
Kazakhstan là một nước cộng hoà tổng thống. Tổng thống là Nursultan Nazarbayev. Tổng thống cũng là tổng tư lệnh các lực lượng vũ trang và có quyền phủ quyết luật. Có ba phó thủ tướng và 16 bộ trưởng. Karim Massimov đã giữa chức thủ tướng từ ngày 10 tháng 1 năm 2007.Kazakhstan có một Nghị viện lưỡng viện, gồm hạ viện (Majilis) và thượng viện (Thượng viện Kazakhstan). Các quận bầu cử riêng biệt bầu ra 67 ghế trong Majilis; cũng có 10 thành viên được bầu theo danh sách bầu cử đảng phái chứ không phải qua các quận bầu cử riêng biệt. Thượng viện có 39 thành viên. Hai thượng nghị sĩ được lựa chọn bởi mỗi nhóm bầu cử (Maslikhats) thuộc 16 đơn vị hành chính chính của Kazakhstan (14 tỉnh, cộng thêm hai thành phố Astana và Almaty). Tổng thống chỉ định bảy thượng nghị sĩ còn lại. Các đại biểu Majilis và chính phủ đều có quyền đề xuất luật pháp, dù chính phủ đề xuất hầu hết luật pháp được Nghị viện xem xét.
Bầu cử

Một dấu hiệu của Đảng Otan (Quê hương), đảng cầm quyền cũ của Kazakhstan
Năm 1999, Kazakhstan đã đề nghị tư cách quan sát viên tại Hội đồng Nghị viện châu Âu. Câu trả lời chính thức của Nghị viện là Kazakhstan chỉ có thể đề nghị tư cách thành viên đầy đủ, bởi họ nằm một phần ở châu Âu, nhưng họ sẽ không được trao bất kỳ một tư cách nào tại Hội đồng trừ khi các thành tích dân chủ và nhân quyền của nước này được cải thiện.
Ngày 4 tháng 12 năm 2005, Nursultan Nazarbayev tái cử với một chiến thắng long trời lở đất. Uỷ ban bầu cử thông báo rằng ông đã giành được hơn 90% số phiếu. Tổ chức An ninh và Hợp tác châu Âu (OSCE) kết luận cuộc bầu cử không đạt các tiêu chuẩn quốc tế dù có một số cải thiện trong cách quản lý bầu cử. Tân Hoa Xã thông báo rằng các quan sát viên từ Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa, chịu trách nhiệm giám sát 25 điểm bỏ phiếu ở Astana, thấy rằng việc bỏ phiếu tại đó được tiến hành "minh bạch và công bằng" manner.[15]
Ngày 17 tháng 8 năm 2007, cuộc bầu cử hạ viện được tiến hành với việc Đảng Otan cầm quyền giành mọi ghế với 88% số phiếu. Không đảng đối lập nào giành đủ mức tối thiểu 7% để có ghế. Điều này đã khiến truyền thông địa phương đưa ra câu hỏi về khả năng và tuy tín của lãnh đạo các đảng đối lập. Các đảng đối lập đã đưa ra những cáo buộc gian lận nghiêm trọng trong cuộc bầu cử.[16][17]
Cơ quan mật vụ
Uỷ ban An ninh Quốc gia Kazakhstan (KNB) được thành lập ngày 13 tháng 6 năm 1992. Nó bao gồm Cơ quan An ninh Nội địa, Cơ quan Phản gián Quân sự, Biên phòng, nhiều đơn vị Commando, và Tình báo Nước ngoài (Barlau). Barlau được coi là thành phần quan trọng nhất của KNB. Giám đốc của nó là Thiếu tướng Omirtai Bitimov.Địa lý
Với diện tích khoảng 2.725.047 triệu km², Kazakhstan là quốc gia rộng thứ chín trên thế giới và là quốc gia không giáp biển có diện tích lớn nhất. Diện tích của Kazakhstan tương đương với diện tích của vùng Tây Âu. Nước này chia sẻ đường biên giới với các nước Nga (6648 km), Uzbekistan (2203 km), Trung Quốc (1533 km), Kyrgyzstan (1051 km), Turkmenistan (379 km). Các thành phố chính gồm Astana (thủ đô từ năm 1997), Almaty (thủ đô cũ), Karaganda, Shymkent, Semey và Turkestan.Địa hình từ tây sang đông trải dài từ bờ biển Caspian đến dãy núi Altay, từ phía bắc là đồng bằng Tây Siberia đến phía nam là các hoang mạc khô cằn của vùng Trung Á. Thảo nguyên Kazakhstan có diện tích khoảng 804.500 km², chiếm một phần ba diện tích đất nước và là vùng thảo nguyên lớn nhất trên thế giới. Trong các thảo nguyên có nhiều đòng cỏ và các hoang mạc cát. Các sông và hồ quan trọng ở Kazakhstan bao gồm: biển Aran, sông Ili, sông Irtysh, sông Ural, hồ Balkhash và hồ Zaysan.
Do có khí hậu lục địa nên biên độ nhiệt trong năm của Kazakhstan rất lớn. Mùa hạ nhiêt độ lên cao, trung bình đạt hơn 25 °C, nhưng đến mùa đông nhiệt độ lại xuống rất thấp, có lúc xuống hơn -20 °C. Chênh lệch nhiệt độ giữa ngày và đêm cũng rất lớn. Lượng mưa ít và tập trung chủ yếu vào mùa hạ.
Các tỉnh
- Taldy-Korgan
- Aqmola
- Aqtobe
- Atyrau
- Batys Qazaqstan (Oral)
- Mangghystau
- Ongtustik Qazaqstan (Shymkent)
- Pavlodar
- Qaraghandy
- Qostanay
- Qyzylorda
- Shyghys Qazaqstan (Oskemen)
- Soltustik Qazaqstan (Petropavl)
- Zhambyl (Taraz)
Các thành phố
- Astana
- Almaty
- Bayquogyr
Kinh tế

Sân bay vũ trụ Baikonur là cơ sở phóng tàu vũ trụ cổ nhất và lớn nhất thế giới
Thách thức chủ yếu của Kazakhstan từ năm 2002 là quản lý dòng ngoại tệ mạnh đổ vào từ bên ngoài mà không làm gia tăng lạm phát. Từ thời điểm đó, lạm phát vẫn chưa được quản lý chặt chẽ, ở mức 6.6% năm 2002, 6.8% năm 2003, và 6.4% năm 2004.
Năm 2000 Kazakhstan trở thành nước cộng hoà cũ đầu tiên của Liên xô trả lại toàn bộ khoản vay của mình cho Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), 7 năm trước thời hạn. Tháng 3 năm 2002, Bộ Thương mại Hoa Kỳ đã trao quy chế kinh tế thị trường cho Kazakhstan theo luật thương mại Hoa Kỳ. Sự thay đổi quy chế này công nhận những cải cách kinh tế thị trường thực sự trong các lĩnh vực chuyển đổi tiền tệ, quyết định mức lương, tính mở với đầu tư nước ngoài, và sự kiểm soát của chính phủ với các phương tiện sản xuất và phân phối tài nguyên.
Tháng 9 năm 2002 Kazakhstan trở thành quốc gia đầu tiên trong CIS nhận được sự đánh giá mức độ tín nhiệm cấp đầu tư từ một cơ quan đánh giá mức độ tín nhiệm lớn của thế giới. Ở thời điểm cuối tháng 12 năm 2003, tổng nợ nước ngoài của Kazakhstan là khoảng $22.9 tỷ. Tổng nợ chính phủ là $4.2 tỷ. Con số này chiếm 14% GDP. Đã có sự sụt giảm đáng kể trong tỷ lệ nợ trên GDP trong những năm vừa qua; tỷ lệ tổng nợ chính phủ trên GDP năm 2000 là 21.7%, năm 2001 là 17.5%, và năm 2002 là 15.4%.
Đà tăng trưởng kinh tế, cộng với những kết quả từ những cuộc cải cách lĩnh vực thuế và tài chính trước đó, đã cải thiện đáng kể tình hình tài chính chính phủ. Từ năm 1999 mức thâm hụt ngân sách 3.5% GDP xuống mức thâm hụt 1.2% năm GDP năm 2003. Nguồn thu chính phủ đã tăng từ 19.8% GDP năm 1999 lên 22.6% GDP năm 2001, nhưng đã giảm xuống 16.2% GDP năm 2003. Năm 2000, Kazakhstan đã thông qua một luật thuế mới trong một nỗ lực nhằm củng cố những thành quả đó.
Ngày 29 tháng 11 năm 2003 Luật về những Thay đổi Luật Thuế được thông qua, giảm các tỷ suất thuế. Thuế giá trị gia tăng giảm từ 16% xuống còn 15%, thuế xã hội từ 21% xuống 20%, và thuế thu nhập từ 30% còn 20%. (Ngày 7 tháng 7 năm 2006 thuế thu nhập cá nhân thậm chí còn giảm nữa xuống mức 5% cho thu nhập cá nhân dưới hình thức các cổ phần và 10% cho thu nhập cá nhân khác.) Kazakhstan còn tiến hành những cải cách xa hơn nữa bằng việc thông qua một luật thuế đất đai ngày 20 tháng 6 năm 2003, và một luật thuế nhập khẩu mới ngày 5 tháng 4 năm 2003.
Năng lượng là lĩnh vực kinh tế chủ chốt. Sản lượng dầu mỏ và khí tự nhiên cô đặc ở Kazakhstan lên tới 51.2 triệu tấn năm 2003, lớn hơn 8.6% năm 2002. Kazakhstan đã tăng xuất khẩu dầu và khí tự nhiên cô đặc lên 44.3 triệu tấn năm 2003, 13% cao hơn mức năm 2002. Sản xuất khí đốt tại Kazakhstan năm 2003 lên tới 13.9 mét khối (491 tỷ cu. ft), tăng 22.7% so với năm 2002, gồm cả sản lượng khí tự nhiên 7.3 tỷ mét khối (258 tỷ cu. ft);
Kazakhstan có trữ lượng khoảng 4 tỷ tấn dầu đã được chứng minh và có thể khai thác cộng thêm 2,000 kilômét khối (480 cu mi) khí đốt. Những phân tích công nghiệp cho rằng kế hoạch mở rộng sản xuất dầu mỏ, cộng với sự phát triển những giếng dầu mới, sẽ cho phép nước này đạt sản lượng 3 triệu barrel (477,000 m³) mỗi ngày vào năm 2015, đưa YO MAMMA vào hàng 10 quốc gia sản xuất dầu mỏ lớn nhất thế giới. Xuất khẩu dầu mỏ năm 2003 của Kazakhstan được đánh giá ở mức hơn 7 tỷ dollar, chiếm 65% tổng giá trị xuất khẩu và 24% GDP. Các giếng dầu và mỏ khí với trữ lượng lớn gồm Tengiz với 7 tỷ barrel (1.1 km³); Karachaganak với 8 tỷ barrel (1.3 km³) và 1,350 km³ khí tự nhiên); và Kashagan với 7 tới 9 tỷ barrel (1.1 tới 1.4 km³).
Kazakhstan đã đưa ra một chương trình cải cách lương hưu đầy tham vọng vào năm 1998. Ở thời điểm 1 tháng 1 năm 2005, số tiền hưu trí là khoảng $4.1 tỷ. Có 16 quỹ tiết kiệm hưu trí trong nước cộng hoà. Quỹ Tích tụ Hưu trí Nhà nước, quỹ duy nhất thuộc sở hữu nhà nước, có thể được tư nhân hoá ngay từ năm 2006. Cơ quan quản lý tài chính thống nhất của quốc gia giám sát và điều hành các quỹ hưu trí. Các nhu cầu ngày càng gia tăng về việc đầu tư một cách hiệu quả các quỹ hưu trí tạo ra sự phát triển nhanh chóng của thị trường nợ thế chấp. Nguồn vốn quỹ hưu trí đang được đầu tư hầu như toàn bộ vào các tập đoàn và các trái phiếu chính phủ, gồm cả Eurobond của chính phủ Kazakhstan.
Hệ thống ngân hàng Kazakhstan đang phát triển nhanh chóng. Tư bản hoá của hệ thống ngân hàng hiện tại vượt hơn 1 tỷ $1. Ngân hàng Quốc gia đã đưa ra các khoản đảm bảo ký quỹ trong chiến dịch của họ nhằm tăng cường sức mạnh lĩnh vực ngân hàng. Nhiều ngân hàng lớn nước ngoài đã có chi nhánh tại Kazakhstan, gồm cả RBS, Citibank, và HSBC. Raiffeisen Zentralbank và UniCredit gần đây đều đã thâm nhập vào thị trường dịch vụ tài chính Kazakhstan qua việc mua lại và góp vốn.
Dù sức mạnh kinh tế của Kazakhstan đã xuất hiện trong hầu hết thập kỷ đầu tiên của thế kỷ 21, cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008-2009 đã phơi bày một số sự yếu kém trung tâm trong nền kinh tế quốc gia. Tăng trưởng GDP hàng năm của Kazakhstan đã giảm 19.81% năm 2008. Bốn ngân hàng chính đã phải viện tới sự trợ giúp của chính phủ vào cuối năm 2008 và giá trị tài sản thực đã giảm mạnh.
Nông nghiệp
Các sản phẩm gia súc chính gồm các sản phẩm sữa, da, thịt, và len. Các mặt hàng lương thực chính của nước này gồm bột mì, lúa mạch, bông, và gạô. Xuất khẩu bột mì, một nguồn thu ngoại tệ lớn, đứng trong tốp các mặt hàng xuất khẩu hàng đẩu của Kazakhstan. Năm 2003 Kazakhstan thu hoạch tổng cộng 17.6 triệu tấn ngũ cốc, tăng 2.8% so với năm 2002. Nông nghiệp Kazakhstan vẫn có nhiều vấn đề môi trường từ sự quản lý kém trong những năm thời Liên xô. Một số loại rượu Kazakh được sản xuất ở những vùng núi non phía đông đất nước tại Almaty.
Kazakhstan được cho là một trong những quê hương gốc của táo, đặc biệt là tổ tiên hoang dã của Malus domestica, Malus sieversii. Ở Kazakhstan, quê hương của nó, nó được gọi là 'alma'. Trên thực tế, vùng được cho là quê hương của nó là Almaty, hay 'nhiều táo'.[19] Loài cây này vẫn mọc hoang dã tại các vùng núi Trung Á phía nam Kazakhstan, Kyrgyzstan, Tajikistan, và Tân Cương, Trung Quốc.
Tài nguyên thiên nhiên
Tông cộng, có 160 trầm tích với hơn 2.7 tỷ tấn dầu mỏ. Những cuộc thám hiểm dầu mỏ đã cho thấy trầm tích trên bờ biển Caspian chỉ là một phần của một trầm tích lớn hơn. Có tin cho rằng 3.5 tỷ tấn dầu và 2.5 nghìn tỷ mét khối khí có thể được khai thác từ khu vực này. Tổng tước tính trầm tích dầu mỏ của Kazakhstan là 6.1 tỷ tấn. Tuy nhiên, chỉ có 3 nhà máy lọc dầu tại nước này, nằm ở Atyrau, Pavlodar, và Shymkent. Chúng không đủ năng lực xử lý tổng sản lượng dầu thô khai thác vì thế đa phần dầu thô được xuất khẩu sang Nga. Năm 2006, Kazakhstan sản xuất xấp xỉ 1426 m3 dầu và 23.5 tỷ mét khối khí tự nhiên.[22]
Quan hệ ngoại giao và các lực lượng vũ trang
Kazakhstan cũng là một thành viên của Cộng đồng các quốc gia độc lập, Tổ chức Hợp tác Kinh tế và Tổ chức Hợp tác Thượng Hải. Các nước Kazakhstan, Nga, Belarus, Kyrgyzstan và Tajikistan đã thành lập Cộng đồng Kinh tế Âu Á năm 2000 để tái thúc đẩy những nỗ lực trước đó nhằm cân đối các sắc thuế thương mại và tạo lập một vùng thương mại tự do với một hệ thống thuế quan duy nhất. Ngày 1 tháng 12 năm 2007, có thông báo rằng Kazakhstan đã được lựa chọn làm chủ tịch OSCE năm 2010.
Từ khi giành độc lập năm 1991, Kazakhstan đã theo đuổi cái được gọi là chính sách đối ngoại đa chiều (многовекторная внешняя политика), tìm kiếm các mối quan hệ tốt và cân bằng với các nước láng giềng, Nga và Trung Quốc, và Hoa Kỳ và phương Tây nói chung.[23][24] Chính sách này đã mang lại những kết quả trong lĩnh vực dầu mỏ và khí đốt, nơi các công ty Mỹ, Nga, Trung Quốc và châu Âu đều hiện diện ở mọi giếng dầu lớn, và trong nhưntgx phát triển đa hướng của các đường ống dẫn dầu xuất khẩu từ Kazakhstan. Kazakhstan cũng có những quan hệ kinh tế, chính trị mạnh và đang phát triển nhanh chóng với Thổ Nhĩ Kỳ. Năm 2011, và có thể ngay từ năm 2010, Kazakhstan có kế hoạch thành lập một liên minh thuế quan với Nga và Belarus.[25]
Nga hiện thuê xấp xỉ 6,000 km² (2,300 mi²) lãnh thổ bao gồm cả Sân bay Vũ trụ Baikonur ở phía nam trung Kazakhstan, nơi con người đầu tiên cũng như tàu con thoi đầu tiên của Liên xô Buran và trạm vũ trụ đầu tiên Mir đã được phóng lên quỹ đạo.
Đa phần lực lượng quân đội Kazakhstan được kế thừa từ Quân đội Quận Turkestan của Các lực lượng Vũ trang Liên xô. Các đơn vị này đã trở thành cốt lõi của quân đội mới của Kazakhstan với toàn bộ các đơn vị của Quân đoàn số 40 (Quân đoàn số 32 cũ) và một phần của Quân đoàn số 17, gồm sáu sư đoàn lục quân, các căn cứ quân nhu, các lữ đoàn đổ bộ số 14 và 35, 2 lữ đoàn tên lửa, 2 trung đoàn pháo binh và một lượng lớn trang thiết bị đã được rút khỏi Ural sau khi ký kết Hiệp ước về Các lực lượng Vũ trang Thông thường ở châu Âu. Đợt mở rộng lớn nhất của Quân đội Kazakhstan gần đây nhấn mạnh trên các đơn vị thiết giáp. Từ năm 1990, các đơn vị thiết giáp đã mở rộng từ 500 lên 1,613 năm 2005.
Không quân Kazakhstan gồm hầu hết là các máy bay thời Liên xô, gồm 41 MiG-29, 44 MiG-31, 37 Su-24 và 60 Su-27. Một lực lượng hải quân nhỏ cũng được duy trì tại Biển Caspian.
Kazakhstan đã gửi 49 kỹ sư quân sự tới Iraq để hỗ trợ phi vụ hậu chiến của Hoa Kỳ tại Iraq.
Nhân khẩu
Tháp dân số, 2005
Sắc tộc Kazakh chiếm 67% dân cư và sắc tộc Nga chiếm 21%,[27] với một số lượng đáng kể các nhóm khác, gồm Tatar, Ukraina, Uzbek, Belarusia, Uyghur, Azerbaijan, Ba Lan[28], và Litva. Một số cộng đồng thiểu số như người Đức trước kia từng định cư tại Nga (đặc biệt là người Đức Volga), Ukrainia, Triều Tiên, Kurd, Chechen,[29] Meskhetian Turk, và các thành phần đối lập chính trị với chính quyền Nga từng bị trục xuất tới Kazakhstan trong thập niên 1930 và 1940 bởi Stalin; một số trại lao động (Gulag) lớn của Liên xô từng tồn tại ở nước này.[30]
Cuộc di cư đáng chú ý của người Nga cũng liên quan tới Chiến dịch Virgin Lands và chương trình vũ trụ Liên xô trong thời Khrushchev.[31] Cũng có một cộng đồng Do Thái nhỏ nhưng khá mạnh. Trước năm 1991 có một triệu người Đức tại Kazakhstan; đa số họ đã di cư về Đức sau sự tan rã của Liên bang Xô viết.[32] Đa số các thành viên của cộng đồng người Hy Lạp Pontian đã di cư về Hy Lạp. Hồi cuối thập niên 1930 hàng ngàn người Triều Tiên ở Liên xô đã bị trục xuất tới Trung Á. Những người này được gọi là Koryo-saram.
Kazakhstan là một quốc gia song ngữ: tiếng Kazakh, được 64.4% dân số sử dụng, có vị thế ngôn ngữ "nhà nước", trong khi tiếng Nga, được hầu hết người Kazakhstan sử dụng, được tuyên bố là ngôn ngữ "chính thức", và hiện nó được sử dụng trong giao dịch kinh tế hàng ngày. Tiếng Anh cũng phổ biến trong giới trẻ từ khi Liên bang Xô viết sụp đổ và 30% người dân thành thị, đặc biệt là các thế hệ trẻ nói thông thạo tiếng Anh, các ngoại ngữ khác cũng được sử dụng ở một số mức độ trong cộng đồng người Kazakhstan là tiếng Thổ Nhĩ Kỳ, bởi sự tương đồng của nó với ngôn ngữ nhà nước của Kazakhstan, tiếng Kazakh.

Bản đồ ngôn ngữ vùng Trung Á
Đầu thế kỷ 21, Kazakhstan đã trở thành quốc gia đứng hàng đầu về nhận con nuôi quốc tế. Gần đây điều này đã gây ra một số sự chỉ trích trong nghị viện Kazakhstan, vì những lo ngại về độ an toàn và sự đối xử với trẻ em nước ngoài và những câu hỏi liên quan tới mức độ dân số thấp tại Kazakhstan.
Thuật ngữ
Thuật ngữ Kazakhstani (tiếng Kazakh: қазақстандықтар, Qazaqstandıqtar; tiếng Nga: казахстанцы, kazakhstantsy') được đặt ra để miêu tả tất cả người dân Kazakhstan, gồm cả người phi Kazakh.[33] Từ "Kazakh" nói chung được sử dụng để chỉ người thực tế có dòng dõi Kazakh (gồm cả những người sống ở Trung Quốc, Afghanistan, Thổ Nhĩ Kỳ, Uzbekistan và các quốc gia khác).Từ Kazakh xuất xứ từ một từ Thổ cổ có nghĩa "độc lập, một tinh thần tự do". Nó là kết quả của nền văn hoá du mục trên lưng ngựa của người Kazakh. Từ Avestan/Tiếng Ba Tư Cổ (Xem Các ngôn ngữ Ấn-Âu) "-stan" có nghĩa "vùng đất" hay "nơi của", vì thế "Kazakhstan" là "vùng đất của người Kazakh".
Tôn giáo

Thánh đường Hồi giáo Nur-Astana, là thánh đường lớn nhất tại Kazakhstan
Đền Phật giáo tại Tỉnh Almaty
Xấp xỉ 65% dân số là tín đồ Hồi giáo,[35] chủ yếu là người thuộc sắc tộc Kazakh, chiếm hơn một nửa dân số, cũng như các sắc tộc Uzbek, Uighur, và Tatar. Đa số theo dòng Hồi giáo Sunni của trường phái Hanafi.[36] Chưa tới 1% thuộc trường phái Shafi'i Sunni (chủ yếu là người Chechen). Vùng phía nam đất nước có mức độ tập trung đông nhất số người tự coi mình là tín đồ Hồi giáo. Tổng cộng có 2,300 nhà thờ Hồi giáo,[34] tất cả đều thuộc "Hiệp hội Tôn gáo của người Hồi giáo Kazakhstan", đứng đầu là một mufti tối cao.[37] Eid al-Adha được công nhận là một ngày lễ quốc gia.[34]
Một phần ba dân số là người Nga, gồm cả sắc tộc Ukrainia và Belarusia, và theo truyền thống theo đạo chính thống Nga. Các nhóm Thiên chúa giáo khác gồm Cơ đốc giáo La mã, Nhà thờ Chính thống Hy Lạp, Baptist và các phái Tin lành khác.[36] Tổng cộng có 258 nhà thờ Chính thống, 93 nhà thờ Cơ đốc, và hơn 500 nhà thờ Tin lành và các nhà cầu nguyện. Lễ Noel của Nhà thờ Chính thống Nga được công nhận là một ngày lễ quốc gia tại Kazakhstan.[34] Các nhóm tôn giáo khác gồm Do Thái (chưa tới 1%), và một số Hare Krishna và Phật giáo.[36]
Giáo dục

KIMEP tại Almaty
Hiện tại, có các trường đại học, viện hàn lâm, và viện, nhạc viện, trường cao học và cao đẳng. Chúng có ba cấp chính: giáo dục cao học căn bản cung cấp những kiến thức nền tảng của lĩnh vực học tập lựa chọn và người tốt nghiệp sẽ được cấp bằng đại học; giáo dục cao học chuyên nghiệp theo đó sinh viên sẽ được trao Bằng chuyên viên; và giáo dục sư phạm khoa học với Bằng Master. Giáo dục sau đại học với Kandidat nauk (Candidate of Sciences) và Tiến sĩ Khoa học. Với việc thông qua Luật về Giáo dục và Giáo dục Cao học, một lĩnh vực tư nhân đã được thành lập và nhiều định chế tư nhân đã được cấp phép hoạt động.
Bộ Giáo dục Kazakhstan điều hành một chương trình học bổng Bolashak rất thành công, hàng năm trao xấp xỉ 3000 suất học bổng cho các sinh viên. Quỹ cung cấp học bổng cho việc theo học ở các trường nước ngoài, gồm cả các trường đại học danh tiếng ở University College London, Oxford và Ivy League. Các điều khoản của chương trình gồm việc bắt buộc quay trở về Kazakhstan để làm việc trong ít nhất năm năm.
Thể thao
- Bóng đá là môn thể thao phổ biến nhất tại Kazakhstan. Liên đoàn Bóng đá Kazakhstan (tiếng Kazakh: Қазақстанның Футбол Федерациясы, Qazaqstannıñ fwtbol federacïyası) là cơ quan quản lý quốc gia của bộ môn này. FFK tổ chức các đội bóng đá nam nữ và các đội tuyển futsal quốc gia.

Assan Bazayev, vận động viên đua xe đạp của đội AST năm 2009}}
- Hockey trên băng - Đội tuyển hockey trên băng Kazakhstani đã tham gia tranh tài tại các Olympic mùa đông năm 1998 và 2006 cũng như Giải vô địch Hockey trên Băng Thế giới năm 2006 Kazakhstan có 7 đội tuyển. Các đội là Kaztsink-Torpedo Ust-Kamenogorsk, Kazakhmys Satpayev, Gornyak Rudnyi, Barys Astana, Irtysh Pavlodar, Yenbek Almaty, Sary-Arka Qaragandy.
- Đua xe đạp - Vận động viên đua xe đạp nổi tiếng nhất Kazakhstan là Alexander Vinokourov, và đua xe đạp là hoạt động phổ biến trong cả nước. Vinokourov có thành tích ấn tượng khi thi đấu cho các đội tuyển Telekom/T-Mobile khi bắt đầu sự nghiệp. Anh đã giành huy chương bạc trên đường đua tại Olympic Sydney năm 2000 và về ba tổng thành tích tại Tour de France năm 2003. Sau khi chuyển sang đội Liberty Seguros, Vinokourov đã về thứ 5 tại Tour de France năm 2005, trong khi hai vận động viên trẻ người Kazakhstan khác, Andrej Kashechkin và Maksim Iglinskiy, về thứ 19 và 37. Năm 2006 đội của Vinokourov được đổi tên thành ONC sau một vụ scandal doping buộc đội Liberty Seguros phải rời Tour de France năm 2006. Vinokourov sau đó đã góp sức thành lập một đội mới, Astana, lấy theo tên thành phố thủ đô Kazakhstan và được một nhóm các doanh nghiệp Kazakhstan tài trợ, họ sử dụng màu lá cờ Kazakhstan làm màu chính cho trang phục của đội. Cùng năm ấy Vinokourov và Kashechkin về nhất và thứ ba tổng sắp tại Vuelta a España năm 2006 ở Tây Ban Nha.
Đội đua xe đạp Astana tiếp tục hoạt động dưới bộ máy quản lý mới và tiếp tục gồm các vận động viên đua xe Kazakhstan tham gia vào Grand Tours, dù vị trí lãnh đạo đội đã được chuyển cho Alberto Contador người Tây Ban Nha và Lance Armstrong và Levi Leipheimer người Mỹ. Tuy nhiên, tháng 9 năm 2008, Vinokourov thông báo ý định quay trở lại thi đấu năm 2009, và anh đã quay trở lại vào tháng 8 năm 2009, dù vẫn không được phép tái gia nhập Astana.
- Đấm bốc - Từ khi giành độc lập năm 1991, các vận động viên đấm bốc Kazakhstan đã giành nhiều huy chương. Nhờ thế Kazakhstan nhanh chóng có số lượng huy chương lớn chưa từng có nhờ môn đấm bốc tại các kỳ Olympic, nơi nước này đã nhảy từ những hạng cuối cùng lên vị trí thứ 11 hiện tại trong số các quốc gia tham dự. Hiện tại, 2 vận động viên đấm bốc Kazakhstan (Bakhtiyar Artayev, Vassiliy Jirov) đã giành được Val Barker Trophy, đưa Kazakhstan lên đứng thứ hai với chỉ 3 huy chương phía sau Hoa Kỳ.
- Các môn thể thao trên lưng ngựa cũng rất phổ biến ở Kazakhstan. Từ năm 1993 Liên đoàn Đua ngựa của Cộng hoà Kazakhstan đã tổ chức các sự kiện cấp Quốc gia và Quốc tế các môn Cưới ngựa vượt chướng ngại vật, Dạy ngựa, Thể thao có dùng ngựa và Việt dã.[cần dẫn nguồn]
- Khúc côn cầu - Đội tuyển quốc gia nằm trong số những đội tuyển mạnh nhất và đã hai lần giành huy chương đồng tại Bandy World Championships. Trong thời Liên xô, Dynamo Alma-Ata đã giành chức vô địch quốc gia năm 1977 và 1990.
- Đại hội Thể thao châu Á Mùa đông năm 2011 được tổ chức tại nước này.
Văn hoá

Một bữa tiệc cưới của người Kazakh tại Almaty
Đức tin truyền thống Kazakh cho rằng các linh hồn riêng biệt sinh sống và vận động trên Trái Đất, bầu trời, nước và lửa, cũng như các loài thú nuôi. Tới ngày nay, các buổi lễ dành cho những vị khách đặc biệt tại các vùng nông thôn thường diễn ra như một ngày lễ giết cừu sống. Những vị khách đó thỉnh thoảng được yêu cầu cắt tiết cừu và xin linh hồn của nó cho phép tham dự bữa tiệc bằng thịt của nó. Bên cạnh cừu, nhiều loại thực phẩm truyền thống khác vẫn giữ giá trị biểu tượng trong văn hoá Kazakh.
Trong ẩm thực quốc gia, thịt gia súc có thể được nấu theo nhiều cách và thường được dùng với nhiều loại bánh mì truyền thống. Thức uống thường gồm chè đen và các loại đồ uống từ sửa truyền thống như ayran, shubat và kymyz. Một bữa tối truyền thống của người Kazakh thường gồm nhiều món khai vị trên bàn, tiếp đó là một bát súp và một hay hai món chính như cơm thập cẩm và beshbarmak. Họ cũng uống loại đồ uống truyền thống của mình, từ sửa ngựa lên men.
Vì gia súc là yếu tố trung tâm của phong cách sống truyền thống của người Kazakhs, đa số các lễ nghi, phong tục du mục của họ đều liên quan ở một số mặt tới gia súc. Người Kazakh trong truyền thống rất chuộng môn cưỡi ngựa. Những lời nguyền rủa và chúc phúc truyền thống đều liên quan tới bệnh dịch hay một sự mắn đẻ của các loài gia súc, và cách xử sự tốt là một người đầu tiên hỏi về sức khoẻ của gia súc của một người khác khi chào đón anh ta và chỉ sau đó mới hỏi về cuộc sống của nhau. Thậm chí ngày nay, nhiều người Kazakh vẫn thể hiện sự quan tâm tới truyền thống cưỡi ngựa và đua ngựa.
Kazakhstan là quê hương của nhiều nhân vật có đóng góp to lớn vào văn học, khoa học và triết học: Abay Qunanbayuli, Al-Farabi, Mukhtar Auezov, Gabit Musirepov, Kanysh Satpayev, Mukhtar Shakhanov, Saken Seyfullin, Jambyl Jabayev, cùng nhiều người khác.
Kazakhstan đã phát triển như một thế lực đáng chú ý về thể thao trên trường quốc tế ở những môn sau: đấm bốc, cờ vua, kickbox, trượt tuyết, thể dục, water-polo, đua xe đạp, võ thuật, điền kinh hạng nặng, cưỡi ngựa, ba môn phối hợp, chạy vượt rào, sambo, vật kiểu Hy Lạp-La Mã và billiards. Sau đây là những vận động viên thể thao Kazakhstani nổi tiếng và những người từng đạt huy chương thế giới: Bekzat Sattarkhanov, Vassiliy Jirov, Alexander Vinokourov, Bulat Jumadilov, Mukhtarkhan Dildabekov, Olga Shishigina, Andrey Kashechkin, Aliya Yussupova, Dmitriy Karpov, Darmen Sadvakasov, Yeldos Ikhsangaliyev, Aidar Kabimollayev, Yermakhan Ibraimov, Vladimir Smirnov, và những người khác.
Kazakhstan có một nền âm nhạc sôi động, bằng chứng là sự nổi tiếng của SuperStar KZ, một phiên bản địa phương của Pop Idol của Simon Fuller. Almaty được coi là thủ đô âm nhạc Trung Á, gần đây đã tổ chức những buổi biểu diễn của các nghệ sĩ nổi tiếng như Deep Purple, Tokio Hotel, Atomic Kitten, Dima Bilan, Loon, Craig David, The Black Eyed Peas, Eros Ramazzotti, Jose Carreras, Ace of Base, và những người khác.
Trong những năm gần đây, Kazakhstan đã trải qua cái có thể gọi là một sự phục hồi của ngôn ngữ Kazakh,[39] quay lại với việc sử dụng ngôn ngữ Kazakh trong chính thống cả trong truyền thông, pháp luật và kinh doanh, cũng như trong xã hội nói chung. Điều này được người dân Kazakh và các tổ chức quốc tế ủng hộ mạnh mẽ, coi đó là một sự bảo tồn bản sắc và văn hoá quốc gia, nhưng trong một số trường hợp đã gây ra sự lo ngại của những người Nga-Kazakhstanis, Các nhóm quyền lợi đặc biệt được Nga hậu thuẫn ở Kazakhstan và một số quan chức chính trị cao cấp ở Nga.
Nghị viện đang xem xét việc đưa bảng chữ cái Kazakh dựa trên tiếng Latinh vào thay thế bảng chữ cái ký tự Cyrill. Các lý do thường được đưa ra là những sự cân nhắc về văn hoá và bản sắc tự nhiên Turkic của ngôn ngữ Kazakh. Các ngôn ngữ Turkic như tiếng Thổ Nhĩ Kỳ và tiếng Uzbek sử dụng bảng chữ cái Latinh. Tuy nhiên, việc đưa bảng chữ cái Latinh vào sử dụng ở Kazakhstan sẽ dẫn tới những khoản chi phí rất lớn cho việc chuyển tự và thay thế số lượng to lớn của nền văn học Kazakh.
Ngày nghỉ lễ
Ngày | Tên tiếng Anh | Tên địa phương | Ghi chú |
---|---|---|---|
1 tháng 1 | Năm mới | Жаңа жыл / Новый Год | |
7 tháng 1 | Giáng sinh Chính thống giáo phía đông | Рождество Христово | từ năm 2007 ngày lễ chính thức |
Ngày cuối cùng của Hajj | Qurban Ayt* | Құрбан айт | |
8 tháng 3 | Ngày Quốc tế Phụ nữ | Халықаралық әйелдер күні / Международный женский день | |
22 tháng 3 | Nauryz Meyramy | Наурыз мейрамы | Theo truyền thống là một ngày lễ vào mùa xuân đánh dấu sự bắt đầu một năm mới, thỉnh thoảng diễn ra muộn tận ngày 21 tháng 4. |
1 tháng 5 | Ngày Thống nhất của Nhân dân Kazakhstan | Қазақстан халқының бірлігі мерекесі / Праздник единства народа Казахстана | |
9 tháng 5 | Ngày Chiến thắng Chủ nghĩa Phát xít trong Cuộc chiến tranh Giữ nước Vĩ đại | Жеңіс күні / День Победы | Một ngày lễ ở Liên xô cũ vẫn được đón chào hiện nay ở Kazakhstan và các nước cộng hoà cũ (Ngoại trừ các Quốc gia vùng Baltic). |
6 tháng 7 | Ngày Thành phố Thủ đô | Астана күні / День столицы | Ngày sinh Tổng thống Đầu tiên |
30 tháng 8 | Ngày Hiến pháp | Қазақстан Республикасының Конституциясы күні / День Конституции Республики Казахстан | |
16 tháng 12 | Ngày Độc lập | Тәуелсіздік күні / День независимости |
Xem thêm
- .kz
- Internet tại Kazakhstan
- Kazpost
- Truyền thông Kazakhstan
- Ga đường sắt tại Kazakhstan
- Viễn thông Kazakhstan
- Vận tải Kazakhstan
Thư mục
|
|
Tham khảo
- ^ Zarakhovich, Yuri (27 tháng 9, 2006). "Kazakhstan Comes on Strong", Time Magazine.
- ^ Medvedev Visit Underscores Kazakh Victory Over Uzbekistan For Regional Dominance Radio Free Europe/Radio Liberty
- ^ CIA, The Word Factbook. Available at https://www.cia.gov/library/publications/the-world-factbook/geos/kz.html
- ^ Hiến pháp Kazakhstan: 1. Ngôn ngữ nhà nước của Cộng hoà Kazakhstan là tiếng Kazakh. 2. Trong các định chế nhà nước và các cơ quan tự quản địa phương tiếng Nga cũng được chính thức sử dụng trên những cơ sở bình đẳng với tiếng Kazakh. Có tại http://www.kazakhstan.orexca.com/kazakhstan_constitution.shtml
- ^ Paul Brummell, Bradt Kazakhstan, trang 6
- ^ Barry Strauss, The Battle of Salamis: The Naval Encounter That Saved Greece -- and Western Civilization, trang 46
- ^ Paul Brummell, Bradt Kazakhstan, trang 30
- ^ Paul Brummell, Bradt Kazakhstan, trang 7
- ^ Esther Jacobson, The art of the Scythians: the interpenetration of cultures at the edge of the Hellenic world, trang 314
- ^ Avner Falk, A psychoanalytic history of the Jews, trang 209
- ^ Nobel, Thomas F. X. Noble, Western Civilization: To 1715, trang 121
- ^ World War 3 web site.
- ^ Central Asia-Caucasus Institute briefing, 5 tháng 7, 2000.
- ^ RFE Newsline, 12 tháng 4, 1996.
- ^ Kazakhstan's Nazarbayev Wins Re-election With 91% of Vote
- ^ BBC NEWS World|Asia-Pacific|Kazakh poll fairness questioned
- ^ BBC NEWS World|Asia-Pacific|Q&A: Kazakhstan parliamentary election
- ^ Background Note: Kazakhstan
- ^ The official site of Almaty city: History
- ^ Mineral Wealth.
- ^ International Crisis Group. 2007. Central Asia’s Energy Risks, Asia Report No. 133. May. Available on-line at http://www.crisisgroup.org/
- ^ British Petroleum (BP). 2006. World Oil Production. Database on-line. Available at http://www.bp.com/
- ^ Blank, Stephen (27 tháng 4, 2005). “Kazakhstan's Foreign Policy in a Time of Turmoil”. EurasiaNet.
- ^ Cohen, Ariel (7 tháng 10, 2008). “Kazakh foreign minister insists balanced foreign policy remains intact”. Business News Europe.
- ^ “Customs Union of Kazakhstan, Russia and Belarus to begin work in 2010”. Kazakhstan Today. 7 tháng 4, 2009.
- ^ Kazakhstan Today: 16 million 402 ngàn 861 people registered in Kazakhstan
- ^ Kazakhstan's News Bulletin, 20 tháng 4, 2007
- ^ Kazakhstan's `forgotten Poles' long to return
- ^ Remembering Stalin's deportations, BBC News, 23 tháng 2, 2004
- ^ Politics, economics and time bury memories of the Kazakh gulag, International Herald Tribune, 1 tháng 1, 2007
- ^ Robert Greenall, Russians left behind in Central Asia, BBC, 23 tháng 11, 2005
- ^ Kazakhstan: Special report on ethnic Germans, IRIN Asia, 1 tháng 2, 2005
- ^ Surucu, Cengiz (December năm 2002). “Modernity, Nationalism, Resistance: Identity Politics in Post-Soviet Kazakhstan”. Central Asian Survey 21: 385–402. doi:10.1080/0263493032000053208.
- ^ a ă â b Religious Situation Review in Kazakhstan Congress of World Religions. Truy cập 2009-09-07.
- ^ International Religious Freedom Report 2009 - Kazakhstan U.S. Department of State. 2009-10-26. Truy cập 2009-11-05.
- ^ a ă â Kazakhstan - International Religious Freedom Report 2008 U.S. Department of State. Truy cập 2009-09-07.
- ^ Islam in Kazakhstan Truy cập 2009-09-07.
- ^ The Customs and Traditions of the Kazakh By Betsy Wagenhauser
- ^ Kazakhstan officials adopt low-key language policy EnerPub - Energy Publisher
Liên kết ngoài
Tìm thêm về Kazakhstan tại những đồng dự án của Wikipedia: | |
![]() |
Từ điển ở Wiktionary |
![]() |
Sách ở Wikibooks |
![]() |
Cẩm nang du lịch ở Wikivoyage |
![]() |
Hồ sơ ở Wikiquote |
![]() |
Văn kiện ở Wikisource |
![]() |
Hình ảnh và phương tiện ở Commons |
![]() |
Tin tức ở Wikinews |
![]() |
Tài liệu giáo dục ở Wikiversity |
- Chính phủ
- Bộ Ngoại giao Cộng hòa Kazakhstan
- E-Government của Cộng hòa Kazakhstan
- Chính phủ Kazakhstan
- Chủ tịch nước Cộng hòa Kazakhstan
- Chief of State and Cabinet Members
- Thông tin chung
- 2008 Human Rights Report: Kazakhstan. Department of State; Bureau of Democracy, Human Rights and Labor
- Country Profile trên BBC News
- Mục “Kazakhstan” trên trang của CIA World Factbook.
- Thông tin về Kazakhstan từ Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ
- Portals to the World từ Thư viện Quốc hội Mỹ
- Kazakhstan tại UCB Libraries GovPubs
- Kazakhstan tại DMOZ (trang đề nghị)
Wikimedia Atlas của Kazakhstan, có một số bản đồ liên quan đến Kazakhstan.
![]() |
Wikivoyage có chỉ dẫn du lịch về Kazakhstan |
Bản mẫu:Chủ đề Kazakhstan
|
|
|
Thể loại:
Bahrain tên đầy đủ là Vương quốc Bahrain (tiếng Ả Rập: مملكة البحرين; Tiếng Việt: Vương quốc Ba-ranh; Hán-Việt: Ba Lâm Vương quốc), là một đảo quốc tại Vịnh Ba Tư (Tây Á/Trung Đông). Ả Rập Saudi nằm ở phía tây và nối với Bahrain bởi Đường đê Vua Fahd (chính thức mở cửa ngày 25 tháng 11 năm 1986), và Qatar ở phía nam qua Vịnh Ba Tư. Chiếc Cầu hữu nghị Qatar–Bahrain, hiện đang được lên kế hoạch, với đường nối Bahrain tới Qatar là đường nối dài nhất thế giới.
Vị trí chiến lược của nó tại Vịnh Ba Tư đã khiến cho người Assyria, người Babylon, người Hy Lạp, người Ba Tư, và cuối cùng là người Ả Rập tìm cách chiếm quyền kiểm soát và gây ảnh hưởng lên nó. Ở thời Ả Rập cuối cùng, hòn đảo này trở thành một địa điểm của Hồi giáo. Bahrain thời xưa từng được gọi là Dilmun, Tylos (tên do người Hy Lạp đặt), Awal, cũng như tên Mishmahig trong tiếng Ba Tư khi nó rơi vào tay Đế chế Ba Tư.
Hòn đảo Bahrain, nằm ở điểm giữa phía nam Vịnh Ba Tư, đã lôi kéo sự chú ý của nhiều kẻ xâm lược trong lịch sử. Bahrain trong tiếng Ả Rập có nghĩa là "Hai Biển", và được cho là để chỉ thực tế là hòn đảo này có hai nguồn nước, những suối nước ngọt và nước mặn ở những vùng biển xung quanh, hay vùng biển ở phía nam ngăn cách nó với bờ biển Ả Rập còn vùng biển phía bắc ngăn cách nó với Iran.
Một vị trí chiến lược giữa Đông và Tây, một hòn đảo màu mỡ, nguồn nước ngọt, một nguồn lợi về ngọc trai đã biến Bahrain thành một trung tâm định cư thành thị trong suốt lịch sử. Khoảng 2.300 năm trước Công Nguyên, Bahrain đã trở thành một trung tâm của các đế chế thương mại giữa Lưỡng Hà (I-rắc hiện nay) và lưu vực sông Ấn Độ (hiện ở Pakistan). Đây là nền văn minh Delmon có quan hệ với Nền văn minh Sumer ở thiên niên kỷ thứ ba trước Công Nguyên. Bahrain đã trở thành một phần của Đế chế Babylon khoảng năm 600 trước Công Nguyên. Những ghi chép lịch sử coi Bahrain là "Cuộc sống bất từ", "Thiên đường", vv. Bahrain cũng được gọi là "Hòn ngọc Vịnh Ba Tư".
Tới tận năm 1521, Bahrain là một vùng lớn hơn gồm cả Ahsa, Qatif (cả hai hiện là tỉnh phía đông của Ả Rập Saudi) cũng như Awal (hiện là đảo Bahrain). Vùng này trải dài từ Basrah tới Eo biển Hormuz ở Oman. Đây từng là Iqlim Al-Bahrain (Tỉnh Bahrain) và người Ả Rập sống ở tỉnh này tất cả đều được gọi là người Bahrain, là con cháu của những bộ lạc Ả Rập Bani Abd Al-Qais. Năm 1521, người Bồ Đào Nha chinh phục Awal và từ đó cái tên Bahrain trở thành chính thức cho đến nay.
Từ thế kỷ 16 đến năm 1743 quyền kiểm soát Bahrain lần lượt qua tay người Bồ Đào Nha và Ba Tư. Cuối cùng, vua Ba Tư Nadir Shah xâm chiếm và kiểm soát Bahrain và vì muốn kiểm soát chính trị đã ủng hộ cộng đồng Shia đa số. Tới cuối thế kỷ 18 dòng họ Al-Khalifa tấn công và chiếm hòn đảo từ nước Qatar láng giềng. Để giữ Bahrain khỏi rơi lại vào tay Ba Tư, các tiểu vương quốc Ả Rập tham gia vào một hiệp ước về quan hệ với Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ai Len và trở thành một nước bảo hộ của Anh.
Dầu khí được phát hiện ở đây năm 1932 (xem: Giếng dầu đầu tiên) và mang lại sự hiện đại hoá và cải thiện nhanh chóng cho Bahrain. Nó cũng khiến cho những quan hệ với Anh trở nên gần gũi hơn, bằng chứng ở hành động chuyển nhiều cơ sở của Anh sang hòn đảo này. Ảnh hưởng của Anh tiếp tục tăng lên khi đất nước phát triển, lên tới cực điểm với việc chỉ định Charles Belgrave làm cố vấn; Belgrave đã lập ra một hệ thống giáo dục hiện đại ở Bahrain.
Sau Thế chiến thứ hai, tình cảm chống Anh ngày càng tăng và phát triển khắp thế giới Ả Rập dẫn tới những cuộc bạo động ở Bahrain. Năm 1960, Anh đưa tương lai Bahrain ra trước một cơ quan trọng tài quốc tế và yêu cầu Tổng thư ký Liên hiệp quốc lãnh trách nhiệm này. Năm 1970, Iran cùng lúc tuyên bố chủ quyền đối với cả Bahrain và các hòn đảo khác tại Vịnh Ba Tư, tuy nhiên, trong một thoả thuận với Anh nước này đã chấp nhận "không theo đuổi" chủ trương đòi lại Bahrain nếu các nước tuyên bố khác cũng chấp nhận như vậy. Trong cuộc trưng cầu dân ý diễn ra sau đó người dân Bahrain đã xác nhận quyền độc lập của quốc gia mình khỏi Anh và các thực thể Ả Rập của họ. Tới ngày nay, Bahrain vẫn là một thành viên của Liên đoàn Ả Rập và Hội đồng hợp tác vùng vịnh của tất cả các nước Ả Rập.
Người Anh rút khỏi Bahrain ngày 15 tháng 8 năm 1971, biến Bahrain trở thành một tiểu vương quốc Ả Rập độc lập. Cuộc bùng nổ dầu khí trong thập kỷ 1980 đã mang lại nguồn lợi lớn cho Bahrain, nhưng sự suy sụp của nó cũng rất tồi tệ. Tuy nhiên, nước này đã bắt đầu đa dạng hoá nền kinh tế của mình và đã thu được lợi ích từ cuộc Nội chiến Liban đã bắt đầu từ thập kỷ 1970; Bahrain thay thế Bê-rút trở thành trung tâm tài chính Trung Đông khi lĩnh vực ngân hàng của Liban phải rút khỏi nước này vì nội chiến.
Sau cuộc Cách mạng Hồi giáo năm 1979 ở Iran, những người Shia Bahrain theo trào lưu chính thống tổ chức một cuộc đảo chính bất thành năm 1981 dưới sự bảo trợ của một tổ chức mặt trận, Mặt trận Hồi giáo giải phóng Bahrain. Cuộc đảo chính đã khiến một tu sĩ Shia đang sống lưu vong ở Iran là Hojjat ol-Eslam Hādī al-Mudarrisī, trở thành lãnh đạo tối cao của chính phủ thần quyền.
Năm 1994 một làn sóng bạo loạn của những người Hồi giáo Shi'a bất mãn nổi lên vì những hành động bị cho là không công bằng của chính phủ. Vương quốc đã bị ảnh hưởng lớn bởi những vụ bạo lực không thường xuyên trong thời gian giữa thập niên 1990, trong đó hơn bốn mươi người đã chết dưới tay chính phủ và hàng trăm người khác bị bắt giam.
Năm 1999, Sheik Isa ibn-Sulman al- Khalifah qua đời sau bốn thập kỉ cầm quyền. Sheik Hamad ibn al-Khalifah trở thành người kế vị. Tháng 3 năm 1999, Hamad ibn Isa al-Khalifah kế tục cha trở thành lãnh đạo của nhà nước và tiến hành các cuộc bầu cử nghị viện, trao cho phụ nữ quyền bầu cử và thả các tù nhân chính trị; những hành động được tổ chức Ân xá quốc tế mô tả là thể hiện một "giai đoạn lịch sử về quyền con người". Việc này khiến đất nước có một cơ hội lớn để tiến bước, dù còn đôi chút ngập ngừng [1], về phía một sự nhất trí chính trị.
Sheik Hamad tiến hành cuộc cải cách dân chủ trên cả nước: sự kiểm duyệt được nới lỏng và các luật lệ hà khắc được thay thế, những người lưu vong trở về nước. Cuộc trưng cầu ý dân tháng 2 năm 2001 cho phép phụ nữ Bahrain lần đầu tiên được quyền bỏ phiếu, nhân dân Bahrain ủng hộ việc chuyển đổi chính thể quân chủ chuyên chế sang chính thể quân chủ lập hiến. Tháng 10 năm 2002, cuộc bầu cử Quốc hội lần đầu tiên diễn ra tại Bahrain kể từ năm 1973. Trong số 177 ứng cử viên, có 8 phụ nữ. Đây là lần đầu tiên phụ nữ Bahrain được quyền bỏ phiếu và ra tranh cử trong cuộc bầu cử toàn quốc.
Việc mở cửa chính trị khiến cả dòng Hồi giáo Shia và Sunni đều đạt thắng lợi trong bầu cử, khiến họ có đủ lực lượng cần thiết trong nghị viện để theo đuổi các chính sách của riêng mình. Điều này có nghĩa rằng cái gọi là "các vấn đề đạo đức" đã trở thành một vấn đề chính trị được xếp lịch bàn thảo trong nghị viện và các đảng đã tung ra các chiến dịch nhằm áp đặt các đạo luật cấm bày ma-nơ-canh phụ nữ trong các cửa tiệm để trưng bày quần áo hay treo quần áo lót trên dây phơi. Các nhà phân tích về quá trình dân chủ hóa ở Trung Đông trích dẫn những hành động cấm đoán đó của đạo Hồi như dẫn chứng về việc tôn trọng nhân quyền trong các bản báo cáo của họ và cho rằng đó là bằng chứng cho thấy các nhóm đạo Hồi đó ngày càng trở thành một lực lượng lớn mạnh trong vùng.
Các đảng tự do Bahrain đã phản ứng trước sự tăng cường quyền lực của các đảng tôn giáo cực đoan đó bằng cách tự tập hợp với nhau thông qua xã hội dân sự nhằm mục đích bảo vệ các quyền tự do cơ bản của con người khỏi bị pháp luật cấm đoán. Tháng 11 năm 2005, Al Muntada, một nhóm hàn lâm tự do đã tung ra chiến dịch "We Have A Right" nhằm giải thích với công chúng tại sao các tự do cá nhân có ý nghĩa quan trọng và tại sao chúng cần được bảo vệ.
Cả hai phái Hồi giáo Sunni và Shia đều đã gặp phải thất bại vào tháng 3 năm 2006 khi hai mươi thủ lĩnh hội đồng địa phương, đa số trong số hộ đại diện cho các đảng tôn giáo cực đoan, đã bị mất tích khi dừng chân không chủ định tại Băng Cốc trên đường quay trở về sau khi tham dự một hội nghị ở Malaysia [2]. Sau khi các thủ lĩnh mất tích đã về nước, họ đã biện hộ cho sự ở lại Băng Cốc của mình, nói với các nhà báo rằng nó là một "công tác đi tìm sự thật", giải thích: "Chúng tôi đã thu được rất nhiều từ chuyến đi tới Thái Lan bởi vì chúng tôi đã thấy được cách họ điều hành hệ thống giao thông, phong cảnh và đường xá."
Quyền chính trị của phụ nữ ở Bahrain đã có một tiến bộ quan trọng khi phụ nữ được trao quyền bầu cử và ứng cử trong các cuộc bầu cử quốc gia lần đầu tiên từ cuộc bầu cử năm 2002. Tuy nhiên, trong cuộc bầu cử năm đó, không phụ nữ nào trúng cử mà đa số thành viên nghị viện đều là người Hồi giáo dòng Sunni. Để bù trừ cho sự thất cử của các ứng cử viên nữ, sáu người trong số họ được chỉ định vào Hội đồng Shura, cũng bao gồm các đại diện của các cộng đồng thiểu số khác trong Vương quốc như Do Thái và Thiên chúa giáo. Người phụ nữ đầu tiên trong nước tham gia chính phủ là Bác sĩ Nada Haffadh, bà đảm nhiệm chức Bộ trưởng y tế từ năm 2004, trong khi một cơ cấu bán chính phủ của phụ nữ, Hội đồng phụ nữ tối cao, muốn đào tạo các ứng cử viên nữ cho cuộc tổng tuyển cử năm 2006.
Gần đây nhà vua đã lập ra Hội đồng Tòa án Tối cao để quản lý các tòa án trong nước và thể chế hóa sự phân biệt giữa hành chính và các nhánh tòa án của chính phủ.
Ngày 11-12 tháng 11 năm 2005, Bahrain tổ chức Hội nghị cho Tương lai tụ họp các lãnh đạo từ các quốc gia Trung Đông và các nước G8 để bàn bạc về cải cách kinh tế và chính trị trong vùng.
Để biết thêm thông tin, xem: Decree-Law establishing governorates từ website chính thức của Bahrain.
Tại Bahrain, sản xuất dầu mỏ và chế biến chiếm khoảng 60% lượng xuất khẩu, 60% thu nhập chính phủ và 30% GDP. Các điều kiện kinh tế thay đổi liên tục cùng với sự biến động giá dầu từ năm 1985, ví dụ, trong và sau cuộc khủng hoảng Vùng Vịnh năm 1990-91. Với hạ tầng viễn thông và giao thông phát triển cao, Bahrain là nơi đóng trụ sở của nhiều công ty đa quốc gia làm ăn tại Vùng Vịnh. Một phần lớn xuất khẩu đến từ các sản phẩm chế biến từ dầu thô. Công việc xây dựng đang tiến hành trên nhiều dự án công nghiệp. Thất nghiệp, đặc biệt trong giới trẻ và sự giảm sút của cả dầu thô và nguồn nước ngầm hiện là những vấn đề kinh tế dài hạn.
Được coi là một trong 15 nước hình thành nên cái gọi là "Cái nôi của Nhân loại" ở Trung Đông, Bahrain có tổng diện tích 765,3 km² (266 mi²), hơi lớn hơn Đảo Man, dù nó nhỏ hơn Sân bay Vua Fahd ở Dammam, Ả Rập Saudi nằm bên cạnh với diện tích 780 km² (301 mi²). Vì là một quần đảo với 33 hòn đảo, Bahrain không hề có biên giới đất liền với một quốc gia nào nhưng có 161 kilômét (528 dặm) đường bờ biển và tuyên bố thêm 12 hải lý (22 km) lãnh hải và 24 hải lý (44 km) vùng tiếp giáp. Bahrain có mùa đông dịu và mùa hè nóng, ẩm kéo dài.
Các nguồn tài nguyên thiên nhiên của Bahrain gồm một lượng lớn dầu mỏ và khí ga tự nhiên cũng như nguồn cá phong phú, có lẽ đây là một điều kiện thuận lợi bởi vì đất canh tác chỉ chiếm 1% diện tích lãnh thổ và những đợt hạn hán hàng năm cũng như những cơn bão cát là thiên tai chủ yếu của cho người Bahrain.
Các vấn đề môi trường Bahrain hiện đối mặt là tình trạng sa mạc hóa kết quả từ quá trình thoái hóa đất canh tác và thoái hóa bờ biển (đe dọa đường bờ biển, dải san hô và thực vật biển) từ vụ làm đổ, làm tràn dầu thô và các hoạt động khác của tàu chở dầu. Nông nghiệp và các lĩnh vực khác sử dụng quá nhiều nguồn nước ngầm đã dẫn tới tình trạng xâm nhập của nước mặn.
Gần đây, Bahrain đã chuyển đổi trở thành một xã hội đa chủng với nhiều cộng đồng pha trộn: hai phần ba dân số Bahrain là người Ả Rập, phần còn lại là công nhân và dân nhập cư đa số đến từ Iran, Nam Á và Đông Nam Á. Một bài báo trên tờ Financial Times xuất bản ngày 31 tháng 5 năm 1983 cho rằng "Bahrain là một quốc gia đa chủng, cả về tôn giáo và chủng tộc. Nếu không tính những người mới nhập cư trong 10 năm qua, ít nhất có tám hay chín cộng đồng hiện sống trên hòn đảo này."
Các cộng đồng hiện tại có thể được phân loại thành Al-Khalifa (các bộ tộc Ả Rập liên minh với Al-Khalifa), Baharnah (người Ả Rập Shia), Howilla (người Ả Rập Sunni từ Ba Tư), người Ả Rập Sunni (từ lục địa), Ajam (dân tộc Shia Ba Tư), những người Ấn Độ đã buôn bán với Bahrain và định cư ở đó trước giai đoạn dầu mỏ (thường được gọi là Banyan), một cộng đồng Do Thái nhỏ, và một nhóm pha tạp khác.
Còn quá sớm để nói rằng sự tự do hóa chính trị của Vua Hamad bin Isa Al Khalifa sẽ làm gia tăng hay giảm bớt tính đa nguyên truyền thống của Bahrain. Không gian chính trị mới của người Hồi giáo Shia và Sunni có nghĩa rằng hiện nay họ đang có một vị trí mạnh hơn trước để theo đuổi các chương trình có mục tiêu đương đầu trực tiếp với chủ nghĩa đa nguyên đó, cùng lúc các cải cách chính trị đã khuyến khích một khuynh hướng đối lập để xã hội trở nên có tính tự phê bình cao hơn cùng một tham vọng xem xét lại những cấm kỵ xã hội trước đó. Hiện nay có nhiều hội thảo về các chủ đề trước kia chưa từng được đả động tới như các vấn đề hôn nhân và sex và lạm dụng trẻ em. Một khía cạnh khác của sự mở cửa mới đây là số lượng sách xuất bản của Bahrain lớn nhất trong thế giới Ả Rập, với 132 cuốn sách xuất bản năm 2005 cho một dân số 700,000 người. So sánh với, mức trung bình cho toàn bộ thế giới Ả Rập là bảy cuốn sách trên một triệu người năm 2005, theo Chương trình phát triển Liên hiệp quốc. [3]
Ngày 20 tháng 10 năm 2005 Michael Jackson đã bày tỏ ý định rời Hoa Kỳ để tìm kiếm một cuộc sống mới tại Bahrain. Theo các nguồn thông tin, Jackson đã nói với bạn bè rằng mình cảm thấy "ngày càng trở thành một người Bahrain" sau khi mua một biệt thự tại Sanad, và hiện đang tìm kiếm một bất động sản khác ở gần bờ biển. Những nhân vật nổi tiếng khác có liên quan tới vương quốc này gồm tay đua Công thức 1 Jenson Button, người cũng sở hữu một bất động sản, và Shakira (để thêm chi tiết xem Danh sách những người nổi tiếng có liên quan đến Bahrain).
Các tầng lớp trung lưu thường có một quan điểm rất toàn cầu, và với việc nhạc rap đang trở nên phổ biến trong giới trẻ Bahrain. [4]
Người Hồi giáo Bahrain thuộc hai dòng chính là Shia và Sunni. Không có con số chính thức, nhưng ước tính người Shia chiếm 66-70% trong tổng số tín đồ Hồi giáo nước này, còn lại là người Sunni.[4] Người nước ngoài, chủ yếu từ Nam Á và các nước Ả Rập khác, tạo thành một cộng đồng chiếm đến 54% dân số trong năm 2010.[1] Trong số này, 45% là người Hồi giáo và 55% là không theo đạo Hồi,[1] bao gồm cả Kitô hữu (chủ yếu là: Thiên Chúa giáo, Tin Lành, Chính Thống Syria, và giáo phái Mar Thoma từ miền Nam Ấn Độ), đạo Hindu, Baha'is, Phật giáo, và đạo Sikh.[5]
Các trường Côran (Kuttab) từng là hình thức giáo dục duy nhất ở Bahrain vào đầu thế kỷ 20. Chúng là các trường truyền thống với mục đích dạy trẻ em và thanh niên đọc kinh Côran. Nhiều người Bahrain đã thấy rằng kiểu giáo dục này không đáp ứng nhu cầu giáo dục hàn lâm của thời đại. Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, mọi thứ đã thay đổi và Bahrain trở nên mở rộng hơn cùng với sự phục hồi của các nước phương tây. Những thay đổi về chính trị và xã hội đã xảy ra trong đất nước gây nên sự tăng cường nhận thức về xã hội và văn hóa trong nhân dân.
Vì những lý do đó, một nhu cầu về các cơ sở giáo dục hiện đại khác biệt cả về hệ thống, mục tiêu và chương trình giảng dạy so với (Kuttab) trước kia đã xuất hiện.
Năm 1919 đánh dấu sự khởi đầu của hệ thống trường công hiện đại ở Bahrain. Trường Al-Hidaya Al-Khalifia cho trẻ em nam đã được mở cửa ở Muharraq. Năm 1926, Ủy ban giáo dục đã mở một trường thứ hai cho các em nam tại Ma-na-ma.
Năm 1928 trường công đầu tiên cho các em nữ được mở cửa tại Muharraq.
Tổ chức giáo dục cao học đầu tiên ở Bahrain, Trường bách khoa Vùng Vịnh, được hoàn thành năm 1968 với cái tên Đại học kỹ thuật Vùng Vịnh. Năm 1986 Trường bách khoa Vùng Vịnh sáp nhập với Đại học Nghệ thuật, Khoa học và Giáo dục, được thành lập năm 1979, để tạo nên Đại học Bahrain, một đại học quốc gia có khả năng đào tạo các cử nhân văn chương và cử nhân khoa học cũng như đào tạo ở trình độ thạc sĩ.
Ngày nay, có nhiều trường tư tại Isa Town, một trong những trường nổi tiếng là Indian School
Bahrain là một sự hòa hợp giữa hạ tầng hiện đại và một xã hội khá tự do cùng với sự gần gũi với Vùng Vịnh khiến nó trở thành một nơi lý tưởng để thâm nhập vào Trung Đông. Những địa điểm thu hút nhiều du khách như pháo đài Qalat Al Bahrain mới được UNESCO liệt vào danh sách di sản văn hóa thế giới và nhiều khu vực khảo cổ khác thể hiện văn hóa truyền thống Ả rập. Du khách còn có cơ hội mua sắm trong các trung tâm thương mại và các khu chợ truyền thống khác cũng như nghỉ ngơi giải trí tại nhiều khách sạn và khu du lịch hiện đại.
Bahrain cũng có một bãi biển nổi tiếng ở Zallaq.
Chính phủ
Thông tin chung
Loạn An Sử (chữ Hán: 安史之亂: An Sử chi loạn) là cuộc biến loạn xảy ra giữa thời nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc, kéo dài từ năm 755 đến năm 763, do họ An và họ Sử cầm đầu. Cả họ An và họ Sử đều xưng là Yên Đế trong thời gian nổi dậy.
Không chỉ riêng vua Huyền Tông, những người trong tông thất và quan lại đều có đời sống xa xỉ. Cùng lúc, nhà Đường vẫn gây những cuộc chiến với các nước xung quanh khiến chi phí của triều đình ngày càng nhiều, sức ép về tài chính ngày càng đè nặng. Để giải quyết sự mất cân đối giữa thu và chi, triều đình tăng mức sưu thuế mà nhân dân phải đóng góp. Nhiều quan lại địa phương nhân lệnh tăng thuế của triều đình trung ương để tăng cường vơ vét của dân làm giàu. Một số người dân không chịu nổi mức thuế cao phải bỏ trốn. Để bù phần thiếu hụt của những người bỏ trốn, triều đình lại bắt chia số thiếu của người bỏ trốn đánh đều vào những người xung quanh. Bị bóc lột nặng nề hơn, những người sống yên lành lúc đó không còn chịu nổi sưu cao thuế nặng cũng buộc phải bỏ trốn theo những người kia[2].
Thậm chí có viên tướng Vương Hỏng giữ chức Hộ khẩu sắc dịch sứ còn ra lệnh truy thu thuế với những người lính chết trận mà chưa được tướng chỉ huy ngoài vùng biên cương xóa bỏ hộ tịch, trong đó có người bị truy thu thuế tới 30 năm. Ngoài sưu thuế, người dân còn phải chịu chế độ binh dịch rất nặng nề. Điều đó khiến mâu thuẫn giữa chính quyền nhà Đường và nhân dân ngày càng sâu sắc[2].
Từ thời nhà Tùy, có nhiều người Đột Quyết đã di cư tới phía bắc U châu; tại Liêu Tây có nhiều người Hề và người Khiết Đan đến cư trú. Họ vẫn bảo lưu tập tục truyền thống của mình. Cuối thế kỷ 7 từng xảy ra việc ngược đãi người dị tộc của tướng nhà Đường khiến họ nổi dậy chống lại. Khi mới lên ngôi, Đường Huyền Tông đã dàn xếp được mâu thuẫn tạm thời, nhưng tới những năm Thiên Bảo tình hình lại căng thẳng.
Trước đây nhà Đường thịnh hành một nguyên tắc "trong nặng ngoài nhẹ" cho người lính luân phiên chịu binh dịch và làm ruộng; nhưng sau đó áp dụng chế độ mộ binh khiến người lính trở thành những quân nhân chuyên nghiệp. Chế độ này tuy nâng cao tinh thần chiến đấu của binh sĩ, nhưng mặt khác lại khiến người lính phụ thuộc nhiều hơn vào thủ lĩnh chỉ huy chứ không phụ thuộc vào triều đình. Hơn nữa, Đường Huyền Tông ham mở rộng lãnh thổ, cho các tướng tự mình mộ binh và nuôi quân để lập công, nên binh lực các trấn ngoài biên của các tướng địa phương ngày càng mạnh. Theo thống kê những năm đầu niên hiệu Thiên Bảo, binh lực của các trấn vùng biên có tới 49 vạn, trong khi quân triều đình trung ương do nhà Đường trực tiếp quản lý tại kinh thành và các châu chỉ có 8 vạn người[4]. Con số chênh lệch đó phản ánh rõ tình trạng "trong nhẹ ngoài nặng".
Ngoài quân sĩ, Đường Huyền Tông còn nghe theo Lý Lâm Phủ ra quyết sách sai lầm trong chính sách nhân sự với các tướng sĩ. Từ khi nhà Đường khai lập, các tướng trông giữ biên cương đều là những trung thần có đủ tài đức. Do đó sau một thời gian họ lập công ngoài biên ải, triều đình đều triệu về cho giữ chức vụ cao, kể cả Tể tướng, như Lý Tĩnh, Lý Tích, Lưu Nhân Quỹ, Lâu Sư Đức, Tiết Nột, Quách Nguyên Chấn, Trương Gia Trinh, Trương Duyệt, Tiêu Khao… Đối với các Phiên tướng (tướng người thiểu số), dù họ có lòng trung thành, nhà Đường vẫn luôn khống chế chức vụ, dù để họ làm tướng cầm quân nhưng vẫn phân công một đại thần người Hán đi kèm giữ vai trò thống soái nhằm kiềm chế họ[5].
Chính sách này giúp hạn chế tình trạng cát cứ của các tướng lĩnh địa phương, không ai nắm quyền ngoài biên ải quá lâu; và các tướng người thiểu số có sự giám sát. Nhưng đến khi Lý Lâm Phủ làm Tể tướng sợ các tướng ngoài biên ải về giành mất ngôi đầu triều của mình, nên kiến nghị Huyền Tông áp dụng chính sách dùng các tướng "người Hồ" làm thống soái ngoài biên cương, không khống chế họ ở dưới một đại thần người Hán của triều đình nữa. Lý do Lý Lâm Phủ nêu ra là các tướng người Hồ dũng cảm thiện chiến, không có mối quan hệ xã hội phức tạp ở trung nguyên, không biết chữ Hán, cô lập không có bè cánh, như vậy đáng tin cậy hơn các tướng người Hán. Đường Huyền Tông nghe theo. Các tướng người Hồ dù lập nhiều công nhưng không có cơ hội về triều trở thành Tể tướng do trình độ văn hóa thấp và điều đó khiến Lý Lâm Phủ yên tâm với ngôi vị của mình[5].
Ngay trước khi Lâm Phủ nêu kiến nghị này, đã xảy ra vụ án tướng Vương Thừa Tự đang làm Tiết độ sứ Hà Tây bị vu cáo muốn dùng binh lực bản bộ giúp Thái tử lên ngôi hoàng đế. Đường Huyền Tông không xét đoán đã ra lệnh bắt ngay Vương Thừa Tự xử tử. Đúng lúc đó nghe kiến nghị của Lý Lâm Phủ, Huyền Tông lập tức chấp nhận, bèn đề bạt các tướng người Hồ như An Lộc Sơn, An Tư Thuận, Kha Thư Hàn, Cao Tiên Chi làm đại tướng. Các tướng người Hồ, điển hình là An Lộc Sơn, có cơ hội phát triển lực lượng riêng vùng biên ải ngày càng trở nên lớn mạnh ngoài sự khống chế của triều đình[5].
Đương thời 10 trấn nhà Đường năm 742 dưới thời Đường Huyền Tông có thực lực quân sự như sau[6]:
Lộc Sơn đầu quân làm tướng nhà Đường, nhờ chiến đấu dũng cảm và tỏ ra trung thành nên nhanh chóng được thăng tiến. Từ năm 740 đến năm 751, An Lộc Sơn được thăng từ đô đốc Doanh châu lên Tiết độ sứ ba trấn Phạm Dương, Hà Đông và Bình Lư, nắm toàn bộ vùng đông bắc Trung Quốc khi đó.
Tuy có trí thông minh nhưng Lộc Sơn luôn tỏ ra vụng về ngốc nghếch khiến Đường Huyền Tông rất tin tưởng và nhận ông làm con nuôi. Vợ Huyền Tông là Dương Quý Phi trở thành mẹ nuôi của Lộc Sơn, dù kém ông 16 tuổi. Tuy nhiên chính từ lúc ra vào triều kiến vua Đường, Lộc Sơn và Dương Quý Phi bắt đầu có quan hệ lén lút[7] nhưng Huyền Tông không hề nghi ngờ mà càng thêm tín nhiệm Lộc Sơn[8]. An Lộc Sơn to béo bụng phệ, theo sử sách ghi lại thì người nặng tới 330 cân[9]. Huyền Tông thấy vậy hỏi, Lộc Sơn lại mau miệng đáp rằng bụng to vì mang lòng trung với vua Đường. Huyền Tông nghe thế lại càng tin Lộc Sơn.
Để sau này có đường lui, dựa vào sự tín nhiệm hiện tại của Đường Huyền Tông, An Lộc Sơn bắt đầu xây dựng thực lực riêng cho mình. Ông thu dụng những văn sĩ bất mãn người Hán như Nghiêm Trang, Cao Thượng, Trương Thông Nho, Lý Đình Kiên làm mưu sĩ.
Với khả năng biết tới 6 thứ tiếng các tộc thiểu số, ông ra sức chiêu dụ các quân nhân người tộc này. Sau các trận đánh có quân đầu hàng hoặc bị bắt, đích thân ông dùng ngôn ngữ của họ để giao tiếp gây thiện cảm, an ủi họ, lôi kéo trở thành trợ thủ đắc lực. Ông tuyển chọn ra 8000 quân thiện chiến làm lực lượng nòng cốt, nhiều người bộ tộc Đồng La, Hề, Khiết Đan rất dũng mãnh, thiện chiến mà ông nuôi dưỡng, huấn luyện thành lực lượng riêng gọi là Duệ lạc hà (Tiếng bản tộc có nghĩa là tráng sĩ).
Năm 754, An Lộc Sơn tiến thêm một bước để thu phục lòng trung thành của họ, đề bạt 500 người Hề, Khiết Đan, Cửu Tính, Đồng La lên làm tướng quân và 2000 người thăng chức Trung lang tướng. Đầu năm 755 ông lại dùng 32 tướng người Hồ thay các tướng người Hán, từ đó toàn bộ tướng lãnh dưới quyền An Lộc Sơn đều là người Hồ. Ngoài ra, An Lộc Sơn còn ra sức tích lương thảo, nuôi nhiều chiến mã, làm số quân và thực lực mạnh hơn hẳn lực lượng của triều đình trung ương nhà Đường.
Các hành động của An Lộc Sơn khiến nhiều người trong chính quyền trung ương nghi ngờ. Tới giai đoạn sau, khi binh lực của Lộc Sơn đã mạnh, các quyền thần như Lý Lâm Phủ, Dương Quốc Trung đều có những tính toán riêng, nên họ đều có ý định lợi dụng An Lộc Sơn và đề phòng lẫn nhau. An Lộc Sơn đã khôn khéo triệt để lợi dụng mâu thuẫn giữa các đại thần trong chính quyền trung ương để tranh thủ thời gian chuẩn bị thế lực cho mình.
Cho tới năm 755, An Lộc Sơn đã cất nhắc và trọng dụng các tướng văn, võ vào bộ máy dưới quyền mình gồm:
Dương Quốc Trung cảnh báo với Huyền Tông rằng Lộc Sơn sẽ làm phản. Đường Huyền Tông nghi hoặc sai sứ đi dò xét. An Lộc Sơn đều mua chuộc bằng vàng bạc nên các sứ giả ai cũng ca ngợi ông. Nhờ tài năng đánh dẹp, chiêu dụ sự phản loạn của một số bộ tộc người Hề và người Khiết Đan ở biên cương, ông càng được vua Đường xem là bức thành bảo vệ biên giới. Huyền Tông tuổi già, ham hưởng lạc, cho con Lộc Sơn làm quan trong triều, sau đó còn thông gia với Lộc Sơn, gả con gái cho con trai Lộc Sơn là An Khánh Tông.
Nhưng những việc xây dựng lực lượng của An Lộc khiến không chỉ Dương Quốc Trung mà cả các triều thần khác cùng dấy lên dư luận nghi ngại về việc ông sẽ làm phản. Dù đã có ý làm phản nhưng An Lộc Sơn nghĩ tới ân tình của Đường Huyền Tông quá tín nhiệm mình nên còn do dự[11].
Tuy nhiên, Dương Quốc Trung muốn minh chứng cho lời nhận xét của mình về Lộc Sơn, càng ngày càng tỏ ý định trừ bỏ Lộc Sơn. Thêm vào đó, có lời đề nghị nên quyết đoán hành động của Sử Tư Minh và các mưu sĩ Nghiêm Trang, Cao Thượng đã thúc đẩy Lộc Sơn quyết định dấy binh chống nhà Đường.
Ngày Giáp Tý (16) tháng 11 năm Ất Mùi[12] (tức 16 tháng 12 năm 755), với danh nghĩa "phụng mật chiếu hoàng đế thảo phạt Dương Quốc Trung", An Lộc Sơn khởi binh từ Phạm Dương, chính thức phản lại nhà Đường[11].
Dương Quốc Trung tự cho mình là đã dự kiến được điều đó, và tiếp tục dự đoán rằng quân phản sẽ chỉ hoạt động được chục ngày thì sẽ xảy ra chia rẽ nội bộ, Lộc Sơn sẽ bị thủ hạ giết. Đường Huyền Tông và các triều thần quen an nhàn, khi bất ngờ gặp tai biến có tâm lý cầu may, tin vào Dương Quốc Trung[13].
Nhưng quân An Lộc Sơn mạnh mẽ hơn nhiều so với sự dự liệu của nhà Đường. Trong không đầy 1 tháng, An Lộc Sơn đã kéo tới Linh Xương[14], vượt qua sông Hoàng Hà, gần như không gặp sự chống đối nào, liên tiếp hạ thành chiếm đất. Sau đó An Lộc Sơn đánh chiếm các trọng điểm Trần Lưu[15], Vinh Dương và tiến đánh Lạc Dương.
Đường Huyền Tông vội điều binh, cho Phong Thường Thanh làm Tiết độ sứ Phạm Dương (thay An Lộc Sơn), đến Lạc Dương mộ binh chống lại An Lộc Sơn. Mặt khác, Huyền Tông tự mộ thêm 5 vạn người ngựa, giao cho Tiết độ sứ An Tây là Cao Tiên Chi đóng giữ Thiểm châu; lại cử Quách Tử Nghi làm Tiết độ sứ Sóc Phương phòng thủ phía đông nam Hoàng Hà. Triều đình cần một người làm tổng quản quân đội ở Hà Bắc, Sơn Đông, Huyền Tông bèn trưng cầu các tướng đề cử. Quách Tử Nghi tiến cử Lý Quang Bật, Huyền Tông tiếp nhận ngay, phong Quang Bật làm Tiết độ sứ Hà Đông.
Phong Thường Thanh mộ được 6 vạn quân, nhưng họ đều là những người dân ở chợ búa chưa từng luyện tập và chưa quen đánh trận. Thường Thanh mang quân ra cửa Vũ Lao chặn đánh Lộc Sơn, nhưng bị đánh bại phải quay về giữ Lạc Dương. An Lộc Sơn kéo đến vây đánh Lạc Dương. Quân ô hợp của Thường Thanh không địch nổi, nhanh chóng bị đánh bại lần thứ hai. Lộc Sơn chiếm được đông đô Lạc Dương.
Phong Thường Thanh chạy tới Thiểm châu[16], hội quân với Cao Tiên Chi. An Lộc Sơn tiếp tục tiến quân đánh Thiểm châu, tiếp tục đánh bại hai tướng nhà Đường. Tiên Chi và Thường Thanh thua trận chạy về giữ ải Đồng Quan. Đường Huyền Tông nghe tin Thường Thanh thua trận bèn tước hết quan chức. Cao Tiên Chi lệnh cho Thường Thanh tuần tra giám sát các trại xung quanh.
Đường Huyền Tông sai hoạn quan Biên Lệnh Thành ra làm Giám quân, giám sát quân Cao Tiên Chi. Biên Lệnh Thành thường hạch sách bắt Cao Tiên Chi thỏa mãn yêu cầu cá nhân, nhưng đều bị Tiên Chi từ chối[17].
Đường Huyền Tông không đánh giá hết thực lực của quân An Lộc Sơn[11], nghe theo lời gièm của hoạn quan Biên Lệnh Thành rằng Cao Tiên Chi vô cớ bỏ thành giải tán quân và tự ý giảm khẩu phần của binh lính, quy trách nhiệm cho hai tướng để thua trận, hạ lệnh giết cả Phong Thường Thanh và Cao Tiên Chi, cử Kha Thư Hàn đang ốm[11] ra trấn thủ Đồng Quan.
Nhân đó, các tướng ở Hà Nam đang bị quân An Lộc Sơn chiếm như Thái thú Nam Dương là Lỗ Linh, thái thú Tuy Dương là Hứa Viễn, huyện lệnh Chân Nguyên là Trương Tuần cũng khởi binh chống lại An Lộc Sơn, chặn giữ con đường tiến xuống phía nam.
Trong các thành trì chống An Lộc Sơn trong vùng Lộc Sơn quản lý, quận Thường Sơn[18] bị hạ đầu tiên. Thái thú Nhan Cảo Khanh không chống nổi đại quân Sử Tư Minh, bị quân Yên bắt. Quân Yên dụ hàng không được bèn giết Cảo Khanh.
An Lộc Sơn nôn nóng muốn làm hoàng đế[19] nên sang tháng giêng năm sau (756), tự xưng là Đại Yên hoàng đế, đặt niên hiệu là Thánh Vũ. Ông phong con thứ là An Khánh Tự làm Tấn vương, Trương Thông Nho làm Trung thư lệnh, Cao Thượng và Nghiêm Trang làm Trung thư thị lang; sai An Khánh Tự làm tiên phong cùng Thôi Càn Hựu mang quân đi đánh Đồng Quan - cửa ngõ kinh thành Tràng An. Lộc Sơn giao cho Sử Tư Minh lo việc đánh dẹp các thành trì còn chưa chiếm được ở Hà Bắc và phòng giữ căn cứ Phạm Dương.
Tháng 4 năm 756, tướng Quách Tử Nghi nhà Đường giành lại được 2 quận Vân Trung[22] và Mã Ấp[23]. Sau đó Tử Nghi tiến quân đến Tỉnh Hình, phối hợp với Tiết độ sứ Hà Đông là Lý Quang Bật. Hai tướng cùng nhau đánh chiếm được 2 huyện Cửu Môn[24] và Cảo Thành do tướng của Yên là Sử Tư Minh cố thủ trên 40 ngày. Quân Đường chiếm được 9 huyện của quận Thường Sơn, đường rút lui của quân Yên bị uy hiếp.
Sử Tư Minh tuy thua nhưng có quân đông, khí thế còn mạnh. Khi Quách Tử Nghi và Lý Quang Bật lui lại Thường Sơn để phòng thủ bèn mang quân đuổi theo. Quách Tử Nghi bèn sai 500 quân giương oai tiến lên phía bắc để đánh lừa Tư Minh. Tư Minh không biết là nghi binh, mang quân cấp tốc đuổi theo trong 3 ngày 3 đêm. Khi quân Yên đuổi tới huyện Hành Đường[25] thì người ngựa đã rất mệt mỏi, lúc đó mới phát hiện ra phía trước chỉ có 500 quân Đường, bèn quay trở lại sông Sa Hà[26] nghỉ ngơi. Quách Tử Nghi thừa lúc quân Yên mệt mỏi bèn mang quân đánh úp, giành thắng lợi lớn.
An Lộc Sơn nghe tin Tư Minh thua trận bèn sai Thái Hy Đức mang 2 vạn bộ binh và kỵ binh tới chi viện, lại sai Ngưu Đình Giới mang 1 vạn quân tới hỗ trợ Tư Minh. Tư Minh có 5 vạn quân trong tay[27].
Quách Tử Nghi không vội giao chiến, vẫn dùng chiến thuật trì hoãn khiến quân địch nản lòng. Ông mang quân lên phía bắc, dụ Tư Minh đuổi theo. Tư Minh được tăng viện, yên tâm mang quân đuổi. Tử Nghi đến đóng quân ở Hằng Dương[28], củng cố lại thành trì. Sử Tư Minh mang quân tới đánh thành không được. Hễ Tư Minh có ý định lui thì Quách Tử Nghi mang quân ra truy kích. Tư Minh quay trở lại đánh thì quân Đường lại rút vào thành cố thủ. Sử Tư Minh tiến lui đều không được, rất mệt mỏi. Lúc đó Quách Tử Nghi báo cho Lý Quang Bật tới trợ chiến, quân Đường có tổng cộng 10 vạn người, tổ chức tấn công quy mô vào quân Yên ở Gia Sơn, kết quả diệt hơn 4 vạn quân Yên, bắt sống 1000 người[29]. Sử Tư Minh thua to, bị ngã ngựa, may mắn trốn thoát, chạy về cố thủ ở Bác Lăng[30]. Quách Tử Nghi và Lý Quang Bật mang quân vây hãm Bác Lăng.
Để khắc phục tình hình trước mắt, An Lộc Sơn và Sử Tư Minh buộc phải bố trí lại lực lượng quân Yên ở Hà Bắc: ông đưa quân chủ lực về bảo vệ con đường Hà Nam đến căn cứ Phạm Dương để phòng quân Đường phản kích vào đất căn bản này.
Quách Tử Nghi và Lý Quang Bật kiến nghị Đường Huyền Tông cố thủ giữ chân An Lộc Sơn ở Đồng Quan, còn hai cánh quân Lý, Quách sẽ tấn công căn cứ Phạm Dương của Lộc Sơn.
Khi hai bên giằng co ở Đồng Quan, tại Tràng An và xung quanh kinh thành nổ ra dư luận trong các tướng lĩnh quy trách nhiệm cho Dương Quốc Trung lộng hành và kích động ra cuộc phản loạn của An Lộc Sơn. Các tướng đang trấn giữ Đồng Quan như Kha Thư Hàn, Vương Tư Lễ khuyên có ý mang quân về kinh thanh trừng Dương Quốc Trung[33].
Cùng lúc Dương Quốc Trung cũng lo sợ Kha Thư Hàn mang đại quân về đối phó với ông, bèn xin Đường Huyền Tông mộ thêm binh lính phòng thủ cho hậu phương kinh thành. Huyền Tông nghe theo, Dương Quốc Trung bèn sai thủ hạ đi mộ 1 vạn quân, cho Đỗ Càn Vận tiếp quản, ra đóng ở Bá Thượng. Đội quân này tuy mang tiếng là bảo vệ kinh thành nhưng thực ra là bảo vệ Dương Quốc Trung khỏi sự thanh trừng của các tướng sĩ không cùng phe phái[33].
Kha Thư Hàn nghe tin Dương Quốc Trung đề phòng mình, bèn lấy lý do vì mặt trận chống Yên, đề nghị Huyền Tông điều động quân của Đỗ Cát Vận từ Bá Thượng tới nhập vào quân dưới quyền mình. Huyền Tông nghe theo. Kha Thư Hàn lấy quân rồi gọi Cát Vận đến giết chết[34].
Ngoài Quách Tử Nghi và Lý Quang Bật ở Hà Bắc kiến nghị Đường Huyền Tông cố thủ giữ chân An Lộc Sơn ở Đồng Quan, bản thân Kha Thư Hàn cũng có chủ trương này. Ông đề nghị Đường Huyền Tông cho cố thủ chờ thời vì "An Lộc Sơn không được lòng dân". Thôi Càn Hựu không thể phát động tấn công, chỉ hằng ngày luyện quân ở ngoài chờ cơ hội.
Tuy nhiên, có người báo về kinh rằng quân Yên ở Đồng Quan không đầy 4000 người, toàn quân già yếu. Dương Quốc Trung cũng tâu Huyền Tông nên thúc quân Thư Hàn ra trận, ngoài mặt là để giành thắng lợi quyết định trước quân Yên, còn trên thực tế là bằng mọi cách tránh mũi dùi của Kha Thư Hàn chĩa vào mình. Đường Huyền Tông nóng lòng muốn thắng lợi, nghe lời Quốc Trung, ép Kha Thư Hàn xuất kích từ Đồng Quan ra đánh quân Yên, tấn công Thiểm châu, Lạc Dương[19]. Quyết sách đó của Đường Huyền Tông được các sử gia đánh giá là sai lầm trí mạng khiến nhà Đường đánh mất cơ hội xoay chuyển cục diện cuộc chiến một cách nhanh chóng[31].
Tuy nhiên khi đại quân Kha Thư Hàn kéo ra thì rơi vào phục kích của Thôi Càn Hựu. Quân Yên vùng dậy từ nơi ẩn náu quăng đá tới tấp xuống quân Đường. Quân Đường bị mắc trong chỗ chật hẹp không dùng vũ khí được, bị sát thương rất nhiều. Quân Yên lại nhân chiều gió thổi mạnh, đốt mấy chục xe cỏ khô cho gió thổi khói xuống. Quân Đường bị khói mù mịt không quan sát được, tự sát thương lẫn nhau khá nhiều[35].
Quân Yên thừa cơ xông vào tới chém giết. Đội quân phía sau thấy quân phía trước bị thua nặng, xô nhau chạy hỗn loạn, bị chết hàng vạn người. Nhiều người trong quân Đường chen lấn xô xát nhau, bị rơi xuống sông Hoàng Hà. Bị quân Yên truy kích, một số quân sĩ buộc binh khí lại làm bè, dùng thương làm mái chèo, lội qua sông Hoàng Hà thoát thân.
Kết quả trận Đồng Quan, gần như toàn bộ 20 vạn quân Đường bị tiêu diệt, số quân thoát về bờ bắc không đầy 1/10[36]. Quân Yên thắng lớn, ngày 8 tháng 6 năm 756, tiến vào chiếm Đồng Quan.
Kha Thư Hàn mang vài trăm quân chạy thoát vượt sông Hoàng Hà đến trạm Quan Tây, thu nhặt tàn quân, định chiếm lại Đồng Quan, nhưng bộ tướng người Phiên là Hỏa Bạt Quy Nhân đã phản Đường hàng Yên, mang quân bản bộ bắt ông đưa đến chỗ An Lộc Sơn.
Quân Yên thừa thắng ở Đồng Quan, ồ ạt tiến vào kinh thành Tràng An. Đường Huyền Tông mang theo Dương Quý phi và thừa tướng Dương Quốc Trung hốt hoảng bỏ chạy về phía tây vào đất Thục[19].
Tình trạng quân Đường vô cùng hỗn loạn. Khi xa giá Đường Huyền Tông đi đến Mã Ngôi, các tướng sĩ oán hận anh em Dương Quốc Trung và Dương Quý phi nên nổi loạn giết Quốc Trung và ép Huyền Tông xử tử Quý phi, nếu không sẽ không hộ giá nữa. Huyền Tông đành mang Quý phi thắt cổ ở Mã Ngôi.
Thái tử Lý Hanh trên đường chạy theo Huyền Tông, bị nhân dân giữ lại nên đoàn của thái tử phải chuyển hướng chạy sang núi Linh Vũ[38]. Được sự ủng hộ của các đại thần đi theo, tháng 7 năm 756, thái tử Hanh bèn tự lên ngôi ở Linh Vũ, tức là Đường Túc Tông, vọng tôn Huyền Tông làm thái thượng hoàng.
Hoàng đế Túc Tông được binh sĩ đưa lên làm vua ngày 13 tháng 8 năm 756, nhưng Đường Huyền Tông và đoàn tùy tùng chạy tới Tứ Xuyên, chỉ nhận được tin tức vào ngày 10 tháng 9 năm 756, và ngày đó là ngày kết thúc trị vì của Huyền Tông trên thực tế[39]
Lực lượng của Đường Túc Tông mới tập hợp khá nhỏ yếu. Đường Túc Tông triệu tập các tướng sĩ về hộ giá để tổ chức lại lực lượng phản công quân Yên. Một người bạn thân lâu năm của Túc Tông là Lý Bí, thường được gọi là "Tể tướng áo vải", nhận lời đến giúp vua mới. Quách Tử Nghi và Lý Quang Bật ở Hà Bắc đang vây hãm Sử Tư Minh cũng rút quân về Linh Vũ hộ giá. Từ đó quân Đường bắt đầu được tổ chức lại dưới quyền Đường Túc Tông.
An Lộc Sơn chiếm được 2 kinh Lạc Dương và Tràng An, tỏ ra mãn nguyện và xem như đã chiếm được giang sơn nhà Đường, nghĩ đến chuyện hưởng lạc, không tính toán việc lâu dài nữa[31].
Nội bộ chính quyền Đại Yên tranh giành quyền lợi lẫn nhau. Lộc Sơn lại bị bệnh ở mắt, gần như bị mù, không trông rõ mọi vật. Do bị khối u đau nhức nên tâm tính hung dữ, hay đánh phạt thuộc hạ. Các tướng thân cận như Nghiêm Trang, Lý Trư Nhi cũng thường bị vua Yên đánh đòn.
Ngoài ra, Lộc Sơn còn yêu quý con nhỏ là An Khánh Ân do vợ thứ Đoàn thị sinh ra nên có ý định bỏ ngôi thái tử của An Khánh Tự. An Khánh Tự biết tin bất bình, bèn bàn với Nghiêm Trang và Lý Trư Nhi mưu giết cha giành ngôi vua.
Đầu năm 757, An Khánh Tự sai Nghiêm Trang và Lý Trư Nhi cầm dao vào cung cấm, chém mạnh vào bụng Lộc Sơn. Lộc Sơn vươn tay vớ con dao để dưới gối nhưng không được, ruột đổ ra đầy giường mà chết.
An Khánh Tự và các tướng truyền tin An Lộc Sơn ốm chết và xưng làm vua Yên. Sau đó Khánh Tự giết luôn hàng tướng Kha Thư Hàn.
Nghe theo lời Nghiêm Trang, An Khánh Tự ở trong cung cấm, giao quyền điều hành cho Nghiêm Trang. Mãnh tướng Sử Tư Minh vốn là bạn thân của An Lộc Sơn tỏ ra coi thường An Khánh Tự, thường không nghe lệnh. Để lấy lòng Tư Minh, Tự Khánh cho Tư Minh về Phạm Dương làm Tiết độ sứ, giao toàn quyền cai quản vùng căn bản của chính quyền Đại Yên.
Khi quân Yên tràn vào Tràng An trong thế đắc thắng, An Lộc Sơn lệnh cho tướng Sử Tư Minh đẩy mạnh việc chinh phục Hà Bắc, Hà Nam. Trong lúc Đường Túc Tông còn đang tập hợp và củng cố lực lượng, chưa thể phản công quân Yên thì Sử Tư Minh được cởi vây từ Bác Lăng, ra sức nhổ nốt các thành trì còn trung thành với nhà Đường.
Sử Tư Minh đánh đâu thắng đó, tới bao vây Bình Nguyên. Tướng giữ Bình Nguyên là Nhan Chân Khanh sau nhiều ngày chống trả liệu thế không thể giữ được Bình Nguyên để chống đạo quân hùng mạnh của Tư Minh, bèn bỏ thành, men theo Giang Hoài – Kinh Tương tới Linh Vũ theo Đường Túc Tông. Túc Tông phong ông làm Thượng thư bộ Hình, Ngự sử đại phu.
Trương Tuần và Hứa Viễn cùng nhau thế thủ ở Tuy Dương, cầm cự trước sức tấn công của 10 vạn quân Yên dưới quyền Doãn Tử Kỳ. Dù quân Đường thắng nhiều trận nhưng do thành bị vây quá lâu nên dần dần suy kiệt. Trong thành Tuy Dương lúc đó có 6 vạn hộc lương nhưng trong tình trạng bị bao vây ngặt nghèo. Giữa lúc đó Quắc vương Lý Cự hạ lệnh điều 3 vạn hộc lương cho Bộc Dương và Tế Âm[41]. Hứa Viễn không đồng ý chuyển lương đi vì cần cho việc phòng thủ. Lý Cự không nghe, ép phải chuyển lương cho Tế Âm. Tướng giữ Tế Âm sau khi được 3 vạn hộc lương lại đầu hàng Doãn Tử Kỳ.
Doãn Tử Kỳ mang đại quân công phá Tuy Dương 3 lần. Trương Tuần cố thủ kiên cường trong thành, nhiều lần đẩy lui được các đợt tấn công của quân Yên. Nhưng sau đó trong thành hết lương. Nhân dân trong thành phải ăn cả vỏ cây, nhiều quân sĩ bị chết đói, chỉ còn lại vài trăm người ốm yếu. Trương Tuần phải giết cả ái thiếp để lấy thịt cho quân sĩ ăn[42], sau đó luân phiên tới ăn thịt người già, ăn thịt trẻ con; tất cả hơn 2 vạn dân trong thành bị giết làm lương cho quân sĩ[43].
Trương Tuần phái mãnh tướng Nam Tề Vân cảm tử phá vòng vây ra ngoài cầu viện. Nhưng Hứa Thúc đóng quân ở Tiêu quận[44], Thượng Hoành đóng quân ở Bành Thành[45], Hạ Lan Tiến Minh ở Lâm Hoài[46] đều không chịu ra quân cứu Tuy Dương.
Thành Tuy Dương sức cùng lực kiệt, đến tháng 10 năm 757 bị quân Yên hạ. Trương Tuần cùng Hứa Viễn và các tướng sĩ ốm yếu đều bị bắt sống, vì không quy phục nên bị quân Yên giết[43].
Tuy Dương tuy cuối cùng bị hạ nhưng đã cầm chân hàng chục vạn quân Yên, ngăn chặn không cho tiến xuống phía nam (Giang – Hoài), giữ được con đường cung ứng kinh tế của nhà Đường được thông suốt, tạo điều kiện cho đại quân Đường ở phía tây, phía bắc có thời gian củng cố để phản công[47]. Khi thành Tuy Dương bị quân Yên hạ thì cũng đúng lúc quân Đường phản công mạnh mẽ, giành lại hai kinh.
Tháng 4 năm 757, theo đề nghị của Lý Tất, Túc Tông phong con là Lý Bảo làm nguyên soái, Quách Tử Nghi làm phó nguyên soái, lãnh trách nhiệm thu hồi hai kinh[48]. Đồng thời, Túc Tông theo đề nghị đã sai sứ giao hảo với Hồi Hột để mượn quân vì quân nước này dũng mãnh, có thể đối địch được với đội quân thiện chiến của Đại Yên. Túc Tông giao hẹn với Hồi Hột: "Sau khi đánh chiếm được thành, đất đai và dân chúng thuộc về nhà Đường, còn của cải vải vóc thuộc về các ông"[49]. Hồi Hột nhận lời giúp quân.
Tháng 5 năm 757, Quách Tử Nghi tiến từ Phong Tường về phía đông chuẩn bị đánh Tràng An. Lúc đó quân Hồi Hột chưa đến. Đến Thanh Cừ thì quân Đường gặp quân Yên do Lý Quy Nhân, An Thủ Trung chỉ huy. Hai bên giữ nhau 7 ngày không giao chiến. Hai tướng Yên dùng mưu giả thua tháo lui. Quách Tử Nghi mắc mưu đuổi theo, hai tướng Yên dàn 9000 quân thành hình con rắn dài đón đánh. Tử Nghi đánh vào giữa, hai đầu "trường xà" kéo lại vây bọc, đánh quân Đường thua to. Tử Nghi phải lui quân về giữ Vũ Công.
Đường Túc Tông điều thêm quân tiếp viện cho Lý Bảo và Tử Nghi, trong đó có 4000 người Hồi Hột dưới quyền tướng Bộc Cố Hoài Ân. Sang tháng 9 năm đó, Tử Nghi có 15 vạn quân, lại tấn công Tràng An lần thứ 2. Ngày 27 tháng 9, Tử Nghi kéo đến phía tây Tràng An. An Thủ Trung và Lý Quy Nhân mang 10 vạn quân ra địch[50]. Quách Tử Nghi sai Lý Tự Nghiệp cầm tiền quân, tự mình đi trung quân, sai Vương Âu Lễ làm hậu quân. Lý Tự Nghiệp và Lý Quy Nhân giao tranh giằng co mấy trận không phân thắng bại.
An Thủ Trung điều một cánh quân sang phía đông đánh vây bọc quân Đường. Quách Tử Nghi phát hiện, bèn sai Bộc Cố Hoài Ân (người Thiết Lặc, Hồi Hột) dẫn 4000 quân Hồi Hột ra giao chiến, giết hơn nửa quân Yên. Cánh quân Yên đi tập kích bị đánh bại. Quách Tử Nghi lại sai Hoài Ân vòng ra phía sau đánh úp quân Yên, đồng thời thúc tiền quân và trung quân cùng lúc tấn công ồ ạt. Sau hơn nửa ngày giao chiến, quân Đường giết 6 vạn quân Yên[51]. Quân Yên thua chạy vào thành Tràng An. Lý Bảo chủ trương cho binh sĩ nghỉ ngơi nên dừng lại không truy kích. An Thủ Trung, Trương Thông Nho và Lý Quy Nhân hoảng sợ, nhân lúc đêm tối bỏ thành rút chạy.
Ba ngày sau, Lý Bảo và Quách Tử Nghi mới mang quân đuổi theo quân Yên. Nhưng quân Đường triển khai chậm nên quân Yên có thời gian chỉnh đốn lại. Vua Yên An Khánh Tự sai Nghiêm Trang mang quân từ Lạc Dương sang phía tây tiếp viện cho Tràng An, gặp tàn quân Yên thua chạy về, tập hợp lại được 15 vạn người[51].
Ngày 15 tháng 10, Quách Tử Nghi đụng độ quân Yên ở Tân Điếm[52]. Quân Yên dựa vào núi bày trận, Tử Nghi cho đại quân tấn công chính diện, còn Bộc Cố Hoài Ân mang quân Hồi Hột đánh úp phía sau. Thấy cánh quân chính diện yếu thế, Hoài Ân dẫn quân thần tốc tới Nam Sơn[53], đánh mạnh vào sườn quân Yên. Quân Yên vốn sợ quân Hồi Hột, nên thấy quân Hồi Hột đến đều bỏ chạy. Quách Tử Nghi thừa cơ thúc 2 cánh quân chính diện tấn công ồ ạt. Quân Yên thua to, Nghiêm Trang và các tướng dẫn tàn quân chạy về phía đông. Quách Tử Nghi dẫn quân truy sát.
An Khánh Tự được tin cánh quân chủ lực đi cứu Tràng An bị đánh bại rất sợ hãi, dẫn 300 kỵ binh và 1000 bộ binh bỏ Lạc Dương chạy về Nghiệp Thành[54]. Ngày 18 tháng 10, quân Đường thừa thắng tiến vào Lạc Dương.
Hai kinh trở lại với nhà Đường.
Tháng 12 năm 757, Đường Túc Tông trở lại hành cung ở Tràng An. Sử Tư Minh mang 8 vạn quân cùng 13 quận Hà Bắc về hàng. Đường Túc Tông thu nhận, phong Tư Minh làm Quy Nghĩa vương, kiêm Tiết độ sứ Phạm Dương. Tuy thu nhận cho Tư Minh hàng nhưng nhà Đường vẫn nghi ngại ông. Năm 758, Đường Túc Tông sai Ô Thừa Ân đến bổ nhiệm ông làm Phó soái, song thực chất là để chờ thời cơ sát hại Tư Minh.
Ý định đó lộ ra, Sử Tư Minh bèn dùng kế lừa bắt sống Ô Thừa Ân. Khám trong người Ân có mật chiếu của Túc Tông và thư của Lý Quang Bật muốn trừ khử mình, Sử Tư Minh vô cùng giận dữ. Trong người Thừa Ân còn có danh sách các tướng đã về hàng cần phải trừ khử. Sử Tư Minh bèn triệu tập các tướng sĩ lại, hạ lệnh giết chết cha con Ô Thừa Ân và các sứ giả đi cùng, và lại dấy quân chống nhà Đường.
Nghe tin Quách Tử Nghi bao vây tấn công Vệ châu[57], An Khánh Tự dẫn 7 vạn quân chia làm 3 ngả, tăng viện cho Vệ châu. Tử Nghi dùng kế mai phục, dụ An Khánh Tự mang quân ra đánh. Tử Nghi giả thua chạy, quân Yên đuổi theo. Bất thần các tay nỏ mai phục bắn ra, giết hơn nửa quân Yên[58]. Tử Nghi cũng quay trở lại đánh giết. An Khánh Tự thua lớn, bỏ chạy về Nghiệp Thành.
Lúc đó quân Đường do Tiết độ sứ 9 phương của nhà Đường chỉ huy, khí thế rất mạnh mẽ. Sử Tư Minh thấy vậy bèn đóng quân từ xa ở Phẫu Dương để tạo thanh thế.
Nghiệp Thành bị vây nhiều tháng, lương đã cạn, quân Đường lại dẫn nước sông Chương làm ngập thành, nhưng An Khánh Tự vẫn cố thủ chờ Sử Tư Minh cứu viện. Hoạn quan Ngư Triều Ân không hiểu việc quân, không hạ lệnh tác chiến nên cho dù thành đã rất nguy vẫn chưa bị hạ.
Nắm được tình hình đó, Sử Tư Minh quyết định tấn công. Ông chia quân, một mặt tiến sát doanh trại quân Đường và ngày đêm quấy rối đánh úp vào trại; mặt khác ông điều binh đi cướp lương thảo tiếp ứng khiến cho quân Đường bị đói.
Quân Đường thiếu ăn, dao động. Tháng 3 năm 759, Sử Tư Minh đích thân dẫn 5 vạn quân đánh thẳng vào doanh trại quân Đường. Quân đội của Tư Minh mạnh mẽ, đánh tan đại quân Tiết độ sứ 9 phương của nhà Đường. Sử sách mô tả trận này nói rằng khi Tư Minh thúc quân tác chiến, "có bão làm gió bụi nổi lên mù mịt khiến cả hai bên cùng thiệt hại", nhưng thực tế quân Đường đã bị đánh tan và thua chạy, Nghiệp Thành được giải vây[56].
Trong lúc hỗn loạn, nhiều tướng nhà Đường để cho quân sĩ cướp bóc nhà dân, riêng cánh quân của Lý Quang Bật chỉ huy rất nghiêm túc rút lui, trở về Biện châu[59].
Tư Minh giao cho con là Sử Triều Nghĩa giữ Nghiệp Thành, còn mình thu hết thủ hạ của An Khánh Tự trở về Phạm Dương. Tháng 4 năm 759, Sử Tư Minh tự xưng là Yên đế, đặt niên hiệu là Thuận Thiên. Sau đó, ông huy động hơn 10 vạn quân tấn công Biện châu, Trịnh châu và tiến tới Lạc Dương.
Trong khi Quang Bật tiếp quản quân của Tử Nghi thì Sử Tư Minh đánh đến Biện châu. Hứa Thúc Ký không theo lời dặn của Quang Bật, cùng các thuộc hạ Lương Phủ, Lưu Tùng Gián đầu hàng quân Yên. Sử Tư Minh sai các hàng tướng đi đánh Giang, Hoài, còn mình mang quân đánh Lạc Dương, khí thế rất mạnh mẽ.
Trước thế mạnh của quân Yên, Lý Quang Bật liệu thế không chống nổi. Lưu thủ Lạc Dương là Vĩ Trắc muốn về hẳn Đồng Quan nhưng Quang Bật không theo vì như vậy là bỏ hẳn 500 dặm đất cho quân Yên chiếm. Lý Quang Bật chủ trương rút về Hà Dương. Ông lệnh cho toàn dân trong thành cùng quân lính dời đi Hà Dương, để lại thành không cho quân Yên. Ông cho tu bổ 3 tòa thành ở Hà Dương chuẩn bị phòng thủ.
Sử Tư Minh nuôi 1000 con ngựa tốt, bị Lý Quang Bật dùng mẹo lùa về thành mất. Sử Tư Minh đánh Hà Dương lâu ngày không hạ được. Lý Quang Bật tránh địch ở chính diện mà mang một cánh quân đi phản kích ở phía tây thành Trung Đan[62], đánh bại 5000 quân địch, chém hơn 1000 người.
Tuy giữ được thành nhưng Lý Quang Bật sắp cạn lương trong thành Hà Dương. Ông giao lại thành cho Lý Bão Ngọc[63], dặn cố thủ trong 2 ngày, còn tự mình ra Hà Thanh[64] trưng thu lương thực. Để đề phòng quân Yên cắt đường vận chuyển, ông chia một cánh quân đóng ở bến Dã Thủy phía bắc Hà Thanh.
Tướng Yên là Lý Nhân Việt vốn nhận lệnh của Sử Tư Minh, phải đi đánh úp bắt cho được Lý Quang Bật nhân cơ hội Quang Bật đã rời thành, nếu không bắt được Quang Bật thì bị tội chết. Vì không gặp Lý Quang Bật, Nhân Việt sợ tội với Tư Minh nên xin hàng. Mấy ngày sau, bạn của Việt là Đình Huy cũng tới hàng, đúng như dự định của Lý Quang Bật.
Trong khi Lý Quang Bật ra ngoài lấy lượng thì Chu Bão Ngọc cũng đánh lui được một đợt tấn công của quân Yên dưới quyền Chu Chí. Chu Chí rút lui, lại mang 5000 quân đến đánh thành Trung Đan. Lý Quang Bật vừa từ bến Dã Thủy trở về Trung Đan, hạ lệnh dựng rào gỗ phòng thủ. Chu Chí mang quân đến nơi, Lý Quang Bật sai bộ tướng Lệ Phi Nguyên Lễ ra đánh bại Chu Chí.
Thấy Chu Chí liên tiếp thất bại, Sử Tư Minh thay đổi chiến thuật, cho thuyền gỗ chở củi tẩm dầu châm lửa, thả trôi từ thượng nguồn xuống để đốt cháy 2 cây cầu nhằm chia cắt sự liên lạc giữa 3 tòa thành Hà Dương. Nhưng Lý Quang Bật phòng bị trước, sai quân dùng sào dài chặn thuyền và lấy đá lớn dìm thuyền lửa xuống sông[65].
Sử Tư Minh lại sai Chu Chí mang 3 vạn quân đánh Bắc thành, còn tự mình tấn công Nam thành. Quang Bật đoán biết quân Yên chỉ tấn công Bắc thành, bèn giao cho Lý Bão Ngọc trấn thủ Nam thành, còn mình mang quân chủ lực ra Bắc thành. Lý Quang Bật sai 2 bộ tướng Hách Ngọc và Luận Dung Trinh chia đường ra đánh. Quân Đường đại phá quân Yên, giết hơn 1 vạn người, bắt sống 2 tướng Yên là Từ Hoàng Ngọc và Lý Tần Thu cùng 8000 người[66], thu rất nhiều khí giới.
Sử Tư Minh đang đánh Nam thành, không biết quân đánh Bắc Thành bại trận. Lý Quang Bật sai mang tù binh bắt được đến Nam thành, chém ở bờ sông để uy hiếp quân Yên. Quân Yên khiếp sợ, Sử Tư Minh phải lui quân.
Lý Quang Bật thừa thắng mang quân tấn công Hoài châu, bắt sống các tướng Yên là Chu Chí, An Thái Thanh, Dương Hy Văn. Trận Hà Dương, Lý Quang Bật chỉ có 2 vạn quân nhưng đã bại hơn 10 vạn quân Yên của Sử Tư Minh.
Chiến thắng của Lý Quang Bật lại khiến hoạn quan Ngư Triều Ân ghen ghét, tâu với Đường Túc Tông rằng quân Yên ô hợp dễ đánh khiến Túc Tông hoài nghi tài năng của Quang Bật. Ngoài ra, tướng Bộc Cố Hoài Ân cũng gièm pha rằng quân Yên không mạnh nên Quang Bật mới đánh được.
Vì vậy Túc Tông nhất định bắt Lý Quang Bật ra quân thu phục Lạc Dương, trong khi ông nhận định quân địch còn mạnh chưa thể đánh chiếm thành được, nên nhiều lần viết thư về kháng nghị chưa nên ra quân. Nhưng Túc Tông vẫn nóng lòng thắng trận, liên tiếp sai sứ ra thúc giục, lại cử Ngư Triều Ân ra làm chỉ huy.
Vì bị triều đình cưỡng bách, đầu năm 761, Lý Quang Bật đành phải ra quân. Ông chia đường cùng Bộc Cố Hoài Ân đánh thành, nhưng Hoài Ân không đến đúng điểm hẹn như đã định. Lý Quang Bật và Ngư Triều Ân gặp đại quân Yên của Sử Tư Minh ở núi Mang Sơn ở phía tây bắc Lạc Dương. Hai bên giao chiến lâu ngày không phân thắng bại. Sử Tư Minh nghĩ ra một kế, ông sai người trà trộn vào quân Đường, phao tin rằng: "Quân Yên đều là người U châu, nhớ nhà, mong về quê".
Thống soái quân đội nhà Đường là Ngư Triều Ân nghe tin đó, hạ lệnh cho Lý Quang Bật và các Tiết độ sứ khác phải thừa cơ đánh úp quân Yên ngay. Thế là quân Đường rầm rộ tiến công. Quân Yên giả thua rút chạy, lại vứt đồ ra đầy đường. Quân Đường tranh nhau nhặt đồ, bị quân Yên quay lại phản kích, đánh tan quân Đường ở phía bắc Mang Sơn.
Lý Quang Bật phải rút quân từ Hà Dương về cố thủ ở Văn Hỷ[67]. Ông dâng biểu xin nhận tội, kết quả bị Đường Túc Tông tước hết binh quyền. Nghe tin quân các Tiết độ sứ bại trận, kinh thành chấn động[68]. Đường Túc Tông lo sợ, phải điều quân Thiểm châu về phòng ngự cho Tràng An.
Yên Đế Sử Tư Minh làm chủ một vùng rộng lớn khắp Hà Bắc và Hà Nam.
Triều Nghĩa xây xong thành nhưng chưa chát bùn, đúng lúc Sử Tư Minh đi kiểm tra, rất giận dữ. Sốt ruột vì chưa làm xong, ông sai mấy chục thủ hạ đi cùng xuống ngựa, lấy bùn trát lên tường, một chốc đã làm xong. Ông giận mắng và dọa trị tội Triều Nghĩa sau khi hạ được Thiểm Châu.
Nguyên Sử Tư Minh ngày thường yêu đứa con nhỏ là Sử Triều Thanh, định lập làm thái tử. Triều Nghĩa dù lớn tuổi nhưng không được cha yêu, nay nhân việc đó, lo sợ bị trị tội, bèn nảy ý giết cha[70].
Đêm hôm đó Sử Tư Minh trở dậy đi ra nhà tiêu, vừa lúc Sử Triều Nghĩa sai người hành thích. Tư Minh nghe động, bèn trèo tường nhảy ra, lấy được một con ngựa định phóng đi trốn, nhưng quân Triều Nghĩa bắn theo, ông bị trúng một phát tên ngã ngựa. Sau đó quân Triều Nghĩa lao tới chém chết Tư Minh.
Sử Triều Nghĩa giết cha, lại giết luôn mẹ con Sử Triều Thanh, tự xưng
là Yên Đế. Phạm Dương rơi vào tình trạng tàn sát nội bộ, mấy ngàn người
bị giết, không yên ổn trong một thời gian. Các Tiết độ sứ
trong chính quyền Yên tự ban hành chính lệnh trong vùng mình quản lý,
chỉ còn ràng buộc về danh nghĩa với Sử Triều Nghĩa. Mặc dù chính quyền
Yên quản lý khắp Hà Bắc và Hà Nam – cơ nghiệp do Sử Tư Minh để lại –
nhưng thực lực ngày càng suy mòn[71].
Năm 762, Đường Túc Tông và thượng hoàng Huyền Tông đều qua đời. Thái tử Lý Dự lên nối ngôi, tức là Đường Đại Tông.
Năm đó, sau khi củng cố lại lực lượng, Đường Đại Tông quyết định ra quân đánh Yên. Do Đại Tông vẫn không có ý tin tưởng Quách Tử Nghi, còn Lý Quang Bật vừa thua trận bị giáng chức nên Đại Tông không để hai tướng này ra quân. Ông cử Ung vương Lý Thích làm Binh mã đại nguyên soái, Bộc Cố Hoài Ân làm Tiết độ sứ hành doanh phương bắc, cùng Quách Anh Nhân ra trận.
Ngay tháng 6 năm 762, quân của Sử Triều Nghĩa bị Duyện Vận Tiết độ sứ Điền Thần Công đại phá.
Bị thua trận, Sử Triều Nghĩa tìm cách lôi kéo sự ủng hộ của Khả hãn Hồi Hột, vốn là đồng minh của nhà Đường. Đại Tông cũng sai Lưu Thanh Đàm đến thiết lập lại liên minh với Hồi Hột[72], nhưng bị Đăng Lý Khả hãn hạ nhục. Thanh Đàm từ Hồi Hột gửi thư về báo rằng Hồi Hột đã chuẩn bị 10 vạn quân, nhân lúc Đại Tông mới lên ngôi, chính trị còn chưa ổn mà kéo về Trường An, toàn thành Trường An đều lo sợ. Đại Tông sai Bộc Cố Hoài Ân đến chiêu dụ. Đăng Lý lại là con rể của Hoài Ân[73], bèn đổi ý, chấp nhận lập lại liên minh với Đường để chống quân Yên. Đáp lại, Đại Tông sai Ung vương Thích đến Thiểm châu định ước với Hồi Hột. Sau đó, Đại Tông lệnh cho Bộc Cố Hoài Ân thống lĩnh các đạo quân phía bắc, Hà Đông, cùng tướng Hồi Hột là Tả Sát được cử làm tiên phong thống lĩnh liên quân hai nước, cùng các tướng là Tiết độ sứ Thiểm Tây Quách Anh Nghệ, Tiết Độ sứ Lộ Trạch Lý Bão Ngọc, hoạn quan Ngư Triều Ân, đưa quân từ các nơi tiến công Lạc Dương của Yên.
Tháng 10 năm 762, quân Đường tiến đánh Lạc Dương. Sử Triều Nghĩa quyết định tử chiến ở Lạc Dương thay vì tạm lui về Hà Dương theo đề nghị của chư tướng. Hơn 60.000 quân Yên bị giết và hơn 20.000 người bị bắt. Thất bại nặng nề, Triều Nghĩa đành phải bỏ trốn khỏi Lạc Dương, chạy về phía đông. Bộc Cố Hoài Ân sai Bộc Cố Sướng cùng Cao Phụ Thành hơn vạn quân mã truy kích, Triều Nghĩa lại chạy sang Bộc châu. Quân Hồi Hột nhân cơ hội vào Lạc Dương đã thẳng tay cướp bóc và chém giết người dân, khiến Đông Đô trở nên hoang tàn.
Sử Triều Nghĩa liên tiếp thất bại, cuối cùng chạy đến Vệ châu, hợp quân với Tiết độ sứ Tuy Dương Điền Thừa Tự, nhưng cũng thua nốt.
Sang tháng giêng năm 763, các Tiết độ sứ nước Yên thấy Triều Nghĩa thất thế nên lần lượt phản Yên, trở lại hàng nhà Đường, như Trương Hiến Thành, Tiết Tung, Trương Trung Chí (sau Đại Tông đổi tên thành Lý Bảo Thần)[74], Điền Thừa Tự, Lý Hoài Tiên, Tiết Bão. Đại Tông theo đề nghị của Bộc Cố Hoài Ân, hạ lệnh giữ nguyên chức vị của các Tiết độ sứ này và vẫn cho họ cai quản các trấn ở phía bắc.
Sử Triều Nghĩa bị quân Đường truy kích, bỏ chạy hết nơi này tới nơi khác nhưng đều bị các thủ hạ phản lại không dung nạp. Triều Nghĩa không còn đường dung thân, định chạy lên phía bắc đầu hàng Khiết Đan. Trong khi chạy, Triều Nghĩa bị thủ hạ cũ là Lý Hoài Tiên mới đầu hàng nhà Đường mang quân đuổi theo[49].
Triều Nghĩa trốn vào khu rừng rậm ở sách Ôn Tuyền cạnh thành Thạch Đầu[75], vẫn bị Hoài Tiên truy riết. Triều Nghĩa biết không còn đường thoát, bèn treo cổ tự vẫn trong rừng. Lý Hoài Tiên tìm được xác Sử Triều Nghĩa, chặt đầu nộp Bộc Có Hoài Ân, Hoài Ân mang về kinh đô Tràng An dâng Đường Đại Tông.
Triều Đại Yên diệt vong. Loạn An Sử kéo dài 8 năm chấm dứt.
Loạn An Sử được đánh giá là có độ dã man bậc nhất, riêng việc thay đổi ngôi của 4 ông vua Đại Yên đều lần lượt diễn ra bằng những vụ tàn sát: hai lần con giết cha, một lần bầy tôi giết vua. Điều đó khiến Đại Yên bị đánh giá là tập đoàn mất hết tính người; ngay cả tính người về tối thiểu cũng không có thì không thể lấy được lòng nhân dân để giữ thiên hạ[71].
Lần thứ nhất là trước trận Đồng Quan năm 756. Trong lúc Sử Tư Minh thất thế ở Hà Bắc, An Lộc Sơn bị kẹt ở phía tây, các lộ quân Đường có thể thừa thắng tiến vào căn cứ Phạm Dương của chính quyền Đại Yên theo kế sách mà Quách Tử Nghi, Lý Quang Bật dự định. Nhưng Kha Thư Hàn ngoài mặt trận vẫn tiếp tục tranh chấp với Dương Quốc Trung trong triều, còn Đường Huyền Tông nóng lòng thắng trận đã quyết sách sai lầm. Điều đó tạo điều kiện cho Đại Yên phát triển tới cực thịnh: bao gồm cả Hà Bắc, một phần Hà Nam và vùng Quan Trung[31].
Điều đó dẫn đến sự chuyển giao quyền lực từ Huyền Tông sang Túc Tông để tổ chức lại lực lượng quân Đường. Khi quân chủ lực chưa kịp tổ chức lại thì đó là thời điểm khó khăn nhất đối với nhà Đường trong cuộc chiến; và vai trò hy sinh của các viên tướng trung thành chiến đấu trong vùng quân Yên chiếm đóng như Nhan Chân Khanh, Trương Tuần, Hứa Viễn có tác động không nhỏ, giúp cầm chân một bộ phận khá lớn quân Yên vào chiến trường phía đông, khiến quân Yên không thể dốc toàn lực vào cuộc chiến tận diệt nhà Đường[76].
Nhưng khi Đường Huyền Tông tự tìm thất bại thì Đại Yên cũng tự suy yếu bằng việc soán đoạt nội bộ của An Khánh Tự. Đó chính là thời điểm thích hợp cho quân Đường phản công. Khi An Khánh Tự gặp phải sự hồi sinh của nhà Đường và bại trận dưới tay quân chủ lực của Quách Tử Nghi, thì Sử Tư Minh lại dần dần xác lập chỗ đứng vững ở Hà Bắc và Hà Nam qua việc nhổ hết được những chướng ngại do các trung thần nhà Đường cố duy trì tại đây.
Sử Tử Minh tỏ ra là nhà lãnh đạo có năng lực nhất trong 4 người cầm đầu chính quyền Đại Yên. Khi thấy An Khánh Tự sắp tận diệt, ông hàng luôn nhà Đường, giữ một góc đông bắc tự trị như An Lộc Sơn khi còn phục vụ nhà Đường. Nhưng mưu đồ trừ khử Tư Minh bị lộ khiến nhà Đường phải đối mặt với một đối thủ có binh hùng tướng mạnh, thực lực đáng sợ hơn An Lộc Sơn[55]. Bên cạnh đó, chính Đường Túc Tông sau những chiến thắng ban đầu, thu hồi được hai kinh cũng tự tìm đến khó khăn với quyết sách nhân sự trong trận Nghiệp Thành, và điều đó tạo ra cơ hội lớn cho Sử Tư Minh.
Trận Nghiệp Thành là bước ngoặt không chỉ giúp Đại Yên duy trì sự tồn tại trở lại, tiếp tục chỗ đứng ở Hà Bắc, mà thừa thắng xuống Hà Nam lấy được đông kinh Lạc Dương lần thứ hai. Đường Túc Tông vẫn sai lầm trong việc sử dụng hoạn quan Ngư Triều Ân và phải trả giá tới lần thứ hai cho thất bại ở Mang Sơn mà Lý Quang Bật bị quy trách nhiệm. Lúc đó tình cảnh nhà Đường cũng giống như lúc An Lộc Sơn áp sát trước Đồng Quan.
Nhưng lần này Túc Tông không phạm thêm sai lầm, duy trì thế phòng thủ, còn chính quyền Đại Yên tiếp tục tự tàn hại nhau vì định bỏ con lớn lập con nhỏ. Cả An Lộc Sơn và Sử Tư Minh đều vì yêu con nhỏ nên kích động con lớn vùng vẫy mà bị giết. Còn cả An Khánh Tự và Sử Triều Nghĩa tuy "lấy lại được ngôi con trưởng" song đều không đủ tài năng duy trì cục diện mà hai người cha đã gây dựng được[55].
Chiến sự liên tục xoay chiều, vì những biến cố tự yếu đi của cả hai phía – khi giành được một số ưu thế trên mặt trận lại có sai lầm. Cái chết của Sử Tư Minh là cơ hội thứ ba cho nhà Đường giải quyết loạn An Sử. Tình cảnh của Sử Triều Nghĩa giống như An Khánh Tự, dù lực lượng nhà Đường truy kích Triều Nghĩa không hùng hậu như khi đánh Khánh Tự nhưng đủ kết liễu Đại Yên. Trong các Tiết độ sứ bỏ Đại Yên hàng nhà Đường năm 763 không có ai bị sách động làm theo việc như Sử Tư Minh đã làm (đã hàng Đường lại về theo Yên), và Đại Yên chấm dứt sự tồn tại khi không còn xuất hiện một thủ lĩnh nào khác như An Lộc Sơn và Sử Tư Minh trước đây.
Vốn mang bản tính hung hãn của người Hồ, lính kỵ binh và bộ binh Đại Yên tản mát gần như khắp nơi, đánh thành chiếm đất, phá nhà cửa và cướp bóc. Riêng quân Hồi Hột mà nhà Đường mượn sức đánh An - Sử, vì được Đường Túc Tông giao hẹn sẽ cho lấy của cải, nên khi tiến vào Lạc Dương đã thả sức giết người cướp của. Số dân thường bị quân Hồi Hột giết lên tới hàng vạn, lửa cháy 10 hôm chưa tắt[49].
Ngay cả quân đội nhà Đường, nhất là đạo quân Sóc Phương và Thần Sách, trong khi đánh chiếm Lạc Dương, Trịnh châu, Biện châu, Nhữ châu, họ xem đây là nơi "phản quân" chiếm đóng, cũng tùy tiện cướp phá trong 3 tháng, làm cho nhà cửa những nơi này trống trơn, nhân dân trong thành phải dùng giấy làm áo để mặc[49]. Không chỉ khi thắng trận, ngay cả khi thua ở Nghiệp Thành, quân triều đình trên đường rút chạy cũng thừa cơ cướp của dân[78], quan lại địa phương không thể ngăn chặn được[79].
Chỉ có vùng Giang Nam (vốn chỉ có cuộc nổi dậy của Vĩnh vương Lý Lân nhanh chóng bị dẹp) là ít bị tàn phá nhất do quân Yên bị chặn lâu ngày ở Tuy Dương không thể tiến xuống phía nam[80].
Do sự thỏa thuận với người Hồi Hột về việc hợp tác quân sự chống lại quân Đại Yên, sau khi thắng trận, người Hồi Hột đưa cho nhà Đường mấy vạn con ngựa xấu, đổi lại nhà Đường cung cấp nhiều vải lụa và lãnh loại tốt. Chính quyền nhà Đường vơ vét rất nhiều tơ lụa từ phía nam để mang đổi cho Hồi Hột, với giá trao đổi là 1 ngựa = 40-50 xấp lụa[80].
Nông nghiệp bị tàn phá, kho thóc trống rỗng, việc cung ứng thóc gạo của triều đình trung ương cũng phải trông chờ vào miền Giang Đông[80].
Trước loạn An Sử, triều đình nhà Đường thống kê toàn quốc năm 755 được 8.914.709 hộ với dân số 52.913.309 người; sau chiến loạn, số hộ chỉ còn 1.930.100 và dân số chỉ còn 6.993.860 người, nghĩa là giảm đi tới hơn 7 lần (còn 13%)[81][82]. Theo nguồn tài liệu khác, số dân trước cuộc chiến tương đương với nguồn kể trên, còn số dân sau cuộc chiến cao hơn, là 16,9 triệu người và 2,9 triệu hộ[83]. Dù là con số thống kê nào cũng cho thấy mức độ tổn hại nhân lực vô cùng lớn, nhiều nhất thì dân số Trung Quốc cũng chỉ còn không tới 1/3 so với trước cuộc chiến.
Khu vực chịu tổn thất nhiều nhất là phía bắc, thuộc lưu vực sông Hoàng Hà[84]. Bốn khu vực bị phá hoại nặng nề nhất trong cuộc chiến là Lạc Dương, Tràng An, Biện châu và Trịnh châu. Lạc Dương sau cuộc chiến được mô tả như sau[79]:
Phần lớn dân cư phương bắc ly tán, nhà cửa bị đốt phá, không còn người ở, xương trắng đầy đồng, hàng ngàn dặm tiêu điều. Nhiều người dân còn sống sót cũng phải bỏ nhà cửa quê hương ra đi, nhiều người chết trên đường tha hương[85].
Năm 763, khi Sử Triều Nghĩa thất thế, các bộ tướng cùng nhau đầu hàng. Trong hoàn cảnh đó, tướng Bộc Cố Hoài Ân sợ nếu dẹp hết các thế lực từng theo Đại Yên trước đây xong xuôi thì triều đình không còn trọng dụng mình nữa, nên đã đề nghị nhà Đường cho giữ lại những bộ tướng cũ của họ An và họ Sử như Tiết Bão, Lý Bảo Thần để họ cai quản mấy trấn vùng Hà Bắc[85]. Đường Đại Tông vì muốn nhanh chóng khôi phục nền thái bình nên chấp nhận kiến nghị đó. Vì vậy tại vùng Hà Sóc về căn bản vẫn do các tướng cũ của Đại Yên chiếm cứ.
Trong khi đó, các Tiết độ sứ của triều đình có công dẹp loạn mới được bổ nhiệm cai trị ở trung nguyên cũng được nhà Đường quá nhân nhượng, với ý định làm đối trọng giữ cân bằng với thế lực của các Tiết độ sứ ở biên trấn, nên dần dần thế lực các Tiết độ sứ này cũng ngày càng lớn, triều đình không thể khống chế được nữa.
Các phiên trấn này chỉ thần phục nhà Đường trên danh nghĩa. Họ nắm thực quyền rất lớn về chính trị, quân sự, kinh tế trong lãnh địa của mình. Hơn nữa, ngôi vị của họ lại được hưởng tập quyền, có thể truyền cho con cháu, anh em. Ngoài ra khi các thủ lĩnh mới có thể được thủ hạ tôn làm "lưu hậu" để cai quản vùng bản địa. Họ cùng nhau ép triều đình trung ương phải nhìn nhận, do đó trên thực tế họ trở thành những vùng lãnh địa của quân phiệt phong kiến có tính độc lập[85].
Các chính quyền phiên trấn, vì quyền lợi đã xảy ra xung đột liên miên mà chính quyền trung ương không có biện pháp nào ngăn chặn. Vì vậy hoàn cảnh của hoàng đế nhà Đường lúc đó rất giống với thiên tử nhà Chu thời Xuân Thu, bề ngoài được tôn nhưng thực ra không có quyền hành[85].
Nhà Đường sau loạn lạc không thể khôi phục lại thời hưng thịnh như trước đây nữa. Tình trạng phiên trấn cát cứ khiến đế quốc bị xé lẻ. Thời Đường Huyền Tông chỉ có 10 Tiết độ sứ, sau đó tăng thành trên 40 trấn lớn nhỏ[77]. Tình trạng này kéo dài duy trì hơn 100 năm sau cho tới khi nhà Đường sụp đổ (907)[86].
Do chính quyền trung ương suy yếu, không kiểm soát được các trấn, trong đó có các trấn vùng biên, sự cai quản đối với biên giới cũng rất lỏng lẻo[87]. Khu vực quản lý của triều đình ngày càng bị thu hẹp.
Năng lực bảo vệ và quản lý vùng biên cương của nhà Đường ngày càng yếu. Sau loạn An Sử, những người trấn giữ biên giới phần lớn là già yếu, tàn phế. Vì vậy các tộc Thổ Phiên, Nam Chiếu thừa cơ đến lấn cướp nhiều lần.
Nhà Đường đổi phép tô dung điệu thành phép lưỡng thuế để thích ứng với tình hình chính trị xã hội và kinh tế mới. Chế độ quân điền sụp đổ dẫn tới sự phá sản của tiểu nông, càng thúc đẩy việc di cư, lưu vong để kiếm sống.
Nhiều người di cư xuống phía nam – khu vực sông Trường Giang và sông Hán Thủy - lánh nạn, trong đó có một bộ phận quan liêu bên cạnh đại đa số là nhân dân lao động. Nhân khẩu dời xuống phía nam nhập chung vào với dân cư di dời từ thời Lưỡng Tấn Nam Bắc triều. Điều đó làm cho trung tâm không chỉ kinh tế mà cả văn hóa từ phương bắc dời xuống phía nam[71]. Từ cuối thế kỷ 8, kinh tế nhà Đường chủ yếu dựa vào miền vựa lúa Giang – Hoài, trung tâm kinh tế di chuyển từ lưu vực sông Vị về mạn Hàng châu[77][88]. Đây được xem không chỉ là bước ngoặt quan trọng trong lịch sử nhà Đường mà còn là bước ngoặt quan trọng trong xã hội phong kiến Trung Quốc[87].
- Kazakhstan
- Quốc gia Trung Á
- Quốc gia Turkic hiện đại
- Âu Á
- Thảo nguyên Âu Á
- Quốc gia và vùng lãnh thổ nói tiếng Nga
- Quốc gia và vùng lãnh thổ thành lập năm 1991
- Thành viên Tổ chức Hội nghị Hồi giáo
- Cộng hòa
- Quốc gia châu Âu
Bahrain
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
|
|||||
Khẩu hiệu quốc gia: Bahrainona بحريننا | |||||
![]() |
|||||
Các ngôn ngữ chính thức | Tiếng Ả Rập và tiếng Anh (thương mại) | ||||
Thủ đô | Ma-na-ma | ||||
Vua | Hamad bin Isa Al Khalifah | ||||
Thủ tướng | Khalifah bin Sulman al-Khalifah | ||||
Thái tử | Salman bin Hamad bin Isa Al-Khalifa | ||||
Diện tích - Tổng - % water |
Hạng 176 765,3 km² (253 dặm vuông) 0% |
||||
Dân số
- Tổng (2005) - Mật độ |
Hạng 157
688.345, gồm cả 235.108 không mang quốc tịch (ước tính, tháng 7 năm 2005) 987/km² (2.556/sq. dặm vuông) |
||||
HDI (2003) | 0,846 (43) – cao | ||||
Độc lập- Từ Anh |
15 tháng 8 năm 1971 |
||||
Tiền tệ | Đi-na Bahrain (BHD) | ||||
GDP | $ 14,08 tỷ (130) | ||||
GDP trên đầu người | $ 20.500 (50) | ||||
Múi giờ | UTC+3 | ||||
Quốc ca | Bahrainona (Bahrain của chúng ta) | ||||
Internet TLD | .bh | ||||
Mã điện thoại | 973 |
Mục lục
Lịch sử
Vị trí chiến lược của nó tại Vịnh Ba Tư đã khiến cho người Assyria, người Babylon, người Hy Lạp, người Ba Tư, và cuối cùng là người Ả Rập tìm cách chiếm quyền kiểm soát và gây ảnh hưởng lên nó. Ở thời Ả Rập cuối cùng, hòn đảo này trở thành một địa điểm của Hồi giáo. Bahrain thời xưa từng được gọi là Dilmun, Tylos (tên do người Hy Lạp đặt), Awal, cũng như tên Mishmahig trong tiếng Ba Tư khi nó rơi vào tay Đế chế Ba Tư.
Hòn đảo Bahrain, nằm ở điểm giữa phía nam Vịnh Ba Tư, đã lôi kéo sự chú ý của nhiều kẻ xâm lược trong lịch sử. Bahrain trong tiếng Ả Rập có nghĩa là "Hai Biển", và được cho là để chỉ thực tế là hòn đảo này có hai nguồn nước, những suối nước ngọt và nước mặn ở những vùng biển xung quanh, hay vùng biển ở phía nam ngăn cách nó với bờ biển Ả Rập còn vùng biển phía bắc ngăn cách nó với Iran.
Một vị trí chiến lược giữa Đông và Tây, một hòn đảo màu mỡ, nguồn nước ngọt, một nguồn lợi về ngọc trai đã biến Bahrain thành một trung tâm định cư thành thị trong suốt lịch sử. Khoảng 2.300 năm trước Công Nguyên, Bahrain đã trở thành một trung tâm của các đế chế thương mại giữa Lưỡng Hà (I-rắc hiện nay) và lưu vực sông Ấn Độ (hiện ở Pakistan). Đây là nền văn minh Delmon có quan hệ với Nền văn minh Sumer ở thiên niên kỷ thứ ba trước Công Nguyên. Bahrain đã trở thành một phần của Đế chế Babylon khoảng năm 600 trước Công Nguyên. Những ghi chép lịch sử coi Bahrain là "Cuộc sống bất từ", "Thiên đường", vv. Bahrain cũng được gọi là "Hòn ngọc Vịnh Ba Tư".
Tới tận năm 1521, Bahrain là một vùng lớn hơn gồm cả Ahsa, Qatif (cả hai hiện là tỉnh phía đông của Ả Rập Saudi) cũng như Awal (hiện là đảo Bahrain). Vùng này trải dài từ Basrah tới Eo biển Hormuz ở Oman. Đây từng là Iqlim Al-Bahrain (Tỉnh Bahrain) và người Ả Rập sống ở tỉnh này tất cả đều được gọi là người Bahrain, là con cháu của những bộ lạc Ả Rập Bani Abd Al-Qais. Năm 1521, người Bồ Đào Nha chinh phục Awal và từ đó cái tên Bahrain trở thành chính thức cho đến nay.
Từ thế kỷ 16 đến năm 1743 quyền kiểm soát Bahrain lần lượt qua tay người Bồ Đào Nha và Ba Tư. Cuối cùng, vua Ba Tư Nadir Shah xâm chiếm và kiểm soát Bahrain và vì muốn kiểm soát chính trị đã ủng hộ cộng đồng Shia đa số. Tới cuối thế kỷ 18 dòng họ Al-Khalifa tấn công và chiếm hòn đảo từ nước Qatar láng giềng. Để giữ Bahrain khỏi rơi lại vào tay Ba Tư, các tiểu vương quốc Ả Rập tham gia vào một hiệp ước về quan hệ với Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ai Len và trở thành một nước bảo hộ của Anh.
Dầu khí được phát hiện ở đây năm 1932 (xem: Giếng dầu đầu tiên) và mang lại sự hiện đại hoá và cải thiện nhanh chóng cho Bahrain. Nó cũng khiến cho những quan hệ với Anh trở nên gần gũi hơn, bằng chứng ở hành động chuyển nhiều cơ sở của Anh sang hòn đảo này. Ảnh hưởng của Anh tiếp tục tăng lên khi đất nước phát triển, lên tới cực điểm với việc chỉ định Charles Belgrave làm cố vấn; Belgrave đã lập ra một hệ thống giáo dục hiện đại ở Bahrain.
Sau Thế chiến thứ hai, tình cảm chống Anh ngày càng tăng và phát triển khắp thế giới Ả Rập dẫn tới những cuộc bạo động ở Bahrain. Năm 1960, Anh đưa tương lai Bahrain ra trước một cơ quan trọng tài quốc tế và yêu cầu Tổng thư ký Liên hiệp quốc lãnh trách nhiệm này. Năm 1970, Iran cùng lúc tuyên bố chủ quyền đối với cả Bahrain và các hòn đảo khác tại Vịnh Ba Tư, tuy nhiên, trong một thoả thuận với Anh nước này đã chấp nhận "không theo đuổi" chủ trương đòi lại Bahrain nếu các nước tuyên bố khác cũng chấp nhận như vậy. Trong cuộc trưng cầu dân ý diễn ra sau đó người dân Bahrain đã xác nhận quyền độc lập của quốc gia mình khỏi Anh và các thực thể Ả Rập của họ. Tới ngày nay, Bahrain vẫn là một thành viên của Liên đoàn Ả Rập và Hội đồng hợp tác vùng vịnh của tất cả các nước Ả Rập.
Người Anh rút khỏi Bahrain ngày 15 tháng 8 năm 1971, biến Bahrain trở thành một tiểu vương quốc Ả Rập độc lập. Cuộc bùng nổ dầu khí trong thập kỷ 1980 đã mang lại nguồn lợi lớn cho Bahrain, nhưng sự suy sụp của nó cũng rất tồi tệ. Tuy nhiên, nước này đã bắt đầu đa dạng hoá nền kinh tế của mình và đã thu được lợi ích từ cuộc Nội chiến Liban đã bắt đầu từ thập kỷ 1970; Bahrain thay thế Bê-rút trở thành trung tâm tài chính Trung Đông khi lĩnh vực ngân hàng của Liban phải rút khỏi nước này vì nội chiến.
Sau cuộc Cách mạng Hồi giáo năm 1979 ở Iran, những người Shia Bahrain theo trào lưu chính thống tổ chức một cuộc đảo chính bất thành năm 1981 dưới sự bảo trợ của một tổ chức mặt trận, Mặt trận Hồi giáo giải phóng Bahrain. Cuộc đảo chính đã khiến một tu sĩ Shia đang sống lưu vong ở Iran là Hojjat ol-Eslam Hādī al-Mudarrisī, trở thành lãnh đạo tối cao của chính phủ thần quyền.
Năm 1994 một làn sóng bạo loạn của những người Hồi giáo Shi'a bất mãn nổi lên vì những hành động bị cho là không công bằng của chính phủ. Vương quốc đã bị ảnh hưởng lớn bởi những vụ bạo lực không thường xuyên trong thời gian giữa thập niên 1990, trong đó hơn bốn mươi người đã chết dưới tay chính phủ và hàng trăm người khác bị bắt giam.
Năm 1999, Sheik Isa ibn-Sulman al- Khalifah qua đời sau bốn thập kỉ cầm quyền. Sheik Hamad ibn al-Khalifah trở thành người kế vị. Tháng 3 năm 1999, Hamad ibn Isa al-Khalifah kế tục cha trở thành lãnh đạo của nhà nước và tiến hành các cuộc bầu cử nghị viện, trao cho phụ nữ quyền bầu cử và thả các tù nhân chính trị; những hành động được tổ chức Ân xá quốc tế mô tả là thể hiện một "giai đoạn lịch sử về quyền con người". Việc này khiến đất nước có một cơ hội lớn để tiến bước, dù còn đôi chút ngập ngừng [1], về phía một sự nhất trí chính trị.
Sheik Hamad tiến hành cuộc cải cách dân chủ trên cả nước: sự kiểm duyệt được nới lỏng và các luật lệ hà khắc được thay thế, những người lưu vong trở về nước. Cuộc trưng cầu ý dân tháng 2 năm 2001 cho phép phụ nữ Bahrain lần đầu tiên được quyền bỏ phiếu, nhân dân Bahrain ủng hộ việc chuyển đổi chính thể quân chủ chuyên chế sang chính thể quân chủ lập hiến. Tháng 10 năm 2002, cuộc bầu cử Quốc hội lần đầu tiên diễn ra tại Bahrain kể từ năm 1973. Trong số 177 ứng cử viên, có 8 phụ nữ. Đây là lần đầu tiên phụ nữ Bahrain được quyền bỏ phiếu và ra tranh cử trong cuộc bầu cử toàn quốc.
Chính trị
Việc mở cửa chính trị khiến cả dòng Hồi giáo Shia và Sunni đều đạt thắng lợi trong bầu cử, khiến họ có đủ lực lượng cần thiết trong nghị viện để theo đuổi các chính sách của riêng mình. Điều này có nghĩa rằng cái gọi là "các vấn đề đạo đức" đã trở thành một vấn đề chính trị được xếp lịch bàn thảo trong nghị viện và các đảng đã tung ra các chiến dịch nhằm áp đặt các đạo luật cấm bày ma-nơ-canh phụ nữ trong các cửa tiệm để trưng bày quần áo hay treo quần áo lót trên dây phơi. Các nhà phân tích về quá trình dân chủ hóa ở Trung Đông trích dẫn những hành động cấm đoán đó của đạo Hồi như dẫn chứng về việc tôn trọng nhân quyền trong các bản báo cáo của họ và cho rằng đó là bằng chứng cho thấy các nhóm đạo Hồi đó ngày càng trở thành một lực lượng lớn mạnh trong vùng.
Các đảng tự do Bahrain đã phản ứng trước sự tăng cường quyền lực của các đảng tôn giáo cực đoan đó bằng cách tự tập hợp với nhau thông qua xã hội dân sự nhằm mục đích bảo vệ các quyền tự do cơ bản của con người khỏi bị pháp luật cấm đoán. Tháng 11 năm 2005, Al Muntada, một nhóm hàn lâm tự do đã tung ra chiến dịch "We Have A Right" nhằm giải thích với công chúng tại sao các tự do cá nhân có ý nghĩa quan trọng và tại sao chúng cần được bảo vệ.
Cả hai phái Hồi giáo Sunni và Shia đều đã gặp phải thất bại vào tháng 3 năm 2006 khi hai mươi thủ lĩnh hội đồng địa phương, đa số trong số hộ đại diện cho các đảng tôn giáo cực đoan, đã bị mất tích khi dừng chân không chủ định tại Băng Cốc trên đường quay trở về sau khi tham dự một hội nghị ở Malaysia [2]. Sau khi các thủ lĩnh mất tích đã về nước, họ đã biện hộ cho sự ở lại Băng Cốc của mình, nói với các nhà báo rằng nó là một "công tác đi tìm sự thật", giải thích: "Chúng tôi đã thu được rất nhiều từ chuyến đi tới Thái Lan bởi vì chúng tôi đã thấy được cách họ điều hành hệ thống giao thông, phong cảnh và đường xá."
Quyền chính trị của phụ nữ ở Bahrain đã có một tiến bộ quan trọng khi phụ nữ được trao quyền bầu cử và ứng cử trong các cuộc bầu cử quốc gia lần đầu tiên từ cuộc bầu cử năm 2002. Tuy nhiên, trong cuộc bầu cử năm đó, không phụ nữ nào trúng cử mà đa số thành viên nghị viện đều là người Hồi giáo dòng Sunni. Để bù trừ cho sự thất cử của các ứng cử viên nữ, sáu người trong số họ được chỉ định vào Hội đồng Shura, cũng bao gồm các đại diện của các cộng đồng thiểu số khác trong Vương quốc như Do Thái và Thiên chúa giáo. Người phụ nữ đầu tiên trong nước tham gia chính phủ là Bác sĩ Nada Haffadh, bà đảm nhiệm chức Bộ trưởng y tế từ năm 2004, trong khi một cơ cấu bán chính phủ của phụ nữ, Hội đồng phụ nữ tối cao, muốn đào tạo các ứng cử viên nữ cho cuộc tổng tuyển cử năm 2006.
Gần đây nhà vua đã lập ra Hội đồng Tòa án Tối cao để quản lý các tòa án trong nước và thể chế hóa sự phân biệt giữa hành chính và các nhánh tòa án của chính phủ.
Ngày 11-12 tháng 11 năm 2005, Bahrain tổ chức Hội nghị cho Tương lai tụ họp các lãnh đạo từ các quốc gia Trung Đông và các nước G8 để bàn bạc về cải cách kinh tế và chính trị trong vùng.
Các vùng thủ hiến
Bahrain được chia thành năm vùng thủ hiến. Cho tới ngày 3 tháng 7 năm 2002, nó được chia thành mười hai vùng đô thị; xem Các thành phố Bahrain.Để biết thêm thông tin, xem: Decree-Law establishing governorates từ website chính thức của Bahrain.
Kinh tế
Tại Bahrain, sản xuất dầu mỏ và chế biến chiếm khoảng 60% lượng xuất khẩu, 60% thu nhập chính phủ và 30% GDP. Các điều kiện kinh tế thay đổi liên tục cùng với sự biến động giá dầu từ năm 1985, ví dụ, trong và sau cuộc khủng hoảng Vùng Vịnh năm 1990-91. Với hạ tầng viễn thông và giao thông phát triển cao, Bahrain là nơi đóng trụ sở của nhiều công ty đa quốc gia làm ăn tại Vùng Vịnh. Một phần lớn xuất khẩu đến từ các sản phẩm chế biến từ dầu thô. Công việc xây dựng đang tiến hành trên nhiều dự án công nghiệp. Thất nghiệp, đặc biệt trong giới trẻ và sự giảm sút của cả dầu thô và nguồn nước ngầm hiện là những vấn đề kinh tế dài hạn.
Địa lý
Được coi là một trong 15 nước hình thành nên cái gọi là "Cái nôi của Nhân loại" ở Trung Đông, Bahrain có tổng diện tích 765,3 km² (266 mi²), hơi lớn hơn Đảo Man, dù nó nhỏ hơn Sân bay Vua Fahd ở Dammam, Ả Rập Saudi nằm bên cạnh với diện tích 780 km² (301 mi²). Vì là một quần đảo với 33 hòn đảo, Bahrain không hề có biên giới đất liền với một quốc gia nào nhưng có 161 kilômét (528 dặm) đường bờ biển và tuyên bố thêm 12 hải lý (22 km) lãnh hải và 24 hải lý (44 km) vùng tiếp giáp. Bahrain có mùa đông dịu và mùa hè nóng, ẩm kéo dài.
Các nguồn tài nguyên thiên nhiên của Bahrain gồm một lượng lớn dầu mỏ và khí ga tự nhiên cũng như nguồn cá phong phú, có lẽ đây là một điều kiện thuận lợi bởi vì đất canh tác chỉ chiếm 1% diện tích lãnh thổ và những đợt hạn hán hàng năm cũng như những cơn bão cát là thiên tai chủ yếu của cho người Bahrain.
Các vấn đề môi trường Bahrain hiện đối mặt là tình trạng sa mạc hóa kết quả từ quá trình thoái hóa đất canh tác và thoái hóa bờ biển (đe dọa đường bờ biển, dải san hô và thực vật biển) từ vụ làm đổ, làm tràn dầu thô và các hoạt động khác của tàu chở dầu. Nông nghiệp và các lĩnh vực khác sử dụng quá nhiều nguồn nước ngầm đã dẫn tới tình trạng xâm nhập của nước mặn.
Nhân khẩu
Gần đây, Bahrain đã chuyển đổi trở thành một xã hội đa chủng với nhiều cộng đồng pha trộn: hai phần ba dân số Bahrain là người Ả Rập, phần còn lại là công nhân và dân nhập cư đa số đến từ Iran, Nam Á và Đông Nam Á. Một bài báo trên tờ Financial Times xuất bản ngày 31 tháng 5 năm 1983 cho rằng "Bahrain là một quốc gia đa chủng, cả về tôn giáo và chủng tộc. Nếu không tính những người mới nhập cư trong 10 năm qua, ít nhất có tám hay chín cộng đồng hiện sống trên hòn đảo này."
Các cộng đồng hiện tại có thể được phân loại thành Al-Khalifa (các bộ tộc Ả Rập liên minh với Al-Khalifa), Baharnah (người Ả Rập Shia), Howilla (người Ả Rập Sunni từ Ba Tư), người Ả Rập Sunni (từ lục địa), Ajam (dân tộc Shia Ba Tư), những người Ấn Độ đã buôn bán với Bahrain và định cư ở đó trước giai đoạn dầu mỏ (thường được gọi là Banyan), một cộng đồng Do Thái nhỏ, và một nhóm pha tạp khác.
Văn hoá
- Bài chính: Văn hoá Bahrain
Còn quá sớm để nói rằng sự tự do hóa chính trị của Vua Hamad bin Isa Al Khalifa sẽ làm gia tăng hay giảm bớt tính đa nguyên truyền thống của Bahrain. Không gian chính trị mới của người Hồi giáo Shia và Sunni có nghĩa rằng hiện nay họ đang có một vị trí mạnh hơn trước để theo đuổi các chương trình có mục tiêu đương đầu trực tiếp với chủ nghĩa đa nguyên đó, cùng lúc các cải cách chính trị đã khuyến khích một khuynh hướng đối lập để xã hội trở nên có tính tự phê bình cao hơn cùng một tham vọng xem xét lại những cấm kỵ xã hội trước đó. Hiện nay có nhiều hội thảo về các chủ đề trước kia chưa từng được đả động tới như các vấn đề hôn nhân và sex và lạm dụng trẻ em. Một khía cạnh khác của sự mở cửa mới đây là số lượng sách xuất bản của Bahrain lớn nhất trong thế giới Ả Rập, với 132 cuốn sách xuất bản năm 2005 cho một dân số 700,000 người. So sánh với, mức trung bình cho toàn bộ thế giới Ả Rập là bảy cuốn sách trên một triệu người năm 2005, theo Chương trình phát triển Liên hiệp quốc. [3]
Ngày 20 tháng 10 năm 2005 Michael Jackson đã bày tỏ ý định rời Hoa Kỳ để tìm kiếm một cuộc sống mới tại Bahrain. Theo các nguồn thông tin, Jackson đã nói với bạn bè rằng mình cảm thấy "ngày càng trở thành một người Bahrain" sau khi mua một biệt thự tại Sanad, và hiện đang tìm kiếm một bất động sản khác ở gần bờ biển. Những nhân vật nổi tiếng khác có liên quan tới vương quốc này gồm tay đua Công thức 1 Jenson Button, người cũng sở hữu một bất động sản, và Shakira (để thêm chi tiết xem Danh sách những người nổi tiếng có liên quan đến Bahrain).
Các tầng lớp trung lưu thường có một quan điểm rất toàn cầu, và với việc nhạc rap đang trở nên phổ biến trong giới trẻ Bahrain. [4]
Ngôn ngữ
Tiếng Ả Rập là ngôn ngữ chính thức của Bahrain. Hai thổ ngữ chính khác là tiếng Ả Rập Baharna, do những người thổ dân Baharna Shia sử dụng, và tiếng Ả Rập vùng Vịnh của người Sunnis. Tiếng Ba Tư, tiếng Urdu, tiếng Anh và tiếng Malayalam cũng được nhiều nhóm người sử dụng.Công thức 1
Bahrain là nơi tổ chức cuộc đua Công thức 1 ở Trung Đông. Họ đã bắt đầu đăng cai Gulf Air Grand Prix ngày 4 tháng 4 năm 2004, lần đầu tiên cho một quốc gia Ả Rập. Tiếp sau là Bahrain Grand Prix vào năm 2005. Bahrain đã tổ chức thành công giải Grand Prix khởi động của mùa giải 2006 vào ngày 12 tháng 3.Những ngày lễ
Ngày | Tên tiếng Việt | Tên tiếng địa phương | Ghi chú |
---|---|---|---|
1 tháng 1 | Năm mới | - | - |
1 tháng 5 | Ngày lễ Lao động | - | |
16 tháng 12 | Quốc khánh | Eid al-Watani | - |
17 tháng 12 | Ngày thăng thiên (Accession day) | - | - |
ngày tuỳ thuộc | Bữa tiệc của sự hi sinh hay Bữa tiệc lớn (4 ngày) | Eid ul-Adha | Kỷ niệm Abraham tự nguyện hi sinh con trai, xảy ra vào cuối tháng hajj |
ngày tuỳ thuộc | Bữa tiệc nhỏ (3 ngày) | Eid ul-Fitr | Kỷ niệm kết thúc tháng Ramadan |
ngày tuỳ thuộc | Năm mới Hijri | Muharram | Năm mới Hồi giáo |
ngày tuỳ thuộc | Al-Isra' ul-Miraj | - | Kỷ niệm chuyến đi của Muhammad tới Thiên đường |
ngày tuỳ thuộc | Ngày sinh Nhà tiên tri Muhammad | Mawlid al-Nabi | - |
ngày tuỳ thuộc | Ashoura (2 ngày) | Kỷ niệm sự hi sinh vì đạo của Imam Al Hussain (AS) tại Karbala' | - |
Tôn giáo
Hồi giáo là tôn giáo chính thức của Bahrain, với 99,8% dân số là tín đồ Hồi giáo.[1] Số liệu điều tra dân số hiện tại không phân biệt giữa các tôn giáo khác nhau tại Bahrain, nhưng ước tính có khoảng 1.000[2] người là tín hữu Kitô giáo và khoảng 40 người Do Thái giáo[3].Người Hồi giáo Bahrain thuộc hai dòng chính là Shia và Sunni. Không có con số chính thức, nhưng ước tính người Shia chiếm 66-70% trong tổng số tín đồ Hồi giáo nước này, còn lại là người Sunni.[4] Người nước ngoài, chủ yếu từ Nam Á và các nước Ả Rập khác, tạo thành một cộng đồng chiếm đến 54% dân số trong năm 2010.[1] Trong số này, 45% là người Hồi giáo và 55% là không theo đạo Hồi,[1] bao gồm cả Kitô hữu (chủ yếu là: Thiên Chúa giáo, Tin Lành, Chính Thống Syria, và giáo phái Mar Thoma từ miền Nam Ấn Độ), đạo Hindu, Baha'is, Phật giáo, và đạo Sikh.[5]
Giáo dục
- Xem thêm: Các tổ chức Hướng đạo sinh ở Bahrain
Các trường Côran (Kuttab) từng là hình thức giáo dục duy nhất ở Bahrain vào đầu thế kỷ 20. Chúng là các trường truyền thống với mục đích dạy trẻ em và thanh niên đọc kinh Côran. Nhiều người Bahrain đã thấy rằng kiểu giáo dục này không đáp ứng nhu cầu giáo dục hàn lâm của thời đại. Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, mọi thứ đã thay đổi và Bahrain trở nên mở rộng hơn cùng với sự phục hồi của các nước phương tây. Những thay đổi về chính trị và xã hội đã xảy ra trong đất nước gây nên sự tăng cường nhận thức về xã hội và văn hóa trong nhân dân.
Vì những lý do đó, một nhu cầu về các cơ sở giáo dục hiện đại khác biệt cả về hệ thống, mục tiêu và chương trình giảng dạy so với (Kuttab) trước kia đã xuất hiện.
Năm 1919 đánh dấu sự khởi đầu của hệ thống trường công hiện đại ở Bahrain. Trường Al-Hidaya Al-Khalifia cho trẻ em nam đã được mở cửa ở Muharraq. Năm 1926, Ủy ban giáo dục đã mở một trường thứ hai cho các em nam tại Ma-na-ma.
Năm 1928 trường công đầu tiên cho các em nữ được mở cửa tại Muharraq.
Tổ chức giáo dục cao học đầu tiên ở Bahrain, Trường bách khoa Vùng Vịnh, được hoàn thành năm 1968 với cái tên Đại học kỹ thuật Vùng Vịnh. Năm 1986 Trường bách khoa Vùng Vịnh sáp nhập với Đại học Nghệ thuật, Khoa học và Giáo dục, được thành lập năm 1979, để tạo nên Đại học Bahrain, một đại học quốc gia có khả năng đào tạo các cử nhân văn chương và cử nhân khoa học cũng như đào tạo ở trình độ thạc sĩ.
Ngày nay, có nhiều trường tư tại Isa Town, một trong những trường nổi tiếng là Indian School
Du lịch
- Các bài chính, Du lịch Bahrain và Danh sách các địa điểm du lịch tại Bahrain
Bahrain là một sự hòa hợp giữa hạ tầng hiện đại và một xã hội khá tự do cùng với sự gần gũi với Vùng Vịnh khiến nó trở thành một nơi lý tưởng để thâm nhập vào Trung Đông. Những địa điểm thu hút nhiều du khách như pháo đài Qalat Al Bahrain mới được UNESCO liệt vào danh sách di sản văn hóa thế giới và nhiều khu vực khảo cổ khác thể hiện văn hóa truyền thống Ả rập. Du khách còn có cơ hội mua sắm trong các trung tâm thương mại và các khu chợ truyền thống khác cũng như nghỉ ngơi giải trí tại nhiều khách sạn và khu du lịch hiện đại.
Bahrain cũng có một bãi biển nổi tiếng ở Zallaq.
Các địa điểm ở Bahrain
Tham khảo
- ^ a ă â http://www.census2010.gov.bh/results_en.php
- ^ http://www.avona.org/bahrain/bahrain_about.htm
- ^ http://www.independent.co.uk/news/world/middle-east/low-profile-but-welcome-a-jewish-outpost-in-the-gulf-398656.html
- ^ http://www.bici.org.bh/
- ^ http://www.state.gov/j/drl/rls/irf/2010_5/168261.htm
Liên kết ngoài
Tìm thêm về Bahrain tại những đồng dự án của Wikipedia: | |
![]() |
Từ điển ở Wiktionary |
![]() |
Sách ở Wikibooks |
![]() |
Cẩm nang du lịch ở Wikivoyage |
![]() |
Hồ sơ ở Wikiquote |
![]() |
Văn kiện ở Wikisource |
![]() |
Hình ảnh và phương tiện ở Commons |
![]() |
Tin tức ở Wikinews |
![]() |
Tài liệu giáo dục ở Wikiversity |
- Bahrain Government official web site
- Bahrain Writer's Society
- Karrana village - Bahrain includes Background Notes, Album and heritage page.
- Karrana village album - Bahrain includes hundreds of images about karrana.
- Spring of Culture, tháng 3 năm 2006 cultural festival
- Romanya vize
Thông tin chung
- [5] CIA World Fact Book (contains 2001 census)
- Bahrain News Agency in English
- Bahrain Tribune - The Gulf's first smart-size English language daily newspaper
- Gulf Daily News - Bahrain's main English language daily newspaper
- al-Bab - Bahrain
- Arab Links - Bahrain
- Open Directory Project - Bahrain directory category
- Encyclopedia of the Nations - Bahrain
- US State Department - Bahrain includes Background Notes, Country Study and major reports
- iXpats.com - Bahrain Online community for expats living and working in Bahrain
- Microsoft Online Encyclopedia - Bahrain
- - Bahrain Travel Guide Every thing you need to know about living and working in Bahrain including Bahrain F1, Bahrain Hotels & much more.
- Bahrain IT Team The the new vision of IT in Bahrain
|
|
|
![]() |
Wikimedia Commons có thêm thể loại hình ảnh và phương tiện truyền tải về Bahrain |
Loạn An Sử
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
|
Mục lục
Nguyên nhân
Sau giai đoạn cực thịnh trong những năm đầu thời Đường Huyền Tông, sự cai trị của nhà Đường nảy sinh những mâu thuẫn trong đời sống xã hội. Cuộc nổi dậy của họ An và họ Sử có thể được lý giải từ nhiều nguyên nhân.Mâu thuẫn giữa chính quyền và người dân
Đường Huyền Tông trong cuối những năm Khai Nguyên (713-741) đã say sưa trong phú quý, chểnh mảng chính sự. Sang niên hiệu Thiên Bảo (từ 742), Huyền Tông càng lo hưởng lạc và mất sáng suốt[1].Không chỉ riêng vua Huyền Tông, những người trong tông thất và quan lại đều có đời sống xa xỉ. Cùng lúc, nhà Đường vẫn gây những cuộc chiến với các nước xung quanh khiến chi phí của triều đình ngày càng nhiều, sức ép về tài chính ngày càng đè nặng. Để giải quyết sự mất cân đối giữa thu và chi, triều đình tăng mức sưu thuế mà nhân dân phải đóng góp. Nhiều quan lại địa phương nhân lệnh tăng thuế của triều đình trung ương để tăng cường vơ vét của dân làm giàu. Một số người dân không chịu nổi mức thuế cao phải bỏ trốn. Để bù phần thiếu hụt của những người bỏ trốn, triều đình lại bắt chia số thiếu của người bỏ trốn đánh đều vào những người xung quanh. Bị bóc lột nặng nề hơn, những người sống yên lành lúc đó không còn chịu nổi sưu cao thuế nặng cũng buộc phải bỏ trốn theo những người kia[2].
Thậm chí có viên tướng Vương Hỏng giữ chức Hộ khẩu sắc dịch sứ còn ra lệnh truy thu thuế với những người lính chết trận mà chưa được tướng chỉ huy ngoài vùng biên cương xóa bỏ hộ tịch, trong đó có người bị truy thu thuế tới 30 năm. Ngoài sưu thuế, người dân còn phải chịu chế độ binh dịch rất nặng nề. Điều đó khiến mâu thuẫn giữa chính quyền nhà Đường và nhân dân ngày càng sâu sắc[2].
Mâu thuẫn sắc tộc
Từ cuối những năm Khai Nguyên sang đầu những năm Thiên Bảo, Đường Huyền Tông nhiều lần điều quân đi đánh các nước lân cận ở phía tây, tây nam, phía bắc và đông bắc như Thổ Phồn, Nam Chiếu, Khiết Đan, Đại Thực… khiến không chỉ dân trong nước oán hận về binh dịch mà còn gây thù với những dân tộc xung quanh.Từ thời nhà Tùy, có nhiều người Đột Quyết đã di cư tới phía bắc U châu; tại Liêu Tây có nhiều người Hề và người Khiết Đan đến cư trú. Họ vẫn bảo lưu tập tục truyền thống của mình. Cuối thế kỷ 7 từng xảy ra việc ngược đãi người dị tộc của tướng nhà Đường khiến họ nổi dậy chống lại. Khi mới lên ngôi, Đường Huyền Tông đã dàn xếp được mâu thuẫn tạm thời, nhưng tới những năm Thiên Bảo tình hình lại căng thẳng.
Mâu thuẫn trong giới cầm quyền
Trong nội bộ giai cấp thống trị nhà Đường, ngày càng nhiều mâu thuẫn nảy sinh giữa các phe phái không chấm dứt. Trong thời hậu kỳ, Đường Huyền Tông ngày càng mê muội, xa lánh những quan lại trung lương nên họ phải rút khỏi chính quyền. Một nhóm gian thần cầm đầu là Lý Lâm Phủ (một người họ xa trong tông thất), một nhóm khác là các hoạn quan đứng đầu là Cao Lực Sĩ cùng trỗi dậy. Bên cạnh đó, lực lượng ngoại thích do Dương Quốc Trung (có cùng cụ nội với Dương Ngọc Hoàn) cũng có quyền thế ngày càng lớn. Các phe phái trong triều đấu tranh khi ngấm ngầm khi công khai đều nhằm mục đích tư lợi không vì lợi ích quốc gia khiến việc chính trị ngày càng rối ren[3].Sai lầm về chính sách biên cương
Một trong những sai lầm lớn của Đường Huyền Tông là áp dụng chính sách "trong nhẹ ngoài nặng" theo tể tướng Lý Lâm Phủ.Trước đây nhà Đường thịnh hành một nguyên tắc "trong nặng ngoài nhẹ" cho người lính luân phiên chịu binh dịch và làm ruộng; nhưng sau đó áp dụng chế độ mộ binh khiến người lính trở thành những quân nhân chuyên nghiệp. Chế độ này tuy nâng cao tinh thần chiến đấu của binh sĩ, nhưng mặt khác lại khiến người lính phụ thuộc nhiều hơn vào thủ lĩnh chỉ huy chứ không phụ thuộc vào triều đình. Hơn nữa, Đường Huyền Tông ham mở rộng lãnh thổ, cho các tướng tự mình mộ binh và nuôi quân để lập công, nên binh lực các trấn ngoài biên của các tướng địa phương ngày càng mạnh. Theo thống kê những năm đầu niên hiệu Thiên Bảo, binh lực của các trấn vùng biên có tới 49 vạn, trong khi quân triều đình trung ương do nhà Đường trực tiếp quản lý tại kinh thành và các châu chỉ có 8 vạn người[4]. Con số chênh lệch đó phản ánh rõ tình trạng "trong nhẹ ngoài nặng".
Ngoài quân sĩ, Đường Huyền Tông còn nghe theo Lý Lâm Phủ ra quyết sách sai lầm trong chính sách nhân sự với các tướng sĩ. Từ khi nhà Đường khai lập, các tướng trông giữ biên cương đều là những trung thần có đủ tài đức. Do đó sau một thời gian họ lập công ngoài biên ải, triều đình đều triệu về cho giữ chức vụ cao, kể cả Tể tướng, như Lý Tĩnh, Lý Tích, Lưu Nhân Quỹ, Lâu Sư Đức, Tiết Nột, Quách Nguyên Chấn, Trương Gia Trinh, Trương Duyệt, Tiêu Khao… Đối với các Phiên tướng (tướng người thiểu số), dù họ có lòng trung thành, nhà Đường vẫn luôn khống chế chức vụ, dù để họ làm tướng cầm quân nhưng vẫn phân công một đại thần người Hán đi kèm giữ vai trò thống soái nhằm kiềm chế họ[5].
Chính sách này giúp hạn chế tình trạng cát cứ của các tướng lĩnh địa phương, không ai nắm quyền ngoài biên ải quá lâu; và các tướng người thiểu số có sự giám sát. Nhưng đến khi Lý Lâm Phủ làm Tể tướng sợ các tướng ngoài biên ải về giành mất ngôi đầu triều của mình, nên kiến nghị Huyền Tông áp dụng chính sách dùng các tướng "người Hồ" làm thống soái ngoài biên cương, không khống chế họ ở dưới một đại thần người Hán của triều đình nữa. Lý do Lý Lâm Phủ nêu ra là các tướng người Hồ dũng cảm thiện chiến, không có mối quan hệ xã hội phức tạp ở trung nguyên, không biết chữ Hán, cô lập không có bè cánh, như vậy đáng tin cậy hơn các tướng người Hán. Đường Huyền Tông nghe theo. Các tướng người Hồ dù lập nhiều công nhưng không có cơ hội về triều trở thành Tể tướng do trình độ văn hóa thấp và điều đó khiến Lý Lâm Phủ yên tâm với ngôi vị của mình[5].
Ngay trước khi Lâm Phủ nêu kiến nghị này, đã xảy ra vụ án tướng Vương Thừa Tự đang làm Tiết độ sứ Hà Tây bị vu cáo muốn dùng binh lực bản bộ giúp Thái tử lên ngôi hoàng đế. Đường Huyền Tông không xét đoán đã ra lệnh bắt ngay Vương Thừa Tự xử tử. Đúng lúc đó nghe kiến nghị của Lý Lâm Phủ, Huyền Tông lập tức chấp nhận, bèn đề bạt các tướng người Hồ như An Lộc Sơn, An Tư Thuận, Kha Thư Hàn, Cao Tiên Chi làm đại tướng. Các tướng người Hồ, điển hình là An Lộc Sơn, có cơ hội phát triển lực lượng riêng vùng biên ải ngày càng trở nên lớn mạnh ngoài sự khống chế của triều đình[5].
Đương thời 10 trấn nhà Đường năm 742 dưới thời Đường Huyền Tông có thực lực quân sự như sau[6]:
Thứ tự | Tên phiên trấn | Lỵ sở vùng kiểm soát | Số lính | Số ngựa |
---|---|---|---|---|
1 | An Tây | Kucha (lưu vực Tarim) | 24.000 | 2.700 |
2 | Bắc Đình | Besbalik (gần Urumqi) | 20.000 | 5.000 |
3 | Hà Tây | Lương châu (miền trung Cam Túc) | 73.000 | 7.900 |
4 | Sóc Phương | Linh châu (thượng lưu Hoàng Hà) | 64.700 | 13.300 |
5 | Hà Đông | Thái Nguyên (sơn Tây) | 55.000 | 14.800 |
6 | Phạm Dương | U châu (Bắc Kinh) | 91.000 | 6.500 |
7 | Bình Lư | Dinh châu (Sơn Đông) | 37.500 | 5.500 |
8 | Lũng Hữu | Xiển châu (Kokonor) | 75.000 | 10.000 |
9 | Kiếm Nam | Thành Đô (Tứ Xuyên) | 30.900 | 2.000 |
10 | Lĩnh Nam | Quảng châu | 15.400 | (không rõ) |
Sự chuẩn bị của An Lộc Sơn
Lấy lòng vua Đường
Thủ lĩnh cầm đầu cuộc nổi dậy chống nhà Đường là An Lộc Sơn. An Lộc Sơn là người Liễu Thành, tên thật là An Rokhan, người dân tộc Túc Đặc. Lộc Sơn nguyên mang họ Khang, nhưng sau đó bà mẹ cải giá với An Diên Yểm nên lấy họ An. Lộc Sơn là phiên âm tiếng Hán của chữ Lushi, theo tiếng bản tộc có nghĩa là "ánh sáng".Lộc Sơn đầu quân làm tướng nhà Đường, nhờ chiến đấu dũng cảm và tỏ ra trung thành nên nhanh chóng được thăng tiến. Từ năm 740 đến năm 751, An Lộc Sơn được thăng từ đô đốc Doanh châu lên Tiết độ sứ ba trấn Phạm Dương, Hà Đông và Bình Lư, nắm toàn bộ vùng đông bắc Trung Quốc khi đó.
Tuy có trí thông minh nhưng Lộc Sơn luôn tỏ ra vụng về ngốc nghếch khiến Đường Huyền Tông rất tin tưởng và nhận ông làm con nuôi. Vợ Huyền Tông là Dương Quý Phi trở thành mẹ nuôi của Lộc Sơn, dù kém ông 16 tuổi. Tuy nhiên chính từ lúc ra vào triều kiến vua Đường, Lộc Sơn và Dương Quý Phi bắt đầu có quan hệ lén lút[7] nhưng Huyền Tông không hề nghi ngờ mà càng thêm tín nhiệm Lộc Sơn[8]. An Lộc Sơn to béo bụng phệ, theo sử sách ghi lại thì người nặng tới 330 cân[9]. Huyền Tông thấy vậy hỏi, Lộc Sơn lại mau miệng đáp rằng bụng to vì mang lòng trung với vua Đường. Huyền Tông nghe thế lại càng tin Lộc Sơn.
Xây dựng lực lượng
Ngay khi Lộc Sơn chưa có thế mạnh thì Tể tướng Trương Cửu Linh, thái tử Lý Hanh… đã không vừa lòng với Lộc Sơn và cảnh báo Huyền Tông rằng Lộc Sơn sẽ làm phản. Huyền Tông không tin, trái lại còn thỏa mãn các yêu cầu của Lộc Sơn như cho bổ sung quân nhu và binh mã[8]. Dựa vào các quan lại có qua lại trong triều, An Lộc Sơn biết được thái độ của thái tử Hanh với mình, nên càng gấp rút chuẩn bị lực lượng để lo cho tương lai sau khi Đường Huyền Tông qua đời[10].Để sau này có đường lui, dựa vào sự tín nhiệm hiện tại của Đường Huyền Tông, An Lộc Sơn bắt đầu xây dựng thực lực riêng cho mình. Ông thu dụng những văn sĩ bất mãn người Hán như Nghiêm Trang, Cao Thượng, Trương Thông Nho, Lý Đình Kiên làm mưu sĩ.
Với khả năng biết tới 6 thứ tiếng các tộc thiểu số, ông ra sức chiêu dụ các quân nhân người tộc này. Sau các trận đánh có quân đầu hàng hoặc bị bắt, đích thân ông dùng ngôn ngữ của họ để giao tiếp gây thiện cảm, an ủi họ, lôi kéo trở thành trợ thủ đắc lực. Ông tuyển chọn ra 8000 quân thiện chiến làm lực lượng nòng cốt, nhiều người bộ tộc Đồng La, Hề, Khiết Đan rất dũng mãnh, thiện chiến mà ông nuôi dưỡng, huấn luyện thành lực lượng riêng gọi là Duệ lạc hà (Tiếng bản tộc có nghĩa là tráng sĩ).
Năm 754, An Lộc Sơn tiến thêm một bước để thu phục lòng trung thành của họ, đề bạt 500 người Hề, Khiết Đan, Cửu Tính, Đồng La lên làm tướng quân và 2000 người thăng chức Trung lang tướng. Đầu năm 755 ông lại dùng 32 tướng người Hồ thay các tướng người Hán, từ đó toàn bộ tướng lãnh dưới quyền An Lộc Sơn đều là người Hồ. Ngoài ra, An Lộc Sơn còn ra sức tích lương thảo, nuôi nhiều chiến mã, làm số quân và thực lực mạnh hơn hẳn lực lượng của triều đình trung ương nhà Đường.
Các hành động của An Lộc Sơn khiến nhiều người trong chính quyền trung ương nghi ngờ. Tới giai đoạn sau, khi binh lực của Lộc Sơn đã mạnh, các quyền thần như Lý Lâm Phủ, Dương Quốc Trung đều có những tính toán riêng, nên họ đều có ý định lợi dụng An Lộc Sơn và đề phòng lẫn nhau. An Lộc Sơn đã khôn khéo triệt để lợi dụng mâu thuẫn giữa các đại thần trong chính quyền trung ương để tranh thủ thời gian chuẩn bị thế lực cho mình.
Cho tới năm 755, An Lộc Sơn đã cất nhắc và trọng dụng các tướng văn, võ vào bộ máy dưới quyền mình gồm:
- Bên văn có Cao Thượng, Nghiêm Trang, Trương Thông Nho, Lý Đình Kiên, Bình Liệt, Lý Sử Ngư, Độc Cô Vấn Tục
- Bên võ có Sử Tư Minh, An Thủ Trung, Lý Quy Nhân, Thái Hy Đức, Ngưu Đình Giới, Hướng Thuận Dung, Lý Đình Vọng, Thôi Càn Hựu, Doãn Tử Kỳ, Hà Thiên Nhiên, Vũ Lệnh Tuần, Hùng Nguyên Hạo, Điền Thừa Tự, Điền Càn Chân, A Sử Na Thừa Khánh
Chiến tranh bùng phát
Năm 752, Lý Lâm Phủ chết, quyền hành trong triều đình Tràng An lọt vào tay ngoại thích Dương Quốc Trung - anh họ (cùng cụ nội) của Dương Quý Phi. Quốc Trung trở thành Tể tướng. Dương Quốc Trung và An Lộc Sơn cùng tranh giành sự ân sủng của Đường Huyền Tông nên nảy sinh mâu thuẫn ngày càng gay gắt.Dương Quốc Trung cảnh báo với Huyền Tông rằng Lộc Sơn sẽ làm phản. Đường Huyền Tông nghi hoặc sai sứ đi dò xét. An Lộc Sơn đều mua chuộc bằng vàng bạc nên các sứ giả ai cũng ca ngợi ông. Nhờ tài năng đánh dẹp, chiêu dụ sự phản loạn của một số bộ tộc người Hề và người Khiết Đan ở biên cương, ông càng được vua Đường xem là bức thành bảo vệ biên giới. Huyền Tông tuổi già, ham hưởng lạc, cho con Lộc Sơn làm quan trong triều, sau đó còn thông gia với Lộc Sơn, gả con gái cho con trai Lộc Sơn là An Khánh Tông.
Nhưng những việc xây dựng lực lượng của An Lộc khiến không chỉ Dương Quốc Trung mà cả các triều thần khác cùng dấy lên dư luận nghi ngại về việc ông sẽ làm phản. Dù đã có ý làm phản nhưng An Lộc Sơn nghĩ tới ân tình của Đường Huyền Tông quá tín nhiệm mình nên còn do dự[11].
Tuy nhiên, Dương Quốc Trung muốn minh chứng cho lời nhận xét của mình về Lộc Sơn, càng ngày càng tỏ ý định trừ bỏ Lộc Sơn. Thêm vào đó, có lời đề nghị nên quyết đoán hành động của Sử Tư Minh và các mưu sĩ Nghiêm Trang, Cao Thượng đã thúc đẩy Lộc Sơn quyết định dấy binh chống nhà Đường.
Ngày Giáp Tý (16) tháng 11 năm Ất Mùi[12] (tức 16 tháng 12 năm 755), với danh nghĩa "phụng mật chiếu hoàng đế thảo phạt Dương Quốc Trung", An Lộc Sơn khởi binh từ Phạm Dương, chính thức phản lại nhà Đường[11].
An Lộc Sơn đánh chiếm hai kinh
Đánh chiếm Lạc Dương
An Lộc Sơn có 15 vạn quân, nói phao lên là 20 vạn[13], ồ ạt tiến xuống phía nam. Khi tin Lộc Sơn làm phản truyền đến Tràng An, ban đầu Đường Huyền Tông không tin, cho là tin đồn thất thiệt. Đến khi tin được xác nhận là đúng, cả Huyền Tông và nhiều quan lại trong triều đều hốt hoảng, mất bình tĩnh.Dương Quốc Trung tự cho mình là đã dự kiến được điều đó, và tiếp tục dự đoán rằng quân phản sẽ chỉ hoạt động được chục ngày thì sẽ xảy ra chia rẽ nội bộ, Lộc Sơn sẽ bị thủ hạ giết. Đường Huyền Tông và các triều thần quen an nhàn, khi bất ngờ gặp tai biến có tâm lý cầu may, tin vào Dương Quốc Trung[13].
Nhưng quân An Lộc Sơn mạnh mẽ hơn nhiều so với sự dự liệu của nhà Đường. Trong không đầy 1 tháng, An Lộc Sơn đã kéo tới Linh Xương[14], vượt qua sông Hoàng Hà, gần như không gặp sự chống đối nào, liên tiếp hạ thành chiếm đất. Sau đó An Lộc Sơn đánh chiếm các trọng điểm Trần Lưu[15], Vinh Dương và tiến đánh Lạc Dương.
Đường Huyền Tông vội điều binh, cho Phong Thường Thanh làm Tiết độ sứ Phạm Dương (thay An Lộc Sơn), đến Lạc Dương mộ binh chống lại An Lộc Sơn. Mặt khác, Huyền Tông tự mộ thêm 5 vạn người ngựa, giao cho Tiết độ sứ An Tây là Cao Tiên Chi đóng giữ Thiểm châu; lại cử Quách Tử Nghi làm Tiết độ sứ Sóc Phương phòng thủ phía đông nam Hoàng Hà. Triều đình cần một người làm tổng quản quân đội ở Hà Bắc, Sơn Đông, Huyền Tông bèn trưng cầu các tướng đề cử. Quách Tử Nghi tiến cử Lý Quang Bật, Huyền Tông tiếp nhận ngay, phong Quang Bật làm Tiết độ sứ Hà Đông.
Phong Thường Thanh mộ được 6 vạn quân, nhưng họ đều là những người dân ở chợ búa chưa từng luyện tập và chưa quen đánh trận. Thường Thanh mang quân ra cửa Vũ Lao chặn đánh Lộc Sơn, nhưng bị đánh bại phải quay về giữ Lạc Dương. An Lộc Sơn kéo đến vây đánh Lạc Dương. Quân ô hợp của Thường Thanh không địch nổi, nhanh chóng bị đánh bại lần thứ hai. Lộc Sơn chiếm được đông đô Lạc Dương.
Phong Thường Thanh chạy tới Thiểm châu[16], hội quân với Cao Tiên Chi. An Lộc Sơn tiếp tục tiến quân đánh Thiểm châu, tiếp tục đánh bại hai tướng nhà Đường. Tiên Chi và Thường Thanh thua trận chạy về giữ ải Đồng Quan. Đường Huyền Tông nghe tin Thường Thanh thua trận bèn tước hết quan chức. Cao Tiên Chi lệnh cho Thường Thanh tuần tra giám sát các trại xung quanh.
Đường Huyền Tông sai hoạn quan Biên Lệnh Thành ra làm Giám quân, giám sát quân Cao Tiên Chi. Biên Lệnh Thành thường hạch sách bắt Cao Tiên Chi thỏa mãn yêu cầu cá nhân, nhưng đều bị Tiên Chi từ chối[17].
Đường Huyền Tông không đánh giá hết thực lực của quân An Lộc Sơn[11], nghe theo lời gièm của hoạn quan Biên Lệnh Thành rằng Cao Tiên Chi vô cớ bỏ thành giải tán quân và tự ý giảm khẩu phần của binh lính, quy trách nhiệm cho hai tướng để thua trận, hạ lệnh giết cả Phong Thường Thanh và Cao Tiên Chi, cử Kha Thư Hàn đang ốm[11] ra trấn thủ Đồng Quan.
Chiến sự ở Hà Bắc
Các thành nhà Đường bị vây hãm
An Lộc Sơn nhanh chóng đánh chiếm hầu hết đất đai Hà Bắc như gió cuốn, nhưng trong địa bàn mới chiếm được vẫn có một số tướng nhà Đường tận lực trung thành, kiên trì giữ thành thế thủ không đầu hàng, như Thái thú Bình Nguyên là Nhan Chân Khanh, Thái thú Thường Sơn là Nhan Cảo Khanh (hai anh em họ). Mười bảy quận Hà Bắc nghe theo các tướng họ Nhan, cùng nhau phản lại Lộc Sơn, trở lại quy thuận nhà Đường. An Lộc Sơn chỉ còn làm chủ các quận Hà Bắc là Ngư Dương, Phạm Dương, Bắc Bình, Mật Vân, Cấp Nghiệp, buộc phải ngưng đánh Đồng Quan, quay trở lại chinh chiến. Ông tự mình đóng quân tại Lạc Dương để điều binh các trấn.Nhân đó, các tướng ở Hà Nam đang bị quân An Lộc Sơn chiếm như Thái thú Nam Dương là Lỗ Linh, thái thú Tuy Dương là Hứa Viễn, huyện lệnh Chân Nguyên là Trương Tuần cũng khởi binh chống lại An Lộc Sơn, chặn giữ con đường tiến xuống phía nam.
Trong các thành trì chống An Lộc Sơn trong vùng Lộc Sơn quản lý, quận Thường Sơn[18] bị hạ đầu tiên. Thái thú Nhan Cảo Khanh không chống nổi đại quân Sử Tư Minh, bị quân Yên bắt. Quân Yên dụ hàng không được bèn giết Cảo Khanh.
An Lộc Sơn nôn nóng muốn làm hoàng đế[19] nên sang tháng giêng năm sau (756), tự xưng là Đại Yên hoàng đế, đặt niên hiệu là Thánh Vũ. Ông phong con thứ là An Khánh Tự làm Tấn vương, Trương Thông Nho làm Trung thư lệnh, Cao Thượng và Nghiêm Trang làm Trung thư thị lang; sai An Khánh Tự làm tiên phong cùng Thôi Càn Hựu mang quân đi đánh Đồng Quan - cửa ngõ kinh thành Tràng An. Lộc Sơn giao cho Sử Tư Minh lo việc đánh dẹp các thành trì còn chưa chiếm được ở Hà Bắc và phòng giữ căn cứ Phạm Dương.
Mũi ra quân của Quách, Lý từ Tràng An
Tháng giêng năm 756, Lý Quang Bật mang 5000 quân tiến về phía đông, đánh phá Tỉnh Hình[20], quận Thường Sơn. Tướng Yên là Sử Tư Minh mang mấy vạn quân đến cứu viện, cắt đứt đường vận lương của quân Đường. Lý Quang Bật mang 500 cỗ xe đến Thạch Ấp[21] lấy lương, cùng 1000 quân đi hộ vệ. Trên đường băng qua vùng kiểm soát của Sử Tư Minh, Quang Bật sai quân xếp theo đội hình vuông, thần tốc hành quân, kết quả vượt qua vùng quân Yên. Khi Sử Tư Minh phát hiện thì Quang Bật đã đi khỏi. Có lương thảo đầy đủ, Lý Quang Bật tập hợp lực lượng đánh bại Tư Minh, giành lại hơn 10 huyện.Tháng 4 năm 756, tướng Quách Tử Nghi nhà Đường giành lại được 2 quận Vân Trung[22] và Mã Ấp[23]. Sau đó Tử Nghi tiến quân đến Tỉnh Hình, phối hợp với Tiết độ sứ Hà Đông là Lý Quang Bật. Hai tướng cùng nhau đánh chiếm được 2 huyện Cửu Môn[24] và Cảo Thành do tướng của Yên là Sử Tư Minh cố thủ trên 40 ngày. Quân Đường chiếm được 9 huyện của quận Thường Sơn, đường rút lui của quân Yên bị uy hiếp.
Sử Tư Minh tuy thua nhưng có quân đông, khí thế còn mạnh. Khi Quách Tử Nghi và Lý Quang Bật lui lại Thường Sơn để phòng thủ bèn mang quân đuổi theo. Quách Tử Nghi bèn sai 500 quân giương oai tiến lên phía bắc để đánh lừa Tư Minh. Tư Minh không biết là nghi binh, mang quân cấp tốc đuổi theo trong 3 ngày 3 đêm. Khi quân Yên đuổi tới huyện Hành Đường[25] thì người ngựa đã rất mệt mỏi, lúc đó mới phát hiện ra phía trước chỉ có 500 quân Đường, bèn quay trở lại sông Sa Hà[26] nghỉ ngơi. Quách Tử Nghi thừa lúc quân Yên mệt mỏi bèn mang quân đánh úp, giành thắng lợi lớn.
An Lộc Sơn nghe tin Tư Minh thua trận bèn sai Thái Hy Đức mang 2 vạn bộ binh và kỵ binh tới chi viện, lại sai Ngưu Đình Giới mang 1 vạn quân tới hỗ trợ Tư Minh. Tư Minh có 5 vạn quân trong tay[27].
Quách Tử Nghi không vội giao chiến, vẫn dùng chiến thuật trì hoãn khiến quân địch nản lòng. Ông mang quân lên phía bắc, dụ Tư Minh đuổi theo. Tư Minh được tăng viện, yên tâm mang quân đuổi. Tử Nghi đến đóng quân ở Hằng Dương[28], củng cố lại thành trì. Sử Tư Minh mang quân tới đánh thành không được. Hễ Tư Minh có ý định lui thì Quách Tử Nghi mang quân ra truy kích. Tư Minh quay trở lại đánh thì quân Đường lại rút vào thành cố thủ. Sử Tư Minh tiến lui đều không được, rất mệt mỏi. Lúc đó Quách Tử Nghi báo cho Lý Quang Bật tới trợ chiến, quân Đường có tổng cộng 10 vạn người, tổ chức tấn công quy mô vào quân Yên ở Gia Sơn, kết quả diệt hơn 4 vạn quân Yên, bắt sống 1000 người[29]. Sử Tư Minh thua to, bị ngã ngựa, may mắn trốn thoát, chạy về cố thủ ở Bác Lăng[30]. Quách Tử Nghi và Lý Quang Bật mang quân vây hãm Bác Lăng.
Trận Đồng Quan: quân Yên chiếm Tràng An
Tình cảnh quân Yên
Trận Gia Sơn đẩy quân Yên vào thế nguy khốn. Cánh quân Yên của An Lộc Sơn đang đánh Tràng An bị Kha Thư Hàn án ngữ ở Đồng Quan, dùng chiến thuật phòng thủ không ra khiến quân Yên mắc kẹt không tiến lên được, phía sau thì Quách Tử Nghi và Lý Quang Bật vây bọc. Nhiều tướng Yên đầu hàng nhà Đường, các trinh thám đi đưa thư cũng đều bị quân Đường bắt được. An Lộc Sơn chán nản định bàn cách bỏ Lạc Dương rút về căn cứ Phạm Dương và Bình Lư[29]. Ông tỏ ra ân hận vì đã dấy binh theo đề nghị của các thủ hạ, trách mắng thậm tệ Nghiêm Trang và Cao Thượng[31].Để khắc phục tình hình trước mắt, An Lộc Sơn và Sử Tư Minh buộc phải bố trí lại lực lượng quân Yên ở Hà Bắc: ông đưa quân chủ lực về bảo vệ con đường Hà Nam đến căn cứ Phạm Dương để phòng quân Đường phản kích vào đất căn bản này.
Quách Tử Nghi và Lý Quang Bật kiến nghị Đường Huyền Tông cố thủ giữ chân An Lộc Sơn ở Đồng Quan, còn hai cánh quân Lý, Quách sẽ tấn công căn cứ Phạm Dương của Lộc Sơn.
Mâu thuẫn mới trong nội bộ nhà Đường
Cùng lúc đó trong triều nhà Đường tiếp tục phát sinh mâu thuẫn mới. Ngay khi nhận lệnh ra trấn thủ Đồng Quan, Kha Thư Hàn đã vu cáo tướng người Hồ khác là An Tư Thuận tư thông với An Lộc Sơn, khiến Tư Thuận bị giết oan[32].Khi hai bên giằng co ở Đồng Quan, tại Tràng An và xung quanh kinh thành nổ ra dư luận trong các tướng lĩnh quy trách nhiệm cho Dương Quốc Trung lộng hành và kích động ra cuộc phản loạn của An Lộc Sơn. Các tướng đang trấn giữ Đồng Quan như Kha Thư Hàn, Vương Tư Lễ khuyên có ý mang quân về kinh thanh trừng Dương Quốc Trung[33].
Cùng lúc Dương Quốc Trung cũng lo sợ Kha Thư Hàn mang đại quân về đối phó với ông, bèn xin Đường Huyền Tông mộ thêm binh lính phòng thủ cho hậu phương kinh thành. Huyền Tông nghe theo, Dương Quốc Trung bèn sai thủ hạ đi mộ 1 vạn quân, cho Đỗ Càn Vận tiếp quản, ra đóng ở Bá Thượng. Đội quân này tuy mang tiếng là bảo vệ kinh thành nhưng thực ra là bảo vệ Dương Quốc Trung khỏi sự thanh trừng của các tướng sĩ không cùng phe phái[33].
Kha Thư Hàn nghe tin Dương Quốc Trung đề phòng mình, bèn lấy lý do vì mặt trận chống Yên, đề nghị Huyền Tông điều động quân của Đỗ Cát Vận từ Bá Thượng tới nhập vào quân dưới quyền mình. Huyền Tông nghe theo. Kha Thư Hàn lấy quân rồi gọi Cát Vận đến giết chết[34].
Ngoài Quách Tử Nghi và Lý Quang Bật ở Hà Bắc kiến nghị Đường Huyền Tông cố thủ giữ chân An Lộc Sơn ở Đồng Quan, bản thân Kha Thư Hàn cũng có chủ trương này. Ông đề nghị Đường Huyền Tông cho cố thủ chờ thời vì "An Lộc Sơn không được lòng dân". Thôi Càn Hựu không thể phát động tấn công, chỉ hằng ngày luyện quân ở ngoài chờ cơ hội.
Tuy nhiên, có người báo về kinh rằng quân Yên ở Đồng Quan không đầy 4000 người, toàn quân già yếu. Dương Quốc Trung cũng tâu Huyền Tông nên thúc quân Thư Hàn ra trận, ngoài mặt là để giành thắng lợi quyết định trước quân Yên, còn trên thực tế là bằng mọi cách tránh mũi dùi của Kha Thư Hàn chĩa vào mình. Đường Huyền Tông nóng lòng muốn thắng lợi, nghe lời Quốc Trung, ép Kha Thư Hàn xuất kích từ Đồng Quan ra đánh quân Yên, tấn công Thiểm châu, Lạc Dương[19]. Quyết sách đó của Đường Huyền Tông được các sử gia đánh giá là sai lầm trí mạng khiến nhà Đường đánh mất cơ hội xoay chuyển cục diện cuộc chiến một cách nhanh chóng[31].
Kha Thư Hàn bại trận
Ngày 4 tháng 6 năm 756, Kha Thư Hàn buộc phải mang quân ra đánh. Thôi Càn Hựu vốn đã mang quân trấn giữ hết các nơi hiểm yếu, chỉ để vài ngàn người ra trận. Kha Thư Hàn và Điền Lương Khâu trông thấy quân Yên ít nên yên tâm xuất chiến.Tuy nhiên khi đại quân Kha Thư Hàn kéo ra thì rơi vào phục kích của Thôi Càn Hựu. Quân Yên vùng dậy từ nơi ẩn náu quăng đá tới tấp xuống quân Đường. Quân Đường bị mắc trong chỗ chật hẹp không dùng vũ khí được, bị sát thương rất nhiều. Quân Yên lại nhân chiều gió thổi mạnh, đốt mấy chục xe cỏ khô cho gió thổi khói xuống. Quân Đường bị khói mù mịt không quan sát được, tự sát thương lẫn nhau khá nhiều[35].
Quân Yên thừa cơ xông vào tới chém giết. Đội quân phía sau thấy quân phía trước bị thua nặng, xô nhau chạy hỗn loạn, bị chết hàng vạn người. Nhiều người trong quân Đường chen lấn xô xát nhau, bị rơi xuống sông Hoàng Hà. Bị quân Yên truy kích, một số quân sĩ buộc binh khí lại làm bè, dùng thương làm mái chèo, lội qua sông Hoàng Hà thoát thân.
Kết quả trận Đồng Quan, gần như toàn bộ 20 vạn quân Đường bị tiêu diệt, số quân thoát về bờ bắc không đầy 1/10[36]. Quân Yên thắng lớn, ngày 8 tháng 6 năm 756, tiến vào chiếm Đồng Quan.
Kha Thư Hàn mang vài trăm quân chạy thoát vượt sông Hoàng Hà đến trạm Quan Tây, thu nhặt tàn quân, định chiếm lại Đồng Quan, nhưng bộ tướng người Phiên là Hỏa Bạt Quy Nhân đã phản Đường hàng Yên, mang quân bản bộ bắt ông đưa đến chỗ An Lộc Sơn.
Quân Yên thừa thắng ở Đồng Quan, ồ ạt tiến vào kinh thành Tràng An. Đường Huyền Tông mang theo Dương Quý phi và thừa tướng Dương Quốc Trung hốt hoảng bỏ chạy về phía tây vào đất Thục[19].
Hai nhà đổi chúa
Chính biến ở Mã Ngôi
Quân Yên tiến vào Tràng An, thả sức cướp bóc của cải, tàn phá kinh thành[37].Tình trạng quân Đường vô cùng hỗn loạn. Khi xa giá Đường Huyền Tông đi đến Mã Ngôi, các tướng sĩ oán hận anh em Dương Quốc Trung và Dương Quý phi nên nổi loạn giết Quốc Trung và ép Huyền Tông xử tử Quý phi, nếu không sẽ không hộ giá nữa. Huyền Tông đành mang Quý phi thắt cổ ở Mã Ngôi.

Dương Quý Phi
Tranh của Hosoda Eishi đầu thế kỷ 19 tại viện bảo tàng Anh
Tranh của Hosoda Eishi đầu thế kỷ 19 tại viện bảo tàng Anh
Hoàng đế Túc Tông được binh sĩ đưa lên làm vua ngày 13 tháng 8 năm 756, nhưng Đường Huyền Tông và đoàn tùy tùng chạy tới Tứ Xuyên, chỉ nhận được tin tức vào ngày 10 tháng 9 năm 756, và ngày đó là ngày kết thúc trị vì của Huyền Tông trên thực tế[39]
Lực lượng của Đường Túc Tông mới tập hợp khá nhỏ yếu. Đường Túc Tông triệu tập các tướng sĩ về hộ giá để tổ chức lại lực lượng phản công quân Yên. Một người bạn thân lâu năm của Túc Tông là Lý Bí, thường được gọi là "Tể tướng áo vải", nhận lời đến giúp vua mới. Quách Tử Nghi và Lý Quang Bật ở Hà Bắc đang vây hãm Sử Tư Minh cũng rút quân về Linh Vũ hộ giá. Từ đó quân Đường bắt đầu được tổ chức lại dưới quyền Đường Túc Tông.
Chính biến ở Lạc Dương
Kha Thư Hàn bị thủ hạ bắt nộp cho vua Yên An Lộc Sơn, sợ hãi xin hàng và tự nguyện viết thư dụ các tướng nhà Đường đầu hàng. Các tướng nhà Đường nhận thư đều chê trách Kha Thư Hàn không còn khí tiết, và không ai chịu hàng Yên[40]. An Lộc Sơn thấy dùng Kha Thư Hàn không có kết quả bèn giam Thư Hàn lại.An Lộc Sơn chiếm được 2 kinh Lạc Dương và Tràng An, tỏ ra mãn nguyện và xem như đã chiếm được giang sơn nhà Đường, nghĩ đến chuyện hưởng lạc, không tính toán việc lâu dài nữa[31].
Nội bộ chính quyền Đại Yên tranh giành quyền lợi lẫn nhau. Lộc Sơn lại bị bệnh ở mắt, gần như bị mù, không trông rõ mọi vật. Do bị khối u đau nhức nên tâm tính hung dữ, hay đánh phạt thuộc hạ. Các tướng thân cận như Nghiêm Trang, Lý Trư Nhi cũng thường bị vua Yên đánh đòn.
Ngoài ra, Lộc Sơn còn yêu quý con nhỏ là An Khánh Ân do vợ thứ Đoàn thị sinh ra nên có ý định bỏ ngôi thái tử của An Khánh Tự. An Khánh Tự biết tin bất bình, bèn bàn với Nghiêm Trang và Lý Trư Nhi mưu giết cha giành ngôi vua.
Đầu năm 757, An Khánh Tự sai Nghiêm Trang và Lý Trư Nhi cầm dao vào cung cấm, chém mạnh vào bụng Lộc Sơn. Lộc Sơn vươn tay vớ con dao để dưới gối nhưng không được, ruột đổ ra đầy giường mà chết.
An Khánh Tự và các tướng truyền tin An Lộc Sơn ốm chết và xưng làm vua Yên. Sau đó Khánh Tự giết luôn hàng tướng Kha Thư Hàn.
Nghe theo lời Nghiêm Trang, An Khánh Tự ở trong cung cấm, giao quyền điều hành cho Nghiêm Trang. Mãnh tướng Sử Tư Minh vốn là bạn thân của An Lộc Sơn tỏ ra coi thường An Khánh Tự, thường không nghe lệnh. Để lấy lòng Tư Minh, Tự Khánh cho Tư Minh về Phạm Dương làm Tiết độ sứ, giao toàn quyền cai quản vùng căn bản của chính quyền Đại Yên.
Nhà Đường thu phục hai kinh
Chiến sự trong vùng Đại Yên quản lý
Khi quân Yên tràn vào Tràng An trong thế đắc thắng, An Lộc Sơn lệnh cho tướng Sử Tư Minh đẩy mạnh việc chinh phục Hà Bắc, Hà Nam. Trong lúc Đường Túc Tông còn đang tập hợp và củng cố lực lượng, chưa thể phản công quân Yên thì Sử Tư Minh được cởi vây từ Bác Lăng, ra sức nhổ nốt các thành trì còn trung thành với nhà Đường.
Sử Tư Minh đánh đâu thắng đó, tới bao vây Bình Nguyên. Tướng giữ Bình Nguyên là Nhan Chân Khanh sau nhiều ngày chống trả liệu thế không thể giữ được Bình Nguyên để chống đạo quân hùng mạnh của Tư Minh, bèn bỏ thành, men theo Giang Hoài – Kinh Tương tới Linh Vũ theo Đường Túc Tông. Túc Tông phong ông làm Thượng thư bộ Hình, Ngự sử đại phu.
Trương Tuần và Hứa Viễn cùng nhau thế thủ ở Tuy Dương, cầm cự trước sức tấn công của 10 vạn quân Yên dưới quyền Doãn Tử Kỳ. Dù quân Đường thắng nhiều trận nhưng do thành bị vây quá lâu nên dần dần suy kiệt. Trong thành Tuy Dương lúc đó có 6 vạn hộc lương nhưng trong tình trạng bị bao vây ngặt nghèo. Giữa lúc đó Quắc vương Lý Cự hạ lệnh điều 3 vạn hộc lương cho Bộc Dương và Tế Âm[41]. Hứa Viễn không đồng ý chuyển lương đi vì cần cho việc phòng thủ. Lý Cự không nghe, ép phải chuyển lương cho Tế Âm. Tướng giữ Tế Âm sau khi được 3 vạn hộc lương lại đầu hàng Doãn Tử Kỳ.
Doãn Tử Kỳ mang đại quân công phá Tuy Dương 3 lần. Trương Tuần cố thủ kiên cường trong thành, nhiều lần đẩy lui được các đợt tấn công của quân Yên. Nhưng sau đó trong thành hết lương. Nhân dân trong thành phải ăn cả vỏ cây, nhiều quân sĩ bị chết đói, chỉ còn lại vài trăm người ốm yếu. Trương Tuần phải giết cả ái thiếp để lấy thịt cho quân sĩ ăn[42], sau đó luân phiên tới ăn thịt người già, ăn thịt trẻ con; tất cả hơn 2 vạn dân trong thành bị giết làm lương cho quân sĩ[43].
Trương Tuần phái mãnh tướng Nam Tề Vân cảm tử phá vòng vây ra ngoài cầu viện. Nhưng Hứa Thúc đóng quân ở Tiêu quận[44], Thượng Hoành đóng quân ở Bành Thành[45], Hạ Lan Tiến Minh ở Lâm Hoài[46] đều không chịu ra quân cứu Tuy Dương.
Thành Tuy Dương sức cùng lực kiệt, đến tháng 10 năm 757 bị quân Yên hạ. Trương Tuần cùng Hứa Viễn và các tướng sĩ ốm yếu đều bị bắt sống, vì không quy phục nên bị quân Yên giết[43].
Tuy Dương tuy cuối cùng bị hạ nhưng đã cầm chân hàng chục vạn quân Yên, ngăn chặn không cho tiến xuống phía nam (Giang – Hoài), giữ được con đường cung ứng kinh tế của nhà Đường được thông suốt, tạo điều kiện cho đại quân Đường ở phía tây, phía bắc có thời gian củng cố để phản công[47]. Khi thành Tuy Dương bị quân Yên hạ thì cũng đúng lúc quân Đường phản công mạnh mẽ, giành lại hai kinh.
Quân Đường phản công
Qua một năm tập hợp và củng cố, quân Đường ở phương bắc mạnh lên nhiều[48]. Trong khi đó nội bộ quân Yên lại chia rẽ. Mãnh tướng Sử Tư Minh mang gần 10 vạn quân ly khai Yên không nghe lệnh An Khánh Tự. Nhân thời cơ đó, Đường Túc Tông hạ lệnh phản công để thu hồi hai kinh (Lạc Dương, Tràng An).Tháng 4 năm 757, theo đề nghị của Lý Tất, Túc Tông phong con là Lý Bảo làm nguyên soái, Quách Tử Nghi làm phó nguyên soái, lãnh trách nhiệm thu hồi hai kinh[48]. Đồng thời, Túc Tông theo đề nghị đã sai sứ giao hảo với Hồi Hột để mượn quân vì quân nước này dũng mãnh, có thể đối địch được với đội quân thiện chiến của Đại Yên. Túc Tông giao hẹn với Hồi Hột: "Sau khi đánh chiếm được thành, đất đai và dân chúng thuộc về nhà Đường, còn của cải vải vóc thuộc về các ông"[49]. Hồi Hột nhận lời giúp quân.
Tháng 5 năm 757, Quách Tử Nghi tiến từ Phong Tường về phía đông chuẩn bị đánh Tràng An. Lúc đó quân Hồi Hột chưa đến. Đến Thanh Cừ thì quân Đường gặp quân Yên do Lý Quy Nhân, An Thủ Trung chỉ huy. Hai bên giữ nhau 7 ngày không giao chiến. Hai tướng Yên dùng mưu giả thua tháo lui. Quách Tử Nghi mắc mưu đuổi theo, hai tướng Yên dàn 9000 quân thành hình con rắn dài đón đánh. Tử Nghi đánh vào giữa, hai đầu "trường xà" kéo lại vây bọc, đánh quân Đường thua to. Tử Nghi phải lui quân về giữ Vũ Công.
Đường Túc Tông điều thêm quân tiếp viện cho Lý Bảo và Tử Nghi, trong đó có 4000 người Hồi Hột dưới quyền tướng Bộc Cố Hoài Ân. Sang tháng 9 năm đó, Tử Nghi có 15 vạn quân, lại tấn công Tràng An lần thứ 2. Ngày 27 tháng 9, Tử Nghi kéo đến phía tây Tràng An. An Thủ Trung và Lý Quy Nhân mang 10 vạn quân ra địch[50]. Quách Tử Nghi sai Lý Tự Nghiệp cầm tiền quân, tự mình đi trung quân, sai Vương Âu Lễ làm hậu quân. Lý Tự Nghiệp và Lý Quy Nhân giao tranh giằng co mấy trận không phân thắng bại.
An Thủ Trung điều một cánh quân sang phía đông đánh vây bọc quân Đường. Quách Tử Nghi phát hiện, bèn sai Bộc Cố Hoài Ân (người Thiết Lặc, Hồi Hột) dẫn 4000 quân Hồi Hột ra giao chiến, giết hơn nửa quân Yên. Cánh quân Yên đi tập kích bị đánh bại. Quách Tử Nghi lại sai Hoài Ân vòng ra phía sau đánh úp quân Yên, đồng thời thúc tiền quân và trung quân cùng lúc tấn công ồ ạt. Sau hơn nửa ngày giao chiến, quân Đường giết 6 vạn quân Yên[51]. Quân Yên thua chạy vào thành Tràng An. Lý Bảo chủ trương cho binh sĩ nghỉ ngơi nên dừng lại không truy kích. An Thủ Trung, Trương Thông Nho và Lý Quy Nhân hoảng sợ, nhân lúc đêm tối bỏ thành rút chạy.
Ba ngày sau, Lý Bảo và Quách Tử Nghi mới mang quân đuổi theo quân Yên. Nhưng quân Đường triển khai chậm nên quân Yên có thời gian chỉnh đốn lại. Vua Yên An Khánh Tự sai Nghiêm Trang mang quân từ Lạc Dương sang phía tây tiếp viện cho Tràng An, gặp tàn quân Yên thua chạy về, tập hợp lại được 15 vạn người[51].
Ngày 15 tháng 10, Quách Tử Nghi đụng độ quân Yên ở Tân Điếm[52]. Quân Yên dựa vào núi bày trận, Tử Nghi cho đại quân tấn công chính diện, còn Bộc Cố Hoài Ân mang quân Hồi Hột đánh úp phía sau. Thấy cánh quân chính diện yếu thế, Hoài Ân dẫn quân thần tốc tới Nam Sơn[53], đánh mạnh vào sườn quân Yên. Quân Yên vốn sợ quân Hồi Hột, nên thấy quân Hồi Hột đến đều bỏ chạy. Quách Tử Nghi thừa cơ thúc 2 cánh quân chính diện tấn công ồ ạt. Quân Yên thua to, Nghiêm Trang và các tướng dẫn tàn quân chạy về phía đông. Quách Tử Nghi dẫn quân truy sát.
An Khánh Tự được tin cánh quân chủ lực đi cứu Tràng An bị đánh bại rất sợ hãi, dẫn 300 kỵ binh và 1000 bộ binh bỏ Lạc Dương chạy về Nghiệp Thành[54]. Ngày 18 tháng 10, quân Đường thừa thắng tiến vào Lạc Dương.
Hai kinh trở lại với nhà Đường.
Trận Nghiệp Thành
Sử Tư Minh giữa hai chính quyền
Theo kế của Nghiêm Trang, An Khánh Tự gọi Sử Tư Minh về hội quân, với ý định cướp quân của Tư Minh[55]. Tư Minh nhận thấy ý định đó, bèn quyết định quy hàng nhà Đường để tránh việc bị cả quân Đường và quân Khánh Tự truy sát.Tháng 12 năm 757, Đường Túc Tông trở lại hành cung ở Tràng An. Sử Tư Minh mang 8 vạn quân cùng 13 quận Hà Bắc về hàng. Đường Túc Tông thu nhận, phong Tư Minh làm Quy Nghĩa vương, kiêm Tiết độ sứ Phạm Dương. Tuy thu nhận cho Tư Minh hàng nhưng nhà Đường vẫn nghi ngại ông. Năm 758, Đường Túc Tông sai Ô Thừa Ân đến bổ nhiệm ông làm Phó soái, song thực chất là để chờ thời cơ sát hại Tư Minh.
Ý định đó lộ ra, Sử Tư Minh bèn dùng kế lừa bắt sống Ô Thừa Ân. Khám trong người Ân có mật chiếu của Túc Tông và thư của Lý Quang Bật muốn trừ khử mình, Sử Tư Minh vô cùng giận dữ. Trong người Thừa Ân còn có danh sách các tướng đã về hàng cần phải trừ khử. Sử Tư Minh bèn triệu tập các tướng sĩ lại, hạ lệnh giết chết cha con Ô Thừa Ân và các sứ giả đi cùng, và lại dấy quân chống nhà Đường.
An Khánh Tự bại trận Vệ châu
Tháng 9 năm 758, Đường Túc Tông tổng động viên 9 Tiết độ sứ nhà Đường đi đánh An Khánh Tự ở Nghiệp Thành, tổng cộng 60 vạn người[56]. Các Tiết độ sứ ra quân gồm có:- Quách Tử Nghi - Tiết độ sứ Sóc Phương
- Lỗ Linh - Tiết độ sứ Hoài Tây
- Lý Hoán - Tiết độ sứ Hưng Bình
- Hứa Thúc Dực - Tiết độ sứ Hoạt châu
- Lý Tư Nghiệp - Tiết độ sứ Trấn Tây - Bắc Đình
- Lý Quản Tông - Tiết độ sứ Trịnh Sát
- Thôi Quảng Viễn – Tiết độ sứ Hà Nan
- Lý Quang Bật - Tiết độ sứ Hà Đông
- Vương Tư Lễ - Tiết độ sứ Quan Nội
Nghe tin Quách Tử Nghi bao vây tấn công Vệ châu[57], An Khánh Tự dẫn 7 vạn quân chia làm 3 ngả, tăng viện cho Vệ châu. Tử Nghi dùng kế mai phục, dụ An Khánh Tự mang quân ra đánh. Tử Nghi giả thua chạy, quân Yên đuổi theo. Bất thần các tay nỏ mai phục bắn ra, giết hơn nửa quân Yên[58]. Tử Nghi cũng quay trở lại đánh giết. An Khánh Tự thua lớn, bỏ chạy về Nghiệp Thành.
Sử Tư Minh cứu Nghiệp Thành
Thấy quân Đường rầm rộ kéo đến, An Khánh Tự liệu thế không chống nổi, phải sai người cầu cứu Sử Tư Minh. An Khánh Tự trong tình cảnh tuyệt vọng phải lấy điều kiện nhường ngôi vua Yên cho Tư Minh để được cứu mạng. Sử Tư Minh nhận lời, từ Phạm Dương mang 5 vạn quân[56] đi cứu vua Yên An Khánh Tự.Lúc đó quân Đường do Tiết độ sứ 9 phương của nhà Đường chỉ huy, khí thế rất mạnh mẽ. Sử Tư Minh thấy vậy bèn đóng quân từ xa ở Phẫu Dương để tạo thanh thế.
Nghiệp Thành bị vây nhiều tháng, lương đã cạn, quân Đường lại dẫn nước sông Chương làm ngập thành, nhưng An Khánh Tự vẫn cố thủ chờ Sử Tư Minh cứu viện. Hoạn quan Ngư Triều Ân không hiểu việc quân, không hạ lệnh tác chiến nên cho dù thành đã rất nguy vẫn chưa bị hạ.
Nắm được tình hình đó, Sử Tư Minh quyết định tấn công. Ông chia quân, một mặt tiến sát doanh trại quân Đường và ngày đêm quấy rối đánh úp vào trại; mặt khác ông điều binh đi cướp lương thảo tiếp ứng khiến cho quân Đường bị đói.
Quân Đường thiếu ăn, dao động. Tháng 3 năm 759, Sử Tư Minh đích thân dẫn 5 vạn quân đánh thẳng vào doanh trại quân Đường. Quân đội của Tư Minh mạnh mẽ, đánh tan đại quân Tiết độ sứ 9 phương của nhà Đường. Sử sách mô tả trận này nói rằng khi Tư Minh thúc quân tác chiến, "có bão làm gió bụi nổi lên mù mịt khiến cả hai bên cùng thiệt hại", nhưng thực tế quân Đường đã bị đánh tan và thua chạy, Nghiệp Thành được giải vây[56].
Trong lúc hỗn loạn, nhiều tướng nhà Đường để cho quân sĩ cướp bóc nhà dân, riêng cánh quân của Lý Quang Bật chỉ huy rất nghiêm túc rút lui, trở về Biện châu[59].
Chiến sự giằng co
Đổi ngôi vua Yên
Nghiệp Thành qua được cơn hiểm nghèo nhưng An Khánh Tự thế yếu suy kiệt, phải dâng biểu xưng thần với Sử Tư Minh, từ bỏ ngôi vua Yên. Sử Tư Minh lấy lời lẽ dụ Khánh Tự, đề nghị đến doanh trại để kết làm hai nước anh em cùng chống nhà Đường. An Khánh Tự nghe theo, bèn đến doanh trại của Tư Minh. Tư Minh gặp An Khánh Tự bèn bắt giữ, kể tội giết cha, rồi giết chết Khánh Tự.Tư Minh giao cho con là Sử Triều Nghĩa giữ Nghiệp Thành, còn mình thu hết thủ hạ của An Khánh Tự trở về Phạm Dương. Tháng 4 năm 759, Sử Tư Minh tự xưng là Yên đế, đặt niên hiệu là Thuận Thiên. Sau đó, ông huy động hơn 10 vạn quân tấn công Biện châu, Trịnh châu và tiến tới Lạc Dương.
Lý Quang Bật dời Lạc Dương
Do sự gièm pha của Ngư Triều Ân, quy hết trách nhiệm thua trận cho Quách Tử Nghi, ông bị bãi chức. Lý Quang Bật được Đường Túc Tông trọng dụng, phong làm Thái úy kiêm trung thư lệnh, thay Tử Nghi làm Tiết độ sứ phương bắc. Khi nhận lệnh, Quang Bật từ Biện châu lên đường tới Lạc Dương ngay trong đêm[60] tiếp quản quân của Tử Nghi. Ông dặn phó tướng Hứa Thúc Ký cố gắng giữ thành trong nửa tháng thì sẽ đến cứu. Đến nơi, ông chỉnh lý lại quân ngũ, siết chặt hiệu lệnh nghiêm ngặt[60].Trong khi Quang Bật tiếp quản quân của Tử Nghi thì Sử Tư Minh đánh đến Biện châu. Hứa Thúc Ký không theo lời dặn của Quang Bật, cùng các thuộc hạ Lương Phủ, Lưu Tùng Gián đầu hàng quân Yên. Sử Tư Minh sai các hàng tướng đi đánh Giang, Hoài, còn mình mang quân đánh Lạc Dương, khí thế rất mạnh mẽ.
Trước thế mạnh của quân Yên, Lý Quang Bật liệu thế không chống nổi. Lưu thủ Lạc Dương là Vĩ Trắc muốn về hẳn Đồng Quan nhưng Quang Bật không theo vì như vậy là bỏ hẳn 500 dặm đất cho quân Yên chiếm. Lý Quang Bật chủ trương rút về Hà Dương. Ông lệnh cho toàn dân trong thành cùng quân lính dời đi Hà Dương, để lại thành không cho quân Yên. Ông cho tu bổ 3 tòa thành ở Hà Dương chuẩn bị phòng thủ.
Lý Quang Bật cố thủ Hà Dương
Sử Tư Minh nuôi 1000 con ngựa tốt, bị Lý Quang Bật dùng mẹo lùa về thành mất. Sử Tư Minh đánh Hà Dương lâu ngày không hạ được. Lý Quang Bật tránh địch ở chính diện mà mang một cánh quân đi phản kích ở phía tây thành Trung Đan[62], đánh bại 5000 quân địch, chém hơn 1000 người.
Tuy giữ được thành nhưng Lý Quang Bật sắp cạn lương trong thành Hà Dương. Ông giao lại thành cho Lý Bão Ngọc[63], dặn cố thủ trong 2 ngày, còn tự mình ra Hà Thanh[64] trưng thu lương thực. Để đề phòng quân Yên cắt đường vận chuyển, ông chia một cánh quân đóng ở bến Dã Thủy phía bắc Hà Thanh.
Tướng Yên là Lý Nhân Việt vốn nhận lệnh của Sử Tư Minh, phải đi đánh úp bắt cho được Lý Quang Bật nhân cơ hội Quang Bật đã rời thành, nếu không bắt được Quang Bật thì bị tội chết. Vì không gặp Lý Quang Bật, Nhân Việt sợ tội với Tư Minh nên xin hàng. Mấy ngày sau, bạn của Việt là Đình Huy cũng tới hàng, đúng như dự định của Lý Quang Bật.
Trong khi Lý Quang Bật ra ngoài lấy lượng thì Chu Bão Ngọc cũng đánh lui được một đợt tấn công của quân Yên dưới quyền Chu Chí. Chu Chí rút lui, lại mang 5000 quân đến đánh thành Trung Đan. Lý Quang Bật vừa từ bến Dã Thủy trở về Trung Đan, hạ lệnh dựng rào gỗ phòng thủ. Chu Chí mang quân đến nơi, Lý Quang Bật sai bộ tướng Lệ Phi Nguyên Lễ ra đánh bại Chu Chí.
Thấy Chu Chí liên tiếp thất bại, Sử Tư Minh thay đổi chiến thuật, cho thuyền gỗ chở củi tẩm dầu châm lửa, thả trôi từ thượng nguồn xuống để đốt cháy 2 cây cầu nhằm chia cắt sự liên lạc giữa 3 tòa thành Hà Dương. Nhưng Lý Quang Bật phòng bị trước, sai quân dùng sào dài chặn thuyền và lấy đá lớn dìm thuyền lửa xuống sông[65].
Sử Tư Minh lại sai Chu Chí mang 3 vạn quân đánh Bắc thành, còn tự mình tấn công Nam thành. Quang Bật đoán biết quân Yên chỉ tấn công Bắc thành, bèn giao cho Lý Bão Ngọc trấn thủ Nam thành, còn mình mang quân chủ lực ra Bắc thành. Lý Quang Bật sai 2 bộ tướng Hách Ngọc và Luận Dung Trinh chia đường ra đánh. Quân Đường đại phá quân Yên, giết hơn 1 vạn người, bắt sống 2 tướng Yên là Từ Hoàng Ngọc và Lý Tần Thu cùng 8000 người[66], thu rất nhiều khí giới.
Sử Tư Minh đang đánh Nam thành, không biết quân đánh Bắc Thành bại trận. Lý Quang Bật sai mang tù binh bắt được đến Nam thành, chém ở bờ sông để uy hiếp quân Yên. Quân Yên khiếp sợ, Sử Tư Minh phải lui quân.
Lý Quang Bật thừa thắng mang quân tấn công Hoài châu, bắt sống các tướng Yên là Chu Chí, An Thái Thanh, Dương Hy Văn. Trận Hà Dương, Lý Quang Bật chỉ có 2 vạn quân nhưng đã bại hơn 10 vạn quân Yên của Sử Tư Minh.
Trận Mang Sơn
Sau trận Hà Dương, hai bên cầm cự nhiều ngày không giao tranh. Lý Quang Bật tuy thắng nhưng quân ít hơn nhiều so với Sử Tư Minh nên không thể tổ chức phản công toàn diện.Chiến thắng của Lý Quang Bật lại khiến hoạn quan Ngư Triều Ân ghen ghét, tâu với Đường Túc Tông rằng quân Yên ô hợp dễ đánh khiến Túc Tông hoài nghi tài năng của Quang Bật. Ngoài ra, tướng Bộc Cố Hoài Ân cũng gièm pha rằng quân Yên không mạnh nên Quang Bật mới đánh được.
Vì vậy Túc Tông nhất định bắt Lý Quang Bật ra quân thu phục Lạc Dương, trong khi ông nhận định quân địch còn mạnh chưa thể đánh chiếm thành được, nên nhiều lần viết thư về kháng nghị chưa nên ra quân. Nhưng Túc Tông vẫn nóng lòng thắng trận, liên tiếp sai sứ ra thúc giục, lại cử Ngư Triều Ân ra làm chỉ huy.
Vì bị triều đình cưỡng bách, đầu năm 761, Lý Quang Bật đành phải ra quân. Ông chia đường cùng Bộc Cố Hoài Ân đánh thành, nhưng Hoài Ân không đến đúng điểm hẹn như đã định. Lý Quang Bật và Ngư Triều Ân gặp đại quân Yên của Sử Tư Minh ở núi Mang Sơn ở phía tây bắc Lạc Dương. Hai bên giao chiến lâu ngày không phân thắng bại. Sử Tư Minh nghĩ ra một kế, ông sai người trà trộn vào quân Đường, phao tin rằng: "Quân Yên đều là người U châu, nhớ nhà, mong về quê".
Thống soái quân đội nhà Đường là Ngư Triều Ân nghe tin đó, hạ lệnh cho Lý Quang Bật và các Tiết độ sứ khác phải thừa cơ đánh úp quân Yên ngay. Thế là quân Đường rầm rộ tiến công. Quân Yên giả thua rút chạy, lại vứt đồ ra đầy đường. Quân Đường tranh nhau nhặt đồ, bị quân Yên quay lại phản kích, đánh tan quân Đường ở phía bắc Mang Sơn.
Lý Quang Bật phải rút quân từ Hà Dương về cố thủ ở Văn Hỷ[67]. Ông dâng biểu xin nhận tội, kết quả bị Đường Túc Tông tước hết binh quyền. Nghe tin quân các Tiết độ sứ bại trận, kinh thành chấn động[68]. Đường Túc Tông lo sợ, phải điều quân Thiểm châu về phòng ngự cho Tràng An.
Yên Đế Sử Tư Minh làm chủ một vùng rộng lớn khắp Hà Bắc và Hà Nam.
Gió lại xoay chiều
Họa trong nhà Sử Tư Minh
Sử Tư Minh thắng lớn, thừa thế mang quân đánh Thiểm châu. Nhưng quân Đường ở Thiểm châu dưới quyền Ngư Triều Ân và Vệ Bá Ngọc phòng thủ khá vững vàng, quân Yên do Khang Văn Cảnh tấn công mấy lần đánh không thắng được. Sử Tư Minh bèn lui về Vĩnh Ninh[69]. Ông sai con lớn là Sử Triều Nghĩa mang quân đi xây một toà thành hình tam giác để trữ lương, hẹn rõ ngày hoàn tất.Triều Nghĩa xây xong thành nhưng chưa chát bùn, đúng lúc Sử Tư Minh đi kiểm tra, rất giận dữ. Sốt ruột vì chưa làm xong, ông sai mấy chục thủ hạ đi cùng xuống ngựa, lấy bùn trát lên tường, một chốc đã làm xong. Ông giận mắng và dọa trị tội Triều Nghĩa sau khi hạ được Thiểm Châu.
Nguyên Sử Tư Minh ngày thường yêu đứa con nhỏ là Sử Triều Thanh, định lập làm thái tử. Triều Nghĩa dù lớn tuổi nhưng không được cha yêu, nay nhân việc đó, lo sợ bị trị tội, bèn nảy ý giết cha[70].
Đêm hôm đó Sử Tư Minh trở dậy đi ra nhà tiêu, vừa lúc Sử Triều Nghĩa sai người hành thích. Tư Minh nghe động, bèn trèo tường nhảy ra, lấy được một con ngựa định phóng đi trốn, nhưng quân Triều Nghĩa bắn theo, ông bị trúng một phát tên ngã ngựa. Sau đó quân Triều Nghĩa lao tới chém chết Tư Minh.
Thất bại của Sử Triều Nghĩa

Đường Đại Tông, vị vua chấm dứt loạn An Sử
Năm 762, Đường Túc Tông và thượng hoàng Huyền Tông đều qua đời. Thái tử Lý Dự lên nối ngôi, tức là Đường Đại Tông.
Năm đó, sau khi củng cố lại lực lượng, Đường Đại Tông quyết định ra quân đánh Yên. Do Đại Tông vẫn không có ý tin tưởng Quách Tử Nghi, còn Lý Quang Bật vừa thua trận bị giáng chức nên Đại Tông không để hai tướng này ra quân. Ông cử Ung vương Lý Thích làm Binh mã đại nguyên soái, Bộc Cố Hoài Ân làm Tiết độ sứ hành doanh phương bắc, cùng Quách Anh Nhân ra trận.
Ngay tháng 6 năm 762, quân của Sử Triều Nghĩa bị Duyện Vận Tiết độ sứ Điền Thần Công đại phá.
Bị thua trận, Sử Triều Nghĩa tìm cách lôi kéo sự ủng hộ của Khả hãn Hồi Hột, vốn là đồng minh của nhà Đường. Đại Tông cũng sai Lưu Thanh Đàm đến thiết lập lại liên minh với Hồi Hột[72], nhưng bị Đăng Lý Khả hãn hạ nhục. Thanh Đàm từ Hồi Hột gửi thư về báo rằng Hồi Hột đã chuẩn bị 10 vạn quân, nhân lúc Đại Tông mới lên ngôi, chính trị còn chưa ổn mà kéo về Trường An, toàn thành Trường An đều lo sợ. Đại Tông sai Bộc Cố Hoài Ân đến chiêu dụ. Đăng Lý lại là con rể của Hoài Ân[73], bèn đổi ý, chấp nhận lập lại liên minh với Đường để chống quân Yên. Đáp lại, Đại Tông sai Ung vương Thích đến Thiểm châu định ước với Hồi Hột. Sau đó, Đại Tông lệnh cho Bộc Cố Hoài Ân thống lĩnh các đạo quân phía bắc, Hà Đông, cùng tướng Hồi Hột là Tả Sát được cử làm tiên phong thống lĩnh liên quân hai nước, cùng các tướng là Tiết độ sứ Thiểm Tây Quách Anh Nghệ, Tiết Độ sứ Lộ Trạch Lý Bão Ngọc, hoạn quan Ngư Triều Ân, đưa quân từ các nơi tiến công Lạc Dương của Yên.
Tháng 10 năm 762, quân Đường tiến đánh Lạc Dương. Sử Triều Nghĩa quyết định tử chiến ở Lạc Dương thay vì tạm lui về Hà Dương theo đề nghị của chư tướng. Hơn 60.000 quân Yên bị giết và hơn 20.000 người bị bắt. Thất bại nặng nề, Triều Nghĩa đành phải bỏ trốn khỏi Lạc Dương, chạy về phía đông. Bộc Cố Hoài Ân sai Bộc Cố Sướng cùng Cao Phụ Thành hơn vạn quân mã truy kích, Triều Nghĩa lại chạy sang Bộc châu. Quân Hồi Hột nhân cơ hội vào Lạc Dương đã thẳng tay cướp bóc và chém giết người dân, khiến Đông Đô trở nên hoang tàn.
Sử Triều Nghĩa liên tiếp thất bại, cuối cùng chạy đến Vệ châu, hợp quân với Tiết độ sứ Tuy Dương Điền Thừa Tự, nhưng cũng thua nốt.
Sang tháng giêng năm 763, các Tiết độ sứ nước Yên thấy Triều Nghĩa thất thế nên lần lượt phản Yên, trở lại hàng nhà Đường, như Trương Hiến Thành, Tiết Tung, Trương Trung Chí (sau Đại Tông đổi tên thành Lý Bảo Thần)[74], Điền Thừa Tự, Lý Hoài Tiên, Tiết Bão. Đại Tông theo đề nghị của Bộc Cố Hoài Ân, hạ lệnh giữ nguyên chức vị của các Tiết độ sứ này và vẫn cho họ cai quản các trấn ở phía bắc.
Sử Triều Nghĩa bị quân Đường truy kích, bỏ chạy hết nơi này tới nơi khác nhưng đều bị các thủ hạ phản lại không dung nạp. Triều Nghĩa không còn đường dung thân, định chạy lên phía bắc đầu hàng Khiết Đan. Trong khi chạy, Triều Nghĩa bị thủ hạ cũ là Lý Hoài Tiên mới đầu hàng nhà Đường mang quân đuổi theo[49].
Triều Nghĩa trốn vào khu rừng rậm ở sách Ôn Tuyền cạnh thành Thạch Đầu[75], vẫn bị Hoài Tiên truy riết. Triều Nghĩa biết không còn đường thoát, bèn treo cổ tự vẫn trong rừng. Lý Hoài Tiên tìm được xác Sử Triều Nghĩa, chặt đầu nộp Bộc Có Hoài Ân, Hoài Ân mang về kinh đô Tràng An dâng Đường Đại Tông.
Triều Đại Yên diệt vong. Loạn An Sử kéo dài 8 năm chấm dứt.
Đánh giá
Tính chất của chính quyền Đại Yên
Các sử gia Trung Quốc nhìn nhận loạn An Sử là một cuộc phản loạn điển hình, không hề có chút chính nghĩa; kèm theo đó là sự phá hoại ghê gớm[71].Loạn An Sử được đánh giá là có độ dã man bậc nhất, riêng việc thay đổi ngôi của 4 ông vua Đại Yên đều lần lượt diễn ra bằng những vụ tàn sát: hai lần con giết cha, một lần bầy tôi giết vua. Điều đó khiến Đại Yên bị đánh giá là tập đoàn mất hết tính người; ngay cả tính người về tối thiểu cũng không có thì không thể lấy được lòng nhân dân để giữ thiên hạ[71].
Chiến lược và chiến thuật hai bên
Quân Yên nhanh chóng xác lập ưu thế trong thời kỳ đầu, do quân sĩ trong nội địa nhà Đường nhiều năm sống trong thời bình không được củng cố nên sức chiến đấu thấp. Thêm vào đó, nội bộ chính quyền nhà Đường ngay cả khi phải chống phản quân vẫn tiếp tục chia rẽ và mâu thuẫn, nên đã nhiều lần có quyết sách sai lầm, vài lần để lỡ cơ hội sớm chấm dứt loạn lạc.Lần thứ nhất là trước trận Đồng Quan năm 756. Trong lúc Sử Tư Minh thất thế ở Hà Bắc, An Lộc Sơn bị kẹt ở phía tây, các lộ quân Đường có thể thừa thắng tiến vào căn cứ Phạm Dương của chính quyền Đại Yên theo kế sách mà Quách Tử Nghi, Lý Quang Bật dự định. Nhưng Kha Thư Hàn ngoài mặt trận vẫn tiếp tục tranh chấp với Dương Quốc Trung trong triều, còn Đường Huyền Tông nóng lòng thắng trận đã quyết sách sai lầm. Điều đó tạo điều kiện cho Đại Yên phát triển tới cực thịnh: bao gồm cả Hà Bắc, một phần Hà Nam và vùng Quan Trung[31].
Điều đó dẫn đến sự chuyển giao quyền lực từ Huyền Tông sang Túc Tông để tổ chức lại lực lượng quân Đường. Khi quân chủ lực chưa kịp tổ chức lại thì đó là thời điểm khó khăn nhất đối với nhà Đường trong cuộc chiến; và vai trò hy sinh của các viên tướng trung thành chiến đấu trong vùng quân Yên chiếm đóng như Nhan Chân Khanh, Trương Tuần, Hứa Viễn có tác động không nhỏ, giúp cầm chân một bộ phận khá lớn quân Yên vào chiến trường phía đông, khiến quân Yên không thể dốc toàn lực vào cuộc chiến tận diệt nhà Đường[76].
Nhưng khi Đường Huyền Tông tự tìm thất bại thì Đại Yên cũng tự suy yếu bằng việc soán đoạt nội bộ của An Khánh Tự. Đó chính là thời điểm thích hợp cho quân Đường phản công. Khi An Khánh Tự gặp phải sự hồi sinh của nhà Đường và bại trận dưới tay quân chủ lực của Quách Tử Nghi, thì Sử Tư Minh lại dần dần xác lập chỗ đứng vững ở Hà Bắc và Hà Nam qua việc nhổ hết được những chướng ngại do các trung thần nhà Đường cố duy trì tại đây.
Sử Tử Minh tỏ ra là nhà lãnh đạo có năng lực nhất trong 4 người cầm đầu chính quyền Đại Yên. Khi thấy An Khánh Tự sắp tận diệt, ông hàng luôn nhà Đường, giữ một góc đông bắc tự trị như An Lộc Sơn khi còn phục vụ nhà Đường. Nhưng mưu đồ trừ khử Tư Minh bị lộ khiến nhà Đường phải đối mặt với một đối thủ có binh hùng tướng mạnh, thực lực đáng sợ hơn An Lộc Sơn[55]. Bên cạnh đó, chính Đường Túc Tông sau những chiến thắng ban đầu, thu hồi được hai kinh cũng tự tìm đến khó khăn với quyết sách nhân sự trong trận Nghiệp Thành, và điều đó tạo ra cơ hội lớn cho Sử Tư Minh.
Trận Nghiệp Thành là bước ngoặt không chỉ giúp Đại Yên duy trì sự tồn tại trở lại, tiếp tục chỗ đứng ở Hà Bắc, mà thừa thắng xuống Hà Nam lấy được đông kinh Lạc Dương lần thứ hai. Đường Túc Tông vẫn sai lầm trong việc sử dụng hoạn quan Ngư Triều Ân và phải trả giá tới lần thứ hai cho thất bại ở Mang Sơn mà Lý Quang Bật bị quy trách nhiệm. Lúc đó tình cảnh nhà Đường cũng giống như lúc An Lộc Sơn áp sát trước Đồng Quan.
Nhưng lần này Túc Tông không phạm thêm sai lầm, duy trì thế phòng thủ, còn chính quyền Đại Yên tiếp tục tự tàn hại nhau vì định bỏ con lớn lập con nhỏ. Cả An Lộc Sơn và Sử Tư Minh đều vì yêu con nhỏ nên kích động con lớn vùng vẫy mà bị giết. Còn cả An Khánh Tự và Sử Triều Nghĩa tuy "lấy lại được ngôi con trưởng" song đều không đủ tài năng duy trì cục diện mà hai người cha đã gây dựng được[55].
Chiến sự liên tục xoay chiều, vì những biến cố tự yếu đi của cả hai phía – khi giành được một số ưu thế trên mặt trận lại có sai lầm. Cái chết của Sử Tư Minh là cơ hội thứ ba cho nhà Đường giải quyết loạn An Sử. Tình cảnh của Sử Triều Nghĩa giống như An Khánh Tự, dù lực lượng nhà Đường truy kích Triều Nghĩa không hùng hậu như khi đánh Khánh Tự nhưng đủ kết liễu Đại Yên. Trong các Tiết độ sứ bỏ Đại Yên hàng nhà Đường năm 763 không có ai bị sách động làm theo việc như Sử Tư Minh đã làm (đã hàng Đường lại về theo Yên), và Đại Yên chấm dứt sự tồn tại khi không còn xuất hiện một thủ lĩnh nào khác như An Lộc Sơn và Sử Tư Minh trước đây.
Hậu quả và ý nghĩa
Loạn An Sử chấm dứt nhưng ảnh hưởng với vương triều Đường và xã hội Trung Quốc còn kéo dài rất nhiều năm sau. Loạn An Sử trên thực tế đã vạch đôi hai thời kỳ lớn của nhà Đường, đánh dấu một bước ngoặt lớn, để lại hậu quả lớn lao trong lịch sử Trung Quốc vì nó kéo theo trên mọi lĩnh vực một sự chuyển hướng rõ rệt[77].Tàn phá
Loạn An Sử khiến nền kinh tế Trung Quốc đương thời ở phía bắc bị tàn phá nặng nề. Nhân dân chịu sự cướp bóc của tất cả các lực lượng quân sự đương thời, không chỉ bên Đường, bên Yên mà cả ngoại binh.Vốn mang bản tính hung hãn của người Hồ, lính kỵ binh và bộ binh Đại Yên tản mát gần như khắp nơi, đánh thành chiếm đất, phá nhà cửa và cướp bóc. Riêng quân Hồi Hột mà nhà Đường mượn sức đánh An - Sử, vì được Đường Túc Tông giao hẹn sẽ cho lấy của cải, nên khi tiến vào Lạc Dương đã thả sức giết người cướp của. Số dân thường bị quân Hồi Hột giết lên tới hàng vạn, lửa cháy 10 hôm chưa tắt[49].
Ngay cả quân đội nhà Đường, nhất là đạo quân Sóc Phương và Thần Sách, trong khi đánh chiếm Lạc Dương, Trịnh châu, Biện châu, Nhữ châu, họ xem đây là nơi "phản quân" chiếm đóng, cũng tùy tiện cướp phá trong 3 tháng, làm cho nhà cửa những nơi này trống trơn, nhân dân trong thành phải dùng giấy làm áo để mặc[49]. Không chỉ khi thắng trận, ngay cả khi thua ở Nghiệp Thành, quân triều đình trên đường rút chạy cũng thừa cơ cướp của dân[78], quan lại địa phương không thể ngăn chặn được[79].
Chỉ có vùng Giang Nam (vốn chỉ có cuộc nổi dậy của Vĩnh vương Lý Lân nhanh chóng bị dẹp) là ít bị tàn phá nhất do quân Yên bị chặn lâu ngày ở Tuy Dương không thể tiến xuống phía nam[80].
Thiệt hại kinh tế
Chiến tranh không chỉ khiến người dân mất nhà cửa, ruộng vườn mà còn tàn phá nền kinh tế Đại Đường đang hưng thịnh. Những công trình thủy lợi chung ở miền bắc bị phá hoại nghiêm trọng, phải mất rất nhiều năm mới có thể khôi phục. Ngành thủ công nghiệp, tiêu biểu là nghề dệt miền bắc cũng bị sụp đổ không vươn dậy được, khiến gánh nặng cung ứng tơ lụa cho chính quyền trung ương nhà Đường chuyển xuống phía nam, vùng Giang - Hoài[80].Do sự thỏa thuận với người Hồi Hột về việc hợp tác quân sự chống lại quân Đại Yên, sau khi thắng trận, người Hồi Hột đưa cho nhà Đường mấy vạn con ngựa xấu, đổi lại nhà Đường cung cấp nhiều vải lụa và lãnh loại tốt. Chính quyền nhà Đường vơ vét rất nhiều tơ lụa từ phía nam để mang đổi cho Hồi Hột, với giá trao đổi là 1 ngựa = 40-50 xấp lụa[80].
Nông nghiệp bị tàn phá, kho thóc trống rỗng, việc cung ứng thóc gạo của triều đình trung ương cũng phải trông chờ vào miền Giang Đông[80].
Chết chóc
Những trận cướp bóc của cải của quân Đại Yên, quân Đường và quân Hồi Hột đều kèm theo giết chóc. Nhân dân không chỉ chết vì đi lính và lao dịch cho các chính quyền tranh chấp mà còn là nạn nhân của những lần "thắng trận, bại trận" của các bên.Trước loạn An Sử, triều đình nhà Đường thống kê toàn quốc năm 755 được 8.914.709 hộ với dân số 52.913.309 người; sau chiến loạn, số hộ chỉ còn 1.930.100 và dân số chỉ còn 6.993.860 người, nghĩa là giảm đi tới hơn 7 lần (còn 13%)[81][82]. Theo nguồn tài liệu khác, số dân trước cuộc chiến tương đương với nguồn kể trên, còn số dân sau cuộc chiến cao hơn, là 16,9 triệu người và 2,9 triệu hộ[83]. Dù là con số thống kê nào cũng cho thấy mức độ tổn hại nhân lực vô cùng lớn, nhiều nhất thì dân số Trung Quốc cũng chỉ còn không tới 1/3 so với trước cuộc chiến.
Khu vực chịu tổn thất nhiều nhất là phía bắc, thuộc lưu vực sông Hoàng Hà[84]. Bốn khu vực bị phá hoại nặng nề nhất trong cuộc chiến là Lạc Dương, Tràng An, Biện châu và Trịnh châu. Lạc Dương sau cuộc chiến được mô tả như sau[79]:
- "Cung điện đều bị thiêu trụi, mười chỉ còn lại 1… dân số chỉ còn lại khoảng 1000 hộ, đường đi đầy cỏ gai, tiếng sài lang tru ghê rợn. Nếu đi tiếp 1000 dặm về phía đông, thì không còn thấy bóng người cũng như khói nấu cơm nữa, hoàn toàn là cảnh tiêu điều…"
- Xóm làng vắng ngắt, trăm nhà không còn được một
Phần lớn dân cư phương bắc ly tán, nhà cửa bị đốt phá, không còn người ở, xương trắng đầy đồng, hàng ngàn dặm tiêu điều. Nhiều người dân còn sống sót cũng phải bỏ nhà cửa quê hương ra đi, nhiều người chết trên đường tha hương[85].
Nạn phiên trấn cát cứ
Hậu quả lâu dài về mặt chính trị đối với nhà Đường, chính là nạn cát cứ của các phiên trấn. Tình hình này có liên quan tới chính sách khoan hồng được xem là không hợp lý của Đường Đại Tông[85].Năm 763, khi Sử Triều Nghĩa thất thế, các bộ tướng cùng nhau đầu hàng. Trong hoàn cảnh đó, tướng Bộc Cố Hoài Ân sợ nếu dẹp hết các thế lực từng theo Đại Yên trước đây xong xuôi thì triều đình không còn trọng dụng mình nữa, nên đã đề nghị nhà Đường cho giữ lại những bộ tướng cũ của họ An và họ Sử như Tiết Bão, Lý Bảo Thần để họ cai quản mấy trấn vùng Hà Bắc[85]. Đường Đại Tông vì muốn nhanh chóng khôi phục nền thái bình nên chấp nhận kiến nghị đó. Vì vậy tại vùng Hà Sóc về căn bản vẫn do các tướng cũ của Đại Yên chiếm cứ.
Trong khi đó, các Tiết độ sứ của triều đình có công dẹp loạn mới được bổ nhiệm cai trị ở trung nguyên cũng được nhà Đường quá nhân nhượng, với ý định làm đối trọng giữ cân bằng với thế lực của các Tiết độ sứ ở biên trấn, nên dần dần thế lực các Tiết độ sứ này cũng ngày càng lớn, triều đình không thể khống chế được nữa.
Các phiên trấn này chỉ thần phục nhà Đường trên danh nghĩa. Họ nắm thực quyền rất lớn về chính trị, quân sự, kinh tế trong lãnh địa của mình. Hơn nữa, ngôi vị của họ lại được hưởng tập quyền, có thể truyền cho con cháu, anh em. Ngoài ra khi các thủ lĩnh mới có thể được thủ hạ tôn làm "lưu hậu" để cai quản vùng bản địa. Họ cùng nhau ép triều đình trung ương phải nhìn nhận, do đó trên thực tế họ trở thành những vùng lãnh địa của quân phiệt phong kiến có tính độc lập[85].
Các chính quyền phiên trấn, vì quyền lợi đã xảy ra xung đột liên miên mà chính quyền trung ương không có biện pháp nào ngăn chặn. Vì vậy hoàn cảnh của hoàng đế nhà Đường lúc đó rất giống với thiên tử nhà Chu thời Xuân Thu, bề ngoài được tôn nhưng thực ra không có quyền hành[85].
Nhà Đường sau loạn lạc không thể khôi phục lại thời hưng thịnh như trước đây nữa. Tình trạng phiên trấn cát cứ khiến đế quốc bị xé lẻ. Thời Đường Huyền Tông chỉ có 10 Tiết độ sứ, sau đó tăng thành trên 40 trấn lớn nhỏ[77]. Tình trạng này kéo dài duy trì hơn 100 năm sau cho tới khi nhà Đường sụp đổ (907)[86].
Cương thổ và biên giới
Loạn An Sử khiến nhà Đường suy yếu, lùi bước trên khắp các hướng của đế chế Đường. Nhà Đường mất quyền kiểm soát vùng Thông Lĩnh, nước Hồi Hột thừa cơ phát triển trên đất Cam Túc. Thổ Phiên bành trướng ở các ốc đảo Trung Á, Thanh Hải, Cam Túc. Từ năm 790 nhà Đường còn mất hẳn phía tây Vũ Môn quan. Tại phía đông bắc, từ thế kỷ 7, Tân La cường thịnh trên bán đảo Triều Tiên, độc lập với nhà Đường. Phía tây nam, nước Nam Chiếu và các tiểu quốc Tạng - Miến phát triển từ năm 750[77].Do chính quyền trung ương suy yếu, không kiểm soát được các trấn, trong đó có các trấn vùng biên, sự cai quản đối với biên giới cũng rất lỏng lẻo[87]. Khu vực quản lý của triều đình ngày càng bị thu hẹp.
Năng lực bảo vệ và quản lý vùng biên cương của nhà Đường ngày càng yếu. Sau loạn An Sử, những người trấn giữ biên giới phần lớn là già yếu, tàn phế. Vì vậy các tộc Thổ Phiên, Nam Chiếu thừa cơ đến lấn cướp nhiều lần.
Di chuyển kinh tế và văn hóa
Cuộc chiến loạn kéo dài làm cho khu vực sông Hoàng Hà vốn là nơi có nền kinh tế - văn hóa phát triển nhất Trung Quốc trở nên tiêu điều xơ xác, đâu đâu cũng thấy hoang vu[79]. Do vật chất bị phá hoại, vật giá tăng vọt, giá cao lên tới gấp 300 lần, còn giá vải vóc tăng lên gấp 20 lần trước cuộc chiến[87].Nhà Đường đổi phép tô dung điệu thành phép lưỡng thuế để thích ứng với tình hình chính trị xã hội và kinh tế mới. Chế độ quân điền sụp đổ dẫn tới sự phá sản của tiểu nông, càng thúc đẩy việc di cư, lưu vong để kiếm sống.
Nhiều người di cư xuống phía nam – khu vực sông Trường Giang và sông Hán Thủy - lánh nạn, trong đó có một bộ phận quan liêu bên cạnh đại đa số là nhân dân lao động. Nhân khẩu dời xuống phía nam nhập chung vào với dân cư di dời từ thời Lưỡng Tấn Nam Bắc triều. Điều đó làm cho trung tâm không chỉ kinh tế mà cả văn hóa từ phương bắc dời xuống phía nam[71]. Từ cuối thế kỷ 8, kinh tế nhà Đường chủ yếu dựa vào miền vựa lúa Giang – Hoài, trung tâm kinh tế di chuyển từ lưu vực sông Vị về mạn Hàng châu[77][88]. Đây được xem không chỉ là bước ngoặt quan trọng trong lịch sử nhà Đường mà còn là bước ngoặt quan trọng trong xã hội phong kiến Trung Quốc[87].
Xem thêm
Tham khảo
- Cát Kiếm Hùng chủ biên (2006), Bước thịnh suy của các triều đại phong kiến Trung Quốc, tập 2, NXB Văn hoá thông tin
- Học viện quân sự cấp cao, (1992), Lịch sử Trung Quốc
- Trịnh Phúc Điền, Khả Vĩnh Quyết, Dương Hiệu Xuân (2002), Tướng soái cổ đại Trung Hoa, tập 2, NXB Thanh niên
- Triệu Kiếm Mẫn (2008), Kể chuyện Tùy Đường, NXB Đà Nẵng
- Phan Huy Lê, Trần Quốc Vượng, Hà Văn Tấn, Lương Ninh (1991), Lịch sử Việt Nam, tập 1, NXB Đại học và giáo dục chuyên nghiệp
Chú thích
- ^ Cát Kiếm Hùng, sách đã dẫn, tr 207
- ^ a ă Cát Kiếm Hùng, sách đã dẫn, tr 208
- ^ Cát Kiếm Hùng, sách đã dẫn, tr 209
- ^ Cát Kiếm Hùng, sách đã dẫn, tr 210
- ^ a ă â Cát Kiếm Hùng, sách đã dẫn, tr 211
- ^ Phan Huy Lê, Trần Quốc Vượng, Hà Văn Tấn, Lương Ninh, sách đã dẫn, tr 279
- ^ Học viện quân sự cấp cao, sách đã dẫn, tr 148
- ^ a ă Cát Kiếm Hùng, sách đã dẫn, tr 212
- ^ Tương đương 115 kilôgam hiện nay
- ^ Triệu Kiếm Mẫn, sách đã dẫn, tr 304
- ^ a ă â b Triệu Kiếm Mẫn, sách đã dẫn, tr 305
- ^ Tư trị thông giám, quyển 217.
- ^ a ă Cát Kiếm Hùng, sách đã dẫn, tr 213
- ^ Nay là phía tây nam huyện Hoạt, Hà Nam, Trung Quốc
- ^ Phía đông nam Khai Phong, Hà Nam, Trung Quốc
- ^ Tam Môn, giáp Hà Nam, Trung Quốc hiện nay
- ^ Trịnh Phúc Điền, Khả Vĩnh Quyết, Dương Hiệu Xuân, sách đã dẫn, tr 811
- ^ Chính Định, Hà Bắc
- ^ a ă â Cát Kiếm Hùng, sách đã dẫn, tr 214
- ^ Phía bắc huyện Sóc, Hà Bắc, Trung Quốc
- ^ Đông nam huyện Hoạch Lộc, Hà Bắc, Trung Quốc
- ^ Đại Đồng, Sơn Tây, Trung Quốc
- ^ Phía bắc huyện Sóc, Sơn Tây, Trung Quốc hiện nay
- ^ Tây bắc huyện Cảo Thành, Hà Bắc hiện nay
- ^ Thuộc trung bộ tỉnh Hà Bắc
- ^ Giữa hai huyện Hành Đường và Tân Lạc
- ^ Trịnh Phúc Điền, Khả Vĩnh Quyết, Dương Hiệu Xuân, sách đã dẫn, tr 831
- ^ Khúc Dương, Hà Bắc hiện nay
- ^ a ă Trịnh Phúc Điền, Khả Vĩnh Quyết, Dương Hiệu Xuân, sách đã dẫn, tr 832
- ^ Nay là huyện Định, Hà Bắc
- ^ a ă â b Triệu Kiếm Mẫn, sách đã dẫn, tr 306
- ^ Trịnh Phúc Điền, Khả Vĩnh Quyết, Dương Hiệu Xuân, sách đã dẫn, tr 828
- ^ a ă Trịnh Phúc Điền, Khả Vĩnh Quyết, Dương Hiệu Xuân, sách đã dẫn, tr 823
- ^ Trịnh Phúc Điền, Khả Vĩnh Quyết, Dương Hiệu Xuân, sách đã dẫn, tr 824
- ^ Trịnh Phúc Điền, Khả Vĩnh Quyết, Dương Hiệu Xuân, sách đã dẫn, tr 826
- ^ Trịnh Phúc Điền, Khả Vĩnh Quyết, Dương Hiệu Xuân, sách đã dẫn, tr 826
- ^ Triệu Kiếm Mẫn, sách đã dẫn, tr 306
- ^ Thuộc Ninh Hạ ngày nay
- ^ 兩千年中西曆轉換
- ^ Trịnh Phúc Điền, Khả Vĩnh Quyết, Dương Hiệu Xuân, sách đã dẫn, tr 827
- ^ Nay thuộc Định Đào, Sơn Đông
- ^ Trịnh Phúc Điền, Khả Vĩnh Quyết, Dương Hiệu Xuân, sách đã dẫn, tr 885
- ^ a ă Triệu Kiếm Mẫn, sách đã dẫn, tr 312
- ^ Huyện Hào, tỉnh An Huy
- ^ Từ châu, tỉnh Giang Tô
- ^ Đông nam huyện Tứ, tỉnh An Huy
- ^ Triệu Kiếm Mẫn, sách đã dẫn, tr 315
- ^ a ă Trịnh Phúc Điền, Khả Vĩnh Quyết, Dương Hiệu Xuân, sách đã dẫn, tr 834
- ^ a ă â b Cát Kiếm Hùng, sách đã dẫn, tr 216
- ^ Trịnh Phúc Điền, Khả Vĩnh Quyết, Dương Hiệu Xuân, sách đã dẫn, tr 835
- ^ a ă Trịnh Phúc Điền, Khả Vĩnh Quyết, Dương Hiệu Xuân, sách đã dẫn, tr 836
- ^ Phía tây huyện Thiểm, Hà Nam, Trung Quốc
- ^ Phía nam Tân Điếm
- ^ An Dương, Hà Nam, Trung Quốc
- ^ a ă â Triệu Kiếm Mẫn sách đã dẫn, tr 307
- ^ a ă â Triệu Kiếm Mẫn sách đã dẫn, tr 308
- ^ Huyện Cấp, Hà Nam, Trung Quốc
- ^ Trịnh Phúc Điền, Khả Vĩnh Quyết, Dương Hiệu Xuân, sách đã dẫn, tr 837
- ^ Trịnh Phúc Điền, Khả Vĩnh Quyết, Dương Hiệu Xuân, sách đã dẫn, tr 866
- ^ a ă Trịnh Phúc Điền, Khả Vĩnh Quyết, Dương Hiệu Xuân, sách đã dẫn, tr 867
- ^ Triệu Kiếm Mẫn, sách đã dẫn, tr 332
- ^ Huyện Mãnh, Hà Nam, Trung Quốc
- ^ Nguyên tên là An Bão Ngọc, từ khi An Lộc Sơn phản nhà Đường được ban cho họ Lý
- ^ Nay là Pha Đầu, Hà Nam
- ^ Trịnh Phúc Điền, Khả Vĩnh Quyết, Dương Hiệu Xuân, sách đã dẫn, tr 876
- ^ Trịnh Phúc Điền, Khả Vĩnh Quyết, Dương Hiệu Xuân, sách đã dẫn, tr 877
- ^ Đông bắc huyện Văn, Sơn Tây, Trung Quốc
- ^ Trịnh Phúc Điền, Khả Vĩnh Quyết, Dương Hiệu Xuân, sách đã dẫn, tr 857
- ^ Phía nam Khai Giang, thuộc Tứ Xuyên hiện nay
- ^ Trịnh Phúc Điền, Khả Vĩnh Quyết, Dương Hiệu Xuân, sách đã dẫn, tr 858
- ^ a ă â b Triệu Kiếm Mẫn sách đã dẫn, tr 309
- ^ Lúc này Khả hãn Hồi Hột Bì Già Khuyết đã chết, Diệp Hộ kế vị, tức Khả hãn Đăng Lý.
- ^ Thời Túc Tông đã gả con gái Hoài Ân cho Diệp Hộ
- ^ Cựu Đường thư, quyển 142
- ^ Phía đông nam Đường Sơn, Hà Bắc, Trung Quốc hiện nay
- ^ Cát Kiếm Hùng, sách đã dẫn, tr 215
- ^ a ă â b Phan Huy Lê, Trần Quốc Vượng, Hà Văn Tấn, Lương Ninh, sách đã dẫn, tr 278
- ^ Trịnh Phúc Điền, Khả Vĩnh Quyết, Dương Hiệu Xuân, sách đã dẫn, tr 866
- ^ a ă â b Cát Kiếm Hùng, sách đã dẫn, tr 217
- ^ a ă â b Cát Kiếm Hùng, sách đã dẫn, tr 402
- ^ Cát Kiếm Hùng, sách đã dẫn, tr 217, 401
- ^ Triệu Kiếm Mẫn, sách đã dẫn, tr 262
- ^ Durand, John D. (1960). “The Population Statistics of China, A.D. 2–1953”. Population Studies 13 (3): 209–256. JSTOR 2172247.
- ^ a ă Cát Kiếm Hùng, sách đã dẫn, tr 401
- ^ a ă â b c Cát Kiếm Hùng, sách đã dẫn, tr 218
- ^ Học viện quân sự cấp cao, sách đã dẫn, tr 150
- ^ a ă â Cát Kiếm Hùng, sách đã dẫn, tr 219
- ^ Cát Kiếm Hùng, sách đã dẫn, tr 403
Dennō Senshi Porigon
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
"Dennō Senshi Porigon" | |
---|---|
Tập phim Pokémon | |
Thứ tự tập | Mùa 1 Tập 38 |
Đạo diễn | Isako Kiyotaka |
Kịch bản | Takegami Junki |
Mã sản xuất | 138 |
Ngày phát sóng | 16 tháng 12, 1997 |
|
|
Điểm đáng chú ý của tập phim này là sử dụng những hiệu ứng hình ảnh khiến một lượng đáng kể người xem bị động kinh, sự cố này được giới truyền thông Nhật gọi là "Pokémon Shock" (ポケモンショック Pokémon Shokku , Cú sốc Pokémon). 685 người xem đã được đưa vào bệnh viện; trong đó có hai người phải tiếp tục nằm điều trị trong hai tuần. Vì sự cố này, tập phim đã không bao giờ được phát sóng lại trên khắp thế giới. Sau cú sốc, anime Pokémon bị gián đoạn khoảng bốn tháng, và nó xuất hiện trở lại trên kênh TV Tōkyō vào tháng 4, 1998. Kể từ đó, tập phim đã được nhại lại trong truyền thông đại chúng, bao gồm một vài tập trong The Simpsons và South Park.
Mục lục
Nội dung
Satoshi, Kasumi, Takeshi và Pikachu đã phát hiện ra hệ thống vận chuyển Pokémon tại một Pokémon Center bị trục trặc. Theo yêu cầu của y tá Jōi, họ đến chỗ của Giáo sư Akihabara, một trong những người phát minh ra hệ thống này. Ông ta nói với họ rằng đội Rocket đã ăn cắp con Porigon nguyên mẫu của ông, vốn là một Pokémon kĩ thuật số có thể tồn tại trong không gian ảo, và họ đang dùng nó để đánh cắp Pokémon của các nhà huấn luyện từ bên trong hệ thống máy tính.Akihabara đưa Satoshi, Kasumi, Takeshi, Pikachu và con Porigon thứ hai của ông vào trong hệ thống để ngăn cản đội Rocket - lúc này đã tìm ra cách thiết lập một hàng rào phong tỏa ngăn chặn các quả bóng Poké từ mạng lưới vận chuyển. Porigon thứ hai có thể đánh bại được Porigon của đội Rocket, nhưng y tá Jōi đã cài đặt một chương trình diệt virus vào hệ thống để tiêu diệt những thứ mà cô tưởng là virus máy tính. Pikachu đã dùng đòn Thunderbolt tấn công vào hệ thống, đánh trả một "tên lửa vaccine", gây ra một vụ nổ. Cả nhóm và đội Rocket đã thoát khỏi máy tính an toàn, và với việc hàng rào phong tỏa của đội Rocket bị loại bỏ, hệ thống vận chuyển đã trở lại hoạt động bình thường.
Đón nhận và tranh cãi
Một trong những đoạn phim nổi tiếng, gây ra cơn động kinh.
Vào phút thứ 20 của tập phim, một cảnh phim trong đó Pikachu làm ngừng tên lửa vaccine bằng đòn Thunderbolt của mình, tạo ra một vụ nổ lớn với nhiều ánh chớp xanh và đỏ.[4] Mặc dù thứ ánh sáng đó cũng có xuất hiện trong một phần tương tự của tập phim, một kĩ xảo anime được sử dụng có tên là "paka paka" khiến cho cảnh này cực kỳ dữ dội,[1] với những luồng chớp nhấp nháy cực sáng, có tần suất 12 Hz diễn ra trong khoảng bốn giây ở kích thước gần trọn màn hình, và sau đó là hai giây toàn màn hình.[5]
Ngay lúc này, người xem đài đã bắt đầu cảm thấy mờ mắt, đau đầu, chóng mặt và buồn nôn.[4][6] Một số đã bị co giật, mù, động kinh và mất ý thức.[4] Báo cáo của Cơ quan Phòng cháy Chữa cháy Nhật Bản cho biết có tổng cộng 685 khán giả, gồm 310 trai và 375 gái, đã được đưa đến bệnh viện bằng xe cứu thương.[4][7] Dù nhiều nạn nhân đã hồi phục trên đường đến bệnh viện, vẫn có hơn 150 em phải vào nhập viện.[4][7] Hai em vẫn phải tiếp tục nằm điều trị trong bệnh viện suốt hai tuần sau.[7] Một số khác đã lên cơn co giật khi xem một phần của cảnh phim được phát lại trong bản tin về vụ việc nói trên.[6] Chỉ có một phần nhỏ trong số 685 nạn nhân được chẩn đoán là mắc bệnh quang động kinh.[8]
Một nghiên cứu sau đó cho thấy 5-10% khán giả có những triệu chứng nhẹ và không cần đến bệnh viện điều trị.[5] 12.000 trẻ em không đến bệnh viện bằng xe cấp cứu đã báo lại rằng mình có những biểu hiện nhẹ của bệnh; tuy nhiên, những triệu chứng của các bé trông như là phân ly tập thể hơn là động kinh cơn lớn.[4][9] Một nghiên cứu trên 103 bệnh nhân trong ba năm sau sự kiện cho thấy rằng phần lớn các bé không còn bị co giật nữa.[10] Các nhà khoa học tin rằng chính những ánh chớp sáng đã gây ra cơn quang động kinh, trong đó những kích thích thị giác tương tự có thể làm biến đổi ý thức. Dù chỉ có khoảng 1 trên 4.000 người dễ mắc chứng động kinh này, số người bị ảnh hưởng trong tập phim Pokémon này là chưa từng thấy.[7]
Một bài báo công kích toàn bộ ngành công nghiệp hoạt hình Nhật Bản đã nhanh chóng xuất hiện trên USA Today. Được viết bởi Jefferson Graham và Tim Friend, bài báo khẳng định rằng "trẻ em Mỹ không có khả năng bị động kinh bởi các bộ phim hoạt hình trên TV", chủ yếu là do hệ thống truyền hình Mỹ không chiếu "những bộ phim hoạt hình đồ hoạ của Nhật được gọi là anime".[11] Tuy nhiên, Ron Morris trên Cityrain.com nói rằng "không có gì là đồ hoạ trong cảnh phim hay chương trình cả – ảnh hưởng này được gây nên bởi sự kết hợp rủi ro của nhiều yếu tố".[11] Vụ tai nạn này, vốn được báo chí Nhật gọi là "Pokémon Shock" (ポケモンショック Pokemon Shokku , Cú sốc Pokémon),[12] đã được ghi trong ấn bản Gamers Edition 2004 và 2008 của sách Kỷ lục Guinness Thế giới, nằm trong hàng mục nổi cộm với dòng chữ "Kỷ lục về số người lên cơn động kinh do bị kích thích thị giác từ một chương trình truyền hình".[13][14]
"Pokémon Shock" đã tạo ý tưởng cho các hãng phát triển vũ khí Hoa Kỳ về một loại vũ khí phi sát thương mới có thể khống chế đám đông bằng cách sử dụng hiệu ứng này để gây động kinh hàng loạt.[15][16] Tuy nhiên Lầu Năm Góc sau đó đã tuyên bố rằng ý tưởng này sẽ không được tiếp tục phát triển theo kế hoạch.[17]
Hậu quả
Tin tức về vụ tai nạn đã nhanh chóng truyền đi khắp Nhật Bản. Trong những ngày sau đó, TV Tōkyō, đài truyền hình đã chiếu tập phim này, đưa ra lời xin lỗi người dân Nhật Bản, đồng thời đình chỉ chương trình, và hứa rằng sẽ mở cuộc điều tra về nguyên nhân gây ra cơn động kinh.[4] Cơ quan Cảnh sát Quốc gia đã chỉ thị cho sĩ quan Atago thẩm vấn nhà sản xuất anime về nội dung chương trình và quá trình sản xuất.[1] Một cuộc họp khẩn cấp được tổ chức bởi Bộ Y tế, Lao động và Phúc lợi, nhằm thảo luận với các chuyên gia và thu thập thông tin từ bệnh viện. Các nhà bán lẻ video trên khắp Nhật Bản đã loại bỏ anime Pokémon khỏi các kệ hàng của mình.[4]Sàn chứng khoán Tōkyō đã nhanh chóng có những phản ứng, và cổ phiếu của Nintendo giảm 400 yen (gần 5%) xuống còn 12.200 yen khi tin tức về vụ việc được lan truyền.[4][18] Nintendo là hãng sản xuất ra trò chơi mà anime Pokémon chuyển thể thành. Sau đó, chủ tịch Nintendo, Yamauchi Hiroshi, phát biểu trong một cuộc họp báo sau khi tập phim được chiếu một ngày rằng công ty trò chơi điện tử không chịu trách nhiệm vì trò chơi Pokémon gốc trên Game Boy được phát hành với màu đen trắng.[18][19]
Sau khi chiếu "Dennō Senshi Porigon", anime Pokémon đã bị gián đoạn khoảng bốn tháng trước khi xuất hiện trở lại vào tháng 4, 1998.[20][21] Sau thời gian gián đoạn, lịch chiếu của bộ phim đã được chuyển từ thứ Ba sang thứ Năm hàng tuần.[2] Ca khúc dạo đầu cũng được làm lại, và cảnh màu đen thể hiện nhiều loài Pokémon khác nhau trong phần tâm điểm đã được chia thành bốn hình trên màn ảnh. Trước sự cố động kinh, bài nhạc đầu có chứa một hình Pokémon trong mỗi lần đổi cảnh.[2] Trước khi nối lại việc phát sóng, "Báo cáo Thanh tra Vấn đề về Anime Pocket Monster" (アニメ ポケットモンスター問題検証報告 Anime Poketto Monsutā Mondai Kenshō Hōkoku) đã được trình chiếu vào ngày 16 tháng 4, 1998. Dẫn chương trình là nữ biên tập viên Yadama Miyuki đã giải thích về hoàn cảnh định dạng của chương trình và những lời cảnh báo trên màn ảnh ở đầu mỗi buổi chiếu phim.[2] Nhiều đài truyền hình Nhật Bản và quan chức y tế đã cùng tìm cách để chắc chắn rằng sự cố này không bao giờ lặp lại nữa. Họ đã đưa ra một loạt hướng dẫn cho các chương trình hoạt hình trong tương lai,[7][22] bao gồm:
- Những hình ảnh chớp, đặc biệt là với màu đỏ, không nên nháy nhanh quá 3 lần/giây. Nếu hình ảnh không có màu đỏ, nó cũng không nên nháy quá 5 lần/giây.
- Hình ảnh chớp không nên được hiển thị quá hai giây.
- Đường sọc, xoáy và hình tròn đồng tâm không nên chiếm phần lớn màn hình TV.
Nhằm ngăn không để lặp lại bất kỳ sự cố tương tự nào, chính phủ Nhật Bản đã quyết định loại bỏ vĩnh viễn khả năng phát lại tập phim này trong tương lai. Bản thân tập phim cũng chưa từng được phát lại tại bất kì quốc gia nào ngoài Nhật Bản. Tập phim đã được lồng tiếng và sửa đổi ở Mỹ bởi 4Kids Entertainment để làm chậm lại ánh chớp sáng, nhưng cũng không được phát sóng.[23] Ngẫu nhiên thay, tập phim ra mắt trong khoảng thời gian chương trình Pokémon đang được sửa đổi cho phù hợp với khán giả Mỹ. 4Kids Entertainment đã thận trọng trong việc sử dụng ánh sáng chói và đèn chớp trong chương trình, và đã sửa đổi ánh sáng và độ nhấp nháy trong các tập trước đối với phiên bản Mỹ.
Trong một nỗ lực nhằm loại bỏ sự cố này ra khỏi tâm trí công chúng và ngăn ngừa tổn thương, các tập sau của anime chưa bao giờ tập trung lại vào Porigon.[24] Hai hình thức tiến hoá sau đó của nó, Porigon2 và Porigon-Z, đã không được xuất hiện trong anime suốt một thời gian dài.[24] Tuy nhiên, cả hai Pokémon này đã được nhìn thấy lại trong phần mở đầu 'World of Pokémon' của bộ phim anime Pokémon Movie 15 vào năm 2012. Porigon2 cũng tái xuất trong bài hát đầu phim của Pokémon Chronicles, phiên bản lồng tiếng Anh.
Tác động văn hoá
Sự cố "Pokémon Shock" đã được nhắc đến nhiều lần trong văn hoá đại chúng, bao gồm một tập phim trong The Simpsons có tên "Thirty Minutes over Tokyo".[21] Trong tập này, gia đình Simpson du lịch đến Nhật Bản. Khi đến nơi, Bart xem một bộ phim hoạt hình có robot với đôi mắt laser nhấp nháy, và hỏi: "Có phải đó là bộ phim hoạt hình gây ra động kinh không?" Con mắt chớp nháy khiến cậu bị co giật, và những người khác trong căn phòng cũng mau chóng bị lên cơn động kinh (dù ban đầu Homer tự co giật trên sàn là do bắt chước những người khác). Tên của bộ phim hoạt hình đó được tiết lộ là Chiến đầu với robot động kinh.[21]Trong một tập phim South Park được chiếu lần đầu tiên vào tháng 11 năm 1999, có tên "Chinpokomon", xoay quanh một hiện tượng tương tự như Pokémon, được gọi là Chinpokomon, làm cho những đứa trẻ ở South Park bị ám ảnh. Trong tập này, đồ chơi và video game Chinpokomon đã được bán cho trẻ em Mỹ ở South Park bởi một công ty Nhật. Chủ tịch công ty, ông Hirohito, dùng chúng để tẩy não trẻ em Mỹ, biến chúng thành những binh sĩ riêng của mình để lật đổ đế quốc Mỹ "tàn ác". Những đồ chơi này bao gồm một băng video game trong đó người chơi cố gắng đánh bom Trân Châu Cảng. Trong khi đang chơi trò chơi này, Kenny đã bị động kinh và chết, gợi lại sự cố động kinh của Pokémon.[21]
Trong một tập phim của Drawn Together, Lâm Lâm, một sinh vật nhái theo Pikachu, nói rằng mục đích của nó ở trong nhà Drawn Together là để "huỷ diệt tất cả, và khiến cho trẻ em bị động kinh". Sau đó là một cảnh chớp sáng, một mối liên quan trực tiếp đến tập phim Pokémon này.[25] Trong So Yesterday, một cuốn tiểu thuyết sáng tác bởi Scott Westerfeld, tập phim này được đề cập và chiếu cho ba nhân vật xem, kết quả là một trong số họ bị động kinh. Ánh chớp đỏ gây ra cơn động kinh cũng được sử dụng trong lời dẫn truyện.[26]
Tham khảo
- ^ a ă â b Sheryl, Wudunn (18 tháng 12 năm 1997). “TV Cartoon's Flashes Send 700 Japanese Into Seizures” [Đèn chớp trong hoạt hình trên truyền hình khiến 700 người Nhật lên cơn co giật] (bằng tiếng Anh). New York Times. Truy cập ngày 19 tháng 10 năm 2008.
- ^ a ă â b “ポケモン騒動を検証する” [Xác nhận vụ chấn động Pokémon] (bằng tiếng Nhật). TV Anime Shiryokan [Bảo tàng anime truyền hình]. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 1 năm 2008. Truy cập ngày 2 tháng 11 năm 2008.
- ^ “The Final Report of the "Study Group on Broadcasting and Audio-Visual Sensory Perception"” [Báo cáo cuối của "Nhóm nghiên cứu về Phát sóng và Cảm quan Nghe-Nhìn"] (bằng tiếng Anh). Bộ Nội vụ và Truyền thông. Tháng 6 năm 1998. Truy cập ngày 30 tháng 6 năm 2014.
- ^ a ă â b c d đ e ê Radford, Benjamin (tháng 5 năm 2001). “Pokémon Panic of 1997” [Chấn động Pokémon năm 1997] (bằng tiếng Anh). Skeptical Inquirer. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 1 năm 2002. Truy cập ngày 30 tháng 6 năm 2014.
- ^ a ă Takahashi Takeo; Tsukahara Yasuo (1998). “Pocket Monster incident and low luminance visual stimuli” [Sự cố Pocket Monster và kích thích thị giác với độ sáng thấp]. Pediatrics International (bằng tiếng Anh) (Blackwell Science Asia) 40 (6): tr. 631–637. doi:10.1111/j.1442-200X.1998.tb02006.x. ISSN 1328-8067. OCLC 40953034. Truy cập ngày 30 tháng 6 năm 2014.
- ^ a ă “Japanese cartoon triggers seizures in hundreds of children” [Phim hoạt hình Nhật Bản gây nên cơn động kinh trên hàng trăm trẻ em] (bằng tiếng Anh). Reuters. 17 tháng 12 năm 1997. Truy cập ngày 29 tháng 9 năm 2007.
- ^ a ă â b c “Pokémon on the Brain” [Pokémon trên Não] (bằng tiếng Anh). Neuroscience For Kids. 11 tháng 3 năm 2000. Truy cập ngày 21 tháng 11 năm 2008.
- ^ “Fits to Be Tried” (bằng tiếng Anh). Snopes.com. Truy cập ngày 21 tháng 11 năm 2008.
- ^ Radford B, Bartholomew R (2001). “Pokémon contagion: photosensitive epilepsy or mass psychogenic illness?” [Sự lây lan của Pokémon: quang động kinh hay bệnh tâm lý đại chúng?]. South Med J (bằng tiếng Anh) 94 (2): tr. 197–204. PMID 11235034.
- ^ Y. Ishiguro; H. Takada; K. Watanabe; A. Okumura; K. Aso; T. Ishikawa (tháng 4 năm 2004). “A Follow-up Survey on Seizures Induced by Animated Cartoon TV Program "Pocket Monster"” [Theo dõi cuộc điều tra về vụ động kinh gây ra bởi chương trình hoạt hình trên truyền hình "Pocket Monster"]. Epilepsia (bằng tiếng Anh) (Copenhagen: E. Munksgaard) 45 (4): tr. 377–383. doi:10.1111/j.0013-9580.2004.18903.x. ISSN 0013-9580. OCLC 1568121. PMID 15030500. Truy cập ngày 2 tháng 11 năm 2008.
- ^ a ă “Forbidden Pokémon” [Pokémon bị cấm] (bằng tiếng Anh). Angkor.com. 10 tháng 10 năm 2001. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 11 năm 2005. Truy cập ngày 3 tháng 11 năm 2008.
- ^ Papapetros, Spyros (2001). On the Animation of the Inorganic: Life in Movement in the Art and Architecture of Modernism, 1892-1944 [Về hoạt hình vô cơ: Cuộc sống trong Phong trào nghệ thuật và kiến thúc của chủ nghĩa hiện đại, 1892-1944] (bằng tiếng Anh). Đại học California, Berkeley. OCLC 51930122.
- ^ Menon, Vinay (25 tháng 8 năm 2004). “Records: The biggest load of...” (bằng tiếng Anh). Toronto Star. tr. F04. Truy cập ngày 18 tháng 10 năm 2008.
- ^ Clodfelter, Tim (30 tháng 6 năm 2014). “Record Book Focused on the Gamers” (bằng tiếng Anh). Winston-Salem Journal. tr. 1. Truy cập ngày 18 tháng 10 năm 2008.
- ^ Ackerman, Spencer (26 tháng 9 năm 2012). “The Pokemon Plot: How One Cartoon Inspired the Army to Dream Up a Seizure Gun | Danger Room” [Kịch bản Pokemon: Cách một phim hoạt hình truyền cảm hứng cho quân đội để lên ý tưởng về súng gây co giật] (bằng tiếng Anh). Wired. Truy cập ngày 30 tháng 6 năm 2014.
- ^ Anne Epstein, Emily (28 tháng 9 năm 2012). “U.S. military planned to create seizure-inducing gun... inspired by Pokemon” [Quân đội Mỹ có kế hoạch tạo ra súng gây co giật... lấy cảm hứng từ Pokemon] (bằng tiếng Anh). Mail Online. Truy cập ngày 30 tháng 6 năm 2014.
- ^ Gustav (tháng 12 năm 2012). “Pokemonom po Vragu” [Kẻ thù Pokémon]. Mir Fantastiki (tạp chí) (bằng tiếng Nga) (Moskva, Nga: TekhnoMir) (112 (12)): tr. 141.
- ^ a ă “Popular TV cartoon blamed for mass seizures” [Phim hoạt hình TV nổi tiếng là nguyên nhân gây động kinh hàng loạt]. Asahi Shimbun. 17 tháng 12 năm 2008.
- ^ “Pocket Monsters Seizures News Coverage” [Tin tức về vụ Pocket Monsters gây động kinh] (bằng tiếng Anh). Virtualpet.com. Truy cập ngày 3 tháng 11 năm 2008.
- ^ “10th Anniversary of Pokémon in Japan” [Kỷ niệm 10 năm Pokémon tại Nhật Bản] (bằng tiếng Anh). Anime News Network. 27 tháng 3 năm 2007. Truy cập ngày 18 tháng 10 năm 2008.
- ^ a ă â b Hamilton, Robert (tháng 4 năm 2002). “Empire of Kitsch: Japan as Represented in Western Pop Media” [Đế chế Kitsch: Nhật Bản như đại diện cho Truyền thông đại chúng phương Tây] (bằng tiếng Anh). Bad Subjects. Truy cập ngày 18 tháng 10 năm 2008.
- ^ “Animated Program Image Effect Production Guidelines” [Hướng dẫn sản xuất hiệu ứng hình ảnh chương trình hoạt hình] (bằng tiếng Anh). TV Tōkyō. Truy cập ngày 21 tháng 11 năm 2008.
- ^ “The Pokémon Anime — Censorship” [Anime Pokémon — Sự kiểm duyệt] (bằng tiếng Anh). Psypokes.com. Truy cập ngày 3 tháng 11 năm 2008.
- ^ a ă Innes, Kenneth. “Character Profile: Porygon” [Tiểu sử nhân vật: Porygon] (bằng tiếng Anh). Absolute Anime. Truy cập ngày 21 tháng 11 năm 2008.
- ^ Maureen, Ryan (27 tháng 10 năm 2004). “`Together' dances to edge of offensiveness” [Cùng nhảy vào khía cạnh xúc phạm] (bằng tiếng Anh). Chicago Tribune. tr. 7.
- ^ Westerfeld, Scott (8 tháng 9 năm 2005). So Yesterday (bằng tiếng Anh). Razorbill. ISBN 978-1-59514-032-6. Truy cập ngày 19 tháng 10 năm 2008.
- Hatakeyama Kenji; Kubo Masakazu (2002). ポケモンストーリー(下) [Câu chuyện Pokémon (quyển Hạ)] (bằng tiếng Nhật). Tokyo, Nhật Bản: Kadokawa Bunko. tr. 99–150. ISBN 4-04-364502-3.
Liên kết ngoài
- "Dennō Senshi Porigon" trên TV.com (tiếng Anh)
- "Dennō Senshi Porigon" trên Internet Movie Database (tiếng Anh)
|
http://www.youtube.com/user/hoangkimvietnam
Trở về trang chính
hoangkim vietnam, hoangkim, hoangkimvietnam, Hoàng Kim, Ngọc Phương Nam, Chào ngày mới Thung dung, Dạy và học, Cây Lương thực, Tin Nông nghiệp Việt Nam, Food Crops, foodcrops.vn, Cassava in Vietnam, VietnamAfricaCassavaRice, Khát khao xanh, Dayvahoc, Học mỗi ngày, Danh nhân Việt , Food Crops News, Điểm chính, CNM365, Câu chuyện ảnh, 5 phút thư giản, Kim LinkedIn, KimTwitter, KimFaceBook Đọc lại và suy ngẫm, Việt Nam tổ quốc tôi, Tình yêu cuộc sống, Thơ cho con
No comments:
Post a Comment